Túy Lão

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.955
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    23

Everything posted by Túy Lão

  1. Nga "bóp chết" công nghiệp chế tạo máy bay Trung Quốc? ANTĐ - Ngay từ nửa năm trước đây, ANTĐ đã có bài viết mang tiêu đề “Chiến lược "xiết mới, nới cũ"khiến Trung Quốc lạc lối và tụt hậu”, cảnh báo hậu quả Trung Quốc phải nhận khi quá phụ thuộc vào nhập khẩu động cơ máy bay của Nga. Đến nay, cảnh báo đó đã thành sự thực. Xuất khẩu máy bay không chỉ là chiếm lĩnh thị trường mà còn khẳng định địa vị chính trị Hiện Nga đang đẩy mạnh chương trình xuất khẩu MiG-29 và MiG-35 trên toàn cầu. Loại tiêm kích đánh chặn của Nga đang gặp phải sự cạnh tranh dữ dội của các loại máy bay khác như: JAS-39 Gripen của Thụy Điển, Typhoon của Liên minh châu Âu, Rafale của Pháp, J-10 và JF-17 của Trung Quốc. Máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 J-31 của Trung Quốc. Trong số này, Mikoian đánh giá JAS-39 có công nghệ tương đối hoàn thiện, chi phí cho mỗi giờ bay thấp (chỉ khoảng 4700USD), thấp hơn rất nhiều so với Rafale và Typhoon (17.000-18.000 USD/h). Loại máy bay này rất phù hợp cho những nước có diện tích nhỏ, ngân sách quốc phòng ít ỏi.Tuy nhiên, nó có điểm yếu là một số bộ phận quan trọng trên máy bay phải nhập từ nước khác (ví dụ như động cơ nhập của Mỹ) gây khó khăn cho công tác sửa chữa, bảo dưỡng. Hơn nữa, công tác giám sát, quản lý xuất khẩu của Thụy Điển quá chặt chẽ dẫn đến “mất khách” (hiện mới có được 4 khách hàng với số lượng nhỏ). Các máy bay của Tây Âu đối trọng được với MiG-29 và MiG-35 chỉ có Rafale và Typhoon. 2 loại máy bay này hơn MiG-29 khoảng “nửa thế hệ” nhưng không so được với phiên bản mới nhất của gia tộc MiG-29 là MiG-35, lại kém hẳn về kinh nghiệm thực chiến và khả năng đánh chặn. Hơn nữa, giá thành rẻ của các loại máy bay dòng họ MiG là một ưu thế rất lớn. Tuy vậy, 2 loại máy bay của Trung Quốc có chất lượng thấp hơn nhiều nhưng giá cả còn rẻ hơn, là đối thủ cạnh tranh rất mạnh của MiG-29. Chính phủ Trung Quốc cũng sử dụng các chính sách trợ giúp xuất khẩu như các Kế hoạch hợp tác quốc phòng nên nó càng có ưu thế. Pakistan nhất định không dùng đọng cơ Trung Quốc trên phiên bản xuất khẩu của FC-1 là JF-17 Các chuyên gia Nga cho biết, tuy thua kém toàn diện về tính năng, nhất là độ gia tốc và độ bền của động cơ nhưng giá của FC-1 chỉ bằng 1/3 của Mig-29 (10 triệu/35 triệu USD). Nếu Nga bán AL-31F và RD-93 cho Trung Quốc để họ lắp đặt trên những phiên bản xuất khẩu của J- 10 (là F-10) và FC-1 (JF-17 Thunder bán cho Pakistan) thì các nước này sẽ ngoảnh mặt với Mig-29. Vấn đề này không còn đơn thuần là hoạt động chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu mà nó còn suy giảm địa vị chính trị của Nga, nâng cao tầm ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các nước này. Vì vậy, Nga quyết định sẽ ra tay, bóp chết công nghiệp xuất khẩu máy bay của Trung Quốc bằng cách ngừng xuất khẩu động cơ máy bay cho Trung Quốc. Trung Quốc sẽ lãnh đủ từ chiến lược “Xiết mới, nới cũ của Nga”. Từ năm 2005, Trung Quốc đã mua được 100 động cơ RD-93 của Nga với giá 238 triệu USD, sau đó tiếp tục đặt mua thêm 500 chiếc loại cải tiến, sau đó ngỏ ý muốn tiếp tục mua thêm 1000 chiếc nữa với giá hơn 3 triệu USD/bộ. Còn tính từ năm 2000 đến nay Nga đã ký 4 hợp đồng bán 399 động cơ AL-31F với giá hơn 4 triệu USD/chiếc cho Trung Quốc lắp ráp sản xuất máy bay J-10. Phiên bản Su-34 của Nga dùng động cơ AL-31F-M1 hiện đại hơn các loại xuất sang Trung Quốc. Còn RD-93 là phiên bản xuất khẩu đời đầu của RD-33 dùng cho Mig-29 của hãng OAO Klimov, lực đẩy hơn 9000kg. Hiện Nga đã phát triển đến biến thể cao nhất của nó là RD-33MK cũng có lực đẩy 11000kg. Loại này hiện đang được sử dụng trên các loại máy bay Mi-29K, Mig-29KUB và Mig-35. Thế hệ động cơ WS-13 “Thái Sơn” là đứa con “nhân bản lỗi” của RD-93, được thử nghiệm trên loại máy bay FC-1 “Kiêu Long”, liên hợp sản xuất với Pakistan. Thế nhưng khi quyết định sản xuất với cái tên JF-17, Pakistan đã loại bỏ thẳng tay WS-13 khiến Trung Quốc phải vội vàng mua thêm RD-93 để lắp đặt cho họ. Còn J-10 nếu không có AL-31F mà phải sử dụng WS-10 thì cũng trở thành máy bay bỏ đi giống J-11, không thể bán cho ai được. Nếu WS-10 và WS-13 là hoàn hảo, Trung Quốc đã không phải tiếp tục bỏ ra hàng tỷ USD để mua các loại động cơ bị họ coi là “chiếu dưới” so với WS-10 và WS-13 như AL-31FN và RD-93 và cũng không cần phải gạ gẫm mua 117S làm gì. Mig-35 lắp đặt RD-33MK là phiên bản tiên tiến nhất của thế hệ RD-93 Chúng ta cần biết, trong chế tạo động cơ máy bay siêu âm, để lực đẩy tăng lên 1000kg đã là một bước tiến rất dài về công nghệ. Chính vì vậy, mặc dù có trong tay cả AL-31FN và RD-93 để sao chép nhưng động cơ nội địa dành cho máy bay thế hệ thứ 4 của Trung Quốc vẫn không đạt được yêu cầu chất lượng. Hiện chiếc J-31 của Thẩm Dương vẫn đang phải sử dụng 2 động cơ RD-93 cải tiến tương đương RD-33MK và J-20 vẫn thử nghiệm với động cơ AL-31FN đã nói lên thực trạng công nghiệp sản xuất động cơ Trung Quốc. Đó là sự yếu kém trong sản xuất động cơ nội địa và sự phụ thuộc vào công nghệ động cơ của Nga. Việc cấm xuất khẩu các động cơ thế hệ mới, chỉ bán các loại đã lỗi thời như AL-31FN và RD-93 để Trung Quốc trang bị cho máy bay của mình (J-10, JH-7, J-16, thử nghiệm J-20, J-31) và sử dụng chúng để nghiên cứu, mô phỏng thế hệ WS là một mũi tên trúng nhiều đích của người Nga. AL-31FN – niềm mơ ước của máy bay Trung Quốc Chính chính sách “xiết mới, nới cũ” này đã làm Bắc Kinh lạc lối trong định hướng phát triển và tụt hậu về công nghệ chế tạo động cơ. Có thể nói ngành công nghiệp sản xuất máy bay Trung Quốc quá phụ thuộc vào động cơ của Nga, nó mà “hắt hơi, sổ mũi” thì ngành Công nghiệp sản xuất máy bay Trung Quốc cũng lăn đùng ra ốm.Vì vậy, nếu như Nga cắt nguồn cung động cơ RD-93, RD-33 và AL-31F thì không chỉ xuất khẩu máy bay Trung Quốc bị cắt cổ mà ngành công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc cũng có thể bị “đánh sập” bất cứ lúc nào. Nguyễn Ngọc Tổng hợp
  2. Năm ngoái phải chăng nhà cháu có tang chế ?? năm nay cháu sẽ có người giúp (Phù trì ) cho cháu về công việc việc xảy ra bất ngờ và nhanh mau.
