ndmph
Hội viên-
Số nội dung
60 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by ndmph
-
Vậy mà cũng hỏi cho mỏi cái mồm, đúng là con nít thích làm chuyện người lớn. Muốn làm chuyện người lớn thì phải nghe lời dân gian dạy nè: "Hai tay cầm 9 đao vàng chết thì liều chết chứ xa chàng thì chẳng xa" Nghĩa là ai nhào vô cản chuyện tôi yêu đương cưới hỏi của tui thì tui chém mỏi tay luôn. :(
-
phóng viên loại này ngày nay không hiếm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà...nhưng mà bây giờ chính "thằng gian" lại cầm bút đâm ngược lại. Rối là vậy.
-
Tôi mơ thấy rồng quấn quanh người. Không biết là tốt hay xấu? Xin các anh chị giải đoán giùm. Xin cảm ơn.
-
Nhờ anh Linh Trang xem giúp cho gia đình: chồng: 1968 vợ: 1975 con trai: 1996 -xin cho biết gia đinh này có giầu không? -sinh con nữa thì năm nào? -năm nay hay năm sau người này cất nhà được không? Xin cảm ơn.
-
Riêng ndmph thấy "điềm" tồn tại thật năng động như đi siêu thị may mắn, sôi động như nhịp sống số, nhộn nhịp như lên sàn, bền bỉ hơn cả máy giặt Ba na xô nít trong "cộng đồng dân cư đánh lô chơi đề". Trong cộng đồng này tuyệt nhiên, tuyệt tự không có cụm từ "mê tín dị đoan" hay " phi khoa học", mà cũng chẳng có ai tuyên bố tính khách quan hay chủ quan của "điềm". Gặp nhau, họ có thể hỏi " Hôm nay mày đánh con gì?" :unsure:
-
Lâu rồi không ghé diễn đàn, thấy bài nhâm nhi bàn về pheng xui của chú Thiên Sứ quả là thấu tình đoạt lý, chứ không phải như các "vị" học giả học thật mà "cưỡng hiếp từ để đoạt trinh tiết lý". Lành thay cho những ai nghe mà tin, Dữ thay cho những ai thấy mà tin. Kính chúc chú Thiên Sứ vui - khỏe và...dai. :unsure:
-
Cái này là thể hiện sự tự ti, vong bản, vọng ngoại và ...ngu dốt. Buồn thiệt! Nhưng chừng nào các nhà làm phim làm được những bộ phim có thể làm say lòng người nước khác mà khiến họ ào ào đặt tên theo tên Việt Nam? Hic, Mơ thôi!
-
Người họa sỹ vẽ cả thế giới Jim Warren vẽ những kiệt tác mê hồn đẹp đến ngây ngất. Chiêm ngưỡng 1 bức, người ta lại muốn xem tiếp bức thứ hai, thứ ba, thứ n... Panda nguon:kenh.vn Họa sỹ Jim Warren nguệch ngoạc những nét vẽ đầu tiên từ lúc 1 tuổi, như tất cả trẻ em trên thế giới. Đến năm học trung học, sau khi xem xét kĩ lưỡng một loạt lựa chọn nghề nghiệp liên quan đến nghệ thuật như: nghệ sĩ, ảo thuật gia, ngôi sao nhạc rock, họa sỹ... cuối cùng ông chính thức quyết định trở thành một họa sĩ vào năm 1967. (May quá!) Jim Warren Những bức tranh của ông được vẽ chủ yếu bằng chất liệu sơn dầu truyền thống. Mỗi tác phẩm là một sự kết hợp, chuyển biến mới giữa các bức tranh thuộc các thể loại khác nhau. Đường tới thiên đàng Vẻ đẹp của núi Thời vụng dại Đảo mơ mộng Nhà thông thái Vòng tình bạn Thử thách Mẹ Thiên Nhiên trong thiên niên kỷ mới Và những tác phẩm khác
-
(Dân trí) - Lễ hội Melounovy được tổ chức vào đầu tháng 2 hàng năm tại Cộng hòa Séc là nơi quy tụ nhiều nghệ nhân điêu khắc dưa hấu danh tiếng trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, mỗi năm lễ hội còn đem lại doanh thu lớn cho ngành du lịch của đất nước này. Dưới đây là những tác phẩm tiêu biểu nhất của mùa lễ hội năm nay. Anh Nguyễn Theo Realart
-
Những bức họa vẽ trên đường được các hoạ sĩ dùng kỹ thuật 3D nâng lên thành những tác phẩm hết sức ấn tượng.
-
Nguyễn Thị Chân Quỳnh Hồ Xuân Hương rút nhầm tơ duyên Người ta thường nói Xuân Hương vì tài cao nên trắc trở đường tình duyên: lấy phải Tổng Cóc dốt nát, lấy ông Phủ Vĩnh-tường xứng đôi hơn nhưng lại phải làm lẽ... song đấy là truyền thuyết.Mãi đến khi đọc "Long-biên trúc chi từ" của Tùng Thiện vương (1), làm khi theo vua Thiệu-Trị ra Thăng-long tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương (1842), ta mới có bằng chứng Xuân Hương quả có thật và đã vất vả về đường tình. Bài thơ gồm 14 đoạn, đoạn 8 và 9 vịnh cảnh Hồ Tây có nhắc đến Xuân Hương. Thơ chữ Hán : Tĩnh đầu liên hoa khai mãn trì, Hoa nô chiết khứ cung thần ti. Mạc hướng Xuân Hương phần thượng quá, Tuyền đài hữu hận thác khiên ti. Trụy phấn tàn chi thổ nhất dinh, Xuân Hương qui khứ, thảo thanh thanh ! U hồn đáo để kim như tuý, Kỷ độ xuân phong xuy bất tinh ! Đại ý nói : Sen Tịnh-đế nở đầy hồ, Cô hầu gái hái hoa để cúng thần. Đừng dẫm lên mộ Xuân Hương nhé, Ở suối vàng nàng còn ôm hận rút nhầm tơ (duyên). Phấn rụng, cành tàn, một gò đất, Xuân Hương đi về, cỏ xanh xanh. Cho đến giờ u hồn còn như say ngất, Mấy độ gió xuân thổi vẫn không tỉnh (2). Căn cứ vào mấy câu thơ trên, ta biết chắc chắn đến năm 1842 thì Xuân Hương đã mất, tuy không rõ mất năm nào nhưng mộ đã xanh ngọn cỏ và nàng quả đã rút nhầm tơ duyên... Vấn đề rắc rối từ năm 1963, khi ông Trần Thanh Mại phát hiện ra tập Lưu Hương Ký mà tác giả đích thực mang tên Hồ Xuân Hương, và bài "Tựa" cho Lưu Hương Ký của Tốn Phong Thị. Xuân Hương trong tập Lưu Hương Ký cũng lận đận về đường tình, nhưng phong cách thơ Lưu Hương Ký thì khác hẳn những bài Thơ truyền tụng mà ai cũng biết. Từ đó (1963), các nhà nghiên cứu chia thành hai nhóm: một nhóm tin tác giả Lưu Hương Ký cũng chính là tác giả những bài Thơ truyền tụng, nhóm kia còn ngần ngại. Dưới đây, tôi lần lượt trình bầy từng mối tình của tác giả Thơ truyền tụng và của tác giả Lưu Hương Ký trong hai phần riêng rẽ, dựa vào những tài liệu đã công bố trên sách báo để minh chứng rằng trong hiện tình chúng ta chưa thể xác quyết tác giả Lưu Hương Ký và tác giả Thơ truyền tụng là một người. I - Tình duyên của tác giả Thơ truyền tụng (thơ chữ Nôm) Số phận hẩm hiu, Xuân Hương có ít nhất là hai đời chồng là Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh-tường, và ít ra cũng một lần làm lẽ, còn Chiêu Hổ tuy đôi khi tỏ ra suồng sã nhưng chỉ là bạn xướng họa. A- Tổng Cóc 1 - Không ai biết đích xác tên tuổi, gốc tích của Tổng Cóc. Có người cho là Xuân Hương lấy lẽ ông Phủ Vĩnh-Tường trước, góa chồng rồi mới lấy Tổng Cóc, tức là "lấy xuống". Nhưng cũng có người, như ông Nguyễn Hữu Tiến trong Giai nhân dị mặc, cho là lúc trẻ Xuân Hương bị mẹ ép uổng phải lấy cường hào Tổng Cóc trước. Tổng Cóc đã dốt nát lại có tính ăn chơi bạt mạng, sau một lần đánh bạc thua nhẵn túi, gia sản khánh kiệt nên tiếc của mà chết. Xuân Hương bèn làm bài thơ nổi tiếng "Khóc Tổng Cóc" lời lẽ trào phúng, bởi đối với ông chồng không xứng ý này nàng không có chút cảm tình nào. 2 - Khoảng năm 1989, ông Nguyễn Hữu Nhàn viết bài "Phóng sự điền dã", theo những tài liệu của ông Dương văn Thâm (3), cho biết Tổng Cóc là người Tứ xã, tên thật là Kình, tự là Nguyễn công Hòa, "Cóc" là tên gọi xấu xí lúc bé để đánh lừa cho ma quỷ khỏi bắt đi. Tên "Cóc" sở dĩ được nhiều người biết là vì bài thơ của Xuân Hương. Tổng Cóc làm đến chức Phó Tổng, vốn dòng dõi Nguyễn Quang Thành (đỗ Tiến-sĩ năm 1680), là một nho sinh từng xướng họa với Xuân Hương chứ không phải dốt nát như người ta lầm tưởng. Thí dụ có lần Xuân Hương ra vế : Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới. Tổng Cóc liền đối : Sáng mồng một mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào. Tổng Cóc có tính ưa ăn chơi, lấy Xuân Hương cũng là người hoang phí lại thêm nghệ sĩ tính. Chẳng bao lâu cửa nhà sa sút, vợ cả ghen, Tổng Cóc bỏ đi biệt sau khi để lại một lá thư từ giã, Xuân Hương lúc ấy đã có thai ba tháng. Xuân Hương sau cũng bỏ nhà đi, sinh hạ một con gái nhưng không nuôi được, lúc ấy đang làm lẽ ông Phủ Vĩnh-tường. Tổng Cóc dò tìm đến nhưng không dám giáp mặt, Xuân Hương làm bài "Khóc Tổng Cóc" gửi chồng cũ, thực sự là khóc cho mối tình cũ của mình chứ không phải trào lộng khóc Tổng Cóc chết như ta vẫn tưởng, vì như thế tỏ ra Xuân Hương ác, không nhân hậu, theo tác giả. Những chứng tích được nêu ra là : Căn nhà của Tổng Cóc đã cưới Xuân Hương hiện là nhà ông Kiều Phú, xã Sơn-dương (xã này, cũng như Tứ xã, đều thuộc huyện Phong-châu, Vĩnh-phú), vách bằng ván gỗ mít, còn lờ mờ vết chữ của Xuân Hương. Trên bàn thờ gia tiên ông Bùi văn Thắng, xã Tứ-mỹ, còn đôi bình tiện bằng gỗ mít, bị cưa chỗ loe miệng, một thời bị rẻ rúng bỏ lăn lóc. Trên mỗi bình có hai câu thơ chữ Hán do chính tay Xuân Hương viết : Thảo lai băng ngọc kính (= nói đến tấm gương bằng ngọc) Xuân tận hóa công hương (= hóa công cũng chịu lúc tàn xuân) Độc bằng đan quế thượng (= chi bằng lúc vin cành quế đỏ) Hào phóng bích hoa hương (= tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm) Nhà thờ tổ dòng họ Tổng Cóc nay là nhà ông Nguyễn Bình Lưu. Ông Dương văn Thâm vẫn còn nhớ đôi câu đối treo trên cột... B - Ông Phủ Vĩnh Tường 1 - Theo ông Ngô Lãng Vân thì sau khi góa Tổng Cóc, Xuân Hương mở quán làm kế sinh nhai. Những khách hâm mộ văn tài tìm đến xin xướng họa rất nhiều, trong số có một ông giải nguyên (đỗ thủ khoa thi Hương). Xuân Hương ra đề : "Thạch liên thiên" (= thơ vịnh đá liền với trời), ông giải nguyên cắn bút nghĩ mãi chỉ ra được bốn chữ "Thiên thạch như lai ", Xuân Hương cho người ra bảo :"Nếu không làm được thì xin về thôi, ngồi ngậm bút mãi làm gì ?". Ông giải nguyên uất quá ngất đi, Xuân Hương thương hại viết nối cho thành hai câu thơ đầu : Thiên thạch như lai bản thượng huyền (= trời với đất xưa nay rất huyền bí) Nhất triều vân vũ thạch liên thiên (= nhưng gập trận mưa thì đá liền với trời) Ông giải nguyên nhân đấy viết nốt được hai câu cuối : Bổ thiên thạch hữu kỳ công tại (= đá có kỳ công đã vá trời) Thiên thạch tương liên tự cổ truyền (= như vậy từ xưa đá với trời dính liền với nhau) được Xuân Hương khen hay. Sau nhiều lần xướng họa, Xuân Hương trở nên vợ lẽ ông giải nguyên, sau này thành ông Phủ Vĩnh-Tường (4). 2 - Ông Phủ Vĩnh-tường là Trần Phúc Hiển ? Trong Quốc sử di biên, Phan Thúc Trực (1808-52) có viết về một ông Tham hiệp trấn Yên-quảng bị án tử hình khoảng 1818/9 về tội tham nhũng, có nhắc đến người tiểu thiếp của ông này : Kỳ tiểu thiếp Xuân Hương, năng văn, chính sự. Thời xưng tài nữ (5) Năm 1973, ông Lê Xuân Giáo dịch là: "Người tiểu thiếp của quan Tham hiệp lúc đó tên là Xuân Hương vốn hay văn chương và chánh sự nên được người đương thời khen ngợi là ’nữ tài tử’". Trong phần chú thích, ông Lê Xuân Giáo viết thêm: "Xuân Hương đây tức là Hồ Xuân Hương lừng danh thời Lê mạt, Nguyễn sơ mà ai cũng biết" và kết luận rằng nữ sĩ có tới ba đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp Yên-quảng. Không rõ căn cứ vào đâu ông Lê Xuân Giáo khẳng định rằng người tiểu thiếp ấy chính là Hồ Xuân Hương ? và thêm: "lấy độ một năm thì quan Tham hiệp bị tử hình" (6). Năm 1983, GS Hoàng Xuân Hãn cũng cả quyết :"Chúng ta có thể tin chắc tài nữ này chính là tài nữ Xuân Hương mà ta từng quen biết" (7). Sự thực Phan Thúc Trực chỉ viết người tiểu thiếp tên là Xuân Hương chứ không nói họ của nàng, tôi ngờ chính hai ông Lê Xuân Giáo và Hoàng Xuân Hãn đã suy đoán và thêm họ "Hồ" vào. Tuy nhiên, ông Hoàng Xuân Hãn còn căn cứ vào sáu bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương, tìm thấy trong Đại Nam dư địa chí ước biên, mục Quảng-yên, tựa đề: "Chu thứ Hoa-phong tức cảnh bát thủ" (= Đậu thuyền ở Hoa-phong tức cảnh làm tám bài) vịnh cảnh Hạ-long. Trong số sáu bài còn lại thì bài cuối bị loại vì không ăn nhập với Vịnh Hạ-long. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì đời Gia-long, Yên-quảng (sau gọi là Quảng-yên) chia làm ba huyện mà huyện Hoa-phong gồm các đảo trên Vịnh Hạ-long, và những bài thơ vịnh cảnh Hạ-long là bằng chứng nữ sĩ đúng là người tiểu thiếp của quan Tham hiệp Yên-quảng. Ông còn tìm tòi và khẳng định quan Tham hiệp ấy tên là Trần Phúc Hiển, tuy không rõ đỗ gì, nhưng năm 1813 được từ Tri phủ Tam-đái thăng lên chức Tham hiệp Yên-quảng (phủ Tam-đái đến 1822 mới đổi tên thành phủ Vĩnh-tường). Ông kết luận: Khi chết Trần Phúc Hiển giữ chức "Tham hiệp" thì không có lý do gì để Xuân Hương khóc chồng với chức "Tri Phủ", cũ xưa và thấp kém hơn; Trần Phúc Hiển chết năm 1819, Xuân Hương không thể khóc chồng với cái tên "Ông Phủ Vĩnh-tường" bởi lúc ấy "Phủ Vĩnh-tường" còn mang tên cũ là "Phủ Tam-đái"; Nếu quả Xuân Hương sinh khoảng 1772, như ông Hoàng Xuân Hãn đoán, thì đến 1819 nữ sĩ đã gần 50 tuổi, với số tuổi ấy khó lòng có thể tái giá với một "ông Phủ Vĩnh-tường" nào khác. Do đó bài thơ "Khóc ông Phủ Vĩnh-tường" chỉ có thể là ngụy tác (8). Lập luận của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có thể coi là vững : a - Nếu chắc chắn tác giả Thơ truyền tụng và tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long là một (nên nhớ ông Phủ Vĩnh-tường là chồng tác giả Thơ truyền tụng chứ không phải chồng tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long), sự kiện Trần Phúc Hiển từng làm Tri phủ Tam-đái chưa phải là một bằng chứng đích xác ông là chồng tác giả Thơ truyền tụng vì còn có biết bao nhiêu ông Phủ Vĩnh-tường khác. Xét văn phong thì Thơ truyền tụng khác hẳn thơ vịnh cảnh Hạ-long, khó có thể chấp nhận hai tác giả là một người được. b - Nếu không có sự xuất hiện của một ông Phủ Vĩnh-tường thứ hai, ông Phạm Viết Đại, cũng có vợ tên Xuân Hương. 