Mộc Công
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
35 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Mộc Công
-
Thưa anh Phật Sứ Cái anh đặt ra to tát quá, hơn nữa có chắc là Không Kiếp an theo giờ sinh hay không? Theo tôi thì Không Kiếp an theo THÁNG sinh. KK luôn đối xứng nhau qua trục Tỵ Hợi, phép an KK như sau, mời mọi người cùng kiểm tra : -Sinh tháng 1, Địa Kiếp an ở cung Tử Tức -Sinh tháng 2, ------------------ Tài Bạch -Sinh tháng 3, ------------------ Tật Ách -Sinh tháng 4, ------------------ Thiên Di -Sinh tháng 5, ------------------ Nô Bộc -Sinh tháng 6, ------------------ Quan Lộc -Sinh tháng 7, ------------------ Điền Trạch -Sinh tháng 8, ------------------ Phúc Đức -Sinh tháng 9, ------------------ Phụ Mẫu -Sinh tháng 10, ----------------- Mệnh -Sinh tháng 11, ----------------- Huynh Đệ -Sinh tháng 12, ----------------- Phu Thê Từ vị trí Địa Kiếp an đối xứng qua trục Tỵ Hợi sẽ có Địa Không. Tương tự như vậy Xương Khúc Linh Hỏa cũng là sao an theo Tháng sinh. Lục Sát tinh có Kình Đà an theo Thiên Can, Linh Hỏa KK an theo Lệnh tháng. Lục Cát Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu có Khôi Việt an theo Thiên Can của năm, Tả Hữu Xương Khúc an theo tháng sinh. Để ý sâu hơnnữa thì thấy trong Tử Bình nguyên thủy họ lấy can Năm làm chủ, lệnh Tháng quyết vượng suy. Một sự tương tự giữa Tử Vi và Tử Bình và đồng thời cũng đặt cho chúng ta luôn một câu hỏi: phải chăng Tử Vi Tử Bình chỉ là 2 nhánh khác nhau của 1 môn thống nhất? Tóm lại, KK XK LH là 6 sao tượng cho Lệnh tháng nó chỉ ra Mệnh viên vượng hay suy, nói cách khác là hợp mùa sinh hay không? Những sao như Lục Cát, Lục Sát nó không là tinh đẩu nào trên bầu trời cả, nó là sự vượng suy của ngũ hành bản mệnh, xem 1 lá số Tử Vi không cần nhìn ngũ hành chỉ nhìn tinh đẩu thôi cũng thấy được cả bốn mùa, ngũ hành trải ra trên lá số
-
Lịch pháp là cơ sở của mọi phương pháp bói toán phương Đông. Tất cả môn dự báo đều phải lấy dữ liệu đầu vào là giờ, ngày, tháng, năm âm lịch. Hơn nữa Đông Á vốn là nền văn hóa lúa nước, nơi mà khí hậu trở thành điều quan trọng nhất cho nông gia, cho nên việc dự báo và tìm chu kỳ của thời tiết đã được nghiên cứu rất kỹ từ lâu thông qua Âm Dương Lịch. Sử Ký chép: đời vua Đường Nghiêu, có sứ giả Việt Thường vào chầu dâng con Thần Quy trên lưng có chép chữ khoa đẩu về lịch. Nghiêu sai chép lại rồi dùng nó để làm lịch và gọi là Quy Lịch, lúc bầy giờ tháng nhuận mới được thêm vào. Thuấn sau này sai quan Thái Sử quan sát chuyển động mặt trời và mặt trăng để định ra tiết khí và định quy tắc thêm tháng Nhuận. Tức là thời Nghiêu Thuấn theo như Sử Ký