tranthanh

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    9
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About tranthanh

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. Tìm hiểu về dòng họ Thích ca là khát vọng lớn của nhiều nhà nghiên cứu và học giả, xưa cũng như nay. Qua khảo sát bằng thực địa cũng như dựa vào những chứng tích, truyền khẩu, kinh điển, qua phần chú thích nguồn gốc của Dòng Thích Ca sau : Một Gia phả dù đơn sơ hay cầu kỳ cũng đều trở nên có thể việc hữu dụng cho những nghiên cứu về tâm lý, về di truyền học, huyết học, y học .Tìm về nguồn gốc của dòng họ Thích Ca cũng là một khát vọng của những người con Phật. Dựa trên truyền thuyết và những học thuyết còn lại trong những tài liệu Phật học. TS Huệ Dân xin gởi đến qúy vị bản Phả đồ đức Phật qua hai dòng tộc Thích Ca và Kiều. Tuy chưa được hoàn chỉnh, nhưng hầu giúp cho qúy vị có khái niệm sơ qua về dòng Thích Ca. Phụ hệ là vương tộc Shakya Tổ phụ là vua Vaivasvata Manu (Sraddhadeva) là Hoàng đế Satyavrata của Dravida (Miền nam Ấn Độ thời xưa), là con của Vivasvan và Saṃjñā. Theo tài liệu của Puranas dòng Manu này có 14 chi hệ như sau : Svayambhuva Manu. Svarocisa Manu. Auttami. Tamasa Manu. Raivata Manu. Caksusa Manu. Sraddhadeva Manu hay Vaivasvata Manu. Savarni Manu. Daksa Savarni Manu. Brahma Savarni Manu. Dharma Savarni Manu. Rudra Savarni Manu. Raucya. Bhauta. Cũng theo tài liệu của Puranas dưới đây là phả hệ thứ nhất của dòng Manu : Brahma hay Svayambhu : Svayambhuva Manu, con trai của Brahma và Gayatri( những tên khác thường gọi là, Shatarupa, Brahmani, Sarasvati hay Savitri). Uttanapada và Priyavrata là hai người con trai của Svayamhubha Manu và Ananti. Dhruva, Apasyati, Apasyanta và Kiritimana là bốn người con trai của Uttanapada và Sunrita (hay Suniti), là con gái của Dharma. Śiṣta, con trai của Dhruva và Dhanya. Ripuñjaya, Kripa, Vrita, Vrika và Vrikatejasa là năm người con của Shista và Succhaya, Succhaya là con gái của Agni. Cakṣu là con trai của Ripuñjaya và Virini. Cākṣusa Manu con trai của Cakṣu. Phả hệ thứ 7 của dòng Manu : Brahma là người cha đẻ của mười hệ sau đây : Marichi, Atri, Angirasa, Pulaha, Pulasthya, Krathu, Vasishta, Prachethasa, Bhrigu, Narada . Marichi, Rishi Marichi, Mareechi hay Marishi là một trong những hệ do Brahma lập ra. Kashyapa, là con của Marichi và Kala. Vivasvan hay Surya, là con của Kashyapa và Aditi. Vaivasvata Manu, là con của Vivasvan và Saṃjñā. Vaivasvata Manu có 9 người contrai tên là : Ikshvaku, Nabhaga, Narishyanta, Karusha, Prishadhra, Dhrishta, Sharyati, Pramshu, Nabhanedishta và một người con gái duy nhất tên là Ila. Trong bản danh sách Manu của Śveta Vārāha Kalpa có ghi như sau : Đời Manvantara thứ nhất - Dòng Swayambhu Manu Saptarshis (सप्तर्षि) có bảy bậc thông thái : Marichi, Atri, Angiras, Pulaha, Kratu, Pulastya, và Vashishtha [2][8]. Trong nghi thức Svayambhuva-manvantara của đạo Hindu. Avatara (अवतार có nghĩa là giáng thế xuống trần hay đầu thai)được đặt tên là Yajna. Đời Manvantara thứ hai của Swarochisha Manu Urja, Stambha, Prańa, Dattoli, Rishabha, Nischara, và Arvarívat. Trong nghi thức Svarocisha manvantara. Avatara được đặt tên là Vibhu. Đời Manvantara thứ ba của Auttami Manu Con trai của Vashishtha: Kaukundihi, Kurundi, Dalaya, Śankha, Praváhita, Mita, và Sammita. Trong nghi thức Auttama-manvantara. Avatara được đặt tên là Satyasena. Đời Manvantara thứ tư Tamasa Manu Jyotirdhama, Prithu, Kavya, Chaitra, Agni, Vanaka, và Pivara. Trong nghi thức Tamasa-manvantara. Avatara được đặt tên là Hari Đời Manvantara thứ năm Raivata Manu Hirannyaroma, Vedasrí, Urddhabahu, Vedabahu, Sudhaman, Parjanya, và Mahámuni. Trong nghi thức Raivata-manvantara. Avatara được đặt tên là Vaikuntha. Đời Manvantara thứ sáu Chakshusha Manu Sumedhas, Virajas, Havishmat, Uttama, Madhu, Abhináman, và Sahishnnu. Trong nghi thức Cakshusha-manvantara. Avatara được đặt tên là Ajita. Đời thứ bảy (hiện tại) Vaivasvata Manu Kashyapa, Atri, Vashishtha, Vishvamitra, Gautama, Jamadagni, Bharadvaja [8]. Trong nghi thức Vaivasvata-manvantara. Avatara được đặt tên là Vamana. Đời thứ tám (Tương lai) Savarni Manu Diptimat, Galava, Rama, Kripa, Drauni, Vyasa, và Rishyasringa. Nội dung trích trong ....Vishnu Purana: quyển III: Phần II, Trong nghi thức Savarnya-manvantara. Avatara được đặt tên là Vamana Sarvabhauma. Đời thứ chín Daksa Savarni Manu Savana, Dyutimat, Bhavya, Vasu, Medhatithi, Jyotishmán, và Satya. Trong nghi thức