phamhung

Lớp Địa Lý Lạc Việt
  • Số nội dung

    2.356
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    39

Everything posted by phamhung

  1. Bác Hoctro nổi tiếng hay nói lái...... mà dzụ này bác kể chuyện cứ như bác chính là QN ấy, người đưa hình avatar, thay hình avatar.... đã hay rồi nhưng người luận ý còn hay hơn. Quan trọng là phải hiểu được ý của chú nhân mà luận ra được mới tài chứ lị.... Bác Học trò giỏi quá, giỏi quá
  2. Thiên Luân nói đúng lắm, cô này là phải chịu ngay cái QUẢ do cái NHÂN cô ấy gây ra trong kiếp này, chưa nói đến tiền kiếp.
  3. Hoan hô Ban quản trị đã luôn chỉnh sửa giao diện để ngày càng hoàn thiện hơn; Phamhung nhận thấy: - Hình biểu tượng Âm - Dương: nét: thật chuyên nghiệp và tuyệt vời - Hình Rồng nét, đẹp - Tuy nhiên phần chữ hơi bị mờ, mong format lại font lại cho nét hơn. Vài lời đóng góp!
  4. Người Mỹ thở phào qua ngày tận thế... hão Hôm nay bắt đầu ngày tận thế? (TT&VH) - Harold Camping, lãnh đạo mạng phát thanh truyền hình Family Radio, vừa gây xôn xao dư luận Mỹ khi “tiên tri” rằng thời điểm tận thế của nhân loại sẽ diễn ra vào ngày 21/5. Kết quả là ... trật lất khi chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên là Camping cũng từng dự đoán sai một lần hồi năm 1994 và cả hai lần đều khiến không ít người Mỹ tin “sái cổ” vào thuyết tận thế của ông ta. Harold Camping, 89 tuổi, là người sáng lập Family Radio, một đài phát thanh truyền hình về Thiên chúa giáo có trụ sở tại bang California, Mỹ, vào năm 1958. Ông ta quảng bá rằng Family Radio hiện đã có 150 đài phát thanh ở Mỹ tiếp sóng và còn được phát ra tới 48 nước trên thế giới. Một giả thuyết dựa vào những con số Harold Camping, người tuyên bố "Trái đất sẽ diệt vong trong ngày 21/5". Thông qua kênh truyền thông của mình, Camping đã liên tục thuyết giảng về cái mà ông ta tin là ngày tận thế khó tránh khỏi. Theo lời của Harold Camping, chúa Jesus bị đóng đinh câu rút vào ngày thứ 6, ngày 1/4, năm 33 sau Công nguyên và Trái đất mất đúng 365,2422 ngày để bay vòng quanh quỹ đạo Trái đất. Dựa vào đó, Camping tính rằng tới ngày 1/4/2011, Jesus đã bị đóng đinh chính xác 722.449,07 ngày. Thêm 51 ngày vào đó để tới ngày 21/5, tổng cộng thời gian sẽ là 722.500, 07 ngày. Khi làm tròn con số trên, ta sẽ có 722.500 ngày và Camping đánh giá đó là một con số hết sức quan trọng bởi nó là kết quả tính bình phương của 5 x 17 x 10. Con số 5, theo Camping, đại diện nỗi khổ đau của chúa Jesus, số 10 đại diện cho sự toàn vẹn và số 17 là thiên đường. Dựa vào đó, ông ta phỏng đoán ngày tận thế sẽ diễn ra vào 6 giờ chiều thứ Bảy, 21/5/2011. Chỉ có khoảng 200 triệu người đạt đủ các tiêu chuẩn do Camping đưa ra sẽ được Chúa cứu trong lúc những người còn lại thì chết vì động đất, bệnh dịch và nhiều thảm họa khác, cho tới khi Trái đất bị thiêu rụi trong một quả cầu lửa lớn vào ngày 21/10 năm nay. Căng thẳng chờ tận thế Không ít người Mỹ vẫn tin vào thuyết tận thế của Camping, một phần là nhờ chiến dịch truyền thông khổng lồ. Hãng tin AP cho biết thông điệp về ngày tận thế của Camping đã được gửi lên Internet, được phát trên sóng phát thanh với 61 ngôn ngữ khác nhau. Ông ta còn bỏ tiền dựng 5.000 pa nô cỡ lớn trên khắp thế giới, thuê 20 xe tuyên truyền cổ động cho ngày tận thế và liên tục phân phát tờ rơi về thời điểm Trái đất bị diệt vong cho người qua đường. Kết quả là trong ngày 21/5, các tín đồ của Camping ngừng hoạt động, ở nhà cầu nguyện Chúa rủ lòng thương. Những người khác gặp gỡ con cái để ăn bữa trưa cuối cùng và chờ được cứu vớt lên thiên đàng. “Đây là một thời khắc với nhiều cảm xúc pha trộn. Có thể nói chúng tôi đang rất căng thẳng và sợ hãi không biết chuyện sẽ diễn ra như thế nào và ai sẽ được lên thiên đường, ai không, ai sẽ được cứu và ai bị bỏ lại” - Marie Exley, một tín đồ đã giúp Camping dựng panô tuyên truyền ở Israel, Jordan, Lebanon và Iraq, thổ lộ. Một số người thậm chí còn băn khoăn không biết thú nuôi của họ sẽ được ai chăm sóc khi ngày tận thế xảy ra. Sharon Moss, người sáng lập trang web AfterTheRapturePetCare.com, với tuyên bố sẽ chăm sóc thú nuôi thời kỳ hậu ngày tận thế, nói rằng vài tuần qua công ty của cô đã nhận vô số khách hàng mới, với mỗi người không ngại bỏ ra 10 USD chỉ để đăng ký lấy một suất dịch vụ, trong đó thú cảnh của họ sẽ được chăm sóc sau ngày 21/5. Các tín đồ của Camping tuyên truyền về ngày tận thế ở Mỹ Hai lần dự báo hụt vẫn không chừa Nhưng tất cả những sự chuẩn bị hóa ra rất thừa, bởi ngày tận thế không hề xảy ra. Trong ngày 21/5, có hai trận động đất mạnh chừng 2,5 độ Richter xảy ra ở đảo Christmas, Australia, một trận mạnh 4,8 độ Richter ở quần đảo Solomon và một trận mạnh 3,1 độ Richter ở Hawaii. Nhưng nếu bạn tin đó là dấu hiệu cho thấy ngày tận thế đang diễn ra thì hãy bình tĩnh bởi mỗi ngày trên thế giới có từ 30 - 40 trận động đất mạnh hơn 2,5 độ Richter xảy ra. Thành phố Auckland ở New Zealand, nơi được dự báo là địa điểm đầu tiên chứng kiến thảm họa tận thế, vẫn hoạt động như bình thường. Các tín đồ đã nhanh chóng thể hiện sự thất vọng của họ trên Internet. “Đã 13 phút trôi qua thời điểm ngày tận thế ở New