quang_tam3

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    5
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About quang_tam3

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. (https://docs.google.com/Doc?docid=0AQoNixfX...tc2Zn&hl=vi)
  2. đọc bài này, thấy nhớ hồi nhỏ ... mỗi tiếng rao là một thân phận...
  3. thực ra , các bạn đã đi xa ý ban đầu của chủ đề. Nhưng thấy sự bàn luận cũng thật thú vị nên cũng xin được góp phần. cảm ơn anh RUBI , anh có sự nghiên cứu và thực hành Phật Pháp rất cao thâm. cảm ơn anh Vô Trước, anh đã có một tấm lòng đối với nhân sinh đang còn trong vòng khổ đau. Phương pháp của anh đưa ra rất đáng cho tôi phải suy nghĩ và tìm hiểu. anh Vô Trước viết: và trong phương pháp trên của anh , có câu: Vậy thì có mâu thuẫn gì không ? khi một lúc anh bảo Phật giáo không hiệu quả, một lúc lại nói hay nhất là theo con đường Đạo Phật dày công khai phá. và tôi thiết nghĩ nếu anh đã có phương pháp hay như thế, vậy thì nhờ anh khai thị giúp luôn cách làm chủ ham muốn hiệu quả nhất, và đơn giản như anh giới thiệu. Chứ như anh nói chung chung thì thật khó cho tất cả người trong thiên hạ, ít học và kém hiểu biết kia hiểu nổi.
  4. XÓA TAN MỘT SỐ HIỂU LẦM VỀ GIÁO PHÁP ----------- Phật giáo phát nguồn từ Ấn Độ, cho đến nay đã gần 3.000 năm, truyền bá khắp cả thế giới. Do sự dài lâu của thời gian và rộng lớn của khu vực khó có thể tránh khỏi hoặc nhiều hoặc ít biến đổi bộ mặt vốn có của nó. Sự thay đổi bộ mặt như thế là vì thích ứng với việc sinh tồn và phát triển của bản thân mà hình thành một cách tự nhiên. Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc đã dung hợp quán thông với tư tưởng Nho đạo; như việc khai sáng Thiền tông, phát huy tông phong Đại thừa v.v… đều có đầy đủ sắc thái và tinh thần riêng biệt của Trung Quốc. Vì người đời sau không hiểu biết một cách rõ ràng, nghe người ta nói sao thì tin vậy, tự mình đeo vào cặp kính màu sặc sỡ, cho nên nhìn sự vật không đúng đắn. Điều mà chương này cần thảo luận, chính là giúp độc giả tháo gỡ cặp kính màu đã đeo ấy ra, hy vọng có thể nhìn thấy sự vật trước mắt một cách chính xác hơn. Nếu có thể nhờ đó mà tiến thêm một bước nhận thức Phật giáo, hiểu rõ Phật giáo, xóa tan đi những hiểu lầm về Phật giáo mà bạn đã nghe thấy, thì đó là điều rất vui sướng của tác giả. Thông thường người ta có những hiểu lầm về Phật giáo mà tôi có thể quy nạp làm tám điều như sau để thuyết minh : 1/Phật giáo là trí tín chẳng phải mê tín Trước khi đi sâu vào vấn đề tôi xin được định nghĩa về “trí tín” và “mê tín”. Nói một cách đơn giản : Nếu chưa trải qua sự quan sát rõ ràng, suy nghĩ thật thận trọng mà mù quáng tin theo, đó gọi là “mê tín”. Ngược lại nếu trải qua công phu “suy nghĩ thận trọng” “tư duy chính xác” mới tin tưởng gọi là “trí tín”. Hiện nay một số người chỉ trích Phật giáo là “mê tín”, họ chỉ nhìn thấy một vài biểu hiện mặt ngoài cạn cợt của Phật giáo, hoặc nghe một vài tin đồn nhảm nhí của kẻ ngoại đạo, rồi một mực cho rằng Phật giáo là “mê tín”. Thật ra trong óc của chính họ cũng còn đôi chút trí tuệ và tư tưởng chứ ! Nếu không tham cứu sâu xa, trải qua sự quan sát rõ ràng, mà mù quáng nghe lời người khác, thì chính bản thân người nghe cũng là “mê tín” rồi, vì đã mê tín nghe theo lời nói bừa của kẻ khác. Đức Thích Ca Mâu Ni chưa từng cưỡng bách các đệ tử mù quáng tín ngưỡng Ngài, mà còn khuyến khích thắc mắc thưa hỏi. Phần này đã nói rất rõ trong mục thứ 10 “Phật giáo là dân chủ và tự do” ở chương 2 rồi, xin mời các bạn đọc xem lại. Kinh điển của Phật giáo và kinh điển của các tôn giáo có chỗ khác nhau rất lớn. Đó chính là chỗ mà kinh Phật cho phép hoài nghi, nghiên cứu; còn kinh điển của các tôn giáo khác thì là chân lý tuyệt đối, không được quyền bài bác, trái lại là phạm tội bất kính đối với thần. Đức Phật thường dạy các đệ tử rằng : Sự hoài nghi của các ngươi là chính đáng, bởi vì đối với một sự việc khả nghi thì nên khởi nghi. Phật cho rằng một người có chú tâm thì không thể bị chi phối bởi truyền thuyết, lời nói vu vơ, cũng không nên y cứ vào kinh điển của tôn giáo, không nên chỉ dựa vào luận lý hoặc suy lường, không nên vì sự việc nào đó chưa rõ ràng mà tin cho là thật. Tư tưởng vĩ đại của Phật giáo vẫn không dừng ở đó. Phật cho rằng một người không thể vì “Vị ấy là Thầy của chúng tôi”, mà đối với lời của vị Thầy nói ra tin sâu không chút nghi ngờ, mà còn mong các đệ tử cần phải : “Chính bản thân các ngươi phải hiểu biết chính xác lời dạy đó là tốt đẹp, thiện lương, lúc ấy các ngươi hãy tín thọ phụng hành”. Phật giáo không cho rằng hoài nghi là tội ác hoặc ngu xuẩn, ngược lại còn cho rằng hoài nghi là con đường tắt đạt đến giác ngộ. “Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ, không nghi không ngộ”. 2/phật pháp là khoa học mà chẳng phản khoa học Tôn Trung Sơn nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Nói cách khác, Phật học không những hợp với khoa học, mà còn bổ sung những khiếm khuyết, cải chính những hiểu lầm mà khoa học nghiên cứu. Tôi sẽ đưa ra một vài ví dụ để cho quý vị hiểu, nhằm chứng minh khoa học và Phật học không xung đột nhau. Bởi vì mục tiêu của Phật học và khoa học đều truy cầu “chân tướng” và “sự thật” của nhân sinh vũ trụ. 1- Vũ trụ quan của Phật giáo : Từ những nhà thiên văn học trước đây có người giả định vũ trụ là có tận cùng, có biên giới, thế nhưng giả định này đã bị các nhà thiên văn học ngày nay đánh đổ vì những phát hiện mới ngày càng nhiều. Căn cứ học thuyết của Thác Lặc Mật (Ptolematis System) trước đây : Địa cầu là trung tâm của vũ trụ, là yên lặng bất động, mặt trời xoay quanh địa cầu. Đương thời cũng được triều đình La Mã giáo cho là chân lý không thể hoài nghi. Về sau Ca Bạch Ni (Kopernik) và Gia Lợi Luợc (Galilei) đều bài xích thuyết này, vì thế mà họ chút nữa bị đem thân mạng chôn vùi. Song quyền thế của La Mã cuối cùng vẫn không ngăn cản được chứng cứ của khoa học. Hiện nay một học sinh cũng biết địa cầu chẳng qua chỉ là một vai trò nhỏ trong vô số tinh cầu của vũ trụ mà thôi, vả lại nó không những tự chuyển, lại còn xoay quanh mặt trời. Bây giờ chúng ta hãy xem tổ chức vĩ đại của vũ trụ mà Phật giáo đã miêu tả, so với sự tự thuật của khoa học hiện đại, cách xa nhau mà lại rất phù hợp với nhau. Phật giáo lấy 1000 thái dương hệ làm một “tiểu thiên thế giới”, lấy 1000 tiểu thiên thế giới làm một “trung thiên thế giới”, rồi lấy 1000 trung thiên thế giới làm một “đại thiên thế giới”. Mỗi đại thiên thế giới là một “quốc độ Phật” (khu vực mà Phật giáo hóa). Vậy một quốc độ Phật gồm có bao nhiêu thái dương hệ ? Gồm một tỷ thái dương hệ, tương đương với một tòa tinh vân trong thiên văn học (một hằng tinh do một quần thể hành tinh, vệ tinh vây quanh tạo thành một hệ thống gọi là thái dương hệ. Như mặt trời của chúng ta, xung quanh có địa cầu, Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, Mộc tinh, Thiên vương tinh, Hải vương tinh, Minh vương tinh, tất cả 9 đại hành tinh, 27 vệ tinh và hơn 1100 tiểu hành tinh). Cho nên Đức Thích Ca Mâu Ni nói “Mười phương hư không không cùng tận, quốc độ thế giới không thể hạn lượng”. (Mười phương hư không với “thái không” mà chúng tôi nói ý nghĩa giống nhau). Câu nói ấy chính là nói với chúng ta rằng ở trong hư không tinh cầu vẫn không tính đếm hết, hư không là không có biên giới. Từ Văn nghệ Phục Hưng Châu Âu về sau, Galilei đã dùng kính vọng viễn để quan sát quần tinh của thiên không, thiên văn học mới dần dần tiến bộ, mãi cho đến ngày nay chúng ta mới hiểu biết đôi chút về sự rộng lớn vô biên của bầu trời, mới hiểu địa cầu của chúng ta chẳng qua chỉ là một tiểu hành tinh trong Thái dương hệ mà thôi. Hơn nữa Thái dương hệ trong hư không không thể nào tính đếm, có hàng ngàn vạn thái dương. Thế mà, hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Thích Ca Mâu Ni không có kính nhìn xa đã nói với chúng ta hư không là vô biên vô tế, và tinh cầu trong hư không là không thể tính đếm (Phật lấy “Bất khả tư nghị” để hình dung, nghĩa là không những không thể tính đếm được hết, mà còn dứt khoát cũng không có cách nào tưởng tượng suy lường được). Nếu không phải là bậc tiên tri tiên giác đầy đủ trí tuệ rộng lớn, sâu xa, thì làm sao có thể miêu tả vũ trụ vĩ đại, bí ẩn và bao la như thế được. 2- Trong một ly nước có tám vạn bốn ngàn chúng sinh : Lúc Phật nói pháp, thường nói với chúng ta một cách rõ ràng, chúng sinh trong vũ trụ là không thể tính đếm, là không thể tưởng tượng. Ngoài địa cầu chúng ta đang ở có chúng sinh ra, vô số tinh cầu trong vũ trụ cũng có chúng sinh tồn tại. Ngoài chúng sinh mà chúng ta dùng mắt thường để thấy ra, vẫn còn rất nhiều chúng sinh mà mắt thịt của chúng ta không thể thấy được. Ngài chỉ vào một ly nước và nói rằng trong ly nước ấy có tám vạn bốn ngàn chúng sinh. (Trong kinh Phật dùng tám vạn bốn ngàn là ý biểu thị số lượng rất nhiều). Ngày nay theo sự tiến bộ của khoa học, các nhà khoa học vẫn không dám phủ định trong tinh cầu khác của vũ trụ có thể có chúng sinh tồn tại. Thế nhưng tôi tin rằng một ngày nào đó các nhà khoa học lại một lần nữa chứng minh giả thiết của Phật giáo là chính xác. (Trong vũ trụ vẫn có vô số chúng sinh tồn tại). Ngày nay dưới kính hiển vi, những vi sinh vật trong ly nước đâu chỉ có ngàn vạn ! Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Thích Ca Mâu Ni không dùng kính hiển vi để quan sát mà có thể nói đúng với khoa học ngày nay. Điều đó đủ để cho chúng ta phải cúi đầu khâm phục rồi. 3- Sắc tức là không, không tức là sắc : Căn cứ theo vật lý học xưa, có hai định luật trọng yếu : Một là “định luật vật chất không diệt”, một là “định luật năng lực không diệt”. Các nhà vật lý học trước đây cho rằng vật chất và năng lực là không tương quan với nhau, không thể trao đổi với nhau, mà hai thứ đều là thường trụ bất diệt. Vật chất ở trong kinh Phật gọi là “Sắc”, mà Phật giáo cho rằng “sắc” tức là “không”, điều này với khoa học có xung đột. Hơn nữa căn cứ theo sự giải thích của Phật pháp thì hết thảy sự vật trong vũ trụ đều là vô thường, bản thể là không, không có dạng “bất diệt”, điều này với khoa học cũng không hợp. Thế nhưng, từ lúc Einstein phát biểu “công thức đẳng lượng năng lực vật chất biến thiên”, chứng minh lúc mỗi một pound vật chất hủy diệt, có thể biến thành hàng loạt năng lực kinh người (E = MC2); lại đến lúc thử nghiệm bom nguyên tử thành công, mới có thể chứng minh vật chất biến thành năng lực. Bản thể của vật chất (sắc) đó chẳng phải là “không” sao ? Cho nên định luật vật lý học xưa kia đã bị phủ định. Phật học một lần nữa từ trong sự tôi luyện của khoa học mà vẫn đứng vững chắc không gì lay chuyển. Để cho dễ hiểu hơn chúng tôi xin trình bày thêm như sau : 1- Sắc tức là không : Vật chất (sắc), là từ tổ chức của nguyên tử, mà trong nguyên tử có hạt nhân nguyên tử và điện tử, trong hạt nhân nguyên tử lại có chất tử và trung tử, chất tử và trung tử lại có thể đả phá mà biến thành năng lực (không). (Các nhà vật lý học trước đây cho rằng nguyên tử không thể phân chia, đó là điều sai lầm). 2- Không tức là sắc : Năng lực (không) có thể biến thành vật chất (sắc), cũng đã được giới khoa học nhất trí thừa nhận. 3- Cuối cùng tôi xin nêu một ví dụ trong “Thuyết tương đối” của Einstein : Thời gian là tùy theo tốc độ mà thay đổi. Người ta ngồi trên hỏa tiễn đi với tốc độ bằng vận tốc ánh sáng để đến một tinh cầu nào đó, sáng ăn cơm ở địa cầu này, trưa ăn cơm ở tinh cầu khác, buổi tối lại chuẩn bị trở về địa cầu ăn tối. Thế nhưng khi người ấy trở về thì địa cầu đã trải qua hàng trăm năm rồi, thân hữu của họ đã chết gần hết. Các nhà khoa học hiện nay chưa có người nào dám phủ định tính có thể có của ví dụ nêu trên. Thế nhưng xin mời quý vị hãy xem trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa của Phật giáo, Đức Phật nói với những người nghe pháp rằng : Các ông nghe ta nói pháp giảng kinh, trải qua thời gian không lâu, thế nhưng thế giới bên ngoài đã trải qua hàng ngàn ức năm. Lý luận “thời gian tương đối” của Einstein, Đức Phật đã nói trước đây gần 3000 năm rồi. Do đó Tôn Trung Sơn mới nói : “Nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Bởi vì Phật học lúc nào cũng đi trước khoa học. 3/Phật giáo là từ bi không sát sinh Ai cũng đều biết “không sát sinh” là giới cấm căn bản của Phật giáo. Phật giáo chủ trương chúng sinh bình đẳng, coi sinh mạng của các động vật khác cũng như sinh mạng của mình. Phật giáo chủ trương học thuyết luân hồi, hễ chúng sinh chưa đạt đến “giác ngộ”, đều phải bị luân hồi mãi mãi trong biển khổ sinh tử. Do đó, ngoài đời này ra, người ta vẫn còn có nhiều đời khác ở quá khứ. Nói một cách khác ở trong đời quá khứ, chúng ta thường có biết bao cha mẹ, anh em, chị em, bạn bè, sư trưởng song do chúng ta chưa đạt đến giác ngộ chân chính, chưa có trí tuệ hiểu rõ vấn đề này mà thôi. Nếu ngày nay chúng ta tùy tiện sát hại động vật, có thể là chúng ta đã sát hại thân bằng quyến thuộc đời trước của mình. Cho nên, Phật giáo không sát sinh. (Đây cũng là một lý do mà Phật giáo ăn chay). Đương nhiên sẽ có những bạn học hỏi ngược lại là : “Làm sao ông biết điều đó ? Ông có thể chứng minh được không ?”. Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi xin mời bạn hãy xem đoạn văn đối thoại sau : A : Xin hỏi có gió hay không ? B : Đương nhiên là có. A : Vậy thì, xin bạn dùng màu sắc, hình dáng để chỉ gió ấy cho tôi xem được không ? B : Đó là việc không thể được. A : Nếu ông không thể chỉ gió cho tôi xem, vậy cũng chính là nói không có gió phải không ? B : Không, gió tuy dùng tay nắm không được, rờ không thấy, nhưng gió vẫn là gió, chẳng qua tôi không thể chỉ gió cho bạn xem mà thôi. Ở trong vũ trụ có rất nhiều sự thật, tuy chúng ta không thể chỉ ra được trực tiếp những chứng cứ để chứng minh, thế nhưng chúng ta cũng không thể phủ định sự tồn tại của nó. Hơn nữa, khoa học ngày nay vẫn còn bị hạn chế, vẫn không thể giải đáp được hiện tượng của vũ trụ là bao nhiêu. Mà nhân sinh vũ trụ sum la vạn tượng, chằng chịt lẫn nhau, con người không dễ dàng hiểu biết hết được. Đức Thích Ca Mâu Ni đã sớm thấy rõ được đạo lý ấy, cho nên Ngài đã nói với đệ tử rằng : “Ta là người nói đúng sự thật, không nói dối”. Ngài mong muốn đệ tử của mình ra sức nghiên cứu để hiểu rõ hơn, nếu điều nào chưa hiểu thì hãy tạm thời để đó. Bởi vì có một số đạo lý không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để giải thích rõ ràng được. Cho nên trong kinh Phật mới có câu “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”. Có thể hiểu biết chính xác và rõ ràng tình trạng đời quá khứ, trong Phật pháp gọi là “túc mạng thông”. Loại năng lực (thần thông) này phải trải qua nỗ lực tu hành mới có thể đạt được. Đối với một người mù mà nói thế giới này có biết bao đào thắm liễu xanh, người ấy có hiểu được không ? Đối với người ngớ ngẩn mà nói người nào đó là con của người em cha của hắn, tức là em họ của hắn, hắn ta có hiểu được không ? Rõ ràng Phật giáo chủ trương giới sát, ăn chay. Do đó những người hay sát sinh, dùng gà, vịt, heo để cúng bái là chưa hiểu biết Phật giáo. 4/Phật giáo là tích cực lạc quan Nói chung người ta thường phê bình Phật giáo là bi quan, rất tiêu cực. Vì sao người ta lại hiểu lầm như thế ? Tôi nghĩ là vì : Phật giáo nêu lên đời người có những thống khổ như sinh, lão, bệnh, tử v.v… lại nói “đời người vô thường”. Cho rằng vạn sự vạn vật trên thế giới này đều là nhân duyên tạm có, đều là đổi thay chớp nhoáng. Cái gọi là danh, lợi, tài, sắc chỉ là hư ảo, do đó mà khuyên người ta không nên “chấp trước” thái quá, tức là luyến ái không chịu buông xả. Phật giáo cũng cho rằng “đa dục là khổ”, dục vọng quá nhiều thường là căn bản của thống khổ và phiền não. Nhân đó mà khuyên người ta nên biết đủ ít muốn. Mỗi cá nhân đều phải lượng tài sức của mình để quyết định nhiều hay ít dục vọng. Tài sức của mình không đủ, nhưng cả ngày cứ mơ tưởng không đâu, há không phải là tự mình chuốc lấy phiền não hay sao ? Thế nhưng, xin bạn nên nhớ, Phật không có buộc chúng ta “tuyệt dục”, mà chỉ nói “ít dục biết đủ”. Tiết kiệm quá đáng, đến nỗi làm tổn hại đến thân thể của mình Phật cũng phê phán. Chính Ngài năm 29 tuổi xuất gia, đã từng noi theo phương pháp tu khổ hạnh của ngoại đạo đương thời, mỗi ngày chỉ ăn một hạt gạo một hạt mè. Thân thể tiều tụy như cây khô, thể lực suy yếu, kết quả vẫn không đạt được giác ngộ như Ngài mong muốn. Cuối cùng Phật mới hiểu rằng ngược đãi thân thể của mình, hoàn toàn không phải là phương pháp đạt đến con đường giải thoát. Thân thể tuy không phải là chân thật, một ngày nào đó cũng phải tử vong, thế nhưng tu hành cũng phải nhờ đến thân thể. Thân thể không khỏe mạnh thì tâm không an ổn, thân cũng không thể ngồi thiền được. “Ít muốn biết đủ” chính là “Con đường trung dung”. Trong Kinh 42 Chương có chép như vầy : Phật hỏi một vị sư trước khi xuất gia ưa thích đàn Cầm rằng : - Dây đàn chùng quá thì âm thanh như thế nào ? - Bạch Thế Tôn, không nghe được. - Dây