Rin86

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    968
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by Rin86

  1. Cháu nghĩ ta cứ hỏi người này về tương lai chữ khoa đẩu. Vì bây giờ cháu thấy những cố gắng của chúng ta nhằm quảng bá chữ khoa đẩu cũng như nền văn hiến Việt chưa đạt được kết quả mong muốn. Thử hỏi ông ta xem chữ khoa đẩu sẽ được đưa vào trưởng học sau bao nhiêu năm nữa, 10 năm, 20 năm? Và liệu thế giới có công nhận nền văn hiến Việt 5000 năm không? và trong bao lâu sẽ công nhận? Liệu đến lúc đó ta còn sống không? Ví dụ như nước Anh chẳng hạn. Cháu nhằm đến nước Anh nên muốn biết có kết quả gì không? Vì nước Anh là một nuớc phát triển, tiếng nói của các nhà khoa học Anh có trọng lượng mà Anh quốc chưa hề có thù oán gì với Việt Nam cả.
  2. Tiếng trống đồng Mê Linh Trương Thái Du Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005 Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng. Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh. Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi tìm hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng rãi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau: 1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. 2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi. 3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn. Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết. Mùa xuân 2005, tròn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ mình vì nước, xin được viết bài này như nén hương lòng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của mình làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nhìn khác đi với hình ảnh sáo mòn vay mượn “phất cờ khởi nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lãnh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam. 1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền? Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi? Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy. Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm. Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất Trương Thái Du Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu”. Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu. Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi. 2. Một cách lý giải toàn cảnh Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán. Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi. Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.” Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung. Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được. Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh. Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình. Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận. Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức. 3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này. Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km. Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1]. Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên. Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền. Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [2]”. Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu. Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử. Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần. 4. Vua Bà và trống đồng Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy. Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương. Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử. Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện. 5. Kết luận Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã. Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào. Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược. Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi. Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà. Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Chú thích [1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org [2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html [3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au Nguồn BBC
  3. nghe nói bạn đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Mình rất thông cảm với hoàn cảnh của bạn, nhất là mẹ bạn bị người ta chèn ép. Mới học LVDT nên xin giúp bạn một quẻ. Liệu bạn có thoát khỏi tình trạng này không và bao giờ? giờ Thìn ngày 10 tháng 8 năm Kỷ Sửu quẻ Khai Xích Khẩu: Bạn sẽ thoát khỏi hoàn cảnh này nhưng không phải một sớm một chiều mà nhanh thì 4 tháng nữa mà chậm thì 9 tháng nữa.