3 - Ông Phủ Vĩnh-tường là Phạm Viết Đại ? A- Trần Phúc Hiển không phải là người duy nhất có thể là "ông Phủ Vĩnh-tường". Trong Tạp chí Văn Học (Việt-Nam) số 3, 1974, ông Phương Tri cho biết ông Trần Tường đã phát hiện ra ông Phủ Vĩnh-tường tên là Phạm Viết Đại, dựa vào Trà-lũ xã chi, gia phả và trí nhớ các cụ già làng Trà-lũ. Phạm Viết Đại sinh năm 1802, đỗ Cử-nhân năm 1842, năm 1862 được thăng chức Đồng Tri phủ Vĩnh-tường, đến tháng 4, 1862 thì mất, cái chết có phần oan khiên. Các cụ già trong làng còn nhớ những giai thoại và thơ xướng họa giữa Phạm Viết Đại với người vợ kế tên Xuân Hương, một số thơ, tuy có sai ít nhiều, đã được ông Nguyễn Hữu Tiến nhận đúng là của nữ sĩ họ Hồ. Trần Tường còn nhận thấy nhiều bài thơ vịnh cảnh của Xuân Hương trùng hợp với những nơi mà Phạm Viết Đại đã từng làm quan: Ninh-bình (2 bài), Thanh-hóa (3 bài), Sơn-tây (3 bài) (9). Thuyết này có những chỗ chưa ổn: a - Gia phả họ Phạm nay đã mất, chỉ còn bằng vào Giai nhân dị mặc của Nguyễn Hữu Tiến; b - Trong Quốc triều Hương khoa lục, Cao Xuân Dục chép Phạm Viết Đại chỉ đỗ thứ 16 trên 20 người, mà truyền thuyết thì nói ông Phủ Vĩnh-tường đỗ giải-nguyên; c - Phạm Viết Đại chết năm 1862. Nếu đúng như Lê Dư viết là Xuân Hương chết sau chồng vài năm thì nữ sĩ phải mất vào khoảng 1864/5 trong khi Tùng Thiện Vương đã thấy mộ Xuân Hương từ năm 1842 (tức là năm họ Phạm mới đỗ Cử nhân). Hồ Xuân Hương chết trước hai mươi năm, không thể làm thơ khóc Phạm Viết Đại được, dù cho ông là "Ông phủ Vĩnh Tường". d- Tuy nhiên, lại có một Xuân Hương chết năm 1869, dựa vào Xuân đường đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San. Nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn tỏ ý nghi Xuân đường đàm thoại chỉ là loại "văn chơi", thiếu độ tin cậy cao: "không có giả thiết nào đứng vững nếu tin vào Xuân đường đàm thoại". Thế nhưng năm mất của Xuân Hương trong Xuân đường đàm thoại lại gần với năm mất của Xuân Hương vợ kế của Phạm Viết Đại hơn là với Xuân Hương trong thơ Tùng Thiện Vương, và còn phù hợp cả với Xuân Hương sinh năm 1814 của Ngô Giáp Dậu (11). Ông Hoàng Xuân Hãn tỏ ý nghi ngờ thuyết cho ông Phủ Vĩnh-tường là Phạm Viết "Đạt" (chính ra là "Đại") có người vợ kế "tên Xuân Hương mà họ coi là Hồ Xuân Hương. Họ lại thêm rằng bà vợ đã làm thơ đối đáp với chồng... Sự tin được thuyết này hay không liên hệ mật thiết với kết quả điều tra xem bài "Khóc ông Phủ Vĩnh-tường" có được ghi nhớ một cách đặc biệt trong họ Phạm ở Trà-lũ hay không ?" (12). Đành rằng độ tin cậy của những tài liệu này không thể bì với bài thơ của Tùng Thiện Vương song thuyết cho ông Phủ Vĩnh-tường là Trần Phúc Hiển cũng không hơn, cũng chỉ là phỏng đoán, dựa vào cái tên "Xuân Hương" và những chi tiết "tiểu thiếp, biết làm thơ", song phong cách những bài thơ của người tiểu thiếp quan Tham hiệp chỉ giống phong cách thơ trong Lưu Hương Ký chứ không giống Thơ truyền tụng nên ta chỉ có thể coi tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long với tác giả Lưu Hương Ký là một nhưng không thể khẳng định họ cũng là một với tác giả những bài Thơ truyền tụng nổi tiếng xưa nay, mà ông phủ Vĩnh-tường là chồng tác giả Thơ truyền tụng chứ không phải chồng tác giả Lưu Hương Ký. C - Chiêu Hổ Như trên đã nói, Chiêu Hổ không phải là bạn tình của nữ sĩ mặc dầu trong thơ văn xướng họa có những lời lẽ trêu cợt suồng sã. Chiêu Hổ được người đời biết đến chỉ nhờ những lời đối đáp, xướng họa với Xuân Hương. Cũng như Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh-tường, Chiêu Hổ là ai thì vẫn còn là một vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. 1 - Chiêu Hổ là một Huyện quan ? GS Hoàng Xuân Hãn cho biết khoảng 1892/3, A. Landes, Đốc lý Hà-nội, đã thuê người chép lại những bài thơ Nôm, trong đó có cả thơ Hồ Xuân Hương. Theo bản này thì trước cửa nhà Xuân Hương có đề "Cổ Nguyệt Hồ", quan Huyện đi qua bèn vịnh: Nhà Cổ hãy còn đeo đẳng Nguyệt, Buồng Xuân chi để lạnh lùng Hương (13). Phải chăng vì thế mà có thuyết nói khi Chiêu Hổ thi đỗ được bổ chức huyện quan, Xuân Hương ghẹo: Mặc áo Giáp giải cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý. Chiêu Hổ đối lại : Làm đĩ Càn tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn. Vẫn theo bản của Landes, Xuân Hương đã từng cùng quan Huyện đi ngoạn cảnh Đèo Ba Dội, cầm tay nhau mà leo lên. Xuân Hương xướng: Trèo một đèo, lại một đèo... Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo. Quan Huyện họa: Đã khỏi Đèo Ông lại một đèo, Nhác coi phong cảnh ngán trăm chiều... Ông Hoàng Xuân Hãn đặt câu hỏi phải chăng quan Huyện đây là Phạm Viết "Đạt" (14) ? quên rằng trước đó chính ông đã tỏ vẻ nghi ngờ thuyết cho Phạm Viết "Đạt" là ông Phủ Vĩnh-tường. 2 - Chiêu Hổ là Phạm Đình Hổ (1768-1839) ? Một số người (Văn Tân, Trần Thanh Mại, v.v.) đoán Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ. Nguyễn Triệu Luật còn viết rõ rằng Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ, cùng với Nguyễn Án (đồng tác giả Tang thương ngẫu lục với Chiêu Hổ) và Xuân Hương được người đương thời mệnh danh là "Tam tài tử" (15). Thực ra Chiêu Hổ không thể là Phạm Đình Hổ vì nhiều lý do : a - Phong cách hai người khác nhau rất xa: Chiêu Hổ tính tình phóng túng, tai quái, ưa bỡn cợt và khi xướng họa với Xuân Hương thường chỉ dùng Nôm; Phạm Đình Hổ tính tình nghiêm cẩn đến câu nệ, lại có ý khinh chữ Nôm. Trong "Tự thuật" ông viết: "Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc rủ rê chơi đùa thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết" (16). Trong khi Chiêu Hổ trêu chọc người thì Phạm Đình Hổ lại bị người trêu cợt: năm 1830, ông đang làm Tế tửu Quốc-tử-giám đã xin từ chức, viện cớ "Học thức thô thiển, bị bạn đồng nghiệp trêu chọc" (17). b - Phạm Đình Hổ chỉ đỗ Sinh-đồ (Tú-tài), tuy được đặc cách vời ra làm quan nhưng không làm quan Huyện mà làm ở Viện Hàn-lâm và ở Quốc-tử-giám. c - Chữ "Chiêu" trỏ vào con một ông Tiến-sĩ được học ở "Chiêu văn quán". Cha Phạm Đình Hổ chỉ đỗ Hương-cống (Cử-nhân) nên Phạm Đình Hổ không thể dự hàng các "cậu Chiêu" được (18). I I - Tình duyên của tác giả Lưu Hương Ký Khác với Thơ truyền tụng toàn là thơ Nôm, tập Lưu Hương Ký gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài chữ Nôm nhưng tựa đề thì vẫn bằng chữ Hán. Đọc Lưu Hương Ký ta thấy Xuân Hương có khá nhiều bạn trai, bạn thơ, bạn tình... nào Nguyễn Hầu, nào Trần Hầu, nào Tốn Phong thị, Mai Sơn Phủ, Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên, Chí Hiên... Trong số những bạn trai này, có khá nhiều bạn tình, thế nhưng trong "Bạch Đằng giang tạm biệt" tác giả vẫn lên tiếng trách người bạn tình không chung thủy: Tơ tóc lời kia còn nữa hết ? Chớ thói lưng vơi cỡ nước Đằng (19) và than thân, trong "Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu": Phấn son càng tủi phận long đong (...) Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong Lưu Hương Ký có rất nhiều câu than thân nên Trần Thanh Mại mới nhận xét: "Lưu Hương Ký là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành thực, thủy chung" (20). Ông Trần Thanh Mại xót thương "người đẹp" thì nghĩ thế chứ công bình mà nói Xuân Hương của Lưu Hương Ký thiếu gì bạn tình, chính mình không chuyên nhất, không chung thủy, sao có thể trách người chẳng thủy chung ? Sau đây là những người bạn tình của Xuân Hương, căn cứ vào tập thơ Lưu Hương Ký: A - Nguyễn Hầu Trong Lưu Hương Ký có một bài rất được chú ý là bài "Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền nhân" (= Nhớ bạn cũ viết gửi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, người ở Nghi-xuân, Tiên-điền) khiến ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du bởi Nguyễn Du quê ở Nghi-xuân, Tiên-điền, năm 1805 được phong Du Đức Hầu, đến năm 1813 thăng Cần Chánh học sĩ sung Chánh sứ sang tuế cống nhà Thanh. Bài này chắc viết sau khi Nguyễn Du được phong làm Cần Chánh học sĩ (tháng giêng năm 1813) và trước khi Tốn Phong Thị hoàn tất bài "Tựa" Lưu Hương Ký (tháng hai năm 1814). Khó lòng có thể có một người họ Nguyễn thứ hai ở Tiên-điền cũng được phong làm Cần Chánh học sĩ cùng trong khoảng thời gian này. Trần Thanh Mại là người đầu tiên phát hiện ra bài thơ và cũng là người đầu tiên đoán "Nguyễn Hầu" là Nguyễn Du. Chúng ta thử nhận xét mối tình giữa cặp tài tử Hồ Xuân Hương - Nguyễn Du. 1 - Tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du qua bài thơ "Cảm cựu..." Câu 1 & 2 : Dậm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, Cậy ai tới đấy gửi cho cùng. "Dậm khách" trỏ vào chuyện Nguyễn Du đang trên đường đi sứ. Hai câu thơ này cho ta có cảm tưởng trên đường đi sứ, qua Thăng-long, Nguyễn Du có gập lại Xuân Hương và bài thơ được Xuân Hương sáng tác ngay sau khi đôi bên chia tay, lúc tâm thần đang bị khích động nên mới có "muôn nghìn nỗi nhớ". Nếu không phải vừa mới gập lại nhau mà chỉ bình tĩnh ngồi hồi tưởng lại mối tình chia cắt đã gần một chục năm, kể từ khi Nguyễn Du vào Kinh làm quan (1805), thì tình đã lắng xuống, nhạt phai, làm sao có thể xúc động để có "muôn nghìn nỗi nhớ" được ? Câu 3 & 4 : Mối tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xuân Hương nói rõ hai người dan díu với nhau đủ "ba năm vẹn", vậy ta thử tìm xem họ yêu nhau vào thời điểm nào ? a - 1781-4 ? Thời gian này hai người cùng có mặt ở Thăng-long hay không? Nguyễn Du tuy sinh (1765) ở Thăng-long nhưng năm mười tuổi mồ côi cha phải đến ở với anh là Nguyễn Khản được vài năm thì về quê học. Năm 17 tuổi ta (1781), Nguyễn Du trở ra Thăng-long, đi thi đỗ Tam trường (21) rồi ở lại Thăng-long cho tới khi kiêu binh phá nhà Nguyễn Khản (1784), Nguyễn Du phải trốn lên Thái-nguyên ở với cha nuôi họ Hà, giữ chức Chánh Thủ hiệu (một chức quan võ nhỏ) ở đó. Như thế thì sự hiện diện của Nguyễn Du ở Thăng-long trong khoảng thời gian 1781-4 coi như chắc chắn. Về Hồ Xuân Hương, ông Hoàng Xuân Hãn đoán bà sinh năm 1772 thì đến 1781 bà mới có 9 tuổi, dù cả hai đều có mặt ở Thăng-long đủ ba năm cũng không thể bắt tình với nhau được. Huống chi, theo ông Hồ Trọng Chuyên thì năm 13 tuổi Xuân Hương còn ở quê nhà (Châu Hoan = Nghệ-Tĩnh) xướng họa với Dương Tri Tạn rồi mới dời quê theo cha ra Bắc. Cứ cho là Xuân Hương ra Thăng-long năm 13, tức là 1772 + 13 = 1785, nhưng lúc ấy Nguyễn Du không còn ở Thăng-long mà đang ở Thái-nguyên (22). b - GS Hoàng Xuân Hãn đưa ra hai thời điểm khác : 1790-3 và 1792-5 (23) song lúc ấy Tây-sơn đã ra Bắc và Nguyễn Du chống Tây-sơn nên về ở nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở Quỳnh-hải (Thái-bình) trong mười năm, từ 1786 đến 1796 (khi Nguyễn Du vào Nam, định theo chúa Nguyễn nhưng giữa đường bị quân Tây-sơn bắt được, giam ba tháng mới thả ra). Trong thời gian mười năm này, Nguyễn Du thường than trong thơ tình cảnh bệnh hoạn, nghèo túng, có khi mấy ngày bếp không nhóm lửa, vợ con nheo nhóc... Tuy nghèo nhưng cũng có hai lần Nguyễn Du ra Thăng-long: năm 1793, để thăm anh là Nguyễn Nễ, đích xác Nguyễn Du trọ ở gần Giám hồ (căn cứ vào bài "Long thành Cầm giả ca") chứ không phải là "ở nhà Nguyễn Nễ, gần Giám hồ" như ông Hoàng Xuân Hãn nói; và năm 1794 để tiễn Đoàn Nguyễn Tuấn vào Kinh làm quan. Có thể Nguyễn Du còn có những lần khác ra Thăng-long mà ta không biết, song với tình cảnh nghèo túng, bệnh hoạn, lại ôm hoài bão hoạt động để khôi phục nhà Lê, khó có thể tin Nguyễn Du tìm cách ra Thăng-long để dan díu với Xuân Hương. Dù có chăng nữa thì cũng chỉ là những cuộc gập gỡ ngắn ngủi, bị gián đoạn, khó có thể là mối tình "ba năm vẹn". c - 1802-5 ? Thời điểm này cũng không thích hợp nốt bởi mùa hè năm 1802 Nguyễn Du mới theo Gia-long ra Thăng-long mà đến đầu Xuân năm 1805 đã vào Kinh làm quan, tính ra chỉ có hai năm rưỡi, không đủ "ba năm vẹn". Câu 5 & 6 : Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn son càng tủi phận long đong. "Mừng duyên tấp nập" mà cho là trỏ vào chuyện Nguyễn Du được thăng lên chức Cần-chính Học sĩ và đi sứ e rằng quá khiên cưỡng, nếu trỏ vào chuyện Nguyễn Du cưới vợ thì có lý hơn bởi câu sau cho thấy Xuân Hương chạnh nghĩ đến duyên phận lẻ loi của mình mà "tủi phận long đong". So sánh duyên phận Nguyễn Du với thân phận mình, như thế mới đối. Câu 7 & 8 : Biết còn mảy chút sương siu mấy, (24) Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong. Hai câu này nối ý hai câu trên, than cảnh Xuân Hương lẻ bóng, đơn chiếc. 