phamhung

Lớp Địa Lý Lạc Việt
  • Số nội dung

    2.356
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    39

Everything posted by phamhung

  1. Tiểu phương cho Phamhung 1 quẻ đi 19.4.1974
  2. Tiểu phương xem giùm Phạm Hùng Trung Kiên sinh ngày 15/3/2008 thanks!
  3. Thân chào Haiphuong! Đọc topic của bạn đúng là điều không may đã ập đến với các bạn, tôi gửi lời thăm hỏi xâu sắc đến bạn và gia đình, cầu chúc cho chồng bạn mau lành bệnh. Từ khi biết đến diễn đàn đến nay tôi đã được nghe nhiều người nói về Cụ Thiên sứ rồi. Cụ đã nói giúp là giúp, bạn yên tâm đi, Cụ đã "sắn tay" vào là ổn cả thôi. Mong bạn nghiêm túc thực hiện những việc như lời cụ dặn. Đã có tín hiệu vui cho bạn rồi đó, chúc mừng bạn nhiều. Hãy cố gắng lên bạn nhé!
  4. <h2 class="title"> Phong thuỷ: Đại địa mạch quốc gia </h2> Những tìm hiểu của KTS Trần Thanh Vân về đại địa mạch quốc gia.Chuyện 700 năm trước. trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống. Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau: Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận Người giỏi bày trận thì không cần đánh Người giỏi đánh thì không thua Người khéo thua thì không chết Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ. Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long. Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta? Đền Cửa Ông không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long Khi bí mật không còn là bí mật Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Sơ đồ đại địa mạc Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước. Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả. Cái chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không? Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch” Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu… Thế nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne? Cảng Vân Đồn Am Mỵ Châu thờ ai? Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau. Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta. Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi: - Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không? - Dạ không Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa. Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.” - Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không? - Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay. - Vậy làm cách nào để khắc phục? - Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không? - Có ạ, có ạ! - Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán. Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!” Nguồn Tuần Việt Nam (Bài chỉ có tính chất tham khảo) Xin Sư phụ và các anh/chị đọc và cho ý kiến ạ!
  5. Thân chào Ntpt! Phamhung cũng xin tham gia đây, dãy số của phamhung là 747815308 mong ntpt xem thử.
  6. Thay mặt gia đình và cá nhân em nó, Rất, rất cám ơn anh Thiện Luân, phamhung sẽ bảo em nó tính toán và thực hiện sao cho đúng và cũng còn hy vọng vào may mắn nữa vì không biết ông trời có thương mà cho sinh con đúng vào năm mong muốn không? Tóm lại là: Con đầu sinh năm 2012 và con thứ 2 (con út) có thể sinh vào các năm 2016 hoặc 2017 anh nhỉ? Một lần nữa cám ơn anh nhiều nhiều!
  7. Thank Bác Tuấn Dương! Phamhung sẽ chờ đợi xem và sẽ báo lại cho bác. Bác làm ơn hướng dẫn cách nạp âm cho quẻ hộ phamhung với, vì phamhung chưa biết cách. Thanks bác!
