phamhung

Lớp Địa Lý Lạc Việt
  • Số nội dung

    2.356
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    39

Everything posted by phamhung

  1. Thày Thiên sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Nguyễn Vũ Diệu) nói về các vấn để liên quan đến Kinh Dịch, Phong thủy... từ khái niệm cơ bản đến nâng cao 10 luỹ thừa -24 sau giây 0 và Thái Cực sinh Lưỡng Nghi Vì sao thuyết Âm dương Ngũ hành lại là cơ bản của Bát quái và Hà đồ phố Hậu thiên Lạc Việt là nguyên lý căn đề duy nhất Đúng
  2. Số thứ 5: Cách Khắc Phục Chung Cư Có Phong Thủy Đất Đai Xấu
  3. Quan Niệm Làm Việc Gì Cũng Phải Theo Phong Thủy Đúng Hay Sai?
  4. Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ Hành MỆNH TRẠCH trong BÁT TRẠCH Định tâm - Địa lý Phong Thuỷ Lạc Việt ứng dụng
  5. Phong thủy trong Kinh doanh Tọa đàm Phong Thủy trong kinh doanh - P1 Tọa đàm Phong Thủy trong kinh doanh - P2 Phong Thủy Lạc Việt - Bài giảng về Khí Khí trong Lý Học Đông Phương Khí trong khái niệm và nguyên lý Âm Dương
  6. CHÚC MỪNG SINH NHẬT SƯ PHỤ THIÊN SỨ . Kính chúc Sư phụ luôn Mạnh khỏe, May mắn, Thành công và Hạnh phúc! Sư phụ mãi là người thày Tôn kính của chúng con!
  7. Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết: CHIẾN TRANH "KINH THẾ" MỸ TRUNG. Thưa quý vị và các bạn. Có lẽ tôi là người bình luận sớm nhất về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc và vấn đề Biển Đông. Tiểu luận đầu tiên - từ 2008 - phân tích về vấn đề này, chính là topic "Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề Biển Đông", trên dd lyhocdongphuong.org.vn. Những gì đã thể hiện trong tiểu luận này, đều diễn biến chính xác đến tận ngày hôm nay. Cũng từ rất lâu, tôi cũng xác định rằng: Cuộc chiến thương mại,hoặc chiến tranh Nóng hay Lạnh giữa Mỹ Trung, sẽ là diễn biến của "Canh bạc cuối cùng", nhằm quyết định ngôi vị "BÁ CHỦ THẾ GIỚI" trong cuộc "Hội nhập toàn cầu". Đó chính là một chặng đường kết thúc lịch sử tiến hóa quan trọng của toàn bộ lịch sử nền văn minh nhân loại, để nó tiếp tục phát triển sang một giai đoạn mới hoàn toàn về bản thế cấu trúc nền văn minh nhân loại. Trong cuộc "Hội nhập toàn cầu" này sẽ không có "Đa cực". Nếu còn khái niệm "Đa cực" thì không thể có vấn đề "hội nhập toàn cầu" - với tư cách là một quy luật tiến hóa của vũ trụ, không thể đảo ngược. Lý thuyết về "Hội nhập toàn cầu" - nhân danh nền văn hiến Việt - là lý thuyết chủ đạo để tôi căn cứ vào đó, xác định tất cả mọi diễn biến các vấn đề thời sự quốc tế, trong đó có cuộc chiến kinh tế Mỹ Trung. Tất cả mọi hiện tượng phát triển, từ mạng internet, Al,..vv,,,cho đến các lý thuyết khoa học mũi nhọn...vv...đều thể hiện cho quy luật thống nhất toàn thể xã hội loài người của nền văn minh này. Nói theo ngôn ngữ Toán học của "Nghịch Lý Cantor" - thì lý thuyết "Hội nhập toàn cầu" - nhân danh nền văn hiến Việt -là tập hợp lớn nhất có tính quyết định tất cả mọi sự kiện diễn biến của các sự kiện trong tập hợp của nó. Bởi vậy, cuộc chiến kinh tế Mỹ Trung phải kết thúc, với "Bên thắng cuộc" và không có đầu hàng cho bên thua cuộc. Bởi nếu, chấp nhận đầu hàng - dưới hình thức một cuộc đàm phán thương lượng nào đó, thì sẽ còn tồn tại "Đa cực". Cho nên cuối cùng nó cũng phải bị xóa bỏ khi thế giới hội nhập hoàn toàn. Do đó, vấn đề thương lượng - đầu hàng - cũng chỉ là cục bướu của lịch sử và cuối cùng cũng phải cắt bỏ. Ngài Đặng Tiểu Bình, khi sinh thời phát biểu: "Tất cả những nước làm ăn với Mỹ đều giàu!". Xét về phượng diện kinh tế thì hoàn toàn chính xác. Nhưng nếu xét một cách toàn diện, bao gồm cả yếu tố cấu trúc xã hội của các nước làm ăn với Hoa Kỳ thì không phải hoàn toàn như vậy. Và ngay cả xét trên phương diện kinh tế làm ăn với Hoa Kỳ, nó còn tùy thuộc vào thứ tự tiên của chính nước Mỹ. Do đó, chỉ có thể nói rằng: Những nước làm ăn với Hoa Kỳ đều có sẵn một yếu tổ cần để phát triển thì chính xác hơn. Bắt đầu từ kế hoạch phục hưng châu Âu (European Recovery Program - ERP) của Hoa Kỳ. Kế hoạch này đã sản xuất ra hàng loạt các siêu cường, phục hồi và phát triển sau thế chiến thứ II. Mà trước đó, họ tan nát như cái mền rách vì chiến tranh. Ngay sau đó là sự "Phát triển thần kỳ của Nhật Bản", vốn được ca ngợi như một nỗ lực vượt trội của nước Nhật. Nhưng tất cả các nhà phân tích đều quên, hoặc cố tình quên một siêu cường đứng đằng sau: chính là Hoa Kỳ. Các hiện tương thần kỳ về kinh tế, thành Rồng, thành Hổ như Singapore, Nam Hàn...đều tương tự như vậy. Thậm chí, trong chiến tranh Lanh, cả nước Hy Lạp được bơm tiền và tạo điều kiện để làm hàng mẫu cho sự thịnh vượng chung của nền kinh tế tự do là Hy Lạp. Nước này cũng rất phát triển. Tất nhiên, sau chiến tranh Lạnh kết thúc. Nước Hy Lạp trở về với thực trạng của nó và cũng đang khủng khoảng. Sự khủng khoảng của Hy Lạp là một ví dụ cho luận điểm của tôi, về việc làm ăn với Huê Kỳ chỉ là một yếu tố cần, và không phải duy nhất cho sự phát triển kinh tế. Sự phát triển kỳ diệu của Trung Quốc lục địa cũng không nằm ngoài yếu tố này. Hàng xuất khẩu của Tàu ồ ạt tuồn sang Hoa Kỳ và là thu nhập kinh tế quan trọng - với thăng dự giá trị thương mại hàng trăm tỷ Dollar - để đất nước này phát triển. Trong đó có cả hàng .."giả" (Vừa rồi trên Fb, có một vị nào đó nói, bên Hoa Kỳ không có hàng giả. Vớ vẩn! Bạn nào muốn mua hàng tiêu dùng giả của bất cứ hãng nào, lão đây mua cho, kể cả bằng lái xe. Lão bán giá inbox + ship. Hì). Tất nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất, như tôi trình bày ở trên. Mà nó còn do quyết tâm của các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh với tài năng của họ. Nhưng tôi vẫn cần xác định rằng: Làm ăn với Hoa Kỳ - và tùy thuộc vào thứ tự ưu tiên của họ - là một yếu tố CẦN. Còn nếu quốc gia nào, tuy làm ăn tích cực với Hoa Kỳ, nhưng không phải là đối tác ưu tiên và với một xã hội quản trị, tổ chức lòng lẻo thì wên nhanh nhé! Tuy nhiên, ngay cả những xã hội có tổ chức và quản lý xã hội tuyệt hảo thì khi làm ăn với Hoa Kỳ - trong tư thế ưu đãi Tối huệ quốc - họ có thể đưa đất nước của họ phát triển thành Rồng, thành Hồ - như đã nêu trên - thì một yếu tố cực quan trọng tạo ra một mối tương tác quyết định, lại chính là sự phụ thuộc vào nền kinh tế của Hoa Kỳ. Những chính trị gia ở những quốc gia này, thường phát biểu một câu an ủi và sặc mùi chính trị cho sự bình yên nơi trần thế, là "Những nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau". Nếu nói "toạc móng lợn" thì không hề có "những nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau". Mà là nó lệ thuộc vào nền kinh tế Hoa Kỳ. Ngoại trừ tất cả thế giới này: "Một! Hai! Ba". Nghỉ chơi với Hoa Kỳ ra! Nhưng điều này không bao giờ xảy ra, cho dù Đức Giáo Hoàng nhân danh Chúa kêu gọi cả thế giới tẩy chay Hoa Kỳ. Nó giống như việc tìm kiếm người "Ngoài Trái đất" vậy. Cần xác định ngay rằng: Sự phát triển thành siêu cường thứ II trên thế giới của Trung Quốc lục địa, gần như gắn chặt với giao dịch thương mại với Hoa Kỳ - một đất nước chiếm 50 % tổng sản phẩm thế giới. Đó là bản chất của vấn đề. Nhưng có vẻ như Bắc Kinh không nhận ra điều này. Hoặc hiểu sai vấn đề. Phân tích về việc này, tôi đã nói từ 2008 - trong topic "Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề Biển Đông". Và việc làm ăn Tối huệ quốc với Hoa Kỳ, đó là phần tiền công mà Bắc Kinh được hưởng, vì đã ủng hộ Hoa Kỳ trong việc gây sức ép khiến Liên Xô sụp đổ. Nhưng điều đó không có nghĩa là Hoa Kỳ "chai hia" cho Bắc Kinh cái thế giới này. Ngài Đặng Tiểu Bình đã phát biểu: "Không bao giờ có ý định làm bá chủ thế giới" (Xem hình minh họa kèm theo - Nguồn Fb Nhà báo Nguyễn Huy Cường). Và ngay cả các phát biểu của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh gần đây, cũng lặp lại tương tự. Nhưng đấy là chuyện "nói chơi cho vui". Và bản thân ngài Đặng cũng vẫn nhắc nhở các thế hệ kế tiệp sự nghiệp của ngài về việc "Giấu mình chờ thời". Điều này, có nghĩa là: "Khi gặp thời" thì hãy alaxo, xung phong lên, mần cái bá chửi thế giới! Về lý thuyết, Bắc Kinh vẫn ra rả :"Phát triển trong hòa bình". Trước hết lão Gàn xin: "Cảm ơn tư tưởng tốt!". Nhưng với các chính khứa quốc tế, đầu có những cục sạn to đùng, với thói quen nghề nghiệp, họ thừa biết bản chất của chính trị nó chân thật đến mức nào. Nên họ ko thể tin được cái "Trỗi dậy trong hòa bình" của Tàu. Vào năm 1999 - một quả rocket bắn nhầm vào Đại sứ quán Bắc Kinh ở Kosovo, như một lời quảng cáo. Nhưng lúc đó, có vẻ Hoa Kỳ và Đồng minh không nghĩ rằng tình hình lại tồi tệ đến mức như vậy. Tuy nhiên, mọi chuyện khác hẳn với những diễn biến sau đó. Còn tiếp.
  8. NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN. III. Mối liên hệ Địa chi trong gia đình. A/ SAO MỘC VÀ THẬP NHỊ ĐỊA CHI. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Tính đặc thù của vấn đề nghiên cứu nền văn minh Đông phương - mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là một vấn đề chưa từng có trong lịch sử văn minh nhân loại. Đó là vì chúng ta phải phục hồi một lý thuyết cổ xưa đã tồn tại trong lịch sử. Chứ không phải chúng ta tổng hợp những nhận thức trực quan về những hiện tượng qua sát được, để trở thành một lý thuyết. Chính vì vậy, chúng ta cần có phương pháp nghiên cứu, không thể theo lối mòn như trong lịch sử hình thành các học thuyết khoa học của nền văn minh hiện nay. Giáo sư Lê Văn Sửu viết - Đại ý: "Nền khoa học hiện nay có những phương tiện cực kỳ tình xảo. Nhưng để khám phá những bí ẩn của nền văn minh Đông phương thì vẫn gặp khó khăn to lớn". Đó chính là do sai lầm về phương pháp nghiên cứu. Trong trường hợp của việc nghiên cứu những bí ẩn của nền văn minh Đông phương, chẳng ai có thể dùng kính hiển vi điện tử để phóng to ký hiệu quái Càn là gì?! Nhưng với suy nghĩ đã trở thành chấp ngã trong quá trình phát triển của cả một nền văn minh và không có ngoại lệ. Nên khi tìm hiểu về nền văn minh Đông phương, những nhà nghiên cứu cũng bắt đầu từ nếp suy nghĩ cố hữu này. Họ cho rằng các ngành Đông Y, Địa lý phong thủy.... chỉ là do "tích lũy kinh nghiệm". Tức là cũng thực chứng, thực nghiệm y như những gì mà nền văn minh hiện nay dùng để tổng hợp đưa lên thành một lý thuyết. Giở những cuốn sách giới thiệu về Địa Lý Phong thủy phương Đông, phần nhiều, các tác giả nhận định rằng: Địa lý phong thủy là do con người bắt đầu từ cuộc sống ở những hang động, rồi họ rút kinh nghiệm tạo nên môn Địa Lý phong thủy. Rồi họ bưng nguyên si nghĩa đen của từ "Phong thủy" và giải thích "Phong là gió. Thủy là nước" - Phong thủy là gió và nước. Việc xác định độ ẩm và tốc độ gió trong căn hộ là một trong những đề tài nghiên cứu của Tiến Sĩ Bùi Văn Chân từ 50 năm trước, tại khi tập thể Chung Tự ở Hanoi. Wow! Lạy Đức Ala toàn năng và cao cả. Vậy "Phoengshui" là rất có "cơ sở khoa học", vì nó cũng bắt đầu từ những thông số cơ bản của ngành Vật Lý kiến trúc. Hơ! Xin lỗi! Gặp các thày bà như vậy, hoặc những cuốn sách mở đầu như vậy, tôi đi chỗ khác chơi. Tóm lại, với những tư duy lối mòn như vậy thì không thể nào khám phá được những gía trị của nền văn minh Đông phương. Đó chính là những sai lầm về phương pháp nghiên cứu. Một trong những yếu tố cản trở lớn nhất trong việc tìm hiểu bản chất của nền văn minh này. Nhưng sự khám phá những bí ẩn huyền vĩ của nền văn minh này, đòi hỏi một tư duy tổng hợp những tri thức mũi nhọn của nhiều ngành khoa học. Từ lịch sử, xã hội và cả những tri thức của toàn bộ các ngành khoa học tự nhiên, kể cả vật lý thiên văn cho tới những khái niệm toán học. Bởi vì Lý học Đông phương bao trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống, con người và xã hội, cũng như toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ. Do đó, khi nghiên cứu về Lý học Đông phương - mà nền tảng là học thuyết Âm Dương Ngũ hành - cần phải đi tìm và xác định tính cấu trúc hợp lý trong mối liên hệ mọi đại lượng, khái niệm có tính hệ thống và nhất quán trong nội hàm của một lý thuyết vô cùng đồ sộ và bao trùm lên mọi lĩnh vực. Do đó, nó cần những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học, làm chuẩn mực để thẩm định tính khoa học trong việc phục hồi một hệ thống lý thuyết. Khó khăn tiếp theo, chính là vấn đề thuộc phương pháp cụ thể. Nếu như để nghiên cứu hiện tượng hoặc cấu trúc vật chất trong nghiên cứu khoa học hiện đại, có thể dùng phương pháp loại suy đơn giản và cô lập hiện tượng, đối tượng nghiên cứu để đi tìm bản chất của vấn đề. Như việc tìm kiến hạt Higg. Nhưng nghiên cứu Lý học thì không. Bởi vì, nó là kết quả của một sự giải thích mang tính lý thuyết. Thí dụ: Một quẻ Dịch tốt như Địa Thiên Thái, xác định chuyên phát triển của một doanh nghiệp. Nhưng đó là sự giải thích của một phương pháp (Tính dự báo) của một hệ thống lý thuyết. Và cho dù sự lặp lại của quẻ này luôn luôn đúng cho mọi hiện tượng dự báo, thì nó vẫn không thể chứng tỏ được bản chất hình thành nên quả Địa Thiên Thái. Do quẻ này là sự tông hợp của mọi hiện tượng. Nói rõ hơn là: Bằng thực nghiệm trên máy LHC, các nhà khoa học có thể xácđịnh "Không có hạt Higg". Nhưng bằng thực nghiệm ứng dụng của quẻ bói, không nói lên điều gì cho bản chất của quẻ đó và nguyên nhân hình thành nên nó. Mà người ta chỉ có thể xác định phương pháp đó có hiệu quả, quẻ bói nghiệm. Bởi vậy, nghiên cứu Lý học Đông phương - để tìm bản chất chân lý khách quan đằng sau các phương pháp ứng dụng và cả một hệ thống lý thuyết đằng sau nó, phải bằng những chuẩn mực giành cho một hệ thống lý thuyết, mà tôi đã trình bày ở trên. Cụ thể, vấn đề được trình bày trong bài viết này là ý nghĩa của thập Thiên can và ảnh hưởng của nó lên cuộc sống con người. Hiện nay, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng: Thập Thiên can có nguồn gốc văn hóa phương nam. Cụ thể là của Việt tộc. Cụ thể là nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Quang, đã chứng minh rất xuất sắc về cội nguồn của Thập nhị Địa chi thuộc về văn hiến Việt. Phương pháp của ông chủ yếu là tư liệu lịch sử và so sánh đối chiếu biểu tượng 12 con giáp. Nhưng bằng một phương pháp khác, dựa vào tiêu chí khoa học, phát biểu như sau: "Một lý thuyết khoa học thì mô hình biểu kiến của nó phải phải ánh một thực tại có thể kiểm chứng được. Do đó, tôi đặt vấn đề: mô hình chu kỳ 12 con giáp xuất phát từ đâu? Trong các bản văn chữ Hán không thấy nói đến thực tại khách quan nào để lập thành mô hình biểu kiến chu kỳ 12 con giáp?! Đây là sự xác định chắc chắn rằng: Nền văn minh Hán không thể là chủ nhân của mô hình biểu kiến 12 con giáp. Vì nó không xác định được nguyên nhân khách quan để lập thành mô hình này. Trong quá trình nghiên cứu Lý học Đông phương, so sánh đối chiếu các kết quả, tôi xác định rằng: Chính chu kỳ của Sao MỘC quay quanh Địa Cầu là chu kỳ của 12 con giáp trong Lý học Đông phương. Khoa Thiên văn học hiện đại đã chứng minh rằng: Chu Kỳ sao Mộc - Thái Tuế thuộc Mộc trong Lý học Đông phương - quay quanh Mặt trời tương đương 11, 8 năm Địa Cầu (Có sách chép 11, 89). Nhưng năm Dương lịch (Lịch Tây) có 365 ngày. Còn Âm lịch (Lịch Ta) chỉ có 355 (Hoặc 356) ngày. Sai số chính xác của 12 năm lịch Ta (Công thêm ba tháng nhuận) - chu kỳ 12 con giáp = với 11.8 lịch Tây là không đáng kể. Sự xác định sao Mộc - Ngôi sao lớn nhất gần Địa cầu sau Mặt trời, và chính là sao Thái Tuế trong Lý học Đông phương - đã xác định tính khoa học theo đúng tiêu chí khoa học của một lý thuyết khoa học và nó cũng xác định tính quy luật khách quan tương tác của sao Mộc/ Thái Tuế lên địa cầu. Chính quy luật tương tác của sao Mộc trong Thái dương hệ là cơ sở của 12 Địa Chi và là chủ đề của bài viết này. Ảnh hưởng của sao Mộc trong 12 năm Địa chi tất nhiên được phân Âm Dương, mỗi chu kỳ Âm Dương là 6 năm, chính là ý nghĩa của Lục Khí trong 12 con giáp được mô tả trong bàng tuần hoàn LẠC THƯ HOA GIÁP mà tôi đã chứng minh. Trên cơ sở này, tôi tiếp tục trình bày về tương tác của Thập nhị Địa chi trong quan hệ gia đình. Xin cảm ơn sự quan tâm, chia sẻ của quý vị va 2anh chị em. B/ TƯƠNG TÁC 12 ĐỊA CHI. Như tôi đã trình bày ở bài trước. Do chu kỳ của sao Mộc/ Thái Tuế trong Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - là thực tại làm nên mô hình biểu kiến là 12 Địa Chi. Bội số chung nhỏ nhất của 12 Địa Chi phối với 10 Thiên can chính là con số 60 của LẠC THƯ HOA GIÁP - nhân danh nền văn hiên Việt. Và đó chính là tính phân loại vận khí do tương tác của vũ trụ - 10 Thiên can - và tương tác mạnh ở Thái Dương hệ với sao Thái Tuế / Sao Mộc làm thành vẫn khí hàng năm. Các mối liên hệ về Thiên Can và Vận khí tôi đã trình bày. Trong bài này tôi tiếp tục trình bày về tương tác 12 Địa chi. Thưa quý vị và các bạn. Chính vì tình tương tác phức tạp và không thể có một mẫu số chung cho các tương tác này, nên không thể có cặp vợ chồng nào tuyệt đối tốt. Qua đó thấy rằng: Phương pháp Luận tuổi Lạc Việt phản ánh đúng thực trạng cuộc sống, vì tính không thể tuyệt đối ngay trong lý thuyết này..Ngay cả việc bồ sung tuổi những đứa con với xác xuất cao nhất là 60 Nam x 60 Nữ x 60 tuổi con út cũng không thể tuyệt đối. Lý tưởng nhất về mặt lý thuyết là tập hợp các con trong gia đình thành những cách cục tuyệt hảo - các Đại gia hoặc công chức cao cấp thì vào những vận hạn xung khắc tuổi các thành viên thì vẫn có tính thăng trầm của số phận.. Chưa nói đến vấn đề các yếu tố trong tập hợp "Luận tuổi Lạc Việt", cũng chỉ là một trong ba tập hợp khác là Địa Lý phong thủy và số phận. Tuy nhiên phương pháp "luận tuổi Lạc Việt" là phương pháp có xác xuất chính xác cao nhất so với các phương pháp khác và dễ dự báo nhất. BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH hi xem tuổi hợp khắc, nếu hai tuổi khắc nhau vẫn có thể ăn ở với nhau được nếu như CUNG và MỆNH hoà hợp nhau. * Tuổi Tam hợp: Thân Tý Thìn, Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi, Tỵ Dậu Sửu * TuổiI Nhị hợp: Tý Sửu, Dần Hợi, Mão Tuất, Thìn Dậu, Tỵ Thân, Ngọ Mùi. * Tuổi Tứ hành xung: Tý Ngọ, Sửu Mùi; Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tỵ Hợi. * Tuổi Lục Hại: Tý hại Mùi, Sửu hại Ngọ, Dần hại Tỵ, Mão hại Thìn, Thân hại Hợi, Dần hại Tuất. Như tôi đã trình bày ở bài trước.