đàn căng quá thì sao ? - Bạch Thế Tôn, dây sẽ đứt. - Nếu điều chỉnh vừa đủ (không căng quá, không chùng quá) thì sao ? - Bạch Thế Tôn, có thể gảy được những thứ âm nhạc tuyệt diệu. Cho nên Phật giáo không phải là chủ nghĩa túng dục “ngày nay có rượu ngày nay say”, cũng không phải chủ nghĩa ngược đãi tự ngã bỏ đói chịu lạnh. “Ít muốn biết đủ” của Phật giáo chính là chủ nghĩa “Trung đạo” đạt đến hạnh phúc an lạc. Thôi, bây giờ chúng ta lại nói tiếp vấn đề Phật giáo không phải là tiêu cực và bi quan. Phật giáo khuyên người ta phải hiểu rõ đạo lý nhân sinh vô thường, sinh mạng ngắn ngủi tạm thời, không nên để uổng phí tuổi xuân trôi qua. Có như thế mới yêu tiếc thời gian, nỗ lực làm các công việc tự lợi, lợi tha có ích cho thế đạo nhân tâm. Phật giáo cho rằng “tứ đại giai không”. Tứ đại là chỉ cho đất, nước, gió, lửa, bốn loại nguyên tố mà tất cả thế giới và con người nhờ đó mà thành lập, cho nên gọi là tứ đại. Đất là thể rắn của vật chất, nước là thể lỏng của vật chất, lửa là tính ấm của vật chất, gió là tính động của vật chất. Trong thân thể người ta thì da, thịt, gân, cốt là thuộc về địa đại; tinh huyết đàm dãi thuộc về thủy đại; hơi ấm là hỏa đại; hô hấp vận động là phong đại. Thân thể người ta là do nguyên tố tổ hợp của “tứ đại” này mà thành, cũng lại do sự tan rã của “tứ đại” này mà tiêu diệt. Người ta vốn không có một thứ bản thể chân thật tồn tại, cho nên nói “tứ đại giai không”. Vì “tứ đại giai không” cho nên nói “vô ngã”. Có một số độc giả nói rằng, rõ ràng tôi có đây, thế mà lại nói “vô ngã” là sao ? Xin thưa “ngã” chẳng qua chỉ là thể tụ hội tạm thời của bốn loại nguyên tố đất nước gió lửa đã nói ở trên mà thôi. Tế bào trong thân thể con người thay đổi từng giây, từng phút. Vậy thì một giây trước là ta ? Hay là một giây sau là ta ? (Thời gian giống như thác nước không thể tìm thấy một điểm “hiện tại”). Có người nói “tư tưởng” mới là “Ta”, thế nhưng tư tưởng con người là sát na sinh diệt, trôi chảy không dừng. Lại giống như sóng biển, sóng trước lặn sóng sau lên, niệm trước chưa diệt niệm sau lại sinh khởi, niệm niệm không dừng, vậy thì niệm trước là “ta” hay niệm sau là “ta” ? (Cho nên quan niệm của con người luôn luôn cải biến, tư tưởng vẫn luôn dời đổi, hôm qua cho là đúng là tốt, nhưng hôm nay lại cho là sai là không tốt). Nhân đấy, từ trong thân thể và tư tưởng vốn tìm không được hình bóng của “ngã”, cho nên nói là “vô ngã”. Phật giáo giảng “vô ngã”, không phải muốn người ta hủy hoại mình. Lại có người cho rằng “ngã” đã không có thì làm điều xằng bậy đâu có liên quan gì ! Ngã là giả thì cố gắng để làm gì ? Quan niệm theo kiểu này thì thật là lầm to. Phật giáo giảng đạo lý vô ngã chính là mong muốn người ta hiểu rõ ngã chỉ là giả tướng tụ hội tạm thời của tứ đại, một ngày nào đó tứ đại tan rã thì sẽ suy bệnh mà mất. Do đó không nên mải mê tìm cầu danh lợi, không cần phải so đo từng li từng tí với người, mà cần phải khoan nhượng chịu đựng để đối nhân xử thế. Chỉ có nhận thức được vô ngã, mới có thể hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, mới dám xông vào chỗ nước sôi lửa bỏng để thực hiện lý tưởng cứu nhân độ thế. Một người có thể thực hiện được vô ngã, thì mới không làm tổn hại người để lợi mình, không lấy của công làm của riêng, mới có thể ngẩng cao đầu đem nhiệt huyết của mình làm đại sự nghiệp cứu nước cứu dân. Cho nên Phật giáo lấy “vô ngã” “hiểu rõ tất cả” làm công cụ để đạt đến mục đích tạo phước cho mọi người, phục vụ xã hội. Vì có như vậy mới không bị trói buộc trong vòng danh lợi, mới có thể đạt được tự do, tự tại thực sự, lại không còn phải phiền não về việc được thua gì cả. 5/Phật giáo không phải là trốn tránh hiện thực Có người thấy một vị sư mai danh ẩn tích khổ tu trong chốn sơn lâm cùng cốc, tợ hồ như không còn một chút trách nhiệm gì đối với xã hội, bèn chỉ trích Phật giáo là trốn tránh hiện thực. Thật ra luận điệu ấy tợ hồ như phải mà lại trái. Phật giáo chủ trương “Bi trí song tu”. Nếu chỉ có “bi” tâm cứu nhân cứu thế, mà không có “trí” tuệ chân tài thực học, vẫn là không có chỗ dùng. (Có lòng cứu người chết đuối, nhưng lại không biết bơi thì có tác dụng gì !). Nhân đấy, người tu hành Đại thừa chân chính (thừa ý là thuyền, thuyền lớn nhỏ quyết định chở được nhiều hay ít người. Đại thừa lấy “kiêm thiện thiên hạ” làm mục tiêu, Tiểu thừa lấy “độc thiện kỳ thân” làm mục đích). Ở ẩn tịnh tu chỉ là công việc chuẩn bị cho tương lai hoằng dương Phật pháp, rộng độ chúng sinh mà thôi. (Cũng giống như những nhà khoa học, suốt ngày ở trong phòng, để hết tâm trí thực nghiệm tìm tòi những điều mới lạ nhằm phục vụ cho nhân loại). Kỳ thật không những người xuất gia như thế, mà người cư sĩ tu hành tại gia cũng phải “phước huệ song tu”. Không chỉ là “hạnh phúc” cho tương lai của mình, mà còn phải học tập rèn luyện mở mang “trí tuệ” để hoằng pháp giúp người. Dưới đây tôi xin nêu ra sự tích của ngài Huyền Trang, nhân vật chính trong “Tây du ký”, một vị cao tăng thông thạo văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, để thuyết minh Phật giáo hoàn toàn không phải là trốn tránh hiện thực. Huyền Trang, ngài họ Trần tên Huy, người Hà Nam, sinh năm Khai Hoàng 19 vua Văn Đế đời Tùy. Gia đình có truyền thống học hành. Ông nội ngài là Tiến sĩ quốc học Bắc Tề. Cha làm Huyện trưởng Giang Lăng triều Tùy. Sau khi Huyền Trang xuất gia, người nhà đề nghị ngài nên trụ trì chùa Trang Nghiêm, một ngôi chùa rất lớn ở Trường An, nhưng ngài không chịu. Ngài nhận thấy kinh sách trong nước rất ít, mà nghĩa lý thì không rõ ràng, không đủ sức thu phục nhân tâm. Vì thế ngài phát thệ “hy sinh thân mạng đi Tây Trúc cầu pháp, để sau này trở về hoằng hóa tại Trung Quốc. Không những chỉ dịch một lượng lớn kinh sách, mà còn phải giải quyết những tệ bệnh của Phật pháp ngày nay và làm được một công việc hết sức thiêng liêng vĩ đại giúp cho nền văn hóa nước nhà”. Vào năm thứ 3 Trinh Quán vua Thái Tông đời Đường, Huyền Trang bắt đầu cuộc Tây du cầu pháp. Ngài phải trải qua những sa mạc nóng cháy, vượt qua những ngọn núi cao nguy hiểm. Một thân một bóng chịu đựng biết bao gian lao khổ cực, chín phần chết một phần sống mới đến được Ấn Độ. Dưới gốc cây Bồ đề nơi Đức Thích Ca thành đạo, Huyền Trang ngậm ngùi rơi lệ cho sự suy vi của Phật giáo Ấn Độ, lập chí phải nỗ lực nghiên cứu Phật pháp. Về sau trong đại hội thành Khúc Nữ (Ranyakubja) ngài đọc một bản tuyên ngôn (tức Chân Duy Thức Lượng tụng) đã làm chấn động giáo đồ Tiểu thừa toàn cõi Ấn Độ. Huyền Trang được quốc vương các nước tôn sùng ngưỡng mộ, họ tranh nhau mời thỉnh ngài giảng Kinh, thậm chí còn muốn dùng cả vũ lực để tranh giành nữa. Lúc “công danh phú quý” đã đạt đến đỉnh cao, nhưng Huyền Trang vẫn quyết định trở về nước. Lời ngài nói với Giới Hiền, bậc thầy của ngài lúc bấy giờ, ngày nay sau gần 2000 năm, chúng ta nghe qua vẫn không khỏi cảm động. “Bạch thầy, mục đích cầu học của con không phải vì hạnh phúc và tài học của cá nhân. Nếu chỉ vì những chuyện như thế, thì con không bao giờ liều mạng vào con đường hiểm cả. Hiện nay con đã học được chút đạo lý nơi quý quốc, cần phải trở về nước để truyền đạo, giải cứu những nỗi khổ đau cho đồng bào. Nếu con lưu lại đây lâu ngày không về, con sẽ có lỗi với đồng bào thân yêu của con”. Cái tinh thần cao cả vĩ đại ấy, xứng đáng là tấm gương cho chúng ta noi theo học tập. Trong cuốn “Trung Quốc Triết học sử thoại” của Trương Khởi Quân và Ngô Di tiên sinh hợp biên, có một đoạn nói về Huyền Trang như sau : “Một đời của vị cao tăng ấy, một nửa đi thỉnh kinh, một nửa chuyên dịch kinh. Ngài có dáng dấp đời sống của nhà du lịch, có tinh thần tuẫn đạo của nhà tôn giáo, có nhiệt tình cứu thế của nhà tư tưởng. Ngài vì Phật giáo, vì văn hóa Trung Quốc đã cống hiến cả cuộc đời mình. Ngày nay đã yên trí lìa bỏ cuộc đời. Ngọn bút trong tay của ngài không còn chuyển động nữa. Quả tim của ngài đã ngừng đập rồi. Thế nhưng dấu chân của ngài vẫn in nơi sa mạc, vĩnh viễn lưu lại trong ký ức của loài người. Một tay của ngài đã phiên dịch hàng ngàn quyển kinh sách, cũng vĩnh viễn lưu lại trong kho tàng văn hóa của Trung Quốc”. Ai nói Phật giáo là trốn tránh hiện thực ? Ai nói Phật giáo là tiêu cực, bi quan, yếm thế ? 6/ Phật giáo không chỉ nói suông về nghĩa lý Có những người than rằng : “Chẳng phải tôi không muốn nghiên cứu Phật pháp, cũng chẳng phải nói Phật pháp không tốt, chỉ vì nó quá phiền phức, quá cao xa”. Ý họ nói kinh Phật rất nhiều, rất cao sâu. Lại có một người bạn nói với tôi rằng : “Vì sao Phật giáo không học tập Cơ đốc giáo, chỉ cần đưa ra một quyển Thánh Kinh tóm tắt đơn giản rõ ràng là đủ ?”