  4. Em mới học Lạc Việt Độn Toán nên không tự tin lắm nhưng xin mạo muội giúp anh một quẻ. Giờ Sửu ngày 10 tháng 8 âm lịch quẻ Cảnh Đại An: hoàn cảnh thuận lợi, nội tại vững chắc => lợi nhuận chắc chắn được đảm bảo. Chúc anh thành công.
  5. Nhìn con báo con mới 15 ngày tuổi bị tách khỏi mẹ đem bán Rin86 thấy tội nghiệp quá. Con báo con ngơ ngác còn chưa biết gì, mắt mở tròn xoe khát sữa mẹ thật đáng thương, không hiểu người dân vì quá nghèo khổ hay sao mà nhẫn tâm tách nỏ khỏi mẹ. Liệu khác bộ hành mua con báo làm gì? không hiểu họ có nuôi nó không hay dùng làm mồi nhậu... Bà con ở bản Tỏ Tình, xã Minh Thắng, huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên) vừa bắt được một con báo vằn khoảng 15 ngày tuổi và họ đem bán cho khách qua đường. Được biết, đây là một trong 2 con báo mới sinh của “gia đình” báo vằn gồm 4 con sống tại khu rừng già Phiêng Ban. Báo vằn khoảng 15 ngày tuổi được người dân mang bán cho khách qua đường (ảnh chụp 16h ngày 23/9 tại khu rừng Phiêng Ban, xã Minh Thắng, huyện Tuần Giáo, Điện Biên). Khu rừng Phiêng Ban (còn gọi là rừng chương trình 661) có diện tích khoảng 1.500 - 2.000ha trải dài từ độ cao 1.500 - 2.118m so với mặt nước biển, thuộc vùng giáp ranh giữa 2 xã Mường Giàng (huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La) với xã Minh Thắng (huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên). Khoảng 6 năm trở lại đây, kể từ khi QL 279 được khai thông nối Tuần Giáo - Quỳnh Nhai - Than Uyên - Lai Châu, khu rừng này đang bị lâm tặc khai thác gỗ quý thuộc nhóm 1 và nhóm 2 như đinh, lim, đặc biệt là cây gỗ nghiến để làm vật liệu xây dựng. Động vật hoang dã cũng bị người dân săn bắt... Lâm tặc chuyển gỗ nghiến đã xẻ bằng phương tiện xe máy từ rừng Phiêng Ban theo QL 279 để mang đi tiêu thụKhu rừng 661 – Phiêng Ban không chỉ có nhiều gỗ quý với hàng ngàn cây trên 100 tuổi, mỗi gốc cây cổ thụ đến 5- 6 người ôm không xuể. Rừng còn có nhiều thú hoang quý hiếm, nhiều hệ thực vật, cây làm thuốc có giá trị và nghiên cứu khoa học, nhưng nay đang dần cạn kiệt. Bài và ảnh: Điêu Chính Tới Nguồn Vietnamnet
  6. CHÚC MỪNG SINH NHẬT BÁC THIÊN SỨ
  7. (Dân trí) - Đôi bàn tay bé xíu, vừa xúc cơm vừa đỡ đầu mẹ, bé Trường nhẹ nhàng đút từng thìa cho mẹ rất thuần thục. Một năm nay, mọi việc chăm sóc người mẹ bị bệnh nan y đang lay lắt những ngày cuối đời đều do cậu bé chưa tròn 5 tuổi này lo hết.Chối bỏ con thơ vì vợ mang căn bệnh tử thần Dưới cái nắng chói chang của miền đất Tây Ninh, chúng tôi tìm đến nơi ở của mẹ con cô giáo Võ Thị Mến ở ấp Ninh Lộc, xã Ninh Sơn, Thị xã Tây Ninh. Trong nhà căn nhà mục nát và chắp vá, đập vào mắt chúng tôi một hình ảnh nát lòng - một đứa trẻ chưa tròn 5 tuổi đang đút từng thìa cơm cho người mẹ nằm thoi thóp trên chiếc võng cũ. Thấy khách đến, đứa bé mặc bộ đồ lấm lem vội khoanh tay lễ phép cúi chào rồi quay lại tiếp tục đút cơm cho mẹ. Bé Trường đút cơm cho mẹ một cách thuần thục khi em chỉ mới gần 5 tuổi Không khí tĩnh lặng buổi trưa bị phá tan bởi tiếng khóc nghẹn ngào của cô Mến khi vô tình chúng tôi hỏi đến cha bé Trường. Do hoàn cảnh nghèo khó nên mãi đến năm 40 tuổi cô giáo Mến mới tìm cho mình được hạnh phúc với một người đàn ông góa vợ. Một năm sau (năm 2004), bé Mai Xuân Trường chào đời. Thằng bé kháu khỉnh và giống cha như đúc. Lúc ấy cô cứ tưởng số phận đã mỉm cười với mình. Nhưng thật éo le, niềm hạnh phúc đó không kéo dài được lâu. Khi bé Trường được hơn 2 tuổi cũng là lúc cô Mến phát hiện mình mang căn bệnh hiểm nghèo. Năm 2006, cô Mến thấy ngực mình đau buốt, chạy chữa khắp nơi nhưng cũng không tìm ra bệnh. Đến khi xuống bệnh viện ở TPHCM mới rụng rời, cô bị ung thư ngực đã di căn. Cũng lúc ấy, cô chịu thêm một niềm đau còn lớn hơn, người chồng lẳng lặng bỏ đi không một lời từ biệt. Khi chăm mẹ xong, chú bé háo hức moi trong tủ ra khoe với chúng tôi những tấm hình được chụp hồi đầu năm. Mân mê những tấm hình, bé Trường chỉ vào bộ quần áo mới nguyên trong tủ, khoe: "Mẹ nhờ dì mua mất tận 30.000 đồng đấy. Nhưng cũng từ đó đến nay con chưa mặc, còn để dành". Mẹ ốm. Cha bỏ đi. Bé Trường thua thiệt đủ đường. Một năm nay, khi căn bệnh của mẹ trở nên trầm trọng, không thể đi lại, thì tất cả công việc trong nhà đều đến tay bé. Ngày qua ngày, Trường dần quen với công việc nhà và trở thành trụ cột của gia đình khi chưa tròn 5 tuổi. Chúng tôi hỏi Trường thường làm gì giúp mẹ, bé nhanh nhảu trả lời: “Con biết vo gạo, nấu cơm, nhiều thứ lắm”. Người nhỏ xíu, mỗi lần bắc cơm chú bé phải trèo lên chiếc ghế rồi mới với tay tới chỗ cắm điện. “Thấy con nhỏ tiếp xúc với điện nguy hiểm nhưng cũng đành nhìn con làm vì người không thể ngồi dậy được”, cô Mến thở dài. Cậu bé 5 tuổi này mấy năm nay đều tự chăm lo