thaochau
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
847 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by thaochau
-
Biểu tình phản đối bầu cử tiếp tục nổ ra tại Nga Vài chục nghìn người tuần hành tại thủ đô Moscow của Nga hôm qua để phản đối kết quả cuộc bầu cử quốc hội hôm 4/12 và yêu cầu bỏ phiếu lại. Hàng chục nghìn người Nga tập trung tại thủ đô Moscow hôm 24/12 để phản đối kết quả bầu cử quốc hội. Ảnh: AP. Những người biểu tình tập trung tại đại lộ Sakharov ở thành phố Moscow. Cảnh sát ước tính số người tham gia cuộc biểu tình vào khoảng 30.000, song các lãnh đạo phe đối lập thông báo 120.000 người tuần hành trên đường phố, RIA Novosti đưa tin. Cuộc biểu tình diễn ra sau khi hàng chục nghìn người tuần hành phản đối và ủng hộ kết quả bầu cử quốc hội Nga cách đây gần ba tuần. Người biểu tình lên án những nghi ngờ có "hành vi gian lận" trong quá trình bỏ phiếu và kêu gọi tổ chức lại cuộc bầu cử. Boris Nemtsov, cựu thủ tướng Nga, cũng tham gia cuộc tuần hành. Ông kêu gọi người biểu tình tham gia cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 3 tới, song không bỏ phiếu cho đương kim Thủ tướng Vladimir Putin. Lần này Điện Kremlin phản ứng khá nhanh chóng, với việc người phát ngôn của Tổng thống Dmitry Medvedev thông báo chính phủ sẽ thực hiện những cải cách chính trị. Những cải cách đó được thực thi nhằm nới lỏng các hạn chế đối với các chính đảng. “Sau khi dự luật cải cách được thông qua tại hạ viện và thượng viện, tổng thống sẽ ký ngay lập tức để nó trở thành luật và các đảng chính trị có thể đăng ký tham gia bầu cử theo những quy định mới”, bà Natalya Timakova, người phát ngôn của Điện Kremlin, nói. Trước đó Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin đều cam kết điều tra hành vi gian lận và trừng phạt những người vi phạm luật bầu cử. Song hai ông không nhắc tới việc tổ chức lại cuộc bầu cử theo yêu cầu của người biểu tình. Cuộc bầu cử Duma Nga diễn ra hôm 4/12 với chiến thắng lớn nhất thuộc về đảng Nước Nga Thống nhất của Tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin. Đảng này giành gần 50% số phiếu, giảm so với mức hai phần ba của kỳ bầu cử trước. Tuy nhiên một bộ phận người Nga và một số nước phương Tây cho rằng đã có sai sót hoặc thậm chí gian lận trong bầu cử.
-
NASA dùng cung tên để… bắn sao chổi Trung tâm Vũ trụ Goddard thuộc NASA đang thiết kế những mẫu tên lửa “móc” cỡ nhỏ, cho phép các nhà khoa học phóng về phía sao chổi và thu thập mẫu đá/ đất/ bụi từ đó để phục vụ nghiên cứu. Do sao chổi là những khối băng và bụi cô đặc, có niên đại từ thời hình thành nên Thái dương hệ của chúng ta nên NASA tin rằng, chúng có thể nắm giữ những đầu mối quan trọng về nguồn gốc của các hành tinh cũng như sự sống. “Một trong những lý do chính thôi thúc chúng tôi theo đuổi dự án này là để có thể tiếp cận những phân tử sinh học, những nguyên tố khởi thủy đã giúp tạo nên sự sống”, ông Donald Wegel, trưởng nhóm thiết kế cho biết. Những sứ mệnh trước đây của NASA đã từng tìm thấy acid amino trên sao chổi và thiên thạch. Đây là những phân tử hết sức quan trọng cho sự sống, là cơ sở để tổng hợp nên protein. Tuy nhiên, NASA hy vọng dự án mới có thể phát hiện ra nhiều “nguyên liệu” cần thiết cho sự sống khác để hậu thuẫn cho giả thuyết rằng chính sao chổi và thiên thạch đã mang lại sự sống cho Trái đất, hoặc là mang tới những phân tử sinh học thiết yếu để kích thích sự sống. Một mục tiêu quan trọng khác nữa của dự án là tìm hiểu về cơ chế hình thành nên sao chổi, dựa trên những mẫu vật thu thập được. Thông tin này sẽ giúp các nhà khoa học phát hiện và tiêu diệt các vật thể bay nguy hiểm lảng vảng gần Trái đất hơn. Theo Space.com, hiện các nhà khoa học NASA vẫn đang hình dung ra thiết kế tối ưu nhất cho loại tên lửa hình lao móc này. Hiện họ đang sử dụng một cung tên máy cao 1,8m cùng hệ thống dây cung bằng thép dày 1,2cm. Thiết bị này sẽ cố gắng bắn tên móc với nhiều tốc độ khác nhau để xuyên qua nhiều loại vật liệu như cát, băng và đá. Họ cũng đang thiết kế nên khoang đựng mẫu vật thu thập được ở gần đầu mũi tên rộng. Nếu dự án này thành công, trong tương lai, một số tàu vũ trụ sẽ được trang bị tên lửa móc để có thể bắn các sao chổi lại gần. Tàu sẽ xác định mục tiêu và bắn loại tên lửa móc phù hợp dựa trên phân tích bề mặt của sao chổi. Khoang rỗng sẽ mở ra, thu thập mẫu vật trong khi tên lửa móc khoan sâu vào bề mặt sao chổi. Một khi tên lửa móc đạt đến độ sâu tối đa, khoang mẫu vật sẽ đóng chặt lại và tàu vụ trụ sẽ rút nó về, để lại đầu tên ở sao chổi. Như vậy là các nhà khoa học sẽ có thể thu thập mẫu vật mà không phải khó khăn tìm cách hạ cánh trực tiếp lên sao chổi.
-
Tái cơ cấu DNNN: Chính phủ gánh thêm nợ? (VEF.VN) - Theo Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ nhận định, chi phí tái cấu trúc DNNN có thể phát sinh lớn, là gánh nặng với nền kinh tế, nhiều khả năng tăng thêm nợ công. Trong buổi tọa đàm mới đây, Bộ trưởng Vương Đình Huệ đánh giá, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các DN này còn yếu mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lực. Ông Huệ lẫy dẫn chứng, trong năm 2009 để tạo ra một đồng doanh thu, DNNN phải sử dụng tới 2,2 đồng vốn, trong khi đó DN ngoài quốc doanh chỉ cần 1,2 đồng và DN FDI là 1,3 đồng. Trong khi so với mức trung bình chung của các DN VN là 1,5 đồng. Ông Huệ cho biết, năm 2010, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty mới chỉ đạt 16,5%. Trong 10 năm qua, con số này trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào vượt quá 6%, trong khi các DN FDI luôn duy trì ở trên mức trên dưới 10%. Sở dĩ có sự yếu kém đó là do sự chậm chạp trong nhận thức về đổi mới, hạn chế về lựa chọn, xây dựng, chiến lược, mô hình, cơ chế chính sách cho phát triển DN nói chung và DNNN nói riêng. Bên cạnh đó, các đơn vị này đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ thuộc nhiều vào vốn vay; hay tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường trong một số lĩnh vực làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển. Ông Huệ nêu ví dụ cụ thể, Tcty Thép VN chiếm 35% thị phần trong nước, Tcty Công nghiệp Xi măng VN chiếm trên 50%, TĐ xăng dầu VN chiếm trên 60%, TĐ Điện lực VN sản xuất và cung ứng tới 80% nhu cầu tiêu thụ điện toàn xã hội; Riêng TĐ công nghiệp Than - Khoáng sản cũng chiếm đến 98% thị phần. Bộ trưởng Vương Đình Huệ chia sẻ, việc Tái cơ cấu DNNN được xác định là khó khăn nhất cho dù đó là DN ngân hàng hay phi ngân hàng. Bên cạnh đó, để giải quyết, sắp xếp việc làm và lao động dôi dư cũng là một thách thức không nhỏ. Xét về mặt kinh tế, chi phí cho tái cơ cấu DNNN bao gồm các khoản nợ phải thu khó đòi, khoản lỗ, chi giải quyết việc làm người lao động, cấp vốn cho các định chế tài chính trung gian có thể phát sinh lớn, ước hàng chục tỉ đồng. "Đây sẽ là gánh nặng đối với nền kinh tế, nhiều khả năng làm tăng thêm nợ công nếu không có phương án xử lý tốt". Bộ trưởng Tài chính nói. Ông Huệ đề xuất năm nhóm giải pháp TCT DNNN, trong đó tập trung vào các TĐ kinh tế và Tổng công ty nhà nước. Một là, thực hiện sắp xếp các DNNN hiện có thành các nhóm DN và có giải pháp cụ thể như nhóm 100% vốn NN, trên 75% vốn thuộc sở hữu NN, từ 65-75% vốn thuộc sở hữu NN và nhóm NN không nắm giữ cổ phần chi phối. Hai là, thực hiện nhất quán cổ phần hóa (CPH) DNNN theo hướng giảm tỉ lệ sở hữu tại các DN, thu hút đầu tư chiến lược và có giải pháp đồng bộ phát triển thị trường chứng khoán và mua bán nợ. Ba là, điều chỉnh, xây dựng mô hình chiến lược phát triển cơ cấu lại vốn, phù hợp với từng TĐ, Tcty NN, chấm dứt tình trạng đầu tư ngoài ngành. Bốn là, đổi mới, tăng cường quản lý giám sát nhà nước đối với DNNN. Năm là, sắp xếp, TCT căn bản các công ty nông, lâm nghiệp. "Trong năm nay phải xây dựng xong Đề án TCT DNNN, không thể chậm trễ hơn". Ông Huệ nhấn mạnh. Ông Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đề xuất, phải tạo được môi trường bình đẳng, minh bạch để thu hút đầu tư tư nhân trong nước. "Lâu nay chúng ta có một mệnh đề: kinh tế tư nhân không làm được thì NN làm. Cái này không sai nhưng phải tư duy ngược lại: Tư nhân phát triển đến đâu thì DNNN rút lui tới đó, phải hỗ trợ họ chứ không cạnh tranh chèn ép họ". Ông Cung nêu quan điểm. Đại diện ban đổi mới DNNN, ông Phạm Viết Muôn, Phó ban thường trực Ban chỉ đạo đổi mới DNNN nhấn mạnh, giờ là thời điểm cần hành động. Điều vướng mắc hiện tại là cơ chế chính sách cần CPH DNNN. Năm nay mới chỉ làm được có 30 DN. Trong khi muốn CPH 573 DN trong 5 năm thì bình quân mỗi năm phải làm được 150 DN.