2 - Tình cảm của Nguyễn Du đối với Xuân Hương a - Tuy Xuân Hương nói mối tình kéo dài "ba năm vẹn" thế mà trong cả tập Lưu Hương Ký không có lấy một bài thơ của Nguyễn Du xướng hay họa với Xuân Hương, đối với cặp tài tử hay thơ như Xuân Hương - Nguyễn Du kể cũng lạ. b - Năm 1813, Nguyễn Du trên đường đi sứ, đã gập lại Xuân Hương ở Thăng-long, Xuân Hương viết bài "Cảm cựu..." tả "muôn nghìn nỗi nhớ nhung" của mình thế nhưng Nguyễn Du lại không có bài thơ nào nhắc nhở đến Xuân Hương và mối tình "ba năm" ấy. Suốt dọc đường đi sứ ta chỉ thấy Nguyễn Du nghĩ đến "cô Cầm" để rồi sáng tác ra bài "Long thành Cầm giả ca" nổi tiếng, nhưng tuyệt nhiên không có lấy một nửa lời nhớ nhung Xuân Hương ! Nếu bảo Nguyễn Du đang làm quan to, sợ "quan trên trông xuống, người ta trông vào", như ông Hoàng Xuân Hãn nói, thì tại sao trong thời gian yêu nhau "ba năm vẹn", chưa làm quan, cũng không có bài nào ? Không có trong Lưu Hương Ký mà cũng không có trong những tác phẩm Nguyễn Du để lại. c - Bài "Mộng đắc thái liên" (= Mộng thấy hái sen) của Nguyễn Du GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng khi Nguyễn Du vào làm quan ở Kinh và ở Quảng-bình đã làm bài thơ này có lẽ vì nghĩ đến Xuân Hương. Để xét xem người thiếu nữ trong thơ có thật là Xuân Hương hay không, tôi chọn bản dịch từng chữ của ông Mai Quốc Liên để giữ được đầy đủ chi tiết trong nguyên tác hơn là bản dịch thành thơ của các ông Lê Thước và Phạm Khắc Khoan mà GS Hoàng Xuân Hãn dùng (25). Mộng thấy hoa sen Buộc chặt quần cánh bướm, Hái sen, chèo thuyền con. Nước hồ sao lai láng, Trong nước có bóng người. Hái, hái sen Hồ Tây, Hoa và gương đều để trên thuyền. Hoa để tặng người mình trọng, Gương để tặng người mình thương. Sáng nay đi hái sen, Nên mới hẹn với cô láng giềng xóm Đông. Chẳng rõ đến lúc nào không biết, Cách khóm hoa nghe cười nói. Mọi người đều biết yêu thích hoa sen, Nhưng ai là kẻ yêu thân cây sen ? Trong thân cây sen có những sợi tơ, Vấn vương không thể dứt được. Lá sen sao xanh xanh, Hoa sen đẹp đầy đặn. Hái sen chớ làm hỏng ngó, Sang năm sen không sinh lại được. Những chi tiết về thiếu nữ hái sen không nhiều: cô ta mặc "quần cánh bướm", và là "láng giềng xóm Đông" của Nguyễn Du, song chẳng ai rõ nữ sĩ có mặc "quần cánh bướm" hay không, và hai người có là "láng giềng" bao giờ không. Nếu Xuân Hương là cô "láng giềng xóm Đông" của Nguyễn Du thì, so với nhà của cô, ắt hẳn nhà của Nguyễn Du phải ở phía Tây phường Khán-xuân, song chúng ta chỉ biết thuở nhỏ Nguyễn Du ở nhà cha và anh tại phường Bích-câu, phía Nam Thăng-long, và năm 1793 khi Nguyễn Du từ Thái-bình ra Thăng-long thăm Nguyễn Nễ đã trọ ở gần Giám hồ, cũng là phía Nam Thăng-long nốt, chứ không phải gần Hồ Tây và phường Khán-xuân, tương truyền là nơi Xuân Hương cư ngụ, ở Tây Bắc. Kẻ ở Nam, người ở Bắc, đã không biết đích xác địa chỉ của hai người, làm sao xác quyết được họ là "láng giềng" với nhau ? Hơn nữa, Nguyễn Du chỉ nói đi hái sen ở Hồ Tây chứ không nói là đi hái sen với người thiếu nữ sống ở gần Hồ Tây. Chúng ta chẳng có bằng chứng nào tỏ ra người thiếu nữ hái sen chính là Xuân Hương cả. Chúng ta cũng chưa có bằng chứng nào minh định là Nguyễn Du đã có một thời yêu Xuân Hương, bài "Cảm cựu..." chỉ "minh chứng" mối tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du mà thôi. Phần Nguyễn Du không có lấy một câu thơ nào cho biết đích xác Nguyễn Du có tình với Xuân Hương. Ở đời có khi "hoa rơi tuy hữu ý" mà "nước chẩy lại vô tình", chung quy chỉ là "giấc mộng rồi ra nửa khắc không" ! B - Trần Hầu 1 - Tình của Xuân Hương đối với Trần Hầu Trong Lưu Hương Ký có ít nhất là 6 bài thơ xướng họa giữa Xuân Hương và Trần Hầu. Nữ sĩ cho biết Trần Hầu là người đồng hương. Hai người hâm mộ tiếng nhau mà đem lòng quyến luyến: Bấy lâu ngưỡng mộ tiếng văn chương, nay mừng được gập mặt, (...) Chén tình vừa nhắp đã nồng nàn, đôn hậu. Thanh khí của châu ta còn được ưa chuộng, Tài tình của chúng ta là chung đúc nơi đây (26). Tuy quyến luyến nhưng chưa tiện ngỏ ý: Thân bèo nước gập nhau, nâng chén rượu dưới trăng, Tấc lòng son sắt thực khó nói. Gọi đàn, vì có ý mà gẩy khúc Cầu Hoàng, (...) Sau phút ly biệt, còn lưu luyến biết bao tình (27). và : Trăm năm gập gỡ là bao nả, Thắc mắc sầu riêng khó giở ra (28). Dẫu Xuân Hương tỏ ra có tình ý thắm thiết nhưng thực ra đôi bên chưa có gì gọi là gắn bó. 2 - Tình của Trần Hầu đối với Xuân Hương Họ Trần xác nhận vì hâm mộ mà tìm đến nàng: Giữa chốn Long thành được nghe nói đến nàng... (29). Nhận mình là người đồng hương: Phương chi lại là người đồng quận (30). Và mình đã đứng tuổi : Thương ta bất tài, mái tóc luống bạc... (31). Còn về giao tình giữa hai người thì: Chưa gập mà lòng đã mến trước, Há phải đến lúc họa thơ với nhau mới có tình cảm mặn nồng ? (32) Tình cảm mà đã "mặn nồng" từ trước khi gập mặt thì không phải là tình yêu mà chỉ là lòng mến mộ văn tài của Xuân Hương, huống chi Trần Hầu còn thêm: Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý, (...) Chỉ mong cái tình của chúng ta gập nhau trong mộng (33). Hai câu này cho ta có cảm tưởng là thấy Xuân Hương đã kết duyên với người khác Trần hầu không tỏ vẻ đau khổ. Mối tình Trần Hầu - Xuân Hương cũng chỉ được coi là "mộng", chẳng khác gì mối tình giữa Nguyễn Du và Xuân Hương. 3 - Trần Hầu là ai ? Trong Lưu Hương Ký, từ đầu chí cuối Xuân Hương chỉ xướng họa với một "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng Trần Hầu", nhưng trong Tục Hoàng Việt thi tuyển, Nguyễn Đình Hồ có chép hai bài thơ chữ Hán của Xuân Hương: "Đang quét sân vừa đi vừa than để trả lời" (sau Trần Thanh Mại phát giác ra tác giả bài này là một thi sĩ Trung quốc) ; "Bình thủy tương phùng nguyệt hạ tôn" là một bài thơ Xuân Hương "họa" với "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ", nhưng trong Lưu Hương Ký lại chép là của Xuân Hương "xướng" với "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng". Vì dựa vào Tục Hoàng Việt... GS Hoàng Xuân Hãn tin là có tới hai ông Hiệp trấn họ Trần, một ở Sơn-nam-thượng và một ở Sơn-nam-hạ, và tìm ra cả tên của hai người: a - Hiệp trấn Sơn-nam-thượng Hiệp trấn Sơn-nam-thượng tên là Trần Ngọc Quán. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì năm 1813, đời Gia-long, có Trần Ngọc Quán làm Cai bạ Quảng-đức (Thừa-thiên) đến năm 1815 được bổ chức "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" (Đại Nam Thực Lục Chính Biên xác nhận). Dứt khoát ta phải loại bỏ Trần Ngọc Quán vì lẽ đến tháng 2-1815 ông này mới giữ chức "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" trong khi bài "Tựa" Lưu Hương Ký đã viết xong từ tháng 2-1814, tức là từ một năm trước, và tất nhiên những bài thơ trong Lưu Hương Ký phải được viết ra từ trước bài "Tựa". b - Hiệp trấn Sơn-nam-hạ Hiệp trấn Sơn-nam-hạ là Trần Quang Tĩnh. Vẫn dựa vào Đại Nam Thực Lục Chính Biên, ông Hãn cho biết Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định, năm 1807 được thăng từ Cai bạ lên "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" (35). Lần này thời điểm phù hợp nhưng lại không ổn về địa điểm: Trần Hầu trong Lưu Hương Ký là "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" chứ không phải Sơn-nam-hạ. Trong Tục Hoàng Việt thi tuyển mới có "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" song độ tin cậy của Tục Hoàng Việt... không lấy gì làm cao, chép có hai bài thơ nói là của Xuân Hương thì một bài đã vơ nhầm của một thi sĩ Trung quốc, bài thứ nhì có nhầm từ Sơn-nam-thượng ra Sơn-nam-hạ, đổi "xướng" ra "họa", cũng không phải là chuyện chẳng thể có. Cứ cho là Tục Hoàng Việt... chép đúng thì ta phải sửa lại tất cả những bài thơ xướng họa với họ Trần trong Lưu Hương Ký chứ không có lý do gì để tách riêng bài "Bình thủy tương phùng..." cho là liên quan đến "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" còn tất cả những bài khác thì vẫn với ông "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng. Mặt khác, Trần Hầu trong Lưu Hương Ký là người đồng quận (châu Hoan) với Xuân Hương, còn Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định làm sao có thể coi là một được ? Ông Đào Thái Tôn cũng chép rằng bài "Bình thủy tương phùng..." là của "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng", theo Lưu Hương Ký, nhưng trong phần chú giải thì lại chép theo ông Hoàng Xuân Hãn về một "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" thành ra đầu đuôi không ăn nhập với nhau. Phải chăng ông Đào thấy Lưu Hương Ký "đáng tin cậy hơn" nhưng đồng thời ông cũng "muốn tin" học giả Hoàng Xuân Hãn (36) ? C - Tốn Phong Thị Ngoài Lưu Hương Ký Trần Thanh Mại còn phát hiện ra ở Thư viện Khoa Học Trung Ương một bài "Tựa" tập Lưu Hương Ký kèm với 32 bài thơ của Tốn Phong Thị trong đó có 31 bài thơ chữ Hán nói đến mối tình giữa Xuân Hương và Tốn Phong. Theo bài "Tựa" thì Tốn Phong cũng quê ở châu Hoan như nữ sĩ, hai người gập nhau năm 1807 và đến năm 1814 thì Xuân Hương đưa tập Lưu Hương Ký nhờ Tốn Phong viết Tựa. Trần Thanh Mại đoán Tốn Phong họ Phan chỉ vì trong bài "Tựa" thấy nói Tốn Phong có cô "em họ tên Phan Mĩ Anh". Đoán thế là khiên cưỡng vì có thể là em họ bên ngoại, không cùng một họ. Theo ông Lê Trí Viễn thì Xuân Hương có tới 10 bài thơ gửi Tốn Phong, tôi chỉ được đọc có năm bài với tựa đề nêu tên Tốn Phong. 1 - Tình ý của Xuân Hương đối với Tốn Phong So với hai người "tình" trước thì mối tình của Xuân Hương đối với Tốn Phong xem ra gắn bó hơn, vì Xuân Hương nhắc tới "giải ước nguyền" trong bài "Tốn Phong Thị nằm mộng, ghi lại mang cho xem, nhân đó ghi thuật bằng thơ" : (...) Chén tình đã nhẫn lâu mà nhạt, Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai. và trong bài "Họa Tốn Phong nguyên vận" thì nhắc đến "chén thề, món tóc (thề), trăm năm..." : Kiếp này chẳng gập nữa thì liều, Những chắc trăm năm há bấy nhiêu ? (...) Chén thề thuở nọ tay còn dính, Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo. Được lứa tài tình cho xứng đáng, Nghìn muôn non nước cũng tìm theo. Câu cuối nói lên sự quyết tâm, chí tình của Xuân Hương. 2 - Tình của Tốn Phong đối với Xuân Hương Tốn Phong luôn luôn tán tụng sắc đẹp và văn tài của Xuân Hương : Trên đàn thơ xuất hiện một vị thần thơ, (...) Gập người ngờ là tiên nữ gửi xuống trần (Bài số 12, theo cách đánh số của Trần Thanh Mại) song Tốn Phong chỉ nhắc đến tình giao du, xướng họa : Tựa : "Tình cờ mới gập lần đầu mà thành đôi bạn thân thiết... Tôi phải xuôi ngược vào Nam ra Bắc không thể cùng nhau xướng họa..." Bài số 11 :"Gập người ngờ là có mối duyên bút mực từ xưa" Còn duyên tình ? Chỉ thấy Tốn Phong than : Duyên lạ mây mưa phó mặc hồn mộng, Đừng nói nhớ nhau với biết nhau Đồng tâm chỉ thấy vị ấm chén rượu. (Bài số 18) Ở đây cũng như với họ Nguyễn, họ Trần, hễ nói tới "tình" thì ta lại gập chữ "mộng". Vì hiếm tài liệu chính xác về Xuân Hương nên ta phải căn cứ vào bài "Tựa" của Tốn Phong, tuy nhiên bài này cũng có chỗ không ổn: Tốn Phong cho biết trong bài "Tựa" rằng hai người quen nhau từ "Xuân Đinh Mão" (1807), đến "Xuân Giáp Tuất" (1814) thì gập lại, tính ra phải là 7 năm, thế mà Tốn Phong nhiều lần nói rõ là chỉ có "6 năm" : Bài số 28 : Từ lúc chia tay người mỗi ngả, Tình khách cũng đã sáu năm tới nay. Bài số 22 : Cánh bèo gập nhau sáu năm về trước. Tốn Phong nhớ nhầm hay... không biết làm tính ? D - Mai Sơn Phủ Trong Lưu Hương Ký ít nhất cũng có tới ba bài Xuân Hương viết về Mai Sơn Phủ nhưng không có thơ của Mai Sơn Phủ nên ta chỉ có thể căn cứ vào thơ của Xuân Hương để phỏng đoán. Chắc Mai Sơn Phủ cũng cùng quê với nữ sĩ vì trong bài "Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ" (= Kể ý mình và trình bạn là Mai xuân Phủ) có câu: Giấc mộng tình quê thấy tịch liêu Trong bài "Họa Sơn Phủ chi tác", ta thấy tình của Xuân Hương rất thiết tha: Nước mắt trên hoa là lối cũ, Mùi hương trong nệm cả đêm thâu. Vắng nhau mới biết tình nhau lắm, Này đoạn chung tình biết mấy nhau. Song Sơn Phủ dường như lại hững hờ nên Xuân Hương nhắc nhở: Nhớ nhung đừng lỡ hẹn sai kỳ (...) Hai ta đều muộn nói mà chi ? và "khuyến khích": Hãy nên trao gửi mối duyên đi, Lòng son ai nỡ phụ giai kỳ ? Xem ra, với Mai Sơn Phủ, cũng vẫn chỉ là "giấc mộng tình quê" mà thôi. Vì không được đọc những bài thơ liên quan đến Thanh Liên, Chí Hiên, Thạch Đình v.v... nên tôi chỉ có thể bàn về tình duyên của tác giả Lưu Hương Ký qua Nguyễn Hầu, Trần Hầu, Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ. Tuy với ai Xuân Hương cũng tỏ ra khắng khít nhưng đối phương, nếu có thơ xướng họa, chỉ thấy mập mờ nói đến "mộng". Hơn nữa, khó có thể tin rằng một người phụ nữ "nghiêm chỉnh", "biết dừng lại trên lễ nghĩa" (như Tốn Phong viết trong bài "Tựa") lại có thể cùng một thời gian "thành thật gắn bó" với ít ra là hai, ba người: Ông Hoàng Xuân Hãn cho là khoảng 1813/4, Xuân Hương nối lại tình xưa sau bẩy năm xa cách với Tốn Phong khi ông này quay lại Thăng-long. Cũng trong thời gian ấy, Xuân Hương viết bài "Cảm cựu..." bầy tỏ "muôn nghìn nỗi nhớ nhung" với Nguyễn Hầu và trách người tình để mình "năm canh chiếc bóng chong". Đấy là chưa kể ông Hoàng Xuân Hãn còn cho là lúc ấy Trần Phúc Hiển vừa được thăng chức Tham hiệp Yên-quảng, trên đường đi nhậm chức, dong thuyền qua Thăng-long có ghé thăm và hứa hẹn sẽ cưới Xuân Hương (37). Điều khó hiểu là Xuân Hương không những gắn bó với mấy người cùng một lúc mà còn không ngại ngùng đem những bài thơ bộc lộ tình yêu khăng khít của mình với những người khác cho Tốn Phong đọc và nhờ viết cả bài "Tựa" mà không sợ Tốn Phong ghen. Thói thường, người ta dẫu có "ăn vụng" thì cũng tìm cách "giấu giếm". Cho nên tôi nghĩ rất có thể Xuân Hương chỉ coi những "mối tình" này là cái cớ để làm "văn chơi", hơi cường điệu một chút, chứ sự thật không có tình ý gì cả. Bởi không có tình ý nên mới không ngại ngùng đưa cho Tốn Phong đọc, biết rằng Tốn Phong sẽ hiểu. Quả nhiên ta thấy Tốn Phong viết trong bài "Tựa" : "Thoạt đầu tôi hết sức kinh ngạc, lạ lùng (vì bất ngờ khám phá ra Xuân Hương còn thắm thiết với nhiều người khác ngoài mình ra) rồi dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái (vì đã hiểu đây chỉ là "văn chơi", không phải sự thực) trở nên vui thú, khoái trá (bây giờ Tốn Phong mới thực sự thưởng thức văn tài của Xuân Hương)". Nếu không thế thì vì sao thoạt mới đọc Lưu Hương Ký Tốn Phong lại "hết sức kinh ngạc, lạ lùng" ? Không thể nói "kinh ngạc" vì thấy thơ Xuân Hương quá hay, Tốn Phong đã xướng họa nhiều lần với Xuân Hương còn lạ gì tài của vị "thần thơ" này ? Rồi tại sao lại "dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái", cái gì đã khiến lòng Tốn Phong "không thư thái" trước đó ? Mới đọc thoáng, tưởng như tình duyên của tác giả Lưu Hương Ký cũng trắc trở như tình duyên của tác giả Thơ truyền tụng, nhưng xét kỹ thì có lẽ không phải, "duyên" trong Lưu Hương Ký chỉ là thứ "duyên bút mực" còn "tình duyên" thực thì lại không thấy Xuân Hương viết rõ, chỉ có thể đoán qua Tốn Phong, bài số 18 : Nhà Nguyệt bây giờ vui bạn phượng chứng tỏ khi Tốn Phong quay lại thì dường như Xuân Hương đã kết duyên với người khác, mà lại là người xứng ý nên mới "vui bạn phượng". Chuyện Xuân Hương xuất giá có thể là chuyện thực vì Trần Hầu cũng viết: Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý (38). Tuy nhiên, tất cả vẫn chỉ là phỏng đoán, vấn đề Hồ Xuân Hương và Lưu Hương Ký còn dành cho ta nhiều nghi vấn... Trong Thơ truyền tụng ta không thấy có bóng dáng Tốn Phong, Trần Hầu, Nguyễn Hầu, Mai Sơn Phủ v.v., và trong Lưu Hương Ký cũng không thấy bóng dáng của Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-tường hay Chiêu Hổ. Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy ? Nếu cho là Xuân Hương về già tự ý loại bỏ những bài Thơ truyền tụng cho là nghịch ngợm làm lúc trẻ để đối đáp với những lời trêu ghẹo của con trai cho nên trong Lưu Hương Ký không có bóng dáng Tổng Cóc, Chiêu Hổ v.v. nhưng chẳng nhẽ dân gian cũng tự ý loại bỏ trong Thơ truyền tụng những bài có dính dáng đến Nguyễn Du, Trần Hầu, Tốn Phong... ? Loại ra vì lẽ gì ? Huống chi văn phong của Thơ truyền tụng và Lưu Hương Ký khác nhau rất xa, ai cũng nhận thấy. Ta chỉ có thể đi đến kết luận là về mặt tình duyên, cũng như về văn phong, trong hiện tình chúng ta chưa có cứ liệu chắc chắn để xác quyết tác giả Lưu Hương Ký cũng chính là tác giả những bài Thơ truyền tụng ai cũng biết. CHÚ THÍCH 1 - Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là em vua Thiệu-Trị, nổi tiếng văn tài cùng với Tuy Lý Vương Miên Trinh. "Long Biên" ám chỉ Thăng-long. "Trúc chi từ" là một loại thơ gồm nhiều đoạn ngắn ví như những khúc cây trúc. 2 - Phần thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương trích theo Trần Thanh Mại, Nghiên cứu Văn học, số 3/1963. Tôi chiết trung nhiều bản dịch cốt giữ nguyên ý của tác giả. 3 - Thơ và Đời, tr. 2, 218-39. 4 - Ngô Lãng Vân, tr. 34-5. 5 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 178. 6 - Quốc sử di biên, tr. 281. 7 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 180. 8 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 196-7, 268-70. 9 - Đào Thái Tôn, tr. 98. 10 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 268. Lê Dư viết rằng Xuân Hương chết sau người chồng cuối cùng vài năm. 11 - Bùi Hạnh Cẩn, tr. 10. 12 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 278_9. 13 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 288. 14 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 291. 15 - Ngược Đường Trường Thi, tr. 104. 16 - Vũ Trung Tùy Bút, tr. 118. 17 - Đại Nam Thực Lục, X, tr. 161. 18 - Vũ Trung Tùy Bút, tr. 5 - Liệt Truyện, I I I, tr. 474-5- Bài của Tảo Trang - Tự vị Lê văn Đức và Lê Ngọc Trụ. 19 - Đào Thái Tôn, tr. 117. 20 - Đào Thái Tôn, tr. 50. 21 - Ai cũng biết Nguyễn Du đỗ Tam trường, nhưng không ai biết đích xác Nguyễn Du đỗ thi Hương hay thi Hội, thi ở Thăng-long hay Sơn-nam, đỗ năm 17,18 hay19 tuổi. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên-điền tuy chép là Nguyễn Du đỗ Tam trường thi Hương nhưng cần phải kiểm tra lại (cũng như chép Nguyễn Du đón đường vua Gia-Long để xin ra làm quan mà Đại Nam Thực Lục lại chép Nguyễn Du bất đắc dĩ phải ra tham chính với nhà Nguyễn nên thường giữ im lặng, không bàn tâu gì, nên bị vua quở). Theo tôi, thi Hương bắt buộc phải thi ở quê hương mình, mà quê Nguyễn Du là Nghệ-Tĩnh, còn Thăng-long chỉ là nơi Nguyễn Du sinh trưởng nên nếu là thi Hương thì Nguyễn Du bắt buộc phải về quê thi, như người cháu năm đời là Nguyễn Mai đã đỗ Cử nhân khoa 1900 ở Nghệ, chứ không có lý do gì để thi ở Sơn-nam (như gia phả chép) là quê vợ, trừ phi Nguyễn Du khai gian. Nguyễn Du cũng không được phép xin phụ thí ở Thăng-long, vì trường hợp này chỉ dành cho những người có cha đang trị nhậm ở Thăng-long, xa quê hương, phần Nguyễn Du, mồ côi cha từ năm 10 tuổi ai cũng biết, tất nhiên không được hưởng ngoại lệ này. Căn cứ vào những tiểu sử Nguyễn Du mà tôi được đọc thì sau khi mồ côi cha, Nguyễn Du về ở với anh là Nguyễn Khản, học anh vài năm rồi về quê học Tiến-sĩ Nguyễn Hành (không phải Nguyễn Hành cháu Nguyễn Du) ít lâu sau trở lại Thăng-long và thi đỗ Tam trường. Nhiều người (như ông Hoàng Xuân Hãn) khẳng định là Nguyễn Du đỗ Sinh-đồ (có người còn biên là "đỗ Tú-tài" mà quên rằng thời nhà Lê chưa ai dùng danh từ "Tú-tài", phải đợi vua Minh-Mệnh nhà Nguyễn mới cải danh từ "Sinh đồ" ra "Tú tài") có nghĩa là đỗ Tam trường thi Hương, chắc cho là Nguyễn Du chân trắng tất phải bắt đầu bằng thi Hương. Thực ra Nguyễn Du vì có cha làm quan to nên được hưởng lệ tập ấm, miễn thi Hương, chỉ cần đỗ một kỳ khảo hạch là được thi Hội. Điều này được ông Lê Xuân Giáo, từng đàm luận về Nguyễn Du với Cụ Nghè Mai, xác nhận và còn thêm Nguyễn Du đỗ Tam trường "có phân số" (tức là tuy không đỗ thi Hội nhưng bài làm không quá dở). Theo Lịch Triều Hiến Chương - Khoa Mục Chí, thì Thăng-long chỉ tổ chức thi Hội vào những năm : 1781 khi Nguyễn Du được 17 tuổi ta ; 1785 khi Nguyễn Du 21 tuổi và đã dời kinh thành lên Thái-nguyên. Còn năm 1783, Nguyễn Du được 18 tuổi tây, 19 tuổi ta, thì không có khoa thi Hội nào cả. Cho nên tôi kết luận rằng Nguyễn Du chỉ có thể trở lại Thăng-long để thi Hội vào năm 1781, 17 tuổi ta. 22 - Hồ Tuấn Niệm, "Bàn lại đôi điểm...", Văn Học, số 1. 23 - Hoàng Xuân Hãn, tr. 268, 249. 24 - Theo Hoàng Xuân Hãn, tr. 245, thì Trần Thanh Mại dịch là "sương đeo mái", Hồ Tuấn Niệm sửa là "sương treo mái" cho gần với cách phát âm hơn, nhưng lại không có nghĩa, Hoàng Xuân Hãn sửa lại là "sương siu mấy" (sương siu = bịn rịn) rồi Nguyễn Quảng Tuân, trong Kỷ Yếu Hội Nghiên CứuVăn Học, 1998, tr. 185-92, không đồng ý, cho là "sương gieo mãi" mới đúng. 25 - Nguyễn Du Toàn Tập, tr. 192-5. 26 - Đào Thái Tôn, tr. 143. "Châu ta" = châu Hoan (Nghệ-an + Hà-tĩnh). 27 - " " " , tr. 138. 28 - " " " , tr. 144. 29 - " " " , tr. 143. 30 - " " " , tr. 197. 31 - " " " , tr. 194. 32 - " " " , tr. 199. 33 - " " " , tr. 194. 34 - H.X. Hãn, tr. 274 - Thực Lục, IV, tr.190, 350. 35 - " " , tr. 261 - " " , III, tr. 317. 36 - Đ.T. Tôn, tr. 137-9. 37 - H.X. Hãn, tr. 240. 38 - Đ.T. Tôn, tr. 194. SÁCH THAM KHẢO BÙI HẠNH CẨN, Hồ Xuân Hương - Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại. Hà-nội : Văn Hóa Thông Tin, 1995. CAO XUÂN DỤC, Quốc Triều Hương Khoa Lục. Nhà xuất bản TP HCM, 1993. Bản dịch của Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn thị Lâm. DƯƠNG THƯỢNG NGÃ, "Hồ Xuân Hương", Làng Văn, bốn số, 1997. ĐÀO THÁI TÔN, Thơ Hồ Xuân Hương - Từ cội nguồn vào thế tục. Hà-nội : Giáo dục, 1993 ; tái bản năm 1995. HOA BẰNG, Hồ Xuân Hương, nhà thơ cách mạng. Saigon : Bốn Phương, 1950. " " (Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm), Quốc văn thời Tây Sơn. Saigon : Vĩnh Bảo, 1950. HOÀNG XUÂN, LỮ HUY NGUYÊN, Hồ Xuân Hương - Thơ và Đời. Hà-nội : Văn Học, 1995. HOÀNG XUÂN HÃN, Hồ Xuân Hương - Thiên Tinh Sử, Hà-nội : Văn Học, 1995. Bản này so với bản chính in trong Tập san Khoa Học Xã Hội, Paris (số 12, 1/1986) có nhiều chi tiết sai nhưng riêng đối với bài "Rút nhầm tơ duyên..." thì những sai lầm đó không có ảnh hưởng gì. HỒ TUẤN NIỆM, "Bàn góp về nguồn gốc giai cấp của Hồ Xuân Hương", Nghiên cứu Văn Sử Địa, số 25, 2/1975. " " " "Bàn lại đôi điểm về Tiểu sử Hồ Xuân Hương",Văn Học, số 1, 1/2-1972. " " " "Chung quanh vấn đề Tiểu sử của Hồ Xuân Hương", Nghiên Cứu Lịch Sử, số 152, 9&10 / 1973. LÊ TRÍ VIỄN chủ biên, LÊ XUÂN LÍT, NGUYỄN ĐỨC QUYỀN, Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương. Sở Giáo-dục Nghĩa-bình, 1987. LÊ XUÂN GIÁO, "Thân thế, Sự nghiệp và Tâm tình của Nguyễn Du tiên sinh",Tập san Văn Hiến - Tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du. Hoa-kỳ, Los Angeles, 1978 ? MAI QUỐC LIÊN, NGUYỄN QUẢNG TUÂN, NGÔ LINH NGỌC, LÊ THU YẾN, Nguyễn Du Toàn Tập - Thơ chữ Hán. Hà-nội : Văn Học, 1996. NGÔ LÃNG VÂN, Hồ Xuân Hương Toàn Tập. Saigon : Sống Mới, 1971 ; tái bản ở Mỹ, không đề năm. NGÔ THỜI CHÍ, Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bản dịch của Ngô Tất Tố. Saigon : Phong trào Văn hóa tái bản năm 1969 ; tái bản ở Mỹ. NGUYỄN LỘC, Thơ Hồ Xuân Hương. Hà-nội : Văn Học, 1982. NGUYỄN HỮU NHÀN, "Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc (Phóng sự điền dã)", Hồ Xuân Hương - Thơ và Đời, tr. 218-39. NGUYỄN TRIỆU LUẬT, Ngược Đường Trường Thi. Hà-nội : Tân Dân, 1939 ; Saigon : Bốn Phương tái bản năm 1957 ; tái bản ở Mỹ. PHẠM ĐÌNH HỔ, Vũ Trung Tùy Bút. Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Paris : Đông Nam Á tái bản. PHAN HUY CHÚ, Lịch Triều Hiến Chương - Khoa Mục Chí. Hà-nội : Sử Học, 1961. Tổ Biên dịch, Viện Sử học Việt-Nam. PHAN THÚC TRỰC, Quốc Sử Di Biên, tập Thượng. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, 1973. Bản dịch của Lê Xuân Giáo. PHƯƠNG TRI, "Tài liệu về Hồ Xuân Hương trên đất Nam hà", Tạp chí Văn Học, số 3, 1974. TẢO TRANG, "Chiêu Hổ và Phạm Đình Hổ", TS Nghiên Cứu Văn Học, số 3, 1962. Đào Thái Tôn in lại trong Thơ Hồ Xuân Hương..., tr. 255-64. TRẦN BÍCH SAN, "Xuân đường đàm thoại", 1869. Trần Tường phát hiện và công bố trên Tạp chí Văn Học, số 3, 1974, dưới nhan đề "Một số tư liệu mới tìm thấy về Hồ Xuân Hương". TRẦN THANH MẠI, "Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán ?", Nghiên Cứu Văn Học, số 3/1963. " " " "Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương", Nghiên Cứu Văn Học, số 4/1964. " " " "Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương", Nghiên Cứu Văn Học, số 10/1964. " " " "Bản Lưu Hương Ký và lai lịch phát hiện nó", Nghiên Cứu Văn Học, số 11/1964. Châtenay-Malabry, tháng 9, 1998 Thế Kỷ 21, số 115, 11/1998 Sửa lại tháng 9, 2005 © Nguyễn Thị Chân Quỳnh
-
Đôi khi cái sai lâu ngày trở nên đúng hoặc thành một định kiến. Ông Lê Văn Cường muốn thay đổi thì phải chịu nhiều cản trở và phải có một công trình hoàn toàn thuyết phục.
-
Hiện nay, có một thông tin rộng rải trong dư luận và quốc tế về việc trái cây và rau cải Trung Quốc được tẩm hóa chất để giữ tươi và giòn dài lâu. Những trái cây "tươi" và rau "tươi" này luôn có màu sắc tươi dài lâu dù không được giữ lạnh và giữ trong điều kiện nhiệt độ bình thường. Có những quả táo, lê để ngoài hơn nửa tháng mà vẫn không hư thối. Chính những chất giữ tươi này là nguyên nhân và cũng chính những chất này là nguyên nhân của bệnh ung thư và phá hủy nội tạng. Hiện Trung Quốc đã cấm và khuyến cáo mọi người dân tại nước sở tại không nên ăn trái cây không rỏ nguồn gốc và chưa qua kiểm dịch. Chính những du khách Trung Quốc và Đài Loan khi du lịch sang Việt Nam cũng không dám ăn trái cây có xuất sứ từ Trung Quốc. Vì họ biết chắc rằng có những hóa chất trong trái cây, rau cải làm hủy hoại cơ quan nội tạng theo thời gian. Vì sức khỏe cộng đồng và giống nòi, hãy thông tin này rộng khắp cho bạn bè, người thân , cho toàn xã hội về một nguy cơ trước mắt. ndmph
-
Hiện nay, thị trường mùa Tết đã đi vào thời gian sôi động. Mặt hàng nóng nhất trong những ngày giáp Tết trong không khí lạnh kéo dài là áo quần và áo ấm (áo gió). Và những mặt hàng truyền thống như bánh kẹo mứt, trái cây, rượu, bánh Chưng, bánh Dày cũng đã nhộn nhịp, bởi khách hàng đi mua sắm Tết cho gia đình và người thân với những món hàng để làm quà biếu, mua tặng. Nhưng theo thông tin điều tra thị trường gần đây, mặt hàng bánh kẹo mứt trong năm nay rất đa dạng, màu sắc bắt mắt, đa phần bày bán trên thị trường đều không thể kiểm soát được nguồn gốc và bị nhiểm hóa chất đáng báo động. Theo điều tra, nhiều sản phẩm bánh kẹo mứt được sản xuất bằng phương tiện thô sơ và trong điều kiện vô cùng mất vệ sinh, có nơi các cơ sở tư nhân, nhà dân sản xuất ngay bên toa-lét, thùng xô riêu mốc, rỉ sét, người trực tiếp tham gia sản xuất không trang bị vệ sinh, nhiều nhân công mắc bệnh lở loét tay chân cũng tham gia sản xuất. Đáng quan ngại hơn nữa là các mẵt hàng bánh kẹo mứt luôn có màu sắc bắt mắt. Để có được màu sắc như vậy, các cơ sở sản xuất đã dùng phẩm màu, những hàu hết các phẩm màu điều không rỏ nguồn gốc và liều lượng cũng như nồng độ vượt mức an toàn. Đây là nguy cơ cho các bệnh rối loạn tiêu hóa và nguy hiểm hơn nữa là nguy cơ của bênh ung thư. Đáng sợ hơn nữa, để giữ cho bánh kẹo mứt không bị hư, nấm mốc, các cơ sở sản xuất không ngần ngại dùng hóa chất chống nấm mốc cho vào sản phẩm. Đây cũng là nguy cơ cho các căn bệnh ung thư. Bánh kẹo mứt luôn là những món hàng được trẻ em yêu thính và tiêu dùng rất lớn, vì vậy nếu không có sự cảnh báo trước, nguy cơ các em nhỏ sẽ bị ngộ độc thực phẩm rất cao và ảnh hưởng đến sức khỏe của các trẻ. Nguy sơ sức khỏe giống nòi là ở đây. Ngoài ra bánh kẹo mứt Trong Quốc cũng đã tuông vào thị trường Việt Nam một cách không thể kiểm soát được, cũng bị nhiểm nhiều phẩm màu và hóa chất nguy hại. ndmph
-
Theo Phương pháp cổ Thì năm 2009 làm Không tốt. Nên cảm thận trong việc này.
