Rin86
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
968 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Rin86
-
không biết là do sự phát triển tự nhiên hay do cố ý mà số thứ tự từ 1 đến 10 có thanh điệu rất nhịp nhàng như một bài thơ :( một (thấp nhất) hai, ba (cao dần lên) bốn (cao hơn) năm (giảm) sáu (cao nhất) bảy (giảm) tám (cao hơn) chín (cao hơn nữa) mười (giảm xuống thấp) mười một (rất thấp). nghe thật là hay, rất dìu dặt, nhất là khi hô nhịp để tập thể dục <_< Bài trên Rin86 hơi bực tác giả (vì tác giả nghĩ là người Việt cổ không biết đến toán học, phải đi vay mượn số đếm của Khmer hay các dân tộc khác, giống như bộ tộc không biết đếm trong bài báo của dân trí) nên nói không chính xác. Nhưng theo cảm giác của Rin86 thì người Việt là một trong những dân tộc đầu tiên phát minh ra số không, vì số không hiện diện trên trống đồng và trong ngôn ngữ tiếng Việt. Rin86 chưa biết ngôn ngữ nào mà "không" vừa mang ý nghĩa chỉ số 0, vừa mang ý nghĩa phủ nhận và thể hiện tính chất "không có gì cả" (không biết nói thế nào nhỉ :P ). Không biết có ngôn ngữ nào như vậy không nhỉ? tiếng Ấn Độ chăng? Trong tiếng Việt, "vì sao" để chỉ một ngôi sao nhưng cũng là từ để hỏi, không biết là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là quan niệm của người Việt nhỉ? Những "vì sao" là nguyên nhân của những sự việc xảy ra trên trái đất? Hồi học cấp hai Rin86 có hỏi mọi người về điều này nhưng ai cũng thấy hơi lạ nhưng nghĩ là trùng hợp ngẫu nhiên. Rin86 thấy thật kỳ lạ :mellow: có phải trùng hợp không?
-
Theo tác giả thì người ta ai cũng có 10 ngón tay nên hệ số 10 là phổ biến nhất, ngay cả hệ số 5 cũng phải dựa trên 5 đầu ngón tay, và khi đếm đến 10 thì cũng được chốt lại nên về cách gọi thì có dài hơn nhưng về bản chất 16 hay dop-brammuay /dup-bram-mooeh/ cũng như nhau. Còn phần cộng trừ toán học hoàn toàn là những suy diễn của tác giả vì ngay việc giải thích cho hệ số đếm 7 của tác giả cũng rất mơ hồ, người xưa đã biết đến thiên văn học lại có thể không biết đến toán học và không biết đếm sao, họ tôn thờ linh số mà bỏ qua sự tiện lợi trong tính toán hàng ngày trong khi cuộc sống của họ rất thấp kém, chưa biết đến toán học. Hệ số đếm 7 (theo tưởng tượng của tác giả) là rất phức tạp cho người sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, nếu sử dụng hệ số đếm đó thì người Mường phải tính toán khá mệt, đơn giản là họ có mười ngón tay, có thể người Mường xưa có 7 ngón tay. Ví dụ như nhà có 10 con gà, vì có 7 ngón tay nên họ nói là 73 con gà tức là số 73 tương đương số 10 trong hệ số 10 (giống tiếng Khmer, số 6 thì là 61, nhưng đến 10 thì tiếng Kmer vẫn thêm số 10 vào trước dop-muay /dup-mooeh/ => mười một, mười sáu là 10+5+1, sáu mươi mốt tất nhiên là 6x10x1), bản Mường có 200 con gà thì nói 7x36 (tức là 7x27 hệ 10 vì họ không có số lớn hơn 7 nên không thể là 7x28 được) bằng 189 hệ 10 hay 252 hệ 7 cộng với 7 cộng với 4, tức là 200 hệ mười tương đương với 253 hệ 7, vậy thay vì nói 200 con gà bằng 20 lần đếm 10 đầu ngón tay, họ nói 200 con gà là 27 lần đếm 7 đầu ngón tay cộng thêm một lần đếm nữa và cộng với 4, thật sự thì người Mường có 10 đầu ngón tay nên tất nhiên họ chọn cách đếm thứ nhất, cách đếm thứ 2 dù tôn trọng linh số nhưng để bán gà thì quá phức tạp. Còn hệ số 10 theo tưởng tượng của tác giả là xuất phát từ 10 đầu ngón tay, thật ra hệ số 10 hình thành do quá trình tính toán thường ngày, rồi hình thành từ thấp đến cao, từ buôn bán đến thiên văn, kiến trúc, nếu con người có 7 ngón tay thì họ cũng dùng hệ đếm 10 thôi, bởi tính hoàn hảo của nó. Còn nếu như tác giả nói 36 (39) là 27, tại sao lại tính ra được thế nhỉ? Cách giải thích đơn giản nhất là 27 người Mường nói 39 chính là một phép nhân 3x9=27, nhưng vì tác giả không tin người Mường xưa biêt làm phép nhân nhưng biết thiên văn học, biết chọn số 7 làm linh số nên mới tưởng tượng ra người Mường dùng hệ số 7, một hệ số rất phức tạp cho tính toán hàng ngày. Nếu người Việt và Mường xưa không biết đến toán học thì họ cũng không có hệ số đếm như dân tộc trong bài viết dưới đây chứ đừng nói đến hệ 7 hay hệ mười, đã có hệ số đếm trong ngôn ngữ thì chí ít họ cũng biết đến phép nhân. Phát hiện thứ ngôn ngữ kỳ lạ không có số đếm Một người thổ dân nói tiếng Piran không tài nào đếm được chính xác có bao nhiêu đồ vật ở trước mặt. (Dân trí) - Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đều tin rằng, trên trái đất không hề tồn tại thứ ngôn ngữ nào mà lại không sử dụng các con số để tính toán. Thậm chí, ở thời nguyên thủy con người đã biết đếm đến con số… 2. Ấy vậy mà vẫn có một bộ lạc trên thế giới không hề sử dụng điều được cho là hiển nhiên đó - các con số. Cho đến bây giờ, khi nhân loại từ lâu đã bước vào kỷ nguyên của công nghệ thông tin với những siêu máy tính có thể tính được hàng tỉ phép tính mỗi giây, thì tại một nơi hẻo lánh, hoang sơ ở rừng nhiệt đới Amazon, phía Tây Bắc Brazil lại có một bộ lạc chưa hề có chút khái niệm nào về những nguyên tắc số học sơ đẳng nhất. Đối với họ, các con số là một thứ vô cùng lạ lùng. Những thổ dân trong bộ lạc có hơn 300 người này đều sử dụng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ có tên là Piran. Sau khi phát hiện ra bộ lạc này, giáo sư ngôn ngữ Edward Gibson thuộc Trường đại học công nghệ Massachusetts đã tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu quá trình hình thành số đếm trong ngôn ngữ của họ. Kết quả thật hết sức bất ngờ! Giáo sư Edward Gibson cho biết, trong ngôn ngữ Piran không có các con số cụ thể, mà thay vào đó là những từ ngữ có khả năng biểu đạt số lượng là “một vài” và “nhiều”. Giáo sư Edward Gibson đã yêu cầu một người bản địa nói tiếng Piran đếm một số đồ vật đơn giản và kết quả thu được thật thú vị. Số “một” được người này hiểu và gọi là “ít”. Trên thực tế, những người nói tiếng Piran có thể xác định được các đồ vật khác nhau từ 1 đến 4 và coi đó là “ít”. Thế nhưng, nếu như đối tượng cần đếm là 5 hoặc 6, họ sử dụng tổ hợp từ “không nhiều lắm”, còn nếu có nhiều hơn 6 thì họ gọi là “nhiều”. Trong bài viết được đăng tải trên tạp chí khoa học Cognition, giáo sư Edward Gibson viết: “các từ mô tả số lượng (định lượng) đều được hình thành trong hoạt động sống của con người, tuy nhiên, quy định này có thể có hoặc không phải là một phần không thể tách rời của văn hóa”. Có lẽ, trong đời sống của những người nói tiếng Piran không tồn tại những nhu cầu phân biệt chính xác số lượng đồ vật này hay đồ vật khác. Đối với họ, cái quan trọng là cá bắt được hay hoa quả họ hái được là “ít”, “không nhiều lắm” hay “nhiều”. Anh Nguyễn Theo Utro.ru
-
H. TÁC DỤNG CỦA CÁI QUA Trước khi nói về tác dụng của cái qua , tôi xin nói qua một chút về Hồ Động Đình . Ngày xưa cả vùng sông Dương Tử bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam, An-Huy... có một cái hồ rất lớn , đó là hồ Vân Mộng. Hồ Động Đình là một phần còn lại của hồ Vân Mộng . Sau khi hồ Vân Mộng khô mất đi thì còn lại Hồ Động Đình và một số những hồ nhỏ khác. Tuy nhiên điểm đặc biệt là cái vùng của hồ Vân Mộng ngày xưa, thì trở nên những vùng đầm lầy, và có những bụi cây cỏ mọc rất cao ( có thể lên tới bốn năm thước ), làm lấp cả lối đi ; những bụi cây nầy mang tên là cây kinh , từ đó người ta mới gọi vùng đó là vùng Kinh tức là vùng có cây kinh mọc. Vậy Châu Kinh có nghĩa từ vùng Kinh đó mà ra. Vùng phía Nam bao gồm Hồ Nam, Hồ Bắc và dọc theo vùng sông Dương Tử là vùng đầm lầy . Quân vùng phía Bắc, phần lớn là giống dân du mục nên chuyên môn dùng ngựa . Khi họ đưa quân xuống tấn công phía Nam thì gặp phải vùng đầm lầy. Vậy cái qua có tác dụng gì ? Hãy nhìn hình cái qua ở dưới : Cái qua , tác dụng của nó là phía trước dùng để đâm tới, chém ngang; phía sau là để móc lại. Khi ngựa của quân Bắc xuống bị mắc lầy , thì cái qua móc chân ngựa quỵ xuống và đâm tới người lính trên ngựa; cái qua có hai điểm lợi là vừa móc vừa đâm. Cái qua có lợi điểm là tấn công từ xa , có cây qua dài trên một thước , nhưng cũng có cây dài khoảng ba thước. Cây kiếm là dùng cận chiến , còn cây qua là để tấn công từ phía xa, tấn công cả người lẫn ngựa . Chính cái qua nầy đã chận đứng được quân xâm lược nhờ vào tài biết lợi dụng địa thế thiên nhiên của tiền nhân chúng ta. Vì đó trong các loại vũ khí, tiền nhân của chúng ta không chọn vũ khí nào khác, mà lấy cái qua đặt trong tên chữ Việt . Bây giờ bạn và tôi mới thấy rằng tiền nhân của chúng ta có suy nghĩ vững chắc khi đặt cái tên Việt , chớ không phải là không có suy tính . Bạn sẽ nói rằng , tôi biết tin ai bây giờ ! Anh nói là cái tên Việt do tiền nhân của chúng ta đặt ra, nhưng các học giả ở trên viết đăng trong các tờ báo , cho rằng tên Việt là do nhà Chu và nhà Hán đặt ra, vậy thì làm sao xác định được ? Một lần nữa bạn và tôi thử tìm hiểu coi ai đặt cái tên Việt nầy ra . I. TÊN VIỆT CÓ PHẢI DO NHÀ CHU HAY NHÀ HÁN ĐẶT RA KHÔNG ? Vì nhà Chu và nhàHán nằm trong phần lịch sử nên muốn chứng minh điều nầy thì dù muốn dù không chúng ta phải tra cứu cổ thư. Khi nhắc đến chuyện xa xưa của sử Trung Hoa, người ta nhắc đến thời ông Bàn Cổ, sau đó là Tam Hoàng có Thiên Hoàng , Nhân Hoàng, Địa Hoàng ; kế tiếp đến Ngũ Long, Hữu Sào , Toại Nhân ; rồi đến Thần Nông , Phục Hi, Nữ Oa ; sau đó là Hoàng Đế , xong đến Nghiêu, Thuấn và Vũ. Người Việt chúng ta dựa theo truyền thuyết Họ Hồng Bàng , cho chúng ta thuộc dòng dõi Thần Nông. Người Tàu thì nhận họ là con cháu của Hoàng Đế. Từ Bàn Cổ cho tới thời Nghiêu, Thuấn các sử gia Trung Hoa rất ít chú ý đến, họ chỉ chú ý từ đời nhà Hạ do vua Vũ lập ra, qua đời Thương , đời Chu rồi Tần và Hán kể về sau , vì những triều đại nầy có thể chứng minh qua khảo cổ , và tài liệu cổ thư cũng đã dồi dào. Thông thường khi bạn coi một cuốn sử Trung Hoa, bạn sẽ thấy họ đưa ra một niên biểu như sau ( trích từ The Chinese exhibition do The People's Republic of China xuất bản 1977 ): Niên biểu các triều đại của Trung Hoa Nhà Hạ 2100 - 1600 tr. TL ( trước Tây Lịch ) Nhà Thương 1600 - 1100 tr. TL Tây Chu 1100 - 771 tr. TL ( đến 771 tr. TL thì nhà Chu dời đô về Lạc-Dương , và đây là thời Đông Chu ) . Thời Xuân Thu 770 - 476 tr.TL Thời Chiến Quốc 475 - 221 tr. TL Tần 221 - 207 tr. TL Tây Hán 206 tr. TL - 24 sau TL Đông Hán 25 sau TL - 220 sau TL Ở đây tôi chú ý đến đời nhà Thương và nhà Chu với hai lý do : thứ nhất là họ có những bằng chứng xác định qua cổ thư và khảo cổ , thứ hai là họ có trước đời nhà Hán rất xa . J . CHỨNG MINH QUA CỔ THƯ a- NHÀ THƯƠNG Tài liệu về nhà Thương thì rất nhiều. Kinh Thư , Sử Ký Tư Mã Thiên và bộ Trúc Thư Kỉ Niên đều có viết về nhà Thương . Theo bộ Trúc Thư Kỉ Niên thì Thành Thang lập ra nhà Thương , đầu tiên đóng ở đất Bạc. Đến thời Bàn Canh là vị vua thứ 19 thì dời qua Ân và có lẽ từ đó đổi tên nhàThương thành nhà Ân. Đến thời Vũ Đinh là vị vua thứ 22 , lấy hiệu là Cao Tôn, thì một biến cố quan trọng xẩy ra ; bộ Trúc Thư ghi như sau : Tam thập nhị niên , phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh Năm thứ 32 , đem quân đánh Quỷ Phương và đóng quân tại Kinh Trong truyền thuyết của chúng ta có nói Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh-Dương vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ. Chữ Xích có nghĩa là chỉ đường Xích đạo, Quỷ ở đây là Sao Quỷ tượng trưng cho phương Nam. Khi vua Vũ Đinh nhà Ân đóng quân tại Kinh , tức là vùng Kinh thuộc châu Kinh. Thời điểm đó thì Sao Quỷ nằm tại vùng châu Kinh , cho nên Quỷ Phương tượng trưng cho dân của vùng châu Kinh , mà châu Kinh là của Việt nên người Việt chúng ta mới có truyền thuyết PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG chống giặc Ân . Chống giặc Ân tức là chống quân của Ân Cao Tôn từ phía Bắc kéo xuống . Ngoài tài liệu cổ thư, nhà Thương còn để lại một tài liệu rất là quý giá. Đó là những chữ khắc trên xương và yếm rùa còn được gọi là "Sấm Ngữ" ( Oracle bones ), mà các nhà khảo cổ đã đào được rất nhiều tại An-Dương. Các Sấm Ngữ còn cho chúng ta biết rằng có sự liên lạc giữa nhà Thương và dân ở miền Nam Trung Hoa và đặc biệt là dân ở vùng sông Dương Tử tức là vùng của người Việt ngày xưa . Ông Tsuen-Hsuin Tsien , tác giả quyển "Written on Bamboo and Silk" ( Viết trên tre và Lụa ) do The University of Chicago Press xuất bản 1962 ,có viết như sau : "The oracle inscriptions also contain such divinations as "there will be tortoises presented from the south" or no tortoises will be presented from the south" , có nghĩa là các lời khắc của sấm ngữ còn chứa đựng những câu chiêm đoán như "sẽ có rùa mang đến từ miền Nam" hay "không có rùa được mang tới từ miền Nam" . Ông cho biết các câu như thế được lập đi lập lại khoảng 500 lần trên sấm ngữ . Ông còn cho biết là theo cổ thư thì rùa được mang tới từ vùng sông Dương Tử. Như thế ngày xưa đã có sự hiểu biết nhau và trao đổi giao dịch giữa nhà Thương và dân Việt. Ngoài ra ông William Meacham , một nhà khảo cổ học , có viết một bài với tựa đề "Defining the Hundred Yue" ( Định nghĩa Bách Việt ) đăng trong tờ Hongkong Archaeological Society . Ông viết như sau : "The term Yue occurs fairly frequently in the oracle bone writings of the late Shang dynasty, ca 1200 BC" có nghĩa là danh từ "Việt" thường hay xuất hiện trên sấm ngữ vào cuối đời nhà Thương khoảng 1200 trước Tây Lịch . Ông William Meacham có liên lạc với ông Lefeuvre, cũng là một đồng nghiệp với ông, khi viết bài nầy, thì ông Lefeuvre có xác định với ông William là có một câu của sấm ngữ nhắc đến "vùng đất của Việt" , đây là lời ông William Meacham viết : "Lefeuvre notes one inscription mentioning" the land of Yue" . Vậy cái tên Việt đã xuất hiện trên sấm ngữ vào thời nhà Thương . Nhà Thương xuất hiện trước thời nhà Chu , và tên "Việt" có khắc rõ ràng trên "sấm ngữ" (trên xương và yếm rùa) ; vậy thì làm sao có thể nói là nhà Chu đặt tên Việt cho người Việt được ? Nhà Thương xuất hiện vào 1600 tr. TL , có nơi cho là khoảng 1500 tr.TL và nhà Hán xuất hiện vào khoảng 206 tr. TL, như thế tên "Việt" xuất hiện vào khoảng trên 1000 năm trước nhà Hán , thế thì làm sao có thể nói rằng nhà Hán đặt tên Việt cho người Việt được, lấy kẻ sanh sau mà bảo đặt tên cho người sanh trước thì nghe làm sao thông được ! b. NHÀ CHU HAY CÒN GỌI LÀ NHÀ CHÂU Khi đến phần nhà Chu thì Bộ Trúc Thư Kĩ Niên có viết như sau : Trước khi dịch hai câu trên thì tôi xin có một đôi lời giải thích : đại vương đây có nghĩa là ông nội của Xương. Xương là tên khi còn nhỏ chưa làm vua, khi làm vua rồi thì xưng hiệu là Vũ Vương . Khi xưng là Vũ Vương thì mới thành lập ra nhà Chu. Quý Lịch là cha của Xương, tức là cha của Vũ Vương. Thái Bá là anh lớn của Quý Lịch tức là bác của Xương. Đại vương viết ngô thế đương hữu hưng dã kỳ tại Xương hồ . Đại vương nói thế hệ của ta mà hưng là nhờ ở tại Xương ( có nghĩa là ông nội nói rằng gia đình của ông mà lên là nhờ ở Xương là đứa cháu của ông ) Quý Lịch chi huynh viết Thái Bá tri thiên mệnh tại Xương thích Việt . Theo lời nói anh của Quý Lịch là Thái Bá, đoán biết mệnh trời nằm ở tại Xương nên bỏ đi qua Việt . Câu này có nghĩa là khi Xương mới sanh, còn nhỏ, chưa làm vua , chưa thành lập nhà Chu ; nhà Chu chỉ được thành lập khi Xương lên ngôi lấy hiệu là Vũ Vương, còn trước đó chỉ là một bộ lạc thông thường , trú đóng tại miền Tây Bắc của Trung Hoa mà thôi. Vậy mà bác của Xương là Thái Bá đã biết nước Việt , khi Xương còn nhỏ, có nghĩa là nước Việt, hay nói đúng hơn là tên "Việt" đã được biết đến trước khi có nhà Chu. Vậy mà một học giả ở trên viết rằng người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man có lối sống hỗn độn mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài vòng lễ giáo của nhà Chu" . Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao bao nhiêu bộ lạc khác lại không đi qua , mà lại đi qua Việt ? Ông Thái Bá có thể sai, nhưng cha của ông là người biết rộng , làm sao có thể để con đi vào chổ chết vì theo học giả ở trên nói là dân vùng Nam man ( tức là dân Việt ) sống ngoài vùng lễ giáo và có lối sống hổn độn ! Họ có thể giết con ông bất cứ lúc nào ! Vậy việc ông Thái Bá đi qua Việt, có phải là lúc đó tên Việt đã có một ảnh hưởng quá lớn không , hay là vì tiếng vang của cái tên Việt nên ai cũng tìm tới. Thời đời nhà Thương, nhà Chu là thời nhiểu nhương , loạn lạc, người ta muốn tìm một nơi tá túc thì phải coi nước mà mình tìm đến đó như thế nào, có đủ khả năng để bảo vệ mình không? Vậy tên "Việt" đã xuất hiện trước thời nhà Chu và đồng thời cũng có trước nhà Hán rất lâu , vậy thì làm sao quả quyết là nhà Chu hay nhà Hán đặt tên Việt cho người Việt được? Sử Trung Hoa còn rất nhiều nghi vấn cần phải đặt lại sau nầy.Bạn muốn tìm nguồn gốc của dân Việt ư ? Bạn phải tìm tài liệu viết trước đời Tần và Hán , vì hai triều đại nầy đã sửa đổi tất cả sử liệu viết trên đất Trung Hoa theo ý họ rồi! k. PHẢI HẢNH DIỆN XƯNG MÌNH LÀ VIỆT Trong số năm học giả ở trên thì có hai học giả cảm thấy xẩu hổ khi xưng mình là Việt , và đề nghị xưng mình là người Nam! Sau khi tìm hiểu nguồn gốc chữ "Việt" tôi không thấy có gì là xấu hổ cả ! Tổ tiên của chúng ta đã có suy nghĩ rất kỹ khi đặt tên "Việt" cho dân tộc mình. Tên "Việt" đã được ghi rõ ràng qua kinh điển và qua bằng chứng của khảo cổ trên những chữ khắc trên xương và yếm rùa mà chúng ta gọi là sấm ngữ . Khi nghiên cứu lại tiền sử của dân Việt, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, vì người ta viết không trúng về người Việt rất nhiều. Trong mỗi chặn sử của Trung Hoa , đều có sự hiện diện của tiền nhân người Việt . Những di tích của người Việt còn để lại trên đất Trung Hoa, những ảnh hưởng của người Việt còn tìm thấy qua khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ học vv... ở trên đất Trung Hoa. Các học giả Trung Hoa đã đề xướng "Chủ Thuyết Trung Nguyên" để tìm cách loại cái ảnh hưởng của tiền nhân người Việt ra khỏi sử Trung Hoa, nhưng họ đã không làm được chuyện đó, vì lý do đơn giản là họ không thể gạt bỏ Kinh Điển và những cổ thư mà khảo cổ đào được. Đừng bao giờ nói như một học giả ở trên viết : ... "Từ thời thượng cổ cho đến cận đại, dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này không bao giờ chịu nhận mình là người Việt" . Cái lỗi ở đây là tại chúng ta không tìm hiểu cho cận kẽ, rõ ràng rồi tuyên bố không muốn xưng mình là Việt, chứ tiền nhân của chúng ta vẫn gọi họ là người Việt . Cổ thư , kinh điển đều ghi là Việt, là người Việt , bạn và tôi đâu có bịa những chuyện đó ra đâu. Trước khi kết thúc tôi xin tóm tắt lại như sau : 1. Nói chữ Việt gồm bộ Tẩu với chữ Tuất là sai . Chữ Việt đúng là gồm bộ Tẩu và chữ Việt. Có hai cái sai : thứ nhất là sai chữ. Các học giả trên đọc lộn chữ Việt ra chữ Tuất . Cái sai thứ hai là các học giả trên không kiểm soát lại cái âm khi đọc để biết mình nói có đúng hay không. 2. Không có ai, kể cả nhà Thương hay nhà Chu hoặc nhà Hán, đặt tên Việt cho người Việt. Tên Việt là do chính tổ tiên của người Việt đặt cho dân Việtï, bằng chứng từ kinh điển và khảo cổ có cho biết là tên Việt đã có từ lâu đời. 3. Chữ Việt có hai nghĩa. Chữ Việt bộ Mễ là để nói, thời bình người Việt làm nghề nông sanh sống , lúa gạo trữ trong kho. Chữ Việt bộ Tẩu là để nói, thời chiến người Việt cầm vũ khí đi chống xâm lăng để giữ nước. Chữ Việt mà người ta lầm tưởng là chó chạy, đã giải thích trật từ lâu lắm rồi, không phải đợi tới các học giả trên viết ra mới biết là sai . Các học giả trên viết bài với tấm lòng yêu nước, nhưng chỉ lập lại cái trật của những người đi trước mà thôi .Thật ra, tôi lấy năm tài liệu nầy để làm cái cớ mà đính chính và giải thích chữ "Việt" , chứ không có ý chỉ trích ai . Tôi xin cám ơn năm học giả trên đã cho tôi cơ hội , giải thích lại phần nào nguồn gốc của người Việt. Nếu trong sự giải thích nầy có đều gì xúc phạm đến năm học giả trên , xin miển thứ. Trước khi kết thúc tôi xin lập lại câu nói của cụ Trần Trọng Kim ghi trong Việt Nam Sử Lược : "Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước , yêu nhà, mới biết cố gắng học hành , hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội của tiên-tổ đã xây dựng nên mà để lại cho mình" . Tôi hy vọng bài viết nầy gíúp cho bạn và tôi biết được một đôi chút sự-tích nước mình để cho khỏi tủi quốc hồn, tôi chỉ có ước mơ đơn giản vậy thôi . LÊ VĂN ẨN