Zealand. Tôi vẫn đang hy vọng sẽ có mưa lửa xuất hiện” - tín đồ Gavin Middleton viết trên mạng xã hội Twitter. Một người khác tên Daniel Boerman thông báo: “Tôi ở New Zealand, bây giờ là 6 giờ tối, thế giới CHƯA kết thúc. Không có động đất ở đây. Tất cả những ai chờ ngày tận thế có thể yên tâm rằng nó chưa xảy ra”. Kiếm được 100 triệu USD nhờ “đoán mò” Vicky Hyde, phát ngôn viên của Hội Chủ nghĩa Hoài nghi New Zealand cho biết bà hoàn toàn không tin vào cái gọi là ngày tận thế. “Những kiểu dự báo ngày tận thế như này rất thường xuất hiện trong thời buổi kinh tế khó khăn hoặc xã hội nhiễu nhương, gần như năm nào cũng có. Và thường chúng rất giống nhau ở điểm tất cả đều sai bét” - Hyde nói. Được biết Camping từng dự báo Trái đất sẽ bị diệt vong vào năm 1994. Nhưng khi chẳng có chuyện gì xảy ra, ông ta đã lên tiếng xin lỗi, nói rằng mình có chút sai lầm trong tính toán. Chưa biết Camping sẽ đưa ra lời giải thích gì trong thất bại kế tiếp này. Nhưng bất chấp việc ông ta có nhiều dấu hiệu “ba hoa bốc phét” về ngày tận thế, vẫn không ít người Mỹ đổ tiền từ thiện tới cho ông ta. Theo cơ quan thuế vụ Mỹ IRS, trong vòng 7 năm qua, Family Radio đã nhận được hơn 100 triệu USD tiền quyên góp và Camping hiện đang sở hữu 66 đài phát thanh trên khắp thế giới. Chưa rõ ngày tận thế bao giờ sẽ xuất hiện, chỉ thấy Camping đang giàu lên từng ngày nhờ nỗi sợ của các tín đồ. Tường Linh
  5. Tiên đoán về tận thế là sai Lời tiên đoán rằng trái đất và vũ trụ tan biến đã chứng tỏ là vớ vẩn, bởi cuộc sống khắp thế giới vẫn diễn ra bình thường cả ngày hôm qua. Cái gọi là "ngày phán xét" chỉ khiến một số người hoảng sợ và một số người khác mở tiệc ăn mừng. Harold Camping, một chức sắc có tiếng trong cộng đồng Công giáo Mỹ, trước đó phán rằng ngày 21/5 sẽ xảy ra động đất cực mạnh, tiếp đó là một thời kỹ hỗn mang, rồi một biển lửa trào lên hủy diệt toàn bộ vũ trụ. Ông này cũng nói rằng 6h tối qua là thời điểm Chúa giáng thế để đưa đi khoảng 200 triệu người tốt lên thiên đường. Khách bộ hành đi qua một tấm băng rôn về "Ngày Phán xét" trên đường phố Manila, Philippines, hôm qua. Ảnh: AFP Một trong những nơi đầu tiên bị ảnh hưởng, theo ông Camping - người từng dự đoán thế giới sẽ tận diệt năm 1994 - là New Zealand. Nhưng thời khắc 6h tối qua đã qua lâu, mọi việc vẫn bình thường. Tương tự, tại châu Á, Âu và Mỹ, hạn chót trôi qua mà không gây phiền toái gì. Trong khi đó cộng đồng mạng bắt đầu đùa rằng có lẽ họ nên tự tạo ra một sự kiện nếu lời tiên đoán của Camping không thành hiện thực. Một nhóm những người phi tín nói họ nên cởi bỏ quần áo và giày để trên vỉa hè hoặc bãi cỏ để tạo ấn tượng rằng có ai đó đã được nhấc lên thiên đường, hoặc nên thả những bóng bay hình người lên không trung. Website rao vặt nổi tiếng Craigslist đăng hàng chục nghìn quảng cáo của những người không tin chuyện tận thế, nói muốn mua lại đồ đạc cũ còn tốt của những người sẽ lên thiên đường, theo AFP. Một nhóm người theo thuyết vô thần đã tung ra hàng trăm bản hợp đồng chăm sóc chó mèo của những người sẽ được đưa đi với Chúa. Tuy nhiên các nhà chức trách vẫn cẩn thận. Tại Mỹ, giới chức thiết lập một đường dây nóng để ngăn các ca tự vẫn, bởi họ lo sợ rằng các tín đồ nhiệt thành của ông Camping có thể thất vọng vì Ngày Phán xét đã không xảy ra. Tại Việt Nam, một số người Mông ở một tỉnh phía bắc do tin vào lời phán về ngày Phán xét và nghĩ rằng sẽ được đưa đi theo Chúa đến thiên đường, nên đã tụ tập đông trong rừng để chờ đợi. Tuy nhiên sau đó họ đã được các quan chức sở tại vận động giải thích và trở về làm ăn sinh sống bình thường. Thanh Mai
  6. thân chào quyngoc, giờ tý ngày 23/5/2011 quẻ Thương - Tốc hỷ: theo phamhung thì công an sẽ nhanh chóng bắt được hung thủ khoảng 3 tuần nữa, sẽ lấy lại được điện thoại và không mất chi phí gì nhiều cho việc này. Chúc may mắn! nhớ phản hổi khi có kết quả nhé
  7. Huhuuuuuuu, Thật tiếc quá, Rin ơi...... em tổ chức vụ này hay quá, nhưng anh lại không tham gia được vì ở nhà đang có thợ sửa chữa, có mỗi mình anh ở nhà để chông cho thợ làm. Tiếc quá, tiếc quá..... chờ mãi mới có 1 buổi giao lưu gia đình Lạc việt độn toán thì lại bận..... huhhuuu
  8. Tin này rất chính xác, phamhung vừa đi qua và kiểm chứng lúc trưa nay. Lạ nhỉ? có ai giải thích được không??/
  9. Có thể 'đoán động đất' nhờ không khí Vài ngày trước khi trận động đất dữ dội hồi tháng 3 tại Nhật Bản xảy ra, không khí phía trên tâm chấn thay đổi bất thường. Dimitar Ouzounov, một giáo sư bộ môn Khoa học trái đất của Đại học Chapman tại bang California, Mỹ cùng các đồng nghiệp phân tích dữ liệu vệ tinh về không khí trong vùng chịu ảnh hưởng của trận động đất lịch sử tại Nhật Bản hôm 11/3. Họ nhận thấy mật độ điện tử (electron) trong tầng điện ly và bức xạ hồng ngoại tăng lên trong những ngày trước khi động đất xảy ra, Livescience cho biết. Trước khi địa chấn xuất hiện, đường phay (hay đường đứt gãy) giải phóng nhiều khí radon hơn so với lúc bình thường. Quá trình này giải phóng nhiệt và các nhà khoa học có thể phát hiện lượng nhiệt đó bằng máy dò bức xạ hồng ngoại. Người dân bước trên một đường ngập nước vì động