-
Tin ở đức tin Nguyễn Việt Hà Nguồn: Tạp chí Sống mới 02:29' PM - Thứ ba, 23/12/2008 Hồi xa xưa, Hà Nội lãng mạn vẫn còn tàu điện. Trên tàu điện thỉnh thoảng lại có một ông hom hem trung niên áo vét bạc màu, đeo kính râm gần giống như những người khiếm thị. Ông này quàng một cái khay gỗ, linh tinh bày nhiều loại gói. Có loại nguy hiểm như thuốc tẩy, như thuốc chuột. Gió mùa đông bắc nhè nhẹ rít qua cửa sổ toa tầu và giọng ông rè rè cao: “Gió đông nam thổi ngược, gió đông bắc thổi xuôi. Anh nghi nghi hoặc hoặc. Chị nghi nghi hoặc hoặc. Uống một liều là giải hết nỗi nghi ngờ”. Ngôn từ sâu xa bí hiểm gần giống như câu thơ “Ai cũng hiểu nhưng một người không hiểu” mà một hãng được lớn bây giờ đang tìm cách sở hữu. Mọi người hoang mang nhao nhao đoán và ông trung niên điềm đạm giải thích, đấy là thuốc chữa hôi nách. Theo nhiều nhà nổi tiếng là đạo đức thật thì xã hội đương đại của ngày hôm nay có nhiều nghi hoặc quá. Quanh một người bình thường luôn “thập diện mai phục” không biết bao nhiêu là đớn đau và bất trắc. Vâng, đã bao giờ bạn bị bằng hữu thân thiết bán rẻ chưa. Đã bao giờ bạn bị người tình quay quắt dối trá bội bạc chưa. Thậm chí tệ nữa, bạn đang hạnh phúc ê hề nhung lụa, bỗng một sáng giá vàng cổ phiếu xuống, bạn rơi xuống tận đáy ngầu đục thị trường. Chao ôi, hầu như những thảm cảnh này đều khắc nghiệt hơn hẳn cái bệnh ngoài da oái oăm kia. Và khi phải đối diện với những thứ kinh hoàng đó để mà trong trắng sống, nhỏ nhoi, con người ta là duy nhất chỉ còn một chỗ vịn, đấy là lòng tin. Lòng tin hay còn được gọi trang trọng là đức tin, hay còn được bay bổng gọi là niềm tin, đại loại đa số các trọc phú đã trót có tiền thì đó là một thứ vừa thiêng liêng lại vừa vớ vẩn. Bởi đơn giản, trong lịch sử dằng dặc của nhân loại vẻn vẹn có dăm ba người là cặm cụi lao khổ vất vả rùi đi tìm nó rồi vinh danh nó. Đấy là Hoàng Tử Tất đạt Đa Xứ Nepal, sau này được gọi là Đức Phật. Đấy là anh thanh niên Giê – Xu xứ Nazareth, sau này được gọi là Đức Ki tô. Đấy là ông thầy đồ Khổng Khâu nước Lỗ, sau này được gọi là Đức Vạn thế sư biểu. Đấy là, đấy là… Thế nhưng vẫn là quá ít nếu phải so với nhan nhản những người tinh khôn lành mạnh. Không phải ngẫu nhiên một nhân loại mênh mông văn minh đến thế, ranh mãnh đến thế lại chỉ có bơ vơ dăm ba người như vậy. Này lòng tin, mày đang ở đâu… Một thương nhân sắp sửa thành đại thương gia đã xuất sắc dạy con trả lời cho câu hỏi siêu hình này. Ông ta đem thằng con bảy tuổi đang chập chững bước vào tiểu học, để lên một mặt bàn chót vót cao rồi âu yếm nói : “Con nhảy xuống đây với bố nào”. Thằng con ngây thơ, tin tưởng lẫm chẫm lao xuống. Ông bố bình thản quay lưng châm thuốc, và đương nhiên thằng con rơi cái bịch, răng lợi văng vãi tung tóe. Lúc đấy ông bố mới ân cần nâng con dậy nghẹn ngào dặn “Con hãy nhớ, khi vào đời thì ngay cả bố mình cũng không thể tin được”. Thật là một bài học kinh dị sâu sắc. Tất nhiên, thằng con lớn lên trưởng thành trong thương trường và sẽ chỉ biết tin vào nó. Rồi nó thản nhiên cho melamine vào sữa bột, trộn phoocmôn vào bánh phở, dán bằng giả lên trán các tiến sĩ. Và nó cũng chun chút tin Thượng đế, vì lúc đó đã mỏi tay đếm tiền, nó giải trí bằng cách đọc slo-gan in trên tờ đô la xanh “We trust in God”. Đức tin hình như càng ngày càng hiếm trong xã hội bây giờ. Những anh hùng thời đại nồng nặc mùi giấy bạc của ngày hôm nay chỉ còn đẫm đầy sự tự tin. Bọn họ tự tin đến mức tồng ngồng hoành tráng hát “Ra đi ra đi không quần không áo… Thằng Tây nó tiến thì mình giật lùi, thằng Tây nó lúi thì mình giật tiền”. Sự tự tin quá mức dẫn đến sự đểu cáng, đến sự ngông cuồng tự mãn sẵn sàng bất chấp dẫm đạp lên người khác. Đức tin tuyệt đối không phải là sự tự tin. Tình yêu mà không có đức tin sẽ tha hóa thành ích kỉ nghi kị phàm tục. Tình thương mà không có đức tin thì sẽ trở nên trịch thượng thương hại, một thứ giả dối nhố nhăng thương vay khóc mướn. Đức tin đơn giản là sự chân thành vị tha, sự tuẫn tiết vì đạo lớn, sự bình dị tự nhiên trung thực. Những người tử tế thường nương vào nó để cứu mình rồi giúp đời. Tuy nhiên, là những người có đức tin nồng nàn, thỉnh thoảng các nhà thơ hay bị quá lo khi trót làm những câu thơ sái: “Một lời là một vận vào khó nghe” ( Kiều). Gần đây có một nhà thơ nữ vừa mất đã làm một câu thơ tiên nghiệm “Vờ như mùa đông đã về”. Và chị đã đi vào cõi vĩnh hằng mà không kịp biết mùa đông. Một nam nhà thơ khác thấy vậy thì hồi hộp lắm, bởi anh trót viết một đoản thi với chủ đề: “Chưa tới mùa xuân”. Bạn bè thương quá, khuyên anh nên thêm ở câu kết một dòng “Khi tôi chết, Việt Nam vào World Cup”, bảo đảm tuổi thọ của anh sẽ dài như hy vọng của bóng đã nước nhà. Khi đăng báo anh rưng rưng nghe theo và độc giả tin rằng anh sẽ là thi sỹ duy nhất bất tử. Nguồn: Tạp chí Sống mới
-
Người trẻ phải tự chủ Lê Ngọc Sơn - Phương Loan (Thực hiện) nguồn: Sinh viên Việt Nam Chuyên gia Nguyễn Trung, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, (cũng từng là Thư ký của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã tâm sự cùng SVVN về câu chuyện tự chủ của người trẻ và sứ mệnh của họ trước yêu cầu của đất nước... Ông từng nhấn mạnh những đòi hỏi cấp bách của đổi mới, cải cách đối với Việt Nam sau 22 năm đổi mới. Với riêng giới trẻ, đòi hỏi này đặt ra như thế nào, thưa ông? - Nếu được phép nói thẳng thắn suy nghĩ của tôi về chính thế hệ mình, xin thưa: Trong sự chuẩn bị cho thế hệ trẻ hôm nay trước thách thức mới của đất nước, thế hệ đi trước - trong đó có tôi - đã phạm nhiều lỗi lầm, làm cho thế hệ trẻ ngày nay của đất nước ta bị chậm trễ. Cá nhân tôi thực sự ăn năn về điều này. Tôi cho rằng thế hệ chúng tôi đã phạm không ít lỗi; do nhiệt tình cách mạng, do sự bất cập.., và nhiều người trong thế hệ chúng tôi đang ngày càng phạm nhiều lỗi do tha hóa nữa. Mọi yếu kém của chúng tôi để lại nhiều hệ quả cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Mong giới trẻ hôm nay hãy dám và quyết nhận thức đất nước này là của các em và tự quyết định tất cả từ nhận thức này! Các em hãy nhìn vào khoảng cách tụt hậu kinh hoàng so với thế giới bên ngoài mà đất nước đang phải đối mặt ở thế kỷ Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của ta so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế tri thức! Con đường trở thành người đi làm thuê và đất nước cho thuê? Đề nghị ông nói rõ nỗi lo này của ông. - Vâng. Lao động cơ bắp, bán tài nguyên, cho thuê địa điểm sản xuất và bán môi trường vẫn là các yếu tố tăng trưởng chủ yếu trong nền kinh tế nước ta. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) ta thu hút được trong 20 năm qua rất nhiều, song một bộ phận khá lớn cũng là để sử dụng những yếu tố vừa kể trên. Nền kinh tế nhiều năm liền có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng trình độ phát triển mọi mặt còn rất thấp. Tình hình này trong một thời đoạn nhất định là cần thiết, song sau 22 năm mà ngày nay còn kiên trì xu thế tăng trưởng và phát triển như vậy là nguy hiểm. Đã đến lúc phải chuyển mạnh sang một phương hướng phát triển khác: Ngày càng nhiều sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao hơn, ngày càng nhiều sản phẩm của thương hiệu Việt Nam với giá trị gia tăng ngày càng cao, nhất là ngày càng nhiều sản phẩm của trí tuệ Việt Nam. Trên hết cả là phải sớm thoát khỏi tư duy của kẻ làm thuê, phải luôn cảnh giác với nguy cơ biến đất nước mình thành đất nước cho thuê – với nghĩa là một đất nước thiếu sự phát triển năng động tự nó từ bên trong! Nói như thế, ông không sợ mang tiếng là xúi giục thế hệ trẻ chúng tôi vong ân bội nghĩa và làm loạn? - Không! Xong hoặc chưa xong, thế hệ chúng tôi đã làm công việc của mình, đã và đang trở thành quá khứ. Không có lý do gì cho phép thế hệ này tự phong cho mình là khuôn vàng thước ngọc cho thế hệ tiếp theo. Tự phong như vậy không khác gì là xây dựng con đường cho đất nước đi lên, song chính bản thân mình lại ngồi chễm trệ án ngữ trên đoạn đường thế hệ mình vừa mới xây xong. Tự phong như thế, thì đời đời kiếp kiếp nước ta sẽ sống trung thành trong cái quán tính lịch sử của sự tụt thậu, mà đúng ra là phải khắc phục nó bằng được. Năm Mậu Ngọ (1858 – Pháp đánh Đà Nẵng và mở đầu thời kỳ thuộc địa ở nước ta!) cái quán tính lịch sử cay đắng ấy đã mở đầu một chu kỳ mới của nó mà đến hôm nay dân tộc ta vẫn chưa trả giá xong. 150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 5 cuộc chiến tranh lớn – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 30 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay vẫn là một nước nghèo. Xin giới trẻ hãy ý thức điều này : Làm gì thì cũng phải tự giải phóng mình ra khỏi cái bóng của chúng tôi trước đã! Xin hãy nhìn lại, cho đến đầu thế kỷ 19, Việt Nam đâu có thua kém gì Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan... Thế nhưng hôm nay? Xin cũng đừng nói là các thế hệ Việt Nam trước Mậu Ngọ (1858) yêu nước không bằng các thế hệ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám. Trong mối tương quan với đương thời, các thế hệ Việt Nam trước Mậu Ngọ cũng không kém sáng suốt so với các thế hệ Việt Nam hôm nay đâu. Cho nên, kẻ thù đích thực làm cho nước ta rơi vào tay thực dân Pháp hồi ấy là đất nước ta tụt hậu hẳn một giai đoạn phát triển so với thế giới bên ngoài. Kẻ thù tụt hậu ấy hôm nay vẫn chưa bị dân tộc ta giải giáp. Nhận thức trách nhiệm của mình đối với đất nước trước thời đại ngày nay, không thể không nhận diện tường tận kẻ thù này. Giới trẻ Việt Nam cần xác định cho mình vị trí nào? Trách nhiệm của giới trẻ với một đất nước ở tuổi trưởng thành là gì? - Vị trí nào ư? Vị trí làm chủ cuộc đời mình và để từ đó có bản lĩnh làm chủ đất nước. Phải chiếm lĩnh vị trí này, chứ không phải chỉ có xác định! Điều này chẳng có gì mới, được nhắc đi nhắc lại đến mòn cả chữ. Bây giờ phải hành động. Nền kinh tế đất nước đang ở tuổi hai mươi, nên được hiểu đó là đất nước đang tràn đầy đòi hỏi sức phát triển trong “cái áo chật”, mọi thế hệ già trẻ chúng ta hiện nay đứng trước nhiệm vụ phải mang lại cho nền kinh tế sức sống năng động, bền vững, trong cái “áo mới” . Ai phải làm nhiệm vụ của người nấy! Song cá nhân tôi gửi gắm trông mong rất nhiều vào các bạn trẻ. Bàn về trách nhiệm của giới trẻ: Tôi nghĩ trong tình hình “cái áo chật” như thế của đất nước, trong tình hình kinh tế đất nước khát bỏng động lực phát triển, xin cho tôi nói thẳng thắn một cách lỗ mãng: Giới trẻ nước ta cũng không nên và không được phép trẻ con quá lâu nữa – cũng có nghĩa là không được chậm lớn quá lâu! Trẻ con quá lâu hay chậm lớn, trước hết ở chỗ khó mà nói rằng khi chúng ta bước vào tuổi 18 hay tròn 18 tuổi, dù là còn học tiếp hay bước vào đời, là chúng ta đã ý thức được đầy đủ: Từ nay ta phải tự đứng trên đôi chân của ta! Từ nay mọi việc của ta, liên quan đến đời sống của ta, do ta quyết định và tự chịu trách nhiệm!.. Từ nay ta là công dân thành niên ngang hàng với mọi công dân trong cả nước về trách nhiệm và nghĩa vụ đối với đất nước! Dù là bạn còn cha mẹ phải tiếp tục nuôi ăn học, dù là bạn còn phải sống nhờ vào nguồn trợ cấp nào đó cho việc học hành của mình... Tất cả sự phụ thuộc như thế và tương tự như thế không hề miễn giảm mảy may trách nhiệm và nghĩa vụ của bạn với tư cách là người thành niên, người lớn. Bước vào tuổi 18, kể cả ngồi trên ghế nhà trường, tuổi trẻ chúng ta không còn được phép để cho ai muốn nhồi vào đầu mình cái gì cũng được. Chẳng có đáp án nào có sẵn các bạn phải tuân theo của sự nhồi nhét cả! Các bạn có quyền nhận hay từ chối, trên cơ sở phán định của chính mình. Một biểu hiện nữa của bệnh “trẻ con quá lâu” hay “chậm lớn” là còn ít dám mơ ước táo bạo, trong khi đó thường hay nặng về những cái xin tạm gọi là “mơ ước tầm thường”. Trước khi bàn sâu thêm chuyện này, hãy ngó ra bên ngoài một chút. Theo tôi Bill Gates và Barack Obama là hai ví dụ điển hình của những ước mơ táo bạo. Hai người này đã chọn được ước mơ đúng – cho chính bản thân họ và cho nước Mỹ. Họ có nghị lực, trí tuệ, cách thực hiện đúng trong môi trường tự do cho những ước mơ như thế. Và họ đã thành công cho đến giờ phút này. Ở nước ta không hiếm sự thành công của những ước mơ táo bạo – có thể chưa được nổi bật hoặc chưa ở tầm vóc như hai ví dụ trên. Các ví dụ thành công ở nước ta có thể còn là ít hay quá ít – phần rất quan trọng là do những hạn chế của trình độ phát triển và thể chế nước ta đang có. Thế nhưng chờ đợi có được trình độ phát triển và thể chế như mong muốn rồi mới dám mơ ước thì không đáng gọi là mơ ước nữa. Và chính đây là điều đáng nói: Chẳng dám mơ ước thì chẳng bao giờ làm được gì! Đúng, bất chấp mọi hạn chế chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống, chúng ta ngày nay đang có một điều kiện mới mà trước đây chúng ta chưa có nhiều hoặc rất khó tiếp cận: đó là thông tin. Thông tin ngày nay đã đưa tầm mắt của chúng ra cả thế giới và đến mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tôi ước ao tuổi trẻ chúng ta với tầm nhìn mới này sẽ chọn được ước mơ táo bạo, dám sống vì ước mơ táo bạo, ý chí lập thân, lập nghiệp bằng ước mơ táo bạo. Vậy nói thật đơn giản: Trách nhiệm của giới trẻ với đất nước đang ở tuổi trưởng thành là các bạn phải sớm trở thành người lớn. Chính kiến tự mình phấn đấu xác lập nên? Thế còn các chương trình, giáo án, đáp án, giáo lý... đã trở thành những phần cứng phải có được mang tới từ nhà trường? Ngộ cái chính kiến mà tuổi trẻ chúng tôi tự phấn đấu xác lập nên không giống cái chúng tôi được học thì sao? - Nếu có sự khác nhau thì cũng nên coi đó là chuyện bình thường và tự mỗi bạn nên tiếp tục tìm ra lý lẽ giải quyết sự khác nhau này. Tôi nghĩ, ngay cả những điều tốt đẹp nhất nhà trường có thể đem lại cho bạn, bạn cũng phải tìm cách hấp thụ được thành dinh dưỡng nuôi sự hiểu biết và ý chí của bạn, biến nó thành nghị lực của riêng bạn. Không có sự hấp thụ này, việc học sẽ giống như con vẹt học nói thôi – nó có thể phát âm rất chuẩn và làu làu cả câu, cả bài.., nhưng vẫn là cái nói của một con vẹt. Tôi hình dung được tự phấn đấu xác lập nên như vậy khó và đòi hỏi nhiều trí tuệ lắm, thậm chí có khi phải trả giá nguy hiểm nữa. Song trong quá trình hấp thụ này các bạn có quyền nghi ngờ, có quyền sai, và thậm chí có quyền thất bại nữa, miễn là bạn phải tự ý thức được tất cả và tự chịu trách nhiệm tất cả, quyết tâm đi tiếp tới bằng được cái đúng. Chỉ có như vậy, cái tốt đẹp nhà trường mang đến cho bạn mới thành là của bạn. Chỉ có như vậy, bạn mới đề kháng được mọi cái không tốt đẹp bất kỳ đến từ đâu. Vì đứng trên đời này, bạn cần như nhau cả nghị lực và sức đề kháng. Tôi nghĩ, một con người dám nghi ngờ, dám sai, dám thất bại để tìm đường đến thành công, tôi nghĩ đấy là một con người đẹp và sớm muộn sẽ thành đạt. Một xã hội biết tôn trọng sự nghi ngờ, tôn trọng cái dám sai, cái dám thất bại với tình thần như thế, xã hội ấy sẽ ngày càng hiếm chỗ cho những thói đểu cáng và sự hèn mạt. Xã hội ấy sẽ ngày càng hấp dẫn chúng ta và đáng sống. Những đòi hỏi đó có quá sức với người trẻ Việt nam hiện nay? - Tôi không thấy có sự “quá sức” như thế trong cuộc sống hàng ngày, mà chỉ thấy nhiều hơn sự lãng phí sức trẻ, lãng phí đến rơi nước mắt, xẩy ra từ hai phía: (1)Cuộc sống xã hội gây ra sự lãng phí này; và (2)tự các bạn lãng phí sức mình. Chưa nói đến biết bao nhiêu cái bất hợp lý và yếu kém khác trong đời sống xã hội, riêng nền giáo dục còn nhiều mặt thiếu sót như chúng ta đang có là một ví dụ trực tiếp nhất, dễ thấy nhất về sự lãng phí này gây ra cho giới trẻ, sự lãng phí những thứ thể không mua được, không có cách gì lấy lại được: con người, thời gian và cơ hội. Còn sự lãng phí tự mình – nghĩa là chính các bạn gây ra cho mình: Chắc chắn các bạn sẽ tự đánh giá được. Tôi chỉ muốn lưu ý các bạn về 2 nguyên nhân đáng sợ nhất: (1)lãng phí vì sự hiểu biết của mình còn thấp, (2)lãng phí vì mình thỏa hiệp với yếu kém của bản thân và của ngoài xã hội. Người trẻ cần phải chuẩn bị những gì để tiếp nhận gánh vác những đòi hỏi của thời cuộc? - Tôi không có lý thuyết nào để trả lời các bạn cả. Mỗi chúng ta dù khác nhau thế nào, đều nhận được sự nuôi dưỡng của cha mẹ, nhà trường và cuộc sống. Đó là chuẩn bị được trao tặng để chúng ta bước vào đời. Cần trân trọng và tận dụng sự chuẩn bị được trao tặng này. Song thế nào đi nữa, cũng không thể thiếu được sự chuẩn bị của chính mình – chắt lọc từ sự chuẩn bị được trao tặng, từ mơ ước, từ cả những thất bại và sự trả giá... – tất cả với ý thức ta là chủ cuộc đời ta và ý chí trở thành người chủ xứng đáng của đất nước ta. Sống biết yêu trọng danh dự và yêu đất nước quê hương mình – nguồn lực tinh thần này sẽ thúc đẩy, sẽ hướng dẫn sự chuẩn bị của mỗi chúng ta để tiếp nhận, để gánh vác trách nhiệm của mình mà thời cuộc đòi hỏi. Thậm chí tôi còn muốn nói: Yêu như thế là kim chỉ nam luôn luôn đúng. - Đối với cá nhân con người, theo ông ước mơ gì là cao đẹp nhất? Câu hỏi này xưa ngàn đời, và khó ngàn đời! Câu trả lời đã có từ ngàn đời và ngàn đời nay vẫn xa vời: Tự do! Con người tự do! Tạo hóa một tay ban cho con người bản tính tình yêu tự do, tay kia lại thiết lập ra trong cuộc sống cái gọi là “tính tất yếu”. Từ đó trong cuộc sống tự nó hình thành ra cái tự do thực sự chỉ có thể là cái đạt được trong phạm vi hiểu được – với nghĩa là làm chủ được - cái tất yếu. Vì thế, càng sống trên đời này, tôi càng thấm thía tự do chỉ có thể giành lấy, trên cơ sở làm chủ cái tất yếu; làm chủ cái tất yếu đến đâu, sẽ có được tự do đến đấy. Đừng oán trách tạo hóa keo kiệt, tôi dần dần cũng ngộ ra như thế. Thế hệ đi trước có thể làm gì để hỗ trợ họ? - Tôi thực lòng không thích trả lời câu hỏi này. Sao lại cứ phải nói đến hỗ trợ? Nhưng nếu vẫn phải trả lời, thì việc đáng làm nhất trong nhiều việc người lớn phải làm để hỗ trợ là đừng bao giờ nói dối thế thệ trẻ. Liệu người trẻ đã được trao cơ hội và đặt niềm tin đủ để họ làm những gì mà ông kỳ vọng? - Tôi nghĩ là chưa đủ. Cái tính “trưởng”, “gia trưởng”.. của người lớn cho thấy sự thiếu tin tưởng vào thế hệ trẻ. Ngoài ra còn biết bao nhiêu bệnh mãn tính khác của người lớn trong cách cư xử với thế hệ trẻ, nhất là cái bệnh coi ta là chân lý, chân lý duy nhất trên đời này. Nói gay gắt, đấy là cái tính thích thế hệ trẻ trở thành các robot do người lớn lập trình! Bản thân các nhà lãnh đạo hiện nay đã đánh giá đúng và đủ về giới trẻ và đã tận dụng sức trẻ, huy động họ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước? - Tôi nghĩ là chưa. Chỉ riêng một việc lãnh đạo không kiên quyết dấy lên trong toàn xã hội một cuộc đấu tranh quyết liệt với cách dậy học còn nặng về nhồi sọ, và chỉ muốn ĐTNCS Hồ Chí Minh chỉ là cánh tay của Đảng đã nói lên điều này. Tại sao thanh niên thời đại ngày nay không thể là những bộ não trẻ của Đảng? Tại sao thanh niên không thể là người tạo ra trong Đảng bầu nhiệt huyết mới, trẻ trung? Tại sao thế hệ chúng tôi không đặt ra cho mình nhiệm vụ tạo dựng ra một môi trường thể chế ươm mầm và làm nẩy nở những Bill Gates hay Obama của Việt Nam? Thế hệ chúng tôi làm chưa xong thì thế hệ các bạn phải làm tiếp, các thế hệ sau làm tiếp nữa... Song trách nhiệm “khởi công xây dựng” sự nghiệp này thuộc về chúng tôi, chúng tôi chẳng có lý lẽ gì để trốn tránh được. Song hình như công việc “khởi công xây dựng” như thế còn chậm chạp lắm, mặc dù công cuộc đổi mới đã được 22 năm và đã xác định được mục tiêu là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh! Đấy là điều tôi vô cùng băn khoăn. Tôi tin: Thế hệ trẻ đứng vào vị trí của mình, đất nước sẽ sớm được ngửng mặt cùng thiên hạ. Nhân dịp năm mới 2009, xin chúc các em một năm giầu nghị lực và niềm vui. Xin cảm ơn ông!