-
G. CHỨNG MINH BẰNG KHẢO CỔ Khi một nhà khảo cổ đào tìm được một đồ vật , họ phải xác định cái đồ vật đó tìm được ở đâu, vào thời gian nào, địa điểm chổ nào, vùng nào và cái đồ vật đó hình thức ra làm sao, có sự liên quan gì đến các đồ vật mà ông tìm thấy được ở nơi khác không v.v...Vậy muốn nói cái qua là của Việt thì việc trước tiên là xác định vùng đất nào là của tổ tiên người Việt . Để làm việc này , bạn và tôi phải trở lại xem truyền thuyết họ Hồng Bàng . Trong Việt Nam Sử Lược quyển một , cụ Trần Trọng Kim có viết lại như sau: Họ Hồng Bàng . Cứ theo tục truyền thì vua Đế-minh cháu ba đời vua Thần nông , đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ-lĩnh gặp một nàng tiên , lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế-minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế-nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh-Dương vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cỏi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động-đình hồ, phía Nam giáp nước Hồ Tôn ( Chiêm Thành ), phía tây giáp Ba-Thục ( Tứ-xuyên ), phía đông giáp bể Nam-hải . Kinh-Dương vương làm vua nước Xích Quỷ và lấy con gái Động-đình quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu -cơ là con gái của Đế Lai, sanh được một trăm người con trai . Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên do Nhượng Tống dịch, ông Ngô Sĩ Liên gọi trăm người con trai đó là tổ của Bách Việt tức là trăm giống Việt . Bây giờ bạn và tôi hãy xem lại Kinh Điển , coi lạiø Kinh Thư , xem phần Hạ Thư chương Vũ Cống , phần thượng , có để cập đến việc vua Vũ dựng ra 9 châu gồm có : 1. Kí châu , 2. Ung Châu, 3. Duyện Châu, 4. Thanh Châu, 5. Từ châu, 6. Dự châu, 7. Lương châu , 8. Kinh châu , 9. Dương châu . Trong truyền thuyết, khi Lộc Tục làm vua thì xưng là Kinh-Dương Vương tức là ông làm vua cai trị hai châu : châu Kinh và châu Dương. Châu Kinh và châu Dương được xem là miền Nam của Trung Hoa ngày nay, bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam dọc theo sông Dương Tử , ra tới biển Đông và kéo xuống phía Nam . Nước của ông bao gồm từ Hồ Bắc , Hồ nam cho tới nước Chiêm Thành. Con ông là Lạc Long Quân xuất thân từ Hồ Động Đình vì Lộc Tục lấy Long Nữ , người gốc gác ở Hồ Động Đình . Hồ Động Đình bao gồm Hồ Bắc ( tức là phía Bắc của Hồ Động Đình ) và Hồ Nam ( tức là phía Nam của Hồ Động Đình ). Các nhà khảo cổ đã tìm được trong các mộ đào được ở Trường Sa ( thuộc Hồ Nam ) một số những cái qua , xin coi hình phía dưới (hình 1 ). Hình 1 Hình 2 Riêng vào tháng hai năm 1971, các nhà khảo cổ có tìm được tại phía đông của Trường Sa thuộc vùng Hồ Nam , địa điểm tên là Liu-ch'êng-ch'iao một cái qua còn nguyên vẹn ( hình 2 ). Điểm đặc biệt hơn nữa là trong quyển "Cultural Frontiers in Ancient East Asia" của William Watson có viết về những đồ vật đào lên tại tỉnh Hồ Nam rằng các nhà khảo cổ có tìm được cũng tại Hồ Nam một cái qua có khắc tên một vị vua tên là Nhược Ngao . Sao khi tra cứu trong Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện thì vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch . Đây là vị vua Hùng thú 14 trong 18 vị Hùng vương, mà chúng ta thường gọi là 18 đời Hùng vương. Những chi tiết về cái qua nầy tôi có viết trong bài "Chứng tích Hùng Vương" lấy bút hiệu là An sơn , đăng trong tờ Hoài Bão. Xuân Thu và Tả Truyện Sử ký Tư Mã Thiên Tên vua và hiệu Số thứ tự Năm cai trị Nghi viết Nhược Ngao Hùng Nghi dã hiệu Nhược Ngao Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao 14 789 tr. TL Vậy vùng Kinh-Dương bao gồm Hồ Nam , Hồ Bắc và cả phía Nam từ vùng sông Dương Tử trở xuống , các nhà khảo cổ đã tìm được những cái qua và đặt biệt là có một cái qua có khắc tên vị vua Hùng thứ 14 là một trong 18 đời Hùng Vương của dân Việt . Như vậy cái qua là của tổ tiên người Việt .Nhưng mà bạn và tôi vẫn còn thắc mắc là tại sao và vì lý do gì mà chế ra cái qua ? Có bao nhiêu loại binh khí khác , thế sao lại chọn cái qua trong chữ "Việt". Cái qua có tác dụng gì ?
-
F. Ý NGHĨA CỦA HAI CHỮ VIỆT: Việt và Việt Tại sao tiền nhân của chúng ta lại dùng tới hai chữ Việt để đặt cái tên Việt ? Thông thường người ta chỉ cần một chữ là đủ rồi . Chúng ta thấy trong hai chữ , mỗi chữ Việt đều mang một ý nghĩa khác nhau . ChữViệt đi với bộ Mễ thì có mang một dụng cụ nông nghiệp là cái cày để nói lên trong thời bình người Việt trồng lúa để sinh sống . Còn một chữ Việt có kèm theo một vũ khí tức là cái qua đi với bộ Tẩu có ý nói là trong thời chiến người Việt, từng đoàn cầm vũ khí ra đi để chống giặc và giữ nước. Vậy Tổ tiên chúng ta muốn dạy điều gì cho chúng ta ở đây trong danh xưng là Việt ? Với chữ Việt đi với bộ Mễ, tổ tiên chúng ta muốn nói rằng vào thời bình người Việt chúng ta phải lo làm lụng nuôi sống gia đình, lo cho đất nước giàu mạnh ; ngày xưa đất nước của chúng ta là một nước nông nghiệp nên nghề nông là nghề chánh . Ngoài ra chữ Việt nầy đồng thời cũng nói lên đức tính siêng năng cần cù của người dân Việt. Với chữ Việt đi với bộ Tẩu có nghĩa là khi gặp thời chiến thì phải cùng ra đi, cầm vũ khí đứng ra chống giặc để giữ nước. Tổ tiên của chúng ta khi đặt một cái tên gì, hay để lại một câu chuyện gì, đều có kèm theo một ý nghĩa rất sâu sắc trong đó. Như vậy tổ tiên của chúng ta có ý dạy cho dân ta phải biết trách nhiệm và bổn phận của mình đối với đất nước và dân tộc : thời bình thì phải làm gì, và thời chiến thì phải như thế nào đối với đất nước . Cái lỗi ở đây là tại chúng ta không tìm hiểu cho rõ ràng và cặn kẽ cái ý nghĩa của tên “ Việt “ , rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân .Bây giờ bạn và tôi mới nhận thấy cái ý nghĩa sâu sắc của tiền nhân khi đặt cái tên Việt cho dân tộc mình. Tuy rằng đã hiểu ý nghĩa của chữ “Việt “, nhưng bạn và tôi vẫn còn thắc mắc. Bạn sẽ nói rằng anh nói tiền nhân lấy cái qua đặt vào với tên “Việt“,nhưng làm sao dám chắc rằng cái qua đó là của người Việt ? Cái khí cụ đó có chắc là của người Việt hay không hay là lấy từ một chổ nào khác đem lại ? Mà nếu nó là của người Việt thì nó ra sao ? Hình dáng như thế nào ?
-
Chữ đầu tiên vẽ một người quơ hai cánh tay của họ , với bộ túc (nghĩa là chân ) ở dưới, từ đó mang ý nghĩa là đi. Nhưng sau đó chữ thành hình một người đi hơi nghiêng về phía trước , có ý nói lên một ý chí cương quyết và bước đi có vẽ nhanh nhẹn , đây là bước quân đi hay còn gọi là bước quân hành , chứ không phải là lối đi bình thường. Vậy bộ Tẩu và kế bên có cái qua là binh khí có nghĩa là người đó chẳng những đi và mà còn cầm vũ khí . Ðó là hình ảnh người chiến sĩ bước đi tay cầm cái qua . Một người đi bình thường thì không có cầm binh khí. Chữ Việt là cái qua mà đi với bộ Tẩu có ý nói là người chiến sĩ cầm vũ khí , đi từng đoàn và đi với một ý chí cương quyết để ra trận. Ðây là thời gian mà các nước Việt phía Nam tiến lên đánh chiếm phía Bắc . Cái ý nghĩa sâu xa của chữ Tẩu là như vậy. Nếu chúng ta chỉ lấy chữ Việt chỉ là binh khí mà thôi, thì tự nó không đủ để giải thích cái gì cả ! Chữ Tẩu mang ý nghĩa chạy là do sau nầy người ta đưa vào chứ chứ gốc không có nghĩa là chạy . Tóm lại , Chữ “Việt “ có bộ Tẩu và chữ kế bên đọc là Việt có nghĩa là người chiến sĩ cầm vũ khí là cái qua, đi trong cương quyết, đi từng đoàn theo thế quân hành để ra trận . Vậy chữ Việt không dính dấp gì với chó chạy cả ! E .CHỮ VIỆT ÐI VỚI BỘ MỄ Trong số năm học giả trên , có người giải thích chữ Việt đi với bộ Mễ là một bản đồ đất đai của người Việt ở từ khi mới lập quốc. Người khác thì lại phân tích rằng chữ Việt gồm các bộ Phiệt ( gần giống âm Việt ), Quynh ( miền đất ở xa ngoài cõi ), Mễ ( lúa gạo ), Khảo ( khéo léo ). Rồi ông giải thích như sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề trồng lúa một cách tinh xảo ; Chữ Việt này nhìn giống như một trái cây, có cuống , có quả , có nhiều hạt. Mỗi người giải thích theo mỗi ý . Bạn và tôi thữ tìm xem coi chữ Việt bộ Mễ này có nghĩa gì . Ðầu tiên chữ Việt gồm có bộ Mễ . Vậy bộ Mễ ngày xưa chữ gốc của nó là gì ? Hình 1 Hình 2 Chữ từ xưa đến nay Ðầu tiên người xưa vẽ chín hạt gạo tượng trưng cho bộ Mễ . Con số chín đây có nghĩa là nhiều , sung túc, đầy đủ. Xem hình 1, cây lúa có rất nhiều hạt .Sau đó hạt lúa văng đi bốn hướng; họ gạch chứ thập tượng trưng cho bốn hướng. Hình 2 , khi người ta đập lúa thì hạt lúa văng đi tứ ( bốn ) hướng. Bỗ Mễ ngày nay viết đổi khác hơn chữ lúc ban đầu. Chúng ta đã có lúa gạo tức là bộ Mễ, vậy thì cái chữ mà bọc bộ Mễ là chữ gì ? Ðể dễ nhận thức tôi xin đưa ra một ví dụ : chữ Hướng , chữ bộc bộ khẩu cũng viết giống như chữ bọc bộ Mễ . Chữ Hướng , đầu tiên viết là , người xưa giải thích là cái cửa sổ ( hình tròn ) , nằm dưới cái mái nhà , là cái hướng để cho gió lọt vào . Bây giờ chúng ta nhìn lại chữ Việt , cái chữ bọc bộ Mễ đó là cái mái nhà, có nghĩa là gạo được trữ dưới mái nhà hay còn gọi là trữ trong kho. Kế tiếp chữ ở dưới bộ Mễ là cái gì ? Bạn hãy coi hình ở dưới . Người xưa lấy một khúc cây , ráp một cái lưỡi bằng đá vào để làm cái cày để cày đất . Rồi người ta đứng lên trên cái cày đó để làm sức nặng và đàng trước có súc vật kéo . Bạn và tôi nên nhớ là người Việt ngày xưa nổi tiếng về nghề trồng lúa .Vậy chúng ta thấy có sự liên hệ giữa ba chữ với nhau trong chữ Việt ; bộ Mễ là lúa, gạo , được trữ dưới mái nhà tức là trữ trong kho, và để tạo ra lúa gạo thì cái cày là một dụng cụ nông nghiệp.
