satthat21

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    17
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About satthat21

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. ong thien dong viet huyen khong lac viet dua vao tac pham Huyen khong cua Nha Thanh trung quoc
  2. chac tu do den gio chua co ai giup ban dung khong
  3. dien dan dao nay vang lang wa
  4. Gửi bạn Duyên: Tôi vẽ lại khu nhà bạn với kích thước bạn cho trên diễn đàn với đúng tỷ lệ thì thấy khoảng cách 12m ở đầu đường cái lớn phía Bắc sẽ kéo tường rào cạnh con đường nhỏ vào sát nhà dưới và bếp +chuồng gia súc của bạn, bạn xem lại đúng không? * Như vậy miếng đất nhà bạn có kích thước : -phia đường cái to rộng là 12 + 2 + 15,3=29,3(m) -Phía đường nhỏ có chiều dài 50(m) -Phía Đông có cạnh xiên 38,3(m) -Phần đuôi mảnh đất sau nhà có chiều ngang 12,5(m) Theo tôi bạn nên kiểm tra lại kỹ một lần nữa vì với suy nghĩ của riêng tôi, khoảng cách 12 m +2m phía sát đường cái rất quan trọng, nếu bạn đứng ở trươc thềm nhà nhìn ra cổng có phải con đường 2 m nhà bạn có hướng đi vào góc bên phải nhà bạn không?
  5. Gửi bạn Duyên: Tôi vẽ lại khu nhà bạn với kích thước bạn cho trên diễn đàn với đúng tỷ lệ thì thấy khoảng cách 12m ở đầu đường cái lớn phía Bắc sẽ kéo tường rào cạnh con đường nhỏ vào sát nhà dưới và bếp +chuồng gia súc của bạn, bạn xem lại đúng không? * Như vậy miếng đất nhà bạn có kích thước : -phia đường cái to rộng là 12 + 2 + 15,3=29,3(m) -Phía đường nhỏ có chiều dài 50(m) -Phía Đông có cạnh xiên 38,3(m) -Phần đuôi mảnh đất sau nhà có chiều ngang 12,5(m) Theo tôi bạn nên kiểm tra lại kỹ một lần nữa vì với suy nghĩ của riêng tôi, khoảng cách 12 m +2m phía sát đường cái rất quan trọng, nếu bạn đứng ở trươc thềm nhà nhìn ra cổng có phải con đường 2 m nhà bạn có hướng đi vào sát góc bên phải nhà bạn không?
  6. x Tôi góp ý với bạn vài ý kiến quan điểm cá nhân tôi với thành ý thôi,Nhà bạn theo tôi nghĩ là một bài toán thú vị đấy, có thể ý kiến của tôi chưa đúng chưa phù hợp nhưng rồi sẽ có những người giỏi khác quan tâm giúp đỡ bạn và bạn sẽ có một phương án tối ưu cho ngôi nhà của mình. Đất nhà bạn khá rộng, dù bạn vẽ chưa đúng tỷ lệ nhưng tôi cũng thấy thích mảnh đất khu nhà bạn. Bạn chưa có đủ tiền làm hăn nhà mới, theo tôi thì: -Phía Tây Bắc nhà bạn nên trồng hàng cây cao che chắn vào khu vườn trống sát hàng rào, giáp đường cái và đường nhỏ. -Phía Bắc trồng cây thấp hơn, có ý nghĩa như cây cảnh, trúc, hoa lá, để thoáng đãng sạch sẽ khu vực này -chuyển cái cổng cũ sang hướng Đông Bắc sao cho cổng đối diện với khoảng trống của 2 nhà hàng xóm bên kia đường, bịt cái cổng cũ lại, đường từ cổng mới sẽ đi từ Đông Bắc uốn vòng sang phía trục đường cũ hướng về phía bể nước của bạn. Bạn uốn cho nó đẹp chút. Bạn nên làm một cái ao nhỏ thả cá ở khu vực vườn cây ăn trái này, bạn tưởng tượng con đường sẽ đi qua cái ao sen của bạn.Nền đường thì đất nện và gạch đá xếp thôi, nhà gần sông thì chịu khó lấy cuội sỏi về mà rải. Vì đang không có tiền mà. Tận dùng vật liệu xung quanh mà làm. -Phía Đông , Đông Nam phía đường cái bạn nên trồng hoa, trồng rau mà ăn. -Phía Nam sau nhà thì tạm thời giũ sạch sẽ yên tĩnh thoáng, phía này có ngôi mộ thì thận trọng, cần có những Cao Nhân chỉ điểm.Cái bàn thờ nhà bạn ở hướng Nam này bạn hãy xem xét vị trí của nó và nhờ tư vấn với những người giỏi Phong Thuỷ và quan tâm đến bạn. -Phía Tây Nam có cái ao cũ bạn nên lấp nó đi, chuyển nó sang ao mới phía Đông Bắc, nhà tắm bạn chuyển lên giáp phía Tây, gần đường nhỏ. Bạn chuyển chuồng nuôi gia súc về khu vị trí cái ao cũ này. Nếu có thể bạn nên trồng cây cao thanh sau nhà sau ở vị trí giữa nhà tắm cũ, ao cũ và nhà dưới -Phía tây bạn chuyển wc về sát nhà tắm mới, không biết cấu tạo nhà tắm và WC của bạn thế nào nhưng nên làm tự hoại và chung nhà tắm luôn cho sạch sẽ. Chuồng gia súc lợn gà bạn chuyển về Tây Nam, còn bếp bạn chuyển lên trám vào vị trí chuồng gia súc cũ,không biết bạn nấu bếp bằng củi rơm rạ hay bếp ga, miệng bếp lò bạn hướng về phía Tây,nếu nấu bằng kiềng 3 chân thì cái kiềng để chỗ gia súc ấy. Bếp có thể có cửa sổ nhìn sang Đông, để cho mùa đông tới Mẹ bạn nấu bữa sáng sẽ được sưởi ấm bởi ánh nắng sớm. Bếp bạn nên làm một cửa bếp phía Tây để khi cần có thể mở ra cho nắng chiều vào, bạn cũng có thể làm cái cổng phụ nhỏ thông ra con đường nhỏ ở đây.Bếp có thể cải tạo bằng tre nứa trát đất trộn rơm rạ cũng không đáng bao tiền. Vậy là diện tích bếp cũ bạn có thể làm việc khác, phòng học con cái chẳng hạn, tôi thấy sơ đồ vẽ cái cửa sổ nhỏ ở bếp cũ, nếu nó nhìn thông sang hướng đông bắc thì theo tôi là tốt, không thì cải tạo cho nó nhìn sang Đông Bắc. Cái cửa nhà dưới của bạn mà nhìn sang Đông Băc thì cũng hay. -Bể nươc nhà bạn thì không biết bạn dùng nguồn nào nước máy giếng khoan hay gì, nhưng luôn cần thau bể sạch sẽ tránh rong rêu muỗi. Nguồn nước thì nếu cần đi xét nghiêm xem có hợp vệ sinh không để có thể dùng máy lọc. -Thoát nước thải và nước mặt thì bạn nên có cống ngầm thoát ra cống chung ở đường cái, đừng để cống rãnh lộ thiên. Cái ao cũng có thể để điều tiết nước mưa được. Nhưng đừng cho nước thải vào ao. đừng để nước đọng ao tù ô nhiễm. -Rác thải bạn nên phân loại hữu cơ vô cơ và tập kết đúng chỗ, đừng để sinh ruồi muỗi , phân chuồng bạn cũng cần xử lý đừng để xú uế mất vệ sinh cho nhà bạn và hàng xóm -Hàng rào bạn nên duy tu sửa sang lại đừng để rách nát đổ vỡ, nếu chưa có tiền làm thật đẹp và kiên cố thì bám theo kết cấu cũ mà làm, cỏ lác bụi rậm nếu có thì phát quang sạch sẽ đừng để muỗi vắt chuột bọ làm tổ. Tóm lại là sơ bộ tôi góp ý bạn như vậy , gia đình bạn có thể sẽ được nhiều người giỏi giúp đấy, vậy sẽ có các phương án khác nhau để tốt cho bạn.