  3. Năm nay kể ra mở CH ra là cách phá rào của cháu nhưng năm nay kinh tế khó khăn cũng nên chưa làm gì lớn. Sang năm cháu sẽ thu được hoạnh lợi nên cố gắng
  4. Bắc Triều Tiên rút hai tên lửa khỏi bệ phóng Hỏa tiễn tầm trung Musudan của Bắc Triều Tiên trong một cuộc diễu binh tại Bình Nhưỡng. (AFP PHOTO / FILES / Ed Jones) Theo một nguồn tin quân sự Mỹ tối hôm qua, 06/05/2013, Bắc Triều Tiên đã cho gỡ hai tên lửa tầm trung khỏi bệ phóng, trong lúc quân đội nước có dấu hiệu không còn được đặt trong tình trạng báo động. Sự kiện trên được xem như các tín hiệu hoà hoãn vào lúc tổng thống Hàn Quốc, bà Park Geun Hye công du Hoa Kỳ và sẽ gặp tổng thống Mỹ Obama vào hôm nay để thảo luận về tình hình ở khu vực Châu Á. Từ Seoul, thông tín viên Frédéric Ojardias phân tích thêm về những dấu hiệu hòa hoãn của Bắc Triều Tiên : Hai hỏa tiễn Bắc Triều Tiên tên gọi Musudan ở trong tư thế sẵn sàng, nay đã được rút khỏi giàn phóng đặt ở vùng bờ biển Nhật Bản. Một viên chức quân sự Mỹ đã khẳng định như trên vào hôm qua. Theo viên chức này, cử chỉ trên của Bình Nhưỡng cho thấy là không còn nguy cơ hoả tiễn được bắn đi, vì Bắc Triều Tiên sẽ phải tốn công chuẩn bị trước khi có thể phóng đi hoả tiễn của họ. Một nguồn tin chính quyền ở Seoul thì cho biết thêm là quân đội Bắc Triều Tiên không còn đặt trong tình trạng báo động tối đa như trước đó. Tuy có các động thái được xem là hoà hoãn, nhưng Bình Nhưỡng vẫn tiếp tục phản đối cuộc tập trận Mỹ Hàn diễn ra vào tuần này và hôm nay, 07/05, lên tiếng đe dọa sẽ ‘trả đũa ngay’, nếu đạn pháo của kẻ thù rơi vào hải phận của Bắc Triều Tiên. Cho dù lên tiếng đe dọa như trên, Bắc Triều Tiên cho thấy là họ để ngỏ cánh cửa đối thoại, và ưu tiên hiện nay của chế độ là thúc đẩy kinh tế. Một trong những hình ảnh xuất hiện trước công chúng gần đây của Kim Jong Un là tại một trung tâm thương mại. Về phần mình, tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye đang viếng thăm Hoa Kỳ, cũng đã tái khẳng định ý muốn thiết lập không khí ‘tin tưởng lẫn nhau’ với Bắc Triều Tiên. Nhưng bà cũng cảnh báo sẽ ‘trả đũa mạnh mẽ’ trong trường hợp Seoul bị Bình Nhưỡng khiêu khích vũ trang. Xin nhắc lại, Bình Nhưỡng cho triển khai hoả tiễn Musudan, có tầm bắn 5.500 cây số - ở bờ biển phía đông, vào lúc tình hình bán đảo căng thẳng mấy tuần qua. Hành động này đã buộc Nhật Bản và Hàn Quốc phải tăng cường biện pháp chống hỏa tiễn trong lúc Hoa Kỳ phải triển khai hai khu trục hạm được trang bị radar có khả năng phát hiện tên lửa ngay khi hỏa tiễn được phóng đi và theo dõi hảnh trình của nó. Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ, George Little đã đánh giá việc ‘Bình Nhưỡng ngưng khiêu khích là một diễn biến tích cực. Như nói trên, tổng thống Hàn Quốc Park Geun-Hye viếng thăm Hoa Kỳ và có cuôc gặp gỡ với tổng thống Mỹ Obama vào hôm nay (7/5) tại Nhà Trắng. Chủ đề chính thảo luận dĩ nhiên là tình hình an ninh trên bán đảo Triều Tiên. Hôm qua, tại New York, bà Park Geun- Hye đã có cuộc tiếp xúc với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon đã hoan nghênh phản ứng cứng rắn nhưng chừng mực của tổng thống Hàn Quốc trước những hành động khiêu khích của Bình Nhưỡng. Mai Vân (RFI) Lần đầu tiên Mỹ tố cáo đích danh Trung Quốc gián điệp mạng Báo cáo của Lầu Năm Góc công bố hôm qua 06/05/2013 khẳng định, Bắc Kinh tiến hành một chiến dịch gián điệp mạng rộng lớn nhằm thu thập những thông tin về các chương trình quốc phòng của chính phủ Mỹ. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ tố cáo đích danh chính phủ Trung Quốc hoạt động tin tặc. Một hệ thống máy chủ tại Hoa Kỳ. (Ảnh chỉ mang tính minh họa) (REUTERS/Valentin Flauraud) Bản báo cáo cho Quốc hội Hoa Kỳ đã khẳng định : « Trung Quốc sử dụng năng lực hệ thống tin học của họ để khéo léo điều khiển một chiến dịch thu thập thông tin từ các lãnh vực hỗ trợ cho các chương trình quốc phòng cấp quốc gia của Hoa Kỳ, trong các lãnh vực ngoại giao, kinh tế và kỹ nghệ ».Theo báo cáo, tin tặc Trung Quốc hồi năm 2012 đã đột nhập vào các máy tính thuộc mạng lưới chính phủ Mỹ, giúp Bắc Kinh nắm được nhiều hơn về năng lực quân sự và các cuộc tranh luận chính trị tại Hoa Kỳ. Lầu Năm Góc nhấn mạnh : « Năm 2012, nhiều mạng lưới tin học trên khắp thế giới, trong đó có các mạng của Mỹ, tiếp tục là mục tiêu của các mưu toan xâm nhập, mà một số có thể quy trực tiếp cho chính quyền và quân đội Trung Quốc ». Cho đến nay, đây là lần đầu tiên một bản báo cáo của Hoa Kỳ thẳng thừng chỉ đích danh tin tặc Trung Quốc tấn công vào mạng của chính phủ Mỹ, cũng như các doanh nghiệp Mỹ. Cho dù chính quyền Barack Obama đã từng yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt loại hoạt động phi pháp này, nhưng các viên chức Mỹ chỉ mới đưa ra những lời bình nhắm vào việc tấn công tin học các doanh nghiệp tư nhân. Theo báo cáo, Bắc Kinh tìm cách thu gom các tin tức có thể có lợi cho họ trong cách lãnh vực vũ khí và công nghệ. Các lãnh đạo Bắc Kinh cũng rất muốn biết quan điểm của các nhà lãnh đạo Mỹ về các chủ đề liên quan đến Trung Quốc và quân đội Trung Quốc. Lầu Năm Góc khẳng định, các thủ đoạn của Bắc Kinh cũng giúp các tướng lãnh Trung Quốc « thiết lập được hình ảnh về các mạng lưới ở Hoa Kỳ trong các lãnh vực quốc phòng, hậu cần và năng lực quân sự, có thể khai thác trong thời điểm xung đột ». Hôm nay 7/5 Trung Quốc lên tiếng cho rằng các cáo buộc của Hoa Kỳ là « không có căn cứ »và « nhảm nhí ». Thụy My (RFI)
  5. Đọc chú là tốt nhưng cái tâm vẫn là chính chỉ cần cái tâm ta thiện tâm tốt là đã hơn ngàn câu chú rồi cháu ạ! Nên nhớ là tướng tự tâm sinh. Tâm tốt thì tướng tốt nếu đọc chú rồi làm thiện nguyện nhưng tâm không tốt thì tất cả cũng chỉ đổ xướng sông xuống biển cả thôi>. chúc cháu sáng suốt.
  6. Kể ra bạn nên lưu lại trong quân đội thì hay hơn, Vợ là người đậm người gia đình cơ bản là người đảm lược, và gia đình cơ bản sau này bạn sẽ nhờ vợ nhiều vợ là người hay cười thích nuôi các con vật hay ép người khác theo ý mình. Năm nay bạn trong thâm tâm rất động cũng tại bởi bạn muốn thể hiện mình ngoài cuộc đời binh nghiệp tôi chắc năm này bạn đang quậy lẽ ra tháng 2 vừa rồi bạn đã ra quân rồi. nhưng nếu bạn thực sự muốn ra quân tháng 7 và 8 AL bạn có thể ra
  7. theo tôi thì không nên tính việc đi nước ngoài làm gì? nếu muốn vẫn có thể đi nhưng dễ về thì khó. Về công việc hay gặp trắc trở cuộc đời công danh nhiều khi mọi sự phấn đấu đều bị trở ngại vô hình ngay cả khi có người chống lưng. khả năng phấn đấu của bạn không cao, bạn dường như chỉ ngồi một chỗ đơi thời cơ đến nhưng cái cái thời cơ đó thường rất khó
  8. Nếu cháu làm về ngành viễn thông thì hợp về tình duyên đúng là cháu sẽ vất vả về đường tình duyên vấn đề không phải là dễ hay khó mà sau này sống lâu dài với nhau hay không mà thôi. Vợ chồng duyên số gặp nhau vì ân tình ân nghĩa nhưng để ssoongs lâu dài với thuận hòa với nhau thì cháu cần lấy người hơn nhiều tuổi và lấy muộn 1 chút (hơn nhiều tuổi là hơn khoảng 5 tuổi trở lên) theo bác thì cháu không phải là duyên âm duyên dương gì cả cũng chẳng phải vong veo gì. Mà số cháu do mệnh Không thân Kiếp đồng nghĩa với việc cuộc đời cháu gặp rất nhiều khó khăn trên mọi lĩnh vực. Vì vậy để giảm số xấu theo tôi cháu nên tu tâm làm các việc tốt để tạo nghiệp thiện, làm từ thiện hạn chế sát sinh, giúp đỡ mọi người như vậy cháu sẽ thấy cuộc đời có nhiều ý nghĩa hơn. chúc cháu sáng suốt
  9. Công việc và học tập của cháu năm nay khá khó khăn nhất là công việc dễ mất việc hoặc bị lừa úp cháu nên cẩn thận, Nên tập trung nhiều thời gian cho việc học hành thì tốt hơn
  10. cháu thay đổi công việc như thay áo. Cuộc đời còn lắm nỗi gian nan, Về sau này nên kinh doanh thì sẽ đắc lợi. Cháu có 1 cái tật là hay đứng núi này trông núi nọ, Trong thâm tâm luôn muốn làm bằng được những điều mà cháu nghĩ nên tâm ytis lúc nào cũng động thành ra rất khổ sở khổ vì lo lắng khổ vì suy nghĩ. Mà suy nghĩ của cháu thì đôi khi không được thấu đáo chín chắn thường mang tính vội vàng tranh đoạt bất chấp lời khuyên can của người khác. Dù có ai định hướng cho cháu cũng thế thôi cháu chưa chắc đã nghe người ta. Về chuyện tình cảm cũng vậy với cháu khi có người yêu thì không cảm thấy yêu chỉ đến khi mất người yêu thì lại hối tiếc. Bác chắc chắn rằng cháu đã và sẽ còn hối tiếc rất nhiều cơ hội khác. Cháu nên học cách tu tâm sửa đổi tính nết để sau này bớt cảm thấy khốn khổ. Chúc cháu sáng suốt trong mọi chuyện! Thân ái.
  11. Mắt thư hùng lại còn tam bạch nhãn, cằm lệch, khuyết. Hàm chó ngao. Mũi này đâu được gọi là to mà là mũi chó. (Mũi to chuẩn đẩu phải lớn và tròn) đằng này chuẩn đầu xẹp lép lại còn lỗ mũi hở đen ngòm. (số thằng này là chết bất đắc kỳ tử ) Loại hỷ mũi chưa sạch này mà làm bình luận viên đặc biệt thì thằng Hoàn cầu chắc sắp chết nên mới dùng thằng này bình loạn. Nó chứng tỏ một điều rằng Nhân Dân Tung Cóong đã không thèm đọc tờ báo này từ lâu rồi vì vậy để Pro giới trẻ Tung cóong phải dùng đến loại đầu óc tóc tai này để nghêu ngao đấy cụ ạ! rút cục lại Hoàn cầu cũng chỉ đến thế mà thôi 1 cái lá cải già úa và một bầy sâu nghêu ngao đang phải vật lộn với cái nắng của mùa hạ năm nay
  12. Năm nay công việc cháu sẽ dần ổn định .Tháng 1 AL vừa rồi cháu được nhiều tiền hay mất nhiều tiền? Người yêu cháu sẽ là người đẹp trai, nhưng hay nói quá (các cụ gọi là nói khoác ấy) nếu đúng như vậy thì đó là ý trung nhân của cháu
  13. Năm nay về tình duyên chỉ thấy có sự đổ vỡ, chia tay hay là một sự luyến nhớ chứ không thấy có sự cưới xinNhất là trong tháng 4AL này tháng này tâm tính cảm thấy bất an thường xuyên có những chuyện giời ơi đất hỡi đổ xuống đầu, Tháng này cũng là tháng chính thức đào mồ chôn đi một mối tình đó. Sang tháng 8 âm lịch có thể sẽ gặp được người cần gặp, thuận lợi thì 28 tuổi lên xe hoa. Máu lấy chồng lắm lắm sao? "Lấy chồng là đem gông đeo cổ. Chị em ơi nỗi khổ là đây. Ăn xong nó lượn tối ngày. Đêm về chếnh choáng hương say ngủ khoèo".