cho bản thân mình: tự tắm rửa, tự ăn, tự chơi, tự học. Nhìn chúng bạn được ba mẹ đón đưa, được chơi đủ trò trong trưa nắng, thèm lắm nhưng cu cậu không dám đi chơi xa, chỉ quẩn quanh bên mẹ, “ở nhà còn xoa dầu, bóp tay cho mẹ đỡ đau”. Vừa cho mẹ ăn, bé Trường vừa bóp tay cho mẹ “Thầy thuốc nhỏ” này còn thuộc nằm lòng những bài thuốc dân gian sắc cho mẹ. Chưa ý thức được mức độ hiểm nghèo của căn bệnh mà mẹ đang mang, Trường chỉ nghĩ “có thuốc cho mẹ uống là khỏi bệnh” nên hằng ngày, khi dì rảnh, Trường lại nhờ dì dắt đi tìm lá thuốc. “Tội cháu nhất là những khi Tết hoặc Trung thu, nhìn những đứa trẻ khác được bố mẹ chở đi chơi, mua quà. Con mình chỉ biết nhìn theo các bạn...”, cô Mến nghẹn lời. Những lúc như vậy, Trường chỉ ôm mẹ mà nói: “Con không cần quà đâu. Mẹ dành tiền trị hết bệnh, mẹ đừng chết nghe mẹ!”. Dấu chấm hết cho một cô giáo có tâm với nghề Cô Võ Thị Mến, năm nay 45 tuổi, nguyên là giáo viên dạy địa trường THCS Nguyễn Tri Phương (TX Tây Ninh). Đầu năm 2007, cô Mến bị đau ở vùng ngực và tay trái, khám mới phát hiện mình bị ung thư đang di căn không thể phẫu thuật được. Các bác sĩ điều trị cũng chỉ cho thuốc uống để ngăn chặn sự phát triển của khối u, nhưng vẫn không giảm. Hiện cô và con trai, bé Mai Xuân Trường, 5 tuổi đang tá túc tại nhà người chị thứ hai ở 271/3 ấp Ninh Lộc, Ninh Sơn, TX Tây Ninh (Điện thoại: 01264902397). Mười tám năm đứng trên bục giảng, biết bao thế hệ học trò qua lớp của cô. Suốt 18 năm đi dạy, cô Mến luôn được xếp loại lao động giỏi. Nếu cô dạy thêm 2 năm nữa thì có lẽ nay đã nhận được giấy chứng nhận Nhà giáo ưu tú với 20 năm cống hiến rồi. Ấy vậy mà từ khi nghỉ dạy đến nay đã một năm, cô Mến vẫn chưa nhận được giải quyết chế độ nghỉ hưu sớm. Khẽ nén tiếng rên trong những cơn đau giằng xé trong xương trong thịt, cô Mến nghẹn ngào kể lại: Bệnh phát càng nặng, cơn đau dồn dập, chi phí thuốc men tốn kém vô cùng. Cả tháng lương giáo viên không đủ chi cho một lần xuống thành phố trị bệnh. Khối u di căn gây lở loét nên cô đành phải nghỉ dạy. Cô Mến với những tấm bằng chứng nhận lao động giỏi những năm còn đi dạy Cắn răng chịu đựng khi cơn đau hành hạ, không kiếm đâu ra tiền chữa trị, cô bấm bụng bán nền nhà nhỏ là chỗ trú mưa nắng của hai mẹ con, được tổng cộng 32 triệu. Nhưng số tiền này cũng nhanh chóng đội nón ra đi theo những đơn thuốc. Tiền không, nhà cửa không, hai mẹ con dắt díu nhau về tá túc tại nhà người chị thứ hai vốn cũng không gì khá giả hơn. Trong căn nhà chắp vá, chỗ lành ít hơn chỗ thủng, cô Mến khóc suốt trong buổi trò chuyện cùng chúng tôi. “Nỗi khổ cực, đau đớn của tôi chỉ biết kêu trời cho thấu, nhưng tôi “đi” không đặng, vì bé Trường còn bé quá”… Bữa cơm của mẹ con bé Trường chỉ có canh và nước tương Chúng tôi ra về trong nỗi day dứt “chết không đặng” của cô giáo Mến và bước chân lon ton gọi với theo của cu Trường “Lần sau xuống, cô chú… cho con… một hình siêu nhân nghen!”. Chút vòi vĩnh rụt rè của “người đàn ông trụ cột” 5 tuổi như lưỡi dao cứa vào lòng chúng tôi. Đằng sau sự can đảm của “người đàn ông trụ cột” kia, vẫn là tâm hồn của một đứa trẻ… Mọi đóng góp hảo tâm xin gửi về: 1. Cô Võ Thị Mến - 271/3 ấp Ninh Lộc, Ninh Sơn, TX Tây Ninh (Điện thoại: 01264902397). 2. Quỹ Nhân ái - Báo Khuyến học và Dân trí - Báo điện tử Dân trí (Hà Nội) Số 2/48 Giảng Võ, Đống Đa, Hà Nội (Cạnh cây xăng Kim Mã) Tel: 04. 3. 7366.491/ Fax: 04. 3. 7366.490 Email: quynhanai@dantri.com.vn * Tài khoản VNĐ: Tên TK: Báo Khuyến học & Dân trí Số TK: 10 201 0000 220 639 Tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Hoàn Kiếm * Tài khoản USD: Tên TK : Báo Khuyến học & Dân trí Số TK : 10 202 0000 004346 SWIFT Code : ICBVVNVX106 Tại : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương thành phố Hà Nội 3. Văn phòng đại diện của báo: VP Hà Tĩnh: 46 Nguyễn Công Trứ, Phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh. Tel: 039.3.857.122 VP Đà Nẵng: 25 Nguyễn Tri Phương, Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Tel: 0511.3653.725 VP HCM: 40/17/16 Nguyễn Văn Đậu, phường 6 quận Bình Thạnh. Tel: 08. 35107. 331 VP Cần Thơ: 53/13 Lý Tự Trọng, Q Ninh Kiều, TP Cần Thơ. Tel: 071.3.733.269 Lê Phương - Trung Kiên
  8. Bác không cần phải xóa bài viết mới đâu ạ vì cháu tách riêng bài phản biện ông Trương Thái Du ra mà, nên dù viết bao nhiêu bài mới thì thông qua link đó vẫn vào được bài phản biện ông Trương Thái Du thôi. Lúc gửi cho BBC cháu đã ghi rõ địa chỉ, nếu thấy bài của mình hợp ý họ thì họ sẽ đăng thôi. Nếu họ không đăng thì ta sẽ gửi liên tục để khủng bố, mỗi ngày gửi một bản cho đến khi nào mệt thì thôi :unsure: ít nhất cũng cho họ thấy quyết tâm của ta.