  7. Chào bạn Duyên: nếu như Cha bạn sinh năm 1965 ất tỵ thì theo bát trạch Lạc Việt, phi cung của Cha bạn là Cấn thuộc mộc, các hướng theo phi cung Cấn là : Tây bắc: Thiên Y Bắc : Ngũ Quỷ Đông Bắc : Phục Vị Đông : Lục Sát Đông Nam: Sinh Khí Nam: Hoạ Hại Tây Nam : Tuyệt Mệnh Tây : Phúc Đức Như vậy nhà bạn chính Bắc theo bát trạch thì hướng nhà bạn ăn vào hướng Ngũ Quỷ, nhà toạ Nam ăn vào Hoạ Hại, có ngôi mộ sau nhà là ở hướng nam theo sơ đồ nhà bạn với nét vẽ sơ hoạ, nhà vệ sinh và chuồng gia súc ăn vào Thiên y và Phúc Đức. Đoán già đoán non theo sơ đồ vẽ chưa đúng tỉ lệ thì cổng ăn vào Phục Vị. Không biết nhà bạn làm vào năm nào và ở vào năm nào?Đã bao giờ tu sửa nhà không? Có lẽ theo tâm linh thì bạn nên thỉnh thoảng hương khói cho ngôi mộ vao ngày rằm chẳng hạn, để vong linh bớt cô quạnh cũng là việc Phúc Đức nên làm. Và vào tiết thanh minh nếu không có ai đến chăm sóc thì bạn cũng bớt ít thời gian nhổ chút cỏ cây cho ngôi mộ. Dương nào âm vậy, chúc bạn may măn!
  8. Chào Luytre: Vừa rồi satthat co đọc bài viết của Luytre đăng trên diễn đàn nói về việc Luytre lang thang trên mạng tình cờ đọc thấy bài viết về Lường Thiên Xích theo Lạc Thư Hán của tác giả Hà Hưng Quốc(một nhà nghiên cứu nào đó) và LuyStre đã đăng lên diên đàn cho mọi người cùng xem.ST nghĩ chắc LuyTre cũng nghiên cứu về bài toán huyền không vận dụng thế nào. Bài đăng của Luytre có thông tin bổ ích với Satthat vì ST đang rất muốn tìm hiểu vị trí sao Thất Xích số 7 tại sao lại ở cung Ly, và Lạc Thư Hán lại đưa nó về cung Đoài. Nội dung đăng tải của Luỹ Tre đã thông tin cho satthat về điều đó trong sự nghiên cứu của Hà Hưng Quốc. Tác giả Hà Hưng Quốc viết về số 7 phía nam và công nhận sự hợp lý của số 7 theo thiên văn thực tế, điều này thật là hay. Nhưng Satthat chưa thông về việc Hà Hưng Quốc nói rằng đồ hình Lường Thiên Xích "..quỹ đạo LTX chẳng kết nối với một hiện thực vật lý hay thiên văn nào cả. Nó chỉ là một sản phẩm được “chế tác” từ mô phỏng vị trí của những con số trong Lạc Thư theo lộ trình “thứ tự” lớn nhỏ. Một sản phẩm chế tác không có cơ sở khoa học hổ trợ, cũng không có cơ sở tâm linh hổ trợ, mà lại là một trong những yếu tố làm nền móng để xây dựng hạ tầng cơ sở cho Huyền Không quyết đoán trạch vận, quyết đoán sống chết của con người thì quả là . . . kinh khủng. " <br style="mso-special-character:line-break"> vậy hệ mặt trời các ngôi sao không bay như vậy, và Hà Hưng Quốc đã đặt dấu hỏi cho sự xác thực của Huyền không học. Theo Satthat nghĩ rất nôm na theo cách hiểu của mình rằng có thể các ngôi sao không bay như vậy nhưng sự tương tác âm dương , những năng lượng huyền bí của vũ trụ từ các ngôi sao đến Trái Đât theo một công thức bí ẩn nào đó, theo hệ quy chiếu của không gian nhiều chiều nào đó mà người xưa tìm ra và mã hoá nó bằng đồ hình trên mặt phẳng 2d của cửu cung Lường Thiên Xích, tại sao lại có ngôi sao bay vào trung cung nhỉ??? nôm na hiểu có thể sự tương tác bí ẩn của nó là lớn nhất so với trái đất ở một giai đoạn nào đó mà người xưa gọi là Vận và tương tác với các ngôi sao khác mà có sự thay đổi vị trí chăng??? Satthat cũng chưa hiểu tại sao Thiên Đồng lại phát biểu như trong trích dẫn của Hà Hưng Quốc".. Huyền không phi tinh lại nghiên cứu tương tác giữa vật thể cần xem xét và vũ trụ, vũ trụ trong huyền không lại không hoàn toàn giống vũ trụ trong thiên văn học hiện đại ( có thể nó dựa trên 1 hệ qui chiếu khác) nên trở nên rất khó hiểu, vô căn cứ, không khoa học.” (Nguồn: Diễn Đàn Lý Học Đông Phương, trang Mạn Đàm). Tác giả không thể nào không đồng ý với nhận xét trên của Thiên Đồng. Như đã nói,.." Satthat lại vừa đọc tập sách Huyền KHông Lạc Việt Căn Bản của tác giả Phạm Hữu Để- Hoàng TRiều Hải, nên thắc mắc như trên. satthat sẽ vẫn phi tinh theo Lường Thiên Xích nhưng trên Hà Đồ Lạc Việt, hà đồ có vị trí số 7 phương Nam. Và vẫn tin rằng Lường Thiên Xích là đồ hình bí ẩn không thể nhận xét về nó vội vàng trên mặt phẳng 2 chiều được,có thể nôm na hiểu là công thức truyền lại cho hậu thế của người xưa. Và satthat cũng hỏi một câu hỏi rất buồn cười như sau: tại sao Ông Ba Mươi Màu vàng trong tranh Đông Hồ lại đặt tay lên quyển sách, Hổ làm gì biết chữ? tại sao lại có Ông Ba Mươi màu xanh, thực tế làm gì có giống hổ lông Xanh?hay lông ông ấy được Ông Cha ta nhuộm ??? Xin cảm ơn Luytre vì bài viết mà sattthat sẽ mạn phép Luytre copy vào dưới đây: " Cập nhật lúc 17 Tháng mười 2012 - 07:46 AM Bài tham khảo. Lang thang trên mạng mình tìm được bài viết "Xét nghiệm giá trị của Huyền Không" của tác giả Hà Hưng Quốc. Bài viết nêu lên những nghi vấn về giá trị thực của Huyền Không phi tinh (Hán) trên một nền tảng chưa chắc chắn là: Lạc Thư, Lường Thiên Xích, Tam Nguyên Cửu Vận mà nhiều người xưa nay vẫn áp dụng. Sau đây là trích dẫn bài viết: Quote Nói tới Huyền Không thì hình ảnh đầu tiên người ta nghĩ tới là một Tinh Bàn 9 ô với những con số từ 1 tới 9 gọi là phi tinh. Tinh Bàn là “hạ tầng cơ sở” của Huyền Không. Không có Tinh Bàn thì chẳng có gì để nói. Cái hạ tầng cơ sở đó được xây dựng trên một nền móng gồm 3 yếu tố: Lạc Thư, Lường