đất hồi tháng 3 tại thành phố Ishinomaki, tỉnh Miyagi. Ảnh: AP. Ouzounov cho biết, nhóm nghiên cứu đã thu thập dữ liệu liên quan tới hơn 100 trận động đất tại châu Á. Họ nhận thấy mật độ điện tử trong tầng điện ly và bức xạ hồng ngoại trong khí quyển luôn tăng trước những trận động đất có cường độ từ 5,5 độ Richter trở lên và tâm chấn nằm ở độ sâu nhỏ hơn 50 km. Mặc dù vậy, nhiều nhà khoa học vẫn tỏ ra hoài nghi về khả năng dự đoán động đất dựa vào dữ liệu từ không khí. “Phát hiện của nhóm Ouzounov rất thú vị, nhưng tôi không thể gọi nó là một phát hiện mang tính đột phá”, Henry Pollack, một giáo sư địa vật lý của Đại học Michigan, bình luận. Giáo sư địa lý Terry Tullis của Đại học Brown tại Mỹ, cho rằng giới khoa học đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về dự báo động đất và họ chưa bao giờ tỏ ra quá phấn khích trước mỗi phát hiện mới. “Tôi không muốn bác bỏ khả năng dự báo động đất dựa vào không khí, nhưng vào thời điểm hiện tại, mọi người nên giữ thái độ hoài nghi”, Tullis nói. Minh Long
  10. ơ ơ ơ ơ ơ nhocchanchau ơi, cám ơn đã hướng dẫn, nhưng không có tuổi nào là Kim mà??? theo hướng dẫn của nhocchanchau mình luận như sau: Chồng (Hỏa) khắc vợ (Thủy) còn chi tiết như thế nào? mong nhocchanchau hướng dẫn tiếp để phamhung học hỏi với.Thanks
  11. hai vợ chồng 1 người ở tận trên trời (Thiên Hà Thủy), 1 người ở dưới đất (Sơn Hạ Hỏa) huhhuuuuuu luận làm sao nhỉ? Mẹ và con út "Nước xa (Thiên Hà Thủy) không dưỡng được cây dưới đất (Tùng Bách Mộc) huhuuuu
  12. Chúc mừng cụ Tom, Chúc mừng cụ Tom, Chúc mừng gia đình cụ Tom, Chúc mừng quê hương cụ Tom.!!!!! Tuy con chưa phải là Tửu đồ nhưng con biết chút xíu cái thú thưởng thức rượu ngon, con rất kính phục cái tài nghệ của cụ, vì trước đây (cách đây khoảng 26 or 27 năm gì đó) con cũng được tham gia học nấu rượu (Kim Sơn - Ninh Bình), nên con biết được để có được 1 mẻ rượu ngon là phải rất vất vả khi phải đi tìm mạch nước cho hợp lý, cách xay lúa, cách nấu cơm đến cách ủ men....v.v..., rồi chuẩn bị dụng cụ, bếp .... để nấu. rất nhiều thứ liên quan (toàn là kinh nghiệm dân gian và phải nhiều năm đúc kết mới biết được) Thưa cụ, quê nhà con thì mới đầu cũng chỉ vì miếng cơm manh áo thôi nhưng sau khi người ta làm nghề rồi thì người ta lại đam mê và niềm đam mê đó đồng hành cùng người ta suốt cuộc đời vì nó cũng vui lắm, nó làm cho người ta đam mê và đắm mình trong mỗi mẻ nấu, mỗi mẻ rượu ra lò là thấm đượm toàn bộ tỉnh cảm và tấm lòng người nấu. Thưa cụ (con được tham gia chút xíu thôi) nhưng cũng đủ để nhận thấy cái tình yêu nghề của nghề nấu rượu, phải là người yêu nghê lắm lắm thì mới cho ra được mẻ rượu ngon và ưng ý người nấu chứ chưa nói đến người uống. Chúc mừng Cụ và kính chúc cụ sớm bình phục để tiếp tục truyền lại cho đời sau những tình cảm, những kinh nghiệm để thế hệ trẻ cùng nhau vinh danh và phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc Việt.
  13. Kính gửi anh Linhtrang em thấy trường hợp này giống nhà em, vậy em hiểu như thế này đúng không a? Theo Luận tuổi lạc việt thì Thủy hỏa đổi chỗ nên Chồng em sinh năm 1974 là: Đại khê Thủy (Sơn Hạ Hỏa) Em sinh năm : 1978 là Thiên Thượng Hỏa (Thiên Hà Thủy) con trai em sinh năm 2008 là Tích Lịch Hỏa (Giáng Hạ Thủy) Con gái em sinh năm 2011 là: Tùng Bách Mộc (giữ nguyên) Như vậy, 3 Mẹ con hợp nhau mà, Mẹ sinh cho con gái (con út) là tốt Em mới biết có vậy thôi, mong anh xem giúp có hợp cách với Luận tuổi lạc việt không anh? ý em là "... giầu con út, khó con út ...." ấy mà. Nếu không có gì vướng, mong anh hướng dẫn em cách Luận với ạ. Em cám ơn anh nhiều
  14. Theo Luận tuổi lạc việt thì Thủy hỏa đổi chỗ nên Chồng em sinh năm 1974 là: Đại khê Thủy (Sơn Hạ Hỏa) Em sinh năm : 1978 là Thiên Thượng Hỏa (Thiên Hà Thủy) con trai em sinh năm 2008 là Tích Lịch Hỏa (Giáng Hạ Thủy) Con gái em sinh năm 2011 là: Tùng Bách Mộc (giữ nguyên) Như vậy, 3 Mẹ con hợp nhau mà, Mẹ sinh cho con gái (con út) là tốt Phamhung biết có vậy thôi, mong các cao nhân chỉ giáo tiếp.................
  15. Chúc mừng sinh nhật cụ Bá Kiến. Chúc cụ mạnh khỏe, may mắn và tránh được CHÍ PHÈO
  16. Hihiiii, con cám ơn Sư phụ đã động viên, con sẽ cố gắng luyện tiếp ạ
  17. các nhà toán học ỏ đâu mà làm toán giỏi vậy ta? hihhiiihiiiiiiiiii hahahaaaahaaaahaaaahahaha đên vỡ bụng mất
  18. Hihihiiii Đúng quá Sư phụ ạ trời đang nóng quá, Giờ Tý ngày 09/4/Tân Mão Quẻ Kinh Tốc hỷ: Mưa do ảnh hưởng của bão sẽ chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi đủ để mọi người cảm nhận sự mát mẻ và ngay sau đó thời tiết sẽ lại tiếp tục nắng nóng con luận vậy có đúng với quẻ không Sư phụ ơi?
  19. Sinh năm 1972, năm nay là 40 tuổi đứng tuổi xây nhà được, mặc dù tuổi tý năm nay phạm tam tai. vì Kim lâu được Ly và Hoang ốc được Tứ Tấn tài (được 2/3 mà) Đúng không các bác ôi....!!!!
  20. Sư phụ, con xin tham gia: con độn được quẻ: Hưu Tiểu cát với câu hỏi "Bão có vào đất liền Việt Nam không?" con dịch là: Hưu thủy sinh tiểu cát Mộc, các tỉnh ở khu vực Đông, Đông bắc - Việt nam bị ảnh hưởng của bão nên sẽ có mưa và khi vào tới đất liền đã bị suy yếu nên không ảnh hưởng lớn.