Daksha-savarnya-manvantara. Avatara được đặt tên là Vamana Rishabha. Đời thứ mười Brahma Savarni Manu Havishmán, Sukriti, Satya, Apámmúrtti, Nábhága, Apratimaujas, và Satyaket.Trong nghi thức Brahma-savarnya-manvantara Avatara được đặt tên là Vishvaksena. Đời thứ mười một Dharma Savarni Manu Niśchara, Agnitejas, Vapushmán, Vishńu, Áruni, Havishmán, và Anagha. Trong nghi thức Dharma-savarnya. Avatara được đặt tên là Dharmasetu. Đời thứ mười hai Rudra Savarni Manu Tapaswí, Sutapas, Tapomúrtti, Taporati, Tapodhriti, Tapodyuti, và Tapodhan. Trong nghi thức Rudra-savarnya. Avatara được đặt tên là named Sudhama. Đời thứ mười ba Raucya or Deva Savarni Manu Nirmoha, Tatwadersín, Nishprakampa, Nirutsuka, Dhritimat, Avyaya, và Sutapas. Trong nghi thức Deva-savarnya. Avatara được đặt tên là Yogesvara. Đời thứ mười bốn Indra Savarni Manu Agnibáhu, Śuchi, Śukra, Magadhá, Gridhra, Yukta, và Ajita. Trong nghi thức Indra-savarnya-manvantara. Avatara được đặt tên là Brihadbhanu. Tài liệu tham khảo : Manuantara The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol. 1, p. 368, THE DAYS AND NIGHTS OF BRAHMA. Account of the several Manus and Manwantaras Vishnu Purana, translated by Horace Hayman Wilson, 1840, Book III: Chapter I. p. 259. Srimad-Bhagavatam 3.13.14-16. Pralaya The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol. 2, p. 307 THE SEVEN AND FOURTEEN MANUS. Manvantara The Laws of Manu, (Manu Smriti), Sacred Books of the East Vol. 25, translated by Georg Bühler, 1886, Chapter I, 79. Measure of time. Puranic Encyclopaedia by Vettam Mani. Inhabitants of the Worlds Mahanirvana Tantra, translated by Arthur Avalon, (Sir John Woodroffe), 1913, Introduction and Preface. Những chi hệ gần trong Phụ hệ của Dòng Thích Ca : Vua Ikshvaku (Okkaka) con của Vua Vaivasvata Manu. Ông có 8 em trai tên là: Nabhaga, Narishyanta, Karusha, Prishadhra, Dhrishta, Sharyati, Pramshu, Nabhanedishta và một em gái tên là Ila. Vua Okkaka lấy Bhatta làm Hoàng hậu và sanh ra 4 người con trai tên là :Okkamukha, Karakanda, Hatthinika, Sinipura, và năm người con gái là Piya, Suppiya, Ananda, Vijita và Vijitasena. Vua Okkamukha truyền ngôi cho con trai là Sivisamjaya. Vua Sivisamjaya truyền ngôi cho con trai là Sihassara. Vua Sihassara truyền ngôi cho con trai là Jayasena. Vua Jayasena có một người con trai tên là Sihahanu và một người con gái tên là Yashodharā. Vua Sihahanu lấy Kaccānā làm Hoàng hậu và sanh ra năm người con trai tên là : Sudhodana, Dhotodana, Sakkodana, Sukkodana, Amitodana và hai cô con gái tên là Amitā, Pamitā. Vua Sudhodana lấy hai chị em Māyā và Pajāpatī làm vợ. Hoàng hậu Māyā sanh Thái tử Siddhattha, và Pajāpatī sanh Nanda. Thái tử Siddhattha cưới Công chúa Bhaddakaccānā và sanh ra Rahula. Mẫu hệ là vương tộc Koliya : Vương tộc KOLIYA là Mẫu hệ, bắt đầu từ Priya, mẫu hậu đầu tiên nước Kapilavastu và Rama là Vua của vương quốc Banaras. Con cháu nhiều đời của họ là Vua Devadahasakka, vị Vua này có một người contrai tên Anjana và một người con gái tên Kaccana. Vua Anjana cưới Yashodharā (em gái của Vua Sihahanu) làm Hoàng hậu, sinh ra 2 người con gái tên Māyā, Pajāpatī và hai người con trai tên Dandapāni, Suppabuddha. Vua Suppabudha cưới Amitā làm Hoàng hậu và sanh ra công chúa Bhaddakaccānā và một hoàng tử tên là Devadatta. Xem trang web gia phả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khổ rộng bấm vào đây Kính bút TS Huệ Dân Trần trường thanh , trích nguồn của chùa phước bình Pháp quốc
  2. Đây là bài viết đầu tiên nói về đạo Phật bằng song ngữ và có âm thanh để cho qúy bạn thích học ngoại ngữ sẽ có một số từ vựng phong phú và hiểu được Phật học Việt Nam. Việt ngữ , TS Huệ Dân đang soạn. Trong cuộc sống thường ngày, điều quan trọng là ý thức, nếu chúng ta muốn tránh đi những phiền não. Lịch sử và thời sự trong thế giới của chúng ta, phần lớn được viết lại và truyền đạt, qua những kinh nghiệm và cái nhìn cá nhân. Souvent, on vit en espèrant devenir quelqu’un d’important ou d’utile. Donc, à quoi bon être obsédés par l’obtention de réalisations futures. Rester vrais vis-à-vis de soi-même, en agissant au moment présent, avec autant de compréhension et d’action aussi justes que possible, le résultat sera immédiat. Người ta sống thường hy vọng trở thành một cái gì hay một phương tiện nào đó. Như vậy, việc suy nghĩ đeo đuổi cho việc tương lai sẽ được gì. Hãy sống thực với chính mình trong từng khoảnh khắc hiện tại, bằng cái hiểu biết đúng đắn và sự