Thiên Xích và khung thời gian gọi là Tam Nguyên Cửu Vận. Muốn xét nghiệm giá trị của Huyền Không chúng ta không thể không xét nghiệm hạ tầng cơ sở này của Huyền Không trước tiên. Lý do là vì, tạm mượn lời của học giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, “người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.” Hay nói một cách khác, bất kể là học thuật nào, dầu có “hoành tráng” đến mức độ nào đi nữa, thì nó cũng không thể là một bộ môn thật sự có giá trị nếu như được xây dựng trên một mặt nền không ổn. Bộ môn Huyền Không cũng không ngoại lệ. Huyền Không chỉ thực sự đáng giá nếu như thỏa đáng được đòi hỏi tối thiểu trên: đó là, nó phải được kiến tạo trên một nền móng vững chắc. Hai chữ vững chắc ở đây có thể được hiểu là phải khả dĩ có thể giải thích được (explainable) dưới ánh sáng khoa học hoặc tâm linh và phải hợp lý (logical, valid reasoning). Để xét nghiệm lại giá trị của Huyền Không, tác giả sẽ lần lượt xét nghiệm từng yếu tố một của cái nền móng nâng đỡ hạ tầng cơ sở của Huyền Không. XÉT NGHIỆM LẠC THƯ Nguồn gốc của Lạc Thư vẫn là một bí ẩn lớn, dầu là người ta nói nhiều về nó và nói suốt một thời gian dài tính bằng thiên niên kỷ. Nó thực sự đại diện cho cái gì thì cũng chẳng ai biết rõ. Người ta chỉ thấy Lạc Thư khác với Hà Đồ ở chỗ hai cặp số 2-7 và 4-9 hoán đổi vị trí cho nhau. Cái mà hiện giờ chúng ta có được, nói tóm lại, chỉ là một mớ lý thuyết/ giả thuyết cộng với một số huyền thoại hoang đường phát xuất từ Hán Thư. Trong cái mớ bừa bộn lý thuyết/ giả thuyết đó, chúng ta thấy có một số lớn học giả thì cho rằng Hà Đồ là “thể” còn Lạc Thư là “dụng.” Thể của Hà Đồ vận động theo chiều “tương sinh” của ngũ hành còn dụng của Lạc Thư vận động theo chiều “tương khắc” của ngũ hành. Điển hình cho lập luận này, tóm lược trong hình H1 và H2, là học giả Kiều Xuân Dũng, tác giả của cuốn Kinh Dịch Diễn Giảng xuất bản tại Hà Nội năm 2006. Hoặc học giả Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, tác giả của cuốn Kinh Dịch Yếu Chỉ, cho thấy trong hình H3. file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image001.gif H1 file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image003.jpg file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image005.jpg Tuy cách trình bày có khác nhau giữa hai hình H1 và H3 nhưng nội dung của chúng đều là trỏ vào một điểm then chốt: Lạc Thư vận hành theo vòng tương khắc ngược chiều với Hà Đồ vận hành theo vòng tương sinh. Ngụ ý của điểm này cần phải được thấy rõ. Đó là, Lạc Thư và Hà Đồ là hai mặt của một đồng tiền. Đó là, thông tin nằm trên Hà Đồ và trên Lạc Thư đều xuất phát từ một hệ thống chung. Còn hình H2 thì cho thấy độ số của Lạc Thư, cũng giống như trường hợp của Hà Đồ, ngoài kết hợp với ngũ hành còn kết hợp với phương hướng, bát quái, khí tiết . . . để những độ số trở thành có ý nghĩa. Những con số tự nó không có ý nghĩa. Chúng chỉ có ý nghĩa thông qua sự kết hợp với những yếu tố khác như ngũ hành, bát quái, thiên can, địa chi, phương hướng, âm dương, vân vân. Hai điểm vừa nêu trên làm cho chúng ta phải suy nghĩ và buộc chúng ta phải cẩn thận xét nghiệm lại giá trị của Lạc Thư. Nếu độ số của Lạc Thư chỉ là những con số độc lập và tự mỗi con số đã có đầy đủ ý nghĩa thì 2-7 và 4-9 có nằm ở vị trí nào cũng không có gì đáng để thắc mắc. Vì trong trường hợp này Lạc Thư hoàn toàn biệt lập với Hà Đồ. Và hai bên không có liên hệ, tức là không xuất phát từ một hệ thống, không nằm trong cùng một hệ thông tin. Nhưng ở đây Lạc Thư và Hà Đồ xuất phát từ một hệ thống chung, là hai mặt của một đồng tiền. Toàn bộ độ số của Hà Đồ và toàn bộ độ số của Lạc Thư là một.[1] Chúng chứa đựng thông tin qua sự kết hợp có hệ thống với những phần tử khác nằm trong sự kết hợp [xem hình 2]. Ở Hà Đồ sở dĩ có độ số 2-7 kết hợp với hành Hỏa, với màu Đỏ, với hướng Nam là vì hàng tháng vào ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 và hàng năm vào tháng 2 tháng 7 quan sát thấy sao Hỏa với sắc Đỏ sậm ở hướng Nam. Và kết hợp với địa chi Ngọ là vì tại hướng Nam của bầu trời có chòm Chu Tước gồm 7 sao là Tinh Mộc Hãn (con bò), Quy Kim Dương (con dê), Liễu Thổ Chương (con cheo), Tinh Nhận Mã (con ngựa), Trương Nguyệt Lộc (con hươu), Dực Hỏa Xà (con rắn), Chẩn Thủy Dẫn (con giun) mà sao con Ngựa nằm vị trí chính giữa của chòm Chu Tước cho nên Ngọ được dùng để xác định hướng chính Nam.[2] Một sự kết hợp có hệ thống, trên cơ sở khoa học thiên văn, hợp lý và nhất quán. Vì thế 2-7 là mã số chứa đựng thông tin “hành Hỏa, sắc Đỏ, hướng Nam, chi Ngọ.” Nhìn thấy 2-7 cũng là nhìn thấy hành Hỏa, màu Đỏ, hướng Nam, chi Ngọ. Độ số 2-7 sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa nếu không kết hợp với hành Hỏa, màu Đỏ, hướng Nam, chi Ngọ. Độ số 2-7 chỉ hiện hữu ở hướng Nam với hành Hỏa, màu Đỏ, chi Ngọ. Nhìn qua hướng khác sẽ không thấy 2-7, hành Hỏa, màu Đỏ, chi Ngọ. Một sự thật đơn giản và dứt khoát. Tương tự, ở Hà Đồ sở dĩ có độ số 4-9 kết hợp với hành Kim, với màu Trắng, với hướng Tây là vì hàng tháng vào ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 và hàng năm vào tháng 4 tháng 9 quan sát thấy sao Kim với sắc Trắng ở hướng Tây. Và kết hợp với địa chi Dậu là vì tại hướng Tây của bầu trời có chòm Bạch Hổ gồm 7 sao là Khuê Mộc Lang (con sói), Lâu Kim Cẩu (con chó), Vị Thổ Trệ (con trĩ), Mão Nhật kê (con gà), Tất Nguyệt Ô (con quạ), Chủy Hỏa Hầu (con khỉ), và Sâm Thủy Viên (con vượn) mà sao con Gà nằm ở vị trí chính giữa của chòm(bach ho) Chu Tước cho nên Dậu được dùng để xác định hướng chính Tây.