-
A. CÁCH CẤU TẠO CHỮ MỚI TRONG CHỮ NHO Ở đây tôi xin đượcnói phớt qua một chút để thấy ngày xưa người ta làm thế nào để cấu tạo một chữ mới trong chữ Nho, tuy nhiên những điều viết sau đây không phải là một điều cố định vì nó còn có những trường hợp ngoại lệ. Ðể dể hiểu tôi xin lấy chữ Nghệ làm ví dụ : nghệ à hung à hung à hung Ví dụ người xưa bắt đầu bằng chữ Nghệ ( tự điển Thiều Chửu trang 7 ). Bây giờ muốn tạo một chữ mới lấy gốc từ chữ Nghệ này thì họ làm sao ? Họ lấy chữ Nghệ nầy viết kèm với một bộ khác ,ví dụ bộ Khảm thì ra chữ Hung ( tự điển Thiều Chửu tr.48 ). Từ chữ Hung nầy muốn tạo thêm một chữ mới khác thì họ làm sao ? Họ lại viết kèm nó với một bộ khác , ví dụ bộ bộ Bao thì nó ra chữ Hung . Rồi họ lại cứ tiếp tục lấy chữ Hung có bộ bao đó viết kèm với một bộ mới, ví dụ bộ Tâm thì ra chữ Hung ( xem tự điển Thiều Chửu tr. 204 ). Rồi cứ như thế mà tạo ra một chữ mới Ðối với chữ Việt cũng thế ; đầu tiên nó là chữ Việt , xong để tạo ra một chữ mới người ta mới nhập nó với bộ Tẩu và đọc với âm Việt. D. BỘ TẨU Mặc dầu đã giải thích chữ Tuất và chữ Việt rồi , nhưng bạn vẫn còn thắc mắc rằng nếu chữ Việt này đủ để đọc là Việt thì thêm bộ Tẩu vào làm gì ? Tôi xin nhắc lại trong chữ “ Việt “ gồm bộ Tẩu và chữ Việt . Chữ Việt đây chỉ là cái âm có nghĩa là cách đọc, cách phát cái âm ra như thế nào mà thôi. Còn tất cả ý nghĩa gói ghém lại nằm ở bộ Tẩu là cái phần chỉ ý và đó là phần chính. Vậy tổ tiên chúng ta muốn nói cái gì khi viết bộ Tẩu vào với âm Việt . Ðó là đều mà bạn và tôi phải tìm hiểu đến. Ở trên tôi có giải thích chữ Việt , chữ xưa viết là là hình một cái qua có cái móc phía sau ; mà cái qua là một loại binh khí ngày xưa vậy nó phải có liên quan gì với bộ Tẩu . Bộ Tẩu : . Ðầu tiên chúng ta thử tìm xem trong các tự điển cắc nghĩa thế nào về bộ tẩu nầy. -Tự điển Hán-Việt của Thiều Chửu : Tẩu :1. Chạy. 2. Trốn . -Tự điển Hán-Việt Từ Nguyên của Bửu Kế : Tẩu : bộ Tẩu¨« bảy nét : chạy. - Tự điển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của : Tẩu : chạy . - Tự điển chữ Nôm của Vũ văn Kính : Tẩu : tẩu thoát, bôn tẩu . - Hán-Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn : Tẩu : chạy, trốn, đi, về . - Tự điển Trung Hoa : A New Practical Chinese -English dictionary do Công Ty Viễn Ðông xuất bản : zoêu : 1. to walk có nghĩa là đi ;to go on foot tức là đi bộ. 2. to run từc là chạy. - Tự điển Trung Hoa : A Chinese-English dictionary do Viện Ngoại Ngữ của Bắc Kinh xuất bản : zoêu : 1. walk, go có nghĩa là đi. 2. run có nghĩa là chạy Các tự điển Việt , phần lớn đều dịch là chạy , chỉ có ông Nguyễn văn Khôn dịch là đi, chạy. Tự điển Trung Hoa thì nghĩa thứ nhất là đi , và nghĩa thứ nhì là chạy . Các tự điển Việt và Trung Hoa không có cắt nghĩa chữ gốc của bộ tẩu .Vậy Tẩu , chữ gốc của nó viết như thế nào và giải thích làm sao?
-
D. CHỮ VIỆT THUỘC LOẠI NÀO ? Trong 6 loại của cách cấu tạo chữ Nho kể trên , thì chữ Việt nằm trong loại Hình Thanh tức là một bên chỉ ý và một bên chỉ âm. Ðể dẫn chứng bạn lấy quyển CHỮ NHO TỰ HỌC của Ðào Mộng Nam , Giảng Sư Viện Ðại Học Huế , ở trang 110 có viết như sau : cách cấu tạo chữ Nho, phần 3 : Chỉ âm - Chỉ ý : Lấy hai chữ vẽ hình hay gom ý có sẵn ghép lại rồi dùng một chữ để chỉ âm, một chữ để chỉ ý : Ví dụ : cửu : chỉ âm ửu - ừu, người: chỉ ý. Con người khác con vật ở điểm biết thù hằn nhau . đọc là cừu ( lấy từ âm ửu của chữ cửu ) có nghĩa là thù hằn Bây giờ áp dụng chữ “Việt “ vào : Các học giả ở các bài báo ở trên cho rằng chữ Việt gồm bộ Tẩu đi với chữ Tuất ; chúng tôi cho rằng bộ Tẩu đi với chữ Việt . Bây giờ chúng ta hãy xem cách đọc : Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Tuất Việt Tuất : chỉ âm : âm ở đây là T, âm tờ, tẩu : chỉ ý Trong tự điển không có bộ Tẩu đi với chữ Tuất , nên không đọc được! Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Việt Việt Việt : chỉ âm tẩu : chỉ ý đọc là Việt Bạn thử so sánh coi , nếu lấy âm T, Tờ của chữ Tuất thì làm sao mà đọc ra Việt được ! Nó phải âm Việt thì mới đọc ra Việt được . Ðể rõ ràng hơn tôi xin đưa ra hai ví dụ trong đó có chữ Tuất đi với một bộ khác và chữ Việt đi với một bộ khác như sau : 1 . Chữ Tuất : chỉ âm : âm ở đây là T, âm tờ bộ bối : chỉ ý Vậy thì đọc như thế nào ? Thưa đọc là Tặc ( xin xem tự điển Thiều Chửu trang 648 ). 2. Chữ Việt:chỉ âm bộ Kim : chỉ ý Vậy thì đọc làm sao? Thưa đọc là Việt ( xin xem tự điển Thiều Chửu trang 711 ) có nghĩa là cái búa lớn mà ta thường gọi là Phủ Việt. Vậy có hai điểm chính ở đây . Các học giả ở trên đã chẳng những nhìn lộn chữ Việt ra chữ Tuất , và cũng chẳng soát lại coi cái âm đọc như thế nào để coi mình nói đúng hay sai . Ðể rõ ràng dể hiểu hơn chúng ta hãy coi cách cấu tạo chữ mới như thế nào trong chữ Nho.
-
A. GIẢI THÍCH TỪNG LOẠI 1a. TƯỢNG HÌNH Ðây là những hình vẽ thô sơ để chỉ một vật gì hay một giống loại gì. Ví dụ : Ngày xưa vẽ Ngày nay viết môn :cái cửa à Thủy : nước à Nhật : mặt trời à 2a. CHỈ SỰ Ðây là những hình thể để nói lên một ý nghĩa nào đó. Tuy còn là hình vẽ những chữ đã bất đầu mang một ý nghĩa trừu tượng. Ví dụ : Ngày xưa vẽ Ngày nay viết thượng : ở trên à 3a. HỘI Ý Mỗi chữ đều mang ý nghĩa của nó. Hội ý là do hai chữ hoặc nhiều chữ hợp lại để ra một ý nghĩa khác. Ví dụ : Chữ Chiêm . Chữ nầy gồm hai bộ hợp lại thành một chữ. Ở trên là bộ Bốcvà ở dưới là bộ Khẩu . Bốc có nghĩa là bói, và Khẩu là cái miệng, hai bộ nầy nhập lại thành chữ Chiêm có nghĩa là xem coi điều gì để biết xấu tốt. 4a. HÌNH THANH Chữ Hình Thanh là do sự họp lại của một hoặc nhiều chữ . Chữ Hình Thanh gồm hai phần : - Một phần là bộ để chỉ ý (nghĩa của chữ ) - Một phần là âm để nói lên cách đọc của chữ. Ví dụ : + = Bộ âm Chỉ ý Chỉ âm Thảo ( cách đọc của chữ lấy từ âm tảo mà ra) Bộ thảo chữ tảo 5a. CHUYỂN CHÚ Là một loại chữ được dùng rộng hơn ý nghĩa ban đầu của nó. Chữ đó mang nghĩa chính, ngoài ra nó đẻ thêm một nghĩa phụ nữa. Ví dụ : nhạc à là một nhạc khí để tạo ra sự vui tươi nhạc à chuyển âm đọc là Lạc là vui,thích à chuyển thêm một âm nữa đọc là nhạo là yêu, thích. ( xin coi tự điển Thiều Chửu trang 310 ) 6a. GIẢ TÁ Ðây là một sự vay mượn do lầm lẫn hoặc thiếu sót mà ra, bất nguồn từ : - Do sự chép sai lấy từ chữ gốc - Mượn chữ trùng âm hoặc chữ đồng âm để thay thế phần chữ không có trong chữ viết, mà chỉ có trong lời nói mà thôi. Ví dụ : đậu là một cái thố để đựng thịt cúng thần, cùng âm với chữ hạt Ðậu , nên cũng được dùng để chỉ hạt đậu.
-
Bây giờ xin bạn hãy coi lại cách viết của chữ Việt đi với bộ Tẩu Việt Chữ Việt bao gồm bộ Tẩu và chữ Bây giờ bạn hãy nhìn chữ Tuất Tuất Bạn hãy coi chữ Tuất và chữ có giống nhau không ?Chắc chắn là không giống nhau rồi. Chữ Tuất có một nét gạch ngang bên trái, còn chữ có một nét móc lên ở bên trái . Bạn sẽ hỏi tôi chữ đọc làm sao ? Chữ nầy đọc là Việt . Các học giả ở trên nhìn lộn chữ Tuất với chữ Việt ! Cái chữ trong chữ Việt bộ tẩu không phải là chữ Tuất mà là chữ Việt ! Vậy bạn sẽ hỏi rằng chữ Việt nầy ngày xưa chữ gốc của nó như thế nào và giải thích làm sao ? Chữ Việt ., ngày xưa viết là và được giải thích như sau : Hình một cái qua có cái móc ở phía sau. Như vậy trong chữ Việt có bộ Tẩu đi với chữ Việt chứ không phải bộ Tẩu đi với chữ Tuất ! Bây giờ bạn và tôi lại thắc mắc là tại sao đọc là Việt ? Trước khi bàn đến cách đọc , tôi xin nói phớt qua về cách cấu tạo của chữ Nho . CÁCH CẤU TẠO CHỮ NHO Chữ Nho được chia ra làm hai đại loại : - Loại Văn là những hình thể đơn giản. - Loại Tự là những chữ hợp lại hay còn gọi là hợp tự. Các cụ nhà Nho chúng ta thường hay gọi là Văn Tự. Loại Văn được chia làm hai loại : - Tượng hình - Chỉ sự Loại Tự cũng được chia làm hai loại : - Hội ý - Hình thanh Ngoài bốn loại : Tượng hình, chỉ sự, hội ý và hình thanh, thuộc về Văn Tự, chúng ta còn có thêm hai loại nữa , đó là : - Giả tá - Chuyển chú Tóm lại : - Văn Tự gồm 4 loại : Tượng hình, chỉ sự,hội ý và hình thanh - Lục thư gồm 6 loại: Tương hình , chỉ sụ, hội ý, hình thanh, giả tá và chuyển Chú.