-
Triều Tiên cảnh báo Hàn Quốc chịu 'tai họa' Bình Nhưỡng hôm nay cảnh báo về "những tai họa khôn lường" trong mối quan hệ liên Triều, nếu Seoul không nới lỏng các quy định cho phép người Hàn Quốc sang Triều Tiên bày tỏ lòng thành kính với ông Kim Jong-il. Người dân Triều Tiên bày tỏ sự thương tiếc Chủ tịch Kim Jong-il trước một bức chân dung của ông tại thủ đô Bình Nhưỡng. Ảnh: AP. Khẳng định rằng thế giới đang thương tiếc "một người vĩ đại", Bình Nhưỡng tiếp tục lên án thái độ của Seoul đối với cái chết của ông Kim. Trước đó, hôm thứ năm, Triều Tiên công bố mở cửa biên giới cho mọi người Hàn Quốc muốn đến Bình Nhưỡng viếng và chia buồn. Theo luật định, chính phủ Hàn Quốc là nơi cấp giấy phép cho những cá nhân và tổ chức muốn qua biên giới liên Triều cũng như bất cứ mối liên lạc nào với Bình Nhưỡng. Chính phủ Hàn Quốc đã cho phép hai đoàn cá nhân đi viếng ông Kim, và không gửi một phái đoàn chính thức nào. Hàn Quốc cho rằng Triều Tiên đã thực hiện hai vụ tấn công gây chết người ở gần khu vực giới tuyến nam bắc trong năm ngoái, gồm vụ chìm tàu hải quân và pháo kích. Tuy nhiên Seoul đã giữ một thái độ tương đối ôn hòa kể từ khi Bình Nhưỡng công bố tin ông Kim qua đời hôm thứ hai tuần này. Hàn Quốc đã gửi lời chia buồn tới nhân dân Triều Tiên, bỏ kế hoạch thắp sáng cây thông Giáng sinh gần biên giới, và cho biết sẽ cho phép người Hàn Quốc gửi các thông điệp chia buồn - có qua kiểm duyệt - tới miền bắc. Trong khi đó truyền thông Triều Tiên tỏ thái độ tức giận. "Những hành động trái đạo đức của chính quyền bù nhìn miền nam ... khiến toàn thể người Triều Tiên và thế giới căm phẫn", AFP dẫn lời phát ngôn viên của Ủy ban tái thống nhất hòa bình của Triều Tiên phát biểu với hãng thông tấn quốc gia nước này. ỷ ban là cơ quan thuộc nhà nước Triều Tiên, phụ trách quan hệ liên Triều. "Chính quyền Hàn Quốc cần nhớ rằng sự cản trở của họ sẽ kéo theo những tai họa khôn lường cho mối quan hệ bắc - nam", phát ngôn viên trên nói thêm. Hàn Quốc đã cho báo động quân đội ngay sau khi có tin ông Kim Jong-il qua đời. Tuy đưa ra những lời lẽ to tát, nhưng phái Triều Tiên hầu như chưa có bất kỳ động thái quân sự đáng kể nào kể từ sau cái chết của ông Kim, theo nhận định của giới tình báo Hàn Quốc.
-
Đây là diễn đàn để trao đổi học thuật của người thực sự muốn tìm hiểu về Phong thủy Lạc Việt.... Còn những kẻ ỡm ờ thì a lê hấp..Biến! Đừng nhố nhăng như con loăng quăng.
-
Triều Tiên bất ngờ 'thử tên lửa' Triều Tiên hôm nay bắn thử một loại tên lửa tầm ngắn ở ngoài khơi bờ biển phía đông nước này, cùng ngày đưa ra thông báo về sự ra đi của Chủ tịch Kim Jong-il, hãng tin Hàn Quốc cho biết. Một vụ thử tên lửa của Triều Tiên. Ảnh: AFP Hãng tin Yonhap của Hàn Quốc trích một nguồn tin là quan chức không nêu tên của Triều Tiên cho hay quả tên lửa được phóng đi không có liên quan gì tới thông báo Chủ tịch Kim qua đời vì một cơn đau tim. Theo quan chức giấu tên nói trên, vụ thử tên lửa được giám sát chặt chẽ bởi các sĩ quan quân sự Triều Tiên. Đây là loại tên lửa có tầm bắn khoảng 120 km. Việc tên lửa này được bắn thử nằm trong kế hoạch cải thiện các loại vũ khí của Triều Tiên. Triều Tiên thời gian qua đang tiến hành thử nghiệm các tên lửa KN-06 mới, một phiên bản cải tiến của các tên lửa đất đối đất KN-01 và KN-02. Triều Tiên liên tục tiến hành các cuộc bắn thử tên lửa tầm ngắn trong những năm gần đây. Giới chức Hàn Quốc cho rằng các cuộc thử nghiệm của Triều Tiên nằm trong các cuộc tập trận thường kỳ, nhưng đôi khi những cuộc bắn thử lại trùng với những giai đoạn căng thẳng trong quan hệ liên Triều. Bộ Quốc phòng Hàn Quốc hiện từ chối xác nhận thông tin về vụ phóng thử tên lửa của Triều Tiên. Quân đội Hàn Quốc hôm nay được đặt trong tình trạng báo động sau khi truyền hình Triều Tiên thông báo về sự qua đời của ông Kim Jong-il, người mất hôm 17/12 ở tuổi 69 khi đang đi thị sát bằng tàu hỏa.