  14. Túy Lão ngại nhất là xác định giờ sinh vì bạn phải cấp khá nhiều thông tin và các hạn cơ bản của các năm đã qua. Hạn tốt cũng như hạn xấu nếu có thể đến tháng gặp hạn càng tốt
  15. Có 3 cung Nô Quan Điền là không được tốt còn lại không đến nỗi nào . Đừng nên quá lo lắng dù sao thì mệnh cung được bộ Tuế Hổ Phù và bộ Tứ Linh chiếu nên cuộc đời cháu vẫn tốt đẹp mà thôi. Hãy hát lên rằng "cuộc đời vẫn đẹp sao" Kể ra như cháu nếu vào nghề viết văn thì có lẽ là hợp lắm.
  16. Trung Quốc phật lòng vì ảnh ông Tập Cận Bình khoác áo Càn Long Lần thứ hai chỉ trong vòng hơn 6 tháng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình xuất hiện trên trang bìa của tạp chí danh tiếng của Anh The Economist. Tuy nhiên Bắc Kinh không mấy ấn tượng và không hề hài lòng. Hình ảnh ông Tập Cận Bình 2 lần xuất hiện trên bìa tạp chí The Economist. Trên bìa tạp chí The Economist số ra ngày 4/5, Chủ tịch Trung Quốc được khoác áo vua Càn Long, một trong những vị vua có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Theo tờ Bưu điện Hoa Nam của Hồng Kông, ngay sau khi bức ảnh xuất hiện trên trang mạng của tờ báo, Bắc Kinh đã phản ứng nhanh nhất có thể. Tất cả các hình ảnh trên mạng và các link bài liên quan đến tờ báo của Anh đã bị kiểm duyệt chặt chẽ, chỉ vài giờ sau khi bài báo xuất hiện. Theo tờ báo của Hồng Kông, Bắc Kinh có thể đã phật lòng bởi dòng tít chạy trên ấn phẩm ngày 4/5 của tờ báo, “Let’s party like it’s 1793” cùng hình ảnh ông Tập Cận Bình mặc áo của vua Càn Long. Tại sao lại là năm 1793? Theo tờ The Economist, đây là một ngày quan trọng trong lịch sử hiện đại của Trung Quốc. “Vào năm 1793, đại diện của Anh, ngài Lord Macartney, đã đến yết kiến hoàng đế Càn Long, với hi vọng có thể mở sứ quán. Ông mang theo những tặng phẩm từ quốc gia vừa mới công nghiệp hóa của mình để biếu hoàng đế.” “Tuy nhiên, Càn Long, hoàng đế của quốc gia mà hiện nay đang chiếm khoảng 1/3 GDP toàn cầu, đã không quan tâm”, The Economist thuật lại và cho biết thêm hoàng đế Càn Long hoan nghênh “sự khiêm tốn chân thành và vâng lời” của nước Anh, nhưng ngài bày tỏ, “ Trung Quốc có đủ mọi thứ và không đánh giá cao các đồ vật xa lạ hay tinh xảo của nước Anh cũng như không có nhu cầu dùng chúng”. Nhưng người Anh đã không dễ nản chí, bởi đã có nhiều thay đổi kể từ lần yết kiến đó của ngài Lord Macartney 220 năm trước. Triều đại nhà Thanh sụp đổ và Trung Quốc đã thay đổi để vượt qua Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Theo tờ Bưu Điện Hoa Nam, giờ đây khi Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra tầm nhìn cho tương lai của Trung Quốc là khơi dậy “Giấc mơ Trung Quốc”, tờ The Economist có thể cảm thấy ông Tập có gì đó đồng điệu với hoàng đế Càn Long. Tờ báo cho rằng đà phát triển kinh tế của Trung Quốc có tiếp tục, có lẽ nằm ở việc ông Tập cải thiện và cải cách Đảng, cơ quan đã dẫn dắt “Tân Trung Quốc” kể từ năm 1949, như thế nào. Lần trước đây ông Tập Cận Bình xuất hiện trên bìa The Economist là vào ngày 27/10/2012, khi ông chuẩn bị chính thức trở thành tân lãnh đạo Trung Quốc. Dòng tiêu đề khi đó là “Người đàn ông phải thay đổi Trung Quốc” và với bức ảnh ông Tập mặc bộ vét màu đen, ngồi trên chiếc ghế bành đặt trên nền đất với những đường nứt gãy xung quanh. Vũ Quý Theo SCMP, The Economist (Nếu Lão say là người Hán Lão say sẽ đặt câu hỏi : Rằng người Mãn Thanh có phải là người Trung Quốc không nhỉ? hay họ là người nước Kim (Nữ Chân)?? Giả sử trong thời gian đô hộ của giắc Tầu Mãn Thanh mà ở Thăng Long vua Lê cũng cạo trọc đầu và tết tóc đuôi sam, mặc trang phục đó chắc hậu nhân người Việt sẽ nhổ nước bọt ông vua bày cho đến chết. Haizzzzz... kể ra hình ảnh này cũng có thể luận được ý tưởng của anh cu Tập đấy cụ Sư Thến ạ! Theo cụ thì đây là hành động và ý tưởng gì của anh cu Tập?)
  17. 9 kế 'phá' Trung Quốc trên Biển Đông Tiền phong Giám đốc An ninh châu Á - Thái Bình Dương tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ nhận định về khó khăn của Mỹ trong việc duy trì hòa bình trên Biển Đông trước những động thái cứng rắn của Bắc Kinh. Dưới đây là bài viết của ông, Tiến sĩ Patrick M. Cronin, về những khó khăn mà Washington sẽ phải đối mặt cũng như đưa ra những gợi ý về cách giải quyết các vấn đề trong khu vực. Đường lưỡi bò chiếm trọn gần như toàn bộ Biển Đông một cách phi lý của Trung Quốc chính là nguyên nhân cho những căng thẳng trong khu vực suốt thời gian qua và cả thời gian sắp tới. Dù có những tiến bộ về ngoại giao nhưng tình hình hiện nay chỉ làm kéo dài thêm các cuộc đối đầu âm ỉ và nhiều khả năng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Việc tìm kiếm các động lực mới cho sự ổn định chung cũng như những sáng kiến cụ thể cho quy tắc ứng xữ COC đang gặp phải nhiều trở ngại. Những trở ngại bạo gồm sự chồng lấn lãnh thổ trên các khu vực tranh chấp, tốc độ hiện đại hóa chóng mặt của Hải quân Trung Quốc. Thái độ ngày càng quyết đoán hơn của Bắc Kinh đối với các đòi hỏi chủ quyền và cả sự coi thường luật pháp quốc tế... Bắc Kinh tiếp tục phản đối sự đa phương hóa trong vấn đề tranh chấp Biển Đông. Phát triển và thiết lập quyền hàng hải riêng trong khu vực, sử dụng đội tàu hải quân, tàu hải giám thậm chí cả tàu du lịch hoạt động rộng khắp trên khác khu vực tranh chấp nhằm khẳng định chủ quyền phi lý của mình. Mặc khác, Bắc Kinh đang thiết lập các nguyên tắc chỉ giải quyết các vấn đề tranh chấp đối với từng quốc gia riêng rẽ (giải pháp song phương). Sự phát triển này đang trực tiếp phá hoại mục tiêu chiến lược của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, duy trì hòa bình ổn định, tự do hàng hải, mở các tuyến giao thông trên biển, xây dựng một hệ thống luật lệ mở cho các hoạt động chung trên toàn cầu. Thực tế ngoại giao không có khả năng là một phương tiện đủ để chế ngự những căng thẳng ở Biển Đông. Mỹ cần xem xét những giải pháp khác để gìn giữ hòa bình, thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng trong khu vực. Hành vi ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong những tuyên bố chủ quyền của mình cho thấy mưu đồ cưỡng chế các khu vực lân cận trong tương lai. Sự kiện bãi cạn Scarborough là một điển hình cho kiểu quấy rối hàng hải kết hợp với các mối đe dọa về hải quân để đạt được mục đích. Bắc Kinh ngày càng cứng rắn hơn với cái họ gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi", điều đó khiến việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông càng trở nên khó khăn hơn. Duy trì hòa bình và ổn định ở châu Á nói chung và Biển Đông nói riêng thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Mỹ. Với tình hình căng thẳng như vậy, Washington nên làm gì để chứng tỏ vai trò lãnh đạo của mình đối với hòa bình và ổn định trong khu vực. - Nâng cao năng lực các nước đồng minh và đối tác cung cấp một giải pháp phòng thủ đáng tin cậy chống lại hành vi bạo lực. - Hải quân Mỹ cần nâng cao quá trình đào tạo và huấn luyện cho quân đội các nước đối tác về dịch vụ hàng hải nhằm giảm thiểu các nguy cơ gây tai nạn hoặc các tính toán sai lầm. - Tổ chức và thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quân đội có liên quan. Bao gồm cả Trung Quốc trong nỗ lực quân sự ở khu vực. Sự tham gia của Trung Quốc vào các hoạt động quân sự trong khu vực do Mỹ dẫn đầu như RIMPAC là một yêu cầu quan trọng để xây dựng lòng tin lẫn nhau. - Vận động Thượng viện Mỹ phê chuẩn UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển). UNCLOS có thể không giải quyết hết các tranh chấp ở Biển Đông nhưng sự tham gia của Mỹ vào công ước sẽ củng cố thêm cơ sở pháp lý của luật pháp quốc tế. - Hỗ trợ cho nỗ lực của Phillippine và làm trọng tài cho khiếu kiện của họ đối với Trung Quốc như là một tiền lệ quan trọng trong khu vực. - Tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN trong việc quyết định số phận của Biển Đông, xúc tiến quá trình xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC. - Làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia và phát huy vai trò của họ như là một bên quan trọng trong các tranh chấp trong khu vực. - Hoàn thành việc xây dựng đối tác xuyên Thái Bình Dương trong năm 2013. - Cân bằng sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các nước trong khu vực, hỗ trợ mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Tuy nhiên, khả năng thực hiện các bước chiến lược trên có thành công hay không phụ thuộc khá nhiều vào thái độ của Bắc Kinh đối với vấn đề này. Theo Quốc Việt Infonet
  18. có cách đấy nhưng ở cháu mà thôi. Đó là thay đổi tính cách thay đổi 1 số công việc cần làm
  19. năm nay cậu có rất nhiều cơ hội, nếu cậu muốn chuyển thì sang đầu tháng 4 việt lịch cậu sẽ có người giúp đỡ chuyển tháng này thì được. với lá số này e rằng cậu còn phải chuyển nhiều nơi nữa.