  8. Kính các cụ, Con xin góp 1 bài NỤ HÔN LIỀU Em là người tôi hằng ao ước Tôi vẫn thầm mong và tôi vẫn thầm yêu Giây phút ấy không sao cưỡng lại được Tôi đã trao em một nụ hôn liều Em e thẹn đỏ bừng đôi gò má Mắt long lanh như một anh sao chiều Tôi ôm gọn tấm lưng mềm thon thả Nghe khơi xa dào dạt nhịp thủy triều Tôi đã hôn như một gã cuồng say Tôi đã hôn như một người đói khát Làn da em làn da thơm mát Vừa mới động vào, hồn tôi đã ngất ngây Ký ức ghi một giây phút tuyệt vời Nụ hôn ấy sẽ trở thành bất tử Không tương lai cũng không là quá khứ Nụ hôn liều cháy bỏng cả làn môi
  9. Sấm ký trạng Trình : diễn giải về việc bộ đội cụ Hồ tiếp quản thủ đô Trong Sấm ký Trạng Trình in năm 1948 (*nguồn) có bài kệ 4 câu: Cửu cửu càn khôn dĩ định Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập Tràng An. Có cách lý giải phổ biến là: Trời đất định rằng chín lần chín 81 năm, vào tiết thanh minh sức dịch đã tàn. Đến đầu năm dê và đuôi năm ngựa (1954) tám vạn binh Hồ tiến vào kinh đô. 1- Nếu "cửu cửu" ở đây là đúng thì có nghĩa là 9x9= 81 năm. Tức là sau 81 năm đô hộ của Pháp hoặc nếu câu này đặt trong văn cảnh của cả 4 câu thơ trên thì có dị bản khác là "cửu niên" tức là 9 năm kháng chiến (45-54). 2 -Thanh minh thời tiết hoa tàn là tiết trời trong sáng hoa tàn. 10/10/1954 là đang tiết thu. 3- Vào khi tiết trời trong xanh mát mẻ, hoa cỏ thay đổi (mùa thu) cuối năm Ngọ, đầu năm Mùi (1954 Giáp Ngọ - 1955 Ất Mùi). 4 - Tám vạn (80.000 khoảng 10 sư đoàn) quân Hồ sẽ vào Tràng An. Những ý tứ đó ám chỉ cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm của đất nước do Hồ chủ Tịch lãnh đạo (quân Hồ ở đây còn có nghĩa là bộ đội cụ Hồ). Còn có cách hiểu quân Hồ theo nghĩa rợ hồ phương Bắc thì có lẽ không hợp lý vì nếu trạng Trình là người Hán thì mới có RỢ HỒ. Còn trạng Trình là người nước Việt thì không có lý gì lại ám chỉ Hồ quân là rợ Hồ. Bài sấm ký (nếu là) đã được in từ năm 1948, nghĩa là trước ngày tiếp quản thủ đô (10/10/1954) đến 6 năm, thì cách lý giải cho rằng bài sấm được dân gian tạo nên để thần thánh hóa cụ Hồ cũng là không hợp lý. Tuy nhiên, không có con số cụ thể nào nêu ra rằng quân tiếp quản thủ đô lên đến 8 vạn. Tiên tri về việc Hồ Chí Minh ra đời Có 3 câu sấm ký không thấy sách vở nào ghi lại mà chỉ do các cụ bô lão của huyện Nam Đàn kể lại : truyền rằng, Trạng Trình có đí qua Nghệ An, lúc ghé thăm Nam Đàn. Lúc bấy giờ trong huyện có núi Đụn Sơn là 1 quả núi duy nhất và có khe nước tên là Bò Đái nước lúc nào cũng chảy ra. Cụ Trạng ngoạn cảnh xong đã bảo: "Đụn sơn phân giới Bò Đái thất thanh Nam Đàn sinh thánh" Nghĩa là: Khi nào núi Đụn Sơn phân ra làm hai và khe bò đái ngừng kêu thì ở Nam Đàn này có thánh ra đời. Đến sau này họ cứ nghĩ đấy là Phan Bội Châu nhưng thật ra không phải mà là Hồ Chí Minh. Còn có tương truyền rằng, "vào đêm hôm cụ Hồ ra đời, sấm sét to lắm , núi Đụn Sơn bấy giờ sau 300 năm đã bị một vết nứt dài chia ra làm hai, và đêm hôm đó thì khe Bò Đái ngừng chảy và cụ Hồ ra đời." (*nguồn: KARAJAN@Vietlyso) Như vậy bài tiên tri này của cụ Trạng là ứng với Hồ Chủ Tịch. (*chú thích)
  10. Hihihihiiii, cái này hay nha.... ntpt và tuyetminhnguyen đến Trung tâm anh TL sẽ chỉ giúp cho... Nếu cần nữa thì bố trí đi DU LỊCH 1 chuyến đi, thế nào chả có cách "bày binh bố trận". :D Đọc bài của Bạn tuyetminhnguyen thấy có vẻ "lão lòng" thế? ..... có nhiều người còn "LÃO" lắm lắm mà chưa biết làm sao đấy. "Đời còn dài, tương lai còn rộng. Nghĩ ngợi làm chi cho khổ tấm lòng son" :huh: :D
  11. à, Mình đã độn quẻ Sinh Đại an khi đi công việc với câu hỏi: đến nhà anh H nhờ vả chút việc có được không?, và độn được quẻ Thương Lưu niên vào ngày hôm qua với câu hỏi: việc hôm trước có thành công không? . hihiihihi chắc thế là không đúng nhỉ? Lâu lâu không luyện lại bị sao nhãng ..... Câu của NTH mình độn ngày hôm nay 09/11/Canh Dần, giờ thìn được quẻ Sinh Đại an vậy là NTH có "TÀI" nhưng hơi chậm chút, có lẽ phải sang tháng 12 mới nhận được kết quả của tháng 11. Thân mến!