hành động chân chính ngay khi có thể, thì kết của của điều mong ước này sẽ có ngay. On sait que l’essence de la prise de conscience et de la sagesse est paix et joie. Celles-ci remplissent les dires de l’histoire et de l’actualité, depuis toujours, dans notre monde. Si on prend celà au mot , c’est la paix durable et le bonheur. Ce sera une chose empruntée, une croyance, un savoir, une connaissance, une pratique, un chemin à suivre… Mais c'est aussi un mode de vie et donc une sagesse. Người ta cũng biết rằng, tinh chất của ý thức và sự khôn ngoan là sự bình an và an vui. Điều này thấy được trong những câu chuyện lịch sử và những bản thời sự, không bao giờ gián đoạn, trong thế giới của chúng ta. Nếu chúng ta dùng dữ kiện này theo ý nghĩa của những chữ : Hòa bình lâu dài và Hạnh phúc. Hành động làm ở đây sẽ là một việc đã mượn, một niềm tin, một sự hiểu biết, một kiến thức, một sự thực tập, một con đường phải đi theo... Nhưng cũng là một phương cách sống bằng sự khôn ngoan. Dans la tradition orientale, la sagesse est considérée comme l’idéal de la vie humaine : savoir être heureux ou encore, savoir le bonheur… Trong truyền thống á châu, sự khôn ngoan được xem như là, một lý tưởng cho cuộc sống, một cách để đạt được hạnh phúc, nói xa hơn nữa là khoa học của Hạnh phúc. En Orient, la sagesse désigne spécifiquement la connaissance d'une réalité transcendante qui se pratique à l'échelle d'une communauté d'individus partageant la même pensée ; elle apporte tempérance, vertu et bonheur ; cependant, elle n'est pas réductible à ces seules qualité qui n'en sont que la manifestation. Par exemple, Bouddha est considéré comme un maître de sagesse ou encore comme le fondateur d'une religion dont le noyau relève d'une sagesse transcendante (prajna). Ở Châu Á, sự khôn ngoan thường được đặt biệt xem như là kiến thức của một thực tế áp dụng vào trong sự thực hành của một cộng đồng các cá nhân qua sự chia sẻ những suy nghĩ tương tự và mang đến tiết độ cho, đạo đức và hạnh phúc, nhưng không chỉ khả quy về phẩm chất, mà chỉ là biểu hiện. Ví dụ, Đức Phật được xem là một bậc thầy của trí tuệ, hoặc là người sáng lập của một tôn giáo mà cốt lõi là một trí tuệ siêu việt. On se pose souvent la question : « Qu'est-ce que le Bouddha? Qu'est-ce que le bouddhisme ? Une philosophie ? Une religion » ? Người ta thường đặt câu hỏi : " Phật là gì ? Đạo Phật là gì ? Một triết lý ? Một tôn giáo ?" En fait, le mot "Bouddha" vient du terme sanskrit, बुद्धा buddha. m, n, buddhā. f – signifie : éveillé , participe passé passif de la racine verbale √budh-, s'éveiller. Thật ra chữ Phật có nguồn từ chữ Buddha, thân từ dạng nam tính và trung tính. Buddhā, thân từ thuộc dạng nữ tính có nghĩa là : tỉnh thức, hay giác ngộ ( Hán Việt) và chữ Buddhā này là qúa khứ phân từ của động từ căn √budh-, tự tỉnh thức. Bodhi est un terme pāli et sanskrit (devanāgarī. बोधि), signifiant : intelligence, connaissance parfaite, révélation. Bồ Đề là một từ của tiếng Pali và tiếng Phạn (devanāgarī. बोधि) có nghĩa là: thông minh, kiến thức hoàn thiện, sự phát hiện, sự thần khải, sự tiết lộ. Dans le bouddhisme ce terme désigne la délivrance, l'illumination, ou l'état d'éveil d'une personne libérée du saṃsāra, le cycle des renaissances et le tourbillon des passions. Trong Phật giáo thuật ngữ này dùng để nói cho việc giác ngộ, giải thoát, hay trạng thái tỉnh thức của một người thoát ra khỏi luân hồi sinh tử, chu kỳ tái sinh và cơn lốc của sự đam mê. Un Bouddha est une personne complètement éveillée, une personne qui a atteint la perfection totale. Lorsque l'on parle de Bouddha, on se réfère au dernier Bouddha connu, celui de notre Ere : Siddhārtha Gautama, dit Bouddha pur et parfait, सम्यक्सम्बुद्धा,Samyaksambuddhā (624-544 avant J.C.) Shākyamuni demeure le fondateur du bouddhisme tel qu'on le connait de nos jours. Đức Phật là một người hoàn toàn tỉnh thức, một người đã đạt đến sự hoàn thiện hoàn toàn. Trong thời đại của chúng ta, khi nói về Đức Phật, thì chúng ta liền nghĩ đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghĩa là Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca, một Đức Phật lịch sử, một Bậc hoàn toàn giác ngộ, Samyaksambuddhā (624-544 BC). Ngày hôm nay, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn được xem là người sáng lập của Phật giáo. Trần Thanh Trích nguồn : http://chua-phuoc-binh.com/ /. Những bài học Pháp văn rất hay, xem trong nút học Phật bằng ngoại ngữ của mạng này.