  20. Về bệnh tật, và tai ách e rằng cháu vẫn phải gánh, ngành nghề cháu có thể làm là XUẤT NHẬP KHẨU Cháu có tính đặc biệt là cái sự lo, lo đần tháng đần năm (có con bò to tướng ở bên ngoài cửa đang gặm cỏ - Lo không biết rằng nó không có hàm trên thì liệu nó có nhai được cỏ không??" trong vòng 1-2 năm nữa chắc cháu sẽ từ bỏ công việc để tự làm đó thôi. Số sau này sẽ giàu có nhưng nhớ rằng làm việc gì khi đã đạt được mong muốn (nhất là tiền bạc) thì xoay sang cái khác tuyệt đối không được tham - Cháu tham việc gì cố việc gì sẽ hỏng việc đó. Nếu biết dừng đúng thời điểm (như PeLe thì thành vua bóng đám, tham thêm như Maradona thành tội đồ ngay) hãy giúp đỡ người khác, làm từ thiện để tích đức giảm bệnh tật. - Cần xởi lởi hơn trong việc tiền bạc hay chi tiêu thì sẽ tốt. Âm phần thì quan tâm ngôi mả bà nội (hoặc bà cô) nếu bà chưa mất. Chúc cháu thành công!
  21. Việt Nam, Trung quốc và xung đột ở Biển Đông nam Á Thoả thuận tháng 10 năm 2011 giữa Hà Nội và Bắc Kinh về việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và biển ở biển Đông Nam Á (biển Đông) một cách hòa bình ban đầu đã được chào đón với những nụ cười, chủ yếu là vì dường như nó hứa hẹn một giai đoạn tạm ngơi đi các căng thẳng đang xấu thêm giữa hai nước Leninist láng giềng này. Nhưng những nụ cười hồi hộp trong việc chính trị hệ trọng này của Đông Á chưa bao giờ chứa đựng nhiều thông tin. Và từ chỗ đứng của năm 2013 rõ ràng thoả thuận trên giấy đó đã không giải quyết được những cội rễ của những căng thẳng và, trên thực tế đã thất bại ngay cả trong việc “che đậy” sự tranh chấp. Chỉ một tháng sau khi hiệp định được ký kết, một đoạn băng video tiếng Việt không rõ nguồn tung lên cảnh một tàu biên phòng Việt Nam đâm một tàu hải giám Trung Quốc (TQ) tại một địa điểm không tiết lộ. Bắc Kinh không có phản ứng chính thức nào về sự cố này, một dấu hiệu cho thấy sự cố quả thực xảy ra khá gần Việt Nam. Chỉ một vài ngày sau đó thì các giới chức Việt Nam và TQ họp tại APEC ở Honolulu. Ở đó, Tổng thống Obama và Hồ Cẩm Đào tiếp tục cuộc đối thoại căng thẳng, theo sau là một thông báo của Tổng thống Obama rằng Hoa Kỳ đã gần hoàn tất thỏa thuận Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hình thành một cộng đồng kinh tế không có TQ, bao gồm Úc, New Zealand, Malaysia, Singapore, Chile, Peru, và đáng chú ý là có Việt Nam. Dự kiến Nhật Bản sẽ gia nhập sớm. Với một cách lý giải nào đó, Bắc Kinh xem TPP như là một chỉ dấu về những cố gắng của Washington nhằm hạn chế sức mạnh của họ và đã phản ứng bằng nhiều nỗ lực khác nhau nhằm giảm thiểu bất kỳ tác động bất lợi nào, chủ yếu bằng cách ký thỏa thuận thương mại song phương với Hàn Quốc, Nhật Bản, và nhiều đối tác khác. Các diễn biến khác, đặc biệt căng thẳng giữa Trung – Nhật, đi ngược lại diễn tiến vừa nêu.Trong vòng 18 tháng kể từ cuộc họp APEC, nhiều việc đã xảy ra, nhưng tuyệt đối không có việc nào thuộc dạng làm giảm đi những căng thẳng ở biển Đông Nam Á. Quả thế, chúng tôi sẽ lập luận ở đây rằng hành vi của Bắc Kinh trong giai đoạn này chỉ có thể được hiểu như là một quá trình bành trướng theo chủ nghĩa đế quốc mới thuộc loại chính sách ngoại giao pháo hạm. Việc đầu tiên là giằng co của TQ-Philippines tại bãi cạn Scarborough, ở đó TQ chiếm giữ các vùng biển và các thể địa lí mà Philippines tuyên bố chủ quyền từ lâu và từ chối rời đi. Việc thứ hai là sự phá sản đáng kinh ngạc về tính thích đáng của ASEAN trong các vấn đề ngoại giao, gây ra do sự biểu lộ của Phnom Penh rằng lập trường của họ đối với biển Đông Nam Á là Bắc Kinh muốn sao thì nó phải như vậy. Việc thứ ba là việc chính thức hóa tuyên bố chủ quyền “lưỡi bò” bất hợp pháp của TQ đối với 80 phần trăm biển Đông Nam Á qua việc thành lập “thành phố Tam Sa”, một quyền pháp lý có chẳng có cơ sở nào trong luật pháp quốc tế. (Hãy tưởng tượng một nước bất kỳ nào khác, kể cả Hoa Kỳ thời hoàng kim đế quốc của mình thực hiện điều tương tự. Thôi được, có thể là một ví dụ tồi!). Lưỡi bò bây giờ điểm tô các hộ chiếu TQ, các bản đồ (bao gồm cả một số được bán tại Philippines) và các con dấu chính thức của TQ. Việc thứ tư là tăng cường các cuộc tập trận hải quân khiêu khích từ năm 2008 kể cả “tăng thêm tuần tra” trên vùng biển với 24 tàu hải giám bổ sung, trong đó gần một nửa là tàu chiến cải biến, chúng “… không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc chèn ép các nước khác phải khuất phục trước yêu sách bành trướng của TQ”[ii] trên cái lưỡi bò mà Bắc Kinh không có tuyện bố chủ quyền hợp pháp đối với nó. Việc cuối, nhưng không kém phần đáng lo ngại, là tiếp tục cổ vũ chủ nghĩa dân tộc và “số phận đã định” như một phương tiện kích động sự hậu thuẫn trong nước. Một xu hướng không những đề cao về sự cần thiết cho “ổn định khu vực” (theo ngôn từ của Bắc Kinh) mà còn có vẻ mời gọi các xu hướng siêu quốc gia và thậm chí phát xít trong chính trị TQ, điều này không có chút cường điệu nào. Những phát triển khác trong khu vực cũng không làm dịu căng thẳng. Ví dụ rõ ràng nhất là vụ giằng co quanh quần đảo Senkaku / Điếu Ngư, mà Bắc Kinh dường như sẵn sàng theo đuổi bằng mọi giá, trong vòng một năm qua tranh chấp đã trở nên tồi tệ hơn mà không có dấu hiệu dừng lại. Nếu cuộc xung đột vượt khỏi tầm kiểm soát thì toàn bộ khu vực sẽ bị biến dạng. Ngoài ra, có nhiều điều không chắc chắn về việc Mỹ sẽ phản ứng như thế nào. Tình thế với CHDCND Triều Tiên cũng có tác động đối với thế trận an ninh của Mỹ. Đã có dấu hiệu cho thấy rằng Philippines mong muốn một dạng sức mạnh hải quân cốt yếu nào đó của Mỹ quay trở lại Subic Bay. Cuối cùng chúng ta đã thấy sự phát triển của một cuộc chạy đua vũ trang thực sự ở Đông Á, một phần bị thúc đẩy bởi sự mở rộng quân sự có thể dự đoán phần nào của Bắc Kinh. Người hưởng lợi lớn ở đây dường như là Nga và Mỹ. Kẻ thua là an ninh khu vực và hàng loạt các mục tiêu đáng giá mà tiền sẽ không được chi vào. Có lẽ yếu tố đáng lo ngại nhất trong nền chính trị khu vực là dường như không có khả năng giới tinh hoa chính trị vượt qua “chính trị thể diện”, một thuộc tính văn hóa thâm căn cố đế của Đông Á từ lâu sống lâu hơn tính hữu dụng của nó. Tất cả những điều trên thậm chí còn làm các nhà quan sát thận trọng lo lắng về các căng thẳng trong khu vực. Sự dai dẳng của tình trạng căng thẳng trong vùng biển Đông Nam Á trong bối cảnh của một cảnh quan khu vực địa chính trị năng động tạo cơ hội để xem xét lại những ưu và nhược điểm của các tuyên bố chủ quyền xung khắc của nhà nước Việt Nam và TQ ở biển Đông Nam Á, để khám phá những động lực chính trị trong nước và quốc tế gây kích động cuộc xung đột, và để suy tư về các điều kiện theo đó cuộc xung đột có thể giải quyết một cách không bạo lực. Vì hầu hết chúng ta đã quen thuộc với trường hợp Việt Nam, chúng tôi sẽ dành sự chú ý đặc biệt trong việc tháo dỡ mặt chính trị về vị thế của Việt Nam trong cuộc xung đột. Hơn nữa, chúng tôi làm như vậy từ một tầm nhìn được đào tạo về một quan điểm của Việt Nam và giả định, dưới ánh sáng của các bằng chứng, rằng tuyên bố của Việt Nam thực sự hợp pháp. Chúng tôi thăm dò những cách mà Việt Nam có thể nâng cao lợi ích của mình khi đối mặt với chủ nghĩa đế quốc TQ. Trên tổng thể, chúng tôi cho rằng một cuộc chiến tranh Trung-Việt nữa sẽ là thảm hoạ. Nhưng vẫn còn khó để hình dung ra một giải pháp hòa bình có thể đạt tới như thế nào mà không có những thay đổi cơ bản trong các tính toán chính trị hiện tại. Để hiểu rõ hơn cuộc xung đột và lý do tại sao các ý đồ của Bắc Kinh đối với khu vực là không thể chấp nhận được đòi hỏi một quan điểm lịch sử đối với những tuyên bố xung khắc, chú ý đến thái độ và hành vi ẩn bên dưới các rắc rối gần đây, và lưu ý rằng các yêu sách của Bắc Kinh to tát và bất hợp pháp nhường nào. Rõ ràng TQ là một nước lớn mạnh và là còn là một siêu cường đang trỗi dậy. Nhưng điều này không phải có nghĩa là Bắc Kinh muốn làm gì thì làm. Có vẻ giải pháp duy nhất đối với Bắc Kinh sẽ là từ bỏ tuyên bố bất hợp pháp của mình theo tiêu đề của một hiệp ước đa phương khu vực và một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc. Đạt được kết quả như vậy sẽ đòi hỏi đề cao việc không khuyến khích đối với các thứ chủ nghĩa bành trướng và nền ngoại giao pháo hạm mà Bắc Kinh dường như có ý muốn thực hành. Điều đó cũng sẽ đòi hỏi các nhà lãnh đạo ở Việt Nam vung bồi với nhiệt tâm hơn tính chính đáng quốc tế và trong nước. Thực tế lịch sử không ủng hộ các yêu sách của Bắc Kinh Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đánh giá các yêu sách hợp pháp kích động các tranh chấp giữa Việt Nam và TQ nói riêng. Các khía cạnh lịch sử tranh chấp hiện tại rất khó tóm tắt ngắn gọn. Sẽ hữu ích khi tách cuộc xung đột thành ba khu riêng biệt dù có liên kết với nhau. Thứ nhất là tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển liền kề mà Hà Nội, Bắc Kinh và Đài Bắc đều tuyên bố chủ quyền. Thứ hai là tình trạng của quần đảo Trường Sa và các vùng biển liền kề mà Việt Nam và TQ là hai trong số năm nước có yêu sách, gồm có Philippines, Malaysia và Brunei. Cuối cùng đó là tình trạng của chính biển Đông Nam Á – một khu vực biển rộng lớn mà cho đến nay đã bị gọi sai là biển Nam Trung Hoa. Việc chỉ định tên gọi địa lý biển Nam Trung Hoa là không phù hợp cho một vùng biển nằm trong khu vực Đông Nam Á và cộng đồng quốc tế, nên ngừng và từ bỏ cách gọi như vậy. Quần đảo Hoàng Sa Đối với quần đảo Hoàng Sa, các bằng chứng như sau. Trong giai đoạn Việt Nam chia thành hai lãnh địa dưới thời vua Lê, năm 1774, nhà viết sử Lê Quý Đôn ghi lại các chuyến đi hàng năm do chúa Nguyễn của Đàng Trong (miền Nam) phái ra quần đảo Hoàng Sa trong quyển Phủ biên tạp lục (府 编 杂 录). Khi Việt Nam thống nhất, vị vua đầu là Gia Long tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1816.