  21. Cổ học tinh hoa- tinh hoa của thánh nhân Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân Lời Tựa "Có mới, nới cũ" thường tình vẫn thế. Tân học mỗi ngày một tiến, tất Cựu học phải lùi và có khi sợ rồi mai một đi mất.Nhưng, Tân học mà hay, tất là Tân học có một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học. Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đã làm cho ông cha ta phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể, duy trì được thế đạo nhân tâm, thật không phải là một cái Học không có giá trị đáng khinh rẻ hay quên bỏ được. Vả chăng: "Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm" ta đã biết truyện đời nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa, ta ôn lại việc đời xưa mà ta rõ được việc đời nay, có như thế, thì cái Học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết. Vì, tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều trong một ngày của trời đất, kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, thì sao gọi là "bác cổ thông kim" được! Cựu học của ta là gì? Cựu học của ta tức là Hán học nghĩa là một cái Học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đã chịu cái văn hóa của giống người Hán, tức là người Trung Hoa. Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoại giả, còn Bác gia chư tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lý tưởng rất xâu xa, muốn học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được. Nay, chúng tôi biên tập quyển sách nầy, không phải là muốn chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào. Chúng tôi chỉ góp nhặt một đôi chút lý tưởng trong Cổ học gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi. Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ "Cổ Học Tinh Hoa" làm nhan sách. Chúng tôi có ý chọn những bài ngắn mà nghĩa lý hàm súc dồi dào. Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu, nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được. Vì truyện tuy cổ, nhưng cái chân lý thì bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới. Nào hiếu đệ, nào trung tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái, sinh tử; bài nầy chính giọng huấn giáo, bài kia rõ thể ngụ ngôn, truyện nầy nghiêm trang khắc khổ, truyện kia khôi hài lý thú; đức Khổng nói "Nhân" hồn nhiên như hóa công; ông Mạnh bàn "Nghĩa" chơm chởm như núi đá, Tuân Tử nói "Lễ" thật là đường bệ, Mặc Tử nói "Ái" thật là rộng rãi, hình danh như Hàn phi tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng, ngôn luận như Án Tử thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ, đến nói đạo đức như Lão Tử, bàn khoáng đạt như Trang Tử thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây... các lý thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ. Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó. Chẳng những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa, nhiều bài, chính nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác không lấy gì làm xác định. Nên khi dịch, chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài, bài thì địch thẳng nguyên văn, bài thì chỉ dịch lấy đại ý, hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại, cốt cho nó xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài thì thôi. Dịch Hán văn ra quốc văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán. Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, thì ở dưới chúng tôi đã có "giải nghĩa" rõ ràng. Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chớ không phải hết mọi nghĩa của từng chữ. Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi. Đọc một bài văn hay, mà tư tưởng đã thấm thía vào tâm não, thì tất không sao để yên ngòi bút mà không phê bình được. Đó cũng là một cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương hay có cái thú ngâm nga và đưa ngòi bút khuyên liền, khuyên kín vậy. Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy. Nên dưới mỗi bài chúng tôi cũng góp "Lời Bàn", cốt là để giải rõ các đại ý trong bài hoặc lạm bình một, đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ. Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách nầy là quyển đầu, có ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nghiêu nghìn năm về trước, rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà, thêm trước được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít tri thức tuy thuộc về Cổ học mà thật khác nào "như thóc gạo, như vải lụa", thường cần đến hàng ngày. Nếu quyển sách này, giúp được một phần trong muôn phần ấy, thì chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy. Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925) Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc Từ An Trần Lê Nhân Cổ học tinh hoa- tinh hoa của thánh nhân Không quên cái cũ Đức Khổng-tử ra chơi ngoài đồng, thấy một người đàn bà đứng khóc nỉ non ở chỗ bờ đầm. Đức Khổng-tử lấy làm lạ, bảo học trò hỏi vì cớ gì mà khóc. Người đàn bà nói: "Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc." - Đức Khổng-tử hỏi: Đi cắt cỏ thi, mà mất cái trâm bằng cỏ, thì việc gì mà phải khóc? - Người đàn bà nói: Không phải vì tôi đánh mất cái trâm cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc, là tôi thương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu, mà ngày nay không sao thấy được nữa. Lời Bàn: - Cái gì đã là của mình, mình có bụng yêu, mà lỡ khi mất, thì về sau dù có được cái khác giống như thế, hay hơn thế, mình cũng không thể sao yêu cho bằng. Thường, lại chỉ vì thấy cái mới mà hồi nhớ đến cái cũ, sinh ra chạnh lòng, nên câu ta thán, có khi ngậm ngùi thương khóc nỉ non. Tại sao vậy? Tại đối với mình, cái của mất không chỉ có giá của mà thôi, lại hình như còn có một phần tâm hồn mình hay tâm hồn người để lại cho mình ngụ ở trong nữa. Sự cảm động đầu tiên bao giờ cũng là sự cảm động hay nhất, bền nhất. Ôi! Cáo chết ba năm quay đầu về núi, con người ta, dù cho lông bông xiêu bạt đến thế nào, còn có chút tâm tình cũng không sao quên được gốc tích xứ sở mình. "Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi". Con ngựa rợ Hồ (phía bắc nước Tàu) thấy gió bắc còn cất tiếng kêu, con chim đất Việt (phía nam nước Tàu) chọn cành nam mới chịu làm tổ, huống chi là người mà lại quên được nguồn gốc ư. Chú thích: Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. Lúc Đi Trắng, Lúc Về Đen Một hôm trời nắng Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà ra, thì mặc áo trắng, đi được nửa đường, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả cho mượn cái áo thâm. Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận toan cầm gậy đánh. Anh là Dương Chu chạy ra bảo: "Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta, lúc đi, thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ mà không ngờ được không?" Lời Bàn: Lúc đi mặc áo trắng, lúc về mặc áo thâm, chính mình không biết mình thay đổi, con chó thấy khác thì xua đuổi. Mình đánh nó chẳng hóa ra lầm lắm ru! Lỗi tại mình thay đổi không tại con chó cắn xằng. Vậy nên ở đời khi mình làm điều gì khác thường, mà người ta không rõ, thì tất nhiên người ta bàn trái bàn phải. Nếu mình không tự xét mình thay đổi hay dở, chỉ biết trách người nghị luận nọ kia, thì chẳng khác nào như Dương Bố đánh chó trong truyện này. Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh. Lợi Mê Lòng Người Nước Tống có kẻ mất cái áo thâm. Anh ta ra đường tìm. Thấy người đàn bà mặc áo thâm, níu lại đòi rằng: "Tôi vừa mất cái áo thâm, chị phải đền trả tôi cái nầy". Rồi cứ giữ chặt cái áo không buông ra nữa. Người đàn bà cãi: "Ông mất áo thâm, tôi biết đấy là đâu? Áo tôi mặc đây là áo của tôi, chính tay tôi may ra". Anh kia nói: "Chị cứ phải đền trả áo cho tôi. Cái áo thâm tôi mất dầy, cái áo thâm chị mặc mỏng. Lấy áo thâm mỏng của chị đền cho áo thâm dầy cho tôi, còn phải nói gì lôi thôi nữa! Lời Bàn: Mất áo trong nhà mà ra đường tìm, đã là chuyện bật cười. Mất áo đàn ông mà đòi áo đàn bà lại là chuyện bật cười. Mất áo thâm dầy bắt đền áo thâm mỏng mà cho là phải, lại là chuyện bật cười nữa. Ôi cái lợi nó làm cho lòng người mê muội, chỉ biết có mình không biết có ai, chỉ vụ lợi cho mình mà quên cả phải trái. Kẻ nào đã vụ lợi như thế, thì cái gì mà chẳng dám làm, cái gì mà chả dám nói! Than ôi! Cái đời kim tiền bây giờ biết bao nhiêu phường đòi áo như người nói trong chuyện này. Nước Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu sau phải nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thượng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Áo thâm: áo sắc đen Lấy Của Ban Ngày Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: "Cái nầy tôi ăn được, cái nầy tôi mặc được, cái nầy tôi tiêu được, cái nầy tôi dùng được." Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói: "Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau nầy tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại". Người coi chợ thấy càn dỡ, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng: "Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các người chưa nghĩ kỹ!" Lời Bàn: Đã là kẻ thấy của tối mắt, tham vàng bỏ nghĩa, thì dù ít, dù nhiều cũng là đáng khinh cả, song đem những kẻ mặt to, tai lớn, vì ham mê phú quý mà lường thầy, phản bạn, hại ngầm đồng bào so với những quân cắp đường, cắp chợ giữa ban ngày để nuôi miệng thì tội đến nặng hơn biết bao nhiêu. Thế mà trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm cướp vặt chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian đại ác. Long Môn Tử: tức là Tư Mã Thiên làm quan Thái Sư nhà Hán là một nhà sử ký có danh. Hiếu lợi: ham tiền của quên cả phải trái. Lửa tham: lòng tham muốn bốc lên làm ngốt người. Mờ cả hai con mắt: chỉ để cả vào của muốn lấy, ngoài ra không trông thấy gì nữa. Thế gian: cõi đời người ta ở. Thiên phương bách kế: mưu nầy, chước khác xoay đủ trăm nghìn cấp Ban ngày: lúc sáng sủa dễ trông thấy. Khổ Thân Làm Việc Nghĩa Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề, qua nhà người bạn cũ, vào chơi. Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng: "Bây giờ thiên hạ ai còn thiết đến việc "nghĩa", một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn không? - Mặc Tử nói: "Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn không, thì đứa cày chẳng nên càng chăm cày hơn lên ư? Tại sao thế? Tại đứa ăn không nhiều, đứa đi cày ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai chịu làm việc nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm lắm mới phải, có đâu lại ngăn tôi như thế!" Lời Bàn: Trong khi nhân tâm thế đạo suy đồi, mình là người còn đứng vững được, thì sao lại chịu suy đồi với thiên hạ cho cùng trôi một loạt. Vì nếu ai cũng như thế cả, thì còn đâu là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để duy trì lấy nhân tâm thế đạo nữa? Cho nên những người thức thời, có chí, dù ở vào cái đời biến loạn đến đâu, cũng không chịu đắm đuối vào cái bất nghĩa, khác nào như: cây tòng, cây bách, mùa đông sương tuyết, mà vẫn xanh, như con gà trống, mưa gió tối tăm mà vẫn gáy. Những bậc ấy chẳng những thế mà thôi, lại còn đem bao nhiêu tinh lực tâm trí ra, cố gắng giữ lấy phong hóa mà dìu dắt, mà đưa đường cho những kẻ u mê đắm đuối. Như Mặc Tử đây, cho là đời là suy biến, coi sự làm việc "Nghĩa", sự cổ động việc nghĩa như cái chức vụ của mình phải làm, thực là người có công với loài người vậy. Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ. Nghĩa: việc phải, việc hay mà người ta nên làm. Tự khổ thân: tự mình làm cho mình khóc nhọc vất vả. Cách Cư Xử Ở Đời Thầy Nhan Uyên, hỏi Đức Khổng Tử: "Hồi nầy muốn nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe mà có oai, chơi bời với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy, có nên không?" Đức Khổng Tử nói: "Người hỏi thể phải lắm. Nghèo, mà muốn cũng như giàu, thế là biết bằng lòng số phận không ham mê gì. Hèn, mà cũng muốn như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe, mà muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính không lầm lỗi gì. Chơi bời với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói. Lời Bàn: Không cần công danh phú quí thế là biết giữ thiên tước hơn là nhân tước, không để ai khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình, không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy đến ai. Ở đời mà giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng vậy. Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử. Hồi: theo lễ xưa, hầu chuyện những bậc trên, như vua, cha, thầy học, thường hay xưng tên. Lễ độ: phép tắc mực thước. Thận trọng: cẩn thận, trọng hậu. Tu Thân Thấy người hay, thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi. Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có điều dở, thì phải cố mà trừ đi. Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy. Cho nên người quân tử trọng thầy, quí bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn... như thế dù muốn không hay cũng không được. Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê... Như thế thì dù muốn không dở cũng không được. Lời Bàn: Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lại còn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen chê phải, khuyên răn hay, thì phục, thì bắt chước; ai chiều lòng nịnh hót, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. "Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khen mình" có như thế, thì mới tu thân được. Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu, sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn mãi và phong hóa suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo. Quân tử: Người có tài đức hơn người. Tiểu nhân: Kẻ bất chính, gian ác, tự tư, tự lợi. Cầm thú: cầm: giống có hai chân và hai cánh; thú: giống có bốn chân, hai chữ chỉ loài chim và loài muông. Chính trực: ngay thẳng. Trung tín: hết lòng, thật bụng. Ôm Cây Đợi Thỏ Một người nước Tống đang cày ruộng. Giữa ruộng có một cây to. Có con thỏ đồng ở đâu chạy lại, đâm vào gốc cây, đập đầu chết. Người cày ruộng thấy thế, bỏ cày, vội chạy đi bắt thỏ. Đoạn, cứ ngồi khư khư ôm gốc cây, mong lại được thỏ nữa. Nhưng đợi mãi chẳng thấy thỏ đâu, lại mất một buổi cày. Thiên hạ thấy vậy, ai cũng chê cười. Lời Bàn: Thấy mùi, quen mui làm mãi. Ở đời những kẻ ngẫu nhiên gặp may, mà ước ao được gặp may luôn như thế nữa, không biết sự may là tình cờ mới có, thì có khác gì người nước Tống ôm cây đợi thỏ nầy. Anh ôm cây đợi thỏ này lại còn là người cố chấp bất thông, không hiểu thời thế, không thấu tình cảnh, khư khư đười ươi giữ ống, cũng một phường với những hạng chơi đàn gắn chặt phím, khắc mạn thuyền để nhớ chỗ gươm rơi. Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. Đoạn: nghĩa đen là đứt, việc nầy đứt đến việc khác. Đánh Dấu Thuyền Tìm Gươm Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý, đánh rơi thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng: "Gươm ta rơi ở chỗ nầy đây". Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo thuyền mà đi đâu? Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư! Lời Bàn: Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơi. Nếu muốn tìm thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào thuyền, đợi đến lúc thuyền đỗ vào bến, mới lặn xuống bến tìm? Người tìm gươm nầy có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch được là các âm vận tự nhiên điều hòa được đúng! Than ôi! người cố chấp bất thông, chỉ câu nệ biết giữ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu nghĩa chờ "thời" là gì? Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Thanh gươm: tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa. Ba Con Rận Kiện Nhau Ban con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp, hỏi: "Ba anh kiện nhau về việc gì thế? - Ba con rận đáp: Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất mầu mỡ. - Con rận kia nói: Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui lợn mà thôi." Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi. Lời Bàn: Nhân dân một xứ mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận nói trong truyện nầy. Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật, vật chết thì trùng cũng hết kiếp. Quần tụ: quây quần ăn ở bao bọc lấy nhau. Đồ tể: người làm thịt các giống vật để bán.