  3. Vài lời giới thiệu về Thần Chú Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ (các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải lúc nói năng. Không để bị loạn động. Thần chú không phải là một công thức bất động và không phải là những sóng âm thanh tác động để kêu gọi sự trợ giúp của chư Phật hay Bồ tát giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau hoặc tiêu trừ nghiệp chướng. Thần chú chỉ là một phương tiện trợ giúp tinh thần, tri thức, ý chí qua sự nhất tâm bền vững để kết thành năng lực tối cao. Chính nhờ năng lực này Tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta. Như Đại sư Milarepa nói : "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng : nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm". Đọc Thần chú là khẩu mật (Khẩu là lời do miệng phát ra. Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Cần nên học hỏi rõ ràng qua sự hướng dẫn của một vị tăng hay một đạo sư. Câu thần chú Hán Việt được nhiều người Phật tử đọc là : Úm ma ni bát di hồng. Một câu chú lâu đời của Phật giáo Tây Tạng, và cũng xem là Chân ngôn Bồ Tát Quán Thế Âm để bảo hộ hành giả vượt thẳng vào Phật quả hoặc vào hàng tứ Thánh. Ngoài câu chú ngắn đã kể trên, còn có bài chú căn bản này qua những tên sau : chú Đại Bi, Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani),Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni.... để minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát và các vua quan, cũng như câu Om Mani Padme Hum. Đại Bi chú được 2 Đại sư Phật giáo dịch ra : Ngài Không Kim Cương (tiếng Phạn là amoghavajra) hay gọi ngắn là Bất Không (Phạn ngữ là amogha), Tước hiệu là Trí Tạng Sanh năm 705 tại nước Sư Tử (nước Tích Lan Sri Lanka bây giờ) và mất năm 774. Một Đại sư của Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh điển Phật giáo tại Trung Quốc, song song với Cưu-ma-la-thập. Chân Đế và Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo và người đệ tử của Ngài được đích truyền là sư Huệ Quả, được xem là Tổ thứ bảy của Mật tông Trung Quốc. Một đệ tử quan trọng khác là Huệ Lâm. Ngài Kim Cương Trí ( tiếng Phạn là Vajrabodhi ) hay Kim Cang Trí, sanh năm 671 và mất năm 741. Một Đại Sư Phật giáo cũng là Thầy của Ngài Không Kim Cương và Thai Tạng. Sư sinh ra trong một gia đình Bà La Môn tại Malabar, Nam Ấn, theo học đạo tại Na Lan Đà từ năm lên 10 tuổi. Sau đó đi qua các vùng khác của Ấn Độ và đã học rất nhiều giáo lý Đại Thừa như : Duy Thức Luận, Trung quán Luận, Du Già Luận. Năm 31 tuổi, Ngài đi đến Tích Lan và thọ nhận pháp Mật Tông với Đại Sư Long Trí ( tức Ngài Pháp Mật hay Phổ Hiền ). Sau 7 năm am tường Mật Giáo, Sư trở về Trung Ấn. Một thời gian sau, Sư đi đến Java với một đồ đệ 14 tuổi, chính là Ngài Bất Không Kim Cương sau này, rồi tiếp tục du hành sang Trung Quốc. Cuối năm thứ 7 Khai Nguyên (719) nhà Đường. Tại đây Sư lưu lại ở các chùa Tư Thánh và Đại Tiến để dịch kinh. Trong đó có các bộ kinh Kim Cương Đỉnh Du Già được lưu truyền phổ biến. Ngài đã truyền lại rất nhiều giáo lý Đại Nhật và Kim Cương. Ngài cũng được tôn là bậc Thầy của hệ Kim Cương và Thai Tạng. Dòng truyền thừa của Sư Kim Cương Trí được xem là dòng Chính Mật và nhánh truyền thừa của Ngài như sau : Đại Nhật Như Lai | Kim Cương Tát Đỏa | Long Thọ | Long Trí | Kim Cương Trí. Sau này Đại Sư Không Hải, tổ của Chân ngôn tông, Nhật Bản cũng nhận pháp từ chính dòng này theo nhánh truyền thừa như sau: Kim Cương Trí | Bất Không Kim Cương | Huệ Quả | Không Hải. Đại Bi chú có nhiều bản dịch khác nhau qua sự tìm hiểu và nghiên cứu của các Bậc Đại sư trên thế giới từ xưa, và nhiều cách chia câu không giống nhau so với bản chữ Phạn thì các cách trên không đúng phép ngắt câu văn phạm, nhưng không quan trọng. Chủ yếu là nội dung không thay đổi Chú Đại Bi có hết thảy 84 câu và 415 chữ, là bài Tổng Trì của ngài Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Các Tổ xưa thường hay cặp đôi Đại Bi với Bát Nhã, vì Từ Bi và Trí Tụê là đôi bạn không thể rời nhau trong dòng giáo truyền. Tran thanh Trich nguon : http://chua-phuoc-binh.com/