  12. Kính anh Thiên Luân! Lâu nay phamhung bận quá, chưa viết bài cám ơn anh được, mong anh thông cảm! Được anh giúp đỡ, gia đình phamhung đã giải tỏa được phần nào những lo âu bấy lâu nay. Một lần nữa thay mặt gia đình Cám ơn anh rất nhiều. Tuy có đọc và đang theo học tại Trung tâm nhưng kiến thức của phamhung chưa thể biết được nhiều điều, mong anh "đã thương thì thương cho chót, đã vót thì vót cho tròn" hihihiii phamhung đọc nhiều bài thấy mọi người tư vấn cả năm sinh con ĐẦU và con ÚT, Vậy mong anh giúp cho các em nó biết để tính toán sinh cháu. Thưa anh, vì thầy xem cho nói là 2 đứa đó lấy nhau thì phải 6 (sáu) năm sau mới được có con thì mới được (và sau đó thày xem thêm sách gì đó nữa và nói "ừ... đúng là phải năm 33 tuổi mới có con..". Gia đình đã và đang thực hiện đúng như lời anh tư vấn, mong anh giúp thêm chút nữa, xem cho em nó có phải đến năm 33 tuổi (tức là sau 6 năm tính từ lúc cưới) mới có con đúng không anh? hay là bắt buộc phải như thế? Mong anh giải đáp giúp, trân trọng cảm ơn anh nhiều lắm!
  13. Thân chào NTH và mọi người !!!!!!!!!!! Lâu nay phamhung bận quá không có thời gian đàm đạo cùng mọi người, thông cảm nha! Câu hỏi của NTH, phamhung không hiểu ý là gì? "...có tài không.." mong NTH cho câu hỏi rõ hơn! Phamhung xin hỏi mọi người. trước khi định làm 1 việc phamhung độn được quẻ Sinh Đại an, và đã thực hiện, quả đúng như thế, khi đến nơi người đón tiếp mình rất vui vẻ và mọi thứ có vẻ hanh thông, vì quẻ đã nói là quẻ tốt và sẽ thành công nhưng hơi chậm. Tuy nhiên, chưa biết sự thành bại thế nào, mình độn được quẻ Thương Lưu niên.... huhuhuhuuu quẻ này lại nói mưu sự thất bại.... Vậy là sao nhỉ? mong mọi người giúp giải đáp.. Thanks
  14. Chúc mừng sư phụ đã tư vấn để các bạn ấy có thêm bé trai, chúc mừng các bạn thêm con thêm của. tôi cũng có cảm tình với cái tên Nguyễn Minh Hưng như Sư Phụ, bạn nghiên cứu nhé
  15. Thanks bác Thiên Đồng, theo như anh luận thì phamhung thấy vui quá, quan hệ rộng thì đúng rồi, còn những người quan trọng và lợi tới chậm nhưng BỰ thì phamhung đang chờ xem, nếu được thế thì tốt quá, mà nếu có quả nào bự là phamhung chiêu đãi bác TĐ bưa bia túy lúy nha.