  9. Rất may là cháu lại một lần nữa đưa đường link đến trang blog của bác vào mục liên kết ngoài trên từ điển bách khoa Wilipedia, và lần này nó đã không bị dỡ xuống, không biết vì lý do gì, có lẽ là họ quên. Cháu hy vọng họ sẽ không dỡ xuống nữa. Còn việc gửi ý kiến đến BBC cháu sợ là họ sẽ lờ đi hẳn vì BBC là hãng thông tấn quốc tế, họ rất cứng rắn. Mới đây cháu tìm thấy blog của Doremon được cho vào mục bài lưu trên trang an Việt nổi tiếng nên cháu nghĩ việc cần phải làm là thúc đẩy trang blog của bác thành một blog nổi tiếng. Cháu nghĩ bác nên để cho người ta comment tranh luận thoải mái thì trang blog sẽ nổi tiếng hơn, còn họ nói gì thì kệ họ (cho đỡ stress). Cháu nghe nói có thể spam với giá 500 ngàn nhưng chưa biết spam ở đâu...
  10. Bài viết của ông Trương Thái Du đăng tháng 4 năm 2005 và đã được dùng làm liên kết ngoài cho Wikipedia 4 năm nay bâc ạ.
  11. không ngờ link cháu dẫn lên từ điển wikipedia cũng bị dỡ xuống, có lẽ tại link đó dẫn vào blog cá nhân nên họ không chấp nhận.
  12. Trên từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia định nghĩa như sau về Kinh dịch: Kinh Dịch (giản thể: 易经; phồn thể: 易經, bính âm: Yì Jīng; IPA Quảng Đông: jɪk gɪŋ; Việt bính Quảng Đông: jik ging; các kiểu Latinh hóa khác: I Jing, Yi Ching, Yi King) là bộ sách kinh điển rất lâu đời của người Việt Nam mà đến nay người ta vẫn chưa biết rõ nguồn gốc, tuy đã có truyền thuyết là nó có nguồn từ các dân tộc Bách Việt vào thời các vị vua thời Thần nông. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch) (Xem #Triết học dưới đây). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán[cần dẫn nguồn], nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Trung Hoa và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh v.v. (người ta gọi là diễn dịch). nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_d%E1%BB%8Bch Tuy còn yếu thế so với ý kiến cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng ít ra cũng đã có người để ý đến ý kiến của chúng ta, đó là Kinh dịch có nguồn gốc từ Bách Việt! Xin chúc mừng bác Thiên Sứ vì mọi người đã đánh giá đúng những gì chúng ta cố gắng thể hiện!
  13. Cháu đã gửi bài viết của bác vào mục trả lời của BBC. Chúng ta cần phải hành động vì bài viết của ông Trương Thái Du vẫn được dùng làm liên kết ngoài cho từ điển Wikipedia cho đến tận hôm nay. Bốn năm trôi qua đã có rất nhiều lượt người đọc bài viết này. Chỉ cần gõ cụm từ Hai Bà Trung là sẽ dẫn đến trang Wikepedia tiếng Việt và cuối trang đó là đường dẫn đến bài viết của ông Trương Thái Du. Cháu đã dẫn link tới blog của bác trên wikipedia để mọi người khi tham khảo từ điển bách khoa này có thể đọc http://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng
  14. cháu xin phép được đăng lại bài của bác Thiên Sứ vào mục trả lời trên BBC
  15. Rin86 thấy mọi người thường hay chú ý đến những cường quốc có đất đai rộng lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga mà quên mất những nước đứng trên vai người khổng lồ, như nước Anh chẳng hạn. Rin86 nhận thấy mối quan hệ Việt Nam-Anh Quốc vài năm gần đây bỗng có sự thay đổi, trước đây nước Anh chẳng chú ý gì đến Việt Nam lắm trừ cuộc chiến tranh Việt Nam vậy mà giờ đây ngoại trưởng Anh cùng với vị huấn luyện viên nối tiếng Sir Alex Ferguson đã đích thân chúc tết Nguyên Đán người dân Việt Nam trên trang Youtube, link: http://www.youtube.com/watch?v=1G9uyYlaS9o...uk/roller/kent/ Thủ tướng Anh Winston Churchill đã nói: "Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn" Có lẽ khi nhìn thấy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, người Anh đã quyết định coi Việt Nam như người bạn "đôi bên cùng có lợi". Đây là blog bằng tiếng Việt của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Anh quốc tại Việt Nam, ông Mark Kent: http://blogs.fco.gov.uk/roller/kent/date/20080918''>http://blogs.fco.gov.uk/roller/kent/date/20080918' target="_blank">http://blogs.fco.gov.uk/roller/kent/date/20080918 Người Anh cũng nổi tiếng trong lãnh vực khảo cổ học, sử học nhưng có tiếng tăm về vấn đề của Việt Nam thì Rin86 chưa thấy có vị nào, có lẽ họ chưa dành sự quan tâm đúng mức đối với nước ta, những nhà sử học người Pháp lại có vẻ áp đặt cái nhìn phiến diện của những kẻ đi xâm chiếm thuộc địa lên nền văn hiến Việt (có ông cho rằng trống đồng được du nhập từ Trung Hoa). Nhưng Rin86 có cảm giác rằng người Anh sẽ là một trong những nước công nhận nền văn hiến 5000 năm của Việt Nam và có cái nhìn chính xác hơn về người khổng lồ Trung Quốc. Người Anh không hề có một quốc gia rộng lớn như Nga, Mỹ hay Trung Quốc nhưng họ lại là một dân tộc vĩ đại, như ta thấy là thế giới hiện nay đều sử dụng tiếng Anh. Trong thập kỷ tiếp theo này mối quan hệ Anh Việt sẽ ra sao? Rin86 thử độn một quẻ xem thế nào thì được quẻ Tử Vô Vọng (giờ Thìn ngày 7 tháng 1 năm Kỷ Sửu) Kỳ vậy? vậy là sao vậy? Các anh chị em cô bác trong diễn đàn có ý kiến gì không ạ?