  9. LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Nguyễn Vũ Diệu) NHẬP ĐỀ. Cho đến tận ngày hôm nay, khi tiếp các thân chủ đang trong tuổi yêu đương, dựng vợ gả chồng của các bạn trẻ. Tôi thấy những bậc phụ huynh vẫn cố chấp và đôi lứa trẻ vẫn đau lòng về việc bị cha mẹ cấm cản, vì một nguyên nhân lãng nhách, là nghe lời các thày bà nửa mùa, dốt nát. Họ căn cứ vào những kiến thức di sản đã thất truyền và sai lệch từ các bản văn cổ chữ Hán, để cho rằng có những đôi lừa không thể lấy nhau vì không hợp tuổi. Hậu quả của những sự thất truyền và sai lầm này, đã gây ra những kết cục bi thương cho họ. Thậm chí có những đôi lứa tự tử để quyết sống bên nhau, vì lời phán của các loại thày, bà dốt nát. Bởi vậy, hôm nay, tôi quyết định viết lại rõ ràng về phương pháp "LUẬN TUỔI LẠC VIỆT", mà tôi đã dày công nghiên cứu và đã công khai công bố trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn, từ hàng chục năm trước. Có thể nói: Công trình nghiên cứu này đã phổ biến trong tất cả các cao thủ Địa Lý Lạc Việt và các nhà Lý học thiện tâm ứng dụng. Nhưng nó chưa thật sự phổ biến rộng khắp, như một giáo trình Lý học ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành - với tư cách là một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VŨ TRỤ. Ngày nay, nhờ mạng xã hội và cảm ơn hệ thống Facebook, tôi - Lão Gàn Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh - viết và công bố lại ở đây công trình nghiên cứu về mối quan hệ gia đình trong luận tuổi Lạc Việt với sự bổ sung hoàn hảo nhất,về phương pháp này - nhân danh những gía trị đích thực của Lý Học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt. Tôi viết lại bài viết này với một hy vọng rằng: Sẽ giúp cho đôi lứa yêu nhau thực sự, đủ tự tin để đến với nhau và xây dựng hạnh phúc bên nhau trọn đời với "Luận tuổi Lạc Việt". Tôi cũng hy vọng rằng: "Luận tuổi Lạc Việt" sẽ giúp cho các bậc phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn bản chất đích thực của nền văn hiến Việt, thực sự nhân bản với tình yêu con người, hoàn toàn phù hợp với những quy luật tự nhiên trong vấn đề phát triển cuộc sống và xã hội. Từ đó họ sẽ ứng dụng hệ thống tri thức này, hướng dẫn con cái đi tìm hạnh phúc đích thực. Xin cảm ơn vì đã quan tâm, chia sẻ. Còn tiếp. Ngày Tam Nương sát 18. 6. Mậu Tuất Việt lịch. Nhằm ngày 30. 7. 2018. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. BẮT ĐẦU TỪ HÌNH TƯỢNG THẦN TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG NHỮNG NỀN VĂN MINH CỔ. Có lẽ tất cả mọi người trên thế giới này, đều biết đến một hình ảnh phổ biến của thần Tình Yêu, có xuất xứ từ nền văn minh Hy - La. Đó là một chú bé rất xinh xắn, trên lưng có đôi cánh và bộ cung tên bằng vàng. Chú bé cười như nắc nẻ, mỗi khi bắn một mũi tên xuống trần gian và bao giờ nó cũng xuyên qua hai trái tim, một nam, một nữ. Thế là họ phải lấy nhau, như một định mệnh đã an bài. Đó là thần Eros hay Cupid trong thần thoại Hi – La, là xuất xứ ban đầu của nền văn minh phương Tây. Thần Cupid có lúc hiện thân là một thanh niên thân hình tráng kiện với những đường nét chuẩn của tỷ lệ vàng, mà chúng ta thấy ở tượng David của Michelangelo. Vị thần này ngồi trên xe có đôi Thiên Nga trắng kéo. Còn Thần Eros hiện đại và văn minh hơn, lắp ngay đôi cánh Thiên Nga trên lưng mình và hỗ trợ sự di chuyển bằng bánh xe lửa có cánh. "Chúa không chơi trò xúc xắc". Đấy là câu nói nổi tiếng của Anbert Einstein. Nhưng vị thần Tình Yêu trong thần thoại Hy La này có vẻ như chơi trò xúc sắc, khi hứng thú bắn những mũi tên tình yêu của mình. Trong nền văn minh cổ đại của Ấn Độ, thì vị thần Tình Yêu có vẻ chững trạc hơn. Thần hiện thân là một chàng trai tuấn tú, thân hình chuẩn sáu múi do tập thể dục thể hình thường xuyên, chứ không phải là một đứa trẻ hồn nhiên, vô tư với tâm hồn trong trắng, thánh thiên. Ngài cũng có bộ cung tên như hai vị thần tình yêu của Hy La. Nhưng có điều ngài lại ngồi trên xe, do một chú vẹt lắm chuyện kéo xe. Một hiện tượng đáng chú ý là: Thần Tình yêu Ấn Độ, dám chống lại cả Brahma, Shiva, là những vị thần tối cao của Ấn Độ. Nhưng thần tình yêu của Hy La lại là kết quả của tình yêu giữa thần Jupiter lắm vợ với nữ thần Venus. Giống như thần thoại Hy Lạp, thần Tinh yêu Ấn Độ cũng dùng mũi tên của mình để kết nối lứa đôi như thần Tình yêu Hy La. Nhưng có lẽ vị thần Tình yêu của xứ sở cary này, khác hẳn hai vị thần Hy La nói trên, bởi chính danh xưng của vị thần này. Ngài có tên là Kama. Tên của vị thần có từ thời rất cổ xưa này, phát âm gần giống với từ "karma", tức là "Nghiệp chướng" trong triết học Ấn Độ cổ và trong Phật giáo. Đây là một điểm khác biệt hẳn, so với sự vô tư và hồn nhiên, khi kết hợp hôn nhân đôi lứa qua hình tượng đứa trẻ trong thần thoại Hy La với thần thoại Ân Độ. Tên thần Tình Yêu Ấn Độ, đã mang bóng dánh của một định mệnh được an bài. Mà trong đó, tình yêu và hôn nhân thực sự là hậu quả của "nghiệp chướng" karma, ẩn chứa đằng sau sự vô tư khi ban phát tình yêu của thần Kama. "Duyên tình hay nghiệp oan khiên? Mà sao mãi mãi trăng đêm nhắc sầu?! Trăng non bến giang đầu vừa hé. Nghe gió than khe khẽ bên bờ..." Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh phải thốt lên như vậy! Thưa quý vị và các bạn! Trải dài từ nền văn minh cổ Hy La, cho đến Ấn Độ, chúng ta thấy có sự chuyển biến từ một tình yêu hồn nhiên, vô tư và mang tính nguyên sơ của thần thoại Hy Lạp, La Mã, đến dấu ấn của một kết quả có tính nhân quả - nghiệp chướng - trong thần thoại Ấn Độ. Có vẻ như điều này đã dần sáng tỏ danh ngôn của ngài Albert Einstein: "Chúa không chơi trò xúc sắc". Và điều này được khẳng định trong văn minh Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt. THẦN HÔN NHÂN TRONG NỀN VĂN HIẾN VIỆT. Mạch hôn nhân của Hy La vượt qua Ấn Độ, khi đến phương Đông với nền văn minh thứ V cổ xưa ở miền Nam sông Dương Tử - thì tính chất đã khác hẳn. Ở nền văn minh Đông phương, không có thần Tình Yêu. Mà chỉ có vị thần hôn nhân là Nguyệt Lão. Sự tích về Nguyệt Lão được cho rằng có xuất xứ từ thời nhà Đường. Truyện này được mô tả hay nhất trong cuốn "Điển Cố" của Phan Thế Roanh. Sự tích này có nhiều dị bản. Nhưng có thể tóm tắt về hình tượng Nguyệt Lão như sau: Đó là một ông già thường ngồi dưới bóng trăng. Bên canh có chiếc túi chứa đầy những sợi "chỉ hồng" ("Xích thằng"), trên tay ông luôn cầm cuốn sách, trong đó ghi danh tất cả những đôi lứa nam, nữ ở trần gian sẽ phải lấy nhau. Sau khi cân nhắc cẩn thân, Nguyệt Lão lấy sợi chỉ hồng buộc hai người lại với nhau. Và thế là định mệnh đã an bài. Dù cuộc thế bãi bể nương dâu, họ cũng phải đến với nhau và thành vợ, thành chồng. "Dù khi lá thắm, chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. Kiều - Nguyễn Du. Như vậy, trong tiềm thức của nền văn minh cổ Đông phương, không có thần Tình Yêu, không có tỉnh yêu cảm tính, hồn nhiên, như nhiên, vô tư như trẻ nhỏ. Mà đó là sự cân nhắc chín chắn của bậc trưởng thượng, tính toán chi ly mọi yếu tố với sự ghi chép có tư liệu cẩn thận, rồi mới quyết định sự ràng buộc của Định mệnh, bằng sợi chỉ hồng. Theo những truyền thuyết về vị thần Hôn nhân trong văn minh cổ Đông phương, xác định một định mệnh đã an bài và không thể cưỡng lại. Cho dù, nó nằm ngoài ý muốn của con người và cố tình chống lại nó. Rõ ràng ở nền văn minh Đông phương "Chúa không chơi trò xúc sắc". Về nguồn gốc của thần Hôn nhân - Nguyệt Lão - Có vẻ như nó thuộc về văn minh Hán với sự tích phổ biến rộng rãi với nhân vật Vi Cố đời nhà Đường (618-907). Những loại Nho sĩ thuộc hạng "Tầm chương, trích cú"; "Soi từng câu, dò từng chữ", ra rả như ve rằng: Nó có nguồn gốc văn hóa Hớn. Và rằng nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng văn hóa Hớn. Thực ra đó chỉ là loại tầm nhìn xa dưới 10km. Dấu ấn của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử, từ hàng nghìn năm trước - nền văn minh cổ đại thứ V trong lịch sử văn minh nhân loại - chính là sợi chỉ đỏ huyền vĩ buộc định mệnh của những cặp vợ chồng trên thế gian. "Xích thằng" - chỉ Hồng - đó là phát âm nguồn gốc từ LẠC HỒNG mà ra. Từ LẠC trong ngôn ngữ Việt, tiếng Nam Bộ, còn có thể viết và đọc là "LẠT" - sơi dây ràng buộc mọi sự việc, sự vật của thế nhân. Và đấy không phải là bằng chứng duy nhất. Tôi đã chứng minh trên dd lyhocdongphuong và trong các sách đã xuất bản. Đặc biệt tronng cuốn sách: "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" (Nxb TH T/p HCM 2006), và "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" (Nxb Tri thức 2014), về ý nghĩa của cặp "Bánh chưng, bánh dầy". Trong đó, bên ngoài chiếc bánh chưng chuẩn Lạc Việt, mà tổ tiên để lại, phải buộc theo hình "Cửu Cưng Hà Đồ" với bốn sợi "LẠT HỒNG", Tức "LẠC HỒNG" và chính là "Xích thằng" - sợi chỉ đỏ huyền vĩ biểu tượng của dòng dõi Lạc Hồng một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương Tử (Xin xem hình minh họa kèm theo). Một trời huyền thoại Việt, cũng đã làm rung động con tim của một thiên tài kiệt xuất trong thi ca còn ghi dấu ấn đến đời sau, chính là Lý Bạch - một danh nhân thi sĩ đời Đường với bài thơ nổi tiếng: "Mộng Du Thiên Mụ ngâm lưu biệt". Trong đó ông đã mô tả một nền văn hiến giàu chất thần thoại của Việt tộc. Thiên Sứ đã dịch thơ như sau: MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Cảm tác thơ Lý Bạch Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh Khách hải hồ kể mãi xứ Doanh Châu. Cõi huyền thoại nơi chân trời giáp biển. Chuyện thần tiên văn hiến Việt ngàn xưa. Nơi ấy. Lồng lộng trên cao Thiên Mụ chắn ngang trời. Giữa huyền không bời bời. Ngũ nhạc còn bé, Xích thành nhỏ nhoi. Núi Thiên Thai hùng vĩ xuyên mây. Trước Thiên Mụ cũng ngả nghiêng chao đảo. Ta ôm mộng sống trong huyền thoại Việt. Mơ vượt sóng trào hồ Động Đình đất Kính. Xuyên Ngô Việt trong trăng thanh lung linh. Về Diễm Khê thanh bình. Theo bóng trăng đến lều tranh Tạ Linh Vân. Nơi nước biếc soi áng mây thơ thẩn. Hạc kêu, vượn hót Gió giục mây vần. Mượn hài thần Tạ công, ta nhẹ bước thanh vân. Lưng chừng núi chợt thấy mặt trời lồng lộng. Mão Nhật kê tinh gáy gọi hừng Đông Đường đi mênh mông. Mây buông ráng hồng. Chợt trời sập tối. Sầm sập mây trôi. Nghe Kỳ lân gào thét. Tiếng Rồng gầm vang khe. Gió giật chớp loè. Núi tan, non lở. Chợt vỡ toang cửa trời rộng mở. Thăm thẳm huyền vi. Chói loà trời trăng soi lầu vàng, gác bạc. Thiên thần lừng lững bay. Giáp trụ hiên ngang, lấp lánh bẩy sắc cầu vồng. Cưỡi thần mã phi nhanh như gió. Cõi trời huyền thoại Việt. Toàn người đẹp nghiêng thành. Ảo huyền như trăng thanh. Dáng tiên thanh tú . Đông như cỏ manh. Nghe hổ chơi đàn. Hồn Bá Nha chứa chan. Chợt nhìn phượng múa. Vũ khúc Nghê Thường mê man… Giật mình tỉnh giấc mơ vàng. Mang mang như khói hương tàn trôi đi. Ngàn thu qua có nhắc gì? Mơ xưa xứ Việt ngang mi dâng sầu. Đất trời nhắc cuộc bể dâu. Nào mơ danh tướng công hầu mà chi. Thiên Sứ MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Thơ Lý Bạch Bản dịch âm của Khương Hữu Dụng. Hải khách đàm Doanh Châu, Yên đào vi mang tín nan cầu Việt nhân ngữ Thiên Mụ, Vân hà minh diệt hoặc khả đổ. Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành, Thế bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành. Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng, Đối thử dục đảo đông nam khuynh. Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt, Nhất dạ phi đô kính hồ nguyệt. Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh, Tống ngã chí Diễm Khê. Tạ công túc xứ kim thượng tại, Lục thuỷ đãng dạng thanh viên đề. Cước trước Tạ công lý Thân đăng thanh vân thê. Bán bích kiến hải nhật Không trung văn thiên kê Thiên nham vạn hác lộ bất định, Mê hoa ỷ thạch hốt dĩ mính, Hùng bào long ngâm âm nham tuyền. Lật thâm lâm hề kinh tằng điên. Vân thanh thanh hề dục vũ, Thuỷ đạm đạm hề sinh yên. Liệt khuyết tích lịch, Khâu loan băng tồi. Động thiên thạch phi, Hoanh nhiên trung khai. Thanh minh hạo đãng bất kiến để, Nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài. Nghê vi y hề phong vi mã, Vân chi quân hề, phân phân nhi lai hạ. Hổ cổ sắt hề loan hồi xa, Tiên chi nhân hề liệt như ma. Hốt hồn quý dĩ phách động, Hoảng kinh khởi nhi trường ta. Duy giác thì chi chẩm tịch, Thất hướng lai chi yên hà. Thế gian hành lạc diệc như thử. Cổ lai vạn sự đông lưu thuỷ, Biệt quân khứ hề hà thì hoàn ? Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian. Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn. An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý, Sử ngã bất đắc khai tâm nhan! Thưa quý vị và các bạn. Trong nền văn hóa truyền thống Việt còn ghi dấu ấn của "Ông Tơ, bà Nguyệt". Quý vị và các bạn có thể thấy ngay trong hai bức tranh dân gian làng Đông Hồ minh họa dưới đây, một bức miêu tả "Ông Tơ" và một bức miêu tả "Bà Nguyệt". Vậy bà Nguyệt ở đâu ra, khi nếu được coi là "gốc Hớn" với Nguyệt Lão? Nếu thật sự có "nguồn gốc Hớn" thì người Việt "phịa" thêm hình tượng "Bà Nguyệt" vào làm gì? Nhưng nếu xét theo Lý Âm Dương thì hình tượng Bà Nguyệt hoàn toàn hợp lý và mới chính là gốc của mọi vấn đề. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự ứng dụng trong tất cả mọi lĩnh vực, thì luôn tôn trọng quy luật "Cân bằng Âm Dương". "Cô Âm", hoặc "cô Dương" đều coi như sai cách cục. Nhưng trong truyền thuyết về Nguyệt Lão của văn hóa Hớn, thì chỉ có minh "Nguyệt lão" cô Dương trong hình tượng. Đây không phải là cách thiết kế một nội dung câu chuyện huyền thoại có tính minnh triết của nền văn minh Đông phương - nếu là chủ nhân thực sự của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chẳng bao giờ có hạnh phúc lứa đôi, nếu chỉ có một đàn ông, hoặc một đàn bà trong gia đỉnh cả. Nhưng nền văn hiến Việt với thần thoại về "Ông Tơ, bà Nguyệt" lại đủ Âm Dương. Ánh trăng soi sáng cho ông lão ngồi dưới trăng, được tách hẳn thành một nữ thần phụ trách hôn nhân trong văn hóa Việt và thành "Bà Nguyệt". Bà Nguyệt - Âm - mới thật sự chủ đạo trong quyết định hôn nhân và hạnh phúc lừa đôi nam, nữ - vốn thuộc sinh hoạt bản năng - Âm tính của con người. Ông Tơ - Dương - chỉ là người thực hiện cụ thể với sợi "lạt hồng" - "Xích thằng" - để ràng buộc lứa đôi. Đấy chính là nguyên lý "Trong Âm, có Dương" và ngược lại. Trong tổng thể Âm của sinh hoạt bản năng nam nữ thì Bà Nguyệt là Âm, nhưng mang tính chủ đạo và trở thành Dương trước (Trong Âm có Dương); Ông Tơ là tuy hình tượng là Dương, nhưng lại có sau nên là Âm sau (Trong Dương có Âm) và là người thực hiện buộc sơi tơ hồng, nên gọi là "Ông Tơ". Bởi vậy, với những phân tích trện, thì chính nền văn hiến Việt là nguồn gốc đích thực của những giá trị văn minh phương Đông. Hình ảnh "Ông Tơ, Bà Nguyệt", mô tả một định mệnh đã an bài trong hôn nhân. "Thượng Đế không chơi trò xúc sắc". Albert Einstein. Còn tiếp.
  10. II. Mối liên hệ bản mệnh trong quan hệ gia đình. Thưa quý vị và anh chị em. "Mối liên hệ bản mệnh trong quan hệ gia đình", nghĩa là mối liên hệ giữa vợ chống và con cái trong sự phân loại Ngũ hành theo năm sinh của chu ký Hoa giáp 60 năm. Chu ký phân loại Ngũ hành theo chu kỳ Hoa giáp 60 năm, được xác định bời bảng LẠC THƯ HOA GIÁP - nhân danh nên văn hiến Việt, trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử - Ở đây, nếu ai áp dụng phương pháp "Luận tuổi Lạc Việt", mà dùng bảng "Lục thập hoa giáp" lưu truyền trong cổ thư chữ Hán, đều sẽ sai lệch, không hiệu quả và không thể gọi là "Luận tuổi LẠC VIỆT". Bởi vì nó thiếu tính chất khoa học cho cấu trúc nội hàm của một hệ thống lý thuyết, theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Tôi chép lại bảng này và đưa vào bài viết, để quý vị và các bạn tiện tham khảo, theo dõi. LẠC THƯ HOA GIÁP Sách của người Lạc Việt viết về quy luật tuần hoàn 60 năm trong vũ trụ. KỶ THỨ NHẤT Lục khí - Vận 1 Tam Âm Tam Dương Giáp Tí. Ất Sữu ------------ Hải Trung Kim Bính Dần. Đinh Mão ------Tuyền Trung Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Mậu Thìn.Kỷ Tỵ------------- Đại Lâm Mộc Lục khí - Vận 2 Tam Âm Tam Dương Canh Ngọ. Tân Mùi --------Lộ Bàng Thổ Nhâm Thân. Quí Dậu------Kiếm Phong Kim Giáp Tuất. Ất Hợi----------Trường Lưu Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Lục khí - Vân 3 Tam Âm Tam Dương Bính Tí, Đinh Sữu-------------- Tích Lịch Hoả (Sách Tàu: Thủy) Mậu Dần, Kỷ Mão-------------- Thành Đầu Thổ Canh Thìn, Tân Tỵ -------------Bạch Lạp Kim Lục khí - Vận 4 Tam Âm Tam Dương Nhâm Ngọ, Quí Mùi -------------Dương Liễu Mộc Giáp Thân, Ất Dậu--------------Lư Trung Hoả (Sách Tàu: Thủy) Bính Tuất, Đinh Hợi------------ Ốc Thượng Thổ Lục khí - Vận 5 Tam Âm Tam Dương Mậu Tí, Kỷ Sữu---------------- Giáng Hạ thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Canh Dần, Tân Mão---------- Tùng Bách Mộc Nhâm Thìn, Quí Tỵ------------ Sơn Đầu Hoả (Sách Tàu: Thủy) KỶ THỨ II Lục khí - vận 1 Tam Âm Tam Dương Giáp Ngọ, Ất Mùi ---------------Sa Trung Kim Bính Thân, Đinh Dậu---------- Đại Khê Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa). Mậu Tuất, Kỷ Hợi--------------- Bình Địa Mộc Lục Khí - Vận 2 Tam Âm Tam Dương Canh Tí, Tân Sữu--------------Bích Thượng Thổ Nhâm Dần, Quí Mão----------Kim Bạch Kim Giáp Thìn, Ất Tỵ----------------Đại Hải Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Lục Khí - Vận 3 Tam Âm Tam Dương Bính Ngọ, Đinh Mùi--------Thiên Thượng Hoả (Sách Tàu:Thủy) Mậu Thân, Kỷ Dậu------------ Đại Dịch Thổ Canh Tuất, Tân Hợi-----------Thoa Xuyến Kim Lục khí - Vận 4 Tam Âm Tam Dương Nhâm Tí, Quí Sữu-------------- Tang Đố Mộc Giáp Dần, Ất Mão-------------- Sơn Hạ Hoả (Sách Tàu: Thủy) Bính Thìn, Đinh Tỵ------------- Sa Trung Thổ Lục khí - Vận 5 Tam Âm Tam Dương Mậu Ngọ, Kỷ Mùi -------------Thiên Hà Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Canh Thân, Tân Dậu---------Thạch Lựu Mộc Nhâm Tuất, Quí Hợi----------Phúc Đăng Hoả (Sách Tàu: Thủy). Thưa quý vị và các bạn. Trong ba yếu tố tương tác quan trọng, mô tả những quy luật có khả năng tiên tri, trong quan hệ gia đình, thì: Thiên Can thuộc Dương. Bản mệnh và Địa chi thuộc Âm. Một lần nữa, chúng ta thấy rõ nguyên lý phân loại Âm Dương, là "Dương trước, Âm sau" ứng dụng triệt để trong mọi phương pháp ưng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây là một nguyên lý nhất quán, có tính hệ thống của một lý thuyết hoàn chỉnh để mô tả từ sự khởi nguyên của vũ trụ cho đến mọi phương pháp ứng dụng - theo đúng chuẩn mực thẩm định một lý thuyết khoa học theo tiêu chí khoa học. Bởi vậy, những kẻ láo nháo, khăng khăng "Âm trước, Dương sau" thực chất chỉ là những kẻ lười tư duy, không chịu suy luận, nếu không nói là dốt nát, không có khả năng phân tích, suy luận. Thiên Sứ tôi không có thời gian thuyết phục những con bò. Và cho dù tôi có thời gian của cả 100 năm kiếp người, thì cũng không thể thuyết phục từng người trong hàng tỷ con người trên thế giới này vốn quen với quan niệm nguồn gốc nền văn minh Đông phương tử Tàu cả hàng ngàn năm nay, khi từng người đặt câu hỏi. Tôi chỉ có thể giải thích cho các học trò của tôi. Cho nên, một lần nữa mong được sự thông cảm khi tôi buộc phải delete vài kẻ như vậy, ra khỏi Fb của tôi. Tiếp tục trở lại với chủ đề. Trước khi trở lại với chủ đề chính, tôi thấy cần phải bàn thêm về tính ứng dụng của cặp phạm trù Âm Dương trong mọi hệ quy chiếu. Nếu không sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn khái niệm. Sự nhầm lẫn khái niệm này là một trong những nguyên nhân rất quan trọng trong việc đẩy nền văn minh Đông phương vào sự huyền bí. Một ví dụ rất điển hình và cả thế giới biết đó là ông Chu Đôn Di - Tức Chu Hi, một triết gia nổi tiếng đời Tống. Đấy là Chu Hy - người mở ra một nền văn minh Tống Nho và được coi là Á Thánh sau Khổng Tử - chưa nói đến các hạng lởm khởm khác, tự nhân cao thủ, cố thể hiện, rồi cũng nháo nhác phản biện. Tôi sẽ có một bài viết riêng, vạch ra những sai lầm không thể chối cãi của Chu Đôn Di, trong đó có cái "Vô cực" dở hơi của ông ta, mà cả thiên hạ từ hàng ngàn năm qua cứ coi như đúng rồi. Vấn đề ứng dụng cặp phạm trù Âm Dương hết sức phức tạp. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Thí dụ: Một người Nam và Nữ cùng chạy bộ trên đường. Người nữ chạy trước 19 BÀI LIÊN QUAN - CHEN NGANG. Thiên hạ bàn về "Lý thuyết Thống Nhất". Hơ! Hic. Quý vị và các bạn tham khảo bài dưới đây có nguồn từ web của Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam VUSTA, Để thấy thiên hạ bàn về "Lý thuyết thống nhất" (Grand Unification Theory). Rất buồn cười. ==================== VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT TRONG VẬT LÝ HIỆN NAY. Đăng lúc: Thứ năm - 15/06/2006 15:29 - Người đăng bài viết: Administrator Năm 2005, toàn thế giới kỷ niệm 100 năm ngày ra đời một lý thuyết vật lý lớn nhất của nhân loại: lý thuyết tương đối Einstein. Bài viết này nhằm nêu lên ý nghĩa của lý thuyết tương đối và giới thiệu khái quát các vấn đề đang được nghiên cứu tiếp tục hiện nay: con đường xây dựng lý thuyết thống nhất. Vào năm 1905, tại thành phố Bern (Thụy Sĩ), Albert Einstein, người nhân viên bình thường mới 26 tuổi đời của phòng cấp phát bằng sáng chế đã công bố một công trình khoa học có ý nghĩa cách mạng đối với khoa học vật lý. Công trình ấy trình bày những nét sơ khởi của một lý thuyết mà sau này mang tên là thuyết tương đối, nói chính xác hơn là thuyết tương đối hẹp. Theo lý thuyết mới này thì không gian và thời gian có liên hệ chặt chẽ với nhau, không phải là hai khái niệm tách rời hoàn toàn độc lập như trong cơ học Newton. Lý thuyết tương đối, gồm thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối tổng quát, đã được coi là thành quả của không chỉ vật lý, mà của toàn bộ khoa học nói chung. Nó giải quyết được một vấn đề rất cơ bản và rất sâu sắc trong vật lý là mối quan hệ giữa không gian - thời gian và vận động - tương tác. Thế giới quanh ta muôn hình muôn vẻ nhưng thống nhất, sự vận động của nó được chi phối bởi các qui luật cơ bản. Khoa học vật lý đến cuối thế kỷ XIX đã có hai lý thuyết mô tả các hiện tượng vật lý cơ bản là cơ học Newton và lý thuyết điện từ Maxwell, hai lý thuyết này lập nên cơ sở của vật lý cổ điển. Nhược điểm của vật lý cổ điển là hai lý thuyết trên lại tách rời nhau, độc lập nhau, trong khi người ta vẫn tin rằng các quá trình vật lý phải được chi phối bới các qui luật thống nhất. Ước mơ xây dựng lý thuyết thống nhất của Einstein Lý thuyết tương đối Einstein là mở rộng của cơ học Newton khi có tính đến trường hấp dẫn (trong đó có tính đến hữu hạn của vận tốc truyền tương tác). Nếu như thế giới là thống nhất thì thuyết tương đối Einstein và thuyết điện từ Maxwell phải được hợp nhất làm một, tức là có một lý thuyết thống nhất. Tuy vậy Einstein đã không thành công trong việc hợp nhất này. Cho đến tận khi ông mất, năm 1955, lý thuyết hợp nhất hấp dẫn + điện từ vẫn chưa ra đời. Trong lúc này ngành vật lý hạt nhân xuất hiện và phát hiện ra hai loại tương tác mới: lực hạt nhân mạnh, có mặt trong tương tác giữa các nucleon, và lực hạt nhân yếu, chi phối các quá trình phân rã hạt nhân. Các tương tác này có tên gọi tắt là tương tác mạnh và tương tác yếu. Như vậy, một lý thuyết thống nhất thực sự lúc này phải hợp nhất được bốn loại tương tác: hấp dẫn + điện từ + mạnh + yếu. W. Heisenberg, nhà vật lý người Đức và là một trong những người sáng lập nên cơ học lượng tử, từ những năm 50 của thế kỷ XX cũng dồn sức cho việc nghiên cứu lý thuyết thống nhất. Khác với Einstein, lý thuyết Heisenberg là một lý thuyết phi tuyến, quan niệm rằng sự tương tác tạo nên khối lượng của hạt. Song lý thuyết này không tìm được chỗ cho tương tác yếu, càng không thể đưa vào đó tương tác hấp dẫn. Mô hình chuỗi siêu đối xứng Năm 1954, nhà vật lý người Mỹ gốc Trung Quốc Dương Chấn Ninh (Yang C.N.) cùng với học trò của mình là R. Mills đã phân tích tính bất biến hiệp chuẩn trong lý thuyết điện từ và mở rộng cho trường hợp không giao hoán, để thu được phép biến đổi hiệp chuẩn tổng quát. S. Weinberg (Mỹ), cùng với A. Salam (Pakistan) áp dụng phương pháp này và đã hợp nhất được tương tác điện từ và tương tác yếu, vào năm 1967. Không bao lâu sau đó đã hợp nhất vào đó cả tương tác mạnh, cũng theo phương pháp như đã kết hợp tương tác điện từ và tương tác yếu. Kết quả là mô hình chuẩn ra đời, có ký hiệu là SU(3) x SU(2) x U(1), ký hiệu này biểu thị tích trực tiếp của ba nhóm đối xứng liên quan đến các tương tác được hợp nhất. SU(3) là nhóm đối xứng của sắc động lực học, còn SU(2) x U(1) là nhóm đối xứng của tương tác hợp nhất điện từ - yếu. Mô hình chuẩn đã mô tả thành công gần như mọi hiện tượng thực nghiệm của ba loại tương tác đã nêu. Chỉ có tương tác hấp dẫn là đứng ngoài mô hình chuẩn. Theo phân tích sau này, để lượng tử hóa trường hấp dẫn đồng thời hợp nhất vào mô hình chuẩn cần phải dùng đến khái niệm siêu đối xứng, tức là sự đối xứng giữa hai nhóm hạt loại Fermi và loại Bose. Mô hình chuẩn có tính đến tính siêu đối xứng được gọi là mô hình chuẩn siêu đối xứng. Như vậy là trong gia đoạn hiện nay, vật lý có trong tay bốn loại tương tác sau đây, sắp xếp thứ tự theo cường độ tương tác: Theo lý thuyết tiến hóa của vũ trụ thì ngay sau thời điểm vụ nổ lớn, cả bốn loại tương tác nêu trên đều có cùng cường độ, thực chất là một loại tương tác, tức là chỉ có một lực duy nhất. Khi vũ trụ dãn nở, các loại hạt vật chất được hình thành, cũng là lúc lực tương tác duy nhất ấy được tách dần thành bốn. Đó cũng là lý do để trong lý thuyết hợp nhất chỉ có một loại lực tồn tại, và thể hiện ra thành bốn loại lực tùy thuộc vào loại hạt và vào năng lượng tương tác. Lý thuyết thống nhất theo mô hình chuẩn khi kết hợp với tính siêu đối xứng đã làm nhân đôi số hạt nêu trên, các hạt xuất hiện thêm này gọi là các hạt đồng hành. Mỗi hạt trong bảng đã nêu có kèm theo một hạt đồng hành với spin giảm đi ½ đơn vị. Mô hình chuẩn siêu đối xứng cho dù đã hợp nhất được cả bốn loại tương tác nhưng vẫn còn có nhiều thiếu sót, ngay cả nếu chỉ xét trên phương diện thuần tuý thẩm mỹ. Lý thuyết siêu dây Năm 1977, J. Schwarz ở trường đại học Stanford (Mỹ) và J. Sherk ở trường đại học sư phạm Paris (Pháp) bắt đầu nghiên cứu lý thuyết dây, xem các hạt cơ bản không phải là những hạt điểm mà là những sợi dây. Lý thuyết dây kết hợp với tính siêu đối xứng cho ta lý thuyết siêu dây. Như vậy là cả bốn loại tương tác có thể hợp nhất trong lý thuyết siêu dây. Điều đáng chú ý là nhiều kết quả của mô hình chuẩn đã phải mất rất nhiều năm để tính toán được thì bây giờ lại xuất hiện một cách đơn giản và tự nhiên trong lý thuyết dây. Song mặt khác, đến đây lại xuất hiện một khó khăn mới: nếu dùng không gian ba chiều (không kể thời gian) thì xác suất của một số trạng thái vật lý lại có giá trị âm, là điều không chấp nhận được. Mở rộng số chiều không gian Chúng ta đã quen thuộc với việc không gian thực tại có ba chiều, thường được biểu thị bằng hệ tọa độ Descartes (X, Y, Z). Để lý thuyết siêu dây là phù hợp với việc giải thích xác suất các trạng thái lượng tử, không gian phải có 9 chiều, tức là so với số chiều chúng ta cảm nhận được thì còn lại những 6 chiều nữa. Một câu hỏi đặt ra là trong thực tế tại sao không một thí nghiệm nào phát hiện được các chiều còn lại của không gian? Các nhà vật lý giải thích rằng 6 chiều dư ra ấy đã được “cuộn lại”. “Cuộn lại” là một khái niệm mới và trừu tượng, nhưng có thể hình dung như sau. Hãy tưởng tượng đến một ống trụ có bán kính R và có chiều dài vô hạn: đó là một mô hình về không gian hai chiều trong đó có một chiều là vô hạn còn một chiều bị cuộn lại với bán kính bằng R. Một chiếc vòng xuyến rỗng (và mỏng) là thí dụ về một không gian hai chiều mà cả hai chiều đều bị cuộn lại, với hai bán kính đặc trưng: bán kính r của tiết diện vòng xuyến và bán kính R của trục vòng xuyến. Theo lý thuyết siêu dây thì không gian vật lý của chúng ta có 3 chiều mở ra vô hạn còn 6 chiều bị cuộn lại, với bán kính cuộn cỡ bằng kích thước Planck. Vì bán kính này rất nhỏ nên không thể quan sát được phần không gian cuộn lại ở năng lượng có hiện nay. Người ta cho rằng vụ nổ lớn của vũ trụ đã có vai trò đánh bật được 3 chiều của không gian mở ra, còn lại 6 chiều vẫn chưa được mở. Nếu vào lúc xảy ra vụ nổ lớn, số chiều không gian được đánh bật ra không phải là ba thì chắc chắn là thế giới chúng ta sống khác hẳn và vào lúc này chưa ai tưởng tượng ra được thế giới ấy là thế nào! Không gian có một số chiều cuộn lại có tên là không gian Calabi - Yau, lấy tên hai nhà toán học người Mỹ đã mô tả cấu trúc chi tiết của các không gian này. Không gian Calabi - Yau mô tả hình học của vật lý có một tính chất đặc biệt gọi là tính đối ngẫu. Đối ngẫu là một khái niệm rất khái quát của vật lý, nói về tính tương đồng của hai quá trình vật lý khác nhau nhưng lại có thể liên hệ với nhau đến từng chi tiết, nói một cách chính xác là chúng đẳng cấu với nhau. Lý thuyết M E. Witten (Mỹ) được coi là một trong các nhà vật lý nghiên cứu lý thuyết dây xuất sắc nhất hiện nay. Ở Hội nghị Vật lý Quốc tế về lý thuyết dây tổ chức năm 1995 tại trường đại học Nam Caliphornia, Witten đã làm mọi người hết sức ngạc nhiên và thán phục khi chứng minh rằng năm lý thuyết siêu dây đang có thể nối với nhau thành một. Cơ sở để chứng minh chính là tính chất đối ngẫu nêu trên. Lý thuyết siêu dây thống nhất này được tạm gọi là lý thuyết M, trong khi chờ đợi một tên gọi chính thức. để có được sự hợp nhất này, số chiều cuộn lại không phải là 6 mà là 7, và không gian vật lý tính trên tổng thể có 10 chiều! Nói cụ thể hơn là ở đây các khái niệm dây và siêu dây được thay bằng các khái niệm màng và siêu màng. Chứng minh này thực sự là một cuộc cách mạng trong lý thuyết dây. Lúc này đại đa số các nhà vật lý lý thuyết đang hết sức lạc quan về lý thuyết M. Có người đã gọi nó là lý thuyết của mọi thứ (theory of everything), một số người khác thì khẳng định lý thuyết dây (hiểu theo nghĩa lý thuyết M) là lý thuyết vật lý của thế kỷ XXI, mà vì một nguyên nhân ngẫu nhiên đã được nghiên cứu sớm từ thế kỷ XX. Nói như vậy cũng là để nhấn mạnh rằng A. Einstein không thể xây dựng được lý thuyết thống nhất với những tiền đề đã có của vật lý cho đến giữa thế kỷ XX. Lý thuyết M đang cố gắng tìm cách hoàn thành việc hợp nhất các tương tác để xây dựng lý thuyết trường thống nhất của vật chất. Nếu lý thuyết này là đúng đắn thì nhiều vấn đề của vật lý, kể cả vật lý cổ điển cũng như vật lý lượng tử, phải được nhìn nhận lại, và chúng ta sẽ hiểu thế giới này một cách đúng đắn hơn, sâu sắc hơn. Kết luận Có thể lạc quan nói rằng bài toán xây dựng lý thuyết trường thống nhất, ước mơ mà Einstein để lại cho vật lý, đang có triển vọng được hoàn thành. Nếu như ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vào lúc ra đời của lý thuyết tương đối chỉ có một vài nhà vật lý quan tâm theo dõi và hiểu được lý thuyết này, thì ngày nay, trong những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đội ngũ đông đảo các nhà vật lý trên thế giới đang sôi nổi tham gia vào nghiên cứu lý thuyết thống nhất cũng như hàng triệu người tìm đọc và chờ đợi thông tin về các thành quả nghiên cứu. Theo dự đoán của S. Hawking, nhà vật lý người Anh và cũng là một trong những người đi tiên phong trong nghiên cứu lý thuyết thống nhất, thì giai đoạn hoàn thành này mất chừng khoảng 25 đến 40 năm, tính từ năm 2000, và cũng có thể sẽ ngắn hơn. Giới vật lý chờ đợi sự kiện lớn lao này. Nguồn: Thông tin khoa học và công nghệ, số 1-2006 Tác giả bài viết: Lương Duyên Phu. ==================== PS: Thày bói xem voi thời @.
  11. NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN. Thưa quý vị và các bạn. Trong phương pháp "Luận tuổi Lạc Việt", xác định rất rõ rằng: Tình yêu và hôn nhân Nam Nữ là phần tử nằm trong một tập hợp của quy luật bao trùm của vũ trụ trong tương tác Âm Dương. Cho nên, mọi sự ngăn cản đều trái quy luật được mô tả trong cặp phạm trù Âm Dương này. Đó là nguyên nhân gây nên sự bế tắc và ẩn ức của tình yêu và hôn nhân. Lý học Việt giải thích trên cơ sở lý thuyết rằng: "Do Âm Dương bất tương, sự vật, sự việc không phát triển được". Để giải quyết vấn đề này - nhân danh nền văn hiến Việt - dùng ngay hệ thống lý luận của thuyết ADNH, phục hồi từ những gía văn hóa truyền thống Việt, một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính quy luật và khả năng tiên tri, một cách thỏa đáng bằng chính phương pháp luận của nó. Chứ không đưa một lý thuyết ngoại lai để thuyết phục, như "Tự do yêu đương", "quyền tự quyết định của người trưởng thành"...vv.... Trong phương pháp "Luận tuổi Lạc Việt", vấn đề Thiên Can rất quan trong. Nguyên nghĩa từ "Thiên - Can" cho thấy: Thiên thuộc Dương, so với Địa chi thuộc Âm. "Can" nghĩa là "căn gốc". Theo Nguyên Lý "Âm thuận tùng Dương" thì Thiên Can đóng vai trò quyết định. Do đó, cần xét vai trò của Thiên can trước. Cho nên vấn đề đầu tiên được trình bày trong bài này, là: I. Tương tác của Thiên Can trong quan hệ gia đình. 1/ Trong quan hệ gia đình, người chồng, cha thuộc Dương. Thiên Can thuộc Dương. Nên Thiên Can đóng một vai trò quan trọng liên quan chủ yếu từ người chồng, đến các thành viên trong gia đình và tương tác mạnh với các con trai. Trong nguyên lý quan hệ Âm Dương thì "Dương sinh Âm" là thuận lý. Nên về Thiên Can thì Ngũ hành Thiên Can của chồng phải dưỡng - sinh - Thiên Can của vợ là tốt nhất. Nguyên lý Ngũ hành tương sinh của Thiên Can, là: 1.Giáp, 2 Ất / Mộc - sinh 3. Bính, 4 Đinh/ Hỏa - Sính 5. Mậu, 6 Kỷ/ Thổ - sinh 7.Canh, 8 Tân/ Kim - Sinh 9 Nhâm. 10 Quý/ Thủy...chu kỳ lặp lại 9 Nhâm, 10 Quý/ Thủy sinh 1. Giáp, 2 Ất / Mộc.... Trong đó Thiên Can Dương (Số lẻ) sinh Dương là thuận lý. Thí dụ: Giáp 1 sinh Bính 3, hoặc Canh 7 sinh Nhâm 9...Hoặc Thiên Can Âm (Số chẵn) sinh Âm là thuận lý. Thí dụ Tân 8 sinh Quý 10.... Một lần nữa quý vị và anh chị em cũng thấy rất rõ nguyên lý "Dương trước, Âm sau", hoàn toàn được mô tả một cách nhất quán từ khởi nguyên của vũ trụ (Thái cực sinh Lưỡng Nghi), cho đến mọi ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vậy, quý vị mới thông cảm, vì sao tôi delete ngay những kẻ tinh thần thiểu năng, khăng khăng "Âm trước, Dương sau". Thiên Sứ tôi không có thời gian thuyết phục những con bò. 2/ Tương tác trong Hậu Thiên của Thiên Can. Cổ thư viết: Giáp hợp Kỷ, Phá Ất xung Canh. Bình hợp Tân phá Nhâm, khắc Đinh. Mậu hợp Quý phá Giáp khắc Kỷ.... Rõ ràng, với nguyên lý này có vẻ như mâu thuẫn, khi Giáp Dương Mộc lại hợp Kỷ Âm Thổ, Trong khi Mộc lại khắc Thổ...? Không có một bản văn chữ Hán nào mô tả điều này trước cuốn "Tìm về cội nguồn kinh Dịch" (2001) và "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" (2006) ra đời. Chưa hết, trong cổ thư lưu truyền từ thời Tống, cũng mô tả một bài khẩu quyết như sau, về sự tương hợp của các độ số: "Nhất lục cộng tông. Nhị thất đồng đạo. Tam bát vi bằng. Tứ cửu vi hữu Ngũ Thập cư trung". Một lần nữa, bài khẩu quyết này lại được thể hiện trên Hà Đồ. Đây là đồ hình mà Thiên Sứ tôi đã xác định - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là "Nguyên lý căn để" của toàn bộ phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cổ thư chữ Hán dùng Lạc Thư, trong tất cả mọi phương pháp ứng dụng. Qua đó. một lần nữa, quý vị cũng thấy rõ rằng: Tính nhất quán, tính hệ thống, tính hoàn chỉnh, tính quy luật và khách quan với khả năng tiên tri ...là những tiêu chí để thẩm định một hệ thống lý thuyết, hoàn toàn phù hợp với nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ". ["Anh chị em ĐỊA LÝ LẠC VIỆT thân mến. Anh chị em cần phải nhớ, rất nhớ điều này: Chúng ta đang phục hồi một hệ thống lý thuyết - đó là sự tổng hợp của tư duy trừu tượng, trong lịch sử phát triển của cả một nền văn minh. Cho nên, chúng ta cần sự thẩm định tính hợp lý lý thuyết trong cấu trúc nội hàm của toàn bộ hệ thống lý thuyết đó, được thẩm định bằng tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Chứ không phải đi tìm "Vật chất tối" và "Hạt của Chúa". Và khi chúng ta hoàn chỉnh được hệ thống lý thuyết này - Lý thuyết thống nhất - thì chúng ta sẽ biết tất cả những bí ẩn của vũ trụ. Nếu như, "một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" (Vanga) thì vấn đề sống còn của cả nền văn minh trong tương lai, cần phải khắc cốt ghi tâm rằng: Phải tôn trọng những điều thiêng liêng. Cảm ơn anh chị em quan tâm"]. Quay trở lại với nội dung bài viết. Quý vị và các bạn lấy số thứ tự của Thập Thiên can và đặt đúng vào thứ tự trên Hà Đồ thì chúng hoàn toàn trùng khớp. (Xin xem hình 1). 3/ Mối liên hệ Thập Thiên can trong gia đình: Lần lượt từ tốt đến xấu theo thứ tự sau đây: 3.1/ Thiên can Chồng sinh vợ và sinh con cái - Dương sinh Âm (Chồng, cha, mẹ sinh vợ, con) - là tốt nhất. Thí dụ: Chồng Giáp (Mộc) Tý, vợ Bính (Hỏa) Dần, con Kỷ (Thổ) Sửu. 3.2/ Vợ chồng con cái bình hòa, hoặc thuận Âm Dương là tốt nhì. Thí dụ: Chồng Giáp (Mộc) Tý (Dương), vợ Kỷ (Thổ) Dậu (Âm) - Giáp hợp Kỷ, trong "Nhất lục công tông".... Hoặc chồng Bính (Dương), Vợ Đinh (Âm). Hoặc cùng tuổi và sinh con thuận lý. Thí dụ: Vợ chồng cùng Giáp Tý (1984) sinh con năm Kỷ Sửu 2009. 3.3/ Thiên Can tương sinh ngược. Âm Dương nghịch lý. Đó là trường hợp con cái, vợ sinh cho cha, mẹ hoặc chồng. Thí dụ: Con Nhâm Dần, sinh Bố Giáp Tý, Mẹ Ất Sửu. 3.4/ Thiên Can khắc ngược Vợ con khắc chồng và cha mẹ. Thí dụ Vợ Quí Hợi khắc chồng Đinh Dậu. Trong trường hợp này cần có đứa con Mậu Tuất hóa giải và cân bằng thuận lý trở lại, hoặc Địa Lý phong thủy phải thật chuẩn để ngăn ngừa sự tan vỡ. 3.5/ Thiên Can khắc thuận: Đây là trường hợp xấu nhất trong mối tương tác của Thiên Can. Thí dụ: Chồng Quý (Thủy) Hợi, Vợ Đinh (Hỏa) và con Kỷ (Thổ) Sửu. Nhưng trong cách cực xấu này lại trở thành cực tốt, nếu tuổi vợ chồng và con cái có bố cục như sau: Chồng Quý Hợi. Vợ Đinh Mão, Con trai đầu Nhâm Thìn và con thứ Mậu Tuất. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trên đây là mối liên hệ tương tác Thiên can - Thuộc Dương so với Mệnh và Địa Chi thuộc Âm. Cho nên mọi sự tương tác theo chiều thuận. Nguyên lý tương tác thuận của Thiên Can sẽ khác với nguyên lý tương tác của Mệnh và Địa chi. Nhưng ít nhất qua mối liên hệ này chúng ta thấy rõ vai trò của đứa con trong gia đình. Ngoài câu thành ngữ lưu truyền: "Giầu con út, khó con út" thì bức tranh "Đánh ghen" nổi tiếng của làng tranh Đông hồ dưới đây, cũng cho thấy vai trò của đứa con trong quan hệ hòa giải gia đình. Nội dung bức tranh này mô tả một hình tượng mâu thuẫn cực đại trong quan hệ gia đình. Một trường hợp bắt 'quả tạ" ông chồng đang hú hí với bà hai - qua hình tượng, không mặc yếm.: "Hai bà không thể đội 'chồng' chung". Nhưng hình tượng đứa con, chính là sự mô tả khả năng dung hòa mâu thuẫn trong quan hệ gia đình. Đây chính là nội dung chủ yếu của "Luận tuổi Lạc Việt". Chỉ có nền văn hiến Việt, chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương, qua những vdi sản còn lại mới có thể phục hồi lại một lý thuyết thống nhất, mà nhân loại đang mới chỉ mơ ước. Sự thăng trầm của lịch sử hàng ngàn năm của Việt tộc, cũng không làm sói mòn được những gía trị huyền vĩ của nó. Điều này chứng tỏ rằng: Vào thời hoàng kim của nên văn hiến Việt thì những di sản văn hiến này phải vô cùng vĩ đại. Người Ai Cập thường tự hào: "Mọi cái đều sợ thời gian. Nhưng thời gian lại sợ Kim Tự Tháp". Nhưng chỉ có nền văn hiến Việt huyền vĩ với bề dày gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử, mới giải thích được tất cả những bí ẩn của một nền văn minh cô xưa, trong đó có Kim Tự Tháp. Xin cảm ơn quý vị và các bạn quan tâm chia sẻ. Còn tiếp Mối liên hệ bản Mệnh trong gia đình:
  12. LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. NHỮNG KIẾN THỨC NỀN TẢNG CỦA LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. Tiếp theo. Thưa quý vị và các bạn. Để nắm rõ các yếu tố tương tác có tính quy luật, đã được biểu kiến hóa trong sự phân loại của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì yếu tố quan trọng nhất là cần phải biết rõ cấu trúc của bảng "Lạc Thư Hoa giáp". Đó chính là tính phân loại vận khí của con người và vũ trụ tương tác với Địa cầu theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Xin mọi người cũng lưu ý: Bảng "Lục thập hoa giáp" theo sách Tàu, không thể chia thành Lục Khí, Ngũ vận. I/ LẠC THƯ HOA GIÁP Sách của người Lạc Việt viết về quy luật tuần hoàn 60 năm trong vũ trụ. KỶ THỨ NHẤT Lục khí - Vận 1 Tam Âm Tam Dương Giáp Tí. Ất Sữu ------------ Hải Trung Kim Bính Dần. Đinh Mão ------Tuyền Trung Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Mậu Thìn.Kỷ Tỵ------------- Đại Lâm Mộc Lục khí - Vận 2 Tam Âm Tam Dương Canh Ngọ. Tân Mùi --------Lộ Bàng Thổ Nhâm Thân. Quí Dậu------Kiếm Phong Kim Giáp Tuất. Ất Hợi----------Trường Lưu Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Lục khí - Vân 3 Tam Âm Tam Dương Bính Tí, Đinh Sữu-------------- Tích Lịch Hoả (Sách Tàu: Thủy) Mậu Dần, Kỷ Mão-------------- Thành Đầu Thổ Canh Thìn, Tân Tỵ -------------Bạch Lạp Kim Lục khí - Vận 4 Tam Âm Tam Dương Nhâm Ngọ, Quí Mùi -------------Dương Liễu Mộc Giáp Thân, Ất Dậu--------------Lư Trung Hoả (Sách Tàu: Thủy) Bính Tuất, Đinh Hợi------------ Ốc Thượng Thổ Lục khí - Vận 5 Tam Âm Tam Dương Mậu Tí, Kỷ Sữu---------------- Giáng Hạ thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Canh Dần, Tân Mão---------- Tùng Bách Mộc Nhâm Thìn, Quí Tỵ------------ Sơn Đầu Hoả (Sách Tàu: Thủy) KỶ THỨ II Lục khí - vận 1 Tam Âm Tam Dương Giáp Ngọ, Ất Mùi ---------------Sa Trung Kim Bính Thân, Đinh Dậu---------- Đại Khê Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa). Mậu Tuất, Kỷ Hợi--------------- Bình Địa Mộc Lục Khí - Vận 2 Tam Âm Tam Dương Canh Tí, Tân Sữu--------------Bích Thượng Thổ Nhâm Dần, Quí Mão----------Kim Bạch Kim Giáp Thìn, Ất Tỵ----------------Đại Hải Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Lục Khí - Vận 3 Tam Âm Tam Dương Bính Ngọ, Đinh Mùi--------Thiên Thượng Hoả (Sách Tàu:Thủy) Mậu Thân, Kỷ Dậu------------ Đại Dịch Thổ Canh Tuất, Tân Hợi-----------Thoa Xuyến Kim Lục khí - Vận 4 Tam Âm Tam Dương Nhâm Tí, Quí Sữu-------------- Tang Đố Mộc Giáp Dần, Ất Mão-------------- Sơn Hạ Hoả (Sách Tàu: Thủy) Bính Thìn, Đinh Tỵ------------- Sa Trung Thổ Lục khí - Vận 5 Tam Âm Tam Dương Mậu Ngọ, Kỷ Mùi -------------Thiên Hà Thuỷ (Sách Tàu: Hỏa) Canh Thân, Tân Dậu---------Thạch Lựu Mộc Nhâm Tuất, Quí Hợi----------Phúc Đăng Hoả (Sách Tàu: Thủy). II - ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH CỦA THẬP THIÊN CAN. Nội dung của vấn đề này thì chắc một nửa thế giới biết rồi. Nhưng vì là một trong yếu tố phân loại ngũ hành mô tả tương tác mạnh trong "Luận tuổi Lạc Việt", nên tôi vẫn trình bày ở đây. Nếu như trong "Lạc thư Hoa giáp" có sự thay đổi Thủy/ Hỏa so với cổ thư chữ Hán, thì ở Thập Thiên Can, không có thay đổi gì. Trong bài viết này, ký hiệu ( + ) là Dương; ( - ) là Âm. Thập Thiên can gồm: 1/ Giáp (+); 2/ Ất (-) > Thuộc Mộc. 3/ Bính (+); 4/ Đinh (-) > Thuộc Hỏa. 5/ Mậu (+); 6/ Kỷ (-) > Thuộc Thổ. 7/ Canh (+); 8/ Tân (-) > Thuộc Kim. 10/ Nhâm (+); Quý (=) > Thuộc Thủy. III - ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH CỦA THẬP NHỊ ĐỊA CHI. Thập nhị Địa Chi là chu kỳ lặp lại với con số 12, được đinh danh lần lượt, là: III. 1/ Tý; 2/ Sửu; 3; Dần; 4; Mão; 5 Thìn; 6/ Tỵ; 7/ Ngọ; 8/ Mùi; 9/ Thân; 10/ Dậu; 11/ Tuất; 12/ Hợi. Đây chính là chu kỳ TƯƠNG SÍNH - hoàn toàn phủ hợp với QUY LUẬT TƯƠNG SINH CỦA HÀ ĐỒ theo chiều thuận Kim Đồng Hồ. Trong đó, các số lẻ: 1; 3; 5; 7; 9; 11 thuộc Dương. các số chẵn, gồm: 2; 4; 6; 8; 10; 12 thuộc Âm. Quý vị, các bạn và anh chị em cũng thấy rất rõ rằng: Nguyên Lý "Dương trước, Âm sau" được ứng dụng triệt để trong tất cả các phương pháp ứng dụng liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vậy, những ai cố cãi với Thiên Sứ và đặt vấn đề "Âm trước, Dương sau", đều bị delete ra khỏi Fb của tôi. Tôi không có thời gian để thuyết phục những con bò. III.2/ Tính chất Ngũ hành của 12 Địa Chi. Trong đó: 1/ Hợi - Tý - Sửu thuộc THỦY (Mầu xanh Dương trên Hà Đồ). Trong đó: Hợi/ Thủy Sinh - Tý/ Thủy Vượng - Sửu/ Thủy Mộ. 2/ Dần - Mão - Thìn thuộc MỘC (Mầu Xanh lá cây trên Hà Đồ). Trong đó: Dần/ Mộc Sinh - Mão/ Mộc Vượng - Thìn/ Mộc Mộ. 3/ Tỵ - Ngọ - Mùi thuộc HỎA (Mầu Đỏ trên Hà Đồ) Trong đó: Tỵ/ Hỏa sinh - Ngọ/ Hỏa Vượng - Mùi/ Hỏa Mộ. Trong tam hóa thuộc Hỏa này, có một ngoại lệ là "Tỵ" còn là "Âm Hỏa đới Thổ", do tọa vị cung Khôn ở đây - theo Hậu Thiên Lạc Việt - Nhân danh nền văn hiến Việt. 4/ Thân - Dậu - Tuất thuộc KIM (Mầu Trắng trên Hà Đồ). Trong đó: Thân/ Kim sinh - Dậu/ Kim Vượng - Tuất/ Kim Mộ. Xin xem hình Hà Đồ kèm theo phía dưới. III. 3/ Tam Hợp cục của 12 Địa chi. 1/ Tỵ - Dậu - Sửu > Tam hợp KIM Cục. Trong đó: Tỵ - Âm Hỏa Đới Thổ (Nhân danh nền văn hiến Việt) - sinh Dậu Kim - Mộ ở Sửu Thổ. 2/ Thân - Tý - Thìn > Tam hợp THỦY Cục. Trong đó: Thân Kim - sinh Tý Thủy - Mộ ở Thìn Thổ. 3/ Hợi - Mão - Mùi > Tam hợp MỘC cục. Trong đó: Hợi Thủy - sinh Mão Mộc - Mộ ở Mùi Thổ. 4/ Dần - Ngọ - Tuất > Tam hợp HỎA Cục. Trong đó: Dần Mộc - sinh Ngọ Hỏa - Mộ ở Tuất Thổ. III. 4/ Lục Hại và Tứ Tuyệt của 12 Địa Chi. A/ Tứ Tuyệt: Đó là các cặp: Dần/ Dậu; Mão/ Thân; Tý/ Tỵ; Ngọ/ Hợi. B/ Lục Hại. Đó là các cặp: Thìn/ Mão; Dần/ Tỵ; Sửu/ Ngọ; Mùi/ Tý; Thân/ Hợi; Dậu/ Tuất. III.5/ Tứ Hành Xung của 12 Địa Chi. 1/ Thìn - Tuất - Sửu - Mùi. Thuộc bộ Tứ Phúc. 3/ Dần - Thân = Tỵ - Hợi. Thuộc bộ Tứ Sinh. 3/ Tý - Ngọ - Mão - Dậu. Thuộc bộ Tứ Vượng. Xin lưu ý về bộ Sinh, Vượng, Phúc sẽ dùng trong "Luận tuổi Lạc Việt". III.6/ Lục Hợp trong 12 Địa Chi. 1/ Tỵ hợp Thân; 2/ Ngọ hợp Mùi; 3/ Thìn hợp Dậu; 4/ Mão hợp Tuất; 5/ Dần hợp Hợi; 3/ Sửu hợp Tý. Tôi đã trình bày xong các mối tương quan có tính lý thuyết liên quan đến Thiên can và Địa chi. Trong nghiên cứu của tôi, thì Thiên can là quy ước biểu kiến có tính tập hợp lớn nhất, trong sự phân loại theo Ngũ hành, mô tả những tương tác chủ yếu từ vũ trụ. 12 Địa chi là tương tác mạnh liên quan trong Thái Dương hệ, được phân loại theo Ngũ hành, căn cứ vào tương quan chu kỳ của Sao Mộc tinh trong hệ Mặt trời với Địa cầu" 11. 