đã biết đến khái niệm tháng Nhuận và sau này Thuấn (vốn là dòng Bách Việt-Kinh Thư (Thuấn điển)) đã vận dụng những hiểu biết về thiên tượng để tìm quy tắc thêm vào các tháng nhuận. Những khám phá khảo cổ thì lại chỉ chứng minh rằng những di tích sớm nhất về lịch được ghi trên những tấm giáp cốt từ thời nhà Thương. Các tấm này chỉ ra 1 năm có 12 tháng, thỉnh thoảng có thêm tháng 13 và thậm chí là tháng 14. Ngày tháng trong lịch sử Đông Á được biết đến sớm nhất bắt đầu từ năm 841 TCN (thời kỳ Cộng Hòa của nhà Tây Chu) (841-828). Do Chu Lệ Vương là một hôn quân, cho nên nhân dân đã làm loạn đánh vào kinh đô bức Lệ Vương phải lưu vong, hai đại thần có uy tín là Chu Công và Thiệu Công đã được cử lên làm nhiếp chính thay Vua. Hai ông này đã đem con của mình ra chết thay cho Thái Tử Cơ Tịnh để giữ lại dòng dõi cho nhà Chu, và để chứng tỏ sự vô tư hai ông đã cho mời Sử Quan hàng ngày ghi chép lại cụ thể thời gian những việc làm của họ để thông báo cho toàn dân biết và giám sát. Việc chép sử bắt đầu từ đây, và chỉ từ năm 841 TCN trở về sau ngày tháng mới được rõ ràng còn thì trước đó không ai kiểm chứng được. Nhưng qua những ghi chép của Sử Ký thì thời nhà Chu lịch được sử dụng với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện không có quy tắc nào. Lịch Tứ Phân bắt đầu được dùng khoảng từ năm 484 TCN thời Chiến Quốc là Lịch đầu tiên được tính toán cẩn thận ở Trung Quốc. Gọi là Tứ Phân vì nó cho biết 1 năm có 365 1/4 ngày (365.25 ngày) và có những đặc điểm rất quan trọng đáng chú ý như sau: 1. Quy tắc chu ký 235 tháng (=19 năm) tức là chu kỳ Meton ở Lịch La mã xưa 2.Tháng nhuận được chèn thêm vào sau tháng 12 3. Ngày Đông Chí nằm ở tháng đầu tiên của năm. Từ điều thứ ba ta có thể thấy lịch Tứ Phân là lịch Kiến Tý tức là năm bắt đầu bằng tháng Tý. Ngày xưa việc xác định ngày Đông Chí là công việc quan trọng nhất của thiên quan. Đông Chí là ngày mà đêm dài nhất và ngày ngắn nhất, tượng là nhất dương sinh vạn vật bắt đầu hinh thành từ tịch diệt, cho nên Đông Chí là ngày mà Thiên Tử phải tế trời để cầu chúc cho thiên hạ vạn vật sinh linh được an hòa hưởng phúc của Trời ban (Chu Lễ). Xác định sai ngày Đông Chí chức Quan phải bị chém không tha. Và vào ngày Đông Chí thì Mặt Trời mọc lên từ cung Thìn, và do mãi nó ko mọc (ngày ngắn nhất) cho nên họ tin là ở đó có Thiên Cương sát thần kéo giữ không cho mặt trời lên do đó cung Thìn là Rồng tượng cho Thiên Tử ( vì phải tế trời) và còn có tên là Thiên La (lưới trời) do nó kèo bắt Mặt Trời ko cho mọc. Từ năm 256 TCN, Tần Chiêu Vương (307-250) diệt nhà Chu dời Cửu đỉnh về Hàm Dương thì ông ta cũng cho sửa lại quy tắc