  16. không phải người Trung Hoa quy ước như vậy mà họ đã nhìn những vòng tròn xuất hiện cách đây nhiều ngàn năm để quy ước như vậy, hơn nữa chắc gì xoáy âm dương đã do người Trung Quốc quy ước mà là do người Bách Việt Cổ nhìn những vòng tròn như vậy rồi quy ước? Có rất nhiều vòng tròn như vậy đã xuất hiện trên đồ gốm cách đây 2000 đến 3000 năm ở biên giới Mông Cổ Trung Quốc. Còn ở vùng Bách Việt thì không thấy nhưng có thể nó là thể hiện qua những hình họa tiết trên trống đồng chăng?
  17. Chữ tượng thanh là quá trình phát triển tiếp theo của chữ tượng hình, vậy trước khi có chữ khoa đẩu, ông cha ta đã có một thời gian dài sử dụng chữ tượng thanh. Chữ tượng thanh đó được sử dụng bắt đầu từ thời kỳ nào (có thể là từ trước thời Hùng Vương) không ai có thể khẳng định. Nhưng có thể kết luận, chữ khoa đẩu là thứ chữ đỉnh cao của quá trình phát triển chữ viết!
  18. cháu có xem một bộ phim khoa học của Nga nói về nền văn minh Atlantic, họ nói rằng những người sống sót kể rằng ở tam giác bec-mu-đa có một kim tự tháp bằng kim loại, họ đã nhìn thấy trong cơn bão tố. Những nhà khoa học Atlantic đã truyền lại cho những pháp sư Ai Cập cách dịch chuyển các vật nặng bằng chân không, không cần dùng đến máy móc, chính vì vậy họ đã xây dựng những kim tự tháp hoàn hảo mà không cần tốn nhiều công sức, ngày nay các nhà khoa học cũng có thể làm được điều tương tự nhưng họ chỉ có thể dịch chuyển những vật to bằng quả trứng thôi. Còn những mỏ dầu đã được hình thành cách nay hàng trăm triệu năm do xác động thực vật lắng đọng.
  19. (Dân trí) - Lực lượng lao động miền xuôi đổ về huyện vùng cao A Lưới của tỉnh Thừa Thiên - Huế để thi công những công trình xây dựng ngày càng nhiều càng khiến lắm sơn nữ nơi đây sa vào bẫy tình rồi phải gánh chịu những hậu quả đáng thương.Không chồng mà chửa Ngôi nhà lụp xụp của gia đình ông Hồ Phiên ở thôn A Ron, xã Hồng Hạ nằm nép mình dưới chân đèo Tà Lương với những con dốc lạnh người. Đã mấy tháng nay, kể từ ngày con gái bị lừa tình rồi sinh con ở tuổi 16, ông Phiên ngã bệnh nằm liệt giường. Vợ ông, bà Hồ Thị Cúc cũng vừa qua đời sau một thời gian đổ bệnh. “Đau xót lắm! Vì quá tin vào thằng công nhân khốn nạn mà con gái tui phải gánh chịu hậu quả như ri” - Ông Phiên nằm trên giường vừa ho khùng khục vừa chỉ tay vào người con gái tên Hồ Thị N đang hát ru đứa con gần 5 tháng tuổi. Sau ngày bị lừa tình, Hồ Thị N (16 tuổi) ở thôn A Ron, xã Hồng Hạ phải nuôi con một mình. Hơn một năm trước, N gặp chàng công nhân quê Ninh Bình tên L đang thi công công trình thủy điện A Lưới trên địa bàn xã. Vẻ ngoài chải chuốt cùng với lời nói đường mật của L đã khiến N đem lòng yêu thương. Vào những buổi tối rảnh rỗi, L thường đến nhà đưa N đi chơi. Ngỡ con gái của mình đã gặp được chàng trai thật thà, bố mẹ N hết mực vun đắp cho đôi trẻ dù biết con gái chưa đến tuổi lấy chồng. Nhưng rồi niềm tin của N và gia đình cô bé đã bị xúc phạm khi L lộ nguyên hình là một gã Sở Khanh. Trong một lần cùng nhau đi chơi, L đã giở trò đồi bại với N rồi yêu cầu cô bé không kể cho ai hành vi bỉ ổi của mình. Vì quá yêu và tin L, N đã giấu bặt mọi chuyện. Nhưng đến khi cô bé phát hiện mình có bầu và kể chuyện này với L thì gã công nhân lập tức chuyển công tác đến tỉnh khác. Rồi N sinh con. Đứa con của N chào đời trong nỗi đau bị phụ bạc của mẹ. Cũng như N, sau một lần sập bẫy tình, Hồ Thị D ở thôn Pa Hy đã sinh đứa con không