  4. Làm thế nào để hiểu được sự mầu nhiệm của Tứ Diệu Đế trong cuộc sống ngày nay ? Comment comprendre les pouvoirs de Quatre Nobles Vérités dans la vie d'aujourd'hui? Không nỗi bất hạnh nào có thể so sánh được, khi nghịch cảnh của cuộc đời đưa những bé thơ vào cuộc mưu sinh không Cha thiếu Mẹ. Những đứa trẻ đang lầm lũi với những ước mơ nhỏ bé của mình là mong được mọi sự giúp đỡ và được lớn lên trong vòng tay ấm áp của mọi người. Aucun malheur ne peut être comparable à la vie des enfants orphelins. Ceux ci mènent une vie misérable, mais leurs espoirs, leurs rêves d’enfant ont besoin, pour grandir, de trouver autour d’eux une assistance et des bras chaleureux pour les accueillir. Một dấu chấm hỏi lớn đặt ra giữa cuộc đời, trong tâm hồn non nớt, đang cần sự chia sẻ giúp đỡ hảo tâm của những tấm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, muốn được cảm thông và sẻ chia cùng các em. Un grand point d'interrogation est posé dans leur vie qui a toujours besoin d’un cœur bon et généreux, compatissant, serein, joyeux, capable d’empathie pour partager ses sentiments avec ces enfants. Số phận nghiệt ngã của những đứa trẻ đang ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, vẫn tin rằng, trên trái đất này, vẫn còn đâu đó, những bàn tay rộng mở sẽ nắm lấy những bàn tay côi cút, bé bỏng, để các em có cơ hội được sống và được thực hiện mơ ước nhỏ nhoi hiền hoà của mình. Le triste destin de ces enfants est une réalité insoutenable, car l’absence constante de l'un des parents, marque à jamais un si jeune cœur incapable de subir une telle épreuve dans sa vie et signe la destinée d'une histoire inachevée. Pourtant ces petits cœurs à présent si sensibles, croiseront un jour, quelque part sur leur chemin, des mains ouvertes qui les accueilleront et leur donneront la possibilité de vivre enfin et de réaliser les rêves paisibles de leur enfance. Người học Phật thấy khổ, hiểu được nguyên nhân của sự khổ, tìm cách giúp cho đỡ khổ, bằng những phương tiện mình có trong khả năng, thì đây cũng chính là sự áp dụng một phần của Tứ Diệu Đế mà Đức Phật đã dạy khi xưa, đi vào đời sống hiện thực ngày nay. Les pratiquants du bouddhismes ont appris à voir la souffrance, à en comprendre les causes, et à chercher les solutions pour les soulager, par les moyens qui sont à leur portée. Donc, le moment est venu pour mettre en application, dès aujourd’hui, la « Noble Quatre Vérités » que le Bouddha a enseignée autrefois. Ngài cũng có nói rằng : Phải tự, sống, chiêm nghiệm, kiểm chứng, xác thực bằng bản thân cá nhân của mình trước, cho đến khi cảm thấy điều đó là Ngài nói đúng, thì mới đem chỉ cho người khác, để đạt được thành qủa giống như cái mình đã làm. Bouddha a également dit : « Soyez à même de réaliser, de vérifier votre propre experience personnelle dans votre vie, jusqu'à ce que vous estimiez qu'elle est juste, puis portez ce résultat souhaitable ou satisfait à d'autres personnes, pour qu’elles puissent atteindre ce même résultat ». Kính bút TS Huệ Dân Trần Thanh gởi bài trích Nguồn : http://chua-phuoc-binh.com/
  5. Chú Đại Bi Thi hóa Việt ngữ của thầy Minh Đức qua phần diễn nghĩa của TS Huệ Dân. Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần )Namo Ratna Trayaya (3 lần) Quy y Phật Pháp Tăng già Thành tâm phụng thỉnh Phật Đà Quán Âm Vị Bồ Tát là ấm thân Thành Bồ Tát lớn cõi nhân hữu tình Bởi Ngài trọn đủ quá trình Pháp thân biến hóa hằng nghìn báo thân Tất cả thánh thể đạo nhân Hội đồng tán tụng tri ân tịnh lòng Quay về kính lễ tông phong Quán âm khắp cả trong lòng chúng sanh Hướng tâm quán rõ sắc xanh Biến thành nội chiếu tịnh thanh hoàn toàn Toàn thân toàn cảnh mở toan Một mầu tươi mát khắp toàn thế gian Tâm vô phân biệt bình an Hữu tình hữu thể an ban lời nguyền Muôn loài thành tựu chân truyền Truyền đăng tục mạng pháp duyên bảo hành Nói ra pháp ngữ chân thành Quán thâm tự tại hạnh lành thực thi Trí mầu huệ chiếu tức thì Tấm lòng từ mẫn tâm bi cứu đời Khắp nơi hóa độ sáng ngời Viên thành đại đạo ở nơi chân truyền Hoàn thành tất cả hóa duyên Chuổi tay bảo vật linh thiên hành trì Sống tâm bình đẳng toàn tri Pháp hành quán tưởng nghiệp chi mà lường Hãy mau nhập lý chân thường Đại đạo tâm pháp cúng dường Như Lai Tín tâm nguyện hạnh hoa khai Hành thâm quán tưởng Phật Ngài Quán Âm Quán Âm Tự Tại thậm thâm Khai tâm hiển lộ quán âm cõi đời Nhiễm ô thanh tịnh cao vời Không hai giải thoát cứu đời trầm luân Pháp duyên khéo léo hành tuân Bồ Đề kiên cố pháp luân hành trì Giới hành chùy pháp thực thi Hoàn thành thánh đạo chánh tri hướng tầm Hành thiền phản tỉnh chân tâm Viên thành quả mãn pháp âm kỹ càng Hãy mau đắc pháp đàn tràng Kiên trì nhẫn nhục đăng đàn tiến ngay Chuyên lòng tinh tấn từ nay Cam lồ mưa pháp hiển bày độ sanh Tự mình tỉnh thức tinh anh Độ người giác ngộ thanh danh tâm từ Tâm từ bảo vật thái hư Bồ đề tâm hạnh nhất như tâm nguyền Đấng Vô Thượng vẫn y nguyên Pháp này thành tựu tinh chuyên cứu đời Tự hành tự nguyện tức thời Pháp kia bảo hộ muôn đời an vui Tâm y tối thượng đẩy lui não phiền Cứu đời viên mãn an nhiên Hành thâm định pháp tham thiền phải thông Tự mình quán tưởng tâm không Tâm cùng thân cảnh sắc không một nhà Lạc Thành thanh tịnh đâu xa Tin sâu hạnh tiến nguyện Đà vãng sanh Vô biên thệ nguyện thực hành Đến khi sanh chúng đạo thành mới thôi Khuôn vàng lục độ sẵn rồi Bồ Đề quả mãn tự hồi Pháp thân Tất cả Đại đạo Thánh nhân Tùy duyên bất biến ứng thân cõi trần Bánh xe pháp trượng phất trần Tiêu ma ngã pháp hóa thân