[3] Một sự kết hợp có hệ thống, trên cơ sở khoa học thiên văn, hợp lý và nhất quán. Vì thế 4-9 là mã số chứa đựng thông tin “hành Kim, sắc Trắng, hướng Tây, chi Dậu.” Nhìn thấy 4-9 cũng là nhìn thấy hành Kim, màu Trắng, hướng Tây, chi Dậu. Độ số 4-9 sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa nếu không kết hợp với hành Kim, màu Trắng, hướng Tây, chi Dậu. Độ số 4-9 chỉ hiện hữu ở hướng Tây với hành Kim, màu Trắng, chi Dậu. Nhìn qua hướng khác sẽ không thấy 4-9, hành Kim, màu Trắng, chi Dậu. Một sự thật đơn giản và dứt khoát. Như vậy, một tập hợp của những phần tử nằm trong sự kết hợp với mỗi cặp số của Hà Đồ tuyệt đối không thể tách rời nhau. Đặc tính “bất khả ly” của những phần tử trong tập hợp đã được tác giả Hà Hưng Quốc nhấn mạnh trong cuốn Việt Dịch và trong những bài viết khác. Điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là, nói một cách thẳng thắn, người ta không thể tùy tiện hoán vị hai cặp số 4-9 và 2-7 của Hà Đồ để làm ra Lạc Thư. Hoán vị chúng thì tức khắc toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ, vì điều kiện đã tạo ra sự hiện hữu của chúng và bảo đảm cho giá trị thông tin nơi chúng đã biến mất. Từ đó có thể nói, nếu đúng sự thật là Lạc Thư thoát thai từ Hà Đồ do hoán vị 2 cặp số 2-7 và 4-9 thì chúng ta có thể khẳng định Lạc Thư là một sản phẩm hoàn toàn không có giá trị. Còn nếu cho rằng Lạc Thư và Hà Đồ không xuất phát từ một hệ thống, tức là cho rằng Lạc Thư và Hà Đồ hoàn toàn độc lập, thì sẽ đưa đến sự nhận thức về một tình huống không thể tránh là: bộ độ số của Lạc Thư hoàn toàn khác với bộ độ số của Hà Đồ dầu rằng những con số có giống nhau. Điều này cũng có nghĩa là thông tin chứa đựng trong bộ độ số của Lạc Thư hoàn toàn khác với thông tin chứa đựng trong bộ độ số của Hà Đồ. Nói một cách khác, Hà Đồ và Lạc Thư không phải là hai mặt của một đồng tiền. Nếu là vậy thì, thông tin chứa đựng trong bộ số của Hà Đồ chúng ta đã biết rõ còn thông tin chứa đựng trong bộ số của Lạc Thư có ai biết không? Thông tin của Lạc Thư mà chúng ta biết hiện giờ thực ra chỉ là vay mượn từ Hà Đồ. Nếu là vậy thì, liệu là chúng ta có thể đồng tình với sự “tùy tiện vay mượn thông tin” chứa trong bộ độ số của Hà Đồ rồi đưa qua cho Lạc Thư để “2-7, hành Hỏa, hướng Nam” biến thành “2-7, hành Hỏa, hướng Tây”? Nếu là vậy thì, liệu là chúng ta có chấp nhận cái lôgic kỳ cục là cặp số 2-7 vừa là hành Hỏa ở hướng Nam vừa là hành Hỏa ở hướng Tây và của cặp số 4-9 vừa là hành Kim ở hướng Tây vừa là hành Kim ở hướng Nam, khi mà cả hai qui chiếu về cùng một hệ thời-không? Nếu là vậy thì, sau khi loại bỏ sự vay mượn thông tin và cái lôgic kỳ cục đó, làm gì còn có cái gọi là hành Hỏa trong cặp số 2-7 để mà lập luận Lạc Thư vận hành theo vòng tương khắc của ngũ hành? Nói tóm lại, một Lạc Thư có giá trị không thể thoát thai từ Hà Đồ để củng cố lập luận tương sinh tương khắc của ngũ hành với lý do đơn giản là vì 2-7 và 4-9 của Hà Đồ không thể hoán vị để làm ra Lạc Thư. Còn nếu như Lạc Thư quả thật được hình thành từ Hà Đồ do hoán vị hai cặp số 2-7 và 4-9 thì Lạc Thư là một sản phẩm hoàn toàn không có giá trị, đơn giản chỉ vì điều kiện cho sự hiện hữu và tiếp tục bảo đảm giá trị của những thông tin chứa đựng trong Hà Đồ đã bị vi phạm trong Lạc Thư và theo đó gây ra sự sụp đổ toàn diện giá trị của thông tin trong Lạc Thư. Một số học giả khác thì cho rằng Lạc Thư có nguồn gốc từ thiên văn và hoàn toàn biệt lập với Hà Đồ. Điển hình trong số này có Kiều Quang Dũng, Trần Quang Nguyên và Trần Anh Tùng. Theo các học giả này thì Lạc Thư là một bản đồ mô tả những chùm sao quan trọng nhất trong Tam Viên. Xem hình H4 bên dưới. file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image007.jpg Nếu đúng là như vậy thì Lạc Thư và Hà Đồ là hai sản phẩm hoàn toàn biệt lập trong xuất xứ và hoàn toàn biệt lập trong thông tin nó chứa đựng. Về mặt xuất xứ, những chùm sao trong Tam Viên là cơ sở của Lạc Thư còn Ngũ Tinh trong Thái Dương Hệ là cơ sở của Hà Đồ. Về mặt thông tin, những con số của Lạc Thư là biểu thị số sao của những chùm sao trong Tam Viên còn những con số của Hà Đồ là biểu thị sự chuyển động của Ngũ Tinh trong Thái Dương Hệ. Những con số của Lạc Thư chỉ thuần tuý là những con số đếm [số ngôi sao] trong khi những con số của Hà Đồ là những con số chứa đựng thông tin về thời-không mô tả sự vận động của Ngũ Tinh [vì thế mà có từ “ngũ hành” tức ngũ tinh vận hành chăng?]