-
VÀ Lê Văn Ẩn Bạn và tôi là người Việt, chúng ta là con dân nước Việt. Cái tên "Việt" đã có từ lâu đời , ấy thế mà khi hỏi đến nguồn gốc và ý nghĩa của nó, ít có ai hiểu nó là gì ! Tại sao là Việt ? Nó mang ý nghĩa gì ? Thỉnh thoảng trên báo chí chúng ta thấy có nhiều học giả tìm cách giải thích , nhưng rất tiếc sự giải thích đó đều mang một ý nghĩa không mấy tốt đẹp . Hôm nay bạn và tôi thử tìm hiểu, phân tích để hiểu xem vì lý do gì tiền nhân của chúng ta lại lấy cái tên "Việt" đặt cho dân tộc mình . Đầu tiên cái tên Việt đó được viết bằng một loại chữ mà ngày nay ít ai nhắc tới, đó là chữ Nho. Chúng ta có chữ viết ; các cụ ngày xưa viết chữ Nho, sau đó là chữ Nôm ; đến khi người Pháp đến đô hộ đất nước chúng ta, họ đưa vào một lối chữ viết với mẫu tự La-tinh và gọi đó là chữ Quốc Ngữ. Chữ Quốc Ngữ dần dần thay thế chữ Nho và Nôm . Sau đó tất cả các sách vỡ , văn kiện đều được in bằng chữ Quốc Ngữ .Ngày nay ít ai buồn nghĩ đến chữ Nho và Nôm của ngày trước; nếu có ai tình cờ nhắc lại thì bị coi là cổ hủ , lỗi thời. Từ đó với thời gian hai loại chữ trên đều bị rơi vào quên lãng. Sự mất mát của chữ Nho và chữ Nôm mang một ảnh hưởng rất tai hại mà ít ai nghĩ tới. Thông thường bạn và tôi không thấy sự tai hại đó , mãi cho đến một ngày có người hỏi chúng ta , anh là người Việt , vậy chữ "Việt" đó mang ý nghĩa gì? Cái gốc của chữ "Việt" đó từ đâu mà ra ? Bây giờ bạn và tôi đem chữ Quốc ngữ ra cắt nghĩa cái nguồn gốc chữ "Việt" ư ? Chữ Quốc ngữ không thể giải thích nguồn gốc của chữ "Việt" ! Quay lại chữ Nho và chữ Nôm ư ? Còn mấy người biết được chữ Nho và Nôm , và có chắc họ còn nhớ cái nguồn gốc của chữ đó không ! Một hôm , ông Bùi Tuấn Dũng , một người bạn thân của tôi , mang đến cho tôi một số bài báo giải thích về nguồn gốc của chữ "Việt" . Tôi rất mừng và vội đăng lên đây để bạn và tôi cùng tìm hiểu nguồn gốc dân tộc mình qua danh xưng là Việt . Dưới đây là những đoạn trích từ các bài báo vừa kể : 1. Ông Phạm Cao Dương có viết bài "Việt Nam hay Đại Nam" ( Một vấn đề liên hệ tới quốc hiệu nước ta ) đăng trong tờ Chiêu Dương . Ông viết như sau : "... Chữ Việt trong danh xưng Việt Nam đã không được viết là Việt chỉ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây mà là Việt có nghĩa là vượt, một chữ mà các bậc lão thành cho là có nghĩa xấu vì nó hợp với chữ Tẩu có nghĩa là chạy và chữ Tuất chỉ một chi trong 12 chi tượng trưng cho chó". Cuối cùng nếu mê tín, dị đoan mà nói, một quốc gia mà mang tên những vượt và chạy do người ngoài đặt cho như vậy thì khó mà sống trong hòa bình, ổn định và đoàn kết xây dựng được. 2. Ông Phan Hưng Nhơn có viết bài " Nhận thức về một số suy luận mới về sử liệu Việt Nam" đăng trong tờ Viên Giác số 135 tháng 6 năm 2003 ( xuất bản ở Đức ). Ở trang 135 ông viết như sau : "... Đối với những bộ lạc sống vùng Nam man mà họ không mấy biết và cho rằng những bộ lạc nầy có lối sống hỗn độn. Nên người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man này mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài vòng lễ giáo của nhà Chu". Như thế danh xưng Việt người thời nhà Chu dùng đầu tiên và chỉ có nghĩa đơn giản như vậy. Sau đó ở trang 137 ông lại viết tiếp : "... Vì vậy từ thời thượng cổ cho đến cận đại, dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này không bao giờ chịu nhận mình là người Việt và từ xưa cho đến nay luôn luôn tự xưng mình là dân Nam, nước mình là nước Nam ( cho đến năm 1945 ). 3. Ông Hoàng Văn Chí có viết bài "Nguồn gốc dân tộc" ( đây là bài Tham Luận ) đăng trong tờ Chiêu Dương . Ông viết như sau : "... Chữ Việt có nghĩa là vượt qua , như việt quyền là vượt quá quyền hạn, việt ngục là vượt ngục. Người Hán dùng chữ Việt để chỉ những sắc tộc ở phía Nam sông Dương Tử, mà họ coi là thấp kém ví chẳng khác người Thượng hiện nay, họ không định cư ở một nơi để canh tác nông nghiệp. Cứ ở mỗi nơi vài năm, phá rừng làm rẫy, rồi hễ đất hết màu mỡ, lại vượt sông, vượt núi, di chuyển tới một khu rừng khác . Vì có nhiều sắc tộc Việt quá nên người Hán gọi hằm-bà-lằng tất cả là Bách Việt. Sau đó ông lại viết tiếp như sau : "... Rồi người Việt-nam được gọi tắt là Người Việt, làm cho nhiều người ngộ nhận chúng ta là một trong các sắc tộc Bách Việt bên Tàu. Đáng lẽ nên gọi là Người Nam . Chữ Nam đối chọi với chữ Bắc. Ta là Nam, Tàu là Bắc. 4. Ông Trần Hữu Lễ có viết trong tờ Viên Giác số 122 , tháng 4 năm 2001 ( xuất bản ở Đức ) dưới đề mục "một bọc trăm con". Ông có nhận xét như sau : ... Họ ( Cao Biền ) viết chữ Việt gồm hai bộ Tuất và Tẩu . Tuất là chó. Tẩu là chạy , với nghĩa xách mé, như một lời chửi rủa ... Có một chữ Việt khác gồm các bộ Phiệt ( gần giống âm Việt ), Quynh (miền đất ở xa ngoài cõi ), Mễ ( lúa gạo ), Khảo ( khéo léo ). Rồi ông giải thích như sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề trồng lúa một cách tinh xảo . Phải chăng đấy là ý người xưa. Chữ Việt này nhìn giống như một trái cây, có cuống , có quả , có nhiều hạt. Có quả có nhân, có nhân có quả... Ngoài phần phân tích chữ Việt , bài viết "Một bọc trăm con" của ông viết rất đầy đủ ý nghĩa. 5. Ông Huy Việt Trần Văn Hợi có viết bài "Chữ Việt" đăng trong tờ Tư Tưởng như sau : "... Nếu ta tách chữ Việt bộ Tẩu ra thì ta có một bên là chữ Tẩu là chạy, và một bên chữ Tuất là chó. Đó là họ muốn ghi chiến thắng của họ là đánh đuổi dân ta chạy về Phương Nam như đuổi chó vậy". Trong năm học giả ở trên thì có ba người cho chữ "Việt" gồm bộ Tẩu và chữ Tuất ,rồi chú thích là chó chạy ; còn hai người gọi Việt là vượt và cho đó là một cái tên thấp kém , sống vượt ngoài vòng lễ giáo, rồi đề nghị đừng gọi là người Việt mà nên gọi là người Nam ! Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho và chữ Nôm , thì chúng ta nên tin ai và bỏ ai đây ? Họ đúng hay sai, thật khó mà biết được vì tất cả đều phân tích giống nhau ! Vậy tổ tiên chúng ta không biết cái tên đó xấu hay sao mà lại chọn cái tên như vậy ? Chúng tôi tin tưởng rằng tổ tiên của chúng ta phải có lý do chính đáng để chọn cái tên "Việt", tuy nhiên đám con cháu không chịu tìm hiểu cặn kẽ rõ ràng rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân ! Với khả năng hạn hẹp và thô thiển , tôi cố gắng tìm lại nguồn gốc qua sự phân tích , dẫn chứng về chữ Việt . Biển học thì mênh mông mà sự hiểu biết của mình thì quá hạn hẹp , nếu tôi có gì sơ xuất hay sai sót thì xin các bậc cao minh chỉ bảo để tôi có dịp học hỏi thêm. Đầu tiên , chữ Việt được viết bằng chữ Nho. Chữ đó viết bằng hai cách : Việt và Việt Trước tiên để hiểu chữ Việt trên mang ý nghĩa gì, chúng ta thử tìm qua tự điển. 1. TÌM CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN Việt đây là chữ Việt đi với bộ Mễ . Muốn tìm chữ Việt này bạn lấy cuốn tự điển chữ Nho, hay cuốn tự điển Hán-Việt hoặc tự điển của Trung Hoa , lật tới bộ Mễ ( là bộ thứ 119 trong số 214 bộ ). Bộ Mễ theo cách viết gồm có sáu (6 ) nét hợp thành , hãy tra ở phần các bộ có sáu nét thì tìm ra bộ Mễ, sau đó tìm trong bộ Mễ ở phần 6 nét thì thấy chữ Việt nầy . Vì nó nằm ở bộ Mễ cho nên người ta nói chữ Việt bộ Mể là mang ý nghĩa như vậy. Việt đây là Chữ Việt bộ Tẩu ( là bộ thứ 156 trong 214 bộ ), bạn cũng làm giống như trên , tìm đến bộ Tẩu ( bộ 7 nét ) , rồi tìm đến phần năm nét của bộ tẩu thì thấy chữ Việt nầy . Sau khi tra tự điển tìm ra chữ Việt rồi , nay bạn và tôi thử tìm coi trong tự điển chữ Nho và tự điển Hán-Việt người ta giải thích thế nào về chữ Việt đó . Ở đây chúng tôi lấy tự điển Thiều Chửu để làm ví dụ . 2. GIẢI THÍCH CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN A. Việt , chữ Việt bộ Tẩu được giải thích như sau ( Tự điển Thiều Chửu trang 655 ) : 1. Qua , vượt qua 2. Rơi đổ 3. Nước Việt, đất Việt 4. Giống Việt : ngày xưa các giống Việt như Ư-Việt thì ở Triết Giang ; Mân-Việt thì ở Phúc Kiến ; Dương-Việt thì ở Giang Tây; Nam-Việt thì ở Quảng Đông ; Lạc-Việt thì ở nước ta, đều là Bách Việt cả. 5. Một âm là Hoạt : cái lỗ dưới đàn sắt. B. Việt , chữ Việt bộ Mễ được giải thích như sau ( tự điển Thiều Chửu trang 474 ) : - Nước Việt, đất Việt, cùng nghĩa như chữ Việt . Tĩnh Quảng Đông, Quảng Tây nguyên trước là đất của Bách Việt nên người Tàu gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt . - Bèn , tiếng mở đầu ( phát ngữ ), như Việt hữu là bèn có. Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho, có cố gắng mà tìm hiểu nguồn gốc, thì cùng lắm chỉ tìm được lối giải thích như trên . Trong tự điển chữ Nho , hay tự điển Hán-Việt hoặc tự điển thông dụng của Trung Hoa , người ta chỉ giải thích như vậy , chứ không có cuốn tự điển nào phân tích cái gốc của chữ Việt cả ! Vì không có sự phân tích chữ gốc từ tự điển , cho nên mọi người phân tích mỗi kiểu khác nhau, từ đó chúng ta không biết tin ai bỏ ai ! Bây giờ bạn và tôi thử phân tích coi chữ Việt đó như thế nào. 3.PHẦN PHÂN TÍCH CHỮ VIỆT. A. CHỮ VIỆT ĐI VỚI BỘ TẨU Trong các bài báo đăng trích ở trên thì phần lớn giải thích chữ "Việt" đi với bộ Tẩu và chữ Tuất ; tuy nhiên có một vị cho rằng đi với bộ Tuất và bộ Tẩu, ông không gọi chữ Tuất mà lại gọi là bộ Tuất . Để tránh hiểu lầm , chúng tôi xin thưa rằng không có bộ Tuất mà chỉ có chữ Tuất . Trong 214 bộ , không có bộ Tuất . Muốn tìm chữ Tuất , ta phải tìm bộ Qua ( là bộ thứ 62 của 214 bộ ) , chữ Tuất là thuộc 2 nét của bộ Qua ( tự điển Thiều Chửu trang 219 ). Ở đây có sự nhận định không rõ ràng giữa chữ và bộ . Cuốn tự điển Khang Hi lập thành vào năm 1716 sau Tây Lịch , gồm có khoảng bốn chục ngàn chữ , nhưng chỉ có 214 bộ .Vì số chữ quá nhiều , nên người xưa dùng bộ để xấp các chữ vào từng loại cho có thứ tự và để dể tìm, ví dụ tôi muốn viết chữ đó có liên quan với nước, thì tôi viết nó đi kèm với bộ Thủy ; tôi muốn viết chữ đó liên quan đến cây thì tôi viết kèm với bô Mộc , hay nói một cách khác là nếu tôi muốn tìm một chữ trong tự điển chữ Nho hay tự điển Hán-Việt thì việc trước tiên là phải biết chữ đó nằm ở bộ nào. Ở phần sau trong phần cấu tạo chữ Nho, chúng tôi sẽ giải thích vai trò của chữ và bộ khi họp lại với nhau. Các học giả ở trên nói rằng Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Tuất. Bạn và tôi thữ tìm hiểu chữ Tuất coi nó ra sao . Chữ Tuất , ( xin xem tự điển Thiều Chửu trang 219 ) ,nếu chúng ta nhìn kỹ chữ Tuất chúng ta thấy bên trái có cái gạch ngang . Vậy ngày xưa người ta viết chữ Tuất như thế nào và giải thích ra sao ? Chữ Tuất ngày xưa viết là có nghĩa là một cái qua có một nét khuyết xuống và một đường gạch ngang bên trái ; đường gạch ngang tượng trưng cho vết chém , hay vết thương mà người chiến sĩ gây cho kẻ thù của mình , từ đó nghĩa xưa của chữ Tuất là tấn công, gây thương tích , sát hại. Tôi xin nhắc lại cái qua là một loại binh khí ngày xưa . Sau nầy người ta mới đặt chữ Tuất là chi Tuất, là một chi trong mười hai chi. Như vậy chữ Tuất với ý nghĩa ban đầu không dính dấp gì với chó cả !