8 năm/ Địa cầu. Đây cũng chính là khái niệm Thái Tuế trong Lý học Đông phương. Tất cả các mối tương quan có tính quy ước của Thiên Can và Địa chi mà tôi trình bày ở đây, sẽ là những yếu tố quan trọng trong hệ thống lý thuyết - nhân danh nền văn hiến Việt - trong "Luận tuổi Lạc Việt" . Xin cảm ơn vì sự quan tâm. SỰ THẤT TRUYỀN & SAI LẦM CỦA PHƯƠNG PHÁP COI TUỔI TỪ NHỮNG DI SẢN CÒN SÓT LẠI. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trong nghi lễ cưới hỏi của người Việt cổ - chính xác là của tầng lớp quý tộc Việt cổ - gồm có 6 bước sau đây: 1/ Lễ Nạp Thái (Còn gọi là "Chạm Ngõ". Tức là mới ở ngoài ngõ, chưa vào đến cổng). Các đôi nam nữ ngày xưa, thường do mai mối giới thiệu. Khi sự liên hệ qua bà Mối (Tiếng Nam Bộ là bà Mai) thành công, Nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái để xác định một khả năng sẽ cưới. Vào thời tối cổ, thường nhà trai mang theo một cặp chim nhạn (Chim xanh), biểu tượng cho một tin tốt lành. "Thâm nghiêm, kín cổng cao tường Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh". Kiều - Nguyễn Du. 2/ Lễ Vấn Danh: Cũng do bà Mối dẫn dắt, Nhà trai có thể cùng chú rể sang nhà cô dâu. Cô dâu có thể ra rót nước mời khách, để nhà trai và nhà gái có thể xem mặt cô dâu, chú rể. Trong lễ này có vấn tuổi tác của cô dâu chú rể. Mục đích nguyên thủy chỉ để xem chú rể có thuộc dạng Chí Phèo truyền thống và cô dâu có bà con với Thị Nở trá hình không. Còn tuổi tác chỉ để chọn ngày tháng cưới (Tuổi cô dâu) và năm cưới (Tuổi chú rể). Nhưng sau này bị biến tướng thành coi tuổi vợ chồng hợp khắc ra sao (Sẽ trình bày trong bài này). 3/ Lễ Nạp Cát: Nguyên thủy chỉ là lễ báo ngày giờ tốt để rước dâu. Nhưng về sau biến tướng thành lễ báo cô dâu chú rể hợp tuổi để cưới. Hoặc không hợp thì xù. Tuổi xấu thì "Xù' sao gọi là "nạp cát" được? "Nạp bùn" mới đúng. 4/ Lễ Nạp Trưng: (Còn gọi là "Đám hỏi") là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, làm bằng chứng cho sự hứa hôn chắc chắn. Thường là cặp nhẫn cưới...tùy theo gia cảnh. Theo luật Hồng Đức thì nam nữ nghèo chỉ việc có miếng trầu, quả cau và nộp lệ phí ở làng là được về sống với nhau. 5/ Lễ Thỉnh Kỳ: là lễ xác định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới, mà nhà trai đưa ra trước đó, có được sự đồng ý của nhà gái hay không. 6/ Lễ Nghênh Hôn: Tức lễ rước dâu, đám cưới. Tục lệ cổ xưa là như vậy. Và chúng ta cũng thấy rất rõ rằng: Việc coi tuổi hợp khắc là sản phẩm của hai nghi lễ cổ xưa bị biến tướng là lễ "Vấn Danh" và lễ "Nạp Cát". Lễ này bị biến tướng từ hàng ngàn năm trước, qua truyện Kiều, cũng thấy việc này: "Gần miền có một mụ nào Đưa người viễn khách tìm vào "vấn danh" Hỏi tên rằng :''Mã Giám sinh'' Hỏi quê rằng: ''Huyện Lâm Thanh cũng gần''. Tóm lại, sau khi nền văn minh Lạc Việt bị sụp đổ ở miến Nam sông Dương tử, đủ các thứ "dở hơi biết bơi" xuất hiện. Các cụ nhà ta ngày xưa chủ yếu lấy "Môn đăng, hậu đối" (Chứ không phải "hộ" đối), Nghĩa đen là cổng nhà và sau nhà bằng nhau. Đấy là nói chữ. Còn nói nôm là "Nồi nào úp vung đó". Hay nói rõ hơn: Chuyện coi tuổi vợ chồng, không có từ thời trước Bắc thuộc ở Việt tộc. Mà là bị biến tướng sau khi Hán hóa với những di sàn từ những phương pháp sai lầm. Tôi lần lượt chứng minh như sau: I. Phương pháp luận tuổi theo Bát san giao chiếu (Hay "Bát san giao chiến"?). Phương pháp này rất phổ biến. Các thày bà lấy 8 tuổi nữ theo Bát quái, phối với 8 tuổi nam cũng phân loại thành Bát quái. Hai tuổi này phối với nhau thành một cặp quẻ. Tùy theo tính chất quẻ để quyết định họ phối hôn tốt hay xấu. Tổng các trường hợp theo phương pháp này có 64 trường hợp, hoặc xấu, hoặc tốt. II. Phương pháp luận tuổi theo Cao Ly đồ hình. Phương pháp này lấy tuổi Nam theo Thập Thiên Can phối hợp với tuổi nữ theo Thập nhị Địa chi. Tùy theo sự phối hợp này - thí dụ Nam Giáp lấy vợ tuổi Sứu chẳng hạn - để phân định tốt xấu. Tổng các trường hợp theo phương pháp này có 120 trường hợp, hoặc xấu, hoặc tốt. III. Phương pháp luận tuổi theo Địa chi. Đây là phương pháp phổ biến trong các thày bà loại "ve chai, lông vịt" phán cho các cặp đôi nam nữ, Họ căn cứ theo tuổi tam hợp, nhị hợp hoặc tứ tuyệt. tứ hành xung - mà tôi đã trình bày ở bài trước - để phán. Tổng các trường hợp theo phương pháp này có 144 trường hợp, hoặc xấu, hoặc tốt. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trong tất cả ba phương pháp mà tôi trình bày ở trên thì phương pháp thứ ba có xác xuất cao hơn cả. Nhưng sai lầm của phương pháp này là: 1/ Chỉ sử dụng yếu tố Địa chi (Theo Năm), Trong khi Thị Nở và một tiểu thư con nhà hôi nách vẫn có thể sinh cùng một năm. Hoặc cùng Địa chi, nhưng Giáp Tý chắc chắn khác Bính Tý.... 2/ Yếu tố thân mạng (Vận khí của năm sinh theo Lạc Thư Hoa giáp không được tính đến). 3/ Xác xuất coi theo Địa chi tuy cao hơn hai phương pháp trên, xét về mặt toán học. Nhưng so với khoảng một tỷ cặp vợ chồng giả định trên thế giới này, sự chênh lệch vẫn là không đáng kể. Và rõ ràng về mặt lý thuyết còn rất khiếm khuyết. IV. Phương pháp coi theo lá số Tử Vi. Đây là phương pháp có xác xuất cao nhất. Trong vòng một chu kỳ hoa giáp có: 60 năm x 12 tháng x 30 ngày x 12g = 259. 200 lá Tử vi. Như vậy xác xuất cực kỳ cao với 259. 200 trường hợp nam nũ có thể phối hợp. Ba trường hợp trên chỉ là con số lẻ. Nhưng không thể ông già 60 lấy đứa bé mới 1 tuổi được. Vợ chồng trung bình chênh nhau 15 tuổi là tối đa. Do đó, trong 60 năm chỉ có thể chọn trong 1/ 4 trong số 5. Tức là xác xuất còn: 259. 200 / 4 = 64. 800 trường hợp. Tức là, về mặt lý thuyết xác xuất vẫn ưu việt hơn hẳn ba trường hợp trên. Hy vong sẽ không ai dẫn chứng trường hợp Đại gia Lê Ân 74 tuổi, lấy cô vợ mới 23; hoặc đại gia Playboy 80 tuổi, bồ nhí cả đống. Hay như bà minh tinh Hớn Coỏng lấy ông chồng mới 24 được. Vì đây là những trường hợp rất đặc biệt và hiếm hoi, nên không thể vì thế lấy tuổi chênh lệch lên 50 - để tổng hợp thành một lý thuyêt được. Và dù có lấy lên đến tuổi chênh lệch 50 và xác xuất tăng lên đáng kể thì phương pháp này lại có những vấn nạn sau đây: 1/ Thày coi Tử Vi phải cực giỏi. Tôi có thể xác quyết với quý vị và các bạn rằng: Thày cực giỏi chuyên ngành Tử Vi, cả thế giới này, chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Bằng chứng là phương pháp này không hề phổ biến. Điều này là một bằng chứng cho thấy: để đôi tuổi vợ chông qua Tử Vi xem tốt xấu rất khó. 2/ Phương pháp đôi tuổi qua Tử Vi, thường là các cao thủ đối chiếu hai lá số có truyền tinh (sao) nhau hay không. Nói nôm na là có gần giống nhau hay không. Nhưng chính vì bởi xác xuất rất cao đó, nên để có một cặp đôi có tính gần giống - từ chuyên môn gọi là truyền tinh - rất khó xảy ra. Phần lớn, những cặp đôi lấy nhau được, do các mối liên hệ khác thể hiện trên lá Tử Vi về mặt lý thuyết. Và để nhận thấy mối liên hệ này, không phải dễ dàng gì với những thày dạng khả năng mang tính phổ biến. Cụ thể một trường hợp sau với chứng nghiệm của chính tôi: Chàng là một Việt kiều hồi hộp, nàng là hàng Việt Nam chất lượng cao. Họ yêu nhau rất lâu. Dong chơi cuối mùa quên lãng, Vũng Tàu, Đà Lạt đủ cả. Cuối cùng chàng về nước để cưới nàng. Họ dẫn nhau đến tôi xem Tử Vi. Tôi được cô gái cảnh cáo rằng: Hai lá số này các thày đều bảo hợp và bằng chứng là chàng về cưới nàng. Tôi lướt qua hai lá Tử Vi và thật cảm cảnh cho cô gái. Tôi khuyên cô gái - có mặt vị hôn phu - nên cưới nhau ngay trong vòng một tuần. Nhưng họ không thực hiện được. Và vị hôn phu đúng là Việt kiều hồi hộp thật. Anh ta biến mất sau một tuần. Híc. Sau này cô gái cũng lấy chồng. Nhưng tội nghiệp cô bé, cũng đau khổ một thời gian. Tôi kể câu chuyện này, không phải để khoe khoang gì. Nhưng muốn xác định rằng: Để đôi tuổi vợ chồng qua phương pháp Tử Vi, tuy xác xuất cao về mặt lý thuyết, nhưng lại cực kỳ khó. Lá Tử Vi đầu tiên mà tôi được nghe nói tới, chính là của anh Lai Xuân Hợi ở 20 Phố Hàng Phèn, viết bằng chữ Nho. Ngươi dịch chính là Giáo Sư Minh Muon Nguyễn từ hơn 50 năm trước, nếu bạn tôi còn nhớ việc này. Lúc ấy tôi mới 19 tuổi. Bây giờ, tôi rất chán coi Tử Vi. Đừng ai nhờ tôi xem nữa. Nhưng có thể tôi sẽ viết cuốn Tử Vi Lạc Việt, để chia sẻ với mọi người. Thưa quý vị và các bạn quan tâm, Như vậy, tôi đã trình bày xong về tất cả các phương pháp đôi tuổi vợ chồng từ đơn giản đến phức tạp. Và như tôi đã chứng minh: tất cả đều không hoàn hảo. Phần tiếp theo đây, tôi tiếp tục trình bày về vấn đề "luận tuổi Lạc Việt" trong mối quan hệ hôn nhân và các vấn đề của Tạo Hóa liên quan. Xin cảm ơn vì sự quan tâm của quý vị và các bạn. DI SẢN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VIỆT TRONG HÔN NHÂN. Có lẽ hầu hết người Việt lớn tuổi đều biết bài ca dao này: "Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà, hái nụ Tầm Xuân. Nụ Tầm Xuân nở ra xanh biếc. Em có chồng anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu cay. Sao anh không hỏi những ngày còn không? Bây giờ em đã có chồng. Như chim vào lồng, như cá cắn câu! Cá cắn câu biết đâu mà gỡ? Chim vào lồng biết thuở nào ra?". Các nhà nghiên cứu tốn nhiều giấy mực cho bài ca dao cổ này. Thậm chí họ còn bới ra "Nụ Tầm Xuân" là loại hoa nào? Cãi nhau ỏm củ tỏi ...đen, vốn rất tốt cho huyết áp và bệnh tim, lưu thông máu huyết.,, Í lộn! Thiên Sứ viết nhầm. Vì đang xem quảng cáo cho tỏi đen. Nhưng có một điều rất ít và hầu như không thấy ai nói đến - Hay có nói mà tôi chưa được đọc. Đó là: Tình cảm này giành cho một người con gái đã có chồng! Ở đây chúng ta thấy gì giữa một rung cảm nam nữ rất tự nhiên và chuẩn mực đạo lý? Khi mà những chuẩn mực đạo lý này rất khắc nghiệt vào thuở xa xưa. Nhưng bài ca dao độc đáo này vẫn lưu truyền và phổ biến, như một sự chấp thuận của xã hội cổ xưa?! Ở đây tôi loại trừ hướng phân tích theo kiểu sự phản kháng của tầng lớp bình dân với chuẩn mực khắt khe của xã hội phong kiến đương thời. Mà tôi chỉ muốn mô tả một tình cảm có thật trong con người, được phổ biến bên canh những chuẩn mực đạo đức đương thời, và nó được chấp thuận, lưu truyền. Từ đây, vấn đề được tiếp tục đặt ra và cũng là điều mà tôi đã nhiều lần xác định, là: Những chuẩn mực đạo đức xã hội, về bản chất cũng như một hệ thống Lý thuyết; nó vốn là sự tổng hợp nhận thức của mọi mối quan hệ xã hội - bao gồm cả tình cảm tự nhiên của con người - để tổng hợp thành một chuẩn mực đạo đức xã hội. Tất nhiên, chuẩn mực đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó có những đặc thù riêng, so với một lý thuyết khoa học. Theo sự phân loại của Lý học thì cả lý thuyết khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác, như: đạo đức, lễ nghĩa, luật pháp, quy định, quy chế...đều thuộc Dương. Thực tại, thực tế khách quan thuộc Âm. "Âm phải thuận tùng Dương", cho nên những rung cảm tự nhiên của tình yêu nam nữ, không thể vượt qua được những chuẩn mực xã hội: "Em có chồng. Anh tiếc lắm thay!". Tương tự như vậy! Những phương pháp ứng dụng mang tính lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong đời sống, chính là những chuẩn mực của một hệ thống lý thuyết bao trùm, phản ánh quy luật tương tác của vũ trụ. Và con người cũng không thể vượt qua được. Nhưng trong đó, phạm trù Âm Dương bao trùm tất cả. Nam là Dương, nữ là Âm, Sự hài hòa và tương tác đồng đẳng của Âm Dương giải thích rung cảm tự nhiên của cặp nam nữ trong bài ca dao này. Đây chính là nguyên nhân giải thích trên cơ sở tính hợp lý lý thuyết để tình yêu và hôn nhân Nam Nữ, không thể ngăn cản. Bởi vì phạm trù Âm Dương bao trùm lên tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ - theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cho nên, việc ngăn cản hôn nhân, tình yêu nam nữ là trái quy luật tự nhiên, được phản ánh trong thuyêt Âm Dương Ngũ hành. Các cụ nhà ta có câu ca dao: "Kẻ nào rẽ thúy, chia uyên. Thác xuống cửu tuyền, quỷ sứ cưa thân". Nhưng vấn đề là cuộc hôn nhân ấy, sẽ dẫn đến một kết quả thế nào? Nghèo hèn, hay quyền quý cao sang? Hạnh phúc hay đau khổ? Đấy chính là nội dung của loạt bài viết này. Tôi đã chứng minh với quý vị và các bạn, rằng: Tất cả các phương pháp coi tuổi đều không chính xác. Vì nó chỉ là những mảnh vụn thất truyền và sai lệch. Không phản ánh đúng bản chất của các vấn đề liên quan đến hệ thống của các phương pháp ứng dụng thuộc hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vấn đề bắt đầu từ đâu? Trong di sản tục ngữ ca dao Việt, các cụ có câu: "Vợ chồng cùng tuổi, nằm duỗi mà ăn". Nhưng cũng có câu: "Vợ chồng cùng tuổi, chiếc khố không có mà mang". Vậy cái nào đúng? Có một điều rất đặc biệt mà trong thành ngữ, tục ngữ Việt có câu: "Giầu con út, khó con út". Rồi đây nữa: "Ruộng sâu, trâu nái, không bằng con gái đầu lòng". Phải chăng vấn đề nằm ở tuổi những đứa con? Và đó chính là câu trả lời đầy bí ẩn của phương pháp "Luận tuổi Lạc Việt". "Từ bờ tre, gốc rạ bên đường. Từ mái tranh, góc đình trong làng...Nguồn sử xanh vẫn còn ghi dấu" - Lê Thương. Bài tiếp theo, sẽ trình bày cụ thể phướng pháp "LUẬN TUỔI LẠC VIỆT". Đây cũng là một ví dụ sinh động, chứng tỏ rằng: Chỉ có nền văn hiến Việt - chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương - mới cỏ khả năng phục hồi lại một cách hoàn chính học thuyết Âm Dương Ngũ hành và chính là LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT. mà những trí thức tinh hoa của nhân loại đang tìm kiếm. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị và các bạn cùng anh chị em. LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. Tiếp theo. Thưa quý vị và các bạn. Tôi đã trình bày với các bạn về ba yếu tố tương tác chủ yếu làm nên số mệnh của con người. Đó là: I. Những tập hợp mang yếu tố tương tác chủ yếu. 1/ Định mệnh. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành thì Định mệnh của một con người có khả năng tiên tri. "Nhất ẩm, nhất trác. Giai do tiền định". Và đây cũng là yếu tố quan trọng - cần - cho một lý thuyết thống nhất. "Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?" - SW Hawking. Về mặt lý thuyết, những phương pháp tiên tri liên quan đến thuyết Âm Dương ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - đã xác định mang tính định tính số mệnh của một con người, một vùng lãnh thổ, một quốc gia...vv...Sự chính xác hay không, còn tùy thuộc vào khả năng của các vị từ thày bà sản xuất hàng loạt, đến các cao thủ thực sự. 2/ Địa lý phong thủy. Sự tập hợp những quy luật vận động và tương tác của tự nhiên, vũ trụ, môi trường và cấu trúc ngôi gia, ảnh hưởng đến định lượng của số phận và có khả năng tiên tri. Sự ứng dụng có tính tổng hợp những quy luật vận động và tương tác của tự nhiên trong ngành Địa Lý Lạc Việt, cũng giống như sự ứng dung các quy luật vật lý để làm ra cái máy bay, xe hơi, chiếc điện thoại di động....mà con người đang sử dụng. Chính người Trung Quốc, cũng chẳng hiểu gì về bản chất của ngành Địa lý phong thủy Đông phương, khi họ công khai viết trong từ điển tiếng Trung: "Phong thủy là một tín ngưỡng cổ xưa của nhân dân Trung Quốc". Theo quy luật "Lượng đổi, dẫn đến chất đổi" của Biện Chứng Pháp và phù hợp với quy luật của Dịch học "Vật (phát triển đến) cùng tắc biến (Chuyển sang giai đoạn khác)", thì về lý thuyết, trong một số trường hợp ngành Địa Lý phong thủy có thể làm chuyển hóa cuộc sống mang tính Định mệnh của bạn trong phạm vi của nó. Và điều này tùy thuộc vào những yếu tố quyết định mang tính chất "Định mệnh" của một tập hợp lớn hơn là những quy luật tương tác của vũ trụ. Tóm lại, suy cho cùng thì Định mệnh chi phối tất cả. 3/ Luận tuổi Lạc Việt. Mối tương quan và ảnh hưởng của những con người gần gũi trong gia đình, dòng tộc của bạn, có khả năng tiên tri. Chưa thấy trong lịch sử và cả truyền thuyết về ngành Địa Lý phong thủy nào, nói về việc một cao thủ Địa Lý, làm Âm phần cho ông hàng xòm để tốt cho dòng tộc, gia đình thân chủ được. Điều này chứng tỏ rằng: Mối quan hệ gia đình, dòng tộc là một yếu tố quan trọng ảnh hướng đến định lượng cho số phận mỗi con người. Đây cũng là nội dung chủ yếu của loạt bài viết này. II. Các phương pháp căn bản của "Luận Tuổi Lạc Việt". 1/ Các yếu tố Thiên Can, Địa Chi và Mệnh khí. Tất cả những yếu tố này, đều được phân loại theo thuyết Âm Dương Ngũ hành, mà tôi đã trình bày ở bài trước. Trong đó Mệnh khí phải dùng bảng LẠC THƯ HOA GIÁP. Cũng hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực của tri thức khoa học hiện đại về sự đồng đẳng tính chất của các đại lượng trong tương tác của vật lý, toán học hiện đại. Tính chất tương tác được mô tả trong thuyết Âm Dương ngũ hành cũng hoàn toàn tương đồng. Trong đó: Thiên Can tương tác với Thiên Can, Địa chi tương tác với Địa chi, mạng vận tương tác với mạng vận. Không thể ba con gà, trừ đi hai con vịt, còn một con gà được. Một ví dụ sinh động trong vấn đề này, trong câu chuyện dưới đây: Thiên Sứ tôi đi làm Địa Lý phong thủy cho một Đại Gia. Sau khi phân tích thực trạng có tính tiên tri, tôi quyết định đặt một bể cá ở một vị trí trong nhà. Mẫu Đại gia từ trên lầu chạy xuống phán: "Con tôi mạng Hỏa. Thày để cái bể cá thuộc Thủy để nó chết à?!". Đây là một ví dụ điển hình về tính thiếu hiểu biết trong nguyên lý đồng đẳng về tương tác của các đại lượng. Đó là tính quy ước trong phân loại vận khí theo Ngũ Hành trong con người và tính biểu tượng của nó - Hỏa là Lửa, và Thủy là Nước. Đồng thời, cũng cho thấy sự nhầm lẫn khái niệm từ các sách Hán cổ mô tả về thuyết Âm Dương Ngũ hành. mà tôi đã trình bày ở bài trước. Chỉ có ngôn ngữ Việt - một ngôn ngữ cao cấp nhất trong lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được, mới đủ khả năng diễn đạt một hệ thống lý thuyết cao cấp nhất trong tất cả các lý thuyết của nền văn minh hiện đại - Đó là LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT, mà nhân loại đang tìm kiếm. Tương tự như vậy, hoàn toàn không có tính đồng đẳng về các đại lượng tương tác trong câu nổi tiếng của Hệ Từ Thượng trong kinh Dịch bằng tiếng Hán - vốn được mô tả là Khổng Tử viết. Đó là câu: "Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng. Tứ tượng sinh "BÁT QUÁI"?! Tôi cũng đã trình bày điều này khi so sánh với sự mô tả về khởi nguyên vũ trụ trong văn hóa truyền thống Việt. Trở lại với câu truyện, phải nói là Thiên Sứ tôi ứng biến cũng nhanh, nếu không độ phoengshui này gặp trục trặc và Thiên Sứ mất lộc vì sự ngớ ngẩn của thế gian. Tôi hỏi lại: "Thưa bà! Con bà có tắm không?". Mẫu Đại gia phản biện: "Tắm nó khác. Còn đây là Phong thủy nó khác!". May quá! Thân chủ tôi mời Mẫu lên lầu ngồi chơi sơi nước. Nếu không, tôi phải trình bày chừng một tuần về tính đồng đẳng của các đại lượng trong tương tác và chứng minh sách Tàu làm những "nhà nghiên cứu" về thuyết Âm Dương Ngũ hành như Mẫu, hiểu sai về khái niệm. Trên Fb thì tôi không thể mời những người như vị Mẫu Đại gia lên gác ngồi chơi sơi nước. Nhưng... Thề có Đức Ala cao cả và nhà tiên tri Mohamet là sứ giả của người. Tôi có thể delete. 2/ Mối tương quan của các đại lượng tuổi trong gia đình trong mô hình Thiên bàn Tử Vi. Trong bài tiếp theo, tôi sẽ thực hiện với các biểu đồ liên quan. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và các bạn. Còn tiếp.