cha trong sự đau xót của gia đình. “Tác giả” đứa con của D là chàng công nhân giao thông tên B quê ở Thanh Hóa. Hai năm trước, khi tuyến đường qua địa bàn xã Hồng Hạ được nâng cấp, sửa chữa, D đã gặp B. Những lời tán tỉnh có cánh của chàng công nhân này đã khiến D gục ngã. Khi D mang bầu, B đã nhất quyết đòi cô gái phá bỏ giọt máu của mình nhưng cô gái không đồng ý. Không còn cách nào khác, B lập tức chuyển công tác vào Đà Nẵng, bỏ lại cô gái tội nghiệp phải nuôi con một mình trong tình cảnh sụp đổ về tinh thần và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng không thành. Hồ Thị D ở thôn Pa Hy, xã Hồng Hạ và đứa con - kết quả của một lần bị lừa tình. Chỉ tính riêng xã Hồng Hạ đến nay đã có hơn 20 sơn nữ bị lừa tình và phải nuôi con một mình. “Số người vì tin vào lời dụ dỗ của kẻ xấu nên phải chịu hậu quả như ri ngày càng tăng mạnh” - Chị Hồ Thị Lan, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Hồng Hạ thở dài nói sau khi cung cấp cho chúng tôi một danh sách khá dài về những cô gái trong xã bị lừa tình. Theo con số thống kê chưa đầy đủ từ các xã của huyện A Lưới, mỗi năm ở huyện này có bình quân từ 40 đến 60 sơn nữ bị lừa tình, tập trung nhiều nhất ở các xã Hồng Hạ, Hồng Vân, Hồng Thủy, nơi có nhiều công trình quốc gia đang thi công. Tương ứng với con số đó, có khoảng 40 trẻ đứa trẻ không cha là kết quả của những mối tình dở dang giữa sơn nữ và trai miền xuôi chào đời mỗi năm. Cay đắng phận người Sau 8 năm chào đời, Hồ Văn K ở thôn 2 xã Hồng Thủy vẫn chưa biết đến mặt chữ. Nó là kết quả cú lừa tình của chàng công nhân giao thông người miền xuôi với mẹ nó. Sinh nó được 5 tháng, mẹ nó bỏ nó lại cho bà ngoại để đi lấy chồng tận bên Lào. “Muốn cho nó đến trường nhưng tui già yếu rồi, chỉ sống dựa vào mấy đồng tiền trợ cấp của Nhà nước thì lấy chi mà nuôi nó học. Tui đang định nhờ người gửi nó vào trại mồ côi để nó được biết đến cái chữ và để tui yên tâm khi chết đi” - Bà Hồ thị V, bà ngoại của K nói trong nước mắt. Chị Hồ Thị C ở thôn Pa Hy, xã Hồng Hạ có hai đứa con sau hai lần bị lừa tình. Đứa con đầu của chị năm nay đã 15 tuổi, đứa thứ hai đã 13 tuổi, đều học Trường THCS Hồng Hạ. Chị C đặt tên cho hai đứa con của mình là Rơi và Rớt như để ghi nhớ nỗi đau của hai lần bị lừa gạt. Hai đứa con của chị thường thắc mắc với mẹ về việc giấy khai sinh của chúng bị bỏ trống phần dành ghi tên người cha. Mỗi lần như vậy chúng đều nhận được câu trả lời từ mẹ nó là “chết rồi”. “Hai đứa nó không nên biết về những người cha đã bỏ rơi chúng và lừa dối mẹ mình. Bọn hắn đã lừa mình thì không đáng để con mình gọi bằng cha!” - Chị C gay gắt. Theo chị Hoàng Thị Loan, Chủ tịch Hội Phụ nữ huyện A Lưới, chuyện sơn nữ của huyện này sa vào bẫy tình của những công nhân, kỹ sư người miền xuôi lên công tác là chuyện xảy ra thường xuyên. Hội Phụ nữ huyện đã tiến hành tuyên truyền cho chị em biện pháp phòng tránh kẻ xấu nhưng vì phụ nữ ở đây hiểu biết hạn chế nên số nạn nhân vẫn cứ tăng nhanh hàng năm. “Thương nhất là những đứa trẻ không cha, chúng phải chịu thiệt thòi rất lớn về tinh thần, không gì có thể bù đắp được. Đây là những đứa trẻ thường phải chịu cảnh thất học vì hoàn cảnh gia đình ngặt nghèo do không có bàn tay người cha” - Chị Loan buồn bã. Đại Phong trai Việt Nam đểu vậy sao, thẩm nào ngày càng có nhiều cô gái lấy chồng ngoại
  20. thật đáng khâm phục cụ bà, Việt Nam tự hào vì có một con người như cụ!