[iii] Gia Long và hai vị vua sau đó thể hiện chủ quyền và kiểm soát các hòn đảo thông qua các chuyến đi chính thức lặp đi lặp lại được ghi chép kỹ lưỡng vào tài liệu và báo cáo trong hơn năm thập kỷ. Từ 1835-1838, vua Minh Mạng hàng năm đều phái lính ra quần đảo Hoàng Sa, vua Thiệu Trị cũng làm như thế cho đến năm 1854.[iv] Những hành động liên tục này thể hiện rõ ràng quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa. Pháp thuộc đia hóa Việt Nam năm 1884 tiếp theo sau là một thời kỳ xao lãng. Tỉnh Quảng Đông, chưa từng là một quốc gia có chủ quyền, đã đưa ra tuyên bố chủ quyền lần đầu đối với quần đảo Hoàng Sa bắt đầu vào năm 1909. Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) đã tuyên bố lần đầu và chỉ đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1932, trong một bản thông cáo gửi cho người Pháp. THDQ nêu ra hai lý do, cả hai đều bất hợp pháp. Lý do thứ nhất là do trong quá khứ Việt Nam là chư hầu của TQ nên quần đảo này là của TQ. Lý do thứ hai, thường được chính quyền TQ nêu ra, là thoả thuận đã ký kết tại Bắc Kinh vào năm 1887 (khoảng 70 năm sau tuyên bố ban đầu của Gia Long) giữa Thống đốc Pháp ở Bắc Ký và TQ với tiêu đề “Công ước về phân định biên giới giữa TQ và Bắc Bộ”. Thoả thuận này chỉ trên vịnh Bắc Bộ có nêu rằng các đảo phía đông kinh tuyến 105° 43′ thuộc về TQ. Tuy nhiên, điều quan trọng là quần đảo Hoàng Sa, tuy nằm về phía đông của 105° 43′ nhưng lại ở ngoài khơi bờ biển An Nam, miền Trung Việt Nam hiện nay, không thuộc quyền quản hạt của Bắc Bộ. Chịu thua trước sức ép của các quan chức địa phương Việt và Pháp,[v] ngày 08 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.[vi] Năm 1933, Pháp chính thức tái khẳng định chủ quyền.[vii] Tuy nhiên, họ chỉ chiếm nhóm đảo Trăng Khuyết trong quần đảo Hoàng Sa, ở đó họ đã xây dựng một căn cứ quân sự, trạm khí tượng, và đài phát thanh vào năm 1937. Trong quảng thời gian Pháp xao lãng, ít nhất là một công ty Nhật đăng ký dưới tên một người TQ và sử dụng công nhân TQ đã bắt đầu khai thác phân chim trên đảo Phú Lâm, nằm trong nhóm An Vĩnh của quần đảo. Pháp phái một nhóm cảnh sát bản địa tới đây vào năm 1939.[viii] Sau Thế chiến II người Pháp không trở lại đảo Phú Lâm nhưng đã trở lại đảo Hoàng Sa tái chiếm đóng nhóm Trăng Khuyết của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 rồi chuyển giao quyền kiểm soát chủ quyền cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sau khi Nhật thua trận, THDQ nắm quyền kiểm soát đối với nhóm An Vĩnh, nhóm có đảo Phú Lâm. Năm 1955, CHNDTH nắm quyền kiểm soát. Năm 1974, CHNDTH chiếm nhóm Trăng Khuyết bằng vũ lực, dẫn đến cái chết của 54 lính Việt Nam và 48 người khác cùng một cố vấn quân sự Mỹ bị tạm giữ. TQ vẫn tiếp tục kiểm soát bất hợp pháp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974. Quần đảo Trường Sa Tiếp theo chúng ta chuyển sang quần đảo Trường Sa và các vùng biển liền kề. Quần đảo Trường Sa bao gồm 36 đảo nhỏ và hơn một trăm mỏm đá và bãi cát với tổng diện tích 5 km², nhưng lan rộng trên một vùng biển khoảng 600.000 km². Đảo lớn nhất là đảo Ba Bình, 0,5 km², do Đài Loan chiếm đóng kể từ sau Thế chiến II. Quần đảo Trường Sa lần đầu tiên được Pháp tuyên bố chủ quyền một phần vào năm 1887, và sau đó toàn bộ năm 1933 nhưterra nullius (đất không chủ) để ngăn chặn Nhật Bản xâm nhập. Không có phản đối từ Đài Loan. Sau Thế chiến II, Pháp đã không tái khẳng định chủ quyền, nhưng VNCH đưa quân đến nhiều đảo, trong khi Philippines cũng tuyên bố một số khu vực như terra nullius. Malaysia và Brunei đã tuyên bố chủ quyền đối với nhiều rạn san hô và bãi cạn trong năm 1982 và 1983. THDQ không yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong Thông cáo năm 1932 của họ về quần đảo Hoàng Sa.[ix] Năm 1946, lợi dụng nhiệm vụ do Đồng Minh giao bảo vệ các khu vực trên vĩ tuyến 16, Tưởng Giới Thạch tuyên bố chủ quyền cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố của TQ tiếp theo được CHNDTH thực hiện vào năm 1951, khi Chu Ân Lai tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn luôn là lãnh thổ của TQ. Dường như tuyên bố chủ quyền của TQ có rất nhiều khả năng được tiến hành phối hợp với Liên Xô mà tại Hội nghị Hòa bình San Francisco tổ chức chỉ một tháng sau tuyên bố của họ Chu, nước này đã đưa ra 13 sửa đổi cho Hiệp ước, trong đó có một sửa đổi giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ. Các sửa đổi này đã bị loại với tỉ lệ phiếu là 48-3.[x] Nhưng những nỗ lực của Bắc Kinh để phô trương sức mạnh chỉ mới bắt đầu và các quan chức TQ vẫn tiếp tục lập luận sai trái rằng Hiệp ước hòa bình San Francisco được ký kết giữa Nhật và Đồng minh kết thúc chiến tranh thế giới II đã giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại cho TQ. Thật ra, hiệp ước quốc tế này chỉ đơn giản nói rằng “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu cầu đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.”[xi] Hiệp ước hòa bình giữa THDQ (Đài Loan) và Nhật vào ngày 28 tháng 4 năm 1952 chỉ lặp lại những gì đã được ký kết giữa Nhật và Đồng minh. Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa, và yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa theo quy định tại Điều 10 của Hiệp ước San Francisco.[xii] Không có chỗ nào trong tài liệu này nói rằng các đảo đó được trả lại cho THDQ, nhưng từ đó Bắc Kinh cứ giải thích như thế. Không chỉ vậy, họ còn nói rằng “Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo Nam Sa [Trường Sa] trong một loạt các hội nghị quốc tế và thông lệ quốc tế sau đó.”[xiii] Nhưng khẳng định của TQ rõ ràng là trái với chủ trương của Hoa Kỳ “không theo lập trường nào đối với giá trị pháp lý của các tuyên bố chủ quyền đối chọi nhau”. Hoàn toàn ngược lại, “Hoa Kỳ sẽ xem xét nghiêm ngặt bất kỳ yêu sách biển nào hoặc bất kỳ hạn chế nào đối với hoạt động trên biển trong biển Đông mà không phù hợp với luật pháp quốc tế” (tuyên bố Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 10 tháng 5 năm 1995).[xiv] Ngoài ra, TQ cũng không có bằng chứng lịch sử nào cho thấy họ đã từng thực hiện chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Cũng như với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa chưa bao giờ được mô tả như là một phần của TQ trong các hồ sơ lịch sử. TQ cũng không chiếm đóng bất kỳ đảo nào của quần đảo này bất kỳ thời điểm nào trước thập niên 1980, kể cả trong thời hoàng kim của Trịnh Hòa. CHNDTH cho rằng người TQ phát hiện, đặt tên, khai thác, tiến hành các hoạt động kinh tế và thực thi quyền tài phán đầu tiên đối với các đảo trong biển Nam Trung Hoa.[xv] Tuy nhiên, người ta có thể chỉ ra rằng ranh giới của TQ kết thúc tại đảo Hải Nam sau khi kiểm tra cẩn thận các tài liệu lịch sử chính thức của TQ từ Lịch sử nhà Minh (Minh Sử / 明 史), Lịch sử nhà Thanh (Thanh Sử Cảo/ 清史稿) và các bản đồ Quảng Đông đã được vẽ ra qua nhiều triều đại và chính thức công bố trong bộ bản đồ tinh tuý của Quảng Châu (广州 历史 地图 精粹 / Quảng Châu lịch sử địa đồ tinh túy).[xvi] Nguồn này bao gồm các bản đồ hành chính xuống đến cấp huyện và được biên soạn thời nhà Thanh và thời THDQ. Một bản đồ thẩm quyền hơn có tên là Hoàng dư toàn lãm đồ (皇舆全览图) vì nó được Hoàng đế Khang Hi của nhà Thanh ra lệnh làm. Bản đồ này được in trên gỗ năm 1717 sau 10 năm nghiên cứu, vẽ bởi một nhóm giáo sĩ dòng Tên có kiến thức Bản đồ học phương Tây. Lãnh thổ TQ cũng kết thúc tại đảo Hải Nam.[xvii] Bản in sao chép trên đồng được giáo sĩ Dòng Tên Matteo Ripa thực hiện vẫn còn lưu giữ ở một phần bộ sưu tập địa hình của vua George III tại Thư viện Anh ở London.[xviii] Tất cả những cuốn sách mà TQ kê ra nhằm mục đích thể hiện một bằng chứng mơ hồ nào đó cho những hiểu biết của TQ về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều là những ghi chép của những nhà du lịch và thám hiểm. Rõ ràng TQ không có bằng chứng lịch sử nào cho thấy rằng chính phủ của họ đã có thẩm quyền, hay thậm chí đã xem quần đảo Hoàng Sa như là một phần của TQ trước năm 1909. Do đó, tuyên bố “TQ là nước đầu tiên phát hiện ra, đặt tên, khai phá, thực hiện các hoạt động kinh tế và thực thi quyền chủ quyền” là không có giá trị. Về phần Việt Nam, tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa chủ yếu dựa trên tuyên bố của Pháp. Bằng chứng lịch sử khác khá mong manh, mặc dù có các ghi chép về các hoạt động của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa ít ra từ năm 1776. Điều này cuối cùng dẫn chúng ta tới công hàm gây tranh cãi của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai vào năm 1958. Công hàm này đã trở thành tâm điểm cho các nỗ lực Bắc Kinh vo tròn bóp méo lịch sử và suy diễn sai trái rằng Việt Nam đã từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình, khi mà công hàm không hề nói điều đó. Nỗ lực của Bắc Kinh khi chơi con bài Phạm Văn Đồng có ba vấn đề. Đầu tiên và quan trọng nhất, công hàm Phạm Văn Đồng tỏ ý ủng hộ cho lãnh hải 12 hải lý trong bốn câu. Không chỗ nào Phạm Văn Đồng tỏ ý rằng Việt Nam nhượng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa cho TQ. Thứ hai, Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó thay mặt cho VNDCCH, trong khi đó chính VNCH lại là nước đã nhận được sự chuyển giao quyền lực từ tay người Pháp và đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo này. Do đó, công hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu lực về vấn đề chủ quyền. Như một nhà quan sát nói: “Người ta không thể từ bỏ một cái gì đó mà họ không nắm quyền kiểm soát.”