-
về việc các nhà khoa học nhận định người Việt thời các vua Hùng đóng khố cởi trần có thể do suy luận từ hình vẽ trên trống đồng. Nhưng những hình vẽ đó, theo Rin86, đã mô tả cảnh người Việt trong các lễ hội và nghi lễ tế thần chứ không phải trang phục mặc thường ngày. Từ nên văn minh Ai Cập cho đến nam Mỹ đều có một kiểu trang phục na ná nhau trong các nghi lễ còn trang phục mặc thường ngày rất khác. Có lẽ những trang phục đó liên quan đến các huyệt đạo trong một môn võ công, yoga... hay để dễ dàng thông linh khi làm lễ (như hiến sinh chẳng hạn, về bản chất và công dụng có lẽ việc hiến sinh giống như thả chim phóng sinh là lợi dụng năng lượng của những linh hồn đó, nên mới có nhiều loại như hiến bò, dê, trâu... để làm mưa, thay đổi thời tiết, hiến người, đặc biệt là trinh nữ để tác động đến những việc lớn hơn, đó là mặt tối của nền văn minh cổ Atlantic đã bị tiêu diệt, theo cổ sử thì dân Atlantic là giống dân vô đạo nên bị thượng đế trừng phạt, dân tộc Lạc Việt có lẽ đã không có những nghi lễ dã man nên ko bị trừng phạt, vì trên trống đồng chỉ thấy có hiến tế bò thôi)
-
trong phần tiểu dẫn "Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành" Nguyễn Du viết: "Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời. Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộp nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng." Qua những trang viết quý báu của Nguyễn Du ta thấy phụ nữ ngày xưa biết trang điểm, biết ăn mặc rất kiểu cách cầu kỳ. Bằng chứng là một người "má bầu, trán dô, mặt gẫy" biết cách trang điểm sao cho ưa nhìn, nghệ thuật trang điểm thời bấy giờ có lẽ cũng khá đa dạng, không rõ những dụng cụ thời ấy ra sao, Rin86 chỉ duy nhất một lần nhìn thấy cái nhíp đào được ở hoàng thành Thăng Long, nhìn nó rất khác cái nhíp bây giờ. Không hiểu phấn thời cụ Nguyễn Du làm bằng chất liệu gì, còn son thì không rõ dùng... làm gì vì ai cũng ăn trầu nên môi luôn đỏ. Người phụ nữ "ăn chơi" thời xưa cũng không thua gì bây giờ, người ca kỹ trong bài thơ này uống rượu ở nhà người khác nằm lăn ra đất! thật hết biết. Cuộc sống của ông cha ta thời xưa đã phát triển về nhiều mặt rất phong phú, nhưng nếu không có sự tái hiện lại thì e rằng người thế hệ sau không ai tưởng tượng được. Không hiểu người xưa ăn mặc như những tấm ảnh của bác Thiên sứ có bị cho là hở hang không chứ người bây giờ cho thế là.... hư, bây giờ không ai dám mặc yếm ra đường.
-
Thuyền truyền thống của sắc tộc Tao ở Đài Loan, trước đây thì những sắc tộc trên những hòn đảo nhỏ cạnh Đài Loan chẳng thuộc quốc gia nào cả, không biết những chiếc thuyền này có liên quan đến Nhật Bản và Việt Nam không vì Đài Loan gần Nhật Bản. Nguồn BBC
-
với câu hỏi có không thì quẻ nào là có quẻ nào là không ạ? Những quẻ tốt hẳn hoặc xấu hẳn như Hưu Lưu niên hoặc Khai Tốc Hỷ thì chắc chắn là không và có rồi còn quẻ như Cảnh Vô Vong thì là luận là có hay không ạ? I'm really confuse :(
-
Rin86 tìm mãi mới thấy được tấm ảnh này trên báo Tuổi trẻ đế so sánh với trang phục Nam Mỹ, Lúc nhìn thấy tấm ảnh cụ già Maya ở Quatemala độ khăn Rin86 thấy ngờ ngợ, rất giống các vấn khăn của người dân tộc miền núi Việt Nam, màu sắc và hoa văn dệt trên vải cũng tương đồng, nhưng tìm mãi mà không thấy tấm ảnh nào giống như trong trí nhớ :P . Nhìn qua ta thấy nhiều nét tương đồng giữa cụ già người Dao và cụ già ở Quatemala. Có lẽ những dân tộc ít người sống trên núi cao miền Bắc Việt Nam, ở Tây Nguyên hay Lưỡng Quảng Trung Quốc, vì ít tiếp xúc với ngừoi Hoa nên vẫn giữ được nguyên vẹn lối phục sức, công nghệ dệt vải, những ngành thủ công truyền thống từ thời đại các vua Hùng các đây khoảng 5000 năm hình đầu tiên là cụ già người Dao, hình thứ hai là cụ già Quatemala. Màu sắc và hoa văn thêu trên vải có nhiều nét giống nhau, cách vấn khăn cũng giống nhau. Họ đều sử dụng những màu sắc cơ bản, họa tiết hình học, vải dệt thô kiểu thổ cẩm.... Nét tương đồng thấy rõ. Hy vọng mọi người có nhiều hình ảnh về các dân tộc miền núi Việt Nam, trong trí nhớ của Rin86 thì trong mỗi buổi chợ, phụ nữ các dân tộc ít người vấn những chiếc khăn xanh lá mạ, hồng theo cách rất giống người Quatemala.
-
Phòng tuyến sông Như Nguyệt bị đánh chiếm bởi các lò gạch! Phòng tuyến sông Như Nguyệt – trận địa bất hủ trên sông đã mang lại chiến thắng hiển hách trong cuộc chống quân Tống xâm lược (1075 - 1077) giành lại non sông Đại Việt, đồng thời cũng đặt dấu mốc quan trọng cho một thời kỳ thịnh trị, tự chủ của triều đình phong kiến Đại Việt trong “đêm dài” Bắc thuộc. Nó gắn mãi với tên tuổi của Lý Thường Kiệt, người đã lưu danh sử sách với “bản Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên bằng bài thơ thần bất hủ “Nam quốc sơn hà”. Ngót 1.000 năm đã đi qua. Con sông Cầu huyền thoại ấy, dù có bên bồi bên lở, thì cũng không đổi dòng! Thế nhưng, ít ai có thể ngờ, cả dòng sông mẹ hùng vĩ, cả những chứng tích lịch sử hào hùng kia, đang phải rên xiết vì sự tàn phá của con người. “Sa tặc” và… các chủ lò gạch đang từng ngày, từng giờ giết chết những di tích lịch sử “phòng tuyến sông Như Nguyệt” năm nào! Sự thực đau xót ấy, khiến những người nặng lòng và có trách nhiệm với quá khứ, không khỏi “xót xa như rụng bàn tay“. Công trường lò gạch sẽ tàn phá khu di tích?! Công trường lò gạch trên điểm di tích bãi Miễu Phòng tuyến sông Như Nguyệt được Lý Thường Kiệt dựng lên giống như một bức bình phong phòng thủ vững chắc, cách cửa ngõ đi vào thành Thăng Long chừng ba mươi dặm. Nó dựa vào thế núi, sông, đồng trũng, ruộng lầy, kéo dài từ chân núi Tam Đảo đến Lục Đầu Giang. Trên dòng sông Như Nguyệt xưa (nay là sông Cầu), đoạn đi qua địa phận huyện Yên Phong (Bắc Ninh) gồm các xã Tam Giang, Tam Đa có chiều dài hơn 10 km đường đê, xuôi xuống Thị Cầu. Ven theo mái đê sông Cầu, đồng thời cũng là phòng tuyến sông oanh liệt ấy, những di tích liên quan đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, gồm hệ thống các đền, chùa, các trại tập trung quân, các kho hậu cần, lương vận… phục vụ cho trận chiến. Chỉ riêng xã Tam Đa (Yên Phong - Bắc Ninh), trên 2km đê đã có tới 8 điểm được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử. Điều ấy cho thấy, tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử của phòng tuyến có tầm quan trọng làm nên chiến thắng quyết định của quân và dân nhà Lý, không chỉ là huyền thoại trong sử sách, mà nó hiện hữu ở những địa danh, những dấu tích…, như một chứng tích cho lòng tự hào, tự tôn muôn đời của chúng ta. Đường vào khu di tích Thế nhưng! Miễu Thọ Đức – một trong những điểm quan trọng của phòng tuyến sông Như Nguyệt năm nào – thuộc thôn Thọ Đức (xã Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh). Theo sử sách, cánh quân tại bãi Miễu có nhiệm vụ chặn mũi tiến quân của giặc từ phía núi Tiêu Lát tràn sang và làm nhiệm vụ ứng cứu cho 2 cánh quân ở khu vực Như Nguyệt và Thị Cầu. Xưa, Miễu Thọ Đức nguyên là một doi đất cao, và nằm ở phần trong đê (phía khu dân cư). Tấm biển của khu di tích Trận lụt cách đây vài chục năm đã phá vỡ tuyến đê cũ. Chính quyền địa phương phải đắp con đê mới, thành ra, Miễu Thọ Đức lại nằm ở phần ngoài đê (tiếp giáp với sông Cầu). Tuy nhiên, Miễu vẫn đường bệ đứng trên doi đất cao. Từ Miễu ra đến bờ sông Cầu là một bãi bồi mênh mông. Từ Miễu vào đến phần chân đê cũng là một khoảng đất rộng mênh mông như thế. Những tưởng, với vị trí “an toàn tuyệt đối” này, di tích lịch sử Miễu Thọ Đức sẽ chẳng bao giờ có nguy cơ bị xâm hại, trừ phi đó là cơn giận dữ của thủy thần sông Cầu ! Mấy chục năm nay, sông Cầu hiền lắm. Cái họa thiên tai không còn là nỗi lo ngại lớn nhất. Thế nhưng, sự “an toàn” ấy, chỉ là trong các cuốn biên niên sử và trong những lời… truyền miệng. Miễu Thọ Đức bây giờ là một… ốc đảo, giữa nham nhở điệp trùng những lò gạch, những khói than, khói bụi khiến Miễu bị cô lập với khu dân cư và đứng trước nguy cơ bị xâm hại! Sơ đồ phòng tuyến sông Như Nguyệt Mặt trời chính ngọ. Chúng tôi xuống “hiện trường” (nói theo cách nói của anh Thu, trưởng thôn Phấn Động) thăm Miễu Thọ Đức. Thấp thoáng từ phía xa, những tháp lò nung gạch sừng sững và dày đặc. Hàng trăm lò gạch từ nhiều năm nay miệt mài khoét đất “đưa vào khuôn khổ” để cung cấp vật liệu dân sinh. Nghe đâu, lò gạch Thọ Đức cung cấp gạch cho toàn bộ Thành phố Bắc Ninh và các vùng lân cận. Mấy năm gần đây, các khu công nghiệp mọc lên nhan nhản, nhu cầu xây dựng càng lớn. Gạch Thọ Đức càng được mở rộng mức “cầu”. Một chòm xanh xanh nổi lên lẻ loi giữa những hố đất khoét nham nhở như vũng ao. Anh Thu bảo, đó là Miễu Thọ Đức – điểm chặn giặc lẫy lừng của Lý Thường Kiệt ngày xưa. Lách xe vào con đường ton hỏn rải cấp phối, bị các xe KAMA, xe công nông “ăn gạch” cày nát và phủ lên đó lớp bụi đỏ quạch. Chừng vài trăm mét, bắt gặp tấm biển báo: “Di tích lịch sử quốc gia: Miễu Thọ Đức” đứng chơ vơ bên vệ đường, bị mưa nắng, bị bụi gạch, bị những lưỡi xẻng khoét đất vào tận đến chân bê tông của tấm biển, khiến nó nghiêng hẳn sang một bên và long chong như kiểu trẻ con đang chơi trò bập bênh. “Đường vào di tích bãi Miễu như thế đấy. Trước, cả khu bãi bồi này xanh ngút ngàn. Tụi trẻ con chúng tôi chạy cả chiều không hết. Khi ấy, Miễu đẹp lắm!” – anh Thu nói. Cái thời gian mà anh Thu ước lượng bằng ngôn từ chung chung ấy, là cái khoảng thời gian thôn Thọ Đức chưa nghĩ ra “ý tưởng” cho các chủ lò gạch thuê đất lâu năm để khai thác sản xuất gạch nung. Từ khi thôn nảy ra sáng kiến này để lấy nguồn thu làm các công trình phúc lợi (đường xá, nhà văn hóa, nhà trẻ… của thôn), thì bãi Miễu tan hoang như một trận địa. Ngoại trừ con đường vào Miễu (nếu như không phải là lối đi cho các xe vào ăn hàng tại các lò gạch), thì hẳn nó cũng bị khoét nham nhở để lấy đất… làm gạch. Xã biết chuyện thì sự đã rồi. Mà cái hợp đồng ấy, cũng từ đời các thôn trưởng, chủ tịch xã trước. Anh Nhật – trưởng thôn mới lên được 2 năm của Thọ Đức, không “dính líu” gì đến cái hợp đồng này. Xã cũng “chịu”, vì thời hạn hợp đồng chưa hết. Các chủ lò khai thác hết đất, tiếp tục khai thác cát. Thành thử, “mặt tiền” của Miễu Thọ Đức lổng chổng những hố nước, những vũng, những “ao”… và lôm nhôm trận địa “lò gạch”. Đứng trên mặt đê, Miễu cô lập như một “ốc đảo”! “Có đến vài chục chủ lò gạch cùng chung sức khoét đất bãi Miễu, anh bảo làm sao mà không hết được. Cứ cường độ khai thác này, chỉ mươi năm nữa, có muốn sang Miễu, chắc phải đi đò!”