  21. có một bạn du học sinh ở Singapore nhận xét về người Việt và người Tàu trên blog của Joe Ruelle (người Canada siêu tiếng Việt) như sau: "Em đang học cùng với 8 học sinh Trung Quốc, và rất nhiều HongKong, Taiwan... thật sự thấy người Việt Nam khác hẳn và giỏi hơn hẳn dân Tàu, ý thức cũng như văn hóa đều hơn, vì vậy thật quá thể khi nói rằng mình chỉ là đi học lỏm các chú Tàu. Người Việt Nam thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn, tự tin hơn, năng động hơn, hòa nhập hơn, quyết tâm hơn, biết mình muốn đi đến đâu, có ý chí hơn, có kinh nghiệm hơn, trưởng thành hơn, nổi bật hơn, hấp dẫn hơn, dễ thương hơn, chăm chỉ hơn, sáng tạo hơn. người Việt Nam có ý thức và trách nhiệm hơn, tinh thần tự hào dân tộc cao hơn. những sự kiện như International Dinner, bao giờ bàn Việt Nam cũng là bàn hăng hái nhất, thức ăn ngon nhất, dù luôn ít người nhất. sinh viên Việt Nam tham gia vào các hoạt động trong trường nhiều hơn hẳn, và có đóng góp nổi bật. chúng ta cũng tư duy cao hơn, nghệ thuật hơn khi tham gia những phần như theatre, musical... chứ không "xôi thịt" như các bạn Trung Quốc, toàn tennis với football…" ngưồn : http://muivi.com/muivi/index.php?option=co...&Itemid=431 Mọi người thấy sao ạ? Rin86 thì tháy hoàn toàn đúng.
  22. "Người Việt ở Đức hội nhập thành công nhất" Nhận xét về cộng đồng người Việt Nam ở Đức, báo Frankfurt Allgemeine mới đây khẳng định trong số những người nước ngoài làm việc dưới thời CHDC Đức trước đây, người Việt Nam chăm chỉ nhất. Tờ báo dẫn lời ông Karther, người được giao trách nhiệm giúp đỡ người Việt Nam ở thành phố Dresden thời CHDC Đức, nói rằng người Việt Nam quan hệ khá tốt với đồng nghiệp Đức, làm việc có kỷ luật, chăm chỉ, thậm chí làm việc cả trong những ngày nghỉ cuối tuần để có thêm thu nhập. Sinh hoạt văn hóa của người Việt tại Đức Đôi khi họ làm ra nhiều sản phẩm hơn cả đồng nghiệp Đức và "mặt hàng" quần jean do người Việt Nam may khi đó từng là thứ không thể thiếu trong đời sống của người dân Đức, thay cho những chiếc quần bò Mỹ. Sau ngày nước Đức thống nhất, số đông công nhân Việt Nam làm việc ở Đức theo diện hợp tác lao động ở Dresden và ở Đức nói chung đã về nước. Những người ở lại gặp nhiều khó khăn phải tìm cơ hội mới để sinh sống và thường mở cửa hàng ăn uống, bán hoa và rau quả, tạp phẩm rẻ tiền,... Họ thường làm việc cả tuần, không có ngày nghỉ, không nghỉ phép. Báo trên nhấn mạnh chính ý chí muốn vượt qua khó khăn để có cuộc sống ổn định nơi đất khách quê người đã đưa người Việt Nam trở thành một cộng đồng hội nhập thành công nhất trong các cộng đồng người nước ngoài ở Đức và thế hệ con cái họ đều là những học sinh có thành tích học tập xuất sắc nhất tại các trường. Họ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động kinh tế, đồng thời duy trì những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng và giáo dục tốt thế hệ con cháu hướng về cội nguồn./. Nguyễn Xuân/Berlin nguồn: http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Nguo...09/04/35E217C8/
  23. Việt kiều, du học sinh đổ về Việt Nam tìm việc Chấp nhận thu nhập thấp hơn so với ở nước ngoài, nhiều Việt kiều và du học sinh đang đổ về VN tìm cơ hội làm việc. Nhiều công ty tuyển dụng trong nước cho biết hiện nay lượng hồ sơ của các ứng viên trên đang tăng nhanh. Lao động trong nước sẽ phải cạnh tranh gắt gao với các ứng viên được đào tạo từ nước ngoài Theo bà Loan Lê, Giám đốc Công ty tuyển dụng cấp cao Loan Le tại TP.HCM, số hồ sơ gửi đến công ty từ các ứng viên có bằng cấp nước ngoài gần đây đã tăng 20%. Hiện công ty đang có trong tay dữ liệu của khoảng 3.000 ứng viên Việt kiều trong số hơn 600.000 người đăng ký hồ sơ tại website của công ty. Mai Nguyễn, một chuyên viên phân tích tài chính của Citibank tại Nhật Bản 10 năm nay, đã quyết định nghỉ việc khi công ty tái cơ cấu vì khủng hoảng kinh tế và yêu cầu cô phải chuyển sang bộ phận khác. Cô cho biết đã làm việc ở Nhật lâu năm và muốn quay lại VN tìm cơ hội. Hơn nữa hiện nay tìm được việc ở Nhật là rất khó, do quốc gia này bị suy thoái kinh tế nặng nề. Với tấm bằng thạc sĩ về quản lý ngành y của trường Đại học California tại Northridge, Lộc Nguyễn vẫn quyết định quay về VN mặc dù đã được một số bệnh viện mời làm nghiên cứu sinh. Hiện nay Lộc đang làm bán thời gian tại trường Đại học Hùng Vương tại TP.HCM nhưng hy vọng sẽ tìm được công việc quản lý thích hợp trong ngành y. "Mặc dù hiện chưa tìm được công việc thích hợp nhưng