. Kỳ thật vấn đề này nêu ra rất là ấu trĩ, cũng rất nông cạn, tôi bèn hỏi lại rằng : “Hiện tượng của vũ trụ nhân sinh là đơn giản, hay là phức tạp ?”. Tôi nói : “Phật pháp là tìm cầu hiện tượng chân thật của nhân sinh vũ trụ. Bởi vì hiện tượng nhân sinh vũ trụ rất phức tạp, cho nên không thể nói đôi ba lời là thấu suốt. Cũng bởi đạo lý của nhân sinh vũ trụ không dễ dàng hiểu biết, cho nên Phật pháp giải thích nó cũng có chỗ sâu cạn khác nhau”. Đồng thời Phật pháp là giảng cho chúng sinh nghe. Chúng sinh thì vô biên, căn khí (trí tuệ) của chúng sinh cũng bất đồng, có người cao kẻ thấp, có người trí kẻ ngu, cho nên nói pháp cũng không thể cứ một mực không thay đổi. Cùng một đạo lý ấy nhưng có thể tùy góc độ khác nhau mà giải nói cho từng đối tượng. Phật giáo không chỉ là tôn giáo nói suông về nghĩa lý, có thể qua sự thực tu và thân chứng, khiến cho giữa nó và lý luận cùng phối hợp với nhau. Trong đó chỉ đơn cử một việc như tọa thiền chẳng hạn. Phương pháp tọa thiền rất nhiều, có thể thực hành như chuyên chú, quán tưởng, điều tức, mật niệm, vận động v.v… Dù bạn y theo một phương pháp nào, đều có thể đạt đến cảnh giới giác ngộ “minh tâm kiến tánh, chuyển mê thành trí”. Ví như Đại sư Huệ Năng - Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc. Ngài là một vị sư không biết chữ, nhưng có thể nêu ra bài kệ của Thần Tú, vị đệ tử lớn của Ngũ Tổ là chưa đắc đạo, bài kệ ấy là : “Thân là cây Bồ đề, tâm như đài gương sáng, thời thời siêng lau chùi, chớ để nhiễm trần ai”. Phê bình Thần Tú chỉ là người mới đến cửa mà chưa vào nhà, ngài nhờ người viết hộ bài kệ (vì ngài không biết chữ) : “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, chỗ nào nhiễm trần ai ?”. Được Ngũ Tổ ca ngợi và truyền trao y bát kế thừa thiền pháp. Chúng ta chỉ cần xem qua “Lục Tổ Đàn Kinh” sẽ biết được trí tuệ tuyệt vời của Lục Tổ, khâm phục năm vóc sát đất. Bởi vì những lời giảng của ngài với lời Phật thuyết hoàn toàn phù hợp không một chút sai sót nào. Dưới đây là một đoạn công án (sự tích) của Đại sư Huệ Năng sẽ chứng tỏ điều đã nêu trên. Có hai vị sư nhìn thấy lá phướn bên ngoài giảng đường, gió thổi lay động qua lại. Nhân đó đã dẫn đến sự tranh luận. Một vị nói : - Tại gió động. Vị sư khác nói : - Không phải, tại phướn động. Tại sao ông lại nói gió động ? - Nếu không có gió thổi thì làm sao phướn động được ? Lúc ấy Huệ Năng nghe được, ngài liền nói với hai vị sư là : - Không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà là do tâm của các ông động ! Lại có một vị thi tăng Bát Chỉ đầu đà (đầu đà là khổ hạnh tăng, tức là vị sư tu hành khổ hạnh), ở vào đầu nhà Thanh cuối nhà Minh. Trước kia là người có đủ 10 ngón tay, sau vì ngài biểu thị quyết tâm cầu đạo và lòng thành kính đối với Đức Phật, cho nên đã đốt hai ngón tay trước điện Phật, chỉ còn lại tám ngón (Bát chỉ). Bát Chỉ đầu đà vốn không biết làm thơ, cho đến chữ nghĩa cũng biết rất ít, thế nhưng có một hôm, sau khi tĩnh tọa nhập định liễu ngộ, ngài đi đến Động Đình hồ thăm người bạn. Lần đầu tiên ngài chấp bút viết câu “Động Đình ba tống nhất tăng lai” (Sóng hồ Động Đình đã đưa vị tăng đến), khiến cho mọi người phải kinh ngạc. Từ đấy, ngài làm thơ như là có thần trợ giúp, ý thơ tuôn ra như nước. Còn có rất nhiều vị cao tăng khác, cũng chữ nghĩa không bao nhiêu, thế nhưng sau khi công phu thiền định đã được liễu ngộ rồi, giảng kinh thuyết pháp, nói có bài bản hẳn hoi, trên hợp với ý Phật, dưới hợp với tâm người, không cần khéo léo trau chuốt mà ngôn từ ý tứ vẫn siêu việt hơn người. Vì tập sách có hạn nên không thể giới thiệu hết được. Phần trên là giới thiệu về sự thực chứng của việc tu hành theo pháp môn “thiền định”. Còn đối với những vị tu hành theo Tịnh độ tông chỉ niệm Phật A Di Đà, cũng có thể đạt được đạo quả. (Phật giáo nương theo phương pháp tu hành khác nhau mà có các phái khác nhau gọi là Tông). Chẳng hạn như ngài Từ Hàng Đại sư trải qua 5 năm ở trong chiếc vại đậy kín mà nhục thân không hoại (tức là thể xác đã chết mà không hư hoại). Hiện nay đã thếp vàng lên thân ngài tôn thờ tại Tịch Chỉ ở Đài Bắc. (Đại sư Huệ Năng cũng nhục thân bất hoại, tức là sau khi chết thi thể còn nguyên, vẫn sinh động như sống, hiện còn lưu giữ tại Quảng Châu). Lại như Đại sư Ấn Quang và Đại sư Hoằng Nhất (tức là nhà âm nhạc Lý Thúc Đồng) v.v… Các ngài đều tu tập pháp trì danh niệm Phật, sau khi mất, thiêu được rất nhiều Xá lợi. (Xá lợi còn gọi là kiên cố tử, lúc mất hỏa táng di thể mà có được loại Xá lợi này). Ở Đài Loan, tôi đã được may mắn xem qua Xá lợi của Ni sư Viên Dung chùa Đông Sơn ở Bình Đông, Hòa thượng Nhãn Tịnh chùa Từ Vân ở Nam Tử và Đại sư Chương Gia, màu sắc nó lóng lánh tuyệt đẹp. Những dẫn chứng trên để chứng minh việc tu hành chứng quả của các vị tu hành theo Phật giáo. 7/phật giáo phủ định túc mạng luận Vì sao gọi là “Túc mạng luận” ? Nói một cách đơn giản là sự cát hung họa phước của con người đều do đời trước định đoạt, sức người không có thể thay đổi được. Nói cách khác người tin theo “Túc mạng luận” là “phú thác mạng mình cho trời”, cho rằng số mạng của mình đã định sẵn rồi. Rất nhiều người có tư tưởng như vậy. Cũng rất nhiều tôn giáo chủ trương như vậy. Họ cho rằng : Số mạng đã định không thi đậu đại học, nếu có nỗ lực đến đâu cũng không thi đậu; số mạng đã định không bần cùng, dù có xa xỉ phù hoa hoặc hoang phí cũng không bần cùng. Song Phật giáo triệt để đả phá loại luận điệu này, khẳng định có ra sức thì phải có thu hoạch. Theo thuyết của nhà Phật thì “công bất đường quyên”, ý nói đã cố gắng thì không uổng phí công lao. (Có thể đọc thêm sách “Liễu phàm tứ huấn”). Phật giáo cho rằng tiền đồ vị lai của một cá nhân là tùy theo hành vi tốt xấu hiện tại của chính mình mà quyết định. Tiền đồ của mình nằm ở trong tay của chính mình. Không có cái gọi là số mạng đã định không thi đậu đại học, nếu mình cố gắng nỗ lực, cánh cửa đại học chắc chắn sẽ mở ra đón nhận bạn. Cũng không có chuyện số mạng định sẵn giàu sang phú quý, cứ xa hoa phung phí, không lo cần kiệm làm ăn thì nhất định một ngày nào đó sẽ bị nghèo khổ. Cho nên Phật giáo không chủ trương “Túc mạng luận”. Lại bàn qua về thuyết “nhân quả báo ứng” của Phật giáo. Tuy chúng ta thường nghe thuyết pháp “trồng dưa được dưa”, thế nhưng thuyết nhân quả của Phật giáo, nếu nói rõ ràng một tí thì phải nói là “nhân duyên quả báo”. Tức là giữa nhân và quả Phật giáo xem trọng ở chữ “duyên”. Vì sao gọi là “duyên” ? “Duyên” có tác dụng gì ? Nếu như chúng ta gieo một hạt giống dưa xuống đất (nhân) mà không có ánh sáng, nước, phân hoặc sự chăm sóc của nhân công (duyên), nó sẽ ảnh hưởng đến hạt giống, chồi, cây và hoa trái. Cũng như thế nếu một người đời trước có gieo nhân lành, nhưng đời nay không tiếp tục tu trì, hành thiện để trợ duyên, thì cũng sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành quả tốt, cũng không thu hoạch được bao nhiêu. Nếu một người đời trước làm điều xấu, nhưng đời này biết cải hối, bỏ ác làm thiện, cũng có thể giảm thiểu hoặc không thọ quả khổ. Các bạn học nghe đến đây, chắc chắn sẽ hoài nghi rằng : Một người làm điều xấu, nếu biết cải ác làm thiện thì “có thể” không chiêu thọ quả ác. Và hỏi ngược lại rằng : Như vậy có nghĩa là “có thể” chiêu thọ quả ác phải không ? Vấn đề này tôi xin nêu ra một thí dụ để giải thích như sau : Nếu một người uống thuốc độc, được đưa đến bác sĩ cứu trị, kết cục của người ấy có hai thứ : Một là hóa nguy thành yên và một là chết. Vì sao người ấy uống thuốc độc, (nhân ác, tỉ như làm việc xấu), đưa đến bác sĩ chữa trị (làm thiện, tỉ như làm việc tốt), nhưng lại cũng “có thể” chết ? Để trả lời vấn đề này không phải chỉ nói vài lời có thể giải thích thấu đáo, tối thiểu cũng liên quan đến ba phương diện : 1/ Người ấy trúng độc nặng hay nhẹ (làm việc xấu nhiều hay ít, tội phạm cũng tương đương). 2/ Người ấy được đưa đi bác sĩ nhanh hay chậm (giác ngộ sớm hay muộn). 