Lịch để chứng tỏ quyền uy của mình. Tháng nhuận được thêm vào là tháng phụ đứng sau tháng thứ 9 của năm, năm mới bắt đầu vào tháng thứ 10 của Năm và Đông Chí rơi vào tháng thứ 11. Tức là năm mới bắt đầu trước Đông Chí một tháng. Sau Tần Thủy Hoàng (247-210) cho dời năm mới vào tháng sau Đông Chí tức là dùng lịch Kiến Sửu, và từ đây nó được dùng cho đến tận năm 104 TCN. Tuy nhiên quy tắc chi tiết về tháng Nhuận chỉ được biết đến chặt chẽ với lịch Thái Sơ vào năm 104 TCN dưới thời Hán Vũ đế (141-87). Lịch Thái Sơ có những đặc điểm: 1.Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Tháng nhuận có thể được thêm vào bất cứ tháng nào miễn là trong tháng đó Mặt Trời không đi qua điểm Trung Khí ( quy tắc Trung Khí của lịch Thái Sơ). Qua đó có thể thấy lịch Thái Sơ là lịch Kiến Dần ( năm mới bắt đầu từ tháng Dần). Lịch Thái Sơ được dùng cho đến tận năm 1645 khi giáo sỹ Thang Nhượng Vọng theo chỉ dụ của vua Thuận Trị (1644-1661) soạn lại Lịch dựa vào tính toán bằng Hàm Lượng Giác của Toán học Tây Phương. Lịch này có đặc điểm sau 1. Đông Chí rơi vào tháng thứ 11 của năm 2.Chuyển động thực của Mặt Trời đc dùng để tính tiết khí thay vì chuyển động biểu kiến như trước kia. Từ 1645 đến tận 1929 không có 1 chỉnh sửa quan trọng nào đối với Lịch. 1929 thì Trung Hoa Dân Quốc công nhận lịch Gregory làm lịch chính thức nhưng những ngày lễ cổ truyền vẫn dùng theo Âm dương lịch. Chính vì do sử dụng công cụ và khái niệm từ phương Tây đưa vào từ lịch Gregory mà lịch âm dương của Tàu có rất nhiều tiền bộ và đơn giản hóa các quy tắc nhất là về tiết khí và tháng nhuận nhưng mà nó đã đem đến những chuyện rất hi hữu xảy ra mà không ai biết phải làm thế nào. Hiện nay các nhà nghiên cứu về lịch của Tàu họ tin rằng tính toán với những khái niệm của lịch 1645 sẽ cho ra sai số và họ tìm cách đo đạc để chỉnh sửa . Vì lí do áp dụng lịch Gregory với quy định mỗi ngày bắt đầu từ 0h và chia ra mỗi giờ của Đông Á bằng 2 h của Tây phương mà ngày bắt đầu chênh 14,3 phút so với giờ chuẩn đo tại đài thiên Văn Tử Kim Sơn của Nam Kinh. Điều đó dẫn đến 1. Năm 1978, Trung Thu điểm sóc khi đó là 3 tháng 9 lúc 0:07 phút giờ chuẩn Trung Quốc dựa theo múi giờ từ Greenwich, trong khi đó tại Hồng Kong, Việt Nam lịch truyền thống vẫn được dùng với quy tắc tính giờ ko theo giờ phương Tây thì điểm sóc rơi vào 23:53 phút ngày 2 tháng 9. Kết quả là Đại lục ăn tết Trung Thu vào ngày 17.9 còn các vùng phía Nam trong đó có Việt Nam ăn tết Trung Thu ngày 16.9 sớm hơn 1 ngày. 2. 