tôi vẫn tin mình là một ứng viên có năng lực vì những gì tôi đã tiếp thu được ở Mỹ", Lộc nói. Bà Loan cho biết số lượng các ứng viên Việt kiều và hiện đang làm việc ở nước ngoài tăng mạnh từ sau Tết tới nay. "Có một số ứng viên là du học sinh chuẩn bị tốt nghiệp, hiện họ rất khó xin việc ở nước sở tại vì các quốc gia này đang ưu tiên thuê người bản xứ hơn trong giai đoạn suy thoái này", bà Loan nói. Ông Huỳnh Văn Thới, Tổng giám đốc một website tuyển dụng cho biết, có khoảng hơn 1.000 ứng viên Việt kiều đăng ký hồ sơ tại địa chỉ website của ông mỗi tháng. Theo ông Thới, điều này sẽ làm tăng tính cạnh tranh và chất lượng của thị trường lao động trong nước, đặc biệt là ở cấp độ quản lý và điều hành. Hầu hết các ứng viên đến từ các nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của suy thoái kinh tế như Mỹ, Nhật và chủ yếu thuộc các ngành IT, tài chính và ngân hàng. "Chắc chắn sẽ có nhiều Việt kiều và một số người Việt làm việc ở nước ngoài quay về nhưng xu hướng này sẽ kéo dài trong bao lâu thì chưa xác định được" - ông Thới nói. Gần đây, tạp chí Business Week của Mỹ có đăng tải một bài báo nói về chuyện ảnh hưởng của suy thoái kinh tế có thể làm nhiều lao động nhập cư tài năng rũ áo đi khỏi nước Mỹ. Theo bài báo trên thì trong một nghiên cứu gần đây của Đại học Tổng hợp California tại Berkeley và Đại học Duke thì có đến 87% người nhập cư gốc Hoa và 79% người nhập cư gốc Ấn Độ (trong tổng số 1.203 người được hỏi) nói họ đã quay về nước làm việc vì cảm thấy họ có thể cống hiến tại quê nhà nhiều hơn là tại Mỹ. Một số thì cho rằng những khó khăn về visa và giấy tờ nhập cư cũng là những lý do họ muốn quay trở lại quê hương. Theo như bà Loan thì trong thời điểm không tốt của kinh tế hiện nay thì sự chênh lệch trình độ giữa một ứng viên được coi là xuất sắc so với ứng viên giỏi sẽ lớn hơn: "Còn nhớ khi mọi người đổ xô vào thị trường bất động sản thì có thể bạn không thấy được sự khác biệt lắm khi công ty bất động sản đó được lãnh đạo bởi một ông giám đốc kinh doanh giỏi hay một ông xuất sắc. Nhưng giờ chuyện đó đã khác". Bà Loan cho biết các ứng viên Việt kiều đã tu nghiệp hoặc làm việc ở nước ngoài thường có khả năng làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp, phân tích tình huống rất tốt. Hơn nữa, hiện nay họ có thể chấp nhận mức lương thấp hơn tại VN. Theo Hương Lê Thanh Niên ShowAdLib_0();
  24. nếu hỏi 100 người đi du học thì sẽ có bao nhiêu người chọn quay về nước? Rin86 có học cùng một anh đã từng bỏ Hàn Quốc về Việt Nam vì không muốn làm việc ở nước ngoài dù được trả lương cao hơn. Anh ấy không hề thích Hàn Quốc. Rin86 cũng bỏ Hàn Quốc về Việt Nam đã học ở Hàn được 2 năm dù biết nếu bỏ về thì mất trắng 2 năm đó không được cái gì hết. Anh Phan Ngọc Minh, ở 274 Bà Triệu, tốt nghiệp đại học Havart được các công ty trả 50 ngàn đô một năm nhưng vẫn bỏ Mỹ về Việt Nam lập nghiệp. Những người vượt biên ra nước ngoài để tìm cuộc sống thiên đường như đi làm nail chẳng hạn, họ cũng chỉ đi vài năm về lấy tiền xây nhà như những người mà Rin86 gặp ở sân bay thôi, chẳng ai muốn ở lâu dài ở nước ngoài, chỉ có người chưa từng sống ở nước ngoài mới phỏng đoán là như vậy. Đa số người ta chỉ đi nước ngoài để kiếm một khoản tiền nào đó rồi về chứ sống 10 năm, 20 năm thì không. Có người bạn của Rin86 ở Đức nói rằng cái cơ ngơi của mình ở Đức rồi nên đành ở lại chứ lúc nào cũng muốn về Việt Nam và sự thực là đang chuẩn bị để về Việt Nam. Ở Việt Nam có cái tình người và nền văn hóa thấm đẫm chất nhân bản mà bất cứ con người nào đã từng xa quê đều trân trọng một khi đã thấm thía cảnh sống nơi đất khách quê người. Người nước ngoài ở Việt Nam cũng cảm nhận được chất nhân văn đó nên rất nhiều người đã chọn Việt Nam làm quê hương thứ 2 như trong topic "Việt Nam và những người bạn" của Rin86. Có thể mọi người thấy nhiều người Việt bỏ quê trốn sang Anh, sang Mỹ rồi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan rất nhiều nên nghĩ rằng người Việt thích bỏ quê đi sống ở nước ngoài vì vật chất đơn thuần! Nhưng những người đó đa số đều vỡ mộng tuy nhiên vì sản nghiệp (nhà cửa, con cái, cửa hàng...) đều ở nước ngoài rồi nên không thể về được, có khi còn không có tiền mà về. Tại sao vẫn có nhiều người thích vượt biên ư? Đơn giản là họ muốn kiếm tiền thôi chứ vì văn hóa nước ngoài mà đi thì không có đâu, họ chỉ đi vài năm rồi về thôi!
  25. Chào bạn Rin86, Bạn nói đúng lắm, không nên thêm thắt gia vị làm loãng chủ ý. Thân