3/ Có cứu trị được hay không ? (hành thiện nhiều hay ít, giữa loại hành thiện này có liên quan với nhân ác đã tạo trước kia). Căn cứ theo ba điểm trên có thể quyết định cá nhân người ấy có hay không chiêu thọ “quả ác”. Song tôi cũng mong các bạn học hiểu cho tỉ dụ đó chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ phải nêu mà thôi, mục đích là ở chỗ giúp cho mọi người hiểu được nghĩa chân thật của nhân quả. Chúng ta không nên chấp vào đó, bởi vì đã gọi là “thí dụ” thì không “có nghĩa là” sự thật, mà chỉ có thể nói là “tương tợ” mà thôi. Thuyết nhân quả của Phật giáo, trùm khắp nhân sinh vũ trụ vô cùng, bao quát không gian và thời gian vô tận, trong ấy chằng chịt xen lẫn nhau, trăm dây nghìn mối, ngoài những vị giác ngộ (như Phật, Bồ tát v.v…) có đầy đủ trí tuệ chân thật ra (Phật giáo gọi là “Bát nhã”) , người bình thường chúng ta khó có thể hiểu được sự thâm áo của nó. Cũng giống như một cái máy thu hình, bên trong đó dây nhợ chằng chịt, ngoài nhân viên kỹ thuật chuyên môn ra, thì ai có thể nhìn vào đó hiểu được ? Do đó tỉ dụ của tôi không thể bao hàm hết mối quan hệ nhân quả sum la ấy. Cũng giống như một thác nước lớn từ trên cao chảy xuống (Phật giáo gọi là dòng tương tục lớn của nhân quả) thì làm sao có thể cắt xén một đoạn trong dòng thác ấy để quan sát, để thuyết minh cho được ? Thôi được, dưới đây tôi sẽ nói tiếp về vấn đề “Đời trước làm điều xấu, đời nay tuy nỗ lực làm việc thiện mà vẫn có thể chiêu lấy báo ứng !”. Phật giáo có thái độ gì với vấn đề này ? Thái độ của Phật giáo là : 1- Khuyên bạn cứ tiếp tục làm điều thiện hơn nữa, bởi vì những việc ấy sẽ thâu hoạch được kết quả mỹ mãn ở tương lai, không nên nản lòng thối chí. 2- Đối với loại “quả xấu” không có thể thay đổi được (Phật giáo gọi là “định nghiệp”), Phật giáo an ủi họ phải mạnh dạn nhẫn chịu, vì người quân tử dám làm thì phải dám chịu. Đã làm những điều sai trái cũng như phạm vào luật pháp thì phải an tâm, nhẫn nại nhận chịu hình phạt, oán trời trách người hoặc có ý trốn thoát đều là biểu hiện của kẻ nhu nhược, đều là một loại hành vi không dám lãnh lấy trách nhiệm mà mình đã làm. (Điều này thường bị người đời hiểu lầm là do số Trời đã định, kỳ thật hoàn toàn sai lầm). 3- Từ trong những báo ứng thống khổ này phải phản tỉnh lấy mình, từ đây về sau cần cẩn thận giữ gìn tâm tính hành vi của mình. Hiểu rõ nhân quả báo ứng không sai sót chút nào, càng phải “chớ cho điều thiện nhỏ mà không làm, chớ cho việc ác nhỏ mà làm” (câu này do Lưu Bị nói với con của mình trước khi chết, còn Phật giáo thì nói “Chớ làm các điều ác, hãy làm các việc thiện”). Do đó, nhân sinh quan của Phật giáo là tích cực hướng về phía trước. Đối với những sai lầm của dĩ vãng phải dũng mãnh nhìn nhận, an tâm nhẫn chịu, lấy đó để rèn luyện nhân cách tiết tháo. Đồng thời vì sự an lạc và hạnh phúc mai sau, cần phải nỗ lực phấn đấu hướng thượng, dù thế nào cũng không nên tiêu cực, chán nản, tự hủy hoại mình. Điều sau cùng muốn nói thêm là : Vì sao có người đời nay làm thiện, nhưng trái lại toàn gặp điều khổ sở bất hạnh ? Một số người suốt đời làm điều xấu ác, nhưng lại tiêu diêu tự tại, giàu sang trường thọ ? Trong nhà Phật nói “Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nếu không thấy báo, vì thời gian chưa đến”. Câu nói này rất rõ ràng là “nếu như không thấy báo” chỉ là vì “thời gian chưa đến” mà thôi. Làm thiện mà gặp ác báo, làm ác ngược lại gặp thiện báo, chẳng phải “nhân quả báo ứng” vượt ngoài khuôn phép, sai mất tính chân thật, mà là người hành thiện ấy đời trước đã từng làm những điều xấu, đến đời nay phải chịu những ác quả. Còn việc thiện của họ làm hiện nay ngày sau mới có thể hưởng thiện báo. Người làm ác gặp thiện báo cũng giống như vậy. Phật giáo lại cho rằng nhân quả báo ứng, có cái đời nay làm đời nay liền báo, nhưng cũng có những cái phải trải qua một đời hoặc bao nhiêu đời mới bị báo ứng. Như vậy là sao ? Xin quý vị hãy xem thí dụ sau : 1- Đời nay làm đời nay báo ứng, cũng như cây cà chua một tháng là có thể thu hoạch được. 2- Đời nay làm trải qua nhiều đời sau mới báo ứng, cũng như cây nho phải trải qua vài năm sau mới có thể thu hoạch được. Cổ nhân nói : “Thiện ác đều có báo, đạo trời vốn xoay vần, không tinngẩng đầu xem, trời xanh tha thứ ai ?”. Các bạn học thân mến, chắc các bạn đã biết câu “Lưới pháp lồng lộng, thưa mà không lọt mảy may” rồi chứ ? Hết thảy việc ác dù nhỏ như hạt mè cũng không nên làm, bởi vì một tế bào ung thư dù nhỏ xíu, cũng có thể cướp đi sinh mạng quý báu của bạn, làm cho bạn phải đau khổ tột cùng. 8/ Phật giáo không sùng bái hình tượng Thường thường chúng ta hay nghe một số người nói Phật giáo là “sùng bái hình tượng”. Như vậy Phật giáo có sùng bái hình tượng không ? Tôi xin thưa là không. Như các bạn đã biết, ở trong sách này đã nhiều lần nêu rõ Phật giáo chủ trương “tứ đại giai không”, “sắc tức là không, không tức là sắc”. Nhiều lần thuyết minh vũ trụ vạn sự vạn vật đều là do nhân duyên tạm thời tụ hợp mà thành, không có một thứ bản thể thực tại bất biến. Giống như băng là do nước lạnh đông đặc lại mà thành, nước là hóa hợp của Hydro và Oxy mà thành, mà nguyên tố của Oxy và Hydro lại là do hạt nguyên tử và điện tử v.v… tập hợp mà thành, trong đó có cái nào là thực thể bất biến đâu ? Nhân đấy Phật giáo chủ trương “phá tướng”. Thế nào gọi là phá tướng ? Phá tướng tức là đả phá quan niệm thiếu sáng suốt cho rằng “sự vật do nhân duyên sinh” là vĩnh tồn bất biến. Như vậy hình tượng có phải là thứ “tướng” mà Phật giáo muốn phá trừ không ? Tôi xin thưa là phải, bởi vì hình tượng chỉ là do cây, đá, đất bùn trang sức thêm vàng mà thành, cũng là một loại thể giả hợp của nhân duyên, đương nhiên bản thể là không. Hình tượng đã là do “nhân duyên sinh ra”, cho nên Phật giáo không thể thừa nhận nó là vĩnh hằng bất biến. Vì vậy cũng phải phá trừ “tướng” ấy - phá trừ quan niệm hình tượng. Có bạn đồng học không hiểu hỏi ngược lại tôi : “Hình tượng đã là nhân duyên giả hợp tạm thời, Phật giáo đả phá nó, vì sao trong các tự viện lại thờ rất nhiều tượng Phật ?” Trả lời vấn đề này có hai mặt, một mặt phải chú ý đến triết lý cao thâm của Phật giáo, mặt khác cũng không nên chê trách tác dụng của Phật giáo dùng phương tiện làm pháp môn, để cứu độ chúng sinh. 1- Về phương diện triết lý : Phật giáo cho rằng “tượng Phật” là do các vật liệu như cây, đá, đất bùn (nhân), do nhân công (duyên) chế tạo mà thành, chia chẻ nó ra thì không còn là tượng nữa, không có chủ thể bất biến, cho nên bản thể là “không”. Lúc nhân công mới chế tạo nếu làm Quan Âm thì thành Quan Âm, làm A Di Đà thì thành A Di Đà. Từ điểm này mà xét, chúng ta gọi đó là “tượng Phật”, hình trạng đó gọi là “giả” (tùy theo sự nhào nặn hình tượng mà gọi). Sự phân tích trên trong Phật giáo trước gọi là “không quán” sau gọi là “giả quán”. Tuy bản thể của tượng Phật là không, hình dáng gọi là giả, nhưng cũng không phải biểu thị Phật giáo phủ định sự tồn tại của tượng Phật. Phật giáo sau khi dạy người “không quán”, “giả quán” muốn chúng ta dùng “trung quán” để nhận thức giá trị và tác dụng của tượng Phật. Vì tượng Phật có thể khiến cho tâm của người ta ngưỡng mộ mà “noi gương học tập”. 2- Về phương diện phương tiện cứu độ chúng sinh : Người đời nếu ai cũng có đủ trí tuệ để hiểu biết câu “tượng Phật chỉ là giúp cho người ta khởi tâm ngưỡng mộ noi theo học tập” thì sẽ không bị chấp trước vào tượng. Bởi vì khi ấy Phật ở trong tâm của mỗi người, thì mỗi một hòn đá, mỗi một gốc cây, thậm chí một áng mây trôi, một thoáng chiều tà, thứ gì mà không tạo thành tượng Phật để suy tư, chiêm bái ? Thế nhưng, người đời vì không hiểu được ai ai cũng đều là Thánh hiền đại trí. Họ không hiểu được tư tưởng viên dung, vĩ đại ấy của Phật giáo. Họ chưa được xem qua, chưa được biết đến. Họ không chịu tin nên không thể khởi tâm ngưỡng mộ học tập cho được. Ôi ! Chúng sinh đầy dẫy, có mấy người hiểu được triết lý cao thâm “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài” đâu. Nhân đấy, Phật giáo có hay không sùng bái hình tượng, các bạn học thông minh cũng đã hiểu rõ rồi. Phật giáo vì rộng độ chúng sinh, cho nên không chỉ đem Phật pháp cao thâm vĩ đại để khai ngộ cho người thông minh, mà còn đối với chúng sinh thấp kém, cũng phải dùng đạo lý thiển cận, thế tục để bắc cầu dẫn đường cho họ. Nếu không như thế thì Phật giáo không thể gọi là bình đẳng, viên dung và vĩ đại được. Cho nên ý nghĩa của sùng bái tượng Phật là ở chỗ hình tượng tượng trưng cho chân lý, chứ không phải ở nơi bản thân hình tượng. Thử hỏi trên thế giới này có một quốc gia nào không thiết lập quốc kỳ để khích lệ lòng yêu nước của quốc dân ? Treo chân dung của vị khai quốc công thần, để khêu gợi tình cảm ngưỡng mộ của quốc dân ? Để hết lòng tận trung với lãnh tụ ? Nếu có người nói hướng về quốc kỳ, chân dung vị nguyên thủ kính lễ là sùng bái hình tượng thì những người này không hiểu đạo lý.