[xix] Cả VNCH lẫn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều phản đối tuyên bố của TQ. Cuối cùng, Bắc Việt Nam vừa đã bị chiến tranh vừa phụ thuộc nặng nề vào viện trợ của TQ. Trong tình cảnh đặc biệt đó, ĐCSVN không có tư thế nào để phản đối. Sau đó, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (được Bắc Việt Nam ủng hộ), khi lên tiếng phản đối việc TQ chiếm đóng bằng bạo lực quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 đã kêu gọi giải quyết trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt.[xx] Điều cần cho Bắc Kinh và những người ủng hộ là nên loại bỏ các cứ liệu lịch sử mơ hồ để ủng hộ các bằng chứng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trong đánh giá các tuyên bố về chủ quyền. Đường chữ U và luật pháp quốc tế Điều này dẫn đến thành phần cuối cùng của những rắc rối hiện tại. Tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo Trường Sa vào năm 1933 không gặp sự phản đối của TQ. Tuy nhiên, tuyên bố của Pháp đã khiến một quan chức THDQ là Bạch Mi Sơ bịa ra bản đồ hình chữ U 11 vạch, thu tóm 80 phần trăm biển Đông Nam Á vào lãnh thổ của TQ.[xxi] Bản đồ này, in vào năm 1947, không có ghi tọa độ, và vẫn giữ nguyên không có tọa độ. Hình chữ U 11 vạch đã được CHNDTH chỉnh thành hình chữ U 9 vạch và nộp cho Liên Hiêp Quốc (LHQ) năm 2009, yêu sách rằng khu vực được phân định đó là lãnh thổ lịch sử của TQ. Cần nhấn mạnh rằng yêu sách trong đường chữ U không được luật pháp quốc tế công nhận và do đó là hoàn toàn bất hợp pháp. Có những dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh biết điều này. Có cách giải thích nào khác việc Bắc Kinh cho rằng họ có “chủ quyền không thể tranh cãi” lại đồng thời đề xuất cùng nhau khai thác tài nguyên? Điều sau mâu thuẫn với điều trước hay tìm cách khôi phục lại huyền thoại về lòng hào phóng của đế chế TQ xưa. Những điều trình bày ở đây được định hướng theo các tiêu chuẩn quốc tế đã được thiết lập liên quan đến các yêu sách chủ quyền lãnh thổ có chủ quyền. Hai bộ tiêu chuẩn được sử dụng trong bài viết này dựa trên các quyết định trước đây của Tòa Án Quốc tế và của các Trọng tài quốc tế khác, Hiến chương LHQ và Công ước về Luật Biển của LHQ (UNCLOS). Một tuyên bố chủ quyền phải được phản ánh trong tuyên bố và các hành động công khai của một chính phủ cấp quốc gia, chứ không phải chỉ do chính quyền địa phương. Một tuyên bố phải bao gồm hai yếu tố, mỗi một yếu tố đó phải cho thấy sự tồn tại: chủ định và ý muốn hành động như một chủ quyền và một thực thi thực tế nào đó hoặc thể hiện tiếp tục thẩm quyền đó. Một tuyên bố phải không bị tranh chấp tại thời điểm tới hạn (critical time – thời điểm mà những hành động của các bên sau đó sẽ không được xét tới) của việc công bố. Im lặng có nghĩa là mặc nhận. Một tuyên bố phải không được thực hiện bằng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực. Quyền lịch sử với đại dương không được luật pháp quốc tế công nhận. Bằng chứng về chủ quyền lịch sử phải là văn bản chính thức, chúng có ưu tiên cao hơn các tài liệu lịch sử khác ghi nhận các hành động của một cơ quan quốc gia. Bằng chứng lịch sử cũng phải minh bạch với các nguồn có thể kiểm chứng được. Bằng chứng cho thấy tuyên bố chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Bắc Kinh là giả trá và vô căn cứ. Kiểm tra cẩn thận các tài liệu lịch sử chính thức TQ của nhà Minh và nhà Thanh đều cho thấy, ranh giới theo lịch sử của TQ kết thúc tại đảo Hải Nam. Tất cả các sách Bắc Kinh kê ra làm bằng chứng cho hiểu biết của TQ về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều là những ghi chép của các nhà du lịch và thám hiểm. Bắc Kinh không có bằng chứng lịch sử nào cho thấy rằng chính phủ của họ đã có thẩm quyền, thậm chí đã coi quần đảo Hoàng Sa là một phần của TQ trước năm 1909, hơn 130 năm sau khi Việt Nam đã thiết lập tuyên bố chủ quyền. Động lực chính trị: Trong nước và quốc tế Không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam và TQ đều thèm muốn kiểm soát chủ quyền đối với các đảo tranh chấp và các vùng biển liền kề. Cũng sẽ không đáng ngạc nhiên là các bên thứ ba có quan tâm, trong đó có Hoa Kỳ, có lợi ích trong cuộc xung đột này, vì tác động của nó về phạm vi quả thực là tác động địa chính trị. Khu vực này rất giàu sinh vật biển và nằm trên một trữ lượng dầu khí đáng kể dù chưa xác định rõ. Khu vực này là một tuyến đường vận tải biển quan trọng và chiến lược. Nhưng cũng đáng xem xét đến các động lực trong nước và quốc tế của cuộc xung đột, chúng không phải luôn luôn rõ ràng. Đối với Việt Nam, một đất nước có nền kinh tế tương đối nhỏ và có đường bờ biển dài với dân cư sinh sống phụ thuộc vào biển, tiếp cận/sử dụng biển Đông thực sự là một lợi ích quốc gia sống còn. Tiềm năng đóng góp của tài nguyên cho nền kinh tế của Việt Nam là to lớn. Không giống như TQ, Việt Nam không có cả ngàn tỉ đô la ngoại hối và không có tầm với ra toàn cầu mà TQ đang nhanh chóng phát triển. Thậm chí cơ bản hơn, tài nguyên thiên nhiên của biển Đông Nam Á là rất quan trọng đối với sinh kế của hàng triệu người Việt. Hành vi gần đây của TQ, bao gồm cả việc bắt giữ bất hợp pháp tàu Việt Nam, là đặc biệt đáng tiếc. Cảnh một siêu cường đòi tiền chuộc từ kẻ nghèo quả thực không đẹp chút nào. TQ cũng có những lợi ích trong nước quan trọng. Trong số những lợi ích quan trọng nhất này là tiếp cận/ khai thác các nguyên liệu, bao gồm hải sản và các loại nhiên liệu hóa thạch. Sự thèm khát vô độ của TQ đối với nguyên liệu thô là mối quan ngại toàn cầu và khuyến khích TQ đi đầu trong những nỗ lực phát triển năng lượng thay thế. Trong khi đó, TQ không được phép gây sức ép lên các nước nhỏ. Một khía cạnh di sản Đông Á có nhiều vấn đề liên quan đến thể diện. Bắc Kinh không muốn bị mất mặt bằng cách thừa nhận rằng các tuyên bố chủ quyền của họ là quá đáng. Cũng quan trọng là việc nhận ra các sắc thái chính trị trong nước và quốc tế của Việt Nam. Trong một bài viết gần đây, đồng nghiệp và cũng là bạn của chúng tôi, Joseph Cheng, khẳng định rằng Hà Nội đã dung túng hay khuyến khích các cuộc biểu tình để làm người dân quên đi sự yếu kém của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên điều này rõ ràng là không đúng, và phản ánh sự thiếu thông thạo của giáo sư Cheng với chính trị tại Việt Nam. Sau khi tham dự một trong những cuộc biểu tình tại Hà Nội gần đây, một trong những tác giả hiện nay có thể tự tin để nói rằng những người phản đối các hành động của TQ là những người bình thường. Có chăng, chính quyền Việt Nam đã muộn màng nhận ra rằng tính chính đáng pháp của chính họ đang có vấn đề nếu họ không chịu đương đầu với TQ. Các cuộc nói chuyện với nhiều người Việt Nam lứa tuổi trung niên mang lại một cảm giác chung: sợ hãi trước viễn cảnh chiến tranh trở lại, nhưng cương quyết đối mặt với chủ nghĩa đế quốc TQ. Công thức cũ mà mọi người Việt Nam đều biết. Nếu Việt Nam cúi đầu trước TQ thì đơn giản là sẽ không có một Việt Nam. Có một ít điều về chính trị có thể liên kết người Việt trên toàn cầu với nhau nhưng chắc chắn việc tranh chấp biển với TQ nằm trong số đó. Có lẽ khía cạnh quốc tế quan trọng nhất của cuộc xung đột đã nẩy sinh để đáp ứng với cách tiếp cận vụng về và hung hăng của Bắc Kinh là: Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng việc bảo vệ hoạt động tự do trong khu vực là một lợi ích an ninh quốc gia. Giải pháp? Đối với Việt Nam và TQ để đạt được một giải pháp hòa bình, có ba rào cản cần phải vượt qua. Đầu tiên, điều cần thiết là cả hai bên nên trình ra một đánh giá khách quan về tuyên bố chủ quyền lịch sử do mỗi bên đưa ra. Tuy nhiên, Bắc Kinh khó có thể chấp nhận. Thứ hai, có một nhu cầu TQ dừng và từ bỏ các hành vi bất hợp pháp của họ trên vùng biển công (quốc tế). Nhưng điều này cũng khó có thể xảy ra. Thứ ba, do tầm quan trọng của biển Đông Nam Á đối với thương mại khu vực và thế giới, có một nhu cầu các cường quốc khu vực và trên thế giới – và không chỉ TQ – đạt được một thỏa thuận đa phương có tính ràng buộc đối với khu vực. Luật Biển của LHQ (UNCLOS) có thể đóng một vai trò ở đó. Nó quy định rằng tất cả các cấu trúc trên biển trong trạng thái tự nhiên của chúng, nếu là đảo nhỏ và bãi cát trên biển Đông không thể duy trì sự sống của con người thì không đáng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế, ngoại trừ 12 hải lý lãnh hải. Cách giải thích đó nếu được chấp nhận sẽ tách riêng ra được một mảng lớn của khu vực này hiện đang có các tranh chấp lôi thôi và nguy hiểm giữa các nước và đặt chúng vào loại biển công quốc tế. Tòa án quốc tế về UNCLOS phải ở trong vị thế để cho ra ý kiến. TQ cũng có thể phản đối điều này. Họ chỉ muốn đàm phán song phương về một vấn đề đa phương để họ có thể gây sức ép lên các nước nhỏ hơn và yếu hơn. TQ đã nhiều lần thả nổi đề xuất chia sẻ cùng với họ một số tài nguyên dầu khí nào đó và kiểm soát thủy sản cho tới khi nào mà những nước khác chấp nhận chủ quyền của họ đối với biển Đông Nam Á. Điều này là lố bịch. Nó trông giống như một tên khổng lồ côn đồ đến nhà người khác đòi lấy hết của cải và đe dọa giết họ nếu họ không đồng ý với một ít mẫu xương thừa mà anh ta đã rộng rãi ban cho. Đối với chúng tôi, dường như giải pháp duy nhất hợp lý để chia sẻ tài nguyên trên các vùng biển là phần phân chia thực (net) từ khai thác tài nguyên tỉ lệ với chiều dài bờ biển liên quan của các quốc gia xung quanh vùng biển, bỏ qua tất cả các cấu trúc quốc gia trong vùng biển. Các quốc gia này gồm có TQ, Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Nhìn trên bề mặt, ba điều kiện đặt ra ở trên có vẻ như khá phải chăng. Tại sao không đưa vụ việc ra trọng tài? Tại sao không dừng lại việc giam giữ bất hợp pháp tàu Việt Nam. Và tại sao không tìm kiếm một giải pháp đa phương thừa nhận tầm quan trọng quốc tế của biển Đông Nam Á. Để