Ta bà Tay cầm sen báu nở ra Hiển bài Diệu tướng liên hoa pháp mầu Sợ gì uế độ nơi đâu Ta bà Tịnh cảnh nghĩ sâu không mà Bồ Đề sẵn có trong nhà Chúng sanh tỉnh thức mới là Phật gia Kính lễ Phật Pháp Tăng Già Quay về bậc thánh không xa nhân tình Quán Âm Tự Tại thiên hình Xét xem tất cả tâm tình chúng sanh Não phiền sạch Bồ Đề sinh Tam Thân thanh tịnh hàm linh Mẹ Hiền Rõ ràng từng pháp thật thiên Pháp này mật thiết quán duyên chân truyền Om Siđhyantu Mantra Padaya Svaha (3 lần) Án Tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà dạ, Ta ba ha (3 lần) Thi hóa Chú Đại BiT. Minh Đức Phạn ngữ नीलकण्ठ धारनी Nīlakantha Dhāranī namo ratnatrayāya namah ārya avalokiteśvarāya नमो रत्नत्रयायनमह् अर्यअवलोकितेश्वराय bodhisattvāya mahāsatvāya mahākārunikāya बोधिसत्त्वायमहासत्वाय महाकारुनिकाय oṃ sarvarabhaya sudhanadasye namaskrtvā imam ॐसर्वरभय सुधनदस्ये नमस्क्र्त्वाइमम् āryāvalokiteśvara raṃdhava namo narakindi. आर्यावलोकितेश्वर रंधव नमोनरकिन्दि। hrih mahāvadhasama sarva athadu śubhuṃ ajeyaṃ. ह्रिह् महावधसमसर्व अथदु शुभुं अजेयं। sarva satya nama, vastya namo vāka, mārga dātuh. सर्व सत्य नम वस्त्य नमो वाक मार्गदातुह्। tadyathā oṃ avaloki locate karate, e hrih ॐ अवलोकि लोचते करते एह्रिह् mahābodhisattva. sarva sarva, mala mala, mahima hṛdayam, महाबोधिसत्त्व। सर्व सर्व मल मल महिमहृदयम् kuru kuru karmuṃ, dhuru dhuru vijayate mahāvijayate, कुरु कुरुकर्मुं धुरु धुरु विजयतेमहाविजयते dhara dhara dhirīniśvarāya, cala cala, mama vimala muktele, धरधर धिरीनिश्वराय चल चल मम विमल मुक्तेले ehi ehi, śina śina, āraṣaṃ pracali viṣa viṣaṃ prāśaya. एहि एहि शिन शिन आरषं प्रचलि विष विषंप्राशय | huru huru mara hulu hulu hrih हुरु हुरु मर हुलु हुलुह्रिह् sara sara siri siri suru suru bodhiya bodhiya सर सर सिरि सिरि सुरुसुरु बोधिय बोधिय bodhaya bodhaya. maitriya nārakindi बोधय बोधय । मैत्रियनारकिन्दि dharṣinina bhayamāna svāhā siddhāya svāhā धर्षिनिन भयमान स्वाहासिद्धाय स्वाहा mahāsiddhāy svāhā siddhayogeśvarāya svāhā महासिद्धाय्स्वाहा सिद्धयोगेश्वराय स्वाहा narakindi svāhā māraṇara svāhā नरकिन्दिस्वाहा मारणर स्वाहा śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhā शिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा असिद्धायस्वाहा cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhā चक्र असिद्धाय स्वाहापद्म हस्त्राय स्वाहा nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhā नारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन्खरायस्वाहा namaH ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhā नमः रत्नत्रयायनमो आर्यवलोकितेश्वराय स्वाहा oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā ॐ सिधयन्तुमन्त्र पदायस्वाहा Nguồn : http://chua-phuoc-binh.com/
  6. Phần tóm lược của Con Đường Chính Đạo cao qúy có tám yếu tố để học Phật căn bản, bằng những câu tiếng Pali, qua nhiều cách thay đổi từ vựng khác nhau, nhưng ý nghĩa không thay đổi, hầu giúp cho qúy độc giả không bị ngạc nhiên, khi thấy một chữ giống nhau, mà có những dấu khác nhau. Đây là cách xử dụng từ ngữ của những nhà ghi chép kinh, trong từng giai đoạn phát triễn khác nhau. Ayameva ariyo atthavgiko maggo, seyyathidam : Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo seyyathīdaṃ : Ayam-eva Ariyo Aññhaïgiko Maggo, seyyathãdam : Con đường chính đạo cao quý có tám yếu tố, như sau : Sammaditthi, Sammādiṭṭhi, Sammàdiññhi. Hiểu biết đúng đắn. Sammàsaïkappo, Sammāsaṅkappo, Sammasavkappo. Suy nghĩ chân chính. Sammàvàcà, Sammavaca, Sammāvācā. Lời nói chân chính trung thực. Sammàkammanto,Sammakammanto, Sammākammanto, Hành động chân chính không làm viêc giả dối. Sammà-àjãvo,Samma-ajivo, Sammā ājīvo. Sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa. Sammàvàyàmo, Sammavayamo, Sammāvāyāmo. Cố gắng nổ lực chân chính. Sammàsati, Sammasati, Sammāsati. Suy niệm chân chính. Sammàsamàdhi, Sammasamadhi, Sammāsamādhi. Kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính. Ayaü kho sà bhikkhave majjhimà pañipadà, Ete te bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā, Katamā ca sā bhikkhave, majjhimā paṭipadā, Các thầy đây là con đường Trung Đạo. Tathàgatena abhisambuddhà, cakkhukaraõã, ÿàõakaraõã, Tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī, ñāṇakaraṇī, để thấu hiểu sâu sắc, để mở rộng tầm nhìn, để mở mang trí tuệ, upasamàya abhiÿÿàya Sambodhàya Nibbànàya saüvattati. upasamāya abhiññāya, sambodhāya, nibbānāya saṃvattati. để an định, để không còn nghi vấn, để đạt tỉnh thức, để đạt đến sự giải thoát, an lạc tối hậu, Niết bàn. Trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, chỉ cần thêm chữ Chân chính ở phía sau các chữ Việt sau đây : Hiểu biết, Suy nghĩ, Lời nói, Hành động, Sống, Cố gắng nổ lực, Suy niệm, Kiên định tập trung tâm tư, trong từng khoảnh khắc hiện tại, thì người đang đi tìm đạo sẽ tìm ra những điều thú vị trong Phật pháp, để chuyển hoá thân tâm cho chính mình, cũng như cho những người sống chung quanh một cách dễ dàng. Tám yếu tố căn bản này là nền tảng vững chắc cho việc bước vào học hay tham khảo các tạng Kinh lớn của Phật pháp. Một con chim chưa mọc đầy đủ lông cánh, thì không bao giờ có đầy đủ sức, để bay đến nơi mà nó muốn đặt chân đến. Kính bút TS Huệ Dân Người gởi Trường Thanh Nguồn web site : http://chua-phuoc-binh.com/