. “Đỉnh núi bên kia là nơi quân Tống đóng quân!” Sự lo lắng của anh Thu không phải không có căn cứ. Mặt trước của Miễu là sông Cầu án ngữ. Đoạn sông trước Miễu là đoạn ngắn nhất, nhưng sâu nhất của sông Cầu, và cũng là điểm trọng yếu của trận tuyến ngày xưa. Bên kia sông là xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên, Bắc Giang). Tương truyền, đỉnh núi sừng sững trước mặt (có tên gọi núi Tiêu Lát), là nơi giặc Tống chiếm đóng. Chúng đã tìm ra được đoạn sông ngắn nhất bắc cầu phao sang hòng đánh úp trại lính của nhà Lý tại Thị Cầu và Như Nguyệt (chạy thẳng theo đường đê chừng hơn cây số). Chỗ giặc Tống chọn xây cầu phao, có một tảng đá to như cái nhà 5 gian. Vài năm trước, một tàu cát đi qua va phải tảng đá ngầm, bị đắm. Người ta cho mìn, bộc phá xuống đánh tan tảng đá, lấy dòng thủy lưu cho tàu thuyền. “Tiếc lắm, tiếc lắm!”. Anh Thu tặc lưỡi xuýt xoa như thạch sùng. “Tảng đá ấy có tên gọi đá Can Vang. Theo cách suy luận “hiền lành” của anh, thì tảng đá ấy cũng là một phần của phòng tuyến sông Như Nguyệt xưa, nó cũng phải được ghi vào danh sách “di tích lịch sử” cho… công bằng, chứ không phải vì một chiếc tàu ăn hàng đâm phải, mà nó bị phá tan hoang như thế!? Xây nhà trên đất đền! Chếch đền Miễu chưa đầy 1km, di tích lịch sử đền Phấn Động (thôn Phấn Động – xã Tam Đa) lại chịu một số phận khác. Di tích này cũng được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1980, do Thứ trường Bộ Văn hóa - Thông tin ký ngày 18/01/1980 theo quyết định số 28 – VH/QĐ. Tuy nó không bị khai thác để làm gạch, song đất xung quanh khu di tích đã bị người dân biến thành đất dân sinh. “Trước, chỗ này là bãi hậu cần mang tên Yên Ngựa của cụ Lý Thường Kiệt đấy!”. Đền Phấn Động nằm lọt thỏm giữa xung quanh các hộ dân, chỉ chừa lại con đường dẫn xuống khu di tích được xây thành bậc cấp và mặt trái của đền tiếp giáp với sông Cầu. Những hộ dân này, nguyên là các hộ được chuyển xuống theo kế hoạch di dân khi xã xây dựng hệ thống thủy lợi từ năm 1998. Xã cho cán bộ xuống nói chuyện “khó dễ” để các hộ di dời, nhưng không ai chịu đi vì “đã được cấp sổ đỏ”. Nhưng, lý do chính theo anh Nguyễn Văn Thu (trưởng thôn Phấn Động), là vì đất mặt đê bây giờ đã lên đến 80 triệu đồng/suất. Chẳng ai chịu di dời là một lẽ đương nhiên, cho dù hầu hết các nhà dân ven đê đều vi phạm đến hành lang an toàn đê sông một cách nghiêm trọng. Năm 2000, khi Ban quản lý tôn tạo lại đền đã phát hiện một ngôi mộ cổ, hài cốt đựng trong một chiếc chum sành, nắp đậy bằng chiếc chậu đồng, xung quanh là lớp nền gạch móng… Chính quyền cho chôn cất lại, rồi xây lăng cẩn thận. Nay, cả ngôi mộ cổ này cũng được hộ anh Nguyễn Văn Cường (một trong những hộ nằm trong phương án di dời) quây lại bằng bờ tường rào, nghiễm nhiên “trưng dụng” cả ngôi mộ cổ thành “tài sản” của mình! Xã đòi, anh Cường cũng không chịu trả lại cho đền. Trời không chịu đất, đất phải chịu trời. Chỉ có các cụ trong Ban quản lý di tích là rầu rĩ nhất! Bây giờ thì di tích lịch sử đền Phấn Động đã nằm lọt thỏm giữa khu dân cư. Anh Cường đã đổ móng nhà ra tít phía ngoài sông. Có lẽ, anh chưa dám dựng hết, vì ngôi mộ cổ đã được xã dựng thành miếu. Mặt trước, mặt sau của đền, đất đều đã có chủ. Nếu cả 4 xung quanh đều dựng nhà, người ta sẽ phải xuống khu di tích bằng một con ngõ nhỏ xây theo bậc tam cấp, chạy từ mặt đê chạy xuống… “Tôi đau đầu lắm. Cả tháng trời nay, cứ cuối tuần lại hớt hải từ xã về thôn để họp bàn với các cụ bô lão trong Ban quản lý di tích. Chuyện người ta làm gạch, chiếm dụng đất đê, đền Phấn Động làm đất thổ cư, nó lâu rồi, nên cũng quen. Đau đầu nhất, là cái “vấn nạn mới” vừa phát sinh kia kìa…”. Anh Thu thở dài thườn thượt, rồi trỏ tay ra hướng mặt sông. Ngoài ấy, giữa lòng sông Cầu mênh mông, có những chiếc thuyền cắm giữa lòng, cặm cụi như đang ngủ… “Đấy là những chiếc thuyền “sa tặc” tàn phá dòng sông, và há mồm muốn nuốt chửng các di tích của Phòng tuyến sông Như Nguyệt!”… Quá trình xây dựng và chiến công của Phòng tuyến sông Như Nguyệt Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không đến. Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống, nhưng quân Tống muốn phát huy kị binh thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, thì ngựa mới tung hoành được. Thế thủ của quân Nam thì dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Bắc Giang ngày nay. Đèo ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kị binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi qua rừng để tránh. Còn sông sâu rộng, thì ngựa khó lòng qua nổi. Phòng thủ sông khá dễ, đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ Nam, cũng đủ ngăn quân địch. Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu, Lưu Kỷ coi Quảng Nguyên khi quân Tống sang đã đầu hàng. Duy có phò mã Thân Cảnh Phúc giữ châu Quang Lang (Lạng Sơn) không những không chịu hàng mà còn rút vào rừng đánh du kích, giết rất nhiều quân Tống. Những tướng lĩnh này trước kéo quân qua đất Tống, đánh rất giỏi. Nhưng sau quân Tống tràn sang đánh báo thù, lúc đầu họ cự chiến, sau vì thất trận và vì sự dụ dỗ, nên đã đầu hàng, thậm chí như Hoàng Kim Mẫn còn chỉ đường bày mưu cho Tống. Sách Quế Hải Chí kể: \"Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong rừng Động Giáp, rồi du kích hậu phương quân Tống. Rình lúc bất ngờ đánh úp quân địch làm chúng rất sợ hãi\"http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Th%C6...ote-13#_note-13. Quân Tống tiếp tục tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến bể, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi. Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng thẳng và gần. Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long. Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị thủy quân Nam do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. \"Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan\". Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống cũng giết được hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần. Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin \"nghị hoà\" để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng \"Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào\". Hoàng Xuân Hãn, tác giả sách Lý Thường Kiệt đã bình phẩm: \"Giả như các mặt trận đầu có quân trung châu, thì thế thủ xếp theo trận đồ của Lý Thường Kiệt đã dàn ra, có lẽ đánh bại Tống từ đầu. Nhưng thổ quân các châu vội hàng trước đại quân Tống. Quân tiên phong không giữ nổi các ải. Cuối cùng là nhờ phòng tuyến sông Cầu khéo đặt, và thủy quân ta mạnh cho nên Lý Thường Kiệt đã ngăn cản được sức tiến công quyết liệt của Tống\". Tư liệu lịch sử. Minh Minh (Vietimes) [/size][/font]
-
Kéo cày trả nợ Chuyện nầy trích ở "Chuyện cổ nước Nam". Dầu rằng, người ta có thể bảo chuyện cổ là chuyện bịa đặt, nhưng thấy tác giả tin tưởng Luật Nhơn Quả và có dụng ý khuyến thiện, chúng tôi mượn chép ra đây: Xưa có một người tên Châu Văn Ðịch, làm ăn vất vả, cửa nhà đói kém, nhưng tánh khí hiền lành, ăn ở thật thà có nhơn, có đức. Trong hạt có một nhà giàu thường cho người ấy vay nợ, năm nào cũng vậy, vay vay, trả trả đã nhiều. Gặp năm mất mùa, người ấy không trả được nợ, mà ông nhà giàu cũng không hỏi đến. Mấy năm sau, người ấy chết đi, nợ vẫn còn lại. Nên lúc hấp hối còn trối với con rằng: "Nợ nần chưa trả cho ai, Hồn nầy thác xuống tuyền đài chưa yên". Một đêm, ông nhà giàu kia nằm mơ, nghe có tiếng người nói ở bên tai rằng: "Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai". Sáng ra ông thấy con trâu đẻ ra được con nghé trên lưng có hai chữ "Văn Ðịch". Con nghé mỗi ngày một lớn, khôn ngoan dễ bảo, cày bừa rất khỏe. Người biết chuyện, ai cũng bảo rằng: "Người ăn thì còn, Con ăn thì hết. Ðã đến lúc chết, Hãy còn nhớ ơn". Cách ít năm, hai đứa con Văn Ðịch khôn lớn lên, làm ăn nhờ Trời cũng khá. Một hôm đang cày ngoài đồng, nghe thấy ở thửa ruộng gần đấy có người bảo con trâu rằng: - Văn Ðịch! Văn Ðịch! Nhanh chơn, mau bước, kẻo đã trưa rồi. Hai đứa con nghe kêu tên cha, ngạc nhiên chạy sang bên ruộng hỏi thì người kia nói rằng: - Con trâu nầy từ lúc sanh ra, trên lưng có hai chữ "Văn Ðịch", mà có gọi đúng tên nó như thế, thì nó mới chịu làm. Lúc về hai đứa con vội vàng sang nhà ông nhà giàu hỏi chuyện tỏ ý muốn mua con trâu, thì ông ấy bảo rằng: - Trước tên "Châu Văn Ðịch" có vay nợ ta, không trả được ta cũng không đòi? Có lẽ gì vậy, mà phải hóa kiếp làm con trâu nầy trả nghĩa cho ta. Ðã mấy năm nay nó làm ăn chịu khó, trong nhà ta đây cũng được thạnh vượng. Nó trả như thế, ta cho cũng là đủ rồi. Vậy hai người có phải là con, muốn mua chuộc về thì ta để lại cho. Ta lại trả cả văn khế cũ đem về mà hóa kiếp cho yên hồn cha. Khi hai đứa con chuộc được con trâu về, vừa đem tờ văn khế ra đốt, thì nó lăn ra chết. Thế là nó đã trả sạch được nợ kiếp trước rồi. Thấy chuyện nầy, người ta mới đặt câu "Kéo cày trả nợ" thành câu tục ngữ.