  22. Cổ học tinh hoa- tinh hoa của thánh nhân Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân CÁCH PHỤC LÒNG NGƯỜI Mình làm người sang trọng giàu có, thì cớ nên kiêu sa. Mình là bậc trông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo. Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người. Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người. Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi. Ðối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới. Ðối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em. Ðối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn. Ðối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dung. Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với mình. Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài. (Hàn Thi Ngoại Truyện) LỜI BÀN: Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được. Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Ðoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu, cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắt phải. Ðoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xã hội. Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời. CHÚ THÍCH: Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi. LÒNG CƯƠNG TRỰC Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không nhất quyết không chịu thề. Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức." Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng: "Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phải bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm." Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy ung dung bước ra. (Tả Truyện) LỜI BÀN: Cường quyền thường muốn át công lý, tuy vậy công lú vẫn hay uốn được cường quyền. Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm cho phải lùi. Thế mới hay cái lòng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo. Những người có lòng trung nghĩa, có tính cương quyết như Án Tử, cứng như sắt, đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lý để đối phó với cường quyền. CHÚ THÍCH: Cương trực: cứng rắn, ngay thẳng. Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa. Sĩ: quan nhỏ. Phu: quan to. Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc gì. Tả Truyện: Sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. TRÍ, TRUNG, DŨNG. Nước Trần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành bên Tây. Sau người Sở bắt dân nước Trần ra tu bổ lại cửa thành ấy. Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe. Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi: -"Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người, thì phải xuống, qua chỗ hai người, thì phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng. Nay quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có lòng kính trọng, là cớ làm sao? -Đức Khổng Tử nói: "Nước mất, mà không biết, là bất trí ; biết, mà không lo liệu, là bất trung ; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, thì bảo ta kính làm sao được! (Hàn Phi Tử) Lời bàn: Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi. Đức Khổng Tử đáp thế, ý hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, hình như không còn ai biết đến nước là gì. Nếu quả vậy thì có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, ví rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân ngu dại thì tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào. Giải nghĩa: Tu bổ: sữa sang chữa lại. Bất trí: ngu dại không biết phải trái. Bất trung: chểnh mảng không hết lòng với vua, với nước BIẾT LẼ NGƯỢC, XUÔI Việc đời có lắm cái hình như ngược, mà thật thì xuôi, có lắm cái hình như xuôi, mà thật ra lại ngược. Ai biết rõ việc thật ngược, xuôi thế nào, người ấy mới là người tinh đời. Phàm cái gì đã đến cùng cực thì tất nhiên phải quay trở lại; dài quá thì tất phải ngắn dần đi; ngắn quá thì tất lại dài dần ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế. Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang dò. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh." Trang vương hỏi: “Tại làm sao? Người ấy thưa rằng: "Nước Trần thành cao, hào sâu, kho tàng súc tích nhiều." Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế thì nước Trần nên đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều thì chắc là thuế má nặng. Thuế má nặng thì tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu thì phục dịch nhiều. Phục dịch nhiều, thì tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được Trần.” Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần. (Lã Thị Xuân Thu) Lời bàn: Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược, mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lý mà biết rõ được, cái tình hình ở bên trong thực là người cao đoán vậy. Giải nghĩa: Dài quá thì ...: câu này ý nói đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài nhất trong một năm, thì những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày mỗi ngắn dần, lại ngày đông chí là ngày ngắn nhất thì những ngày sau ngày đông chí lại dài dần mãi ra. Kinh: cũng là tên nước Sở. Súc tích: chứa chất để dành. TÀI NGHỆ CON LỪA Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một ít lừa đến đấy nuôi. Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh. Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi. (Liễu Tôn Nguyên) Lời bàn: Bài này có ý nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, thì còn ưa, còn sợ, đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài này lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ. Giải Nghĩa: Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. Hiếu sự : hay bày việc, sinh việc. Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, tính nhanh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường ĐÁNH ĐÀN Vua nước Tề thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh, đem đàn đến đứng trước cửa Nhà vua mà đánh. Đánh luôn ba năm, mà vua không hỏi tới. Anh ta giận lắm, gắt mà nói rằng: “Ta đánh đàn đến cả quỷ thần cũng phải say mê, thế mà vua không biết cho ta!” Có người nghe nói, cười mỉa, bảo rằng: "Vua thích nghe tiếng sáo, nhưng vua không thích thì làm sao được? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu công danh ở nước Tề này vậy! Lời bàn: Đem đàn ra đánh cho người thích nghe sáo, mà cầu cho người ta ưa mình, thì chẳng là khờ vụng lắm ư! Cho nên mình tuy có tài, muốn thi thố cái tài, thì phải dò trước xem người dùng mình có ưa cái tài ấy không. Bằng không, mà mình cũng cứ phô tài, thì chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để thiên hạ người ta chê cười cho nữa. Giải Nghĩa: Công danh: công là khó nhọc mà được việc, danh là tiếng tăm; công danh là đem sự khó nhọc ra để được danh giá. THỔI SÁO Vua Tuyên Vương nước Tề thích nghe sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong ba trăm người ấy, có Đông Quách tiên sinh không biết thổi sáo, nhưng cũng lạm dự vào đây để kiếm lương ăn. Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách tiên sinh thấy thế, tìm đường trốn trước. (Hàn Phi Tử) Lời bàn: Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác gì Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, thì còn giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một thì tài nào mà không bị thải. Giải nghĩa: Đông Quách tiên sinh : bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ này để chế nhạo những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bốn chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên phía đông (Đông Quách) Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức mình. NGƯỜI NƯỚC LỖ SANG NƯỚC VIỆT Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt. Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ. Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế? Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?” Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa. (Hàn Phi Tử) Lời bàn: Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy ta trâu thì có ích chi. Giải nghĩa: Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ. GIỮ LẤY NGHỀ MÌNH Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa ba năm mới thành nghề. Trời đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa luôn mãi không ai dùng đến gầu. Bây giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách rồi. Úc ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng: -Than ôi, ngươi chẳng đã già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không phải là tự người, là tự trời, điều ấy đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả . Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng: "Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải. (Lưu Cơ) Lời bàn: Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt, thịnh vượng. Song gặp thời, thì hay, lỡ thời, hoá dở. Như thế thì cái thời cũng là quan hệ với nghề của mình lắm. Khốn cái thời là tự ở đâu đâu chớ không tự mình gây lấy được, cho nên có lắm người làm nghề, không thành nghề, thường nói rằng: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" nghĩa là người chỉ mưu tính công việc, còn công việc nên, hay không nên, là do tại trời. Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít, chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mài không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua gì cả. Giải nghĩa: Trịnh: Tên nước chư hầu thời Xuân Thu tức huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam bây giờ. Đại hạn: Nắng to và nắng lâu ngày. Nhung phục: Y phục nhà binh. Úc ly Tử: Tên một bộ sách của Lưu cơ thác danh làm Úc ly Tử mà nói trong bài này. Đại nạn sắm thuyền xa ...: Ý nói người ta cứ phòng xa là hơn, ở đời thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng lâu nghĩ sắm thuyền trước để phòng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông trước để phòng khi giá rét. Lưu Cơ: Người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
  23. Thưa Ban quản trị diễn đàn! phamhung đã được Sư phụ Thiên Sứ đồng ý và giao nhiệm vụ thông báo offline tới toàn thể anh chị em học PTLV ở Hà nội và khu vực lân cận mỗi lần SP làm việc tại Hà nội. Ngày hôm qua 18/4/2011 Sư phụ đã nói là sẽ thông báo để Ban quản trị cho các nick đăng ký của anh chị em lớp PTLV được tham gia câu lạc bộ. Tuy nhiên, đến giờ này 10h48' ngày 19/4/2011 phamhung và anh chị em vẫn chưa tìm thấy mục CÂU LẠC BỘ ở chõ nào. Mong Ban quản trị xem xét!