  7. Một trong những nét đơn giản của Văn học Phật giáo là bản chất của thuật ngữ, luôn luôn mang tính nhắc nhở, hướng dẫn tinh thần cho mỗi cá nhân, tự chiêm nghiệm, tự kiểm chứng, bằng những trình độ tu tập khác nhau, mà tìm ra phương cách dung hòa, hầu giúp cho mình và cho người có một cuộc sống tốt đẹp, trong gia đình và xã hội. Điều này có thể được diễn đạt một cách rõ ràng bằng Tám chữ Chánh trong con đường ở giữa mà Đức Phật đã tìm ra để làm bánh xe chuyển Pháp của Ngài. Những lời nói của Đức Phật đã được ghi chép lại, theo các dòng tư tưởng khác nhau và phân chia ra thành nhiều thể loại sáng tạo của văn bản như : " Văn xuôi hay thơ...". Mục đích là để chỉ dẫn cho người đọc, người nghe, sự lợi ích của việc quy y, hành trì Phật pháp.Kinh Phật là nền văn học đặc trưng trong sinh hoạt nhân gian, bởi vì, đời sống của Đức Phật và các tăng, ni, vốn sống giữa nhân gian, không mang tính chất của sinh hoạt thành thị hay một thế giới nào khác. Tùy cơ duyên, mà Ngài và các đệ tử đưa ra những bài thuyết pháp thích nghi, không ngoài ước vọng giải thoát để làm lợi ích toàn diện cho mọi người. Dòng văn chương bình dân này, thuộc tính đa, khái quát, hình tượng, liên tưởng… và thường không chỉ một nhân vật nào cụ thể, mà chỉ một hiện tượng nổi bật, trong hoàn cảnh nào đó bằng sự thẩm định chính xác và rất rõ ràng, thí dụ như : Tứ Diệu Đế là sự đúc kết lại của một cái nhìn tổng quát về sự khổ thường trực của con người và cách giải thoát cái khổ này trong tiến trình thay đổi không dừng của bốn giai đoạn : Sanh, già, bịnh, chết, của muôn loài.Trong giai đoạn phát triển nguyên thủy của Phật học, lời Đức Phật dạy chủ yếu là sự truyền miệng trong phạm vi đạo đức học, mang tính cách nội tại, để nhắc nhở con người sống đời hướng thiện, bằng bốn chữ : TỪ, BI, HỶ, XẢ. Văn học Phật giáo không phải là một vật phẩm bất biến, mà là một quá trình tương tác giữa những lời dạy của Đức Phật và người đang đi tìm đạo hay đang tu đạo của Ngài, thông qua ngôn ngữ trong sự kiến tạo xã hội của con người, luôn luôn biến chuyển theo luật nhân quả, sinh ra và diệt đi, không ngừng. Đây cũng chính là lý do mà Văn học Phật giáo có thể, luôn luôn, được hiểu theo nhiều cách, dựa trên phương diện thời gian, không gian, bao gồm : quá khứ | hiện tại | tương lai, trong những hoàn cảnh khác nhau. Hình ảnh là nguồn cảm hứng vô tận của văn học Phật giáo nguyên thủy. Đức Phật là hình ảnh của một con người, khơi nguồn từ lẽ vô thường, từ tính chất mong manh của cuộc sống. Một con người được mô tả trong sự sống bình dị, không ngoài mục đích duy nhất của đời sống, là cởi bỏ mọi ràng buộc cho muôn loài.Văn học Phật giáo là cái trọng tâm toàn diện bao la được thấy : Một là Tất cả và Tất cả là Một, mà Pháp giới duyên khởi có nói rất rõ từng chi tiết. Văn học Phật giáo cũng có thể lý luận tương tự đối với tính liên kết của các Kinh văn. Mỗi Kinh văn đều có sự dẫn chiếu về nội dung hay ý nghĩa liên quan đến những Kinh văn khác, nhưng điều này không bắt buộc phải nói là bất kỳ Kinh văn nào cũng đều có dẫn chiếu này. Văn học Phật giáo thường mang tính đối thoại và tình huống qua những đề tài, giản dị, súc tích, sinh động thú vị hay đẹp, giữa Đức Phật và người học Phật, dựa trên nền tảng giáo dục, dùng trí tuệ để nhận xét sự việc làm chuẩn. Phật học không thuộc về riêng ai hết. Văn học Phật giáo là sự sáng tác của từng cá nhân góp lại, xuất phát từ nguồn cảm xúc của các hiện tượng đời sống, được miêu tả, phản ảnh trực tiếp, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời Đức Phật đã dạy. Hãy nên can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình để xây dựng nền Văn học Phật giáo Việt Nam, như các vị thầy tổ và các triều đại nhà Vua đã làm trong tinh thần, hòa đồng, tự chủ, tự lực, tự cường và sự thanh cao giải thoát của đạo Phật, cho những ai muốn theo con đường chân thiện mỹ mà Đức Phật chỉ dạy trong đời sống thực tại này. Kính bút TS Huệ Dân Trường Thanh ( bài viết này của TS Huệ dân , Thanh đánh lại nguyên bản cho quý bạn xem) Nguồn web site : http://chua-phuoc-binh.com/