-
6 xu hướng của giới trẻ Việt năm 2008 Lan Hương Vietnamnet.vn Năm 2008 khép lại không có những “scandal” hoành tráng nhưng cộng đồng giới trẻ Việt vẫn chứng kiến sự lên ngôi của một số xu thế, cả trên giảng đường, trong không gian ảo lẫn trong cuộc sống thật. 1. Blog lên ngôi, forum tụt hạng Thông tin blog Yahoo 360 có thể bị đóng cửa hồi đầu năm 2008 khiến cộng đồng netizen (công dân mạng) Việt Nam “hoảng loạn”. Rất may sau đó Yahoo tiếp tục duy trì 360 và cho tới nay Blog Yahoo vẫn thống trị không gian ảo như một kênh trao đổi và chia sẻ thông tin hàng đầu trong giới trẻ hiện nay. Qua những năm tháng “hoàng kim”, forum (diễn đàn) online hiện đang dần vắng vẻ bởi cư dân mạng lui về hoạt động ngày càng thường xuyên trên blog cá nhân hoặc blog của các nhóm bạn bè. Khi forum trở thành “phố chợ” đông đúc, nơi không ít nick ảo lợi dụng vì các mục đích xấu của cá nhân thì blog dần chiếm lĩnh thị trường nhờ không gian riêng tư, khả năng chọn lọc “bạn chơi” kỹ càng hơn. Không chỉ là cuốn nhật ký điện tử lưu trữ các thông tin, hình ảnh cá nhân, blog còn trở thành ngôi nhà chung liên kết người Việt trẻ ở khắp nơi để bày tỏ chính kiến, thể hiện quan điểm về những vấn đề nghiêm túc của cộng đồng, quốc gia và thế giới. Dự báo sang năm 2009, tiếp cận nhiều hơn với giới trẻ quốc tế, cư dân mạng Việt Nam sẽ tiếp tục “vùng vẫy” trên Yahoo 360, đồng thời bắt đầu gia nhập những mạng xã hội ảo đang “hot” nhất hiện nay như Facebook hay MySpace. Blog Yahoo 360 tiếp tục thống lĩnh. Ảnh chụp màn hình. 2. “High-tech” đến trườngKhông chỉ sử dụng diễn đàn, blog và Yahoo Messenger làm công cụ giải trí và “chat chit” vui vẻ, giới trẻ Việt đã biết tận dụng nguồn tài nguyên vô giá trên internet và các ứng dụng công nghệ cao phục vụ cho học tập. Làm powerpoint thuyết trình, chia sẻ tài liệu online, học nhóm qua mạng, ôn bài qua chat, truy cập thư viện điện tử… không còn xa lạ với nhiều SV. Tận dụng công nghệ cao phục vụ học tập đã trở thành thói quen của nhiều SV. Ảnh: Lan Hương Khuôn viên nhiều trường ĐH cũng bắt đầu phủ sóng wifi cho phép SV truy cập internet để tìm kiếm tài liệu ngay tại trường.Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ ngoại ngữ, giới trẻ Việt vẫn chưa sử dụng được những nguồn tài liệu phong phú trên các website nước ngoài. 3. Nở rộ hoa khôi học đường Các cuộc thi nữ sinh thanh lịch, hoa khôi học đường nở rộ như nấm sau mưa. Ảnh: Cẩm Quyên “Trường trường thi hoa khôi, người người thi hoa hậu”. Chưa bao giờ các cuộc thi sắc đẹp nở rộ như năm vừa qua, từ trường phổ thông cho tới ĐH, từ cấp trường cho tới cấp khoa, thậm chí nhiều lớp cũng tự tổ chức thi hoa khôi quy mô nhỏ.Mục đích của các cuộc thi này là tôn vinh “sắc đẹp và trí tuệ” của nữ sinh và thực tế cũng đã chọn được những “mỹ nhân học đường” xứng đáng được trao vương miện. Tuy nhiên, nhiều chuyện “lùm xùm” ở hậu trường như tin đồn mua bán giải thưởng, bàn tay sắp đặt của các nhà tài trợ, tiền thưởng không tới tay thí sinh, ứng xử ngây ngô… khiến các cuộc thi mất đi ít nhiều ý nghĩa nhân văn. 4. Salsa, múa bụng hớp hồn giới trẻ Các bước nhảy mê hoặc của bellydance hút hồn giới trẻ. Ảnh: Cẩm Quyên Những bước nhảy bốc lửa của vũ điệu salsa và những cú lắc người mềm mại của bellydance đã hút hồn giới trẻ Việt trong suốt thời gian qua.Tự do và phóng khoáng, mãnh liệt và bốc lửa, salsa khiến người trẻ bùng nổ trên sàn nhảy. Mềm mại và uyển chuyển, gợi cảm và nóng bỏng, bellydance như một vũ điệu sinh ra để tôn vinh vẻ đẹp hình thể của tuổi trẻ. Khi mới du nhập vào Việt Nam, tuy ban đầu hấp dẫn các bạn trẻ bằng yếu tố “lạ”, dần dần salsa và bellydance không còn là một thứ mốt mà đã trở thành một trào lưu được yêu thích thực sự. Nhiều bạn trẻ coi học nhảy vừa là hình thức giao lưu, mở rộng mối quan hệ, vừa giúp rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai và làm đẹp cho bản thân mình. Những lớp học salsa và bellydance đầu tiên do chính người Việt mở đã bắt đầu xuất hiện với mức học phí dễ chịu nên càng thu hút được giới HS, SV cùng tham gia. 5. “Tự sướng” và “khoe hàng” Những bức ảnh khêu gợi của dân teen đang tràn lan trên mạng. Ảnh chụp màn hình Tràn lan và “khủng” nhất trên nhiều diễn đàn và blog của giới trẻ năm vừa qua là những tấm hình hoặc clip “mát mẻ” với đủ các tư thế khêu gợi của chính dân teen Việt.Rảnh rỗi thì leo lên giường hoặc vào toilet… cởi đồ giơ máy ảnh “tự sướng” rồi gửi cho bạn bè hoặc tải lên mạng cho vui. Nhiều bạn trẻ còn đổ xô đi chụp ảnh “nude” với lý do “lưu giữ lại những khoảnh khắc thanh xuân”. Không chỉ nữ sinh mà nam sinh cũng “tích cực tham gia” vào các phi vụ “khoe hàng”. Một trong những hình ảnh gây shock nhất năm 2008 là đoạn clip hai nam sinh mặt búng ra sữa say sưa… hôn nhau trong tiếng hò reo của bạn bè xung quanh. Một số trang web còn đăng tải ảnh “mát mẻ” kèm theo “lý lịch trích ngang” của nhân vật để mọi người cùng vào “bình loạn”. Muốn nổi tiếng trên không gian ảo, muốn tăng lượng người đọc hoặc có thể bị bạn bè chơi xấu, những chàng trai, cô gái tuổi teen vẫn hồn nhiên xuất hiện trong những tấm ảnh gợi cảm đang được trưng bày tràn lan trên mạng. 6. Kết hôn sớm Giới trẻ không ngần ngại bước vào hôn nhân sớm. Ảnh: ttvnol.com Năm 2008 cũng đánh dấu một bước chuyển lớn trong đời sống tình cảm của những người trẻ khi rất nhiều các cặp “vợ chồng son” kết hôn ngay sau khi tốt nghiệp ĐH, thậm chí ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.Ổn định về công việc, lại có sự hậu thuẫn cả về vật chất lẫn tinh thần từ phía phụ huynh và cũng không loại trừ lý do “tế nhị” khác, nhiều đôi bạn trẻ đã nên vợ, nên chồng trở thành cha mẹ khi mới vừa bước qua tuổi 20. Đặc biệt, trong năm vừa qua, nhiều “hot boy”, “hot girl” như “chị Kính Hồng” Thanh Vân, Vân Buri, ca sỹ Đăng Nguyên… cũng lên xe hoa . Thậm chí Miss Audition Ngọc Anh đã làm mẹ ở tuổi 20. Nguồn: Vietnamnet.vn
-
Những vị khách không mời mà đến Thứ Ba, 30/12/2008 --- cập nhật 02:34 GMT+7 Từ tháng 7 đến 10-2008, Báo NLĐ có nhiều bài viết vạch mặt các đối tượng giả sư để khất thực, kiếm tiền. Nay, phóng viên Báo NLĐ tiếp tục phát hiện nhiều sư giả cả gan vào tận nhà chùa để ăn uống, đi cầu siêu để kiếm tiền, thậm chí móc nối với các... trại hòm để ăn chia Ngày 23-12, chùa Từ Quang, quận Thủ Đức (TPHCM) làm đám giỗ một trăm ngày mất của cố hòa thượng trụ trì. Từ 7 giờ, tại cửa chùa đã có một đoàn người lạ mặt ngấp nghé, dáo dác trông vào bên trong. Tất cả đều mặc trang phục nhà sư, đầu trọc lóc, liên hồi thì thầm với nhau điều gì không rõ. Trong khi chờ đợi nhà chùa “khai tiệc”, vài “sư” lôi thuốc lá ra hút hoặc móc tiền lẻ ra đếm. Ăn no nê xong, "sư" Nguyễn Văn Hiển vơ vét thức ăn thừa mang về (ảnh chụp tại chùa Từ Quang ngày 23-12) Hơn 150 sư giả dự một đám giỗ Đến 10 giờ, số người lạ mặt đã hơn 60 người. Họ tuyệt nhiên không nói chuyện với những vị sư của chùa Từ Quang mà đứng tập trung ở một khoảng sân, mắt láo liên. Vài chục phút sau, số “khách tăng không mời mà tới” đã hơn 100 người, dáng điệu ai cũng lấm lét, không hề có vẻ đĩnh đạc của một nhà sư chân chính. Đại đức Thích Thiện Ý, trụ trì chùa Từ Quang, cho biết danh sách khách dự đám được gửi thư mời chỉ có 150 vị nhưng số người mặc trang phục nhà sư đến đã hơn 300 người. Nhìn họ, thầy Thích Lệ Châu, thành viên Ban Tăng sự Thành hội Phật giáo TPHCM, ngao ngán: “Gần như đám giỗ nào ở các chùa cũng thấy họ đến. Họ không phải là người của chùa mà cũng không phải là khách mời. Đó là những người giả dạng nhà sư để trà trộn vào ăn uống, quấy rối”. Theo thầy Thích Lệ Châu, dường như đoàn sư giả này có “lịch” rất cụ thể về các ngày lễ, giỗ trong năm của tất cả các ngôi chùa trong TP. Cứ đến ngày là họ thông báo cho nhau cùng đi. Khi nhà chùa thông báo đến giờ dùng tiệc cơm chay, đoàn sư giả đồng loạt tiến vào chánh điện. Thấy số lượng khách tăng đột biến, thầy trụ trì chùa Từ Quang tế nhị mời những “sư” không có giấy mời tập trung tại nhà ăn riêng. Thấy vậy, các “sư” tỏ vẻ không hài lòng, một số “sư” lầm bầm... Cứ mỗi bàn trong nhà ăn được xếp cho khoảng 10 “sư”. Ngày 24-12, chùa Pháp Huyền ở huyện Hóc Môn (TPHCM) cũng có đám giỗ và ngay tại ngôi chùa này, chúng tôi lại bắt gặp hơn 15 sư giả, trong đó có nhiều “sư” từng ăn đám ở chùa Từ Quang hôm trước. Thầy Thích Lệ Tâm, Chánh Thư ký Ban Đại diện Phật giáo huyện Hóc Môn, cho biết nạn giả sư đi “ăn chùa” đã lan tràn khắp nơi. Ngay tại huyện Hóc Môn, gần như xã nào cũng có sư giả trú ngụ. Gạ gẫm phật tử Đang ăn, đám sư giả ngừng đũa khi thấy nhiều khách vào chùa thắp nhang. Một sư giả tiến đến chỗ một người phụ nữ chừng 50 tuổi, cười rồi nói thầm điều gì đó với bà ta. Chứng kiến cảnh ấy, thầy Thích Lệ Châu nói nhỏ với tôi: “Ông đó đang gạ gẫm phật tử đấy. Sư giả đến chùa trong ngày giỗ không chỉ để ăn uống mà còn tiếp cận phật tử để trục lợi”. Theo thầy Châu, trong buổi giỗ, các sư giả thường lân la trò chuyện với phật tử, tự giới thiệu mình là khách mời của nhà chùa rồi xin số điện thoại của phật tử để liên lạc. Sau đó, họ sẽ dụ dỗ phật tử bằng nhiều hình thức như xem bói, xem tướng, lên đồng, lên cốt. Thầy Thích Lệ Châu còn kể thêm: Sau nhiều lần đi giỗ “chùa”, dụ dỗ được nhiều nữ phật tử, một sư giả ở Lái Thiêu (Bình Dương) đã mở hẳn một “văn phòng xem bói” tại nhà. Không ít sư giả còn mò đến nhà phật tử vào dịp cuối năm để giở trò “dời tượng, dời hình” (đổi hướng bàn thờ, hướng tượng Phật...) hoặc cúng kiếng liên miên hòng kiếm chác. “Tu gì mà nhậu thịt chó hoài!” Sau khi đánh chén no nê tại chùa Từ Quang, hầu hết các sư giả đứng dậy, ra ngồi lên xe máy, châm thuốc hút rồi mới về. Tôi để ý một ông “sư” tuổi ngoài 50, da ngăm đen, hơi mập đang nấn ná tại khu nhà ăn. Liếc mắt một hồi, “sư” này lùa tất cả thức ăn còn thừa trên bàn cho vào bọc. Một bàn chưa thỏa, “sư” này lại chạy sang bàn khác, lùa tiếp rồi uống thêm ngụm nước rồi thủng thẳng cưỡi xe máy ra về. Tôi bám theo sư giả ham ăn này đến một căn nhà thuộc tổ 57, khu phố 4, phường 19, quận Bình Thạnh (TPHCM). Bà Ngô Thị Thu Cúc, tổ trưởng tổ 57, khẳng định: “Ông ấy không phải thầy tu đâu. Tu gì mà tôi thấy ổng nhậu thịt chó ở đầu hẻm hoài!”. Bà Cúc cho biết tên của “sư” này là Nguyễn Văn Hiển, sinh năm 1955. Gia đình ông có 3 anh em ruột, sống chung. Từ sau năm 1975, ông Hiển cạo trọc đầu. Buổi sáng, ông cưỡi xe đi khỏi nhà đến tối mịt mới về. Ông Hiển không bao giờ đi họp tổ dân phố và thường xa lánh mọi người, bộ dạng lúc nào cũng “bí hiểm”. Sau khi chúng tôi cung cấp những hình ảnh ông Hiển ăn tiệc, nhận phong bì và quấy rối ở các chùa, bà Cúc cho biết sẽ báo cáo sự việc lên UBND phường 19 để có hướng xử lý. Không chấp nhận sư giả đến chùa gây rối Trong buổi giỗ ở chùa Từ Quang hôm đó, có lẽ do đến từ sáng sớm, đói quá nên các “sư” ăn uống tới tấp khiến đồ ăn rơi vãi đầy bàn, một vài “sư” ngốn thức ăn nhiều đến nghẹn cổ! Hòa thượng Thích Thiện Tánh, Phó Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TPHCM, cho biết cửa chùa sẵn lòng mời cơm chay người nghèo. Tuy nhiên, đối với những người giả dạng nhà sư đến chùa để quấy rối, dụ dỗ phật tử thì cần phải lên án. Theo NLĐ
-
Long An: “Thầy bùa” hè nhau... đánh chết người bệnh Nghĩ con mình là Huỳnh Thị Liễu Thu (SN 1976) bị “quỷ ám”, người mẹ nhờ 8 vị “thầy bùa” đến để “trục ma quỷ”. Sau 4 ngày chữa chị, chị Thu đã chết vì những trận đòn dã man của các vị “thầy bùa”.Trị bệnh bằng... nắm đấm Ngày 30/7, tiếp xúc với phóng viên, nhiều bà con ở ấp Bình Tây, xã Mỹ Bình, huyện Tân Trụ, cùng bày tỏ nỗi bức xúc trước cái chết tức tưởi của chị Thu. Bà Ngô Thị Khen - mẹ nạn nhân - kể lại: Thu có tiền sử bệnh tâm thần. Thỉnh thoảng, những ngày nóng bức Thu hay kêu đau đầu, đôi lúc nói nhiều. Mấy ngày qua thấy Thu không khỏe, bà Khen cho rằng con mình bị “quỷ ám” nên đã đi rước “thầy” Năm Thương ở thị xã Tân An về “trục ma quỷ” trong người con gái. Ngày 26/7, “thầy” Năm Thương dắt theo 7 “thầy bùa” khác đến nhà bà Khen “trị bệnh”, trong đó, người nhỏ nhất chừng 7 tuổi, lớn một chút có hai thiếu niên chừng 13 tuổi, còn lại đều trên 30 tuổi (có cả nam và nữ). Theo lời bà Khen thì “thầy” Năm Thương tóc hoa râm, tướng tá vạm vỡ. Mấy “thầy” nữ thì mang giầy cao gót, ăn mặc rất đẹp... Sau khi bắt mạch, “thầy” Năm Thương liền nhốt chị Thu vào căn phòng phía sau nhà, trói một chân chị vào song sắt cửa sổ rồi bắt đầu “trị bệnh”. Nhiều người ở xung quanh nhà chị Thu kể lại: Nhóm người của “thầy” Năm Thương thay nhau đấm đá chị Thu như đấm vào bao cát. Bà con xung quanh nghe tiếng kêu rên nên chạy đến xem và chứng kiến cảnh các “thầy” hành hạ tàn nhẫn người bệnh nhưng không ai dám vào can. “Một mặt thì ngại gia đình, một mặt thì sợ thầy bùa ếm”, một người dân nói. Ai cũng có... tà ma! Ngày 27/7, nhóm “thầy” Năm Thương tiếp tục đến “trị bệnh” cho chị Thu. Nhìn thấy em Huỳnh Thị Hồng Khanh (18 tuổi, em ruột chị Thu) lấp ló ngoài cửa phòng, “thầy” Năm Thương xông ra, túm đầu Khanh và đánh hàng chục cú chỏ vào mặt em. Nhìn thấy mặt mũi Khanh tím bầm, đầu cổ sưng vù, người nhà thắc mắc thì “thầy” Năm Thương quả quyết: “Con nhỏ này đi thi đại học về cũng bị quỷ nhập, cần phải trị trước để nó khỏi lây...”. Hồng Khanh sợ quá, chạy trốn về nhà bà nội ở tận huyện Bến Lức. Tận mắt chứng kiến chiêu “chữa bệnh” rùng rợn của nhóm Năm Thương, các bà hàng xóm không ai dám hé môi tố cáo. Chị Quỳnh, hàng xóm với bà Khen, kể rằng ngày 28/7, chị có lại thăm chị Thu. Thấy Thu bị kiệt sức và bị xích treo chân lên song sắt, chị đã đề nghị bà Khen mở khóa chân để chị đưa Thu ra ngoài tắm. Trong lúc tắm, chị phát hiện trên ngực chị Thu những vết bầm tím giống như bị bàn ủi nóng ấn vào. Sau đó, chị Quỳnh khuyên bà Khen không nên để “thầy bùa” trị bệnh cho chị Thu nữa nhưng bà Khen không nghe... Hôm sau (29/7), “thầy” Năm Thương lại đến tiếp tục chữa bệnh cho Thu. Bà con làng xóm lại nghe tiếng đấm đá bình bịch và tiếng chị Thu kêu rên yếu dần... Khi không còn nghe tiếng chị Thu, quá nóng ruột, chị Quỳnh chạy sang bên nhà bà Khen thì phát hiện nhóm “thầy” Năm Thương đã biến mất. Thấy chị Thu nằm bất động, chị Quỳnh kêu thêm 2 người hàng xóm nữa chạy qua kiểm tra thì phát hiện chị Thu hình như đã tắt thở. Lúc này toàn bộ vùng mặt chị Thu bị phù nề, tụ máu bầm đen... Được tin báo, công an xã Mỹ Đình đến ngay hiện trường nhưng mọi việc đã trễ, chị Thu đã chết. Một ngày sau đó, gia đình đã nhanh chóng đưa thi thể chị đi hỏa táng. Chính quyền thờ ơ? Theo tìm hiểu của chúng tôi, nhà bà Khen chỉ cách nhà ông Đinh Văn Măng - công an ấp Bình Tây - chừng 300m và cách nhà trưởng ấp Lê Ngọc Hùng vài đám ruộng. UBND xã Mỹ Bình cách nhà chị Liễu Thu cũng chỉ vài trăm mét. Thế mà một nhóm “thầy bùa” tác oai tác quái, đánh đập tàn nhẫn một người bệnh như thế mà không thấy chính quyền địa phương can thiệp! Tiếp xúc với chúng tôi, ông Châu Thanh Tiến- Bí thư Đảng ủy xã Mỹ Bình - cho biết: Sau khi Thu bị đánh chết, cấp dưới mới báo lên cho ông biết. Theo bác sĩ pháp y Dương Thành Thận - Cơ quan Pháp y Công an tỉnh Long An - khám nghiệm tử thi chị Thu: Nạn nhân bị gãy 4 xương sườn, sụp xương ức, dập gan trái, dập tụy, tụ máu trán và hai mặt, ổ bụng cũng bị tụ máu... Hiện nay, cơ quan pháp y đang tiến hành các xét nghiệm khác để có kết luận chính thức về cái chết của chị Thu. Được biết, chiều tối 30/7, Cơ quan CSĐT Công an Tỉnh Long An đã ra quyết định khởi tố vụ án và thực hiện lệnh bắt “thầy” Năm Thương để điều tra làm rõ vụ việc trên. Theo tìm hiểu của chúng tôi, “thầy” Năm Thương cùng đám “đệ tử” đang cư ngụ ở phường 2 và phường 6 thị xã Tân An (Long An). Theo Hữu Anh - Anh Thư Nông thôn ngày nay