  13. NHỮNG LỜI TÂM SỰ. Tiếp theo.... Có người đặt vấn đề: "Tại sao xã hội Châu Âu, không cần đến Địa Lý phong thủy, họ vẫn phát triển. Họ vẫn có những người giàu, người nghèo, vẫn có kẻ thống trị và người bị trị...Vậy thì chúng ta có cần đến Địa Lý phong thủy không?" Và họ cũng cho rằng: Câu hỏi này là một vấn nạn của chính ngành Địa Lý phong thủy Đông phương và "chưa ai trả lời được". Nhưng đối với tôi, đây là một câu hỏi dốt nát nhất mà tôi nghe được. Nó thể hiện tầm nhìn của một con ếch luôn tự cho mình là đúng, khi mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó. Tôi đã trả lời câu hỏi này trong một cuộc hội thảo khoa học do TTNC Văn Hóa Cổ Đônng phương tổ chức và đã đưa lên Fb của tôi. Tôi chia sẻ với quý vị và các bạn - những người chăm chỉ tư duy và "Chính Tư duy" theo lời Phật day - một lần nữa, ở đây và tâm sự của tôi. Vấn đề tôi đặt ra, như một tiền đề để trả lời câu hỏi này là: 1/ Tất cả những siêu cường trên thế giới này, có chính phủ nào sử dụng thuyết Tương Đối của Albe Einstein vào cấu trúc chính trị của Thượng tầng kiến trúc, như một lý thuyết chủ đạo không? 2/ Tất cả những ai đang đọc hàng chữ này, có ai dùng "Bổ đề Toán học" của Ngô bảo Châu để buôn bán, kinh doanh, hoặc dùng vào bất cứ nghề gì...để kiếm sống không? Tôi chắc chắn là không! Vào đời nhà Đường bên Tàu, cách đây hàng ngàn năm, vẫn là một xã hội phát triển và thịnh trị, Tương tự như vậy vào thời Phục hưng Châu Âu. Và vào những thời đại đó, họ vẫn chưa biết gì đến các lý thuyết đang là mũi nhọn của nền văn minh hiện nay. Nhưng họ vẫn có đầy đủ những mối quan hệ xã hội ...như hiện nay. Bởi vậy, vấn đề không phải ở chỗ "Lý thuyết đó có cần hay không?", Mà là trong sự phát triển tất yếu, có tính quy luật của một nền văn minh - thì - những tri thức tinh hoa của nền văn minh đó, phải liên tục tổng hợp những nhận thức của toàn thể nhân loại - tùy chuyên ngành - để đưa lên thành một hệ thống lý thuyết tổng hợp ngày càng phát triển cho nền văn minh đó. Ở đây tôi đang nói đến những lý thuyết "vĩ đại" và là "mũi nhọn" của cả nền văn minh hiện nay. Vâng! Rất "Vĩ đại" và "mũi nhọn", chứ không phải là những con tính cộng trừ, nhân chia, ứng dụng cụ thể trong tính toán của những người buôn thúng, bán mẹt ở chợ chồm hổm. Những bà mẹ quét rác, nuôi con học hết đại học và thành GS, Tiến sĩ không cần đến lý thuyết Tương Đối của Einstein. Nhưng - với sự phát triển tất yếu có tính quy luật của tất cả các nền văn minh - thì nó phải hoàn thiện những nhận thức trong một tập hợp, quen gọi là "một hệ thống lý thuyết", ngày càng hoàn chỉnh cho những nhận thức mà nền văn minh đó nhận thức được. Nếu như các lý thuyết "vĩ đại" và "mũi nhọn" của nền văn minh hiện nay, chưa thể ứng dụng được trong cuộc sống từ thượng tầng kiến trúc, cho đến bà ve chai lông vịt. Thì toàn bộ hệ thống lý thuyết - chỉ riêng chuyên ngành Địa Lý phong thủy Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là sự tổng hợp những quy luật vận động và tương tác của tự nhiên và ứng dụng rất cụ thể trong cuộc sống con người, đến từng chi tiết. Ở đây, tôi chưa nói đến một hệ thống lý thuyết là căn nguyên của mọi phương pháp ứng dụng khác. Đó là thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt. BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH
  14. Chào bạn, đó là họ áp dụng sai rồi, cung phi chỉ áp dụng cho phân cung bát trạch trong phong thủy thôi. Còn tuổi của 2 bạn cơ bản là tốt nhé, Các bạn đang ở nhà cùng bố mẹ hay ở riêng? nhà thuê hay nhà của mình? có thể sửa chữa phong thủy để có cuộc sống tốt hơn và từ đó dần hóa giải thị phi nhé.
  15. NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH.... Tiếp theo. VI. Bản thể cấu trúc và bí ẩn của LẠC THƯ HOA GIÁP. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Chắc tất cả chúng ta ở đây, đều biết đến bảng Lục thập hoa giáp nổi tiếng. Trong đó mô tả bản mệnh mội con người trong từng năm theo thập Thiên Can và Thập nhị Địa chi với chu kỳ 60 năm, gọi là một "Hoa giáp". Thí dụ: Năm nay Mậu Tuất, mạng Bình Địa Mộc. Nhưng căn cứ vào đâu để có một sự phối hợp Can Chi thành vận khí mỗi năm và lập thành bản mệnh mỗi con người như vây? Đây là một điều bí ẩn trải hàng ngàn năm qua, trong nền văn minh Đông phương. Quý vị và các bạn có thể đọc đoạn trích dẫn được chụp bằng hình trong cuốn "Dự đoán theo Tứ trụ", của Thiệu Vĩ Hòa - Ngôi sao Bắc Đẩu Dịch học Trung Quốc - viết về vấn đề này, để thấy được rõ sự bí ẩn của nó. Qua những trang trích dẫn được chụp hình giới thiệu trong bài viết này, quý vị và anh chị em cũng thấy rất rõ rằng: Những trí thức tinh hoa của nền văn minh Trung Hoa, từ hàng ngàn năm qua, không thể phát hiện ra sự bí ẩn của nền văn minh Phương Đông, mà họ tự nhận là của họ. Đương nhiên, vì bản chất nền văn minh Hớn, chỉ sao chép lại một cách không hoàn chỉnh những giá trị của nền văn hiến Việt. Nên họ không thể nào hiểu nổi giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ, và những thực tế nào làm nên bảng hoa giáp này. Thưa quý vị và các bạn. Trong qúa trình nghiên cứu những giá trị của nền văn minh Đông phương - giải mã những "cẩm nang" mà tổ tiên để lại - Tôi đã xác định rằng "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" là nguyên lý căn để của toàn bộ các phương pháp ứng dụng thuộc về nền văn minh Đông phương và bảng "Lục Thập hoa giáp" lưu truyền trong cổ thư chữ Hán đã sai, khi nó được sắp xếp theo chiều vận hành "NGƯỢC KIM ĐỒNG HỒ", của chính đồ hình Hà Đồ. Bây giờ, quý vị và anh chị em hãy xem hình Hà Đồ - Hình thứ 4 trong bài này, và đối chiếu với phần trình bày của Thiên Sứ, được tiếp tục dưới đây: Chúng ta bắt đầu từ hành Kim trong hai năm đầu tiên của bàng "Lục Thập hoa giáp" của Tàu. Đồng thời lấy năm Dương lịch 1984/ 1985 - Giáp Tý/ Ất Sửu để dễ dàng đối chiếu với nguyên lý "Cách bát sinh tử". A/ Lục Thập Hoa giáp theo bản văn chữ Hán. HÀNH KIM: Giáp tý / Ất Sửu: Hải trung Kim. 1984/ 1985. Cách bát sinh tử (Tám năm) Nhâm Thân/ Quý Dậu: Kiếm Phong Kim. 1992/ 1993. Cách bát sinh tử (Tám năm) Canh Thìn/ Tân Tỵ: Kim Bach Kim. 2000/ 2001. VẤN ĐỀ NẰM Ở CHỖ NÀY: Quý vị và các bạn hãy nhìn vào đồ hình Hà Đồ - hình thứ 4 trong bài viết này - sẽ thấy rằng: Nếu "THUẬN" theo chiều kim đồng hồ" thì sau 24 năm vận động của hành KIM,tiếp đến sẽ là hành THỦY. * Nhưng vì vận hành "NGƯỢC" chiều kim đồng hồ - nên 8 năm tiếp theo Mậu Tý/ Kỷ Sửu thuộc hành "HỎA" - Cụ thể là "Tích lịch Hỏa"?! Sau 24 thuộc hành HỎA (Cách bát sinh tử) - theo bản văn chữ Hán - đến năm 2032/ 2033 - Nhâm Tý/ Quý Sửu. Thuộc MỘC. - Tiếp tục vận hành "NGƯỢC" chiều kim đồng hồ. thì 24 năm sau 2056/ 2057 là Bính Tý/ Đinh Sửu - theo sách Tàu - là Giáng Hạ Thủy. Thưa quý vị các bạn và anh chị em. Tôi đã trình bày xong về quy luật lập thành bảnh "Lục thập hoa giáp" theo bản văn chữ Hán cổ. Tôi đã xác định rằng: Đây là một bảng lập thành vận khí (Mệnh) sai, do tam so thất bản khi chiếm hữu những gía trị của Việt tộc, từ hơn 2000 năm trước. Bởi vì bản chất của Hà Đồ là chiều VẬN HÀNH NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH THUẬN theo chiều kim Đồng hồ. Bây giờ, cũng trên cơ sở này - NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - chúng ta xem xét cơ sở của bảng LẠC THƯ HOA GIÁP của Việt tộc từ hơn 2300 năm trước> B/ Nhân danh nền văn hiến Việt. LẠC THƯ HOA GIÁP - Nhân danh nền văn hiến Việt và chúng ta cũng bắt đầu từ hành Kim: HÀNH KIM: Giáp tý / Ất Sửu: Hải trung Kim. 1984/ 1985. Cách bát sinh tử (Tám năm) Nhâm Thân/ Quý Dậu: Kiếm Phong Kim. 1992/ 1993. Cách bát sinh tử (Tám năm) Canh Thìn/ Tân Tỵ: Kim Bach Kim. 2000/ 2001. Đến đây, giữa bảng LẠC THƯ HOA GIÁP - nhân danh nền văn hiến Việt - và của bản văn cổ chữ Hớn, giống nhau. VẤN ĐỀ NẰM Ở CHỖ NÀY: Quý vị và các bạn hãy nhìn vào đồ hình Hà Đồ - hình thứ 4 trong bài viết này - sẽ thấy rằng: Nếu "THUẬN" theo chiều kim đồng hồ" thì sau 24 năm vận động của hành KIM, tiếp đến sẽ là hành THỦY. - Nên 8 năm tiếp theo Mậu Tý/ Kỷ Sửu thuộc hành "THỦY" - Cụ thể là "Giáng Hạ Thủy"! * Đây là điểm khác biệt giữa Lạc Việt và "Hớn cổ" (Hán thuộc Hỏa) Sau 24 thuộc hành THỦY (Cách bát sinh tử) - NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - đến năm 2032/ 2033 - Nhâm Tý/ Quý Sửu. Thuộc MỘC. Cụ thể là Tang Đố Mộc. Tiếp theo chu kỳ 24 năm thuộc hành Mộc - Đây cũng là điểm giữa bảng LẠC THƯ HOA GIÁP - nhân danh nền văn hiến Việt - và của bản văn cổ chữ "Hớn", giống nhau. Đến năm 2056/ 2057 - Bính Tý/ Đinh Sửu - theo LẠC THƯ HOA GIÁP thuộc hành Hỏa. Các chu kỳ tiếp theo các hành của LẠC THƯ HOA GIÁP và Lục thập hoa giáp giống nhau và lặp lại ở hành KIm. Xin xem hình minh họa thứ 5. Thưa quý vị và các bạn. Tôi đã trình bày rõ nguyên nhân lập thành bảng "Lục thập hoa giáp của chính người Hơn và chính họ cũng không hiểu tại sao. Đồng thời - vì hiểu tại sao nên tôi đã hiệu chỉnh lại nhân danh nền văn hiến Việt thành bảng LẠC THƯ HOA GIÁP. Hai bảng này phủ định lẫn nhau. Nếu bảng LẠC THƯ HOA GIÁP đúng thì bảng "Lục thập hoa giáp" của Hớn sai. Tôi không thuyết phục ai, nên miễn tranh luận. Tất cả mọi sự phản hồi nghịch với tôi đều bị chặn ngay trên Fb. Tự chiêm nghiệm mà tìm chân lý. Thưa quý vị và các bạn. Sự phát hiện ra điều này, với tôi không hề ngẫu nhiên. Nó bắt đầu từ bài ca quyết để học nạp âm của bảng "Lục thập hoa giáp" theo cổ thư chữ Hớn và dùng trong TỬ VI. Bài ca quyết đó có nội dung như sau: Ngân Đăng Giá Bích Câu . Yên Mãn Tự Chung Lâu. Hán Địa Siêu Sài Thấp. Tất cả nhưng ai bắt đầu học Tử Vi đều phải thuộc lòng bài ca quyết này. Nhưng vì phát âm Việt Nho trong ngôn ngữ Việt và ký tự giống nhau trong chữ Hán, Thí dụ: Chung - đúng ký tự là "Chuông", nhưng cũng trùng với âm Trung - ở giữa. Cho nên bài khẩu quyết trên, có thể hiểu như sau: Ngọn đèn bạc (Giá trị giả) làm lạnh bức tường vàng (Giá trị thật). Lửa đã cháy ngập từ bên trong tòa lâu đài. (Sự sụp đổ của một nền văn minh). Đất nhà Hán (Hán Địa) đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất. (Sự chiếm đoạn trọn vẹn của Hán tộc với đất nước Văn Lang. Chúng ta đều thấy rõ ba câu thơ trên chính là ba cầu đầu của bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt. Tức là nó thiếu một câu nữa mới lập thành bài thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt trọn vẹn. Như một ẩn điển. Bài thơ này được tiếp nối một cách hoàn hảo như sau: Ngân Đăng Giá Bích Câu . Yên Mãn Tự Chung Lâu. Hán Địa Siêu Sài Thấp. VIÊM THỦY LẠC KIM ÂU. Tức là: hành Thủy và Hỏa, đã sai lệch với giá trị thực của nó. Chính vì giải mã được nội dung bí ẩn này, nên tôi đã cố gắng đi tìm lời giải cho nó. Và đã trình bày với các bạn. Xin cảm ơn vì đã quan tâm.
  16. Welcom bác Như Thông quay lại với diễn đàn, hy vọng diễn đàn sẽ có nhiều bài viết và anh chị em thế hệ sau sẽ được đọc nhiều công trình nghiên cứu của Bác.