. Tuy bộ độ số của Lạc Thư [từ 1 tới 9] và bộ độ số của Hà Đồ [từ 1 tới 10] nhìn thì có giống nhau nhưng bản chất và thông tin chứa đựng bên trong bộ độ số hoàn toàn khác nhau [cũng giống như ký hiệu i trong toán học là biểu thị của véctơ còn ký hiệu i trong kinh tế là biểu thị của lãi suất]. Nói cho rõ hơn là 2-7 của Lạc Thư không phải là 2-7 của Hà Đồ. Cặp số 2-7 của Hà Đồ chứa đựng thông tin “hành Hỏa, màu Đỏ, hướng Nam, chi Ngọ” nhưng 2-7 của Lạc Thư chỉ chứa đựng thông tin “2 ngôi sao-7 ngôi sao.” Tương tự, 4-9 của Lạc Thư không phải là 4-9 của Hà Đồ. Cặp số 4-9 của Hà Đồ chứa đựng thông tin “hành Kim, màu Trắng, hướng Tây, chi Dậu” nhưng 4-9 của Lạc Thư thì chỉ chứa đựng thông tin “4 ngôi sao-9 ngôi sao.” Phân tích trên vạch ra cho chúng ta thấy một hệ quả tất yếu là những nỗ lực đánh đồng thông tin giữa bộ độ số của Lạc Thư với bộ độ số của Hà Đồ là một sai lầm nghiêm trọng. Không may là trên thực tế, suốt một thời gian dài, người ta đã làm điều đó. Ngũ hành, thiên can, địa chi, phương hướng, khí tiết . . . đi chung với độ số của Hà Đồ là có cơ sở khoa học và hợp lý. Cũng là những yếu tố đó nhưng khi đi chung với Lạc Thư thì hoàn toàn không có cơ sở khoa học và hoàn toàn phi lý. Điểm lại tất cả những gì vừa được trình bày qua, nhìn từ bất cứ góc độ nào, dầu là từ hướng lập luận Lạc Thư thoát thai từ Hà Đồ hay từ hướng lập luận Lạc Thư hoàn toàn biệt lập với Hà Đồ, thì Lạc Thư vẫn là một sản phẩm không giá trị khi mà những con số Lạc Thư được ghép chung với ngũ hành, thiên can, địa chi, phương hướng, tiết khí. Như đã nói, hạ tầng cơ sở của Huyền Không được kiến tạo trên một nền móng mà Lạc Thư là một trong ba yếu tố của nền móng đó. Thật đáng tiếc, Huyền Không là một bộ môn được rất nhiều người hâm mộ nhưng Lạc Thư lại là một sản phẩm không giá trị. Đó là chưa nói tới, trên bình diện ứng dụng, sự vận hành của Ngũ Tinh tác động lên sự sống trên địa cầu là có thật và được khoa học minh chứng. Còn những chòm sao trong Tam Viên xa xôi tác động lên sự sống trên địa cầu này được bao nhiêu và ra sao? XÉT NGHIỆM LƯỢNG THIÊN XÍCH Huyền Không phân bố 9 con số của Lạc Thư theo một quỷ đạo cố định có tên là Lượng Thiên Xích. Gọi là Lượng Thiên Xích vì nó được coi là một cây thước [Xích] để đo lường [Lượng] vận trời [Thiên]. Lượng Thiên Xích còn được gọi là Cửu Tinh Đãng Quái, hay là thứ tự di chuyển của Cửu Tinh trong Lạc Thư. Nói về vòng Lượng Thiên Xích thì sách Trạch Vận Tân Án có viết “Thùy đắc Lượng Thiên Xích nhất chi; Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi; Tử sinh đắc thất tùy thám sách; Quá hiện vị lai liễu liễu tri.” Tạm dịch là: Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích; Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay; Tìm hiểu được sự sống chết và được mất; Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai. Quỹ đạo của vòng Lượng Thiên Xích đi từ Trung Cung (TC) tới Tây Bắc (TB) > Tây (T) > Đông Bắc (Đfile:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image008.gif > Nam (N) > Bắc (file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image008.gif > Tây Nam (TN) > Đông (Đ) > Đông Nam (ĐN) > trở về lại TC. Nếu 1 vào TC thì 2 “bay” tới TB, 3 bay tới T, 4 bay tới ĐB, 5 bay tới N, 6 bay tới B, 7 bay tới TN, 8 bay tới Đ, và 9 bay tới ĐN. Nếu 2 vào TC thì 3 bay tới TB, 4 bay tới T, 5 bay tới ĐB, 6 bay tới N, 7 bay tới B, 8 bay tới TN, 9 bay tới Đ, và 1 bay tới ĐN. Cứ tuần tự cho các số từ 1 tới 9 bay vào TC thì chúng ta sẽ có một bảng “kết quả “phi vụ” như trong hình H5 bên dưới. LTX thuận và LTX nghịch không khác nhau nhiều lắm, chỉ khác ở chỗ LTX thuận đi từ số nhỏ tới số lớn còn LTX nghịch thì ngược lại. Thoạt nhìn vào quỹ đạo của LTX, những lằn tên đỏ đan chéo qua lại trong hình H5, chúng ta sẽ có cảm giác nó là một cái gì rất tinh vi và đầy bí ẩn. Nhưng khi nhìn vào bảng “kết quả phi vụ” thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra rằng cái gọi là quỹ đạo của LTX chỉ là vị trí của một chuỗi số xếp theo thứ tự liên tục. Đặt hình LTX [hình bên phải] chồng lên trên hình Lạc Thư cửu cung [hình bên trái] rồi đối chiếu với chuỗi số màu đỏ [là vị trí của những con số Lạc Thư nằm trong cửu cung], không khó để chúng ta nhận ra rằng quỷ đạo của LTX hoàn toàn mô phỏng theo vị trí của những con số Lạc Thư nằm trên cửu cung được chúng ta dõi mắt nhìn theo thứ tự. file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image010.jpg Như vậy, nó đã cho thấy quá rõ là quỹ đạo LTX chẳng kết nối với một hiện thực vật lý hay thiên văn nào cả. Nó chỉ là một sản phẩm được “chế tác” từ mô phỏng vị trí của những con số trong Lạc Thư theo lộ trình “thứ tự” lớn nhỏ. Một sản phẩm chế tác không có cơ sở khoa học hổ trợ, cũng không có cơ sở tâm linh hổ trợ, mà lại là một trong những yếu tố làm nền móng để xây dựng hạ tầng cơ sở cho Huyền Không quyết đoán trạch vận, quyết đoán sống chết của con người thì quả là . . . kinh khủng. XÉT NGHIỆM TAM NGUYÊN CỬU VẬN Tam Nguyên Cửu Vận là một chu kỳ thời gian dài 180 năm. Mỗi một chu kỳ này được chia ra làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn dài 60 năm gọi là Nguyên. Tam Nguyên gồm có Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia thành ba Vận, mỗi Vận dài 20 năm. Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên. Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên. Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên. Gọi chung là Cửu Vận. Thời điểm khởi đầu cho mỗi Vận mà giới Huyền Không phong thủy gia sử dụng và được phổ biến rộng trong quần chúng thì giống như nội dung trong hình H6 bên dưới. file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image012.jpg Tại sao một chu kỳ của Tam Nguyên Cửu Vận là 180 năm mà không dài hơn hoặc ngắn hơn? Các thầy Huyền Không giải thích: “Còn sở dĩ người xưa lại dùng chu kỳ 180 năm (tức Tam Nguyên Cửu Vận) làm mốc xoay chuyển của thời gian là vì các hành tinh trong Thái Dương hệ cứ sau 180 năm lại trở về cùng nằm trên 1 đường thẳng. Đó chính là năm khởi đầu cho Vận 1 của Thượng Nguyên. Dùng đó làm mốc để tính thời gian, người ta có thể suy ra Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất.” (Nguồn: phongthuyhuyenkhonghoc. http://www.khongtu.com). Dựa vào sự giải thích trên thì chúng ta có thể hiểu là chu kỳ Tam Nguyên Cửu Vận có liên hệ tới thiên văn, có cơ sở khoa học, và có vẽ hợp lý. Thời gian 60 năm của mỗi Nguyên dài bằng thời gian của hai Kỷ, của 6 con Giáp, của một Lục Thập Hoa Giáp. Lấy 180 năm chia cho 9 con số đại biểu cho 9 vận sẽ cho ra 20 năm mỗi vận, tức là tròn 2 con giáp cho mỗi vận, và năm đầu của mỗi vận luôn luôn rớt vào năm có chữ Giáp. Tuyệt! Nhưng mà, vận hành của tinh tú trong hệ mặt trời thì có ăn nhập gì với Lạc Thư? Ngũ Tinh trong Thái Dương Hệ là cơ sở của Hà Đồ cho nên sự vận hành của những tinh thể trong hệ mặt trời này liên quan chặt chẽ với Hà Đồ là hợp lý và chu kỳ 180 năm đối với Hà Đồ cũng là hợp lý. Nhưng với Lạc Thư thì hoàn toàn không có lý. Không có lý vì nếu cơ sở của Lạc Thư là những chòm sao trong Tam Viên xa xôi thì sự vận hành của những tinh thể trong Thái Dương Hệ đối với nó chẳng có một dây nối kết nào. Mà như vậy thì việc nhập nhằng chu kỳ của những tinh thể trong Thái Dương Hệ với Lạc Thư quả là một sự khiên cưỡng. Không có lý vì nếu như Lạc Thư thoát thai từ Hà Đồ thì bản thân Lạc Thư còn không có giá trị thì nói chi tới sự liên hệ của nó với chu kỳ của những thiên thể trong Thái Dương Hệ. Chưa hết, quỹ đạo của những hành tinh trong thái dương hệ là vòng tròn hoặc gần tròn và cấu trúc số của Hà Đồ cũng là trên cơ sở đó. Còn cấu trúc số của Lạc Thư thì hoàn toàn “lạc quẻ” trong thế giới của Thái Dương Hệ. Thêm vào đó Huyền Không lại còn có cái quỹ đạo LTX hoàn toàn không có một mảy tương đồng với quỹ đạo của những hành tinh trong Thái Dương Hệ thì làm sao có thể cho rằng sự vay mượn chu kỳ của hệ mặt trời đem áp vào Lạc Thư là hợp lý được?? KẾT LUẬN Thiên Đồng, một hội viên tích cực của Diễn Đàn Lý Học Đông Phương, đã nhận xét: “Phong thủy nghiên cứu nhiều mặt của một mối tương tác, hình thành nên nhiều cái gọi là trường phái. Loan đầu, hình lý khí chủ yếu nghiên cứu về tương tác của môi trường sống và vật thể cần xem xét ( có thể là 1 ngôi nhà, 1 dinh thự, 1 công trình kiến trúc,1 cụm nhà, hay cả 1 đô thị) quan điểm rất gần với kiến thức hiện đại nên dễ hiểu, dễ được thừa nhận. Nhưng với Huyền không phi tinh lại nghiên cứu tương tác giữa vật thể cần xem xét và vũ trụ, vũ trụ trong huyền không lại không hoàn toàn giống vũ trụ trong thiên văn học hiện đại ( có thể nó dựa trên 1 hệ qui chiếu khác) nên trở nên rất khó hiểu, vô căn cứ, không khoa học.” (Nguồn: Diễn Đàn Lý Học Đông Phương, trang Mạn Đàm). Tác giả không thể nào không đồng ý với nhận xét trên của Thiên Đồng. Như đã nói, Tinh Bàn là “hạ tầng cơ sở” của Huyền Không. Cái hạ tầng cơ sở đó được xây dựng trên một nền móng gồm 3 yếu tố: Lạc Thư, Lường Thiên Xích và khung thời gian gọi là Tam Nguyên Cửu Vận. Muốn xét nghiệm giá trị của Huyền Không không thể không xét nghiệm hạ tầng cơ sở này trước tiên. Và qua xét nghiệm từng yếu tố một, phải thành thật nói rằng cái nền móng của Huyền Không thực sự là không vững. [1] Không phải tác giả nói mà là từ lý thuyết/ giả thuyết nằm dưới sự xét nghiệm của tác giả đã nói như vậy. [2] Kiều Nguyên Tùng (206), Tử Vi Chân Thuyên, tr. 306, NXB LuLu, USA. <a href="http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=5822254419483127328#_ftnref3" title="">[3] Kiều Nguyên Tùng (206), Tử Vi Chân Thuyên, tr. 306, NXB LuLu, USA. Nguồn: http://vietdich.word...-ha-d%E1%BB%93/<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Lũy Tre.Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yênNhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mìnhTôi chợt biết rằng vì sao tôi sốngVì đất nước cần một trái tim ! 2 file:///C:DOCUME~1ADMINI~1LOCALS~1Tempmsohtml11clip_image014.gif