  5. NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi – 2001 ------------------------ Ôi ! Núi xanh vốn không già, vì tuyết mà bạc đầu Nước xanh vốn không sầu, vì gió mà nhăn nheo. con người vốn tự do tự tại , nhưng vì ham mê rượu chè , nên thành ra sa đọa . Khi buông xả được tham sân si , tự nhiên sẽ thấy được CHÂN TÂM. Nếu chúng ta đem so sánh Phật giáo với các tôn giáo khác hiện tồn tại trên thế giới, có thể phát hiện rất rõ ràng giữa Phật giáo và các tôn giáo khác có nhiều chỗ khác nhau. Tôi mạn phép đem vấn đề này quy nạp thành mười điểm để thuyết minh. Cũng chính là nói Phật giáo tối thiểu có mười điểm đặc sắc như thế. 1/ Phật là ngưởi mà không phải là thần Nhìn chung các tôn giáo trên thế giới, ngoài Phật giáo ra, giáo chủ của các tôn giáo đều tự cho mình là “thần” cách siêu nhân. Thần ấy có thể hô phong hoán vũ, điểm đá thành vàng. Ngài là chúa tể ban phước giáng họa cho nhân loại. Ngài điều khiển mọi vinh nhục sống chết của vạn vật. Loài người chỉ có phủ phục trước mặt ngài, ca ngợi và xưng tán, đem tất cả thành tựu vinh quang quy về cho thần vạn năng cả. Ai tin tưởng vào tài năng của thần thì được lên Thiên đường, phản đối lại sẽ bị đọa vào địa ngục đời đời. Giáo chủ của Phật giáo - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, câu nói đầu tiên của Ngài lúc đến nhân gian này là : “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chúng ta nên chú ý chữ ngã trong câu duy ngã độc tôn, không phải chỉ riêng bản thân Thích Ca Mâu Ni, mà là chỉ cho toàn thể nhân loại. Giải thích chính xác câu ấy là : Người ta ở trong vũ trụ đầu đội trời chân đạp đất, mỗi người đều là chúa tể của chính mình, quyết định vận mạng của chính mình, mà không phải nghe theo mệnh lệnh của ai hoặc vị thần siêu nhân nào khác. Đức Thích Ca Mâu Ni nói là sự giác ngộ, và thành tựu của Ngài, hoàn toàn đều do công phu nỗ lực và tài trí của chính mình. Đức Thích Ca Mâu Ni cho rằng, điều cát hung họa phước, thành bại vinh nhục của một cá nhân quyết định ở hành vi thiện ác và nỗ lực của chính bản thân họ. Không ai có thể đề bạt ta lên thiên đường, cũng không người nào có thể đem ta đẩy xuống địa ngục. Ca ngợi và tán thán không thể lìa khổ được vui, chỉ có thực hành tu tâm sửa tính mới có thể khiến cho nhân cách của mình tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thọ khoái lạc tâm an lý đắc. Đức Thích Ca Mâu Ni cũng không có phép chỉ đá hóa vàng được. Ngài chủ trương “Người ta muốn thu hoạch cái gì thì trước phải trồng thứ đó”. Ngài không thể khiến cho cây Liên vụ sinh ra quả Tần bà được. Nếu bạn muốn được quả Tần bà thì trước hết bạn phải gieo hạt giống Tần bà. Đức Thích Ca Mâu Ni chẳng qua chỉ là bảo cho bạn biết trồng như thế nào, để sau này thu được nhiều kết quả. Song công việc vun trồng vẫn phải do chính nơi bàn tay của bạn. Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm, nói kinh hơn 300 hội, đều vì chúng ta mà chỉ bày “con đường thành Phật” - tự chính mình sáng tạo trí tuệ và nhân cách viên mãn triệt để nhất. Thế nhưng con đường ấy phải nhờ vào nghị lực, trí tuệ, hằng tâm của chính mình mới có thể đạt được. Cho nên Phật nói : “Ta chỉ là người chỉ đường, còn đi đến là do các ngươi”. Con đường đi đến quả vị Phật cần phải công phu tu hành từng ly từng tí. “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”. (Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vân) 2/Phật là ngưởi rất bình đẳng Tôi nói Đức Phật là người rất bình đẳng không phải là vô căn cứ. Trước tiên chúng ta hãy lấy bối cảnh xã hội của Ấn Độ đương thời mà quan sát. Ai cũng biết xã hội Ấn Độ thời đại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chia ra làm bốn đẳng cấp lớn là : Bà la môn, quý tộc, bình dân và nô lệ. Điều đáng quý ở chỗ Đức Thích Ca Mâu Ni là thái tử đã nhìn thấy sự bất hợp lý của đẳng cấp xã hội, kiên quyết giương cao ngọn cờ bình đẳng, chủ trương phế trừ giai cấp đối lập, đề xướng chúng sinh bình đẳng. Các bạn đồng học thử nhớ lại xem, những cuộc cách mạng trên lịch sử phần lớn là thuộc giai cấp cùng khổ đấu tranh mong muốn được bình đẳng giai cấp và được “đề cao” địa vị, tuyệt đối không có ai giống như Đức Thích Ca Mâu Ni, tự nguyện đem thân phận thái tử thuộc giai cấp quý tộc “giáng xuống” giai cấp bình dân. Cho nên tôi nói Ngài là chân bình đẳng vậy. Đồng thời Phật giáo lại chủ trương “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi”, lại đem ý nghĩa của bình đẳng nâng lên một bước nữa. Tôi nghĩ ý nghĩa của “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi” sẽ có những bạn chưa hiểu, tôi xin được phép giải thích sơ như sau : 1/ Vô duyên đại từ : Phật giáo chủ trương không những đối với người có quan hệ với mình, mình phải thương yêu như cha mẹ, thân thuộc, bằng hữu… mà còn đối với người không có quan hệ bạn bè thân thích với mình, mình cũng phải thương yêu nữa. Như tôi đối với các bạn từ trước tới nay chưa từng qua lại, không hề quen biết mà vẫn quan tâm yêu quý như thân thích vậy. 2/ Đồng thể đại bi : Đồng thể đại bi là một loại tinh thần người đói mình đói, người yếu mình yếu, xem hết thảy chúng sinh trong vũ trụ, ta và người một thể, vui buồn cùng chia sẻ, cốt nhục thâm tình. Nhà Nho thì nói : “Người trong bốn biển đều là anh em”, cũng biểu hiện tinh thần “đồng thể đại bi”. Mà lòng từ bi vô bờ bến của đức Địa Tạng Vương Bồ tát “Ta không vào địa ngục thì ai vào ?” chính là chỗ tột cùng của đồng thể đại bi vậy. Cuối cùng tôi xin nói thêm cái tinh thần “chân bình đẳng” của Phật giáo biểu hiện cao nhất, chính là Phật giáo đem cái quan niệm bình đẳng, không cục hạn nơi con người linh hơn vạn vật. Phật giáo phản đối quan niệm cho rằng tất cả động vật, trừ loài người ra, đều được sáng tạo để cung cấp cho con người ăn. Tất cả động vật lúc chết kêu la thảm thiết, thật là thương xót không nỡ thấy nghe. Phật vì không từ bi khuyên Phật tử không nên vì miếng ăn mà giết hại loài vật. Phật giáo còn tiến thêm một bước nữa khẳng định những động vật bị chúng ta tự khoe mình là loài người linh hơn vạn vật, đem giết chúng một cách bừa bãi đó, chúng cũng đều có đầy đủ Phật tính, có tiềm năng thành Phật trong tương lai. Mặc dù giữa người và động vật khác, trên hình thức và trí tuệ có chỗ bất đồng, nhưng trên quyền lợi sinh tồn và Phật tính thì là bình đẳng. (Giống như kẻ khốn cùng ác độc hoặc ngu si vô tri, họ cũng có đầy đủ “nhân tính”, chúng ta phải đem “nhân đạo” để đối xử với họ, dùng “nhân đạo” để giáo dục, cảm hóa họ). Người xưa nói : “Trời có cái đức hiếu sinh” lại nói “vạn vật với ta cùng sinh” đều là tư tưởng bình đẳng, xem vạn vật là một thể. Chẳng qua chỉ chưa thấu triệt bằng thuyết của Phật giáo mà thôi. 3/Phật không phải là người sinh ra mà biết Đức Thích Ca Mâu Ni là một con người bình thường, Ngài họ Kiều Đáp Ma, tên là Tất Đạt Đa, sinh tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ. Năm 29 tuổi, Ngài xả bỏ vương vị mà mình sẽ kế thừa, xuất gia học đạo, tìm cầu phương pháp giải thoát nhân sinh khỏi khổ não. Trải qua 6 năm, lúc Ngài 35 tuổi, dưới gốc cây Bồ đề bên bờ sông Ni Liên Thiền chứng được Chính giác, giác ngộ một cách chính xác và thấu triệt đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ. Từ đấy người ta mới gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật đà, hoặc gọi tắt là Phật. Ý là giác tỉnh chân lý, hoặc gọi là bậc giác ngộ. Tôi giới thiệu sơ qua việc tu hành của Đức Phật, mục đích chủ yếu là nói với người đồng học. Đức Thích Ca Mâu Ni với chúng ta đều là người bình thường cả, Ngài nhờ vào việc tu hành mà ngộ đạo, mọi người chúng ta đều có thể cùng nhau noi theo giáo pháp mà Ngài đã chỉ dạy để tu hành và chứng quả. Thích Ca Mâu Ni - Ngài chỉ là một người giác trước, biết trước trong vô số người, mà chúng ta là người giác sau biết sau. Sự bất đồng giữa