1984-1985 năm mới Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết và Bảo Bình trong tháng 11. Sau đó thì đi vào cung Song Ngư trong tháng kế tiếp lẽ ra đó phải là tháng 1, nhưng mà sau đó Mặt Trời lại ko đi vào cung nào trong tháng kế tiếp thành ra để giữ cho Đông Chí vào tháng 11 , các nhà làm lịch của Tàu buộc phải đổi tháng Dần thành tháng Sửu và tháng Dần lùi đi 1 tháng, cho nên năm 1985 Đại lục ăn tết chậm hơn 1 tháng so với Việt Nam và Hồng Kong. Qua đó có thể thấy: -Nhà Chu sử dụng lịch kiến Tý với quy tắc tháng nhuận tùy tiện -Nhà Tần lại dùng kịch kiến Sửu với quy tắc về tháng nhuận -Nhà Hán từ Vũ Đế mới dùng lịch kiến Dần với quy tắc chặt chẽ về tháng nhuận -Việc tính toán lịch với công cụ và khái niệm của Tây Phương đã đưa đến những sai số và sự kiện gây tranh cãi vào năm 1978, 1985 và gần đây nhất là năm 2007 giữa VN ta ( nơi mà lịch truyền thống vẫn được sử dụng) và Trung Quốc. Vài dòng về lịch sử Lịch pháp hi vọng có thể giúp ích được mọi người. Tôi viết bài này cũng vì qua PM trao đổi với anh Vô Trước. Việc dùng lịch Kiến Tý, Kiến Sửu hay Kiến Dần ko liên quan gì đến trục quay do tuế sai cả anh ạ, tất cả là do ý chí chủ quan của nền quân chủ mà thôi. Chỉ duy nhất có lịch Thái Sơ là được làm dựa trên quan trắc thiên văn cẩn thận có ghi chép lại trong Sử Ký và do Tư Mã Thiên có tham gia cho nên ông đã đặc biệt ghi chép lại cẩn thận để hậu thế có thể biết. Mong rằng bài viết của tôi có thể giúp ích được cho anh Vô Trước ít nhiều.
-
Nam : Nhâm Ngọ / Nhâm Dần / N. Kỷ Dậu / Ất Hợi -Tài lộ ở năm và tháng, khắp trụ đều có Ấn , thân lại nhược cho nên dựa theo Ấn mà đi. Xuất thân gia đình cực quyền quý nhưng mà đến đời mình thì chẳng còn gì phải tự tay gây dựng lại từ đầu -Đại vận đầu tiên có Tài, cho nên phải vất vả, năm Ất Dậu, Ấn bị khắc nặng cho nên mất cha. -Đại vận Quan, Sát có trạch mã ở giờ cho nên long đong bôn ba nơi hải ngoại. -Đến đại vận Kiêu Ấn thì sự nghiệp thành, danh tiếng vang dội -Trụ này quý nhưng sát khí nặng. Sát lộ trên giờ thì con cái sau này cương cường dũng mãnh.
-
Nam : Nhâm Tuất / Canh Tuất / N. Đinh Sửu / Nhâm Dần -Quan lộ rõ, Tài hiện, quý -Quan lộ nhiều thân suy may mà bốn trụ đều có thương quan lại thành ra tối quý - Vận Tỉ thì lại không hay, sợ rằng chết. -Oai hùng thay nhưng chỉ có 1 đại vận, nhưng biết sao được, Napoleon suy cho cùng cũng chỉ là 1 đại vận 1804-1814
-
Nam : Tân Hợi / Đinh Tỵ/ N. Đinh Mão / Quý Mão -Sát vượng, thân vượng, Tài lộ, Ấn lộ trợ thân. Người mạnh mẽ cưng rắn, biết rắn mà không biết mềm, độc quyền cầm đầu được một đế chế. -Cha mẹ rất quý nhưng lúc trẻ phải lưu lạc -Trụ này quyền hành hiện rõ ở mức tối đa, Kình dương Tướng tinh Sát cho nên hiếu sát mà tàn bạo, có nhân nhưng cũng đầy uy dũng, không thể đùa vào được -Con cháu rất nhiều đề huề nhưng ít người được hưởng phúc