  9. Cháu chào Ngài! Cháu tình cờ được biết đến phong thuỷ Lạc Việt từ vụ Ngài dự báo thời tiết Đại Lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội, hồi đó cháu theo dõi từng ngày xem Thiên Sứ đoán đúng không và đúng là Đại Lễ không phải dùng phương án vào nhà. Quận Hoàng Mai nhà cháu quả thực không mưa, có thì cũng chỉ lác đác vài giọt vào ban đêm, có lúc ban ngày mây mù cháu tự nhủ có lẽ Thiên Sứ thua mấy nhà khoa học trên báo rồi, nhưng rồi trời như trêu ngươi mấy ông chỉ trích Ngài, mây mù lại tan đi. Cháu thấy Ngài dám dũng cảm tuyên bố nếu mai Lễ ở đài tưởng niệm Lý Thái Tổ mà có mưa thì Ngài sẽ chụp ảnh ướt như chuột và cho lên diễn đàn, quả thực cũng thấy hồi hộp và thú vị. Đại Lễ thành công tốt đẹp cộng với thời tiết Hà Nội có lúc se se có thể mặc vest, 10 ngày nhạy cảm đó có ông Lạc Thư Văn Vương nào dám tuyên bố đoán thời tiết trên truyên thông đại chúng cho 7 ngày Đại Lễ như Thiên Sứ đâu??? để rồi bây giờ lại đánh phá chỉ trích ngài vì dám nói Văn Minh Lạc Việt huyền vỹ??? 10 ngày dùng Văn Minh Lạc Việt đoán thời tiết cho đại lễ, quả là dũng cảm và kiên cường đúng như tinh thần Việt. Cháu thấy Hà Đồ Lạc Việt rất hay. Không biết Sư Phụ của Thiên Sứ là ai???Ngài rất khách quan và thực tế mà không kém phần uyên bác hài hước như ca dao dân ca Việt, Ngài không sáo rỗng khô khan. Cháu vừa đọc xong cuốn Tìm Về Cội Nguồn Kinh Dịch của Ngài viết, rất dễ hiểu với cả người trình độ phong thuỷ từ số 0 như cháu, thật bất ngờ những câu ca dao Việt, những bức hoạ dân gian Việt , những truyền thuyết Việt lại chứa đựng những mật ngữ thông thái mà Ông Cha ta đã gửi gắm cho hậu thế vì Giặc Giã và Kẻ Thù luôn tìm cách triệt Phá cướp đi. Nhưng giá như trong cuốn sách của Ngài nói về Vua Phục Hy là người dân tộc nào, Bách Việt hay Hán thì nội dung còn phong phú và hay hơn nữa. Ngài dũng cảm chứng minh Việt Sử 5000 năm Văn Hiến một thời Huyền Vỹ. Nếu ai nói Hà Đồ Lạc Việt sai, Lạc Thư Hán mới đúng thì hãy thử nghiệm đi nào, hãy phi tinh huyền không cho chính căn nhà của mình xem Càn-Khôn đúng, hay Càn-Tốn đúng??? Cuối cùng cháu chúc Ngài mạnh khoẻ! Cầu mong tổ tiên Lạc Việt phù hộ Ngài! " Bách Việt Nguồn: [ www.cqvip.com/qk/80164…] Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt Trung Quốc , thành lập năm 1980, mỗi hai năm tổ chức một lần hội thảo trong nước hoặc quốc tế, chuyên đề Bách Việt . Hội do đoàn thể nghiên cứu học thuật có tính toàn quốc thuộc khoa nghiên cứu nhân loại học Học viện nhân văn Đại học Hạ Môn phụ trách, văn phòng tại phòng 303 tầng 3 Bảo tàng nhân loại học Đại học Hạ Môn. Hàm nghĩa “Bách Việt ”: Bách Việt còn gọi là Việt Tộc hoặc Cổ Việt Nhân, là tên gọi dân tộc cổ đại vùng Đông Nam và Nam TQ. Tên Bách Việt có ghi sớm nhất trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là phía nam đất Hán là đất Bách Việt.. Các nhà sử học cho rằng dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc. Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời. Như Nghiêu, Thuấn, Vũ trong truyền thuyết chính là tiên dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu. Thời Thương sử thư có ghi lại hoạt động của dân tộc Việt. Cái tên Việt là do lấy tên công cụ và binh khí của họ là “Dương Việt “ là tên chung nhất. Không gian phân bố của họ rất rộng. Bộ phận gần Hoa Hạ nhất gọi là Ư Việt, nhưng họ rõ rang khác hẳn Hoa Hạ. Do Việt Tộc có nhiều chi hệ, lại phân bố rất rộng nên sử thư cuối thời Chiến Quốc gọi chung họ là Bách Việt. [ Đoạn trên nói Dương Việt 扬 越 là tên gọi công cụ đồng thời là binh khí, mệnh danh cho Việt Tộc. Bản thân chữ Dương Việt 扬 越 theo biểu ý của chữ là Giơ Vẹt (QT Tơi-Rỡi: Giơ Vẹt = Dương Việt) . Vẹt là cái rìu đá hình vuông dẹt ( QT Lướt: “Vuông Dẹt” = Vẹt, mà khảo cổ Quảng Tây gọi là cái “xẻng đá”, Tiếng Việt còn có các dụng cụ khác như cái bàn Vét là công cụ làm nông, cái Vá làm bằng miếng vỏ gáo dừa ] Sử thư gọi chung dân phương Nam là Man hoặc Tam Miêu, họ có chung cội nguồn sâu xa với Bách Việt. Đại khái đến đầu thời Thương, dân tộc vùng Bách Việt đã từ Man, Miêu phân chia ra nhiều dân tộc có tên gọi khác nhau, như theo《 Dật Chu thư. Vương Hội giải 逸 周 书• 王 会 解》 là các tên Khu Thâm 沤 深, Việt Khu 越 沤, Đặng 邓, Quế Quốc 桂 国, Tổn Tử 损 子, Sản Lý 产 里, Bách Bộc 百 濮, Cửu Quốc 九 国, Đông Việt 东 越, Âu Nhân 瓯 人, Ư Việt 于 越, Cô Muội 姑 妹, Thả Âu 且 瓯, Cộng Nhân 共 人 v.v. đều nằm ở đất phía Đông hoặc phía Nam vương triều Thương Chu, đại bộ phận tộc xưng trên đều có quan hệ với hệ thống Bách Việt. Thời kỳ Tây Chu, danh xưng Việt 越 đã xuất hiện phổ biến . Ngoài sách trên, sách 《Chu lễ. Đông quan khảo công ký 周 礼• 冬 官 考 工 记》 có danh xưng Ngô Việt “吴 粤”; sách 《Trúc thư kỷ niên 竹 书 纪 年》 ghi Chu Thành Vương năm thứ 24 ( 1040 BC) có “Ư Việt lai tân 于 越 来 宾 khách Ư Việt đến thăm”, trong đó có “吴” tức Ngô Quốc, thuộc một chi của Bách Việt; có “Ư Việt 于 越” tức tộc xưng Việt Quốc. Ngoài đó ra trong sách 《Chu lễ. Chức phương thị 周 礼• 职 方 氏 》 còn nói đến tên gọi “Thất Mân 七 闽 ” . Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc lịch sử Việt Tộc tiến vào thời kỳ lịch sử mới, người Việt vùng là Giang Tô, Triết Giang ngày nay kiến lập nên Ngô Quốc và Việt Quốc, quật khởi ở vùng hạ du Trường Giang tiến hành tham gia tranh bá, người Việt ở các vùng khác cũng rất là hoạt bát, bởi vậy lúc này danh xưng Việt Tộc đã đại hiển ư thế, danh xưng này được sử gia dùng phổ biến. Trong sử thư “Bách Việt” ngoài được gọi là “Dương Việt 扬 越 ” cũng còn được gọi là “Di Việt 夷 越 ” . [ QT Tơi-Rỡi thì Giơ= Dương = Dứ = Dí = Di , là một nôi khái niệm “hành động” . Giơ Vẹt = Dương Việt là mệnh danh cho Việt Tộc tức là Bách Việt. Kẻ dính Bách Việt lại để lập nên quốc gia là một người Kinh là Kinh Dương Vương, là kẻ dẫn đầu các chi hệ Bách Việt lập nên quốc gia Văn Lang ở Nam Dương Tử cách nay 5000 năm. Kẻ Dính = Kẻ Dẻo = Cần Keo = = Gắn Kết ( Tiếng Việt “Kẻ” nghĩa là người, tiếng Tày “Cần Keo” nghĩa là người Kinh. “Kẻ Dính” = Kinh .Thành ngữ “dính như bánh chưng” nói ý quyến luyến mãi ngày Tết . Truyền thuyết “Bánh Chưng bánh Dầy” đã nói rõ người Kinh là chủ bản quyền của bánh chưng. “Kẻ Dính” = “Câu Đinh” = Kinh. Sách Thủy Kinh Chú có ghi bốn ngàn năm trước công nguyên có quốc gia cổ đại gọi là Câu Đinh 勾 町 , mà diện tích bao trùm vùng rộng lớn ngày nay thuộc Vân Nam - Điền, Qúi Châu, Quảng Tây - Quế , Quảng Đông và Việt Nam ] Câu Ngô và Ư Việt trong thời Chiến Quốc đã bị diệt quốc. Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc xong tại đất cũ của Ngô Việt đặt thành quận Cối Kê. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” ngoài ghi lại sử của Ngô Việt thời Tiên Tần như các cuốn “Ngô thế gia”, “Việt thế gia” còn ghi các cuốn chuyên là “Nam Việt liệt truyện” và “Đông Việt liệt truyện”. Đến thời kỳ Tần Hán thì trong thư tịch xuất hiện các từ “Mân Việt”, “Đông Âu”, “Nam Hải”, “Nam Việt”, “Tây Âu”, “Lạc Việt”, “Điền Việt” v.v. là quốc danh hoặc tộc danh của người Việt. Những danh xưng này tuy xuất hiện muộn hơn trong lịch sử, nhưng không có nghĩa là những tộc hay nước này của Bách Việt đến đời Hán mới xuất hiện. Họ giống nhau là có một lịch sử phát triển lâu dài, cùng một dân tộc cổ xưa. [ Nhận định này đúng như cái tên chung của “cùng một dân tộc cổ xưa” mà trong Tiếng Việt có thể thấy bằng QT Tơi-Rỡi: Nam Việt = Nậm Việt = Nước Việt = Nác Việt = Lạc Việt = Lắm Việt = Trăm Việt = Bẵm Việt = Bẫm Việt = Bộc Việt = Bách Việt ] Trong Hán Thư 《汉书》 đã đem đổi chữ Việt “越” thành chữ Việt “粤”. Thế nhưng, thời kỳ này từ và chữ “Bách Việt 百 越” đa phần là dùng để chỉ người Việt ở vùng Lĩnh Nam. Ngoài đó ra còn theo phương vị để xưng hô như Đông Việt, Nam Việt, Tây Việt v.v. trong Sử Ký có chỗ dùng từ Đông Việt để chỉ Mân Việt, cũng có dùng để chỉ Đông Âu, nhưng có chỗ dùng chỉ tộc xưng và quốc danh xưng như Nam Việt, thành ra về tộc xưng có nhiều hỗn loạn. Sau khi Hán Vũ Đế thống nhất Tây Nam Di, Nam Việt và Mân Việt thì danh xưng Bách Việt và danh xưng các chi tộc Việt dần dần biến mất, người Việt tụ cư ở ven biển Đông Nam bị cưỡng bức di cư lên vùng Giang Hoài, có bộ phận thì bị Hán Tộc đồng hóa. Nhưng vẫn có bộ phận người Việt tản cư ở Giang Tây, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, lui vào các vùng núi và bị gọi là Sơn Việt “山 越”. Sơn Việtlà hậu duệ của Bách Việt. Từ thời Đường về sau danh xưng Sơn Việt cũng biến mất. " 5
  10. Cảm ơn Anh! Tôi vừa tham gia diễn đàn nên dùng còn chưa thạo, Chúc Anh ngủ ngon!
  11. Chào Anh Thiên Luân! Cảm ơn Anh đã bật mí giúp tôi. Theo tôi hiểu nôm na thì nếu ai đó lên Nam cực đặt La Kinh vào giao điểm của hai đường kinh tuyến vuông góc đi qua đỉnh cực thì nếu có thể có khoảng trống, kim la kinh sẽ dựng vuông góc với mặt La Kinh, mũi tên Bắc hướng xuyên tâm địa cầu về cực Bắc, mũi tên chỉ Nam sẽ hướng lên bầu trời Nam cực. Tấm Hà Đồ Lạc Việt sẽ dịch chuyển trên bề mặt Nam cực, cung Khảm sẽ hướng theo kinh tuyến về cực bắc, cung Ly sẽ nằm tại giao điểm của hai đường kinh tuyến vuông góc tại đỉnh Nam cực, và số 7 Thất Xích cũng nằm ở đó.
  12. Cập nhật lúc Hôm nay, 11:41 PM Kính gửi Ngài Thiên Sứ! Cháu vừa đọc xong cuốn Tìm Về cội nguồn kinh dịch của Ngài, cháu thấy rất hay và qua đây cháu muốn hỏi ngài rằng,trong Huyền Không Lạc Việt sao Thất Xích 7 màu đỏ là an ở phương Chính Nam cung Ly thì chữ Xích có liên quan gì đến đường xích đạo của địa cầu hay không? Sài Gòn Việt Nam gần đường xích đạo, vậy nếu ở một quốc gia phía gần vị trí nam bán cầu mà đường xích đạo lại ở phía Bắc nước đó thì Hà Đồ Lạc Việt có còn đúng không, Phong Thủy gia Lạc Việt đến đó làm phong thủy thì cung Ly còn tính ở Chính Nam không? Và nếu Phong Thủy Gia Lạc Việt lên đỉnh Nam Cực làm phong thuỷ thì Hà Đồ Lạc Việt có ứng dụng tốt không? Hà Đồ Lạc Việt có tính tổng quát toàn cầu không? Cháu rất mong nếu Ngài có thời gian rảnh thì vào diễn đàn tư vấn giúp cháu, Cháu xin cảm ơn Ngài!
  13. Kính gửi Ngài Thiên Sứ! Cháu vừa đọc xong cuốn Tìm Về cội nguồn kinh dịch của Ngài, cháu thấy rất hay và qua đây cháu muốn hỏi ngài rằng,trong Huyền Không Lạc Việt sao Thất Xích 7 màu đỏ là an ở phương Chính Nam cung Ly thì chữ Xích có liên quan gì đến đường xích đạo của địa cầu hay không? Sài Gòn Việt Nam gần đường xích đạo, vậy nếu ở một quốc gia phía gần vị trí nam bán cầu mà đường xích đạo lại ở phía Bắc nước đó thì Hà Đồ Lạc Việt có còn đúng không, Phong Thủy gia Lạc Việt đến đó làm phong thủy thì cung Ly còn tính ở Chính Nam không? Và nếu Phong Thủy Gia Lạc Việt lên đỉnh Nam Cực làm phong thuỷ thì Hà Đồ Lạc Việt có ứng dụng tốt không? Hà Đồ Lạc Việt có tính tổng quát toàn cầu không? Cháu rất mong nếu Ngài có thời gian rảnh thì vào diễn đàn tư vấn giúp cháu, Cháu xin cảm ơn Ngài!