  24. Thân chào BabyWolf! Thay mặt anh em trong lớp cám ơn BQT nhiều vì đã hỗ trợ. phamhung thấy muguet đã vào được rồi, còn lại anh Quân và chị Nhung thì chưa biết, phamhung đã gọi điện thông báo rồi. BabyWolf ơi, trường hợp chị Nhung thì vì chưa đăng ký được nick trên diễn đàn thì bây giờ làm sao nhỉ? Mong BabyWolf giúp đỡ. Thanks
  25. Cổ học tinh hoa- tinh hoa của thánh nhân Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân Can Vua Bỏ Rượu Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày, xao lãng cả việc nước. Huyền Chương can, nói: "Nhà vua uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự tận." Ngay lúc ấy án Tử vào yết kiến vua. Vua bảo: "Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận. Nếu ta mà nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, lỡ Huyền Chương chết thì cũng đáng tiếc." Án Tử nói: "May lắm! May mà Huyền Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa!" Cảnh Công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu. (Án Tử Xuân Thu) Giải Nghĩa: Tề: Một nước chư hầu lớn, thời Xuân thu Chiến quốc ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ. Hạ thần: Hạ: dưới, thần: bầy tôi. Tiếng bầy tôi xưng với vua. Tự tận: Tự mình làm cho mình chết. Yết kiến: Vào hầu. Kiệt, Trụ: Hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nỗi mất nước. Tỉnh ngộ: Đang say mê việc gì mà biết hối lại. Án Tử Xuân Thu: Bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ. Khéo Can Được Vua Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử đang ngồi chầu, thấy thế, ngăn lại, hỏi vua rằng: "Vua Nghiêu vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?" Cảnh Công ngơ ngác nhìn rồi nói: "Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội." Án Tử nói: "Tên phạm này chưa biết rõ tội gì mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục." Vua nói: "Phải." Án Tử bèn kể tội rằng: "Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết, là một tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết. Ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục..." Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng: "Thôi, tha cho nó! Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân." (Án Tử Xuân Thu) Lời Bàn: Vua Cảnh Công thấy con ngựa yêu của mình chết, mà bắt phanh thây kẻ nuôi ngựa là đang cơn tức giận, không còn biết nghĩa lý, pháp luật là gì nữa. Thế mà Án Tử can ngăn được là vì tuy gọi chiều lòng, kể tội người nuôi ngựa, mà kỳ thực lại gợi đến cái lòng nhân ái của Cảnh Công làm cho Cảnh Công phải tỉnh ngộ và biết hối. Giỏi thay! Mấy lời nói dịu dàng, thảnh thơi mà cảm hóa được quân vương. Giải Nghĩa: Tề: Một nước chư hầu lớn, thời Xuân thu Chiến quốc ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ. Phanh thây: Mổ người, róc xương, lấy thịt. Vua Nghiêu vua Thuấn xưa ...: Câu nầy hỏi thế là có ý làm cho Cảnh Công không có lối mà trả lời. Đời Nghiêu, Thuấn chưa có tội phanh thây. Thôi hãy buông ra: Cứ theo như sách án Tử Xuân thu thì là "Tòng quả nhân thủy" (khởi tự ta ra) theo Hàn Thi Ngoại truyện thì lại là Túng chi (buông ra). Đây dịch là buông ra để ăn nghĩa với câu trên. Trăm họ: Chỉ nhân dân trong nước. Dòm dỏ: Ngấp nghé xem người ta hở cơ thì làm hại. Chết Mà Còn Răn Được Vua Cừ Bá Ngọc là người hiền mà vua Linh Công nước Vệ không dùng. Di Tử Hà là người dở mà vua lại dùng. Sử Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe. Lúc ông có bệnh, sắp mất, dặn con rằng: "Ta làm quan tại triều nước Vệ, không hay tiến được Cừ Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua, thì khi ta nhắm mắt, không được làm đủ lễ. Cứ để thây ta dưới cửa sổ, thế là xong việc cho ta" Lúc ông mất, người con cứ làm theo lời dặn. Vua Linh Công đến viếng thấy vậy, lấy làm ngạc nhiên. Người con đem lời di chúc của cha tâu lại. Vua thất sắc nói rằng: "Ấy là cái tội của quả nhân!" Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và mai táng cho đủ lễ. Sau quả nhiên vua Linh Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di Tử Hà. Đức Khổng Tử nghe truyện ấy, nói: "Đời cổ những gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc, chưa có ai được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua làm cho vua phải cảm động mà nghe mình. Thế chẳng là trung trực lắm ư!" (Gia ngữ) Lời Bàn: Đời quân chủ chuyên chế, phải có những chức gián quan thì mới có người chế hạn được quyền vua, can vua bỏ điều xằng, khuyên vua làm điều hay. Nếu can khuyên vua không được thì chẳng là không làm hết cái chức trách rất trọng của gián quan ư? Nhưng một đàng vua cứ nhất định không nghe, một đàng mình cố sức can mãi đến lúc chết chưa thôi, còn lấy xác can nữa, thì thực là đáng khen cái tâm chí sâu xa bền chặt ấy! Xem chuyện Sử Ngư lại nhớ đến chuyện bác sĩ Bergonie suốt đời hết lòng với khoa học, lúc chết, cũng hiến xác cho người ta mổ xẻ để nghiên cứu về y học. Như thế mới thực là những gương sáng tận tâm với chức vụ để cho thiên hạ soi chung. Giải Nghĩa: Tiến: Cử lên làm một chức gì. Thoái: Trừ bỏ đi. Thất sắc: Mặt tự dưng tái đi. Khâm liệm: Khâm: đồ bổ khuyết xếp trên, dưới bốn bên thây người trong áo quần cho chặt; liệm: vải hay lụa để bó thây người chết. Gián quan: Chức quan chủ việc cản ngăn vua mà đàn hặc các quan khi có lầm lỗi. Trung trực: Trung: hết lòng; trực: ngay thẳng. Yêu Nên Tốt, Ghét Nên Xấu Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy, khen rằng: "Có hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân." Lại một hôm, Di Tử Hà, theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa, đưa cho Vua ăn. Vua nói:" Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta." Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: "Di Tử Hà trước dám thiện tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tôi với ta đã lâu ngày." Nói xong bắt đem trị tội. Ôi! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau cũng như vậy, thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội, là chỗ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà thôi. Lúc được vua yêu, chính đáng tội thì lại hóa công thần; lúc phải vua ghét, chính không đáng tội thì lại hóa ra sơ cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua điều gì, thì trước phải xem xét cái lòng vua yêu hay vua ghét tính thế nào rồi hãy nói. (Hàn Phi Tử) Lời Bàn: Sự yêu, ghét thường làm cho người ta mờ đi không rõ hẳn được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào. Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ là một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, lúc ghét cho ra thế kia. Cái thói thường: yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua. Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc bấy nhiêu, yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười. Lại chẳng những yêu ghét riêng một người ấy, thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp đến người ấy, yêu nhau yêu cả tông chi, ghét nhau ghét cả đường đi lối về. Sự yêu, ghét làm cho ta thiên và nhẩm như thế, cho nên ta muốn cho công bình, khi yêu khi ghét phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, biết chỗ phải cũng phải biết chỗ trái, biết chỗ trái cũng phải biết chỗ phải cho người ta mới được. Giải Nghĩa: Di Tử Hà: Người thời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Vệ. Chặt chân: Một thứ hình trong năm hạng trọng hình đời cổ. Thiện tiện: Chính mình không được làm như vậy mà cứ làm liều. Trị tội: Đem luật hình ra mà trừng trị kẻ phạm phép. Thân: Gần, đằm thắm, quý hóa. Sơ: Xa, hững hờ, ghét bỏ. Đàm luận: Nói năng, bàn bạc Hà Bá Lấy Vợ Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy có đã lâu ngày, không ai phá nổi. Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá. Trước mặt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con gái này không được đẹp! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà bá xin hoãn lại hôm khác, để tìm người đẹp hơn". Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông. Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này!" Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông. Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức gì cả! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho. Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông. Một lúc, ông nói: "Sao mãi không thấy về thế này! Bọn đồng cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc, phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong." Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói: "Để thong thả ta xem đã..." Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới bảo: "Thôi tha chọ Thế là Hà bá không lấy vợ nữa rồi". Thành thử từ đây dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến truyện Hà bá lấy vợ nữa. (Sử Ký) Lời Bàn: Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại. Khi mê tín đã thành tục, thì khó lòng mà phá nổi. Muốn phá, tất phải dụng tâm khéo làm sao mới được. Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi cái tục cưới vợ cho Hà bá là vì ông biết trừ tự cái gốc rễ; tức là đám đồng cốt quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người ta để kiếm ăn, để cầu lợi. Trừ hai hạng ấy để cứu vớt lương dân, chỉnh đốn phong tục thật là công minh và cương quyết vậy. Giải nghĩa: Nghiệp: Tên một huyện đời nhà Hán tức là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam bây giờ. Tục: Thói quen lưu truyền lâu ngày đã thành nếp. Hà bá: Thần ở dưới nước. Mê tín: Tin một cách mê muội không biết lẽ phải là thế nào nữa. Tây Môn Báo: Người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi, trừ được hại, hưng được lợi cho dân. Thân hành: Chính mình đi làm lấy một việc gì. Bô lão: Các cụ già. Hào trưởng: Kẻ có quyền thế, làm bực trên trong dân làng. GHÉT CON KHÔNG GIỐNG MÌNH Doãn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống mình, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ ..." Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Ðan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì còn cái gì mà giống cha? Cái đạo thường, thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu?" Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa." Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ. (Khổng Tùng Tử) LỜI BÀN: Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế. Nhưng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy. CHÚ THÍCH: Khổng Tùng Tử : tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của Khổng Phụ làm ra. Khổng Phụ, tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám của Khổng Tử. LỢN MẸ GIẾT CON Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình thì ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi. Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyển di. Mắt đã mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Ðã ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi người khác máu với mình. Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức. Gớm thay! Tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác gì con lợn nái. (Tử Hoa Tử) LỜI BÀN: Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng tình, đồng chí thì ưa nhau, mến nhau, còn ngoại giả, thì đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người ta như cừu địch cả, thực là hẹp hòi đáng tiếc. Người quân tử không bao giờ lấy cái hình sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng nòi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với mình, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, mình cũng nên có lòng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta thì mới đáng gọi là yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không thì tâm thuật lợn nái mất rồi! CHÚ THÍCH: Tử Xa: quan Ðại phu nước Tần. Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm não làm thế này thế kia. Chuyển di: Thay đổi. Thế lợi: quyền thế, tài lợi. GIÁP ẤT TRANH LUẬN Giáp hỏi Ất: "Ðúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông tiếng kêu boong - boong thì tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng kêu?" Ất đáp: "Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông kêu, thế thì tiếng kêu ở như đồng." Giáp hỏi: "Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không?" Ất nói: "Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra." Giáp hỏi: "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không?" (Âu Dương Tu) LỜI BÀN: Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, thì cũng phân vân, không rõ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra. Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh vào, không kêu. Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được. Tiếng kêu là gì? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra. Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, thì hình như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một. Thế mới hay, lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không tài nào gỡ rối. Nên biết được thế nào, thì hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ cho mình là phải, không bết cái phần phải của người, thì là có tính nhân thiên và lượng hẹp. Nói cho đúng: muốn rõ vật lý, cần phải cho khoa học. Không khoa học mà bàn luận vật lý, cần phải có khoa học. Không biết khoa học mà bàn luận vật lý, thì không tài nào xác thực được. CHÚ THÍCH Tiền trinh: tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Trung Quốc đem sang ta đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh nên gọi là tiền trinh. Âu Dương Tu: Người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng. MẶT TRỜI XA, GẦN Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau,hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng: "Tôi thì tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn, về buổi trưa, ở xa ta hơn." Còn một đứa nói: "Tôi thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn," Ðứa trước cãi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe, đến giữa trưa, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?" Ðứa sau cãi: "Lúc mặt trời mới mọc, thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?" Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao. Hai đứa bé cười bảo: " Thế thì cho ông là người học rộng hiểu nhiều thế nào được " LỜI BÀN:Buổi sáng, buổi trưa, mặt trời ở cách trái đất cũng không phải lúc gần, lúc xa gì cả. Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa thấy nóng hơn, chẳng qua là tại tia nóng mặt trời chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất, buổi sáng còn chếch, buổi trưa mới thẳng. Vả chẳng buổi sáng, còn những sương móc ban đêm chưa tan hết cho nên mát hơn buổi trưa là lúc khí nóng tụ tích mãi vào, cho nên nhiệt độ càng cao. Còn nếu buổi sáng, trông mặt trời to, buổi trưa trông mặt trời nhỏ, chẳng qua là một cỏi hoãn hình của con mắt trông như thế mà thôi. Mặt trời đâu vẫn ở đó. Trái đất xoay chung quanh mặt trời. Lúc mặt trời mọc, con mắt trông chếch, đến buổi trưa, con mắt trong thẳng mà lại trông qua từng không khí, cho nên thấy to nhỏ khác nhau. Vậy chỉ tại người trông hóa to, nhỏ, chớ không phải chính mặt trời xa, gần gì cả. Ấy đại để bây giờ thì ta giải nghĩa như thế. Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, thì xem hai đứa bé suy lý với nhau, đứa nào cũng phải, khó lòng mà quyết định được thật. Vả lại ngừơi ta thông minh, thánh trí đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được. Vì rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức thì mông mênh, không bờ bến nào!