-
Thuyền chở gần 400 người chìm ở Indonesia Một con thuyền chở người di cư trái phép vừa bị chìm ngoài khơi Indonesia khiến gần 400 dân di cư trên thuyền mất tích. Con thuyền bị chìm ngoài khơi phía nam đảo Java khi đang trên đường đến Australia. Đồ họa: BBC Hãng thông tấn quốc gia Antara dẫn lời đội tìm kiếm và cứu hộ Indonesia cho hay con thuyền chở 380 người bị chìm ở phía nam bãi biển Prigi, đảo Java, phía đông Indonesia chiều qua. Con thuyền gặp nạn được cho là loại tàu đánh cá và có trọng tải chỉ khoảng 100 người. Những người trên thuyền hầu hết là dân di cư. Hoạt động cứu hộ đã được triển khai nhưng bị cản trở bởi do thời tiết xấu và biển động mạnh. Hiện mới chỉ có 76 di dân được cứu sống và nhận hỗ trợ ở thị trấn Prigi, cách nơi chìm thuyền khoảng 30 km. Đội cứu hộ cho rằng nhiều nạn nhân vẫn còn sống và có thể bị mất nước nghiêm trọng. Esmat Adine, 24 tuổi, một nạn nhân sống sót người Afghanistan, cho hay thuyền đang trên đường đến đảo Christmas của Australia. Sau khi thẩm vấn những người sống sót, cảnh sát địa phương cho hay dân di cư trên thuyền mang nhiều quốc tịch, trong đó có Afghanistan, Iran và Pakistan và Dubai. Đây là vụ chìm thuyền mới nhất trong hàng loạt tai nạn đường thủy liên quan đến dân di cư trong những năm gần đây. Mỗi năm, có hàng nghìn người tị nạn đã thông qua các quốc gia Đông Nam Á để đến Australia. Họ có thể phải bỏ ra đến hàng nghìn USD để có một chỗ trên những con thuyền tồi tàn của các nhóm buôn người ở Indonesia và thực hiện những chuyến vượt biển nguy hiểm. Australia đã nỗ lực thiết lập một trung tâm xử lý khu vực ở các nước láng giềng nhằm giảm thiểu lượng người tị nạn sang nước này nhưng không thành công. Tàu Indonesia chìm giữa sóng to gió lớn và cá mập Con tàu chở quá tải xuất phát từ Indonesia mang theo những người di cư đến từ nhiều quốc gia đi tìm miền đất hứa. Giữa một vùng biển đầy cá mập, sóng to và gió lớn, tàu chìm cùng với sinh mạng của hơn 200 người. Thảm kịch xảy ra hôm qua ở phía nam đảo Java của Indonesia, phía bắc đảo Giáng sinh của Australia - nơi mà những người trên thuyền muốn đến. Con tàu chỉ có năng lực chở khoảng 100 người nhưng có tới 250 đến 380 người trên tàu. Nó chìm cách đảo Java 40 hải lý về phía nam, trên chặng đường nổi tiếng là nguy hiểm. Một trong số những người sống sót, sinh viên người Afghanistan 17 tuổi tên là Armaghan Haidar, kể lại rằng anh đang ngủ khi cơn bão ập đến và quăng quật con thuyền. "Tôi thấy nước bò vào chân nên tỉnh dậy. Khi con thuyền lao lên hụp . xuống, mọi người hoảng loạn, la thét và tìm cách chạy thoát thân", anh nói với AFP. "Tôi cố sức bơi ra và bám vào mạn con thuyền cùng khoảng 100 người khác. Có độ 20 hay 30 người có áo phao, nhưng còn chừng 100 người nữa mắc kẹt bên trong tàu". Những người sống sót trôi nổi trên biển trong vòng 6 giờ trước khi được các ngư dân cứu sống. Hiện họ được lưu giữ tại môt nhà cộng đồng ở bãi biển Prigi, cách thủ đô Jakarta hơn 600 km về phía đông nam. Họ nói họ có giấy tờ của Liên Hợp Quốc chứng minh là người tị nạn. Con số người được cứu sống hiện khác nhau, dao động từ 33 đến 76 người. Hiện các nhân viên cứu hộ tiếp tục rà soát vùng biển với hy vọng tìm thấy người gặp nạn. "Chúng tôi điều 4 tàu và hai trực thăng, nhưng cho đến nay chưa tìm thêm được người nào sống sót. Dường như họ đã chết đuối hết cả", phát ngôn viên Trung tâm cứu hộ cứu nạn Indonesia cho biết. "Thậm chí cả người bơi giỏi và có áo phao cũng khó có thể bơi được vào bờ trong điều kiện khắc nghiệt như thế này. Khi các tàu thuyền chìm, thi thể các nạn nhân thường nổi lên vào ngày thứ ba", quan chức trên nói thêm. Sóng ở khu vực xảy ra tai nạn cao tới 5 mét. Indonesia đã triển khai 300 nhân viên cứu hộ, bao gồm người của lực lượng hai quân và cảnh sát, phối hợp tìm kiếm các nạn nhân. Hầu hết những người đi trên con thuyền xấu số này là người Iraq, Afghanistan, Pakistan, Iran và Arab, qua Indonesia để tìm đường nhập cư trái phép vào Australia. Nhiều trong số những người sống sót cho hay họ đến từ Iran và Afghanistan, đã phải trả cho những người môi giới 2.500 đến 5.000 USD để tìm đường tị nạn ở Australia. Anh sinh viên Haidar kể anh dã bay từ Dubai sang Indonesia, sau đó lên tàu ở Tây Java. "Chúng tôi muốn đến đảo Giáng sinh và sống cuộc sống tốt hơn khi ở Australia. Ở Afghanistan chẳng có gì. Chỉ có khủng bố. Chúng tôi không được học hành, không được đến trường, không có việc làm. Chẳng có tương lai nào cho chúng tôi ở đó cả". Hằng năm có hàng nghìn người tị nạn tìm đường qua các nước Đông Nam Á để đến Australia. Rất nhiều trong số này đã phải qua tay các nhóm buôn người và trải qua hành trình đầy hiểm nguy trên biển. Đảo Giáng sinh là một điểm đến ưa thích của những kẻ buôn người, bởi đảo nằm gần Indonesia hơn cả đảo chính của Australia. Năm ngoái, 50 người đã mất mạng trên biển khi một con tàu chở người nhập cư lậu chìm. Chính phủ Australia cho biết ưu tiên của họ hiện nay là phối hợp cứu người bị nạn. Nước này đã không đạt được thành công trong việc thiết lập các trung tâm sàng lọc người tị nạn đặt tại các nước láng giêng. Làn sóng nhập cư trái phép vào Australia dường như đang tăng lên bởi chỉ trong tháng 11 vừa rồi, Australia đã chặn được 9 tàu đang tìm cách xâm nhập lãnh hải.
-
Lật giàn khoan dầu Nga, 53 người có thể đã chết Ít nhất hai người thiệt mạng và 51 người mất tích trong làn nước lạnh giá âm 17 độ C, sau khi một giàn khoan dầu ở biển Okhotsk ở Viễn Đông Nga bị lật. Giàn khoan Kolskoye có 67người, ở cách bờ 200 km. Vụ việc xảy ra lúc sáng nay trong lúc gió to, AFP cho hay. "Chúng tôi đã cứu 14 trong số 67 người", phát ngôn viên chính quyền vùng cho biết. "Hiện có hai thi thể đã được phát hiện, nhưng chúng tôi chưa thể đưa họ ra khỏi nước". Trong số những người được cứu có hai đang trong tình trạng nguy kịch. Giàn khoan dầu Kolskoye của Nga. Ảnh: Shipspotters. Cho đến tối theo giờ địa phương, toàn bộ giàn khoan bị lật đã chìm nghỉm, người ta phát hiện được cả bốn chiếc xuồng cứu hộ đều không có người trên đó. Công tác cứu hộ gặp khó khăn do nhiệt độ thấp, gió lớn và sóng to, sóng cao tới 5 mét. Vụ tai nạn xảy ra khi giàn khoan đang được một tàu kéo và một tàu phá băng kéo từ bán đảo Kamchatka về đảo Sakhalin. "Tàu bị hỏng bởi tác động của sóng và băng đá, vì thế nước chui vào trong tàu", quan chức nói trên cho biết. Thủy thủ đoàn chờ trực thăng đến cứu hộ, nhưng giàn khoan đã bị lật và chìm trước khi trực thăng đến và họ cũng không kịp xuống thuyền cứu sinh. Giàn khoan này đã bị hỏng hóc trước khi tai nạn hôm nay xảy ra, và người ta đã phải bơm nước ra khỏi bể khí của giàn. Bản thân con tàu kéo giàn khoan cũng gặp phải vấn đề do có một vết nứt trong buồng động cơ. Cho đến khi máy bay cứu hộ đến thì các thủy thủ đã phải chống chọi với nước lạnh trong 6 giờ đồng hồ. Giới chức Nga không phát biểu về việc liệu họ có hy vọng tìm thấy người sống sót hay không. Họ hy vọng các thủy thủ mặc bộ đồ bảo hộ và áo phao. Giàn khoan bị lật thuộc sở hữu của một công ty quốc doanh. Nó thực hiện nhiệm vụ khai thác ở phía tây bán đảo Kamchatka, cho một công ty thuộc tập đoàn khí Gazprom. Kết quả điều tra ban đầu cho thấy nguyên nhân tai nạn có thể là do trong quá trình vận chuyển, các công nhân đã không tuân thủ nguyên tắc an toàn giao thông trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Giới chức cho hay nguy cơ tràn dầu ra môi trường là "rất nhỏ". Đây là tai nạn đường thủy lớn thứ hai ở Nga kể từ tháng 7. Khi đó, 122 người trong đó có nhiều trẻ em đã thiệt mạng khi một con tàu chở quá tải chìm trên sông Volga trong thời tiết xấu.