Phật và chúng ta không phải bất đồng ở chỗ nhân cách, địa vị, mà là bất đồng ở một chữ “Giác”. Cũng như Hàn Dũ nói : “Nghe đạo có kẻ trước người sau” vậy. 4/Phật giáo không thừa nhận có người tồi tệ không thể giáo hóa Cổ nhân có nói “lãng tử hồi đầu vàng không đổi”. Người làm cha mẹ ở đời, luôn luôn mở rộng cõi lòng, ngóng chờ đứa con lưu lạc (lãng tử) có ngày hồi đầu trở lại, dù con cái của họ gây tạo tội lỗi ngập đầu. Xưa nay chưa có cha mẹ nào lại nhẫn tâm hoặc mong muốn con mình vĩnh viễn chịu khổ trong địa ngục nơi âm u tăm tối, nước sôi lửa dữ. Phật giáo thừa nhận tính người là thiện lương, chỉ cần buông dao bỏ xuống, có thể tu hành thành Phật. Phật cho rằng hết thảy tội ác đều là do nơi vô tri (Phật giáo gọi là vô minh) dẫn dắt mà sinh ra. Nhân đấy mà hết lòng khuyên bảo, đêm ngày khai đạo chỉ bảo cho chúng sinh thay đổi tâm tính, chính là trách nhiệm của Phật. Đức Phật quan tâm đối với chúng sinh “như mẹ thương con”, không những không nỡ thấy thân chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục, mà còn phát thệ nguyện lớn “địa ngục chưa trống, thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ đề” (Bồ đề ý là giác ngộ hoặc chính đạo, chứng Bồ đề ý là đắc đạo hoặc thành Phật). Ôi, còn lòng từ nào hơn ! Còn bi nguyện nào hơn ! Đó mới là lòng thương chân thật ! 5/Phật không phải là độc nhất vô nhị, mọi ngưởi đều có thể thành Phật Ở phần thứ ba đã nêu Phật và chúng sinh chỉ là trước và sau của thời gian giác ngộ mà thôi. “Phật” chỉ là tên gọi chung cho những vị đã giác ngộ. Cũng giống như chúng ta gọi “người truyền đạo, truyền nghề” là “giáo sư” vậy. Giáo sư không chỉ có một vị, ai ai cũng có thể làm giáo sư được, nơi nơi đều có thể có giáo sư. Đạo lý cũng vậy, Phật không phải chỉ có một cá nhân Thích Ca Mâu Ni mà người người đều có thể thành Phật, chỗ chỗ đều có thể có Phật. Không chỉ thế giới này có Phật, mà vô số tinh cầu trong vũ trụ đều có thể có Phật (đương nhiên cũng có chúng sinh). Điểm này cũng là chỗ bất đồng căn bản giữa Phật giáo và tôn giáo khác. Tôn giáo khác chỉ thừa nhận thần của họ là “độc nhất vô nhị”, và ra sức công kích, phủ định thần của giáo phái khác là “thần giả”. Đồng thời về giáo nghĩa của họ chỉ dạy thì loài người dù có nỗ lực phấn đấu đến đâu đi nữa, vĩnh viễn không thể ngang bằng với thần được (mãi mãi vẫn là mối quan hệ chủ nô). Bởi vì thần là đấng tạo vật, mà người chẳng qua chỉ là một trong những “vật” mà thần sáng tạo ra mà thôi. 6/Phật giáo không thừa nhận có thần sáng tạo ra vạn vật Quan niệm vũ trụ vạn vật do thần vạn năng sáng tạo ra là không hợp lý. Bởi lẽ thần chính là sản vật của tư tưởng con người. Loài người dựa vào quan niệm và hình tượng của mình mà tạo ra thần, nhằm mục đích để giải thích nguồn gốc của nhân sinh vũ trụ, Phật giáo gọi đó là “nguyên nhân đầu tiên”. Nếu cho rằng thần có thể sáng tạo nhân sinh vũ trụ thì vị thần ấy do ai sáng tạo ra ? Những người tin tưởng tuyệt đối sẽ cho rằng thần là vạn năng, tồn tại một cách tự nhiên. Thần đã tồn tại một cách tự nhiên, không bị ai sáng tạo ra, tự mình có thể tồn tại được thì quan niệm thần sáng tạo ra nhân sinh vũ trụ còn có ý nghĩa gì nữa (bởi vì cùng một lý ấy nhân sinh vũ trụ cũng có thể tồn tại một cách tự nhiên được vậy). Phật giáo vốn phủ định giả thiết “thần sáng tạo ra vạn vật”, vốn không thừa nhận vũ trụ có “bắt đầu”, cái gọi là “bắt đầu” của một sự kiện chỉ là cái “kết thúc” của một sự kiện trước mà thôi. Trong một chuỗi quan hệ nhân quả, sự tiêu tan của một sự vật chính là điều kiện để cấu thành một sự vật khác sinh khởi. Tiến sĩ Trương Trừng Cơ viết trong cuốn “Phật pháp là gì ?” đối với vấn đề này cũng đã nêu : “Cái quan niệm “bắt đầu” ấy, là do tâm lý “hữu hạn” của loài người không thể hiểu thấu được mối quan hệ nhân quả sum la vạn tượng”. Thí dụ như chúng ta đi xem phim, từ 7 giờ bắt đầu chiếu đến 10 giờ thì kết thúc. Chúng ta thử nhớ lại xem sự bắt đầu của bộ phim tập 3, chính là sự kết thúc của bộ phim tập 2, mà sự kết thúc của tập 3 chẳng phải là bắt đầu của tập 4 hay sao ? Cho nên khái niệm “bắt đầu” ấy chỉ có ý nghĩa đối với một sự vật nhất định nào đó mà thôi, còn đối với toàn thể vũ trụ chằng chịt đan quyện nhân quả tương tục với nhau thì không có ý nghĩa gì hết. Thời gian là vận động không ngừng, ai có thể từ trong ấy tìm ra một điểm gọi là “hiện tại” đình chỉ bất động ? Về sau lại nói một điểm ấy chính là “bắt đầu” ư ? Thật ra Phật giáo không hứng thú cho lắm về việc thảo luận vấn đề không có lợi ích đối với nhân sinh như thế (Hình nhi thượng học của triết học). Bởi vì vũ trụ là vô thủy, cũng là vô chung, chúng ta có kiệt lực vắt óc tìm tòi “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ” chỉ là uổng công phí sức mà thôi. Lúc bạn khổ tâm tìm được nguyên nhân đầu tiên, bạn nhất định sẽ phát giác ra trước nó vẫn có một “nhân” nữa. Như thế tuần hoàn không dừng, xoay vần rồi trở lại ban đầu, bạn vĩnh viễn tìm không ra “nguyên nhân đầu tiên” cố định bất biến. Vả lại đời người ngắn ngủi, sinh mạng vô thường, nếu bạn cứ ra công tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ, e rằng thân bạn sẽ tiêu ma mà đáp án vẫn chưa tìm ra. Trong kinh Phật có câu chuyện tỉ dụ rất hay : Có một người bị thương vì mũi tên độc, người thân bèn đem ông ta đến y sĩ để chữa trị. Nếu lúc ấy người đó nói rằng : “Tôi chưa muốn lấy mũi tên ấy ra, tôi muốn biết là ai đã bắn tôi, người ấy là dòng Sát đế lợi ? Bà la môn ? Hay là Thủ đà la ? Tên họ và thị tộc của hắn là gì ? Thân hắn cao hay thấp ? Da hắn màu đen hay màu vàng ? Hắn ta từ làng mạc, thành thị nào đến ? Tôi không muốn lấy mũi tên này ra, nếu tôi chưa biết cây cung và dây cung làm bằng gì ? Hình dáng mũi tên ấy ra sao, chế tạo bằng gì ? v.v…” Người ấy chắc chắn sẽ chết trước khi biết được mọi thứ. Cho nên Phật giáo không lãng phí công sức và thời gian tìm hiểu vấn đề “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ”. Bởi vì tìm cầu cũng chỉ là vô dụng, đồng thời cũng chỉ là vô ích đối với nhân sinh. Những thứ ấy với việc thoát ly thống khổ sinh, lão, bệnh, tử của chúng ta không có liên quan gì. Không thể khiến cho người ta từ chỗ hiểu biết đó mà được an lạc hạnh phúc hay giải thoát. Vấn đề đã hơi kéo dài, hiện tại tôi xin bàn lại vấn đề Phật giáo không chấp nhận vũ trụ vạn vật là do thần sáng tạo, mà cho rằng vạn vật đều do “nhân duyên tụ hợp” mà thành. Ví như một ngọn núi ở trước mắt ta, nó là sự tích tụ của đất, đá; sông hồ là chỗ trũng chứa nước mà thành; lại xem những cái bàn trong phòng học, là do thợ mộc dùng cây mà đóng nên. Nếu đem đất đá phân tán ra thì không thành “núi” nữa; đem nước hồ ao múc cạn hết thì thành đất trũng, bóng dáng của “hồ ao” ở đâu ? Lại đem cây ván chia ra từng mảnh một, vậy thì “cái bàn” ở chỗ nào ? Một vài thứ có thể xem thấy đó chúng ta có thể gọi nó là “sắc”, bởi vì chúng chỉ là “nhân duyên tụ hợp tạm thời” mà thôi, không phải chân thật bất biến. Cho nên chúng ta nói nó là “không”, tức là không có thực thể tồn tại vĩnh hằng bất biến. Đó chính là đạo lý đơn giản “sắc tức là không” ở trong kinh Phật đã dạy. Tuy nhiên Phật giáo nói “sắc tức là không”, chữ “không” ấy hoàn toàn không phải “không trống rỗng”, không có gì, cũng không phải là “không” đối với có, mà là “chân không diệu hữu”. Vậy câu “chân không diệu hữu” ấy là gì ? Tôi xin lấy một ví dụ để các bạn rõ. Trước mắt chúng ta có một ly nước, sau khi đun sôi nước biến thành hơi cạn hết, không còn thấy bóng dáng của nước nữa. Thế nhưng cũng không thể nói nước tiêu mất thành “không”, đến lúc hơi nước gặp lạnh lại trở thành “nước” như cũ. Những vị hiểu về hóa học đều biết, nước là chất hóa hợp của Hydro và Oxy, nói một cách khác “nước” chẳng qua là chất hóa hợp tạm thời của Hydro và Oxy mà thôi. Nước sau khi trải qua điện giải bèn biến thành khí Hydro và khí Oxy. Theo đó mà suy thì vạn sự vạn vật trong vũ trụ không có một thứ gì không phải là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có cái gì là vĩnh hằng bất biến. Nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên tan thì diệt, làm gì ở trong đó có “thần” sáng tạo vạn vật ? Làm gì có chuyện “vạn vật” được sáng tạo ra ? 