-
Tôi cũng đã một lần bị sư giả lừa một món tiền nhỏ (10.000 đ) tại chùa Vĩnh Nghiêm. Đúng là bọn này đi không dưới 2 người. Ăn mặc như thầy chùa chính hiệu. Chỉ cần thấy phật tử nào "A di đà Phật" chào thầy xã giao hay chí ít cũng là chào "phong lông" thôi, thì "sư" liền nhào tới hỏi hang, rồi xin tiền đổ xăng, hoặc gạ gẩm đủ thứ, nào là bán kinh sách, nào là làm từ thiện chùa...đủ thứ hầm bà lằng. Cần phải cảnh giác cao để không bị lừa. ndmph
-
Đột phá hay chạy tội (Thứ ba , 16/12/2008, 10:50) Sau cuộc Hội thảo “Chúa Nguyễn và triều Nguyễn” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức quy mô ở Thanh Hóa, dư luận xã hội quan tâm, vì có nhiều cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài) quảng bá rộng rãi cốt gây sự chú ý trong dân chúng. Vấn đề đã quá cũ, nay “hâm nóng” lại thì phải có “thủ pháp” làm sao cho nổi bật. Có tờ báo đưa tít giật gân: “Đột phá(?) trong nhận thức về Chúa Nguyễn, triều Nguyễn”. “Đột phá” kiểu gì trong khi vấn đề đã rõ gần hai trăm năm nay? (KT. st) Ông Tương Lai đánh lừa dư luận trên Tuần Việt Nam Net 10-7-2008 như sau: “Một khi cái giả biến thành cái thật được đem rao giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào axít gặåm nhấm tâm hồn họ, sự thật lịch sử bị vùi lấp, xuyên tạc bởi bất kỳ lý do nào cũng làm giảm sút, nao núng lòng tin, lòng tự hào về lịch sử dân tộc của lớp trẻ - chất xi măng kết dính những tâm hồn Việt Nam. Nhìn lại lịch sử triều Nguyễn chính là cách Việt Nam nâng cao bản lĩnh dân tộc (?) lựa chọn văn hóa, giải quyết bi kịch lịch sử”. Cái “bi kịch lịch sử” mà ông Tương Lai muốn nói là cái bi kịch nào? Phải chăng chính là cái “bi kịch” của ông GS NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - đã nêu rõ trong báo cáo đề dẫn cuộc hội thảo: “Sau Cách mạng Tháng 8 - 1945 cho đến năm 1975 trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lượng các công trình nghiên cứu chuyên đề không nhiều. Nhưng chính trong bối cảnh này đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt các Chúa Nguyễn cũng như các Chúa Trịnh và đặc biệt là vương triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn Sử Địa, Đại học Sư phạm, Nghiên cứu lịch sử và biểu thị tập trung trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng Việt Nam... Thái độ phê phán gay gắt trên có nguyên do sâu xa trong bối cảnh chính trị của đất nước thời bấy giờ và trong cách vận dụng những phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu. Quan điểm trên nảy sinh, xác lập trong những năm từ 1954 - 1956 và phát triển mạnh cho đến những năm 1970 của thế kỷ XX. Đó là thời kỳ cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ hành động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất đều bị phê phán. Cuộc tranh luận về cuộc thống nhất đất nước thời Tây Sơn và nhà Nguyễn cũng tiến hành trong không khí chính trị đó và đã xuất hiện quan điểm cực đoan cho rằng Tây Sơn đã hoàn thành, thậm chí hoàn thành triệt để khôi phục quốc gia thống nhất. Bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh đã tác động đến thái độ của nhiều nhà sử học trong nhìn nhận và đánh giá về các Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn”. Đặc biệt, đoạn văn sau này của ông Phan Huy Lê đã bộc lộ quan điểm của ông là: “Nguyên nhân về vận dụng phương pháp luận là thuộc về trách nhiệm của các nhà sử học. Đây là thời kỳ nền sử học hiện đại xây dựng trên hệ tư tưởng Mác-xít đang hình thành và trong vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, công thức máy móc”. Ở một đoạn khác ông viết: “Áp dụng hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai cấp một cách giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa ra những phân tích và đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử. Không riêng các Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn mà những nhân vật lịch sử liên quan, và rộng ra khắp cả vương triều Mạc trước đó, đều bị đánh giá theo quan điểm chưa được khách quan công bằng như vậy”. Sau khi cuộc hội thảo kết thúc, ông Phan Huy Lê còn tuyên bố với báo chí hết sức chủ quan: “...Cuộc hội thảo lần này đã nhận được hưởng ứng rộng rãi không chỉ của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội”. Vâng, sự hưởng ứng rộng rãi dư luận xã hội mà giáo sư Phan Huy Lê nói, đó là những bài báo của các tác giả như giáo sư Trần Thanh Đạm, nhà viết kịch Trường Sinh, nhà nghiên cứu Đặng Trần Nguyên đăng trên tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh (số 41, 42, 43, 44, 45 tháng 11-2008) phản bác lại những luận điểm của ông và ông Tương Lai, cũng như tham luận của một số người cùng quan điểm với ông trong hội thảo. Không phải đợi đến cuộc hội thảo mà Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ở Thanh Hóa do GS Phan Huy Lê chủ trì mới đây đòi đánh giá và nhìn nhận lại lịch sử, mà hàng trăm năm qua từ lúc Gia Long lên ngôi (năm 1802) đến ông vua cuối cùng Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng (tháng 8-1945) kết thúc vương triều Nguyễn, nhân dân ta ngay từ thời Gia Long, Tự Đức, đã nhìn nhận lịch sử một cách khách quan, công bằng. Bằng những lời buộc tội không thể chối cãi như “Gia Long rước voi về giày mả tổ”, “Gia Long cõng rắn cắn gà nhà”, “Phan Lâm mãi quốc - Triều đình khí dân”, “Thà thua xuống láng xuống bưng réo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần”, “Thà đui mà giữ đạo nhà/Còn hơn có mắt ông cha không thờ”..., nhân dân ta thời ấy chỉ tập trung lên án Gia Long và Tự Đức chớ không một ai lên án cả vương triều Nguyễn. Trái lại, họ còn ca ngợi những ông vua yêu nước chống Pháp bị Pháp bắt bớ tù đày như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Vậy mà đến nay GS Phan Huy Lê - tờ Vietnamnet ngày 19-10-2008, báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 20-10-2008 đưa tin - trong ý kiến trả lời phỏng vấn, ông ta đã nói: “Việc Nguyễn Ánh đưa quân Xiêm vào trong cuộc chiến chống Tây Sơn, trước đây có người lên án là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”, là “bán nước”. Đó là quan điểm cực đoan”. GS còn biện minh: “Việc cầu viện không phải là sai lầm. Việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử”. Ông muốn nói đến Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh kéo quân qua đánh Tây Sơn để bảo vệ cái ngai vàng nhà Lê chăng? Và kết quả cuộc cầu viện đó thế nào chắc ông biết rõ, cũng như ông biết rõ hơn ai hết năm vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện đã bị Nguyễn Huệ tiêu diệt trong trận Rạch Gầm, Xoài Mút năm 1785. Chiến thắng oanh liệt đó của Tây Sơn đã có sự tham gia tích cực của nhân dân Nam Kỳ thời ấy nên không có tên giặc nào chạy thoát. Ông Lê còn cố nói thêm: “Đó chỉ là hành động không sáng, một tì vết trong sự nghiệp Gia Long”. Đưa quân giặc về giày xéo đất nước, đốt nhà, cướp của, hãm hiếp dân thường mà cho là “hành động không sáng”, là “tì vết trong sự nghiệp Gia Long” thì quả là ngụy biện của một nhà sử học. Nếu Gia Long còn sống, hẳn ông Lê sẽ được trọng thưởng vì có công “chạy tội” bán nước cho ông ta. (Còn tiếp) Báo: Công An TPHCM
-
Tư tưởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm Trần Nguyên Việt Tạp chí Triết học Cách đây 511 năm, xã Lý học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, nơi được gọi là "địa linh nhân kiệt" đã sinh ra cho đất nước ta một nhà lý học nổi tiếng, một nhà tiên tri giỏi, một nhà thơ lớn với những đóng góp qúy báu cho nền thi ca Việt Nam thời kỳ trung thế kỷ đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Trong di sản của ông còn sót lại đến ngày nay, chúng ta mới chỉ mới từng bước khám phá từng phần những tư tưởng uyên thâm xen kẽ giữa những vần thơ tức sự, cảm hứng, những bài vịnh và văn bia. Những quan điểm triết học trong tư tưởng của ông đang ngày càng đòi hỏi phải vận dụng những phương pháp khoa học để minh chứng cho một điều là, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt và giải quyết một số vấn đề triết học không kém phần bác học so với các bậc hiền triết trên thế giới cùng thời, tức là những vấn đề quan trọng của khoa học lịch sử triết học. Trong đó, một vấn đề đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc là triết học tự nhiên trong tư tưởng của ông. Do tính đặc thù trong những di sản tinh thần mà Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại là các tư tưởng được ông trình bày trong đó không theo một hệ thống chuyên đề triết học riêng biệt, và mặt khác, những học trò nổi tiếng của ông như Giác Hải, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh… cũng không ghi lại dù chỉ là những cuộc đối thoại triết học ngắn giữa thầy và trò, cho nên từ trước tới nay, đa phần các công trình nghiên cứu về tư tưởng của ông chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa các quan điểm triết học trên hai phương diện cơ bản là "đạo Trời" và "đạo Người". Theo chúng tôi, việc nghiên cứu lịch sử tứ tưởng Việt Nam trước hết phải dựa vào nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của khoa học lịch sử triết học là phương pháp so sánh để từng bước làm rõ đặc thù tư tưởng của dân tộc tức là để xem các quan điểm triết học của các nhà tư tưởng nước ta đã kế thừa và có những phát kiến gì mới so với các học thuyết du nhập. Đối với trường hợp của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng triết học của ông có phải chỉ giới hạn ở nội hàm của hai khái niệm "đao Trời" và "đạo Người" hay không, đó là vấn đề phải được làm rõ hơn. Xuất phát từ ý tưởng đó, chúng tôi nếu nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Khiêm mà chỉ dừng lại ở việc hệ thống các quan điểm triết học trên hai phương diện cơ bản là "đạo Trời” và "đạo Người” thì đã vô tình bỏ qua những đóng góp quan trọng của ông cho tư tưởng Việt Nam. Bởi vì, xét về toàn thể, hai phạm trù triết học đó không thể hiện một cách đầy đủ toàn bộ tư tưởng triết học của ông. Riêng khái niệm "đạo Trời" đã làm chúng ta liên tưởng ông là một nhà nho "thuần tuý" với những tư tưởng chính trị - đạo đức kết hợp với tư tưởng "mệnh trời" và "lý số” của Khổng giáo. Nếu mạnh dạn xem xét rộng hơn, sâu thêm "đạo Trời" trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm - một hiền sĩ không chỉ chịu ảnh hưởng của tam giáo (Nho, Phật và Lão), mà còn cả ý thức bản địa, chúng ta thấy nảy ra một số vấn đề: bản thể luận trong thế giới quan của ông có nhiều điểm khác với học thuyết của các bậc tiên nho, việc vận dụng thành quả nhận thức thế giới vi mô và thế giới vĩ mô vào nhận thức các quan hệ xã hội, một đặc điểm của trào lưu triết học tự nhiên đã được ông thực hiên một cách nhuần nhuyễn. Đó là những vấn đề đang thu hút sư quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến tư tưởng triết học tự nhiên của ông. Xét một cách tổng thể? Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc các học thuyết Tống Nho, Đạo Phật và Lão Trang. Bản thể luận mà ông đề cập đến khi trình bày các quan điểm triết học của mình đã vượt ra ngoài phạm vi của "đạo Trời". Tuy nhiên, chúng ta không nên so sánh bản thể luận đó với bản thể luận của các nhà triết học tự nhiên thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu như Lêôna Đơ Vanhxi, Nicôlai Côpécníc… bởi họ đều là những nhà khoa học tự nhiên. Về sau, Seling, nhờ nghiên cứu các học thuyết triết học của Cantơ và Phíchtơ mà phát triển thành triết học tự nhiên của riêng mình với những nhận định mang tính gợi mở cho khoa học hiện đại về sự thống nhất và phát triển của tự nhiên, về sự hình thành thế giới hữu cơ từ thế giới vô cơ… Chúng ta chỉ có thể làm được một việc tạm gọi là phù hợp với phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam là tiếp cận hệ thống các quan điểm triết họe của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong di sản thơ văn còn lại đến ngày nay. Nghiên cứu tư tưởng triết học của bất kỳ nhà tư tưởng nào cũng đòi hỏi phải có cách tiếp cận nhất định, hay nói cách khác, phải cố phương pháp nghiên cứu thích hợp mới chỉ ra được tư tưởng triết học đặc thù của họ. Tư tưởng triết học được trình bày trong thơ ca Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phức tạp, bởi ngoài những lập luân của những luận thuyết, những quan điểm triết học, còn có cả hình thức và nội dung nghệ thuật trong đó. Xét trên bình diện nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học, dường như các phương diện đó không liên quan đến nhau nhiều, song trên thực tế, chúng lại có sức mạnh thuyết phục rất lớn, đặc biệt là đối với nước ta vào thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, trình độ phát triển tư duy lý luận còn thấp. Nguyễn Huệ Chi và Tạ Ngọc Liễn đã có những nhận xét mà theo chúng tôi, chưa được thoả đáng về mối quan hệ giữa thơ ca và tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "ở con người thi nhân này đã có một bộ phận thơ ca rời bỏ những cảm xúc thẩm mỹ về cái cụ thể để hướng tới một cái gì trừu tượng hơn, mang tính khái niệm thuần tuý, hoặc tập trung cảm hửng vào những mối liên tưởng siêu hình". Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là nhà thơ triết lý cuộc sống, mà còn là nhà thơ triết học bởi cảm xúc thấm mỹ của ông về cái cụ thể là trực quan sinh động ở mức độ cao về cái cụ thể đó. Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học tự nhiên của Kinh Dịch. Bất kỳ ai đã làm quen với các khái niệm cơ bản của Kinh Dịch cũng đều hiểu được việc ông vận dụng một cách tài tình các nguyên lý của Dịch vào thơ văn của mình như thế nào. Kinh Dịch không chỉ là một cuốn sách triết học cổ nhất của Trung Hoa, mà còn là một cuốn bách khoa kinh nghiệm cho nghề nông của nước này đó là sự phát hiện ra các hiện tượng, các quy luật của tự nhiên được kiểm nghiệm qua mấy nghìn năm và từ đó, người Trung Hoa tiến hành biểu tượng hóa, mô hình hóa các hiện tượng, các quy luật của tự nhiên bằng các vạch liền và đứt (vạch liền gọi là hào dương, vạch đứt gọi là hào âm). Các vạch này liên kết với nhau theo tổ hợp ba vạch, tạo thành tám quẻ (bát quái), một lần nữa, các quẻ này lại liên kết với nhau theo những phương án có thể để tạo thành 64 quẻ kép với sự tham gia của 384 hào. Theo người Trung Hoa cổ đại, 64 quẻ này là tổng hợp hết thảy các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và từ đó, có thể suy diễn được sang lĩnh vực của xã hội. Trong di sản tinh thần cổ đại của Trung Hoa, Kinh Dịch không chỉ là tác phẩm triết học thành vàn đầu tiên, mà còn là công trình khoa học dựa trên kinh nghiệm cuộc sống. Nó đóng vai trò làm lịch, trợ giúp nghề nông của người Trung Hoa cổ đại khi sự can thiệp của con người vào các quá trình của tự nhiên chừa thô bạo như hiện nay, tức là sự can thiệp dẫn đến những thay đổi bất thường các quá trình vật lý của sinh quyển. Nguyễn Bỉnh Khiêm vận đụng các nguyên lý của Kinh Dịch để phát biểu thế giới quan của mình khá nhiều lần trong các bài thơ về các hiện tượng tự nhiên, về thế sự và thời cục diễn ra trong xã hội. Thơ của ông thường biểu hiện sự mô phỏng các quy luật tự nhiên trong đời sống xã hội. Chẳng hạn trong bài "Cảm hứng" dài 300 câu, ông mô tả quá trình sinh thành của vũ trụ và sự hình thành các nguyên tắc của đời sống xã hội trên cơ sở các quy luật tất yếu của tự nhiên như sau: "Thái cực khi mới bắt đầu phân chia thì tam tài đã xác định được vị trí của mình. Nhẹ và trong bay lên tạo thành trời, nặng và đục lắng xuống thành đất, ở giữa kết tụ lại thành người. Cả ba bộ phận ấy] đều xuất phát từ một khí”. Đây là cách trình bày theo quan điểm triết học tự nhiên, nhưng hoàn toàn không phải là của Nguyễn Bỉnh Khiêm như một số tác giả nhận định, mà là quan điểm vũ trụ luận truyền thống của Trung Hoa và mang tính "tiêu chuẩn". Song, công lao của Nguyên Bỉnh Khiêm trong việc sử dụng quan điểm đó để truy cứu các hiện tượng xã hội theo tinh thần của triết học tự nhiên thì không ai có thể phủ nhận được. Đoạn thơ tiếp theo cho chúng ta thấy rõ điều đó: "Bậc thánh nhân theo khuôn phép của trời, muôn đời ập nên kỷ cương của loài người, noi theo được cái tất đẹp của ngũ điển, trình bày được cái đầy đủ của cửu trù. Vua và tôi phải có nghĩa với nhau, cha và con cái tình thân là tột độ, chồng và vợ kẻ xướng có người tuỳ, anh và em người cưng thì có người đễ, chơi với bạn thì giữ vững điều tín". Như vậy, nếu tam tài xuất phát từ khí thì bậc thánh nhân cũng theo đó mà đặt ra ngũ luân cho quan hệ xã hội. Vũ trụ không ngừng vận động, biên đổi do hai thế lực âm dương tác động với nhau, phát triển đến cùng cực thì quay lại cái điểm xuất phát theo nguyên lý của thái cực. Quan hệ xã hội cũng vậy, thời cục có lúc lên lúc xuống, đời này qua đời khác không giống nhau về hoàn cảnh cụ thể. nhưng vàn phải theo các nguyên tắc cương thường mà thánh nhân đặt ra, có như vậy, phong hóa và trật tự xã hối mới được duy trì và ồn định. Một đặc điểm nữa trong quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm là so sánh tính tương đồng về mặt cấu trúc cũng như đặc tính của tiểu vũ trụ (vi mô) và đại vũ trụ (vi mô). Chúng ta xem xét vấn đề này một cách cụ thể trong bài "Kê noãn" của ông: "Trứng gà không tròn cũng không vuông, ấy thế mà bao bọc cả trời đất trong đó. Chất thái tố trang ở ngoài có hai lần trắng, chất đan biếm chứa ở trong có một điểm vàng. Thái cực chưa chia, vẫn còn hỗn độn. Hai khí âm dương hợp lại mới nở ra. Khi đã thành lông cánh sẽ bay bổng lên trời mây, hóa làm sao Kim Kê giúp vầng thái dương. Quả trứng gà được con mắt quan sát của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tiểu vũ trụ, nó cũng trải qua một quá trình khép kín, từ khi hình thành đến phát triển. Đây cũng là một quá trình tuân theo nguyên lý của dịch học về sự vô thuỷ vô chung của thái cực, hết rồi lái bắt đầu trong phạm vi tuần hoàn. Từ đó, ông đã có nhận xét linh hoạt hơn đối với quan niệm truyền thống phương Đông về vũ trụ được hai biểu tượng cứng nhắc là trời phải tròn, đất phải vuông. Trời là cha biểu thị cho thế lực dương, đất là mẹ, biểu thị cho thế lực âm. Âm dương giao cảm mà tác thành vũ trũ theo nguyên lý của đạo, hoặc nói theo ngôn ngữ của Lão Tử, “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương điều hòa bằng khí trùng hư" (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bạch dương, trùng khí dĩ vi hòa). Chính cách hiểu tương đối về hình thái cũng như cấu trúc của quả trứng với tính cách là một tiểu vũ trụ bao hàm trong nó cả trời và đất đã làm cho quan điểm triết học tự nhiên của ông phù hợp với việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ. Giống như [con người] trong khoảng giữa của vũ trụ do kết quả phát triển và phân định của thái cực, con gà được tạo tác từ nhân (chất đan biêm màu vàng), tự phát triển đến mức đủ lông, đủ cánh thì bay bổng lên trời cao làm sao Kim Kê cho vầng thái dương được sáng thêm. Còn con người với tính cách là sản phẩm của sự kết tụ tinh tuý giữa trời đất mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên, cũng phải hội đủ những điều kiện cần thiết để có ích cho xã hội. Qua hai thí dụ nêu trên, chúng ta thấy, quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm về quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ là rõ ràng. Tuy nhiên, đặc điểm của loại quan điểm này là chỉ dừng lại ở việc mô phỏng, tạo điều kiện cho việc so sánh sự giống nhau ở tính huyền diệu của tiểu vũ trụ va vũ trụ bao la, thăm thẳm mà chúng ta đang sống. Mục đích của nó, suy cho cùng, nhăm trả lời cho vấn đề triết học muôn thuở: Con người ta từ đâu mà ra, cuộc sống của nó phải trải qua những bước căn bản nào và khi đến chặng cuối của cuộc đời, nó đi đâu về đâu? Khác với các nhà triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại những người chuyên suy ngẫm, truy tìm cái bản nguyên của vũ trụ như nước, lửa, không khí… và cũng khác với các nhà triết học tự nhiên ở Châu Âu những nhà khoa học tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa nhận ngay bản nguyên của vũ trụ là khí. Song, nếu xét về quan hệ giữa Khí và thái cực thì nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta băn khoăn bởi điều là, trong hai phạm trù đó, phạm trù nào là phái sinh. Tuy ông, không nói cụ thế, sog chúng ta có thế hiếu được rằng thái cực và khí cùng tồn tại. Theo quan điểm triết học truyền thống Trung Hoa, thái cực là một cái gì đó vô thuỷ vô chung, vô hình vô dạng. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm diễn đạt quá trình hình thành vũ trụ bằng sự khởi đầu cái công việc huyền diệu mà thái cực đảm nhiệm là phân chia (sơ triệu phân). Song, điều đáng lưu ý là phải có cái gì đó làm đối tượng để phân chia. “Không có bột sao gột được nên hồ"? Chính vì vậy ông thừa nhận khí có trước vạn vật, kể cả con người, còn thái cực mang tính nhị nguyên bao hàm cả nghĩa vật chất, cả nghĩa nguyên lý với tính cách là quy luật, đạo… Rõ ràng, ở Nguyễn Bỉnh khiêm, bản thể của vũ trụ là khí. Khí hiểu theo nghĩa vật chất văn chưa có hình, nó là tiềm ẩn, tiềm năng của thế giới hiện hữu. Ở đây, sự gặp gỡ giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo về phương diện bản thê của vũ trụ là ở tư tưởng không hình, không tên, không sắc, không tưởng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đúc kết tư tưởng này bằng hai câu như sau: "Tòng đầu sắc thị không. Bản lai vô nhất vật". Từ đầu sắc đã là không. Vấn không có một vật gì cả). Tư tưởng này cho thấy, ông đã thừa nhận sự tiến hóa của vũ trụ là một quá trình diễn ra phức tạp và lâu đài, là sự kết hợp của hai thế lực âm dương (lưỡng nghi) rồi sinh ra tư tưởng (bắt đầu sự hiện hình của tồn tại), chứ không phải ngay lập tức đã có vạn vật trong vũ trụ. Chính tư tưởng về sự tiến hóa của vũ trụ theo quy luật tuần hoàn (đi, về, bĩ cực, thái lai hết rồi lại bắt đầu) "Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ. Bác phục đô tòng thái cực tiên" (nghĩa là khí vận chuyển rồi lại quay trở về nguồn gốc, hết quẻ bác đến quẻ phục rồi lại trở về với gốc thái cực), đã làm cho Trạng Trình liên tưởng ngay đến các hiện tượng xã hội như có rồi lại mất, vào rồi lại ra, vào càng dễ thì ra cũng càng dễ, không ai có thể bảo tồn được vĩnh viễn cái mình đang có. Đặc biệt, ông lưu ý đến sự giàu có do cách sống bất lương, phí pháp thì sẽ nghèo đi rất nhanh, giống hệt tần số dao động của sóng trong mối tương quan đến biên độ của nó. Ý nghĩa của quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rõ ở phương diện giáo dục con người thống qua nhận thức quy luật của tự nhiên phải hiểu được đao rồi mới tạo được đức, bởi đức là cơ sở đề đạo thể hiện. Tròng bài "Thừa trần", ông xem trần nhà như bầu trời nhỏ. Con người sống trong ngôi nhà phải biết rằng mình đang sống dưới bầu trời nhỏ đó và phải tu thân tích đức, sao cho không làm mất đi sự thanh khiết ban đầu [của nó], để mỗi khi ngửa mặt lên nhìn [nó] không thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Sự liên hệ này mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc: con người sống trong tự nhiên, đồng thời bị ràng buộc bởi các quan hệ xã hội. Từ quan mềm bán địa về thờ thần, thờ cúng tổ tiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm dẫn dắt con người vốn chỉ biết đặc niềm tin vào sự thần bí đến với nhận thức môi trường sống xung quanh mà không hề cắt bỏ "cái thần" của nó. Có thể đúc kết quan điểm triết học tự nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập tới trong thơ văn của mình như sau: Một là, ông công nhận vũ trụ được hình thành từ khí, trải qua một quá trình tiến hóa lâu đài, chứ không phải do một thế lực siêu nhiên nào đó tạo ra. Hai là, xuất phát từ tín ngưỡng bản địa về đa thần ("thần cây đa, ma cây gạo"), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thóat ra khỏi sự ràng buộc của thần học, làm cho "các thần" đó hòa tan trong từng khách thể của tự nhiên. Ba là, thông qua nhận thức các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên để đúc kết lại thành các quy luật, tiếp theo là nhận thức được các quy luật đó để vận dụng vào nhận thức các quy luật của đời sống xã hội. Đó cũng là đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào sự phát triển lý luận nhận thức, nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại. Chúng tôi cho rằng, quan điển triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm cần phải được nghiên cứu một cách sâu hơn, rộng hơn mới thấy hết được tầm bác học cũng như những đóng góp của ông cho tư tưởng triết học của dân tộc. Đây cũng là hướng gợi mở trong phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc, nhằm góp phần giải đáp vấn đề: có hay không tư tưởng triết học Việt Nam? Nguồn: Tạp chí Triết học
-
Maylaysia: người đàn ông bị… ninh nhừ không chết Sau 45 phút chiếc nồi hơi réo ùng ục trên than hồng, người ta quyết định tháo van áp suất, mở vung nồi và nín thở chờ đợi kết cục bi thảm gì sẽ xảy đến cho kẻ bạo gan ngồi bên trong. Chẳng những không nhừ nát giống 5 con gà bên cạnh, tác giả của pha biểu diễn đứng tim còn tỏ ý khiển trách: còn quá sớm mà đã mở vung nồi. Trước sự chứng kiến của hơn 300 người dân thành phố Ipoh, Malaysia, màn trình diễn có một không hai được thực hiện một cách thuần thục bởi đích Xia Fuan - một trong 2 đồ đệ ruột của pháp sư Thanh Thủy đến từ tỉnh Bahau. Khâu chuẩn bị xem ra khá công phu. Đầu tiên, người ta phải tìm một cái nồi áp suất đủ lớn để vừa vặn một người chui vào (đường kính chừng 1 mét). Sau đó đổ ngập nước lã, quẳng vào đó thêm 5 con gà đã làm sạch lông để minh chứng thêm phần.....thuyết phục. Đúng 9 giờ tối, pháp sư Thanh Thủy tiến hành khai mạc sự kiện bằng lễ tế thần linh. Trong tiếng chiêng trống inh ỏi và hương khói nghi ngút, ông niệm thần chú, rắc lá trà, thêm một ít muối và gạo vào nồi nước. Một vài thao tác chuẩn bị Chừng 30 phút sau, đồ đệ Xia Fuan - người được cho là đã bị Vua Khỉ nhập thần - bắt đầu đi lại, nhảy nhót, gãi mặt gãi tai và kêu la như một “hầu vương” thực thụ. Với dây sắt trong tay, “Vua khỉ” nhảy ra khỏi điện thờ, ngạo nghễ nhìn khắp lượt dân chúng trong khoảng 15 phút trước khi thực hiện pha trình diễn. Sau khi Xia Fuan yên vị trên đụn giấy, người ta bắt đầu đậy vung và đốt lửa cháy rừng rực. Chẳng mấy chốc, nước réo sôi, nồi đã bốc khói nghi ngút. Giây cuối cùng của phút thứ 45 trôi qua, mọi người nín thở dập tắt lửa và hò nhau mở nắp nồi. Trước sự ngỡ ngàng của tất thảy nhân chứng, Xia Fuan vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh 5 con gà thịt đã nát nhừ, người không mảy may thương tích. Anh chàng tỏ vẻ thất vọng và nói bằng thứ tiếng Phước Kiến với sư phụ Thanh Thủy, tạm dịch “Thầy cho con ra sớm quá”. Xia Fuan vẫn còn......tiếc rẻ Pháp sư Thanh Thủy cho biết, ông bắt đầu học tuyệt kỹ “Hầu vương phá Lò bát quái” từ năm 15, 16 tuổi, cho đến năm 25 tuổi thì đã đủ thuần thục để đi biểu diễn khắp các vùng miền trên đất nước Malaysia. Cách đây 33 năm tại đại hội “Chiến tích phi thường” khu vực châu Á, chính tuyệt chiêu “ninh nhừ không chết” đã giúp pháp sư giành giải á quân. Được biết, pháp sư Thanh Thủy rất sẵn lòng dạy kỹ năng bí truyền cho người ngoài môn phái, thậm chí cho cả nữ nhi. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, chỉ có 2 anh em Xia Fuan và Xia Fulai là đủ tố chất để luyện tập thành thục tuyệt chiêu nguy hiểm. Trước đêm trình diễn 10 ngày, người thực hiện phải ăn chay, kiêng rượu thịt và tuyệt đối tránh quan hệ nam nữ. Tai nạn nghề nghiệp có thể là da sưng phồng và đỏ tấy, may mắn là chưa từng xảy ra tai nạn đáng tiếc nào. Hải Minh Theo Guang Ming Daily
-
Chuyện sex táo bạo trong thư tịch cổ Việt Nam? Các chuyên gia về văn học cổ đều cho rằng Hoa viên kỳ ngộ là một tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong cổ văn Việt Nam. Hiện Hoa viên kỳ ngộ tập chí có một bản chép tay duy nhất tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm 46 tờ (92 trang) khổ 27 x 15 cm. Tập sách được viết với nét bút rất bay bướm, lão luyện. Cuộc gặp gỡ ở vườn hoa (Hoa viên kỳ ngộ tập) kể về cuộc tình duyên của Triệu Kiệu, con trai thứ hai của quan Tham chính họ Triệu, người đất Nam Xang thời Cảnh Hưng (1740-1786). Chàng thư sinh họ Triệu khôi ngô tuấn tú, học rộng tài cao. Một hôm dạo bước tới vườn hoa bên cầu Bích Câu, tình cờ gặp Lan Nương và Huệ Nương, con quan Ngự sử họ Kiều, đôi bên quen biết, tình tự rồi yêu nhau say đắm. Triệu công tử được Kiều Công mến tài cho ở trong nhà để tiện thầy tiện bạn đèn sách. Chàng lân la đến khuê phòng của hai nàng, nhờ được Xuân Hoa và Thu Nguyệt là hai thị nữ của Lan Nương và Huệ Nương hết lòng giúp đỡ nên tự do đi lại. Vượt qua lễ giáo, họ đến với nhau, trai tài gái sắc, trao thân gửi phận, thỏa lòng mây mưa. Về sau Triệu Kiệu đi thi, đỗ Giải nguyên, được quan Ngự sử họ Kiều gả cả hai tiểu thư cho. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm văn học cổ Việt Nam. Căn cứ vào địa danh huyện Nam Xang (tên huyện ứng với huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam ngày nay) và tên trấn Sơn Nam được đặt từ thời Lê, có thể tác phẩm này được viết vào khoảng cuối đời Lê. Ở một đoạn khác, tác giả còn để cho Triệu Công tử đề nghị hai tiểu thư Lan và Huệ kéo cả hai thị nữ Xuân Hoa và Thu Nguyệt vào cuộc và hai tiểu thư cũng đồng ý. Thế là một chàng công tử lần lượt giao hoan với hai tiểu thư, cô em trước, cô chị sau, rồi sau đó đến lượt hai cô thị nữ nữa. Nhà Nho mà viết về sex như thế thì thật quá lắm. Ta lý giải làm sao, khi đặt Cuộc gặp gỡ ở vườn hoa vào trong văn chương cổ Việt Nam, đột khởi một cái mấu ghê gớm như vậy. Sách thì Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ. Các nhà nghiên cứu xếp nó vào tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Nội dung sách có địa danh Nam Xang, Sơn Nam là những địa danh Việt Nam. Các chuyên gia về văn học cổ đều cho rằng đây là một tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong thư tịch cổ Việt Nam. Vậy thì chuyện sex Việt cũng đáng gờm với các cụ lắm, chứ đâu phải đợi đến các cây viết trẻ hôm nay mới nên chuyện. Tưởng thế. Mà hình như lại không phải thế! Mới rồi, thạc sĩ Phạm Văn Ánh ở Viện Văn học đã nghiên cứu kỹ văn bản của Hoa viên kỳ ngộ tập và ngờ rằng rất có thể đây là bản copy một tác phẩm của văn học cổ Trung Quốc. (Theo Thời Đại ) Việt Báo// (Theo_VnMedia)