-
... Tiếp .... Hà Đồ nói : Thiên nhất sinh Thủy. Ngũ Hành lại nói Thủy vượng tất Mộc sinh. Cho nên Thái Nhất mang hành Mộc và khởi đầu từ cung CÀN, hay là thông thấn với cung Hợi, nơi trường sinh của Mộc. Thái Nhất là tôn thần cao nhất, nó ra đời chỉ sau hóa công, cho nên hóa công lấy Thủy làm đầu, Thủy vượng thì sinh Thái Nhất, từ đó mà tổng quản tất cả các thần . Thiên nhị sinh Hỏa, Hỏa vượng thì sinh Thổ. Cho nên Chủ Mục (Văn Xương) mang hành Thổ. Theo bộ Thái Nhất mà tôi có thì Chủ Mục khởi từ cung Ly ( Ngọ) là nơi Thổ trường sinh. Tất cả các sách Tàu đều nói Chủ Mục khởi từ Thân, đúng sai xin dành cho độc giả. Thiên tam sinh Mộc, Mộc vượng thì sinh Hỏa cho nên Khách Mục ( Thủy Kích) an khi bày Kể Thần trên cung Cấn ( độ số 3). Như thế rõ ràng là Thái Ất phù hợp một cách ly kỳ với HÀ ĐỒ và Ngũ Hành. Độ số khởi đầu của Thái Nhất, Chủ Mục, Khách Mục tương ướng với 3 cung có độ số 1,2,3 của Hậu Thiên Lạc Việt. Xét đường đi của Thái Ất, Càn -> Ly -> Cấn -> Chấn-> Đoài -> Khôn / Tốn -> Khảm -> Tốn /Khôn. Nếu đánh số đường đi của Thái Ất từ 1 đến 9, trên bản đồ Trung Cung luôn là 5 thì sẽ đc 1->2->3->4->6->7->8->9. Như vậy Bản đồ Thái Ất đc đánh số này hoàn toàn trùng khớp với Hậu Thiên Lạc Việt chứ ko phải Hậu Thiên Văn Vương. Tất cả mọi môn bói toán khác từ trc đến nay đều dùng cách đánh số của Hậu Thiên Văn Vương nhưng duy chỉ có Thái Ất là bản đổ 16 cung Thần ở mọi sách có cách đánh số khác hẳn Hậu Thiên Văn Vương, Thái Ất thần kinh ghi ngắn gọn : độ số các cung trong Thái Ất khác các môn khác cho nên ghi khác đi. Nhưng nếu nhìn kỹ sẽ thấy bản đồ Thái Ất hoàn toàn trùng với Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ Như vậy có phải chăng : Thái Ất chính là môn còn ghi lại dấu ấn của tổ tiên Việt tộc từ ngàn xưa là Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt? Bao nhiêu người nghiên cứu Thái Ất mà chẳng có ai đc nổi danh ngoại trừ cụ Trạng Trình, phải chăng chính cụ cũng thấu hiểu rằng gốc của Thái Ất là Hà Đổ chứ ko phải Lạc Thư? Cụ đã mất cách nay 500 năm, lời trả lời xin đành chôn theo cụ vậy... ... còn tiếp ...
-
Cảm ơn anh Thiên Sứ đã quan tâm Tôi sẽ cố gắng trình bày hết những gì mà mình biết. Nếu có thể đươc, mong anh đưa ra những nhận xét và chỉ bảo, rất cảm ơn anh
-
Kính thưa anh Thiên Sứ Tử Vi chỉ là 1 phần của một môn thống nhất, theo tôi có lẽ là Thái Nhất chăng? Kinh chẳng chép là Thái Ất kiêm hết cái học của mọi nhà đó ư. Chính vì là 1 phần cho nên Tử Vi phải có khiếm khuyết, một sai số hệ thống, đúng như anh nói là phải xem kèm thêm với nhiều môn khác để bổ trợ.