  8. Chú Đại Bi Thi hóa Việt ngữ của thầy Minh Đức qua phần diễn nghĩa của TS Huệ Dân. Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần ) Namo Ratna Trayaya (3 lần) Quy y Phật Pháp Tăng già Thành tâm phụng thỉnh Phật Đà Quán Âm Vị Bồ Tát là ấm thân Thành Bồ Tát lớn cõi nhân hữu tình Bởi Ngài trọn đủ quá trình Pháp thân biến hóa hằng nghìn báo thân Tất cả thánh thể đạo nhân Hội đồng tán tụng tri ân tịnh lòng Quay về kính lễ tông phong Quán âm khắp cả trong lòng chúng sanh Hướng tâm quán rõ sắc xanh Biến thành nội chiếu tịnh thanh hoàn toàn Toàn thân toàn cảnh mở toan Một mầu tươi mát khắp toàn thế gian Tâm vô phân biệt bình an Hữu tình hữu thể an ban lời nguyền Muôn loài thành tựu chân truyền Truyền đăng tục mạng pháp duyên bảo hành Nói ra pháp ngữ chân thành Quán thâm tự tại hạnh lành thực thi Trí mầu huệ chiếu tức thì Tấm lòng từ mẫn tâm bi cứu đời Khắp nơi hóa độ sáng ngời Viên thành đại đạo ở nơi chân truyền Hoàn thành tất cả hóa duyên Chuổi tay bảo vật linh thiên hành trì Sống tâm bình đẳng toàn tri Pháp hành quán tưởng nghiệp chi mà lường Hãy mau nhập lý chân thường Đại đạo tâm pháp cúng dường Như Lai Tín tâm nguyện hạnh hoa khai Hành thâm quán tưởng Phật Ngài Quán Âm Quán Âm Tự Tại thậm thâm Khai tâm hiển lộ quán âm cõi đời Nhiễm ô thanh tịnh cao vời Không hai giải thoát cứu đời trầm luân Pháp duyên khéo léo hành tuân Bồ Đề kiên cố pháp luân hành trì Giới hành chùy pháp thực thi Hoàn thành thánh đạo chánh tri hướng tầm Hành thiền phản tỉnh chân tâm Viên thành quả mãn pháp âm kỹ càng Hãy mau đắc pháp đàn tràng Kiên trì nhẫn nhục đăng đàn tiến ngay Chuyên lòng tinh tấn từ nay Cam lồ mưa pháp hiển bày độ sanh Tự mình tỉnh thức tinh anh Độ người giác ngộ thanh danh tâm từ Tâm từ bảo vật thái hư Bồ đề tâm hạnh nhất như tâm nguyền Đấng Vô Thượng vẫn y nguyên Pháp này thành tựu tinh chuyên cứu đời Tự hành tự nguyện tức thời Pháp kia bảo hộ muôn đời an vui Tâm y tối thượng đẩy lui não phiền Cứu đời viên mãn an nhiên Hành thâm định pháp tham thiền phải thông Tự mình quán tưởng tâm không Tâm cùng thân cảnh sắc không một nhà Lạc Thành thanh tịnh đâu xa Tin sâu hạnh tiến nguyện Đà vãng sanh Vô biên thệ nguyện thực hành Đến khi sanh chúng đạo thành mới thôi Khuôn vàng lục độ sẵn rồi Bồ Đề quả mãn tự hồi Pháp thân Tất cả Đại đạo Thánh nhân Tùy duyên bất biến ứng thân cõi trần Bánh xe pháp trượng phất trần Tiêu ma ngã pháp hóa thân Ta bà Tay cầm sen báu nở ra Hiển bài Diệu tướng liên hoa pháp mầu Sợ gì uế độ nơi đâu Ta bà Tịnh cảnh nghĩ sâu không mà Bồ Đề sẵn có trong nhà Chúng sanh tỉnh thức mới là Phật gia Kính lễ Phật Pháp Tăng Già Quay về bậc thánh không xa nhân tình Quán Âm Tự Tại thiên hình Xét xem tất cả tâm tình chúng sanh Não phiền sạch Bồ Đề sinh Tam Thân thanh tịnh hàm linh Mẹ Hiền Rõ ràng từng pháp thật thiên Pháp này mật thiết quán duyên chân truyền Om Siđhyantu Mantra Padaya Svaha (3 lần) Án Tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà dạ, Ta ba ha (3 lần) Thi hóa Chú Đại Bi T. Minh Đức Phạn ngữ Nghe thử नीलकण्ठ धारनी Nīlakantha Dhāranī namo ratnatrayāya namah ārya avalokiteśvarāya नमो रत्नत्रयायनमह् अर्यअवलोकितेश्वराय bodhisattvāya mahāsatvāya mahākārunikāya बोधिसत्त्वायमहासत्वाय महाकारुनिकाय oṃ sarvarabhaya sudhanadasye namaskrtvā imam ॐसर्वरभय सुधनदस्ये नमस्क्र्त्वाइमम् āryāvalokiteśvara raṃdhava namo narakindi. आर्यावलोकितेश्वर रंधव नमोनरकिन्दि। hrih mahāvadhasama sarva athadu śubhuṃ ajeyaṃ. ह्रिह् महावधसमसर्व अथदु शुभुं अजेयं। sarva satya nama, vastya namo vāka, mārga dātuh. सर्व सत्य नम वस्त्य नमो वाक मार्गदातुह्। tadyathā oṃ avaloki locate karate, e hrih ॐ अवलोकि लोचते करते एह्रिह् mahābodhisattva. sarva sarva, mala mala, mahima hṛdayam, महाबोधिसत्त्व। सर्व सर्व मल मल महिमहृदयम् kuru kuru karmuṃ, dhuru dhuru vijayate mahāvijayate, कुरु कुरुकर्मुं धुरु धुरु विजयतेमहाविजयते dhara dhara dhirīniśvarāya, cala cala, mama vimala muktele, धरधर धिरीनिश्वराय चल चल मम विमल मुक्तेले ehi ehi, śina śina, āraṣaṃ pracali viṣa viṣaṃ prāśaya. एहि एहि शिन शिन आरषं प्रचलि विष विषंप्राशय | huru huru mara hulu hulu hrih हुरु हुरु मर हुलु हुलुह्रिह् sara sara siri siri suru suru bodhiya bodhiya सर सर सिरि सिरि सुरुसुरु बोधिय बोधिय bodhaya bodhaya. maitriya nārakindi बोधय बोधय । मैत्रियनारकिन्दि dharṣinina bhayamāna svāhā siddhāya svāhā धर्षिनिन भयमान स्वाहासिद्धाय स्वाहा mahāsiddhāy svāhā siddhayogeśvarāya svāhā महासिद्धाय्स्वाहा सिद्धयोगेश्वराय स्वाहा narakindi svāhā māraṇara svāhā नरकिन्दिस्वाहा मारणर स्वाहा śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhā शिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा असिद्धायस्वाहा cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhā चक्र असिद्धाय स्वाहापद्म हस्त्राय स्वाहा nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhā नारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन्खरायस्वाहा namaH ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhā नमः रत्नत्रयायनमो आर्यवलोकितेश्वराय स्वाहा oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā ॐ सिधयन्तुमन्त्र पदायस्वाहा Nguồn web site : http://chua-phuoc-binh.com/ Có nhiều chú khác đã thi hóa rất hay. Kính cẩn Trường Thanh