-
Đại hồng thủy' tấn công Philippines như thế nào? Cơn bão nhiệt đới Washi đổ bộ miền năm Philippines đêm 17/12, trong lúc mọi ngươi đang ngon giấc. Bão gây nước lũ đột ngột khiến hàng trăm nghìn người dân không kịp trở tay và làm chết gần 500 người. > Cảnh bão Washi tàn phá Philippines Một binh sĩ giúp một phụ nữ bế thi thể của con trai ở Iligan Ảnh: AFP Bão nhiệt đới Washi bất ngờ tấn công đảo Mindanao, phía nam Philippines với sức gió 90 km/h kèm theo mưa lớn. Bão nhanh chóng gây ngập và sạt lở đất ở miền nam Philippines. Hai trong số ba con sông chảy qua thành phố Iligan đều đã tràn bờ. Số người thiệt mạng vì cơn bão bất ngờ đã lên đến 497, trong khi số người mất tích cũng xấp xỉ 200. Thành phố Cagayan de Oro và Iligan là những nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. "Đây là trận lụt khủng khiếp nhất trong lịch sử thành phố chúng tôi", ông Lawrence Cruz, thị trưởng Iligan nói. Do Mindanao nằm ngoài vành đai bão nên người dân ở đây hoàn toàn chủ quan. Video: Philippines trong đại hồng thủy Marlyn Manos, một người dân Iligan, nhớ lại cảnh cô và các con đứng trên mái nhà nhìn cơn đại hồng thủy càn quét những ngôi nhà bên cạnh. "Tất cả những ngôi nhà nhỏ đều bị phá hủy, nhiều hàng xóm của tôi vẫn đang mất tích", Telegraph dẫn lời Marlyn. Eric Carillo, một cư dân khác của Iligan, cho biết mưa lớn đã đổ xuống thành phố này từ chiều 16/12 nhưng gia đình anh không được cảnh báo gì và cũng không tìm nơi trú ẩn cao hơn. "Tôi đã ở đây 47 năm và đây là trận lụt khủng khiếp nhất tôi từng trải qua", Eric nói. Trong số những vật dụng cần thiết nhất hiện nay có túi đựng thi thể và quan tài, ông Benito Ramos, người đứng đầu cơ quan khắc phục hậu quả thiên tai của chính phủ cho AP biết. "Thật khủng khiếp. Chúng tôi không lường được là có nhiều người chết đến thế", Ramos nói. Hai thành phố Cagayan de Oro và Iligan đầy rẫy cảnh hoang tàn và tuyệt vọng. Con sông đầy nước lũ tràn bờ đã gây ngập lụt cả một vùng vốn không quen chịu cảnh lụt bão. Môt người đàn ông dập dềnh trên làn nước đục ngầu, rải rác xung quanh là các thùng nhựa, mảnh gỗ và những đống đổ nát. Khoảng 10 người của một gia đình đứng trên mái nhà, chờ người cứu hộ trong khi nước dâng lên ngập những tầng thấp hơn của ngôi nhà. Truyền hình địa phương chiếu cảnh nước đục ngầu quét qua các đường phố, cuốn phăng tất cả các loại rác rến. Ở những nơi nước đã rút bớt, từng lớp bùn đọng dầy khắp nơi. Một chiếc ô tô bị hất tung qua bức tường chắn, những chiếc xe khác bị nước đẩy dồn thành đống hoặc bị đè bẹp. Quân đội Philippines đã huy động 20.000 binh sĩ để tìm kiếm và cứu hộ các nạn nhân. Phát ngôn viên quân đội của vùng cho biết hàng trăm thi thể đã được tìm thấy ở thành phố Cagayan de Oro và Iligan. Khoảng 250 người ở Iligan vẫn đang mất tích, còn ở Cagayan de Oro, thành phố một triệu dân, số thiệt mạng là 125 người. Ở các thị trấn khác cũng ghi nhận một số người chết đuối hoặc thiệt mạng vì lũ quét và sạt lở đất. CNN cho biết chính quyền địa phương đã bắt đầu phân phát thực phẩm cũng như chăn và màn chống muỗi cho khoảng 10.000 gia đình bị ảnh hưởng của bão. Ít nhất 350.000 người đang phải chen chúc trong các trại sơ tán. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã bày tỏ sự cảm thông và chia sẻ của chính phủ Mỹ với người dân Philippines. Bà Clinton khẳng định Mỹ sẵn sàng hỗ trợ Philippines khắc phục hậu quả thiên tai này. Philippines hứng chịu khoảng 20 cơn bão lớn mỗi năm, trong đó đảo Luzon, hòn đảo lớn nhất và đông dân nhất, là nơi thường xuyên bị bão tấn công. Cuối tháng 9, hai cơn bão Nesat và Nalgae đã làm hơn 100 người Philippines thiệt mạng. Đường đi dự kiến của bão Washi, theo đó nó sẽ quét qua cực nam Việt Nam vào ngày 19/12. Đồ họa: NCHMF
-
Năm nào cũng có anh hùng. Năm nào cũng có thằng khùng thằng điên. http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/1.gif Một ngày đi tỉnh của Đại sứ Mỹ Thúc đẩy đầu tư Mỹ vào Việt Nam và tăng cường giao thương giữa hai nước là một trong những mục tiêu ưu tiên của Đại sứ David Shear. Ông hy vọng khi kết thúc nhiệm kỳ, ông sẽ đi đủ 63 tỉnh thành của Việt Nam. Hôm qua (16/12), ông có chuyến đi về Thái Bình. Phút thư giãn của Đại sứ David Shear tại quán cà phê Cát Tường, TP Thái Bình, trong khi chờ đến giờ gặp lãnh đạo UBND tỉnh. Đại sứ nói rằng nếu không có chương trình làm việc ở đây, ông sẽ ngồi tiếp và lấy sách ra đọc - một trong những thú vui của cả hai vợ chồng ông trong những lúc rảnh rỗi ở Hà Nội Lắng nghe lãnh đạo tỉnh giới thiệu về địa phương, trước khi đề nghị giới thiệu giúp các nhà đầu tư, kinh doanh từ Mỹ, là một trong những việc mà Đại sứ Shear thường xuyên làm trong những chuyến đi về các địa phương. Câu nói của Chủ tịch Thái Bình, sau khi nhận quà tặng là cuốn sách “Công viên Quốc gia của Mỹ”, rằng ông nhất định sẽ tới thăm công viên này, khiến Đại sứ Shear rất vui. Thế là ông đã quảng bá được về đất nước cho ít nhất một người Việt Nam nữa - một nhiệm vụ của bất kỳ nhà ngoại giao nào. Trong lúc chờ cơm trưa ở nhà hàng “Cây Trầu”, người lái xe đã mời Đại sứ Shear thử uống nước vối. Trên đường về, ông hỏi liệu có thể tìm được “nước vối” ở Hà Nội không. Trung tâm Y tế cộng đồng Thái Bình là một dự án được Chính phủ Mỹ tài trợ. Hôm qua, Giám đốc Trung tâm gửi Đại sứ Shear bản tin định kỳ về hoạt động phòng chống HIV/AIDS của cơ sở này. Bà nói chuyến thăm của ngài Đại sứ đã khích lệ anh chị em của trung tâm cố gắng làm tốt hơn nữa công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Lễ ký kết khoản tài trợ 30.000 USD từ Quỹ Đại sứ, cho một dự án bảo tồn di sản ở Thái Bình. Đại sứ Shear, sau đó, nói với tác giả rằng đầu tư để phát triển tương lai luôn phải gắn với bảo tồn di sản của quá khứ. Đại sứ Shear rất thích thú khi được lãnh đạo bảo tàng giới thiệu rằng sân khấu chèo (chiếu chèo), cũng như múa rối nước - hai loại hình nghệ thuật đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ - có nguồn gốc từ Thái Bình. Tìm hiểu văn hóa Việt Nam để cải thiện sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và nhân dân hai nước là một ưu tiên khác của Đại sứ Shear trong nhiệm kỳ của mình. Lãnh đạo bảo tàng Thái Bình giới thiệu cho nhà ngoại giao từ bên kia đại dương một loại phương tiện giao thông thời phong kiến dành cho vua quan, chức sắc, và nói rằng cỗ kiệu này đang cần được trùng tu. Vẻ háo hức của hai nữ nhân viên bảo tàng khi được chụp ảnh với Đại sứ Mỹ, trong khi người thứ ba đang chờ đến lượt chụp với ông. Khi được hỏi về cảm giác của ông, như một “movies’ star” được nhiều người hâm mộ xin chụp ảnh chung, Đại sứ Shear nói rằng ông rất thích tính cách cởi mở và tự nhiên của người dân Việt Nam. Ông còn nói, khi ký kết khoản tài trợ trùng tu di sản với Giám đốc Bảo tàng, ông thực hiện nhiệm vụ ngoại giao nhà nước, còn khi chụp ảnh kỷ niệm cùng các nhân viên bảo tàng, ông là một nhà ngoại giao nhân dân. Không hiểu đây có phải cuộc đối thoại đầu tiên mà Đại sứ David Shear tham gia, trong cuộc đời ngoại giao của mình hay không. Nhưng chắc chắn nó sẽ xuất hiện trong mục “Gặp gỡ & Đối thoại” trên Tuần Việt Nam vào thứ năm tuần tới.