-
Chẳng có lá số nào mà chỉ có Cát Tinh đóng mệnh cả. Cứ dựa vào phú mà xem thì chẳng thể nào xem được Tử Vi. Vũ Tham cư mệnh là người cứng rắn và rất có tham vọng, ít khi hài lòng với những gì mình có, có máu ăn chơi, và dù trai hay gái thì đa tình, thể hiện rất rõ khi mà có những sao Khốc Hư hay Đào Hồng đi kèm. Những bộ chính tinh khi đi đúng cách cục lại miếu vượng thì đóng đâu cũng tốt như nhau ko có chuyện cư Sửu tốt hơn cư Mùi hay cư Dần tốt hơn cư Thân. Để mà xem hết cả hơn 100 sao chắc chắn là không thể xem nổi vì ý nghia các sao xung sát nhau như nước với lửa, phải biết chọn lọc có khi chỉ 1, 2 sao mà nói đc đến 80%, những sao còn lại chỉ có tác dụng hoa lá cho thêm đẹp
-
Riêng nói về Bắc Đẩu hay chòm Đại Hùng gồm 7 sao : Thiên Cơ, Thiên Toàn, Thiên Xu, Thiên Quyền, Thiên Hoành, Khai Dương và Dao Quang. Chòm sao này có thể nhìn rõ ở bất cứ nơi nào trên bắc bàn cầu, nó rất lớn và sáng, hình như cái gáo. Đó là chòm sao thiêng liêng của Đạo Giáo vì là nơi cư của Bắc Đẩu Tinh quân người chuyên giữ sổ sinh tử cho phàm trần. Thiên văn ghi lại : Đẩu bính chỉ đông, thiên hạ giai xuân. Nghĩa là Bắc Đẩu chỉ về hướng Đông, thiên hạ vào mùa xuân. Quả thật như vậy, mùa xuân đuôi sao chỉ vào hướng Đông, mùa hè hướng Nam, mùa thu hướng Tây và mùa Đông hướng Bắc. Căn cứ vào vị trí chỉ của chuôi gáo mà định ra 12 cung Địa Bàn tượng cho 12 tháng. Khi xưa xem Thiên Văn biết sự cát hung tất phải xem sự sáng mờ của bắc đẩu, và khi xem Dịch phải hết sức chú ý Nguyệt tướng là vậy. Dịch không thể tách rời Thiên Văn và Thiên Văn là thành tựu không thể chối cãi của nền văn hóa Việt ở Nam Dương Tử . Và không có một sách nào ghi chép về phép xem Thiên Văn dùng trong binh pháp một cách kỹ càng như Binh Thư Yếu Lược của Hưng Đạo Vương. Phép xem của Vương khác hẳn người Tàu, xin trích vài hàng ( xin lưu ý do sách đã thất truyền cho nên chỉ lược trích trong sách dã được xuất bản, xin được phép miễn tranh luận về nguồn gốc và đáng tin) Thái Bạch và mặt trăng cùng chiếu sáng thì có cuộc binh đao đại nhiễu loạn. Thái Bạch mọc trong vầng trăng mà có hiện tượng nguyệt thực xảy ra thì bậc tướng lãnh bị chết. Thái Bạch mọc trên mặt trăng, trong thời hạn 5 ngày có cuộc binh đao nổi dậy. Mùng 3 tháng 8 sao Thái Bạch chuyển động bất thường về hướng Bắc thì có trận đánh xảy ra. Thái Bạch chuyển động sang hướng Bắc thì nước nhỏ loạn, chuyển động sang hướng Nam thì nước lớn loạn. Thái Bạch mọc trong mặt trăng gọi là Nguyệt Thực Thái Bạch, điềm xấu cho nhà vua. Thái Bạch mọc bên trái mặt trăng thì vương quốc bị loạn, bên phải thì chư hầu bị loạn. Thái Bạch đi ngang qua mặt trăng thì có việc binh đao trong 3 năm, đất đai bị mất. Thái Bạch lu mờ, tướng soái sẽ gặp điều hung. Thái Nhất thần kinh chép : Đại Tướng chủ là tú khí của Kim, hóa khí của Thái Bạch, khi lâm trận là chủ đại tướng. Nó đi về Bắc là có đánh lớn, đi vào Mặt Trăng là điềm Vua băng. Nó bị yểm bách thì tướng soái đại hung. Như thế những ghi chép của Thái Nhất kinh đúng 1 cách kỳ lạ với Binh Thư Yếu Lược. ... còn tiếp ....