  17. Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết bài về Đặc khu Kinh tế dưới góc nhìn Lý học ------------------------------------------------------------------- ĐẶC KHU KINH TẾ NHÌN TỪ LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trước hết tôi xin cảm ơn các bạn đã quan tâm đến bài viết của tôi về chủ đề này với hơn 700 like chỉ trong không quá 12g. Thực hiện đúng lời hứa, tôi xin trình bày cái nhìn của cá nhân tôi về sự kiện này. Dưới đây là phần mở đầu tôi đã đưa vào bài viết để được sự quan tâm hay không của các bạn. Và bây giờ tôi đưa lại vào đây cho liền mạch một chủ đề. Một lần nữa cảm ơn sự quan tâm của các bạn. Thưa quý vị và các bạn. Sự kiện "Đặc Khu kinh tế" gây sốc trên dự luận xã hội. Không chỉ trên mạng xã hội, mà ngay ở cả quán trà đá vỉa hè, vốn được coi là một hình thức kinh doanh siêu lợi nhuận, chỉ có ở Việt Nam. Quan điểm cá nhân tôi, khi lao vào chứng minh cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử, chính là: "Không dây dưa đến chính trị và nhóm lợi ích". Cả một âm mưu chính trị quốc tế, nhằm xóa sổ cội nguồn văn hóa sử truyền thống Việt với đủ mọi thứ quyền lực và những chân rết của nó, cũng đủ để tôi mệt mỏi trong hơn hai mươi năm qua. Nhân danh khoa học và tính khách quan khoa học, nên ý tưởng nhất quán đó của tôi sẽ không bị chi phối bởi bất cứ nhóm lợi ích và các ý đồ chính trị nào. Và điều này sẽ xác định tính chính danh trong việc tìm về chân lý cội nguồn dân tộc Việt. Mọi bình luận chính trị của tôi đều chỉ liên quan đến ...nước ngoài. Ví dụ như bài viết về "Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề Biển Đông"; "Sự kiện và vấn đề Châu Á Thái Bình Dương", các vấn đề Triều Tiên và Đài Loan...vv... Tôi chẳng bao giờ đụng chạm đến các vấn đề tế nhị và nhậy cảm trong nước cả. Có một lần, bốcđồng, tôi viết về yếu tố cốt lõi của nguyên nhân vấn nạn tham nhũng trong lịch sử văn minh nhân loại nói chung và những cuộc cải cách thất bại trong Việt sử. Và cũng chỉ viết chung chung, theo kiểu: "Nói đúng nhưng không trúng ai". Nhưng chắc do tại số, nên tôi viết nửa chừng rồi bỏ dở trên dd Lý học Đông phương. Nhưng lần này, trước một sự kiện được dư luận rất quan tâm và đặt vấn đề cũng rất vĩ mô trên nhiều phương diện, nên tôi khó đừng ngoài cuộc. Dù chỉ với tư cách "Phó Thường Dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ" thì ít nhất tôi cũng phải có vài câu gọi là "chém gió" ở quán cháo hành làng Vũ Đại. Huống chi, tôi xác định một Lý thuyết thống nhất, nhân danh nền văn hiến Việt. Với Lý thuyết thống nhất thì Thượng Đế cũng nằm trong "phạm trù" của nó. Huống chi là "Đặc khu kinh tế". Đó là lý do tôi không thể phớt lờ. Tuy nhiên, nội dung bài viết chỉ giới hạn từ góc nhìn Lý học, cố gắng mô tả một cách khách quan theo sự hiểu biết của tôi và hoàn toàn tránh tối đa tính chủ quan cá nhân trong bài viết. Tất nhiên, khi đã xuất phát từ Lý học thì nó phải có khả năng tiên tri. Vấn đề đâu tiên tôi đặt ra để quán xét chính là: Nguyên nhân và mục đích của việc thánh lập các đặc khu kinh tế ở Việt Nam. NGUYÊN NHÂN VÀ MỤC ĐÍCH THÀNH LẬP ĐẶC KHU KINH TẾ Ở VIỆT NAM. I. Mối liên hệ giữa các mô hình kinh tế và thị trường. Hình thức đặc khu kinh tế đã xuất hiện cách đây 60 năm. Nó xuất phát từ một sáng kiến cứu vãn một sân bay trong thời suy thoái và đã thành công. Mô hình này được phát triển và xuất hiện ở những nước bắt đầu phát triển. Trung Quốc, sau đêm dài suy thoái, bắt đầu vươn lên với sự cái cách kinh tế của ngài Đặng Tiểu Bình. Và ông ta đã thành lập đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc - là Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến - vào năm 1979. Theo thống kê của những tư liệu trên mạng, , thì có hơn 30 đặc khu kinh tế trên thế giới, và không phải mô hình này bao giờ cũng thành công. Vấn đề tiếp tục đặt ra: Vì sao có thất bại và thành công ở những mô hình kinh tế này? Lý học Đông phương - được phục hồi nhân danh nến văn hiến Việt - xác định khi phân tích, tổng hợp dù chỉ một sự kiện rất nhỏ, cũng cần một cái nhìn tổng quát, bao trùm lên tất cả mọi yếu tố tương tác, nhỏ nhất có thể. Nếu không, ít nhất cũng phải tập hợp được những yếu tố tương tác chính yếu. Bây giờ chúng ta xét bối cảnh của Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến. Trước hết, về thời gian - ngài Đặng Tiểu Bình đã thành lập đặc khu này vào năm 1979. Đây chính là thời gian chiến tranh Lạnh đang tiếp tục phát triển và Trung Quốc đã liên minh với Hoa Kỳ và Đồng Minh. Cho nên, nó lập tức được các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ chi mạnh vào đặc khu này. Nó như một bàn đạp đầu tiên để đầu tư ồ ạt vào một mảnh đất mầu mỡ là thị trường Tàu, vốn khép kín và chưa có người khai phá. Bởi vậy, người ta có cảm tưởng về sự thành công của một mô hình kinh tế vượt trội, với thiên tài của ngài Đặng. Nhưng bản chất của vấn đề không phải ở mô hình Đặc Khu. Mà nó ở sự đầu tư có hiệu quả của các tư bản quốc tế do Hoa Kỳ đứng đầu. Hay nói cách khác: nó là kết quả của sự đầu tư từ bên ngoài vào nước Tàu, sau khi có sự liên kết chính trị của Tàu với Hoa Kỳ và Đồng Minh. Người Tàu không thể tự đầu tư và phát triển vào thời điểm 40 năm trước. Hơn thế nữa, hàng Tàu nhập khẩu ào ạt vào Hoa Kỳ với những ưu đãi - trong đó có cả hàng giả mà Thiên Sứ đang sở hữu là cái đồng hồ hàng hiệu nổi tiếng. Hi.. Khiến cho đến bây giờ, nước Mỹ phải la làng vì thâm hụt thương mại. Cho nên, chẳng phải ngẫu nhiên, ngài Obama phát biểu: "Bắc Kinh đã ngồi chung xe với chúng ta quá lâu rồi!". Tương tự như vậy, chúng ta xét đến các tập đoàn kinh tế đã làm nên sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản và Hàn Quốc, cái mà họ gọi là Chaebols. Người ta ca ngợi thiên tài của những nhà lãnh đạo các tập đoàn kinh tế và sự sáng suốt của ngài Pac Chung Hy. Nhưng bản chất của sự thành công này là gì? Trước hết, bối cảnh thế giới cách đây 60 năm và trở về trước, là sự hội nhập toàn cầu, có thể nói gần như mới bắt đầu. Ngay cả những tư duy bá chủ thế giới cũng chưa xuất hiện sau Thế Chiến thứ II và còn ảnh hưởng đến bây giờ với khái niệm "Thế giới đa cực". Bởi vậy, việc tập trung nguồn vốn tạo một sức mạnh kinh tế để phát triển là hoàn toàn phù hợp - nói chung. Và điều này cũng xảy ra ở các nước Xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế tập trung. Cũng chính vì tính tập trung kinh tế này - dù ở những chế độ xã hội khác nhau - thích ứng với giai đoạn phát triển tiền hội nhập - đã tạo ra những sức mạnh đầu tư để phát triển và điều đó cũng làm ra sự hùng mạnh của các nước Xã hội chủ nghĩa vào thời bấy giờ, cho dù cấu trúc quản lý và tổ chức xã hội khác nhau. Nhưng sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân - ở các nước phi XHCN, hoặc nhà nước - ở các nước XHCN, vẫn phải cần đến một sự giao lưu trong các mối quan hệ kinh tế với các nước liên quan. Nếu không có sự giao lưu kinh tế này, thì các tập đoán kinh tế sẽ chỉ là một mô hình kinh tế được giới thiệu để trưng bày ý tưởng và không có tác dụng thực tế. Không có đầu tư và giao lưu phát triển thị trường thì sẽ thất bại. Do đó, khi thế giới ngày càng hội nhập sâu hơn, cấu trúc của các tập đoàn kinh tế - kể cả cấu trúc tập trung kinh tế của các nước XHCN, không còn phù hợp. Vì lúc này, nỏ trở nên quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của thế giới. Và nó đã sụp đổ tan rã hàng loạt, ngay tại các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Ngay trên nước Mỹ, cũng chứng kiến nhiều tập đoàn kinh tế hùng mạnh ra đi, trong cuộc khủng khoảng toàn cầu, bắt đầu từ 2008. Và điều này đã được Thiên Sứ tôi tiên tri trước đó. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu để các tập đoàn kinh tế Việt Nam không thể phát triển được và thất bại, như các loại Vina...Tất nhiên - nói thêm cho nó đủ ý - ngoài vấn đề cốt lõi là không có sự giao lưu kinh tế phát triển thị trường, thì sự thất bại của các tập đoàn kinh tế VN trong thời gian qua, còn có nhiều yếu tố bổ sung khác, như: Tham nhũng, quản lý yếu kém, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng...vv.... Trong nền tảng tri thức kinh tế của nền văn minh hiện nay, có một khái niệm rất chuẩn. Đó là khai niệm "Chính trị - kinh tế học". Nhưng Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - mô tả phạm trù này ngắn gọn và súc tích hơn nhiều. Đó là "Kinh bang tế thế", gọi tắt chính là "Kinh tế". Do đó, tôi cấn xác định một cái nhìn, cho rằng: Tất cả các mô hình kinh tế, chỉ có thể phát triển, nếu nó có được sự liên kết kinh tế thị trường gắn liền với các liên kết chính trị với các nước đồng minh và khu vực. Sự thành công của nước Tàu, Nhật Bản và Hàn Quốc...chính vì họ có được mối liên kết chính trị với các nước có thị trường và đầu tư rộng lớn. Chẳng phải ngẫu nhiên, các nước rất buồn khi Hoa Kỳ - một thị trường béo bở nhất thế giới - rút khỏi TTP. Còn với tôi thì Việt Nam chưa cần TTP ngay bây giờ. Và tôi đã phát biểu điều này trện dd lyhocdongphuong. Con thuyền của chúng ta quá bé, chưa thể cùng các tàu vượt biển của các siêu cường cùng ra khơi được. Do đó, trên cơ sở những phân tích này, khi đặt vấn đề về Đặc khu kinh tế - thì yếu tố tiếp theo phải là: Ai sẽ đầu tư để phát triển và đầu tư cái gì? II. Ai sẽ đầu tư để phát triển và đầu tư cái gì? Hiệu quả đầu tư?! Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trong bài trước, tôi đã trình bày yếu tố: Nếu không có thị trường liên kết và phát triển gắn liền với liên kết chính trị thì tất cả các mô hình kinh tế sẽ thất bại. Một thí dụ điển hình nữa, như Venezuela. Những nhà lãnh đạo nước này có lòng tốt, đem chia lợi nhuận khổng lồ của dầu mỏ cho toàn dân tiêu sài. Nhưng vấn đề là lợi nhuận dầu lửa đó lại chính từ sự liên kết thị trường - trực tiếp, hoặc gián tiếp - với các siêu cường tiêu thụ dầu mỏ như quỷ hút dầu. Thị trường bão hòa - về nhận thức trực quan nó như vậy. Tôi không phải là tín đồ của thuyết Âm mưu - giá dầu xuống y như có "ma". Đất nước Venezuela loạn cào cào vì suy thoái kinh tế. Cả nước Nga hùng mạnh cũng phải chật vật để cân bằng và ổn định cuộc sống. Một đất nước giàu có tài nguyên như Venezuela, khi thiếu một thị trường ổn định về chính trị, còn như vậy. Đất nước của chúng ta, chưa có một nguồn tài nguyên phong phú như họ. Nên về kinh tế sẽ nhậy cảm hơn nhiều, nếu bị rơi vào khủng khoảng. Bởi thiếu một thị trường ổn định và phát triển với những liên kết chính trị đáng tin cậy. Giả thiết chúng ta giải quyết được vốn đầu tư như bài báo nêu, bằng cách cho thuê đất, Và lấy "mỡ nó rán nó" thì vấn đề là: Đầu tư cái gì và ai đầu tư với hiệu quả đầu tư - Sẽ phải đặt ra. Xem xét tất cả những siêu cường tiềm năng thì ngoài nước Tàu, sẵn sàng chi tiền thuê đất, còn các siêu cương khác chưa thấy dấu hiệu chuẩn bị sẵn sàng cho việc đầu tư vào "Đặc khu kinh tế". Nhưng vấn đề còn là họ sẽ đầu tư cái gì? Một thung lũng Silicon? Nhà máy sản xuất xe hơi? Hay những viện nghiên cứu?..vv ..Và cho dù đó là một khu sòng bạc kiểu Ma Cao...thì với chính sách ưu đãi thuế, nới rộng cơ chế quản lý về cả luật pháp...vv... thì Việt Nam có lợi gì khi lập đặc khu này? Chẳng có lợi gì cả, ngoài việc cho thuê đất. Còn tất cả những khả năng đầu tư giả định ở trên thì không cần đến mô hình đặc khu. Ở đây tôi chưa bàn đến các bất lợi khác, mà dân mạng đồn thổi, chưa có "cơ sở khoa học" và chưa được "khoa học công nhận". Đó là: công dân nước ngoài có vốn đầu tư sẽ được xét xử theo luật pháp của nước đầu tư. Nếu đúng như vậy thì những hệ lụy tiếp theo là: có hay không sự có mặt của các cơ quan hành pháp nước ngoài trên đặc khu? Với sự phân tích này thì việc thành lập đặc khu kinh tế ở Việt Nam hoàn toàn không có hiệu quả, nếu như không có những nhà đầu tư đáng tin cậy với những liên kết chính trị ổn định. Không thể coi Trung Quốc một liên kết chính trị ổn định trong việc đầu tư vào Đặc khu kinh tế, khi sức ép liên tục về biển đảo của nước này gây căng thẳng không chỉ với Việt Nam, mà còn cả phần còn lại của thế giới. Điều này thì không cần phải có tư duy chính trị cao cấp cũng nhận thấy. Và ngay cả khi chúng ta được các nhà đầu tư hùng mạnh với những liên kết chính trị ổn định thì những hạng mục đầu tư đó lại không cần đến mô hình đặc khu. Nói tóm lại, tôi có thể kết luận cho riêng bài viết này, như sau: 1/ Không có một môi trường đầu tư đáng tin cậy với những liên kết chính trị ổn định. Nước Tàu không phải là một liên kết chính trị ổn định trong quan hệ với Việt Nam và cả thế giới hiện nay. 2/ Mô hình đặc khu, thực chất là một cầu nối kinh tế với thế giới bên ngoài. Nó chỉ thích hợp với một đất nước khép kín và chưa có sự chuẩn bị hội nhâp và chỉ thích hợp với giai đoạn tiền hội nhập của thế giới. Nó rất lãng nhách trong giai đoạn mà chính nước ta đang muốn có một nền kinh tế thị trường - tức là đang mở và tự hội nhập với thế giới, không cần cầu nối. Nó hoàn toàn không cần thiết và đã lỗi thời. 3/ Tất cả những hạng mục đầu tư không cần thiết phải có một đặc khu ưu đãi toàn diện như vậy. Vậy thì hoàn toàn không cần thiết phải có mô hình "Đặc khu kinh tế" để phát triển. Vậy vấn đề được đặt ra và cũng là nội dung của loạt bài viết này: III/ "Nguyên nhân và mục đích thành lập đặc khu kinh tế ở Việt Nam" Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Tất nhiên về mặt chính danh thì đây là một chính sách để phát triển kinh tế. Nhưng tính cấp bách của việc phải thành lập ngay "Đặc khu kinh tế" khiến cho vấn đề được đặt ra cho nguyên nhân và mục đích của nó. Và như tôi đã phân tích ở các bài trước: Chẳng có "cơ sở khoa học" nào để bảo đảm rằng tương lai các đặc khu sẽ mở đầu cho một nền kinh tế phát triển cả. Thực tế đã cho thấy các tập đoàn kinh thế hùng mạnh của Việt Nam đã viên tịch: Vinashine, VinaLine, rồi cả tập đoàn dầu khí ...cũng đang là những thực thể tồn tại trên hồ sơ. Mặc dù trước đó, Việt Nam rất kỳ vọng vào những sự phát triển lớn lao của những tập đoàn này. Do đó, chưa thể có một kết luận chắc chắn cho việc thành lập Đặc khu kinh tế sẽ là động lực duy nhất đúng để phát triển cả. Vậy tại sao phải lập những "Đặc khu kinh tế" một cách cấp bách như vậy? Phải chăng có một sự tương tác đủ lớn để đòi hỏi sự cấp bách phải thành lập đặc khu kinh tế? Giả thiết rằng: Có một sự tương tác đủ lớn để phải cấp bách thành lập "Đặc khu kinh tế" - thí dụ như sức ép phải trả nợ chẳng hạn. Nhưng ngay cả khi có một sự tương tác đủ lớn thì tôi tin chắc rằng: Nó mang tính giải pháp từ sự tương tác đó, chứ không mang tính bắt buộc. Việt Nam có thể trì hoãn và đi tìm một giải pháp khác. Trên thế gian này có thể có một mục đích duy nhất cho con người, hoặc cả một dân tộc, hay toàn thể loài người. Nhưng không bao giờ chỉ có một giải pháp duy nhất để đạt mục đích. Ở đây, tôi không bàn đến tâm lý chính trị xã hội bức xúc và không đồng tình với giải pháp thành lập đặc khu, đang lan rộng. Nếu giả thuyết về một tương tác đủ lớn để phải thành lập Đặc khu của tôi là đúng. Thì Việt Nam có thể đi tìm một giải pháp khác và cần có biện pháp ứng sử thích hợp trong lúc này để cân bằng mọi trạng thái trong xã hội. IV/ "Giải pháp cho nền kinh tế Việt không có đặc khu kinh tế". Còn tiếp.
  18. LÝ HỌC VIỆT VÀ NHỮNG YẾU TỐ TƯƠNG TÁC TRONG HÔN NHÂN. Trong Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt và mang tính Lý thuyết, gồm ba yếu tố quan trọng quyết định định tính và định lượng trong thân phân con người. Đó là: 1/ Định mệnh: Mà mọi diễn biến của cuộc đời được mô tả bằng các mô hình biểu kiến lập thành có khả năng tiên tri, như: Tử Vi, Tử Bình. Thái Ất - Kỳ Môn, Bốc Dịch.... Tập hợp nhỏ nhất trong dữ kiện đầu vào mang yếu tố thời gian là "giờ". Định mệnh sẽ quyết định số phân con người có khả năng tiên tri - về mặt lý thuyết. Nếu xét về vấn đề hôn nhân - là đề tài và nội dung chủ yếu của loạt bài này - thì về mặt lý thuyết - nó sẽ quyết định bạn sẽ lận đận tình duyên, nhiều chồng, nhiều vợ, hay hạnh phúc trong hôn nhân. Nhưng do các mô hình biểu kiến ứng dụng có tập hợp nhỏ nhất là "giờ", nên - về mặt lý thuyết - những phần tử trong cùng một tập hợp này sẽ khó có một định lượng chi tiết, trong việc đoán định về số phận, cho những người cùng năm, cùng tháng, cùng ngày và cùng giờ. 2/ Yếu tố Địa Lý phong thủy. Trong trường hợp về lý thuyết số phận giống hệt nhau, cho cùng một số mệnh, bởi dự kiện đầu vào cùng ngày, tháng, năm và giờ sinh thì yếu tố Địa Lý cảnh quan khác nhau, vùng miền khác nhau thì tuy lá số giống hệt nhau, định lượng sẽ khác. Trong cùng một vùng miền, thậm chí cùng một dãy nhà, nhưng cấu trúc nhà khá nhau, cũng tạo ra tương tác khác nhau về định lượng. 3/ Tương quan tuổi tác trong hôn nhân và gia đình. Gồm: Tuổi cha mẹ, con cái....và là nội dung chủ yếu của loạt bài viết này, với tiêu đề "Luận tuổi Lạc Việt". Do một sự ngẫu nhiên, tôi đã gặp hai người phụ nữ là bạn của nhau. Họ sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ và lấy chồng tuổi cũng giống hệt nhau. Nhưng người lấy trước và sau một năm. Đứa con đầu khác nhau - do lấy chồng trước sau một năm. Nhưng đứa con sau cùng tuổi và cùng giới tính. Họ có số phận tương đương nhau và lệch nhau 10 năm. Người nữ thân chủ của tôi, xa chồng vì đi công tác 10 năm. Còn người bạn thì khá giả. 10 năm sau, người chồng về với người nữ thân chủ của tôi và khá giả, thì người kia ly di chồng và sa sút. Trường hợp này tôi có đưa lên dd lyhocdongphuong, trong mục Tử Vi. Bây giờ, tôi phân tích từng yếu tố và các vấn đề liên quan tới nó trong bài tiếp theo đây. I/ Yếu tố định mệnh. Yếu tố này xác định dữ liệu đầu vào là "Thời gian". Yếu tố này chứng tỏ một không gian vũ trụ tương ứng. Như vậy, xác định rằng: Chính những quy luật vận động và tương tác từ vũ trụ đã ảnh hưởng và chi phối hành vi và cuộc sống của con người có thể tiên tri. Đây là điều tôi đã phát biểu nhiều trong các buổi nói chuyện, hội thảo, video clip, các bài viết và ngay trên Fb này. II/ Yếu tố Địa lý Phong thủy. Tôi cũng đã chứng minh - nhân danh nền văn hiến Việt - rằng: Địa Lý phong thủy là một ngành khoa học ứng dụng, hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Các mô hình biểu kiến, mô tả các quy luật tương tác và vận động của vũ trụ (Huyền không Lạc Việt); của Từ trường trái Đất (Bát trạch Lạc Việt), của cấu trúc nhà (Dương trạch Hình Lý khí Lạc Việt). Và cuối cùng là cảnh quan môi trường (Loan Đầu Hình Lý khí Lạc Việt). Tôi cũng xác định rằng: Địa Lý phong thủy là một ngành khoa học, tổng hợp những nhận thức của con người về những quy luật tương tác và vận động của tự nhiên lên ngôi gia và ảnh hướng đến cuộc sống của con người. TTNC Lý học Đông phương, vào ngày 15. 12. 2009, đã tổ chức một cuộc Hội Thảo khoa học, có quy mô lớn nhất trong lịch sử Địa Lý phong thủy Đông phương ở Hanoi, xác định tính khoa học của ngành Địa Lý phong thủy. Tôi cũng xác định rằng: Ngành Địa Lý phong thủy Đông phương là một ngành khoa học ứng dụng, hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành, là hệ quả của sự phát triển có tính quy luật tất yếu, trong sự phát triển của một nền văn minh cao cấp. Bởi vậy, nó có thể tích hợp tất cả những hệ thống kiến trúc của nền văn minh hiện nay. Ngược lại, tri thức về kiến trúc và xây dựng hiện nay, chỉ mang tính cơ học, không thể tích hợp được hệ thống tri thức của ngành Địa Lý phong thủy. III/ Tương quan tuổi tác trong hôn nhân và gia đình. Đây chính là nội dung của loạt bài viết với chủ đề "LUẬN TUỔI LẠC VIỆT". Như phần mở đầu đã trình bày: Do sự sụp dổ của một nền văn minh Lạc Việt, với quốc gia Văn Lang bên bờ nam sông Dương Tử, từ hơn 2300 năm trước, nên nó đã thất truyền và sai lệch. Người đời sau, chỉ căn cứ vào những mảnh vụn còn sót lại, để ứng dụng và gây hiểu nhầm, nhìn từ góc độ khoa học với một hệ thống lý thuyết, Khiến nó ngày càng huyền bì, khó hiểu. Thậm chí một thời còn bị coi là "Mê tín dị đoan". Đồng thời, cũng chính sự sai lệch và thất truyền này, khiến gây những hậu quả sai lầm và đau lòng cho tình yêu đôi lứa. Nhưng để trình bày một cách chu đáo, những giá trị đích thực của phương pháp "Luận Tuổi Lạc Việt", tôi cần phải giới thiệu những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, ứng dụng trong phương pháp "Luận tuổi Lạc Việt". Đồng thời chỉ ra sai lầm trong những di sản còn lại qua các bản văn chữ Hán, trong các bài viết tiếp theo đây. Xin cảm ơn vì đã quan tâm. Còn tiếp. NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trước hết tôi khẳng định rằng: Tất cả những ghi nhận từ cổ thư chữ Hán liên quan đến học thuyết này đều thất truyền, sai lệch và không hoàn chỉnh. nên chưa hoàn toàn chính xác. Đó là nguyên nhân để nó trở thành huyền bí hơn 2000 năm qua. Và cho đến tận ngày nay, những tri thức tinh hoa và phương tiện của cả một nền văn minh hiện nay, vẫn không thể tìm hiểu được nó. Những bí ẩn của nền văn minh Đông phương vẫn đang tiếp tục sửng sững thách đố tri thức của toàn thể nhân loại. Tôi cũng khẳng định rằng: Duy nhất chỉ có những di sản truyền thống của nền văn hiến Việt, có lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử - chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương - mới có khả năng phục hồi lại những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương này. Và tôi cũng khẳng định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành - được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt - chính là LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT - mà những tri thức tinh hoa của nhân loại, đang tìm kiếm. Bởi vì, thuyết Âm Dương Ngũ hành - phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt - thỏa mãn tất cả những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và cho một lý thuyết thống thống nhất, mà con người đang mơ ước. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Tôi đã phân tích những sai lầm của những văn bản chữ Hán liên quan đến học thuyết này, trong hơn 20 năm qua, trong các sách đã xuất bản, trên diễn đàn Lý học Đông phương thuộc TTNC LHDP. Trong các bài phát biểu tại các Hội thảo khoa học, các video clip và ngay trên Fb này. Cho nên, tôi sẽ không trình bày lại ở đây. Mà trong bài viết này, tôi trực tiếp trình bày những giá trị đích thực trong cấu trúc hệ thống của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt. Tất cả những vấn đề mà tôi sẽ trình bày tiếp theo đây, đều dựa trên căn bản từ những di sản văn hóa truyền thống Việt và "NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT". Vấn đề đầu tiên mà tôi trình bày, là: I/ Mô tả sự khởi nguyên của vũ trụ. A/ Nhân danh nền văn hiến Việt: "Thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh Tứ tượng. "TỨ TƯỢNG BIẾN HÓA VÔ CÙNG". B/ Bản văn chữ Hán viết: "Thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh Tứ tượng. "TỨ TƯỢNG SINH BÁT QUÁI". II/ Nội hàm khái niệm Âm Dương. A/ Bản văn chữ Hán: Không có định nghĩa về nội hàm khái niệm Âm Dương. Dẫn đến nhầm lẫn khái niệm. B/ Nhân danh nền văn hiến Việt: Âm Dương là một cặp phạm trù thuộc về sự nhận thức tổng hợp của con người, mà trong nội hàm của phạm trù Âm Dương mô tả sự phân biệt mọi trạng thái tồn tại của vật chất, từ trạng thái vật chất phi khối lượng, phi hình thế, đến các hạt vật chất nhỏ nhất và những thiên hà khổng lồ. Kể cả các sự kiện phi vật thể, đến mọi hiện tượng trong quan hệ xã hội của con người. Có 6 nguyên lý để phân biệt Âm Dương. 1/ Dương trước, Âm sau. Dương trên, Âm dưới. 2/ Âm co, Dương duỗi.. 3/ Âm thuận tùng Dương 4/ Trong Dương có Âm, Trong Âm có Dương. 5/ Âm trong, Dương ngoài. 6. a/ Bản văn chữ Hán viết: Dương động Âm tịnh - Chu Hy đời Tống công bố. 6.b/ Nhân danh nền văn hiến Việt. Dương tịnh. Âm động - Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. III/ Nội hàm khái niệm Ngũ hành. A/ Bản văn chữ Hán: Trong tiếng Hán, khái niệm mô tả Ngũ hành là năm dạng vật chất gồm: 1.金 jīn - Metal: Vàng, Đồng. 2.木 mù - Wood: Cây. 3.水 shuǐ - Water: Nước 4.火 huǒ - Fire: Lửa 5.土 tǔ - Earth : Đất. B/ Nhân danh nền văn hiến Việt: Trong tiếng Việt, khái niệm Ngũ hành mô tả năm tổ hợp phân loại của mọi trạng trạng thái vận động và tương tác (Hành) của tất cả mọi dạng vật chất trong vũ trụ, nằm trong phạm trù Âm Dương. Trong tiếng Việt, các từ mô tả Ngũ Hành - Kim/ Mộc/ Thủy/ Hỏa/ Thổ, được hình tượng bằng: 1. Kim - Cây kim (Tiếng Hán: Đồng, vàng). 2. Mộc - Cây. 3. Thủy - Nước 4.Hỏa - Lửa 5. Thổ - Đất. Nói cho rõ và dễ hiểu hơn, thí dụ: Trong tiếng Việt thì Thổ là khái niệm phân loại của một hành trong Ngũ hành, được hình tượng là "Đất", tương đương với từ "Earth" trong tiếng Anh. Nhưng trong tiếng Việt thì "Thổ", không phải là "Đất". Mà "Đất" ("Earth") chỉ là hỉnh tượng của thổ. Tương tự như vậy, "Nước" ("Water") chỉ là hình tượng của "Thủy" trong tiếng Việt. Bởi vậy, nếu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành từ các bản văn tiếng Hán, sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn khái niệm và bế tắc. Thực tế hơn 2000 năm qua (Chứ không phải vài trăm năm) đã chứng tỏ điều này. Bài viết trong tiểu mục "NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH" còn khá dài. Tôi sẽ tiếp tục ở các bài sau. Cảm ơn quý vị và các bạn vì đã quan tâm. (Còn tiếp) NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT - NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH.... Tiếp theo. IV. Bản thể cấu trúc thuyết Âm Dương Ngũ hành (ADNH). A/ Bản văn chữ Hán: Trong bản văn cổ chữ Hán thì Kinh Dịch - tức Chu Dịch; Thuyết Âm Dương, Thuyết Ngũ Hành ra đời vào ba thời kỳ khác nhau: Dịch (Bát quái vào thười Thượng cổ (Phục Hy),Thuyết Âm Dương ra đời vào nhà Chu (Thập dực, do Khổng Tử sáng tác). Thuyết Ngũ hành thuộc thời Hạ (Vua Đại Vũ phát hiện Lạc Thư trên lưng rùa) - theo tư liệu bản văn chữ Hán và các nhà nghiên cứu. Trong toàn bộ lịch sử văn minh Hán, không có một triều đại nào coi thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết chính thống, chi phối và ảnh hưởng ở thượng tầng kiến trúc. Cho đến tận ngày hôm nay, khi tôi đang gõ những chữ này, và quý vị với các bạn và ace đang đọc - thì - tất cả thế giới, bao gồm toàn bộ dân tộc Hớn, cũng chưa xác định được thuyết ADNH ra đời vào lúc nào trong lịch sử dân tộc Hớn. B/ Nhân danh nền văn hiến Việt. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và bát quái (Kinh Dịch), là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học và chính là Lý thuyết thống nhất. Trong đó, Bát quái (Kinh Dịch) là siêu công thức toán học, mô tả nội hàm của học thuyết này. Thời Hùng Vương lãnh đạo nước Văn Lang của Việt tộc, coi thuyết ADNH là một học thuyết chính thống, chi phối thượng tầng kiến trúc của tầng lớp lãnh đạo nước Văn Lang: Bắc giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải. Thuyết ADNH với những giá trị của nó, phổ biến trong mạch nguồn văn hóa truyền thống Việt, trong từng hang cùng ngõ hẻm của người Việt, trong những câu ca dao, tục ngữ, trong từng bờ tre gốc rạ và đình đền Việt. Đều nhắc tới Việt sử một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương, chủ nhân thực sự của nền văn hóa Đông phương, và là nền văn minh duy nhất có thể phục hồi lại những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương. Kỳ lạ thay! Từ gần 80 năm trước, vào những năm cuối cùng của thời Pháp thuộc, nhạc sĩ Lê Thương đã viết trong lời bài hát nổi tiếng của ông - "Hòn Vọng phu" - về những dòng Việt sử: "Tiếng núi non lưu luyến tấc lòng bao nghìn năm Tiếng gió cồn như tiếng trống dồn buổi khuya vắng /Từ bóng cây ngôi mộ bên đường Từ mái tranh bên đình trong làng Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống Bao mối thương vang động trong lòng/ Đồi lan, đồi quế rắc kho hương nồng Rừng sao đua đòi rừng trắc Lo che ánh lửa vầng dương tiếp đưa bóng chàng..." Và trong một lúc xuất thần, như một ân điển, ông viết: "Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn. /Ta cố đợi nghìn năm, rồi nghìn năm nữa sẽ qua, đến khi núi lở sông mòn, mới mong tới Hòn Vọng Phu"/. Thưa quý vị và các bạn, cùng anh chị em. Kể từ khi nước Văn Lang huyền vĩ của Việt tộc sụp đổ bên bờ Nam sông Dương tử, đến nay đã hơn 2000 năm. Như một ân điển, lời bài hát đã mô tả điều này: "Ta cố đợi ngàn năm" - Đó chính là giai đoạn của 1000 năm Bắc thuộc. Để rồi: "rồi nghìn năm nữa sẽ qua", chính là 1000 năm hưng quốc sau đó của Việt tộc, từ thế kỷ thứ X, cho đến ngày nay. Kỳ lạ hơn, ông còn cả quyết một cách cụ thể - như một lời "sấm truyền", rằng: "Có con chim nhỏ bé Dám ca câu sấm thề Cuối thu năm Mậu Tý Tướng quân đem kiếm về". Nhưng đó là năm Mậu Tý nào, khi mà sau hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, đã trải qua biết bao nhiêu năm Mậu Tý trong bảng "LẠC THƯ HOA GIÁP"? Năm Mậu Tý 2008 đã trôi qua trong sự sụp đổ của nền kinh tế thế giới. 10 năm sau, Mậu Tuất 2018, Thiên Sứ vẫn đang gõ những hàng chữ này, chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Năm nay Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã 70 cái lá vàng rơi. Tất nhiên không thể chờ đến Mậu Tý 2108. Nhưng với hơn 2000 năm thăng trầm của Việt tộc, thì vài chục năm nữa quả là thật bé nhỏ. Và thế gian này sẽ chờ đợi kết quả về: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" Barba Van Ga. "Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?!" SW Hawking. V/ Nguyên lý căn để, quyết định mọi phương pháp ứng dụng của thuyết ADNH, tronng mọi lĩnh vực. Thưa quý vị và các bạn. Nếu như bài hát "Hòn Vong phu" của nhạc sĩ Lê Thương, như một ân điển có tính sấm truyền cho số phận của những gía trị thuộc về nền văn hiến Việt. Thì ở chính nền văn minh Hớn, trong nửa cuối thể kỷ trước, do vô tình, Kim Dung đã mô tả một hình ảnh có thể lấy làm ví dụ cho những giá trị thất truyền của nền văn minh Việt. trong bộ truyện Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ và Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung, ông đã mô tả một bí kíp võ công thượng thừa là "Cửu Âm chân kinh". Bí kíp võ công này bị xé lẻ ra nhiều mảnh, và các cao thủ lấy mỗi mảnh về lập thành các trường phái riêng cho mình. Tương tự như vậy với toàn bộ những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương tử. Những giá trị của nó cũng bị xé lẽ thành ba bộ phận là: Thuyết Âm Dương, Thuyết Ngũ hành và ...Kinh Dịch. Nhưng có lẽ dễ nhìn thấy nhất, chính là các cái gọi là "Trường phái" trong phong thủy từ "cổ thư chữ Hớn". Gồm 4 "chường phái" chính và cả đống "chường phái" nhỏ. Những "chường phái" này của văn minh "Hớn", chỉ trích, chê bai nhau ỏm tỏi.Thực ra, nhân danh nền văn hiến Việt - Địa lý phong thủy là một hệ thống ứng dụng hoàn chỉnh và nhất quán, có tính bao trùm tất cả những vấn đề liên quan đến nó. Kể cả Âm trạch và Dương trạch. Về vấn đề này, tôi đã nhiều lần chứng minh trong các chủ đề liên quan, nên không nhắc lại ở đây. Tuy nhiên, trước khi tiếp tục chủ đề, tôi muốn nhắn gửi đến tất cả các nhà nghiên cứu, từ đẳng cấp "Cơm thừa" đến "Thượng thừa" rằng: Bộ "Thái Ất thần kinh" và "Kỳ Môn độn giáp" nổi tiếng của nền văn minh Đông phương - mà các cao thủ nổi tiếng trong lịch sử văn minh Hớn, theo truyền thuyết, là Khương Tử Nha và Gia Cát lượng, cũng chỉ có được một nửa giá trị. Thực chất hai bộ sách này, là một hệ thống kiến thức, nhất quán và hoàn chỉnh cực kỳ hoàn hảo. Giới thiệu chơi cho vui vậy, Thiên Sứ không quan tâm. BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH. BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH.