-
CHIM RƠI HÀNG LOẠT TẠI MỸ Hàng nghìn con chim di cư chết hoặc bị thương do lao xuống các bãi đỗ xe, sân bóng đá và những khu vực có tuyết ở phía nam bang Utah của Mỹ trong những ngày qua. Một con chim le hôi cổ đen rơi xuống khu vực có tuyết tại bang Utah, Mỹ hôm 13/12. Ảnh: AP. AP đưa tin những con chim le hôi cổ đen (Podiceps nigricollis) bắt đầu lao xuống hai thành phố St. George, Cedar thuộc bang Utah, từ hôm 12/12 trong quá trình di cư tới bờ biển phía tây của Mexico để tránh rét. Người ta thấy xác chim trong bãi đỗ xe của siêu thị, nhiều sân bóng đá, vỉa hè, các đường cao tốc và những khoảng trống bị bao phủ bởi tuyết. Người tình nguyện đã dọn dẹp xác chim và cứu chữa những con bị thương. Tới giữa trưa hôm qua họ đã cứu được hơn 3.000 con chim còn sống và thả chúng vào một hồ. Không ai thống kê bao nhiêu con đã chết, song giới chức ước tính con số đó vào khoảng 1.500. “Chúng rơi ở khắp nơi. Hiện tượng chim rơi vẫn tiếp tục diễn ra. Những nhân viên của chúng tôi lái xe khắp thành phố để nhặt chúng. Nhiều người dân cũng mang chim tới trụ sở của chúng tôi”, Teresa Griffin, giám đốc chương trình bảo vệ sinh vật hoang dã của bang Utah, phát biểu. Giới chức chưa nhận được thông báo về việc người bị thương hay tài sản bị hư hại do chim rơi. Kevin McGowan, một nhà nghiên cứu chim của Trung tâm Điểu học Cornell tại bang New York, nói rằng chim hiếm khi lao xuống đất hàng loạt, ngay cả khi chúng nhầm tưởng đất là nước. Đây không phải vụ chim rơi hàng loạt tại Mỹ trong năm nay. Hồi tháng 1 người ta phát hiện khoảng 500 xác chim hét cánh đỏ và sáo đen tại hai khu vực trên tuyến đường cao tốc trong thành phố Pointe Coupee Parish, bang Louisiana. Trước đó, vào ngày cuối cùng của năm 2010, khoảng 2.000 con chim màu đen rơi từ trên trời xuống đất tại thành phố Beebe thuộc bang Arkansas. Theo Vnexpress
-
Vâng, chúc mừng NNC LHDP Nguyễn Vũ Tuấn Anh về những tin tốt lành này! Lời tiên tri về những giá trị văn hóa nói chung của "dị nhân" bắt đầu chứng nghiệm!
-
Chưa chắc đâu bác Cóc Vàng ah. Bên VTC đang thiếu đề tài hot để câu view bác ạh. Giờ viết một số đề tài là phải chú ý không lại bị nhân vật trong bài kiện cho tơi bời khói lửa nên chọn đề tài này viết lại là an toàn nhất đối với "nhà báo" thông minh bây giờ đấy bác ah.
-
Nhà thiên văn lừng danh thế giới về VN thuyết trình - Sáng nay, 6/12, GS vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận, nhà khoa học gốc Việt nổi tiếng thế giới đã có buổi nói chuyện tại Viện Vât lý, mở đầu chuỗi sự kiện kéo dài hơn 2 tuần của ông trong đợt về Việt Nam lần này. Cách đây 2 năm, GS Trịnh Xuân Thuận là người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009. Sinh ra ở Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn, học phổ thông ở Đà Lạt rồi sang Thụy Sĩ du học, Trịnh Xuân Thuận phiêu du cuộc đời mình ở Pháp, rồi Mỹ. Năm 45 tuổi , ông trở về Việt Nam với vai trò là một công dân Mỹ trong phái đoàn của Tổng thống Pháp, Mitterand. Không chỉ nổi tiếng là một nhà vật lý thiên văn có nhiều công trình nghiên cứu gây tiếng vang lớn, ông còn là người đưa thiên văn, một ngành khoa học cơ bản, trở nên gần gũi với mọi người. Trịnh Xuân Thuận thấm nhuần văn hóa Pháp, là công dân và làm việc tại Hoa Kỳ, viết những công trình khoa học bằng tiếng Anh, nhưng viết những tác phẩm về vũ trụ lại bằng tiếng Pháp. Những tác phẩm viết về vũ trụ của ông có cái nhìn tinh tế, giàu mỹ cảm, thấm đẫm tư tưởng triết lý của đạo học Phương Đông, bằng tư duy lô-gích của một nhà khoa học, nhà triết học và trí tưởng tượng của một nhà thơ sành sỏi thiên văn. Kiến thức sâu rộng, đa dạng trên nhiều lĩnh vực giúp những khái niệm về thiên văn mà ông trình bày trở nên mềm mại, óng ả Nhiều tác phẩm của ông được chuyển ngữ qua các bản dịch tài hoa của dịch giả Phạm Văn Thiều, cũng là một nhà vật lý. Có thể kể ra đây những tác phẩm như: Giai điệu bí ẩn, Trò chuyện với Trịnh Xuân Thuận, Hỗn độn và hài hòa, Cái vô hạn trong lòng bàn tay, Nguồn gốc, Từ điển yêu thích bầu trời và các vì sao… Trong buổi nói chuyện sáng nay, khi được hỏi về mối quan hệ giữa khoa học và tâm linh, GS giải thích rằng có nhiều cách để con người tiếp cập sự thật. Khoa học là một trong những cách có quyền năng lớn, và tâm linh hay tôn giáo cũng vậy. Hai hệ thống đều cùng mục đích tìm sự thật thì cả phải hội tụ và cộng hưởng được với nhau. Hơn 20 ngày ở Việt Nam lần này, GS Thuận dành thời gian đến các trường ĐH FPT, ĐHQG Hà Nội, ĐH Quy Nhơn, ĐH Hoa Sen, trung tâm văn hóa Pháp ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM…để phổ biến những phát hiện mới trong thiên văn học, trò chuyện về khoa học và phật giáo, vị trí của con người trong vũ trụ, sách giáo khoa… Lần lượt theo học tại Học viện Công nghệ California, Đại học Princeton rồi bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ tại Đại học Princeto; từ năm 1976 đến nay, GS Trịnh Xuân Thuận đang nghiên cứu và giảng dạy tại Trường ĐH Virgina.