7/Phật pháp tùy theo căn cơ hoàn cảnh mà giáo hóa Phật thuyết pháp cho chúng sinh là nhắm vào căn cơ khác nhau mà giảng giải, tùy theo chỗ khác nhau về thời gian, không gian mà lập giáo. Phật vì đối tượng khác nhau mà giáo hóa cho nên mới có những giải thích khác nhau. Ví như đối với người trí tuệ cao, Phật có thể nói thẳng đạo lý để họ minh tâm kiến tánh, giác ngộ tức thời. Đối với người trí tuệ chậm lụt, Phật dạy họ những phương pháp tu hành từng bước để tiến tới quả vị Chính giác. Lại đối với người đắm mê danh lợi, Phật bèn nói với họ “danh lợi đều là hư ảo”. Đối với người quan niệm tiêu cực, cho rằng đời sống không có ý nghĩa gì, sinh mạng hoàn toàn là hư vô không ảo, Phật nói với họ “thân người khó được, mạng sống rất quý, người ta có thể nhờ đó mà nỗ lực đạt đến hạnh phúc và an lạc”, để cổ vũ dũng khí và tín tâm của họ. Cùng đạo lý ấy, do sự khác nhau của thời gian không gian, Phật bèn nói những thí dụ và thuyết minh khác nhau. Ví như : Người Đài Bắc hỏi Phật rằng : “Đài Trung đi hướng nào ?”. Lời đáp của Phật là “về hướng Nam”. Nhưng đối với người ở Cao Hùng thì phải nói là “lên hướng Bắc”. Cũng thế, vì địa phương chỗ ở của chúng sinh khác nhau mà Phật nói có khác. Phật pháp có ba tạng mười hai bộ với tám vạn bốn ngàn pháp môn (pháp môn là phương pháp tu hành). Những phương pháp tu hành ấy đều vì thích ứng với căn khí của chúng sinh, vì đối trị phiền não của chúng sinh mà chỉ bày. Nếu như không có chúng sinh thì cũng không cần có Phật pháp. Phật pháp như “thuốc”, chúng sinh không có “bệnh” phiền não, thuốc cũng không còn cần thiết. Phật pháp truyền nơi đời hơn hai ngàn rưởi năm, có thể thích ứng với thời đại khác nhau, đó chính là vì Phật pháp tùy theo căn cơ và hoàn cảnh mà giáo hóa. Phương pháp giáo dục này chính là một trong những điểm đặc sắc của Phật giáo. 8/Phật pháp là nhập thế Đạo lý mà Phật giáo giảng dạy, tuy mục đích cuối cùng là “xuất thế”, nhưng điều đó với tinh thần “nhập thế” không có gì là mâu thuẫn cả (cái gọi là “xuất thế gian” không phải là thoát ly, trốn tránh thế gian, mà là cải tạo thế gian, xây dựng lại thế giới). Lục Tổ Huệ Năng nói : “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, cũng như tìm lông rùa sừng thỏ”. Chính là nói tu hành phải ở tại thế gian, giác ngộ cũng ở tại nơi thế gian. Những người có tâm hướng về Đạo, họ không thể chán bỏ thế giới, trốn tránh loài người trên thế giới này mà “độc thiện kỳ thân” tu thành chính quả. Bởi vì một người muốn thành Phật, người ấy ngoài việc có đầy đủ thông minh trí tuệ, vẫn phải có bi tâm thệ nguyện rộng lớn phổ độ chúng sinh. Cần phải có cả “bi” và “trí” song hành, đạt đến chỗ triệt để, viên mãn mới có thể thành Phật. Cho nên Phật giáo lấy tinh thần xuất thế để làm sự nghiệp nhập thế, từ lúc tu hành đến khi thành Phật, đã không có “nhập thế” cũng không có “xuất thế”, mà là thẳng một mạch tiến hành nơi thế gian này. 9/Phật giáo không bài xích đạo khác Phần lớn các tôn giáo trên thế giới đều chỉ thừa nhận giáo lý mà tôn giáo họ tin mới là chân lý duy nhất và ra sức bài xích giáo lý của tôn giáo khác là tà thuyết. Phật giáo thì cho rằng tất cả tôn giáo chỉ có sự khác nhau về giáo nghĩa sâu hay cạn, rất ít có sự sai biệt về tốt xấu tà chính. Bất kỳ tôn giáo nào đã tồn tại trên đời này 1000 năm trở lên, nhất định có lợi ích không nhiều thì ít, ngược lại thì tôn giáo ấy sẽ bị “trí tuệ” loài người ruồng bỏ, cho đến sẽ bị bão táp thời gian làm tiêu tan mất rồi. Vấn đề là ở chỗ một số tôn giáo chỉ có thể đem lại cho người ta niềm an lạc tạm thời và ngắn ngủi, có một số tôn giáo thì đem lại cho người ta niềm hạnh phúc lâu dài và mãi mãi. Phật pháp truyền nơi đời đã gần 3.000 năm, Phật giáo vẫn cùng với tôn giáo khác sống hòa bình với nhau. Trên lịch sử truyền giáo thì sự việc Phật giáo xung đột dẫn đến đổ máu với tôn giáo khác, từ xưa tới nay chưa từng có. Vấn đề này chúng ta hãy xem qua lịch sử A Dục Vương của Ấn Độ (thế kỷ thứ 3 trước CN), do thấm nhuần tinh thần từ bi quảng đại của Đức Thích Ca Mâu Ni, qua một đoạn văn Di giáo của ông, được ông cho khắc trên bia đá hiện nay vẫn còn nguyên văn như sau : “Không thể chỉ tôn trọng tôn giáo của mình mà chê bai tôn giáo người khác. Phải như lý mà tôn trọng họ. Làm được như thế, không những giúp cho tôn giáo của mình trưởng thành, mà còn làm tròn nghĩa vụ đối với tôn giáo khác. Nếu làm ngược lại, thì không những đem tôn giáo của mình chôn vùi, mà còn làm tổn hại đến tôn giáo khác”. “Nhân đó, hài hòa mới là tốt đẹp. Quý vị đều phải nên lưu tâm lắng nghe điều này, và hoan hỷ lắng nghe giáo lý của tôn giáo khác”. Từ đoạn văn trên mà xét, tấm lòng khoan dung và thành ý ấy, chính là một di sản rất trân quý trong văn hóa của Phật giáo. “Chân lý” đối với Phật giáo là không có giới hạn quốc gia, nó không phải là “nhãn hiệu” của tôn giáo nào cả. Nó cũng không thuộc về một tôn giáo nào, hoặc thuộc về cá nhân nào trong một thời đại nào. Cho nên chân lý mà Đức Phật nói, không phải riêng một cá nhân Ngài có, bởi vì Phật chẳng qua chỉ là một “người phát hiện chân lý” mà thôi. Cũng giống như Newton phát hiện ra “sức hấp dẫn của trái đất” vậy. Nhân đó Phật giáo cho rằng hết thảy đạo lý hợp lý, vĩnh hằng bất biến đều là “Phật pháp”. Câu “bạn nên yêu thương kẻ thù của bạn” tuy xuất phát từ Thánh kinh, nhưng Phật giáo thừa nhận không một chút nghi ngờ đó là chân lý tốt đẹp đáng trân trọng. (Tương đồng với “vô duyên đại từ” và “đồng thể đại bi” của Phật giáo). Phật pháp giống như biển hồ mênh mông, nó có thể dung nạp hết thảy sông ngòi lớn nhỏ trên địa cầu. Cho nên trong kinh có câu “Hết thảy pháp đều là Phật pháp”. 10/Phật giáo là dân chủ và tự do Trong một số tôn giáo lời nói của giáo chủ là mệnh lệnh không được kháng cự, là chân lý không được phép hoài nghi. Ai không phục tùng hoặc tỏ thái độ hoài nghi thì sẽ bị trời, thần trừng phạt. Trong kinh điển của Phật giáo tuyệt đối không tìm đâu ra sự tức giận của Đức Phật cả, càng không thể có phương pháp xử phạt tàn khốc. Trong 49 năm giáo hóa của Đức Phật, các đệ tử chỉ thấy Ngài lúc nào cũng sắc diện tươi vui, tư cách hòa nhã, từ bi an lành. Ngài đối với người tốt cũng như vậy, đối với người hủy báng cũng như vậy. Đức Phật đối với đạo lý mà mình nói ra, dứt khoát không cưỡng bức các đệ tử phải tiếp thụ, Ngài khuyến khích họ nên hoài nghi thưa hỏi. Mãi cho đến 80 tuổi, lúc gần viên tịch nơi giữa hàng cây Sa la, Ngài vẫn giảng dạy và nhắc đi nhắc lại nếu các đệ tử còn thắc mắc nghi ngờ điều gì cứ hỏi. Phật nói : “Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ, không nghi thì sẽ không ngộ”. Phật giáo cho phép và khuyến khích các tín đồ tự do hoài nghi thưa hỏi những đạo lý mà bản thân giáo chủ nói ra, tiến tới tinh thần nghiên cứu sâu xa hơn nữa. Quả là trên đời này hiếm có một tôn giáo nào lại dân chủ và tự do như thế. Các bạn đọc thân mến, chân lý không nên cưỡng bách người khác tiếp thu. Chân lý chỉ có ở tiền đề của dân chủ, tự do, của suy nghĩ chín chắn mới thực sự hiển xuất tinh thần và giá trị của nó. Mà trong các tôn giáo trên thế giới chỉ có giáo chủ và kinh điển của Phật giáo cho phép được hoài nghi, thảo luận và nghiên cứu. Xin hoan nghinh các bạn học sinh đã có tinh thần nghiên cứu, có nhân cách độc lập, tự chủ, có trí thông minh để nghiên cứu Phật pháp. Cánh cửa rộng lớn của Phật giáo, mãi mãi mở rộng đối với các bạn. trích từ trang http://thuvienhoasen.org/nhungdiemdacsaccuaphatgiao-00.htm