thấy lí do tại sao không đòi hỏi thẩm tra kỹ hơn các yêu sách và tham vọng của Bắc Kinh trong khu vực, chúng là đế quốc chủ nghĩa trong bản chất. Giáo sư Amitav đã đúng khi cho rằng TQ hiện nay đang tìm cách để mở rộng học thuyết Monroe phiên bản TQ. Có một nhu cầu thừa nhận rằng môi trường chính sách đối ngoại của Bắc Kinh là một căn phòng phản âm trong đó tiếng vọng lặp lại các tuyên bố mờ ảo được coi như là thật. Dù sự trỗi dậy của TQ ấn tượng ra sao, không thể trông mong thế giới sẽ chấp nhận phiên bản Sự thật của Bắc Kinh, vì phiên bản này thường là tự thoả mản mình (self-serving). Có một nhu cầu cho các bên liên quan, trong đó có Mỹ, bảo đảm rằng TQ ngưng và từ bỏ hành vi đáng khiển trách và thật ra là phạm tội của họ, đặc biệt khi nó liên quan đến sinh kế của ngư dân Việt Nam và sức khỏe thân thể bị đe dọa. Tất nhiên, làm thế nào để có thể đạt được điều này thì chưa thật rõ ràng. Lạc quan nhất, tuyên bố của Bắc Kinh dựa trên sự kết hợp của lịch sử hư ảo, bằng chứng mong manh, và các phát biểu sai sự thật, như được minh họa ở trên. Mục tiêu của Bắc Kinh rõ ràng nhiều hơn là việc sở hữu một vài đảo nhỏ và bãi cát. Họ muốn kiểm soát cả biển Đông Nam Á và buộc các nước khác chịu sự kiểm soát, hoặc ít nhất nằm vào phạm vi ảnh hưởng của họ trong khi chiếm hữu dầu khí và nguồn lợi thủy sản ở biển Đông Nam Á. Việt Nam: Con đường thứ ba? Một đặc điểm thú vị của tình trạng khó khăn của Việt Nam đã được lưu hành trong một thời gian. Đặc tính này được cho là tiêu biểu cho các quan tâm cơ bản của các nhà lãnh đạo Việt Nam mà nguồn gốc chính xác từ đâu chúng ta không biết, nói theo lời truyền miệng sau: “Theo Mỹ thì mất chế độ, theo TQ thì mất nước”. Câu châm biếm này, dù hài hước trong nhiều khía cạnh, nói lên một tình thế nan giải sâu sắc mà ban lãnh đạo Việt Nam đang đối mặt, tiến thoái lưỡng nan, dù không phải là mới nhưng có một sự thích đáng mới, và đòi hỏi một cách tiếp cận mới. Trước hết, chúng ta hãy mổ xẻ nan đề này, cả điều kiện tổng quát lẫn đối với biển Đông Nam Á. Sau đó chúng ta có thể quan sát các tác động đối với Việt Nam. Điều này đưa chúng tôi đến việc đề xuất một con đường thứ ba có liên quan đến việc không mất nước mà cũng không nhấn Việt Nam chìm vào hỗn loạn. Đối phó với một TQ bành trướng hay – nói một cách xây dựng hơn – thiết lập quan hệ đối tác với một TQ đang trỗi dậy, có thể là một vấn đề “mới” cho phần lớn các nước trên thế giới. Đối với Việt Nam đang và luôn luôn là một thực tế sống còn. Đối với ĐCSVN, TQ luôn luôn đặt ra những cơ hội và các đe dọa. Một mặt, ĐCSTQ đã từng viện trợ Việt Nam về vật chất và phi vật chất tại nhiều thời điểm quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Mặt khác, ĐCSTQ đã tìm cách thao túng, làm suy yếu, và thách thức nền độc lập của Việt Nam. Đây cũng là trường hợp mà các mối quan hệ lịch sử của ĐCSVN với ĐCSTQ là một điểm nhức nhối trong chính trị nội bộ của Việt Nam. Một phần là do việc áp dụng tai hại cải cách ruộng đất theo gợi ý của ĐCSTQ và chính sách văn hóa từ thập niên 1950 đến thập niên1970 và một phần là do vào một số thời điểm nhất định, chẳng hạn như năm 1951 và năm 1974, có thể ĐCSVN đã đặt tin tưởng quá nhiều vào tình đồng chí của Bắc Kinh, thể hiện qua những nỗ lực vô bổ và tự chuốc lấy thảm hại để vun bồi sự ủng hộ của Bắc Kinh vì một mối quan hệ hòa bình và thân thiện được xây dựng trên sự tôn trọng lẫn nhau. Chỉ là phản bội. TQ nói chung và đặc biệt là ĐCSTQ luôn luôn là một con dao hai lưỡi đối với Việt Nam và ĐCSVN. Liên quan đến biển Đông Nam Á, ĐCSVN đối mặt với bề bén của con dao và vẫn chưa tỏ ý muốn thoát ra khỏi vị trí này, tiết kiệm việc mua các rào chắn quân sự (chẳng hạn như tàu ngầm, máy bay chiến đấu, công nghệ tên lửa, tàu tuần tra và máy bay). Điều này, tự nó, là cách tiếp cận sai. Về mặt lịch sử, mối quan hệ của ĐCSVN với Hoa Kỳ có thể được mô tả hợp lý là thảm hại, ít nhất là cho đến gần đây. Tất nhiên, lý do chính, là việc Hoa Kỳ không công nhận ĐCSVN cùng những nỗ lực phá hoại, đánh bại, và tiêu diệt ĐCSVN bằng quân sự sau đó. Can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, ban đầu dựa trên nguỵ tạo (ví dụ như “Sự cố Vịnh Bắc Bộ”), đã diễn biến xấu đi thành một cuộc xung đột giáng thiệt hại thảm khốc lên Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Chúng tôi không muốn chăm chú vào cuộc chiến tranh bất hợp pháp của Chính quyền Johnson và Nixon và nhiều hành vi phạm tội được những người như McNamara và Kissinger giám sát, nhưng chúng tôi không thể không nắm bắt về sự trớ trêu mà sự chiếm giữ bất hợp pháp Hoàng Sa của Bắc Kinh vào năm 1974 là kết quả trực tiếp của việc cò kè của cả ĐCSVN lẫn của chính quyền Nixon trong việc vun quén mối quan hệ tốt hơn với ĐCSTQ, một chiến lược ngắn hạn đã được chứng tỏ là gây tổn hại về lâu dài, không những vì ĐCSVN đứng nhìn TQ chiếm quần đảo Hoàng Sa mà còn vì họ đã cho TQ một chỗ đứng trong biển Đông Nam Á mà TQ liên tục tìm cách mở rộng. Đối với Mỹ, động lực của Nixon-TQ là được hưởng lợi trong việc tăng sức ép lên Liên Xô và xây dựng một mối quan hệ có tính xây dựng với một quốc gia sẽ sớm thách thức vị trí bá chủ của chính Hoa Kỳ, kể cả ở Đông Á. Sự miễn cưỡng của ĐCSVN vun bồi các quan hệ quân sự chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ được sinh ra từ hai lý do cơ bản: một mặt, sợ làm ĐCSTQ nổi giận và mặt khác sợ cho phép ‘diễn biến hòa bình’ mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của ĐCSVN. Nhưng cả hai lý do cơ bản là không có giá trị. Liên quan đến Bắc Kinh, quả thực có một nhu cầu thiết lập một mối quan hệ mang tính xây dựng và dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Không rõ là Bắc Kinh tôn trọng Hà Nội vượt trên mối quan hệ Anh – Em đã liên tục mang lại tổn hại cho Việt Nam. Chúng tôi không có ảo tưởng, khi đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và khi cường quốc quân sự tầm cỡ thế giới ngay bên cạnh, Việt Nam phải duy trì một mối quan hệ tích cực và xây dựng với TQ. Mặt khác, ngồi im tổ chức một vài hội nghị mà chúng hầu như không thu hút sự chú ý của quốc tế, là một con đường chắc chắn để nhượng mất biển Đông Nam Á. Việt Nam là một nước có chủ quyền không phải là một nước chư hầu và Việt Nam có lợi ích chiến lược riêng của mình độc lập và, tất yếu, khác với TQ. Mối quan hệ của ĐCSVN với ĐCSTQ và các mối quan hệ của Việt Nam với TQ phải dựa trên nguyên tắc hợp tác và không gia trưởng. Đối với Washington, ĐCSVN có quyền hoài nghi. Tất cả các nước và các quốc gia cần hoài nghi về sự nhất định phá sản về trí tuệ của Hoa Kỳ phụ thuộc vào thế giới theo các nguyên tắc thị trường. Ngoài ra, ĐCSVN nên thận trọng về sự phân chia có mặc cả khu vực ảnh hưởng giữa các cường quốc lớn, ở đó quyền lợi của đất nước bị giày xéo. Mặt khác, có rất nhiều thứ thu lượm được về kinh tế và về các lĩnh vực khác thông qua sự can dự tích cực và năng động hơn với Mỹ. Vun bồi một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ cũng không nhất thiết kéo theo một trò chơi tổng bằng không đối với Bắc Kinh, như chúng tôi sẽ nhấn mạnh hơn, dưới đây. Than ôi, quan hệ đối tác của ĐCSVN với Mỹ, và thực sự chỗ đứng của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế, hiện nay bị giới hạn do ĐCSVN một mực muốn duy trì một hệ thống chính trị áp bức. Điều này đưa chúng ta thẳng tới lý do rằng nếu ĐCSVN vun quén mối quan hệ sâu xa hơn với Washington, Washington sẽ đòi hỏi giảm bớt các trói buộc lên các quyền tự do cơ bản (ngôn luận, lập hội, vv…), thì sự cai trị độc đảng sẽ bị đặt trong tình trạng nguy hiểm. Một cái nhìn như vậy là sai lầm, tuy nhiên, trong chừng mực giả định rằng ĐCSVN không có khả năng tự cải cách. Làm thế nào mà một bài viết về tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông Nam Á lại dẫn chúng ta đến một cuộc thảo luận về chính ĐCSVN? Điều này có thể được nêu ra bằng những ngôn từ rất đơn giản. Chính quan điểm của chúng tôi là an ninh quốc gia của Việt Nam và lợi ích quốc gia, về kinh tế và những mặt khác, sẽ được hưởng lợi to lớn từ việc cải thiện tầm vóc quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, cải thiện tầm vóc quốc tế của Việt Nam sẽ chỉ đi kèm với cải cách thể chế cơ bản, trong đó có cải cách chính trị và kinh tế mà Việt Nam rõ ràng rất cần. Có rất, rất nhiều người Việt Nam, kể cả hàng tá người có nhiều liên hệ lâu dài với ĐCSVN nhận ra rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một chính phủ có năng lực và có trách nhiệm hơn và một hệ thống chính trị và nền dân chủ cởi mở hơn, hệ thống đó hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam và nguyện vọng của mọi người Việt Nam. Thực hiện cải cách cơ bản không nhất thiết có nghĩa là sự cáo chung của ĐCSVN. Có rất nhiều người thông minh và có tài nhưng đã phải đứng bên lề một cách không cần thiết do sự bảo thủ chính trị và chính trị của các nhóm lợi ích. Ngược lại, chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi to tát từ những cải cách cơ bản. Và rằng những cải cách như vậy sẽ không những mở đường cho một nền kinh tế sôi động hơn mà cũng đưa Việt Nam ngang tầm với phần lớn các nước trên thế giới có cùng khát vọng về tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng và các giá trị con người khác, qua đó củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam và cuối cùng tăng cường vị trí của Việt Nam trong các vấn đề khu vực và thế giới. Khi đó – và chỉ khi đó – Việt Nam và TQ sẽ có thể đứng ngang nhau. Jonathan London and Vũ Quang Việt Soạn cho Hội nghị Quốc tế về biển Đông, 27-28/4/2013 (Bài viết mang tính tham khảo )
  22. sang năm mới có cơ hội cưới xin, năm nay cẩn thận kẻo dính dáng đến tranh cãi đánh nhau.