-
Ui, mục tư vấn của bác Hạt gạo làng đông zui nhộn nhịp quá ta. Nhưng đọc các yêu cầu nhờ tư vấn toàn thấy pà kon nhờ tư vấn xây nhà mới, chậc chậc...đã là tư vấn xây nhà mới thì phải có tính phí chứ nhỉ? Chỉ những nhà cũ mà gặp khó khăn về tài chính thực sự thì mới nên nhờ sự tư vấn trên mục này chứ nhỉ?Ở đây phần lớn toàn nhà giàu vào nhờ tư vấn thì phải.
-
TÌM THẤY TỔ KHỦNG LONG Ở MÔNG CỔ Một tổ khủng long niên đại 70 triệu năm tuổi vừa được tìm thấy, trong đó có 15 con khủng long chưa trưởng thành. Các nhà khoa học tin rằng, những con khủng long con bị chôn vùi khi chúng vẫn còn sống. Ảnh: Discovery. Theo tờ Journal of Paleontology, tổ khủng long có tên Protoceratops andrewsi. Chúng được phát hiện tại Tugrikinshire, Mông Cổ, nơi mà quá trình chôn vùi cát diễn ra nhanh và đã khiến những con khủng long con bị vùi lấp khi chúng vẫn còn đang sống. Dựa vào số lượng trứng, các nhà khoa học cho biết tổ khủng long gồm nhiều loài khác như khủng long ăn thịt Oviraptor hoặc những loài khủng long mỏ vịt. Ông David Fastovsky, trưởng khoa nghiên cứu về đất thuộc trường đại học Rhode và các đồng nghiệp đã phân tích hóa thạch khủng long vừa được tìm thấy. Họ đã đo được đường kính của tổ khoảng 60cm. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng, 15 con khủng long có mồm ngắn, hai mắt to tương xứng và không có đặc điểm trưởng thành như có những cái sừng nhô lên và có diềm xếp nếp lớn mà chỉ có loài khủng long trưởng thành mới có. Các nhà khoa học cũng cho rằng, loài khủng long được tìm thấy là loài ăn thực vật tồn tại và lớn lên trong tổ ít nhất trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, số lượng lớn loài khủng long có tỷ lệ tử vong cao không phải từ thức ăn, mà do tác động của môi trường sống. "Những ổ trứng lớn có thể là cách đảm bảo sự sống của các loài động vật trong thế giới tự nhiên vì có sự chăm sóc và bảo vệ của mẹ. Mông Cổ vào thời điểm này là nơi có nhiều loài khủng long ăn thịt ăn những con khung long con ăn thực vật", Fastovsky nói với Discovery. Tổ khủng long này hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Paleontological thuộc Viện Nghiên cứu khoa học Mông Cổ ở Ulan Baatar. Theo Vnexpress
-
CỰU BỘ TRƯỞNG TÀI CHÍNH MỸ: TÔI THẤY GHEN TỊ VỚI VIỆT NAM Cho rằng châu Á đã trở thành khu vực “đầu tàu của kinh tế thế giới” và Việt Nam có thể “tận dụng" cơ hội để phát triển nhanh hơn, cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ John Snow nhấn mạnh: không có đầu tư nào hiệu quả hơn đầu tư vào giới trẻ. Ông John Snow hiện đứng đầu một trong những quỹ đầu tư lớn nhất thế giới - Cerberus - hôm qua (16/11) đã có buổi diễn thuyết “Việt Nam có là điểm đến tin cậy của các đế chế kinh tế thế giới?” ở Hà Nội. Ông bày tỏ lạc quan về “nhân tố mới” của nền kinh tế thế giới. Đó chính là các quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ ở châu Á Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ John Snow. Ảnh: Phương Loan Với Việt Nam, ông kể: “Khoảng năm 1992, ở Mỹ, người ta cho rằng, đầu tư vào châu Á, trong đó có Việt Nam là ý tưởng điên rồ. Nay đã khác rồi. Những quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP tốt và ổn định như Việt Nam sẽ thu hút đầu tư. Việt Nam đang có những cơ hội để phát triển vượt bậc”. Một trong những lợi thế của Việt Nam được ông chỉ rõ, đó là con người. Với dân số đông, tỷ lệ lao động trẻ cao, Việt Nam nên đầu tư mạnh hơn để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các trường đại học. “Không có đầu tư nào hiệu quả hơn đầu tư vào giới trẻ. Đầu tư dài hạn như vậy rất cần thiết. Trong vài thập kỷ tới, các bạn sẽ thấy rõ triển vọng đó” - ông Snow nhấn mạnh. Ông chia sẻ: “Bản thân tôi còn cảm thấy ghen tị với những gì Việt Nam làm được. Mỹ không có sự năng động đó, dân số đang bị già hóa rất nhanh, chính phủ đang phải chi trả lớn cho phúc lợi, lương hưu… và điều đó kìm hãm sự năng động”. Hút vốn đế chế kinh tế thế nào? Ông John Snow chia sẻ cách thức để Việt Nam có thể thu hút đầu tư của các “đế chế kinh tế” trên thế giới. Nhấn mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là cơ hội để mang vốn về, TS Snow cho hay “nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang chuẩn bị để vào Việt Nam”, bởi sau khi tái cơ cấu, cổ phần hóa, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng lên. Với tình trạng khó khăn của doanh nghiệp, ông cho rằng đó chưa phải là điều tệ. Dẫn ra bài học từ sự phá sản của các doanh nghiệp Mỹ chỉ vài ba năm sau khi ra đời, ông cho rằng, sự phá sản của một doanh nghiệp là điều đáng buồn với chính doanh nhân, nhưng với nền kinh tế, điều đáng buồn hơn sẽ là khi các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả vẫn có thể tồn tại. “Nợ nần và phá sản của doanh nghiệp nên được xem là yếu tố tích cực để tạo một thị trường thực sự lành mạnh, cạnh tranh. Bản thân thị trường sẽ kiểm tra sức khỏe, sức cạnh tranh của doanh nghiệp”. Ông Snow cũng cho rằng sáp nhập không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết khó khăn của doanh nghiệp. Thực tế chứng minh không ít vụ sáp nhập dẫn tới thảm họa, bởi không tạo ra động lực phát triển cho doanh nghiệp. “Sát nhập phải gắn với cá nhân chịu trách nhiệm cho việc làm này và hiệu quả của nó. Nếu đó chỉ là phép cộng đơn thuần về mặt tổ chức, sáp nhập sẽ không bao giờ thành công”. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, vị chủ tịch quỹ Cerberus Capital cho rằng, trong tình hình hiện nay, họ cần mạnh dạn bước ra thị trường thế giới để tìm đối tác. Dòng vốn có thể chảy vào Việt Nam nếu thủ tục pháp lý khai thông vì lợi nhuận luôn là điều đầu tiên khi các nhà đầu tư quan tâm khi mà Việt Nam đạt được sự ổn định, có biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, có cơ sở hạ tầng được đảm bảo, có nguồn nhân lực và môi trường cạnh tranh bình đẳng... Ông cũng chia sẻ thêm, trong điều kiện khó khăn hiện nay trên toàn cầu, các nền kinh tế trên thế giới từ Đông Nam Á, Ấn Độ, Nam Á đều chịu những ảnh hưởng và tác động nhất định. Trong bối cảnh khó khăn, các quỹ sẽ là nguồn giải cứu đối với doanh nghiệp. Bài học nợ công Ông John Snow cũng trao đổi về vấn đề nợ công và sức sống của nền kinh tế. Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ chỉ ra một trong những nguyên nhân của làn sóng nợ công ở châu Âu và việc nền kinh tế Mỹ đối mặt nợ và thâm hụt ngân sách lớn là hệ quả của văn hóa chi tiêu vượt quá khả năng trả nợ. Trong nhiều năm, người ta đã trong cảnh: vay để đầu tư đến đi vay để trả các khoản vay nợ khác. Nhà nhà vay, người người vay, doanh nghiệp vay và vay với mức thấp để đầu tư bất động sản. Chính điều đó đã tạo nên tình trạng bong bóng về bất động sản. “Tiền ảo, nhà cửa ảo, kể cả thẻ tín dụng cũng ảo. Khi bóng bóng vỡ, tất cả sẽ lâm vào một tình cảnh khủng hoảng, vì không có cách trả nợ”. Ông cho hay, nền kinh tế Mỹ đang phải giải quyết "khủng hoảng" thông qua giảm tiêu dùng, tức giảm GDP, mức giảm thậm chí nhiều hơn quốc gia châu Âu, Á. Việt Nam cần tránh được những gì Mỹ và các quốc gia thuộc khu vực châu Âu đang gặp phải. “Nợ là con sóng lớn có thể nhấn chìm bất cứ con thuyền kinh tế nào ngoài đại dương, nhất là các nền kinh tế nhỏ”, ông Snow nói. Theo Vietnamnet