-
LINH SỐ 12 Người viết: Dã Trung Tử Trong lãnh vực tôn giáo, thì con số 12 được coi là linh số của Thượng Đế. Theo chơn truyền Cao Đài giáo thì tầm quan trọng của con số 12 như sau: - Trong Thánh giáo dạy về Lễ bái, Đức Chí Tôn đã nói về con số 12 như sau: “Lạy Thầy 12 lạy là tại làm sao ? Các con không biết đâu … Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn thế giới, nắm trọn Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy” (Thánh giáo ngày 25 / 2 / 1926 / TNHT / Q1 / Tr. 9 - 10). - Trong Thánh giáo dạy về phổ độ Đức Chí Tôn đã dạy mỗi môn đệ phải độ được 12 người: “Chư môn đệ đã lập minh thệ rồi ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng, hay tội lỗi mà giáng, song mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là 12 người”(Thánh giáo ngày 27-08-1926 / 20 tháng 07 Bính dần / TNHT / Q1 / Tr. 39). - Trong Phương pháp Luyện tập thân thể Đức Hộ Pháp đã dạy tập 12 thế vận động, mỗi thế làm 12 lần, cũng như luyện thở có chỉ huy chỉ 12 hơi mà thôi. Đức Ngài đã dạy rằng: “Nên nhớ con số 12 là con số đặc biệt của Đức Chí Tôn . Trong đó 12 con Giáp linh diệu cũng là Thập nhị thời thần” (12 bài luyện tập thân thể). “Thầy nắm trọn Thập nhị Thời thần vào tay, rồi mới khai thiên lập địa”(Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh Tây ninh ngày 14-2 Mậu thìn /5-3-1928 ). Theo kinh nghiệm những người đã ứng dụng theo Phương pháp luyện tập nầy, thì chi cần làm đúng con số 12 thì không bao giờ gặp sự phản ứng nào bất lợi cả. - Trong buổi đầu khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn đã thâu nhận 12 người làm môn đệ đầu tiên, để truyền bá mỗi Đao. Cũng như về sau Đức Chí Tôn đã tấn phong 12 vị Thời quân Hiệp Thiên Đài làm tướng sói của Thầy để làm đồng tử (cầu cơ chấp bút). - Khi khai Thánh Giáo Chúa Jesus cũng đã chọn 12 môn đệ để truyền đạo. - Về phương diện tâm linh Đức Thich Ca đã tìm ra 12 nguyên nhân gây nên sự đau khổ cho con người gọi là “thập nhị nhơn duyên” Trong Thập nhị nhơn duyên, cái này sinh ra cái kia và cứ liên tiếp nhau như một xâu chuỗi. Mười hai nhơn duyên, cứ theo thứ tự, xin kể ra đây: 1.- Vô minh: nghĩa là tối tăm mê muội. 2.- Hành: nghĩa là hành động. 3.- Thức: nghĩa là nhận thức, biện biệt. 4.- Danh sắc: nghĩa là hình danh, sắc tướng. 5.- Lục nhập: nghĩa là sáu giác quan, gồm có ngũ quan là mắt, mũi, miệng, tai, tay thêm giác quan thứ sáu là trí tuệ. 6.- Xúc: Nghĩa là cảm xúc. 7.- Thọ: nghĩa là cảm giác tiếp thọ của ngoại vật. 8.- Ái: nghĩa là yêu mến, tức là lòng tham dục. 9.- Thủ: nghĩa là ham mê, quyến luyến sự sống 10.- Hữu: nghĩa là có xác thân có sống ở đời. 11.- Sanh: nghĩa là sanh ra ở cõi đời này 12.- Lão tử: nghĩa là già rồi chết. Những nhơn duyên ấy quan hệ với nhau đại thể như thế này: Vì mê muội (vô minh) mới sanh ra hành động (hành), có hành động sanh ra nhận thức (thức) v.v... Ngày nay chúng ta còn nhận thấy con số 12 còn hiện diện trong cả các lãnh vực khoa học tự nhiên, khoa hoc nhân văn và cả trong khoa học thực nghiệm nữa: - 12 giờ là nửa vòng của quả đất quay trên trục của nó tạo ra ngày đêm, sáng tối, âm dương. - 12 tháng là một vòng quay của quả đất theo quỷ đạo của nó quanh mặt trời, tạo ra bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. - 12 địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người xưa cho rằng: Thiên sanh ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Nên về mặt huyền vi nó kết hợp với 10 Thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu,Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý biểu tượng cho cơ sanh hóa: “Thập Thiên can bao hàm vạn tượng, Tùng Địa chi hóa trưởng Càn khôn”. (Phật mẫu chơn kinh) - Về mặt ứng dụng con số 12, Đông phương đã dùng 12 Địa chi kết hợp với 10 Thiên can để làm cơ sở cho các khoa nhân văn sau đây: * Chế ra lịch (âm lich) để tính giờ, ngày, tháng, năm…và tiên lượng sự biến chuyển thời tiết khí hậu trong năm, như ngày nào đó là tiết Đại hàn (lạnh nhiều), Đại thử (nắng gay gắt), Tiểu tuyết (tuyết rơi ít), Đại tuyết (tuyết rơi nhiều) v.v… * Âm lịch còn kết hợp với Dịch lý làm cơ sở cho các khoa: Dự đoán học (bói toán), Thái ất, Đôn giáp, Tử vi đẩu số (chiêm tinh Đông phương). - Phương Tây cũng chia Hoàng đạo làm 12 cung, và gọi các chòm sao ở mỗi cung bằng các tên: * Aries (Bạch dương). * Cancer (Cự giải). * Lbra (Thiên bình). * Capricornus (Ma kết). * Taurus (Kim ngưu). * Leo (Sư tử). * Scorpius (Thiên hát) * Aquarius (Bảo bình). * Gemini (Song tử). * Virgo (Thất nữ). * Sagitarius (Nhân mã). * Pices (Song ngư). - 12 cung còn có mặt trên địa bàn của khoa Tử vi Đông phương (Trung hoa cổ). Còn hiện diện trong 12 cung của khoa Chiêm tinh Tây phương (Hy lạp cổ), tiên đoán vận mạng con người, sinh gặp cung nào thì vận mạng sẽ ra sao, khá chính xác. - Trong cơ thể con người có 12 đường kinh lạc, xuất phát từ 12 tạng phủ, phân bố khắp cơ thể, lại có nhịp độ sinh học thịnh suy tương ứng với 12 giờ phương Đông như Phế (phổi) thịnh vào giờ Dần (3 đến 5 giờ sáng), Vị (dạ dày) thịnh vào giờ Thìn (7 đến 9 giờ sáng) v.v… - Theo khoa giải phẩu sinh lý học hiện đại, thì con người có 12 đôi thần kinh xuất phát từ sọ não, phân bố lang thang khắp cơ thể, chi phối sự linh thông sáng suốt của con người. - Trong hóa học hữu cơ hiện đại, con số 12 có mặt trong phân tử hình thành hợp chất sống, đó là phân tử hữu cơ vòng của đường Glucose có công thức C6 O6 H12. - Trong sự cấu tạo vật chất, khoa vật lý học hiện đại đã tìm ra 12 thành phần cấu tạo cơ bản của vật chất trong đó có 6 lepton, 6 quart (Theo The Tao of Physic). * * * Như vậy đối chiếu giữa huyền linh và khoa học về tầm quan trọng của con số 12, cho ta một nhận định rằng “Thượng Đế có mặt ở khắp mọi nơi, và chi phối mọi hiện tượng” từ sự cấu tạo nên hạt tiềm nguyên tử cho đến vòng quay của địa cầu. nguồn: http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/linhso12.htm
-
Trống minh khí là gì ạ? Cháu nghe nói đến tục giết trống vì trống đồng có linh hồn, linh hồn của trống có phải là minh khí? Liệu có tế con gì đó để linh hồn của nó biến thành linh hồn của trống không nhỉ?
-
anmay viếtÝ Rin86 là sau khi về chầu vua Hùng họ hãy đợi đấy!
-
môn Vovinam là một võ phái mới, môn này là sự tổng hợp những kết tinh của võ học cổ truyền dân tộc, trong đó nó còn bảo tồn được cách sử dụng một loại kiếm cổ nhưng không rõ là cổ đến mức nào đây là bộ kiếm trong một lớp học vovinam ở Pháp. kiếm Nhật Và đây là trang wed Việt Vũ Đạo quốc tế: http://www.vietvudao.com
-
ồ! vậy ra trống đồng cũng là một đồ hình malenda? Thảo nào nó giống lịch của người Maya, Aztec.... Nhưng tại sao người Ai Cập không sử dụng đồ hình này nhỉ? :rolleyes: người xưa dùng những nét kẻ, zích zắc trên trống đồng vì họ hiểu rõ ý nghĩa của chúng, nhìn thì đơn giản nhưng ý nghĩa thật sâu xa. :rolleyes:
-
Anh Doremon rất hay úp mở, có phải vì theoo truyền thuyết về những người tới từ phương Đông của Tây không? Người Tây Âu di cư đến châu Âu ngày nay và đặt tên nước mới theo nước cũ, kiểu giống người Wales di cư đến Mỹ đặt tên nước mới là New soulth wales?
-
Vậy ra ở Trung Quốc chữ viết có trước tiếng nói sao? Vì lượng chữ nhiều hơn lượng âm tiết, cùng một âm tiết mà diễn tả nhiều ý nghĩa vậy nên có nhiều chữ khác nhau để diễn tả những ý nghĩa khác nhau của cùng một âm tiết!!! Sao ngược đời vậy? Nếu hiểu rõ nghĩa của từng chữ thì phải có âm tiết riêng cho từng chữ một chứ? Có phải chăng là chữ có trước, tiếng nói có sau, vì đọc chữ hiểu nghĩa nhưng phát âm không chuẩn nên những chữ diễn tả âm tiết gần nhau nhưng nghĩa khác nhau bị đánh đồng làm một, cứ lơ lớ cả. Thành ra vài vạn chữ (91,251 chữ) mà chỉ có 420 âm tiết, thật quá sức ít ỏi, kể cả ghép chữ để tạo thành từ thì tiếng Hán cũng có rất nhiều từ đồng âm dị nghĩa, thật là một sữ khập khiễng kỳ lạ.