  19. THƯ MỜI VIẾT THAM LUẬN CHO HỘI THẢO KHOA HỌC 5000 NĂM VĂN HIẾN VIỆT Kính gửi các học giả, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt, Thưa quý vị, Từ xa xưa, cha ông chúng ta vẫn nói: “Việt Nam hơn 4000 năm văn hiến” với nhà nước Văn Lang, Hồng Bàng thị, cha Rồng Mẹ Tiên, với Quốc tổ Kinh Dương Vương Vương… Suốt trong nghìn năm Bắc thuộc, rồi trăm năm dưới sự đô hộ của Pháp với bao thăng trầm của Việt sử, cha ông chúng ta vẫn ngưỡng vọng về quá khứ với nền văn hiến rực rỡ, để nuôi ý chí giành độc lập. Từ năm 1954, dù mới chỉ giành chính quyền trên nửa nước thì trong tâm trí của biết bao người mong mỏi rằng: Từ lúc này, chúng ta có điều kiện tìm về quá khứ, làm sáng tỏ buổi mở đầu của dân tộc từ những truyền thuyết mờ ảo. Nhưng thật đáng buồn, vào những năm 1970, từ những cuộc khai quật khảo cổ học về văn hóa Đông Sơn, giới khoa học lịch sử nước ta đã phủ nhận cội nguồn văn hiến sử Việt truyền thống, rút lịch sử dân tộc chỉ còn lại 2700 năm! Trong khi đó, những thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương vẫn kiên trì quan điểm cho rằng: Cội nguồn lịch sử dân tộc Việt Nam cụ thể hơn, gần 5000 năm văn hiến. Bằng nhiều công trình nghiên cứu được xuất bản thành nhiều cuốn sách, nhiều bài viết phổ biến trên các diễn đàn, chúng tôi kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình, mong sao cho lịch sử vẻ vang của dân tộc không bị rơi vào quên lãng. Sự phát triển của khoa học và các bằng chứng khảo cổ mới nhất gần đây, như: kết quả 80 năm khai quật và nghiên cứu (1936-2016) di chỉ văn hóa Lương Chử, những di tích ở Quảng Châu... trên phần đất Nam Dương tử... đã cho thấy một nền văn minh rực rỡ của Việt tộc, xác định cội nguồn Việt sử mà tổ tiên ta, đã lưu truyền cho các thế hệ Việt với lòng tự hào dân tộc xứng đáng của nền văn hiến rực rỡ từ cội nguồn dân tộc Việt. Những khám phá mới này khẳng định cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến Việt; một thời huyền vĩ bên bờ nam ông Dương tử... Đấy là công việc lớn, mà năng lực của chúng tôi có hạn, cần công sức của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu đóng góp để hoàn thành công việc to lớn này. Do vậy, chúng tôi dự kiến tổ chức HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ CỘI NGUỒN 5000 NĂM VĂN HIẾN VIỆT. Chúng tôi trân trọng mời các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước viết tham luận về đề tài này. Chúng tôi hoan nghênh mọi tham luận, bởi lẽ dù chấp nhận hay phản bác ý kiến của chúng tôi; đều rất có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ cội nguồn dân tộc. Xin quý vị gửi tham luận cho chúng tôi cho tới cuối tháng 9.2018 để Hội thảo có thể tổ chức vào cuối tháng 10.2018 Tham luận xin được gửi tới địa chỉ email sau để tổng hợp: 1/ thiensulacviet@yahoo.com 2/ nghiencuulyhocdongphuong@gmail.com Thay mặt: Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương Chủ tịch Hội đồng Khoa học: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giám đốc: Hoàng Triệu Hải.
  20. Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết: ĐỨC ĐẠTLAILATMA NÓI: "Không có tôn giáo nào cao trọng hơn sự thật!". Nhân danh nền văn hiến Việt: Thuyết Âm Dương Ngũ hành mô tả chân lý cuối cùng và là kết luận cuối cùng. Kết thúc một chương dài đầy gian khổ đến đỉnh vinh quang của toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại. Tôi sẽ viết tiếp đề tài đang bỏ dở: PHẬT GIÁO CÓ PHẢI CỨU CÁNH DUY NHẤT CỦA CON NGƯỜI KHÔNG? ==================== TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT? Đức Đạt Lai Lạt Ma Đây là một mẩu đối thoại ngắn giữa thần học gia người Brazil, Leonardo Boff, và Đức Đạt Lai Lạt Ma. (Leonardo là một trong những người cải cách Thần học Giải phóng). Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về tôn giáo và tự do có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài, vừa tinh nghịch vừa tò mò: “Thưa Ngài, tôn giáo nào tốt nhất?”Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật giáo Tây Tạng” hoặc “Các tôn giáo phương đông, lâu đời hơn Kitô giáo nhiều” Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh. Ngài trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn.” Để dấu sự bối rối của tôi trước một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi: “Cái gì làm tôi tốt hơn?” Ngài trả lời: “Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn. Tôn giáo nào biến anh thành như vậy là tôn giáo tốt nhất.” Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác: -“Anh bạn ơi, tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không. Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng, và đối với thế giới. Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta. Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý. Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người. Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành. Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão. Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy. Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong muốn cho người khác. Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn.” Cuối cùng ngài nói: -“Hãy suy tư cẩn thận vì Tư Tưởng sẽ biến thành Lời Nói. Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời Nói sẽ biến thành Hành Động. Hãy hành xử cẩn thận vì Hành Động sẽ biến thành Thói quen. Hãy chú trọng Thói Quen vì chúng hình thành Nhân Cách. Hãy chú trọng Nhân Cách vì nó hình thành Số Mệnh, và Số Mệnh của anh sẽ là Cuộc Đời của anh và … Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật.”
  21. Thày Thiên sứ viết loạt bài chủ đề: PHẬT GIÁO CÓ PHẢI CỨU CÁNH DUY NHẤT CỦA CON NGƯỜI KHÔNG? Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là một Phật tử, pháp danh Minh Tính. Hóa duyên để tôi đến với Phật Pháp là anh Năm Mẫn (Chồng đầu tiên của nghệ sĩ Thanh Nga); hướng dẫn tôi quy y là Thượng Tọa Thích Tấn Tuệ, Chứng pháp cho tôi là Hòa Thượng Thích Minh Thông, trụ trì chùa Minh Đạo. Tôi tìm hiểu về Phật pháp đã 30 năm nay. Tuy không gõ mõ tụng kinh, cũng chẳng ăn chay, nằm đất. Nhưng tôi cũng nhận thấy sự vi diệu, huyền vi của Phật Pháp. Và những thập niên cuối thế kỷ trước và hiện nay, có rất nhiều nhà khoa học thuộc đẳng cấp tinh hoa của nền văn minh, thường có những cuộc đối thoại giữa "Khoa học và Phật pháp". Như Giáo sư Trịnh Xuân Thuận với ngài Thích Nhất Hạnh. Hoặc như bài giới thiệu sách dưới đây, mô tả sự đối thoại lừng danh giữa nhà nghiên cứu Phật pháp của phương Đông Ikeda Daisaku (1928) – Hội trưởng Soka Gakkai Quốc tế ­(SGI), và triết gia, sử gia mỹ thuật, nhà tâm lý học nổi tiếng của Pháp – René Huyghe(1906-1997) – thành viên của Collège de France. Chưa hết, ngay trong đường link mô tả "Thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất - trong đó Giáo Sư Cao Chi, một nhà khoa học thuộc giới khoa học tính hoa, cũng xác định rằng: "Khoa học kết hợp với Phật giáo" sẽ tìm ra Lý thuyết thống nhất vũ trụ". Tôi cũng xác định ngay rằng: "Đây là một quan điểm sai! Phật giáo và tất cả tri thức khoa học của nền văn minh hiện nay - và có thể trong một tương lai gần, vài trăm năm sau trong sự phát triển của tri thức khoa học - cũng không thể hình thành một lý thuyết thống nhất". Thậm chí tôi cũng xác định rằng: "Ngay cả khí khoa học kết hợp với tất cả các tôn giáo hiện hữu đang tồn tại bây giờ và cả trong quá khứ, cũng không thể tạo ra được một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT". Như vậy, với quan điểm và sự xác định của tôi , thì Phật giáo không phải cứu cánh duy nhất của con người. Đó chính là nguyên nhân để sự kết hợp giữa "Khoa học và Phật pháp", không thể tạo ra một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT, theo luận điểm của tôi. Đây chính là nguyên nhân để tôi viết loạt bài này, chứng minh quan điểm của tôi. Có thể đây sẽ là một loạt bài viết rất dài, phải viện dẫn rất nhiều luận cứ liên quan; hoặc tôi sẽ phải viết thành một cuốn sách mạng, trước khi có điều kiện in thành sách. Đây là bài mở đầu của tôi cho đề tài này. Xin cảm ơn quý vị và các bạn quan tâm. ========= PS: Dưới đây là phần trích dẫn giới thiệu sách liên quan đến đề tài này của nhà sách Trương Nguyễn Thu Quỳnh. ================= BÌNH MINH SAU BÓNG ĐÊM: Tập đối thoại lừng danh giữa nhà nghiên cứu Phật pháp của phương Đông Ikeda Daisaku (1928) – Hội trưởng Soka Gakkai Quốc tế ­(SGI), và triết gia, sử gia mỹ thuật, nhà tâm lý học nổi tiếng của Pháp – René Huyghe(1906-1997) – thành viên của Collège de France. Nguyên tác: La nuit appelle l'aurore: dialogue Orient-Occident sur la crise contemporaine Phần lớn cuộc thảo luận được thực hiện thông qua thư từ. Bản tiếng Pháp được hoàn thành đầu tiên, xuất bản mùa thu năm 1980. Hai tác giả cùng nhau ra sức thực hiện “cuộc đối thoại giữa các nền văn minh”. Ý nghĩa của cuộc đối thoại này ngưng đọng trong cái tên “Cuộc đấu tranh của tinh thần”. Có thể chia cuộc đối thoại thành các phần sau: Phần thứ nhất xuất phát từ chỗ nhận thức về “nguy cơ” mà thế giới đang dần rơi vào trong đó, đầu tiên là đưa ra lĩnh vực đau khổ nhất biểu hiện trong thời đại của chúng ta, tức là tầm quan trọng của vật chất trong lĩnh vực kinh tế. Nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng nhất mà nguy cơ này mang lại là nguy cơ về đạo đức – tức vết thương nội tại. Phần thứ hai của cuộc đối thoại là đi sâu tìm hiểu căn nguyên của căn bệnh đó từ quan điểm lịch sử. Căn bệnh này hiển nhiên bắt đầu từ thời kỳ biến động sau cùng mà nền văn minh phải chịu từ các cuộc biến động trong một thời gian dài. Phần thứ ba là nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề: Sự biến đổi mà chúng ta phát sinh ra được hình thành dựa trên những căn cứ nào? Nhân tính đang dần giảm thiểu đi hoặc bộ phận đột nhiên thoát li khỏi bản chất của chúng ta, sự thay đổi đó sẽ mang đến sự sửa đổi ra sau? Ngoài ra, phải khiến cho con người hồi phục lại sự cân bằng cảm thấy đã bị đánh mất từ trong nguy cơ, quả cân của cứu vớt ấy phải đặt vào nơi nào? Phần thứ tư và thứ năm đưa ra các biện pháp cứu vãn nguy cơ. Đầu tiên là thảo luận nghiên cứu phương pháp tái giáo dục cá nhân. Nhưng cuộc đối thoại cần bao gồm mọi phương pháp có thể và phải gợi mở được tính khả năng từ bản chất của con người. Nghệ thuật là một trong những tính khả năng đó, ngoài ra là tôn giáo, khi kết hợp hai điều đó lại với nhau thì đó chính là khái niệm thần thánh. Các tác giả đã nghiên cứu thảo luận các vấn đề “bóng đêm” đang che phủ toàn cầu, và trao đổi về việc tìm kiếm ánh sáng “bình minh”. Thế kỷ mới đã vén màn bước ra, nhưng lại che phủ bởi màn mây đen rối ren dữ dội. Có thể nói “bóng đêm” di sản mà thế kỷ XX để lại vẫn vô cùng nặng nề. Vì vậy, bất luận bóng đêm có nặng nề bao nhiêu, điều quan trọng nhất là quyết không được bi quan tuyệt vọng, mà phải ngoan cường thúc đẩy nỗ lực đấu tranh giành lấy hòa bình. Trong các vấn đề mà thế giới đối mặt, điều quan trọng nhất không nghi ngờ gì là việc xây dựng hòa bình. Ngoại trừ điều này ra, nhân loại không còn con đường nào khác. Lời tựa Chương I: Nguy cơ hiện đại - Nguy cơ vật chất - Khủng hoảng tinh thần - Nguy cơ đạo đức - Bóng đen nguy cơ trong nghệ thuật Chương II: Ý nghĩa lịch sử - Ba giai đoạn phát triển của nhân loại - Thời đại công nghiệp và khiếm khuyết của nó - Thế giới thứ ba - Khởi nguyên của nền văn minh hiện đại - Nhật Bản, Pháp và nền văn minh mới Chương III: Xã hội đối mặt với nguy cơ - Nhiệm vụ của xã hội: Công việc bồi dưỡng con người - Hình thái xã hội - Một xã hội mới Chương IV: Tái khám phá nhân loại - Chìa khóa của sự hài hòa - Cải cách cuộc sống nội tại Chương V: Sự sáng tạo nghệ thuật - Giá trị tinh thần của nghệ thuật - Nghệ thuật của phương Đông và phương Tây Chương VI: Sự vượt bậc của tôn giáo - Tính siêu việt - Các tôn giáo trong lịch sử - Đối mặt với ẩn số của nhân loại Lời cuối ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Như bài mở đầu, tôi đã trình bày về vấn đề được đặt ra cho sự kết hợp giữa "khoa học" và "Phật giáo" sẽ tạo ra một Lý thuyết thống nhất. Nếu như vậy, Phật giáo sẽ là cứu cánh của con người và nó sẽ phải là giải pháp duy nhất đúng để con người đi tìm sự hoàn hảo của chân lý tuyệt đối. Nhưng sự phối hợp giữa Phật giáo và khoa học không phải giải pháp hoàn hảo - và nó đã sai theo cái nhìn của tôi. Vấn đề là "Sai lầm từ đâu"? Đây là một vấn đề không đơn giản như việc đi tìm giải pháp, khắc phục những lỗi của máy bay tàng hình F35, hoặc tìm một giải pháp khả thi để xác định sự sống ngoài trái Đất, hay đưa người lên sao Hỏa...vv....Tất cả những cái đó, thuộc về tri thức khoa học ứng dụng. Nhưng vấn đề phối hợp Phật giáo và khoa học có phải cứu cánh duy nhất của con người, để đi tìm sự hoàn thiện hay không? Thì vấn đề này lại mang tính lý thuyết của tât cả mọi lý thuyết. Tức là nó phải diễn đạt một cái chưa xảy ra và chưa ai biết đến. Đó chính là Lý thuyết thống nhất. Muốn như vậy, phải dẫn chứng những luận cứ tổng hợp và định danh (Chính danh) những ngôn từ để diễn đạt. Ngôn từ đầu tiên cần định nghĩa, chính là khái niệm "Khoa học". Từ "Khoa học" tôi đã định nghĩa như sau: Định nghĩa về nội hàm khái niệm "Khoa học". "Khoa học" - trong ngôn ngữ của nền văn hiến Việt - là khái niệm mô tả việc học hỏi, khám phá, tìm hiểu để đạt đến một hệ thống tri thức, có tính tổng hợp về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, hoặc toàn thể vũ trụ, và TỒN TẠI KHÁCH QUAN (Phần chữ IN hoa, tôi mới thêm vào)". Có thể, quý vị và các bạn không thừa nhận định nghĩa về khái niệm "khoa học" của tôi. Nhưng trong bài viết này, tôi sẽ sử dụng định nghĩa của tôi - ít nhất như một tiền đề - chứng minh cho luận điểm của tôi cho vấn đề được đặt ra. Bởi vì, chỉ có thể từ định nghĩa này, mới có thể giải quyết được vấn đề đã đặt ra, trong khi chính nền văn minh này, chưa có cả một định nghĩa chuẩn về khái niệm "khoa học". Với sự định nghĩa về khoa học của tôi, mặc nhiên nó đã xác định rằng: Khoa học là sự học hỏi, khám phá để nhận thức nhằm đạt đến một hệ thống tri thức tổng hợp tất cả mọi tri thức của các đối tượng tồn tại khách quan. Tức là cả vũ trụ này. Với một nội hàm khái niệm như vậy, thì tất cả mọi hệ thống tri thức - bao gồm cả triết học và tôn giáo (ngoại trừ các loại hình Nghệ thuật) - đều nằm trong phạm trù "Khoa học". Tất nhiên, vì là giá trị nhận thức, nên nó có thể đúng và có thể sai. Và trong quá trình phát triển của nền văn minh, các hệ thông tri thức sai sẽ bị loại trừ để hệ thống lại một cách hoàn thiện nhận thức đúng và tìm đến chân lý một cách tuyệt đối. Tức là Lý thuyết thống nhất. Vấn đề tiếp tục được đặt ra - vì hầu hết các nhà khoa học trên thế giới không thể chấp nhận vấn đề tâm linh và tôn giáo trong nhận thức, mà họ quen nghĩ đó là tư duy khoa học. Bởi vậy - căn cứ vào định nghĩa khoa học trên về đối tương khoa học là "tồn tại khách quan" - thì: cần phải định nghĩa lại nội hàm khái niệm "vật chất". Cũng theo tôi - đã trình bày trên Fb này - khái niệm vật chất được định nghĩa như sau: "Mọi dang tồn tại khách quan, có chưa năng lượng và tương tác thì gọi là vật chất". Với định nghĩa như trên thì tất cả mọi dạng tồn tại - có khối lương (nhìn thấy bằng giác quan, hay phương tiện), hoặc phi khối lượng (Không nhìn thấy bằng giác quan, hay phương tiện), nhưng chứa đựng năng lương và tương tác thì đều là "vật chất" và là đối tượng của tư duy khoa học. Nói cụ thể hơn là: Sẽ không có vấn đề tâm linh, ma quỷ, thần thánh..vv...nếu nó là thực tại khách quan có tương tác. Thì nó phải là đối tương nghiên cứu cảu "khoa học". Kể cả Thượng Đế, nếu Ngài tương tác trên thực tế. Cũng trên cơ sở này thì đối tượng của nghiên cứu khoa học là tất cả mọi dang tồn tại khách quan và tương tác của tất cả các dạng vật chất trong vũ trụ. Không có sự phân biệt tâm linh, tôn giáo và khoa học. Mà chỉ có vấn đề biết và chưa biết mà thôi. Do đó, với định nghĩa về "khoa học" và "vật chất" như trên, thì tất cả các khái niệm: Tôn giáo, tâm linh, triết học....đều nằm trong phạm trù của "khoa học". Và không có phân biệt đối tượng nghiên cứu của khoa học, miễn nó là một đối tượng tồn tại khách quan và có tương tác. Cũng trên cơ sở này thì tôn giáo cũng chỉ là những hệ thống nhận thức khác nhau trong sự giải thích các hiện tượng, có thể đúng và có thể sai. Một thí dụ cho hiện tượng này: Trước đây, những nhà khoa học - ít nhất ở Việt Nam, coi quan niệm về "linh hồn"; kiếp sau", "nhân quả báo ứng", "gọi hồn", và cả Địa Lý phong thủy, bói toán...vv...là "mê tín dị đoan", là không có "cơ sở khoa học". Nhưng bây giờ thì nó lại là đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học, không những chỉ ở Việt Nam và cả thế giới. Điều này chứng tỏ rằng: Tất cả mọi tồn tại khách quan, phải là đối tượng nghiên cứu khoa học. MINH TRIẾT VÀ MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG CỦA PHẬT PHÁP. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Phật giáo đã tồn tại đến nay là 2600 năm. Những giáo lý của Đức Phật tương đối không bị thất truyền. Ít nhất so với Đạo giáo và Lý học Đông phương. Những ai muốn tìm hiểu sâu về Đạo Phật thì có thể tìm hiểu qua các kinh sách bằng nhiều thứ tiếng, kể cả những bản được cho là gốc bằng tiếng Phạn ở các thư viện Phật giáo. Vào những thập niên đầu của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu, các học giả vẫn coi Đạo Phật là một tôn giáo, như các tôn giáo khác trên thế giới. Ngay cả Einstein khi tiếp cận với Phật giáo, ngài cũng cho rằng: "Phật giáo là TÔN GIÁO của tương lai", chứ không coi là một hệ thống lý thuyết mang tính minh triết cho tương lại. Chỉ đến những thập niên cuối của thế kỷ trước, những nhà nghiên cứu, các học giả mới bắt đầu xác định tính minh triết của Phật giáo. Và Phật giáo được không ít các học giả coi như là một hệ thống triết học giải thích xã hội và con người. Đức Phật xác định căn nguyên nỗi thống khổ ở trần gian chính là do "Tham, Sân, Si". Ở đây, tôi không bàn sâu về ngữ nghĩa của từ Tham - Sân - Si. Mặc dù, với tôi thì từ "sân" không phải là "giận dữ". Mà là sự dốt nát. Nhưng miễn tranh luận . Coi như tôi hiểu như mọi người, để có thời gian bàn về chủ đề chính mà tôi muốn diễn đạt. Thưa quý vị và các bạn. Trên cơ sở xác định chính xác nỗi thống khổ của thế gian, Đức Phật đã đưa ra các giải pháp để hoàn thiện nhân cách và tư duy của con người mang tính đạo đức qua Bát Chính Đạo, Tứ Diệu Đế. Và Ngài cũng xác định một cách rất minh triết về sự Vô thường và tính Nhân quả của hành vi. Ngài cũng vạch ra bản chất của cấu trúc vật chất qua sự mô tả các vi trần trong cấu trúc vũ trụ và con người.... Đây cũng chính là một trong những hệ thống minh triết cao cấp của Ngài, khiến 2600 năm sau, những tri thức khoa học phải ngạc nhiên vì sự thông thái vượt thời gian của Ngài. Trên cơ sở này, Ngài đã xác định mục đích cuối cùng của kiếp tha nhân là sự "Giải thoát". Ngài nói: "Pháp của ta, duy nhất có một vị. Đó là vị Giải thoát". Như vậy, đây chính là mục đích rốt ráo cuối cùng của Phật pháp. Chính vì tính minh triết và vạch rõ những cấu trúc vật chất cũng như sự vận động vô thường - để chính nền văn minh của 2600 năm sau phải ngạc nhiên - đã cuốn hút những nhà khoa học tinh hoa phải tìm đến những giá trị của Phật giáo và coi đó như một hệ thống tri thức có khả năng tích hợp với hệ thống tri thức của khoa học hiện đại trong tương lai. Đó cũng là nguyên nhân để các nhà khoa học tinh hoa luôn có những cuộc đối thoại giữa Khoa học và Phật giáo, nhằm tìm đến một giải pháp đi đến một kết luận cho chân lý cuối cùng: LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VŨ TRỤ. Tuy nhiên, điều này không thể xảy ra, mặc dù sự kết hợp giữa khoa học và Phật giáo có thể bổ sung cho hệ thống tri thức của toàn thể nến văn minh trong tương lai. Nhưng nó không bao giờ có thể đạt đến một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT. Người viết sẽ tiếp tục trình bày điều này trong các bài viết tiếp theo. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị và các bạn. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
  22. Thày Thiên sứ viết: BẤT CỨ MỘT LÝ THUYẾT NÀO CỦA NỀN VĂN MINH HIỆN NAY - Muốn chứng tỏ nó là "ứng cử viên" - Ứng cử viên thôi nhá! Chứ chưa được công nhận. Tức là mới nộp hồ sơ dự thầu - rằng: Chính ta mới là "Lý thuyết thống nhất" - Thì phải thể hiện được trong nội hàm của lý thuyết đó - câu nói nổi tiếng của SW Hawking trong cuốn sách "Lược sử thời gian" của ông. Còn không giải thích được ngay trong nội hàm của nó câu nói trên của SW Hawking thì đi chỗ khác chơi. Thiên Sứ không có thời gian nhiều. Từ nay, trên thế giới này, ai muốn mô tả về LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT - phải thể hiện trong nội hàm của chính lý thuyết đó, mô tả được nội dung trên của ngài Hawking. Thế cho nó nhanh! NẾN TẢNG TRI THỨC CỦA NỀN VĂN MINH HIỆN NAY chưa đủ những yếu tố cần để tổng hợp và hình thành nên một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT. Ngay cả những nhà khoa học tinh hoa của nền văn minh này, mới chỉ có ý tưởng về nó (Thế là cũng tiến bộ lắm rồi). Bởi vậy, họ đặt ra những tiêu chí về LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT. Một trong những tiêu chí cực kỳ quan trong, để thẩm định nội hàm của một Lý thuyết thống nhất, chính là phát biểu của SW Hawking trong cuốn "Lược sử thời gian", mà tôi đã mô tả. Đọc đến câu này trong cuốn sách của ông, tôi phải giật mình vì thiên tài của SW Hawking. Ông quả là xứng đáng được thế gian tôn vinh "Ông Hoàng của nền vật lý lý thuyết". Những thứ tư duy tầm thường nhan nhản trên thế gian, ngay cả trong môi trường giáo dục hoàn hảo và tiếp thu tất cả những tri thức cao cấp của nền văn minh này, cũng không thể nghĩ ra được một ý tưởng xuất sắc như vậy. Tôi đã diễn tả nội hàm ý nghĩa nhận định của SW Hawking qua phát biểu nổi tiếng của ông. Đó chính là vì hệ thống tri thức của cả nền văn minh này, thâm chí nó còn chưa hiểu được tất cả bản chất cấu trúc của vật chất. Thứ mà nó gọi là "Vật chất tối". Và nó cũng mới chỉ nhận thức được một cách trực quan sự vận động và cấu trúc cơ học của một phần CẤU TRÚC VẬT CHẤT, mà nó gọi là "khoa học thực chứng". Về một góc nhìn khác thì hệ thống tri thức của nền văn minh này, còn chưa hiểu được bản chất tương tác và những quy luật tương tác và cả môi trường tương tác, qua những quy luật vận động mang tính cơ học , mà nó nhận thức được. Ít nhất với những khiếm khuyết có tính nền tảng của cả hệ thống tri thức của một nền văn minh như thế đó - Làm sao mà nó có thể tổng hợp được để trở thành một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT? Nhưng những tri thức về quy luật tương tác và trường tương tác của toàn vũ trụ được tổng hợp trong một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT - với điểu kiện phải có của nó - THÌ - nó sẽ phải chi phối trên thực tế sự vận động của toàn thể vũ trụ và tư duy của cả chính con người. Đó là nguyên nhân để WS Hawking phát biểu: "Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?". Và đó là nguyên nhân để Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh xác định rằng: Một hệ thống lý thuyết được coi là ứng cứ viên của Lý thuyết thuyết thống nhất, thì trong nội hàm của nó phải thể hiện nội dung nhận định của SW Hawking. Nhưng nền văn minh này chưa đủ những yếu tố cần tạo nên Lý thuyết thống nhất. Do đó, nếu ai đó cho rằng sẽ có một lý thuyết nào đó thuộc về nền văn minh này có khả năng là LY THUYẾT THỐNG NHẤT thì chỉ có hai khả năng: Bị tâm thần phân liệt thể hoang tưởng, hoặc không biết gì, chỉ chém gió cho vui. Do đó, cần loại ngay từ vòng gửi xe. PHÁT BIỂU CỦA ÔNG HOÀNG VẬT LÝ SW HAWKING: Điều này. chính là sự mô tả khái niệm "Định mệnh" trong Lý học Đông phương", nhân danh nền văn hiến Việt. Sự quyết định có tính "Định mệnh" cho đến từng hành vi của con người có khả năng tiên tri, trong các phương pháp bói toán của nền Lý học Đông phương - chính là nội hàm trong phát biểu nổi tiếng của SW Hawking về nội hàm của Lý Thuyết thống nhất. Để quyết định định mệnh của một con người - và cả sự phát triển của nền văn minh đến chân lý cuối cùng - thì chỉ có hai khả năng: A/ Chính là THƯỢNG ĐẾ! B/ Sự tồn tại trên thực tế của một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT và là ứng cử viên duy nhất trong toàn bộ lịch sử vũ trụ - mà trong đó nền văn minh nhân loại chỉ là một phần tử của lịch sử vũ trụ. Với Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Tức Nguyễn Vũ Diệu) thì chỉ coi LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT đang được giới thiệu thuộc về nền văn hiến Việt, chỉ là phương tiện chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Bởi vậy, để phản biện một lý thuyết như thuyết Spin không thể là Lý thuyết thống nhất, Thiên Sứ chỉ cần thời gian của "một nốt nhạc". Đây cũng không phải là lần đầu tiên và duy nhất Thiên Sứ làm điều này. Trước đó cũng có vài lý thuyết bị Thiên Sứ phản bác, thí dụ như Lý thuyết Higg.