-
"anh doivui" ới ời ơi! "anh" lại phải khao thêm độ rồi, tự nhiên lên chức , sướng nha. Chậc chậc...công nhận doivui có năng khiếu chụp ảnh thật
-
MỘT NGÂN HÀNG SẴN SÀNG MUA LẠI NỢ CỦA VINASHIN "Chúng tôi sẵn sàng mua lại toàn bộ khoản nợ của Vinashin với giá bằng 35% mệnh giá, tức 210 triệu đô la Mỹ so với gốc 600 triệu đô la Mỹ, và trả tiền ngay" - chủ tịch hội đồng quản trị một ngân hàng lớn của Việt Nam cho biết. Không chỉ ngân hàng ông, một số tổ chức tài chính khác và quỹ đầu tư nước ngoài cũng quan tâm mua số nợ này. Vấn đề chỉ là giá bao nhiêu. Suốt 13 tháng qua giá nợ của Vinashin dao động rất mạnh trên thị trường quốc tế tùy thời điểm và tùy người mua, người bán. Tháng 9/2010, trái phiếu nợ của tập đoàn được chào mua - chào bán xung quanh 60% mệnh giá. Nó nhảy lên gần 70% mệnh giá vào tháng 10 và khi ấy một quỹ đầu tư nước ngoài tại TP.HCM đã tận dụng thời cơ bán ra 50 triệu đô la Mỹ (giá trị gốc). Sau đó giá rớt dần và gần như đứng ở mức 50% mệnh giá suốt thời gian Vinashin và các chủ nợ thương lượng, tìm một lối ra khả thi. Đầu tháng 11 này, Elliott Vin (Hà Lan), một quỹ đầu tư mạo hiểm và là một trong những chủ nợ nước ngoài, đã đệ đơn kiện tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy và 21 công ty con lên Tòa Thượng thẩm London nhằm đòi nợ, thì giá nợ có lúc chỉ còn giao dịch ở mức bằng 40% mệnh giá. Liệu sự việc sẽ đi đến đâu sau gần một năm đàm phán chưa mang lại kết quả giữa các bên? "Ông đưa chân giò, bà thò chai rượu" Vào tháng 12 năm ngoái Vinashin phải trả 60 triệu đầu tiên (phần gốc, lãi trả riêng) trong tổng nợ 600 triệu đô la Mỹ mà một nhóm các ngân hàng nước ngoài đã cho vay trước đó. Sau đấy cứ sáu tháng tập đoàn lại trả tiếp 60 triệu đô la Mỹ, tương đương 10% khoản nợ. Như vậy, nếu theo đúng hợp đồng, đến tháng 12 này Vinashin đã phải trả tổng cộng 180 triệu đô la Mỹ. Các chủ nợ đã "nóng ruột" khi không nhận lại được gốc và lãi của phần nợ đầu tiên. Credit Suisse (Singapore), đơn vị bảo lãnh phát hành cho khoản nợ và đồng thời là chủ nợ lớn nhất, đã liên tục đề nghị các cuộc gặp để thương thảo. Tháng 4/2011, một ủy ban bao gồm bốn chủ nợ là Credit Suisse, Depfa Bank, Maybank, Elliott Advisors đã được thành lập. Standard Chartered Bank lúc đầu là thành viên của ủy ban, nhưng rút lui sau đó không lâu. Những lãnh đạo mới của Vinashin nhận thức rất rõ trách nhiệm trả nợ và nhất là ảnh hưởng có thể có của vụ việc đến uy tín tài chính quốc gia. Sau khi được một số ngân hàng trong nước bật đèn xanh, Vinashin chính thức đưa ra hai đề nghị với các chủ nợ. Hoặc tập đoàn trả ngay số nợ với mức bằng 35% mệnh giá ban đầu, hoặc hoán đổi hợp đồng cũ thành hợp đồng vay mới với những điều kiện mới. Đổi lại, các chủ nợ đưa phương án: hoán đổi hợp đồng cũ thành hợp đồng vay mới kỳ hạn 15 năm với lãi suất Libor cộng 150 điểm phần trăm/năm. Lãi suất sẽ tăng thêm 50 điểm phần trăm nữa từ năm thứ 11 đến năm thứ 15. Vì sao 35% mệnh giá? Một trong số các ngân hàng nội địa quan tâm mua nợ của Vinashin giải thích mức giá 35% mệnh giá là hợp lý, bởi có thể phải 10 năm nữa Vinashin mới có khả năng trả đủ gốc. Khi mua nợ, ngân hàng phải mua bảo hiểm để tránh rủi ro và phí bảo hiểm trong trường hợp này không thấp chút nào. Mức giá thấp là để bù đắp cho sự mạo hiểm, nơi rủi ro cao, lợi nhuận cao. Một quỹ đầu tư nước ngoài nhận xét mức giá bằng 40% mệnh giá trở xuống là họ có thể xem xét mua. Họ là tổ chức buôn bán trái phiếu chuyên nghiệp. Họ đã từng bán ra trái phiếu nợ Vinashin với giá bằng 70% mệnh giá, mua lại ở mức gần bằng nửa, coi như thành công. Ở đề nghị thứ nhất, thực ra Vinashin chỉ là người chắp nối giữa chủ nợ nước ngoài và các tổ chức mua nợ trong nước. Hiện tập đoàn không có nguồn để trả nợ. Với chủ nợ trong nước, Vinashin dễ khất nợ hơn. Các chủ nợ nước ngoài cũng nhận thấy việc tự trả nợ của Vinashin ở thời điểm này không khả thi, nhưng họ là giới kinh doanh, họ không thể để mất quá nhiều nếu chấp nhận đề nghị thứ nhất. Đề nghị thứ hai thực chất là giãn nợ và nếu là giãn nợ, nó có thể đi kèm chi phí tăng lãi. Nếu Vinashin phải chấp nhận phán quyết của tòa... Elliott không chấp nhận cả hai phương án của Vinashin. Họ là quỹ đầu tư mạo hiểm có kinh nghiệm trong giao dịch nợ, đã từng thắng trong những vụ kiện tương tự. Vinashin đã vi phạm hợp đồng tín dụng và khó có khả năng giành phần thắng lần này. Giả sử nếu Vinashin thua và phải chấp nhận phán quyết của tòa, việc Elliott phát mãi tài sản của các công ty con và tập đoàn sẽ gần như không thực hiện được vì tài sản đó nằm ở Việt Nam. Ngoài ra, phần lớn trong số 21 công ty kia đã được chuyển giao cho Vinalines và PetroVietnam. Chúng không còn thuộc tài sản của Vinashin. Việc bắt giữ các tàu thuộc về Vinalines và PetroVietnam ở hải phận quốc tế hiện nay là trái luật. Điều duy nhất Elliott có thể thực hiện, và đây là điều nguy hiểm đối với Vinashin, là đề nghị phong tỏa các giao dịch thanh toán của tập đoàn với đối tác nước ngoài thông qua hệ thống ngân hàng quốc tế. Trong hơn một năm qua, Vinashin tiếp tục bàn giao cho nước ngoài các tàu đã đóng xong. Việc thanh toán các tàu được giao tiếp trong tương lai, nếu bị phong tỏa, sẽ gây trở ngại cho tập đoàn. Có ít nhất 13 ngân hàng nước ngoài đã tham gia cho Vinashin vay khoản nợ trên. Nguồn tin đáng tin cậy trong giới tài chính nói với TBKTSG, một số ngân hàng đã chuyển nhượng nợ do giá trị ban đầu của khoản nợ nhỏ khoảng 10-20 triệu đô la Mỹ. Hơn một nửa số ngân hàng chủ nợ không muốn tham gia kiện tụng Vinashin vì e ngại ảnh hưởng tới quan hệ kinh doanh của họ ở Việt Nam. Họ đang hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện hoặc ngân hàng nước ngoài với lợi ích kinh tế cao hơn nhiều khoản cho vay hợp vốn ở Vinashin. Theo TBKTSG
-
Ông Chzien Chzung có cái ao toa thế? em T cho c hoải: quả ảnh này đưa vào photoshop chỉnh mất bao lâu? nhuận ảnh quả này được nhiu, đủ mời c đi ăn uống đập phá được chứ?