  23. Mỹ hết thời gian, Bắc Hàn ngoan cố Bắc Hàn nói sẽ không đàm phán chừng nào còn lệnh cấm vận Trong khi Bắc Hàn có vẻ bớt dần những tuyên bố hiếu chiến, căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên hiện vẫn còn có. Chỉ trong vài tuần nữa, chế độ Kim sẽ khởi động lại những gì từng làm đối thủ của mình nhức đầu. Bình Nhưỡng thông báo sẽ tái khởi động sản xuất plutonium cho vũ khí hạt nhân ở lò phản ứng Yongbyon, nơi nổi tiếng bởi vụ phá hủy cơ sở làm lạnh năm 2008 trong khuôn khổ cam kết giữa sáu bên. Mới đây Bắc Hàn quyết định đưa người ra khỏi Vùng Công nghiệp Kaesong. Những động thái này có thể xem là lời nhắc nhở cho thấy đàm phán với Bắc Hàn có thể có kết quả khiêm tốn nhưng tích cực, tựa như việc thành lập khu Kaesong. Người ta không nên xem đối thoại là cách để ngưng chương trình hạt nhất, đặc biệt là về ngắn hạn. Tuy nhiên đối thoại có thể giúp làm giảm nhiệt và tránh leo thang. Washington và Bình Nhưỡng đang trao đổi điều kiện để tái đàm phán chính thức theo đó để đối thoại có thực chất hơn là nói suông. Đó là trong trường hợp các quốc gia liên quan đồng thuận về vấn đề hạt nhân, và cùng muốn bàn thảo. Nhưng cũng chính đây là nơi có sự chia rẽ lớn nhất giữa các bên. Trong chuyến thăm châu Á mới đây, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry nhắc lại rằng Washington đã sẵn sàng hợp tác với Bình Nhưỡng, nhưng chỉ khi một số điều kiện được đảm bảo. Đề nghị của ông có lẽ liên quan tới những cuộc đối thoại chính thức hơn là những cuộc nói chuyện lặng lẽ và rời rạc từng được thực hiện trước đây. Điều kiện trước hết là động thái từ phía Bắc Hàn chứng tỏ “muốn phi hạt nhân hóa một cách nghiêm túc”. Việc này có thể thực hiện bằng cách bỏ sản xuất đầu đạn cho vũ khí hạt nhân, hoặc ngừng các cuộc thử hỏa tiễn. Hoa Kỳ muốn thấy thiện chí phi hạt nhân hóa của Bắc Hàn trước khi đối thoại Có thể sứ giả là người mới, nhưng các điều kiện mà ông Kerry đưa ra thì không. Trên lý thuyết, chính quyền Obama đã ngầm mở lại đối thoại hạt nhân với Bắc Hàn nếu tin rằng Bình Nhưỡng sẽ ngồi vào bàn đàm phán với tinh thần tích cực. Đáp lại tuyên bố của Ngoại trưởng Kerry, Bắc Hàn gạt bỏ hẳn điều kiện về hạt nhân, và tuyên bố danh sách điều kiện của mình: Mỹ phải xin lỗi về những khiêu khích gần đây, bỏ toàn bộ cấm vận của Mỹ cũng như của Liên Hợp Quốc, dời toàn bộ vũ khí có khả năng hạt nhân ra khỏi khu vực, và bỏ hẳn các cuộc tập trận trên bản đảo Triều Tiên. Lập trường kiên định Một cách để hiểu sự chia rẽ này là đối thoại sáu bên, các vòng đàm phán bắt đầu từ năm 2003 giữa Trung Quốc, Mỹ, Bắc và Nam Hàn, Nhật Bản, Nga, và bị hủy bỏ từ năm 2009. Hồi còn hoạt động, đối thoại sáu bên có các nhóm làm việc chung của nhiều phía: hợp tác năng lượng hòa bình; nhóm phi hạt nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên, và hòa bình và an ninh ở vùng Đông Bắc Á. Nhóm đầu tiên không mấy hấp dẫn với Hoa Kỳ và đồng minh, bởi những lý do khá rõ ràng. Trong lúc căng thẳng ở Triều Tiên, Mỹ nhắc đi nhắc lại Trung Quốc là 'chìa khóa' của vấn đề Nhóm thứ hai, phi hạt nhân hóa, Bình Nhưỡng không quan tâm, quốc gia này đã nhấn mạnh sở hữu vũ khí hạt nhân trong thuyết chủ thể. Tuy nhiên, Triều Tiên muốn giữ nhóm thứ ba để còn đường cho đối thoại, mặc dù đó có thể không phải là mục tiêu chính của đàm phán sáu bên. Theo quan điểm của Bắc Hàn, cần đảm bảo vắng bóng kẻ thù từ bên ngoài trước khi đất nước có thể an toàn bỏ vũ khí nguyên tử. Washington nghĩ ngược lại: hoàn toàn không thể bình thường hóa quan hệ nếu Bắc Hàn còn đang cho chạy chương trình hạt nhân. Hồi tháng Một, Ủy ban Quốc phòng Triều Tiên tuyên bố thẳng thừng rằng Bắc Hàn sẽ duy trì chương trình hạt nhân để làm nhụt chí các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khác – một chính sách mà, tiện thay, mượn của Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tuyên bố này sau đó lại được thêm ủng hộ của Hội đồng Nhân dân Tối cao Triều Tiên, nói vũ khí hạt nhân là “cuộc sống của dân tộc”. Mâu thuẫn gần đây nhất có thể khiến Washington muốn duy trì lập trường cứng rắn hơn với đối thoại an ninh và mở rộng hòa bình. "Trong khi Bình Nhưỡng từ từ tiến tới hỏa tiễn tầm xa mang đầu đạn hạt nhân, thời gian là thứ xa hoa đối với chính phủ Mỹ." Trong khi Bình Nhưỡng từ từ tiến tới hỏa tiễn tầm xa mang đầu đạn hạt nhân, thời gian là thứ xa hoa đối với chính phủ Mỹ.Có lẽ vì thế mà Hoa Kỳ cảm thấy bất kỳ đối thoại nào không liên quan tới phi hạt nhân hóa, và nếu Bắc Hàn không tỏ ra chân thành, đều không chấp nhận được. Tuyên bố của cả Mỹ và Triều Tiên cùng tránh câu hỏi về cuộc đối thoại chính thức và lâu dài này, là đa phương hay song phương. Bắc Hàn lâu nay vẫn thích đương đầu trực tiếp với đối thủ của mình. Ngược lại, chính quyền Obama có vẻ không ưa đối thoại song phương. Nhưng Hoa Kỳ có thể đang tự trói mình khi cứ khăng khăng muốn đối thoại đa phương về vấn đề Bắc Triều Tiên. Trong lúc căng thẳng, Hoa Kỳ nhắc đi nhắc lại, Trung Quốc là “chìa khóa” để giải quyết vấn đề, mọi nỗ lực giải quyết khủng hoảng trên Bán đảo Triều Tiên mà không có “chìa khóa” đó thì đều vô nghĩa. Từ căng thẳng gần đây nhất, có thể thấy rất rõ rằng Hoa Kỳ và Bắc Hàn còn tiếp tục bất đồng đối với các vấn đề cần bàn thảo, và ai sẽ đứng ra đối thoại. Đối thoại thường xuyên giữa Hoa Kỳ và Bắc Hàn có vẻ vẫn còn xa mới tới. Andrea Berger là học giả nghiên cứu phân tích nguyên tử ở Viện Royal United Services. Andrea Berger Học giả phân tích nguyên tử, viện Royal United Services (BBC) (giống như Lão Say đã nói Kim Ủn muốn trực tiếp đối thoại với Huê Kỳ kia , chứ không muốn có thằng khác ngồi lên đầu Kim để đàm phán, trong khi anh Kỳ vẫn muốn có Tung coóng ngồi chứng kiến )