  23. Cuộc tranh luận giữa Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh với Thái Thượng Triết về Thuyết thống nhất. CUỘC TRANH LUẬN ĐÃ KẾT THÚC. Bạn tôi - Giáo Sư Tiến Sĩ Vật lý kiến trúc Nguyễn Văn Muôn, đã kết nối để tôi có thể tranh luận với một người bạn của anh ấy là Thái Thượng Triết. Ngay từ đầu, tôi đã không muốn tranh luận với một người, mà tôi cho rằng có những nhận xét hồ đồ và rất thiếu tính nhân bản. Nhưng nể bạn tôi, nên tôi đã tham gia. Và với hiểu biết của tôi thì khả năng của người này, tôi chỉ cần trong vòng "một nốt nhạc", đủ để anh ta phải thấy sự sai lầm của mình. Mọi chuyện đã xảy, lâu hơn tôi dự tính một chút: Anh Thái Thượng Triết tự ý xóa các conment của mình trên Fb của GS Muôn - bạn tôi. Tuy nhiên, vì các vị tham gia Fb của bạn tôi không biết gì về tôi, nên tôi có vài lời giới thiệu mình ở đây. Và tôi cũng chia sẻ lại bài tự giới thiệu này lên chính ngay Fb của tôi, để những ai chưa thật hiểu về tôi có thể biết hơn về tôi một chút, cho tiên việc quan hệ trên Fb này. Sau đây là toàn văn lời giới thiệu về bản thân. Coi như là một "Lý lịch tự thuật". ================ NHÂN DỊP NÀY, TÔI HÂN HẠNH GIỚI THIỆU ĐÔI CHÚT VỀ TÔI VỚI CÁC BẠN. Tôi chỉ là một người dân bình thường và không bằng cấp tối thiểu - bằng Đại học cũng chưa có. Nếu được công nhận thì tôi mới chỉ học hết các học phần của Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Khóa Mở năm 1988 đến 1992. Một mảng kiến thức chẳng liên quan gì đến Vật Lý Lý thuyết và cả Toán học. Tất cả mọi kiến thức của tôi là do tự học. Vào năm 1998, tôi phát hiện ra rằng: một nhóm những nhà Sử học có quyền lực học thuật, phủ nhận cội nguồn truyền thống Việt sử trải hơn 4000 năm văn hiến - Tức gần 5000 năm theo cách nói của tôi. Họ nhân danh khoa học. Cho nên tôi nhân danh khoa học, lên tiếng phản bác. Họ cho rằng: Thời Hùng Vương không phải là một quốc gia và với họ "Cùng lắm là một nhà nước sơ khai" với một "liên minh 15 bộ lạc" và "địa bàn hoạt động chỉ vỏn vẹn ở Đông bằng sông Hồng". Từ năm 1998, tôi lên tiếng phản bác và viết cuốn sách đầu tiên: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Cuốn sách được sự chú ý của dư luận thời bấy giờ. Sau đó tôi viết tiếp nhiều đầu sách khác. Trong quá trình nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương, tôi đã phát hiện ra rằng: Toàn bộ kiến thức nền tảng của Lý học Đông phương - vốn cả thế giới coi là của Trung Quốc - thực chất là của Việt tộc. Tôi đã viết nhiều cuốn sách về vấn đề này. Cuối cùng, tôi đã nhận thấy rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không phải là một hệ thống lý thuyết rời rạc như nó được hiểu và mô tả trong các văn bản, từ các bản văn chữ Hán cổ. Mà nó là cả một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, mô tả vũ trụ với toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ cho đến mọi dạng tồn tại vận động có tính quy luật của vật chất - kể các các dang vật chất nằm ngoài kiến thức của nền văn minh hiện đại quen gọi là "Khí". Hệ thống lý thuyết đó, không chỉ mô tả vũ trụ với tất cả những quy luật tương tác vận động của vật chất, mà còn của cả tất cả những vấn đề liên quan đến con người với khả năng tiên tri đến từng hành vi. Đối chiếu với những tiêu chí về một lý thuyết thống nhất, với các vấn nạn của hệ thống tri thức khoa học hiện đại, tôi xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch chính là một hệ thống Lý thuyết hoàn chỉnh và chính là Lý thuyết thống nhất mà khoa học đang mơ ước và đang tìm kiếm. Tôi không phải là người phát minh - tất nhiên - mà chỉ phục hồi lại những giá trị đích thực của học thuyết này - nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương Tử. Thế giới này có thể công nhận, hay không công nhận những luận điểm của tôi về sự tồn tại của một Lý thuyết cổ xưa với tư cách là một Lý thuyết thống nhất. Vì thành thật mà nói, tôi không quan trọng lắm vấn đề cá nhân tôi thế nào. Mà chỉ lấy một hệ thống Lý thuyết vũ trụ quan cổ xưa mà tôi phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt, NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN CHỨNG MINH CHÂN LÝ VIỆT SỬ TRẢI GẦN 5000 NĂM VĂN HIẾN, MỘT THỜI HUY HOÀNG BÊN BỜ NAM SÔNG DƯƠNG TỬ. Xin cảm ơn các bạn quan tâm. ========================= Còn đây là bài viết của bạn tôi, kết nối cho cuộc tranh luận này: ["Minh Muon Nguyễn cùng với Nguyênhuechi Thai và 9 người khác. 17 giờ GỬI 2 ANH NGUYỄN VŨ DIỆU VÀ THÁI THƯỢNG TRIẾT! Tôi đã chia sẻ những qua điểm về phong thủy và vũ trụ học của anh Diệu bạn tôi, sau đó được đọc một vài comment của bạn bè và thấy có “vấn đề” nên xin có đôi lời như sau: 1. Có rất nhiều cách tiếp cận với “Lý thuyết thống nhất” chủ yếu là bằng những nghiên cứu Vật Lý Lý thuyết, tuy nhiên cũng có không ít người có những cách tiếp cận khác, trong đó bạn Nguyễn Vũ Diệu của tôi đi theo hướng của Lý Học Đông Phương mà cụ thể là Phong Thủy Lạc Việt! 2. Sự tranh cãi về các lý thuyết này vẫn đang là đề tài sôi nổi trên toàn thế giới. Kết quả có những nhà Vật Lý nổi tiếng thé giới như Stephen Hawking cũng đã phải thừa nhận những sai lầm của mình trong Lý Thuyết Hố Đen. Và rồi ngay cả Lý thuyết tương đối của Albert Einstein cũng có hàng trăm công trình chỉ trích. Về vấn đề này bạn Thái Thượng Triết, một chuyên gia nghiên cứu về vũ trụ học, cũng đã phải thốt lên rằng “Thế hệ U70 của chúng tôi sẽ không sống được đến cái ngày mà thuyết tương đối bị coi là nổi xấu hổ của loài người, nhưng thế hệ U50 của các bạn là chắc chắn!” 3. Như vậy, sự tranh luận là rất bổ ích. Tuy nhiên, tôi được biết cả 2 bạn Thái Thượng Triết Thai Thuong Triet và Nguyễn Vũ Diệu đều có những cách bảo vệ quan điểm riêng của mình trên cơ sở những kiến thức và cách tiếp cận của bản thân. Giá như cả 2 anh cùng tìm hiểu được những cơ sở của nhau, ví dụ anh Triết tìm hiểu Cơ sở của Phong Thủy Lạc Việt, còn anh Diệu biết về những biến đổi Lorentz trong Vật Lý chẳng hạn, thì cuộc tranh luận sẽ có hiệu quả hơn! Còn nếu mỗi người cứ đứng trên quan điểm của mình nhà cháu e rằng cuộc trang luận sẽ không có hồi kết! (Xin mạo muội dẫn chứng 1 bức tranh vui như dưới đây) 4. Trong tranh luận ý thức tôn trọng nhau là rất quan trọng, quan trọng hơn nữa là cần động viên và khích lệ nhau. Có như vậy thì cái “Tâm” mới sáng, và Tâm sáng thì mọi việc dễ hanh thông! Nhà cháu tuân thủ nguyên tắc này nên rất lắng nghe và ủng hộ 2 anh! 5. Để tiện, nhà cháu đã hỏi Giáo Sư Gúc Gồ được biết 2 trang WEB của 2 anh xin nêu ra ở đây để 2 anh và mọi người và các học trò của 2 anh cùng tham khảo: - Trang http://thuyettongquatvutru.com.vn/ của anh Triết trình bầy những quan điểm của anh Thái Thượng Thiết Thai Thuong Triet về Thuyết Tổng Quát Vũ Trụ - Trang http://www.lyhocdongphuong.org.vn/phong…/phong-thuy-lac-viet của anh Diệu trình bầy những nghiên cứu của anh (Lấy tên là Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh) trong lãnh vực Lý Học Phương Đông. Nhà cháu chỉ là một thầy giáo chuyên về “Vật Lý Kiến trúc” (Building Physics), nghĩa là cũng tập tọe nói chuyện được với anh Triết vì có dính tới tí “Vật Lý”, và ấp úng được với anh Diệu vì cũng có tí kiến thức “Phong Thủy và Kiến trúc”. Nếu có gì sơ xuất xin 2 anh và mọi người đại xá!"] ============= PS: Vì tôi cho rằng: Bài viết trên Fb của bạn tôi có sự cố kỹ thuật, không hiện thị, nên tôi viết bài này lên đây
  24. Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết: NHÂN DỊP NGÀI DONAL TRUMP SẮP ĐI NGA Trước hết tôi bày tỏ nhiệt liệt hoan ngênh ngài TT Hoa Kỳ đi Nga và tôi tin rằng sẽ có sự đón tiếp trọng thị của ngài Putin với quốc khách của nước Nga. Từ rất lâu trên dd lyhocdongphuong.org.vn - tức là ngay cả khi Nga mới chiếm Crimea - trong topic "Sự kiện và vấn đề Châu Á Thái Bình Dương", tôi đã khuyên nước Mỹ bỏ qua vấn đề này và hợp tác với Nga. Về phía ngược lại, tôi cũng khuyên nước Nga không nên quá quan trọng Crimea để làm mất lòng thế giới. Tôi hy vọng Nga Mỹ sẽ công tác như họ đã từng cộng tác và vốn là Đông Minh của nhau từ thời Thế Chiến thứ II. Tôi tin rằng: Một số những điều khoản của những Hiệp Ước Đồng Minh này vẫn còn hiệu lực đến ngay hôm nay. Thế giới này đã phát triển và làm thay đổi về chất những mối quan hệ chiến lược về cả kinh tế và quân sự. Những căn cứ quân sự có từ thời thế chiến thứ II, đã trở nên lỗi thời khi tên lửa có thể bắn qua nửa vòng trái Đất. Và những đội quân viễn chinh có thể di chuyển trong vòng một ngày để đi qua nửa bên kia quả Địa cầu. Cho nên, nó không còn cần thiết những căn cứ quân sự quá gần lãnh thổ đối phương - lúc này trở thành con tin của các cuộc tấn công phủ đầu. Tương tự như vậy với Crimea. Bởi vậy, tôi rất vui khi ngài Trump tỏ ra không quan trọng vấn đề Crimea trước khi gặp ngài Putin. Có thể tôi đã "cầm đèn chạy trước ô tô", khi khuyên quá sớm cho một quan hệ Nga Mỹ mấy năm trước. Vào thời điểm mà cả hai nước còn cần phải giải quyết một vài vấn đề. Nhưng đây là thời điểm thích hợp để các vị tiến lại gần nhau hơn. Cá nhân tôi rất kỳ vọng vào cuộc gặp Thượng đỉnh Nga Mỹ sắp tới. Cho nên tôi chúc các vị sẽ ký được những hiệp định khung cho mối quan hệ lâu dài của hai nước. Ngài Trump rất kính trọng Thượng Đế! Cho nên tôi xin Thượng Đế phù hộ ngài. Mọi sự tốt đẹp đang chờ hai quốc gia này ở phía trước.
  25. ĐỒNG MỘT DOLLAR SINGAPOR & BỨC TRANH TAM DƯƠNG KHAI THÁI LÀNG ĐÔNG HỒ. Truyền thuyết kể rằng: Đất nước Singapore sở dĩ phát triển chính vì ngài Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã nghiên cứu Địa Lý Phoengshui và đã nhờ các thầy Địa Lý tài ba, kích hoạt Địa lý phong thủy ở Đảo quốc này. Những công trình Địa Lý nổi tiếng của Singapore, đã được Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, phân tích và giảng ngay khóa Địa Lý Lạc Việt đầu tiên, từ 2006. Đó là: Dinh Thủ Tướng Singapore có cấu trúc hình cái ấn với một hồ nước tượng cho con dấu đóng xuống, quyết định vấn đề. Dinh Thủ tướng này tọa lại ngay Trung Cung Đảo quốc này. Công trình kiến trúc nghệ thuật "Chiếc nhẫn may mắn". Tổ hợp công trình kiến trúc này được xây dựng ngay vị trí đắc địa nhất cực vượng Âm khí của đất nước này. Nhưng một yếu tố thứ ba, rất quan trọng nữa, đó là đồng một dollar Singapor. Nhà phong thủy - nhà sư Hong Chuan nổi tiếng thời bấy giờ cho rằng việc đào hầm xây tàu điện ngầm ở Singapore, đã phá vỡ long mạch, làm xấu phong thủy và kìm hãm sự thịnh vượng của quốc đảo. Ông này cho rằng cách duy nhất để trung hòa các yếu tố tiêu cực là mọi người dân mang theo một hình bát giác trong người khi ra đường. Làm cách nào để đạt được điều đó, khi ở Singapore không phải ai cũng tin vào phong thủy? Sau một thời gian bàn bạc, ngài Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã quyết định tạo ra đồng 1 đô Singapore, với 8 cạnh bên trong đường viền tròn. Đây được coi đây là lá bùa may, trấn yểm tà khí và là một phương thuốc an dân. Câu chuyện này được nhiều người dùng để lý giải cho việc ra đời đồng tiền một Dollar Singapor với hình dạng bát giác vào năm 1987. Do vậy mà ngay sau khi được phát hành, đồng xu này đã rất thu hút công chúng, thành biểu tượng may mắn, linh vật trấn yểm tà ma của người Singapore và trở thành vật bất ly thân của họ khi ra đường. Ngoài ý nghĩa về mặt tâm linh, với người dân Singapore, đồng xu 1 đôla còn là biểu tượng cho tài khí. Nhưng trong thời gian tìm hiểu Lý học Đông phương và tính hình tượng trong Địa Lý phong thủy, thì tôi nhận thấy rằng: Bức tranh dân gian Việt nổi tiếng của làng tranh Việt Đông Hồ, có một sức mạnh tác động, kích hoạt biểu tượng may mắn và tài lộc hơn rất nhiều đồng một Dollar Singapore. Đó chính là bức tranh "Tam Dương khai thái" của làng Đông Hồ. Tôi đã phân tích rất kỹ tính minh triết của bức tranh này trong cuốn "Minh triết Việt trong tranh dân gian Việt Nam", từ năm 2001. Ngay đầu năm Đinh Dậu 2017, tôi đã viết bài mô tả tính kích hoạt tài lộc của bức tranh này treo trong nhà và làm những bức tranh có kích thước nhỏ để cho vào ví/ bóp. Tranh "Tam Dương khai thái" của làng Đông Hồ năm ngoái, bán chạy như tôm tươi. Thông tin từ những người treo tranh này trong nhà, đều xác định sự thay đổi tài lộc và may mắn hơn hẳn. Bức tranh "Tam Dương khai thái" thực chất mô tả về hình tượng của một quẻ tốt nhất trong chu kỳ 64 quẻ Dịch, có tên gọi là "Địa Thiên Thái". Từ vụ việc nhỏ nhoi, đến gia đình, xã hội và cả quốc gia, dân tộc...gặp quẻ này đều rất tốt, mọi việc hanh thông. Theo chủ quan và sự hiểu biết của tôi, nếu mỗi người chúng ta đều có một bức hình tranh "Tam Dương khai thái" thu nhỏ để trong bop/ ví thì tác dụng sẽ hơn nhiều đồng 1 dollar Singapore. Tất nhiên, để dẫn đến một sự kiện tốt/ xấu trong cuộc đời bạn, sẽ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng bạn sẽ được hỗ trợ tốt đẹp hơn, trong giao dịch, quan hệ xã hội và may mắn về tiền bạc, nghề nghiệp, nếu trong bóp/ ví của bạn có một bức tranh thu nhỏ nổi tiếng của làng Đông Hồ. Đã có nhiều cá nhân sở hữu bức tranh thu nhỏ này, và có những Cty trang bị cho nhân viên của họ, mỗi người một tấm tranh như vậy. Tất nhiên, họ đều may mắn và Cty rất phát triển. Nhiều Cty lớn bỏ ra cả hàng chục, hàng trăm triệu để mua vật phẩm trấn yểm ở văn phòng của họ. Trong khi đó, chỉ cần vài triệu, họ có thể trang bị tranh này cho hàng trăm công nhân, kích hoạt sự phát triển của Cty và những công nhân, nhân viên trong Cty cũng rất may mắn. CHÚC SỰ MAY MẮN VÀ HẠNH PHÚC LUÔN Ở BÊN CÁC BẠN. - Chú thích nội dung hình ảnh: 1/ Đồng Một dollar Sinhgapore> 2/ Bức tranh "Tam Dương khai thái" thu nhỏ, bằng bìa cứng tráng lớp bảo quản. TÍNH MINH TRIẾT CỦA BỨC TRANH TAM DƯƠNG KHAI THÁI. Tôi tóm tắt nội dung bức tranh này ở đây. Nhìn vào bức tranh bạn chỉ thấy hai con gà Trống gần giống hệt và quay đầu vào nhau, với hàng chữ "Tam Dương khai thái". Trong 64 quẻ Dịch chỉ có một quẻ là Địa Thiên Thái có ba hào Dương (Tam Dương). Vậy hình tượng nào là quẻ Khôn để thành ĐịaThiên Thái? Đó chính là hình tượng 2 con gà trống này: 1/ Độ số 2 là của quẻ Khôn (Hai con gà). 2/ Sau lưng con gà trống là hình ảnh mặt trời (Hỏa) được cách điệu với những lông đuôi chính là tia lửa của mặt trời. Đây chính là biểu tượng quẻ Khôn thuộc Âm Hỏa theo Lạc Việt. Khi nhìn vào bức tranh ta thấy hình hai con gà trước (Dương trước, Âm sau) và nổi bật. Chữ chỉ là mô tả nội dung bí ẩn của bức tranh. Đây chính là sự xác định Hình ảnh quẻ Khôn có trên quẻ Càn (Dương trên Âm Dưới). vậy chính là quẻ "ĐỊA THIÊN THÁI". các bạn xem hình minh họa trong bài này. 3/ Bùa may mắn hộ trợ bản mệnh và Cty. 4/ Quẻ Địa Thiên Thái - quẻ thứ 11 và là quẻ tốt nhất trong kinh Dịch. Gồm quái Khôn (Ba vạch Âm đứt ở trên) và quái Càn (Ba vạch Dương - Tam Dương - ở dưới)