  16. Thưa cô W, phamhung đã nhận được La Kinh tại Văn phòng của Trung tâm từ anh HTH, Cám ơn cô W nhiều.
  17. Thanks anh laido, Hẹn gặp và mạn đàm với anh sau!
  18. Thưa anh laido và anh HTH, Phamhung đã được cô W xác nhận, vậy phamhung sẽ gặp anh Laido để lấy La kinh hay đến Văn phòng của Trung tâm để lấy?
  19. Em đúng là 1 cô gái đang yêu và "đa nghi Tào tháo" em có thể học luận giải các quẻ nhưng đứng có lạm dụng quá, có khi luận sai lại làm hỏng việc đấy. Cảm hứng theo nick của em thì cứ yêu đi, mùa xuân của em sẽ hứng nắng. hihi
  20. Ứng dụng hướng dẫn của anh Thiên Đồng, phamhung luận quẻ của bạn như sau: Sinh Mộc hợp tiểu cát Mộc (double Mộc). Quẻ tốt. 2 người đang dần chạm niềm vui, do tính của mộc phát chậm. Các bạn cứ yêu đi, tuy nhiên việc tốt lành thì không thể luôn và ngay được. (mong feedback)
  21. Mong anh Thiên Đồng xem giúp!
  22. Rất cám ơn anh Thiên Đồng, Chiều hôm qua phamhung tôi có đọc bài của anh rồi nhưng chưa thật hiểu lắm (có lẽ sau 1 ngày làm việc hơi bị đơ) sáng nay thanh tịnh đọc lại bài của anh thấy hay quá, ý nghĩa quá. Một lần nữa cám ơn anh đã quan tâm đến topic và mong anh tiếp tục quan tâm hướng dẫn, chỉ bảo cho anh em đang bắt đầu nghiên cứu. Bà con thân mến! Vậy là các thế hệ nghiên cứu trước cũng đã quan tâm và chỉ bảo cho chúng ta, hãy cố lên, đúng là "Dục tốc bất đạt" thật, càng đọc, càng học phamhung càng thấy mênh mông quá mà kiến thức của mình thì nhỏ tý tị tỳ ti. Đúng là không được vội vàng, cứ từ từ nghiên cứu từng thứ rồi sau kết hợp lại mới thành công được. Chucs bà con luôn thông minh, sáng suốt, nghiên cứu và cùng chia sẻ. Tha Rat cam
  23. Thưa SP, con cũng có biết đến bài thuốc này tuy nhiên không biết có hiệu nghiệm không nũa, nghe họ nói đó là bài thuốc gia truyền đấy. Con xin đóng góp 1 bài: Sống thêm 50 năm chỉ nhờ... bài thở Bị lao phổi, sau 7 lần mổ, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ còn một góc phổi bên trái, mất 8 xương sườn. Bệnh viện bảo ông chỉ còn sống được hai năm. Thế nhưng ông đã sống đến tuổi 85 chỉ nhờ một bài thở cổ xưa. Ông sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở Bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa. Từ năm 1943 đến 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống được hai năm nữa. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa. Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý - xã hội học, tại Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP HCM, (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch). Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc... thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa "dung tích sống" như ông lại vẫn ung dung, thư thái. Những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi... thở, nhờ vậy mà ông không bị stress, không bị mệt. Ông bảo sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, bạn đồng nghiệp với bác sĩ Viện, kể lại: "Trước kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Rồi một lần tôi bị tai biến nặng, phải nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều kỳ diệu!" Phương pháp này giúp ông thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp cho rất nhiều thuốc, nhưng ông chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là điều hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh... của Đông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc. Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: Thót bụng thở ra Phình bụng thở vào Hai vai bất động Chân tay thả lỏng Êm chậm sâu đều Tập trung theo dõi Luồng ra luồng vào Bình thường qua mũi Khi gấp qua mồm Đứng ngồi hay nằm Ở đâu cũng được Lúc nào cũng được!
  24. Thanks LienChau, PH thấy LC luận rất giỏi, vậy mong LC xem lại PH độn có đúng không? và luận thế đã đúng chưa? vì PH cũng mới học mà.
  25. ơ Bác Thiên Đồng ơi, bác quên không tư vấn giúp em rồi.. huhuuuuu...huuuu..