-
Lang thang trên mạng thấy có một số thông tin về Kinh Dịch copy về đây để các bác tham khảo. ============================== DĨ ĐẠO ÂM DƯƠNG Hà Uyên nguồn: Tuvilyso.org "Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận". Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy". Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu". Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy". Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao ? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được". Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay ! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên. Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy". Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy". Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy". Dịch chi thất tặc Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại. Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được. Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy. Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại. Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được. Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy. Dịch khí tòng hạ sinh Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên. Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba, ... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng". Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra". Nguồn: http://tuvilyso.org/...ve-dich-thuyet/
-
THUYẾT VỀ KHÍ CỦA TRƯƠNG TẢI HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng. Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật. Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật. Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau. Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí) Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức. Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất. THÁI HƯ TỨC LÀ KHÍ Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng. Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí. Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng ! Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí , chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng. "Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí. Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa. Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch". "Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí. Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu ? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô ?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí". Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu". Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong. So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy". Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn. Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể". Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập. Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa". Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ). "Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng). Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc ! Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy ? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau". "Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ. Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa. Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch". Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng".
-
BÀNG THÔNG Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy. Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên. THÀNH KÝ TẾ ĐỊNH Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định. CHI CHÍNH "Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng. Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra. TAM BIẾN THỤ THƯỢNG Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế. Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi. Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy". PHẢN QUÁI Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái. Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá. Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái". Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh. QUÁI TỪ: KHUÊ, TIỂU TỰ SÁT Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành. Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau. Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát. Cổ nhân nói: Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê). Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã). Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự). Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt". Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy". Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được". THẬP NHỊ TÍCH QUÁI Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái. Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch. Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10. Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái". Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". THUYẾT GIẢNG DỊCH CỦA KINH PHÒNG Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học. Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển. Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc. Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học. THẾ - ỨNG Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế". "Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy. Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái". Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy. Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch. Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn, Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ". Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo, ... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch. PHI - PHÚC Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành. Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua". Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau: 1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy. 2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy. 3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy. 4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung. Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng". Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn". Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục". Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng. DU HỒN Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần" Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội". QUY HỒN Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn. Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông. Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)". THẾ QUÁI KHỞI NGUỆT LÊ Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ. Khởi Nguyệt lệ: - Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý. - Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu. - Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần. - Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão. - Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn. - Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị. - Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái. - Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái. Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu". Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm. - Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc - Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh - Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm. - Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân - Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng. - Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá - Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán. - Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly - Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn - Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy - Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế - Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội - Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển - Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di - Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm - Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài. Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả. Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ Nguồn: - Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang - Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn. THUYẾT VỀ DỊCH SỐ Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số. Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh. Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học. Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên. THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập". Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã". Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải). Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái. Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán. Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả". Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số". Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ". Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy". Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số. Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập ... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã". Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch. Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương. Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư. Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau. Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân. Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch , chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau: [Hào âm => ngẫu số 2 => nhất phân vi nhị Tham thiên [Hào số 3 => hàm tam vi nhất => Trung hòa quan Lưỡng địa [Hào dương =>Kỳ số 1 => nhất phân vi tam (nhị hợp vi nhất) Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương. Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học, ... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'. Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập. Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh, ... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư. Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc. SỐ ĐẠI DIỄN Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười) Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn". Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng) Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch. Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn. Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'. Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý. Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào. Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được). Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất. Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài. Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh. Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy". THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói. Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'. Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'. Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'. Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai). Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng". Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách". Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn". Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao". Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào. Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau: 1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái. 2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính. 3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài). 4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính. 5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái. 6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái. 7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái. Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích. Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào ? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân". Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có ? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng". Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng". "Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm". ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân). Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8". Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm. Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21. Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ". Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ". Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy". Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi. Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm". Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương. Thuyết của Nhất Hạnh nói: Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu. Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục. Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất. Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát. Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến. Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền. Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy". Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được ? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo. Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy". Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được. Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch. Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính. Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường. Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".
-
BA ĐIỀU KIỆN CHO BỘ TRƯỞNG THĂNG Trước đề nghị lấy tăng thu từ dầu khí đầu tư cho giao thông của Bộ trưởng Đinh La Thăng, ĐB Trần Du Lịch sẵn sàng ủng hộ với ba điều kiện Nhân thảo luận ngân sách tại QH chiều nay (28/10), Bộ trưởng Giao thông - Vận tải Đinh La Thăng đưa ra một đề xuất "ngắn gọn". Ông Thăng cho biết theo báo cáo của PetroVietnam, giá dầu thô thế giới bình quân năm 2011 là khoảng 115 USD/thùng, so với giá trong báo cáo dự toán ngân sách là112 USD/thùng, do vậy thực tế thu ngân sách của năm 2011 có thể tăng thêm gần 30.000 tỷ đồng. Phát biểu của Bộ trưởng Đinh La Thăng thu hút sự chú ý của các đại biểu QH Năm 2012, ta dự kiến giá dầu thô thế giới là 85 USD/thùng, trong khi giá thực tế có thể lên khoảng 90 USD/thùng. Với chênh lệch đó, thu ngân sách của năm 2012 cũng sẽ tăng lên gần 1.500 tỷ đồng. Ông Thăng - người từng đứng đầu Tập đoàn Dầu khí - đề nghị dành số tiền này cho các công trình trọng yếu và cấp thiết của giao thông: giải quyết 568 cây cầu yếu cần khắc phục ngay; 10 dự án tách cầu đường sắt và đường bộ cũng đang rất cấp thiết để đảm bảo an toàn giao thông; Đưa về các địa phương để giải quyết dứt điểm các công trình giao thông dở dang đang gây bức xúc cho nhân dân, hầu như địa phương nào cũng có; và dành cho đường bộ cao tốc Bắc - Nam. "Nếu giao thông không đi trước một bước thì mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại khó mà thành hiện thực", Bộ trưởng GTVT nói. "Theo kế hoạch của ngành GTVT, đến năm 2015 sẽ hoàn thành khoảng 600km đường cao tốc Bắc - Nam, nếu tăng tốc và có giải pháp đột phá mạnh mẽ, đến năm 2020 ta có thể hoàn thành tuyến đường này". Trước yêu cầu đột xuất này của Bộ trưởng, ĐB Trần Du Lịch (TP.HCM) đáp lời: Tôi ủng hộ tăng thu dầu khí nếu có sẽ ưu tiên cho giao thông. Ông Lịch kể: "Một bộ trưởng Nông nghiệp khi được hỏi QH cho tiền thì làm gì, từng nói nếu cho tiền sẽ làm giao thông, cho nữa làm gì, làm giao thông, cho nữa làm gì, làm giao thông…". "Làm giao thông giải quyết mọi thứ", ông Lịch kết luận. "Khi nền kinh tế tăng trưởng, nhịp độ hối hả của vận động nền kinh tế vượt quá sức chịu đựng của hạ tầng giao thông", ĐB TP.HCM phân tích và so sánh nền kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng trưởng như của năm 2010 giống người béo phì phần trên nhưng hai chân như hai cái que, không thể bước nổi. "Không thể sử dụng đường sắt từ 80 năm nay vẫn y nguyên, đường bộ mới mở một chút tai nạn đã tăng cao…", ông Lịch nói. Chính vì vậy, ĐB này ủng hộ đề nghị của Bộ trưởng giao thông nhưng kèm theo 3 điều kiện: Thứ nhất, ngành giao thông phải chống tiêu cực trong xây dựng, đừng để lặp lại những PMU18, PCI…; Hai là nâng cao năng lực quản trị dự án, nguồn nhân lực, ở đâu chậm chễ, lôi thôi cứ “trảm tướng” như Bộ trưởng đã làm; Và thứ ba, trong xây dựng giao thông, mục tiêu thời gian phải được ưu tiên hơn tiền. "Chậm tiến độ, chậm thời gian còn nguy hại hơn là mất tiền. Mất tiền kiếm được, mất thời gian thì không", ông Lịch nói. Theo Vietnamnet