Tình cờ tôi được đọc "Huyền Môn Lược Ký" bên trang wep thegioivohinh.com. Càng đọc càng thấy hấp dẫn nên đã xin phép chủ topic copy về đây để mọi người cùng đọc và suy ngẫm.
Xin chân thành cảm ơn tác giả Huyền Môn Lược Ký và bạn TUTAM là người tác phẩm lên wep.
======================================================================
http://www.thegioivo...%BB%A3c+k%C3%BD
Được sự cho phép của tác giả, hôm nay xin được gửi tới các bạn một cuốn hồi ký nói về hành trình hơn 20 năm âm thầm độ đời, giúp người của cô Nguyễn Thị Thanh Lan. Xuyên suốt cuốn hồi ký là những tình tiết huyền bí mà cuộc đời của cô như là một định mệnh phải gắn liền với nó. Trong Huyền Môn Lược Ký sẽ có nhiều điều bổ ích mà những người đang trên con đường đạo có thể học hỏi và tìm ra cho mình một bài học quý giá. Xin chân trọng giới thiệu...
HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ
SÁCH NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ VỀ KHOA HỌC HUYỀN BÍ VÀ TÂM LINH.
THAY LỜI TỰA
Chúng ta - đang sống ở cõi Người, nơi tượng trưng cho thế giới hữu hình. Những gì liên quan đến thế giới vô hình hay siêu hình, siêu thức - con người chưa với tay được mấy!
Ngoài một số sách nghiên cứu tìm hiểu, sưu tầm, khảo biên hay linh ứng cũng chỉ nói chung chung, thiếu minh chứng va cụ thể. Lắm khi dẫn dắt người đọc vào chỗ mơ hồ - tạo ra sự hoang mang, khó hiểu hay lo lắng, bất an ở những người "yếu bóng vía", người có tri thức và hiểu biết dễ bài xích hoặc thiếu lòng tin...
Dù vậy, ít ai có thể phủ nhận rằng vẫn còn tồn tại đâu đó chung quanh chúng ta một thế giới, khác với thế giới mà ta đang nhìn thấy, sờ mó và cảm nhận được!
Quyển sách này là cả một quá trình dài 22 năm của môt con người bình thường, hoàn toàn tỉnh táo, có tri thức, khôn ngoan và không mê tín hay cuồng tín - Được bàn tay của các Đấng ứng vào để cứu độ nhân sinh, xoa dịu nỗi đau của con người từ thể xác đến linh hồn, gieo trồng hạt giống Thiện vốn từ lâu bị thui chột bởi lòng vị kỷ.
Bàn tay ấy không từ bỏ một ai, từ kẻ sang người hèn, từ người tốt đến kẻ xấu, người hiền lành đạo đức đến kẻ bạc ác vô tâm…
Bàn tay xuất phát từ trái tim vị tha yêu thương đồng loại, nguyện đem sức lực bé nhỏ của mình an ủi và dìu đỡ muôn loài, từ trái tim của người Phật tử cho đi không hề toan tính đắn đo.
Chưa có con người hay môt sinh vật nào bước vào ngưỡng cửa nhà ấy trở ra mà không được chút gì cho mình - và những gì nhận được ấy không hề phải trả giá!
Một người nguyên là một giáo viên chỉ thờ cúng theo gốc nhà đạo Phật, ít lui tới đình chùa lễ hội và cũng không chay tịnh quy y!
Lặng lẽ vô danh ở một góc đời nhỏ bé, hy sinh cả hạnh phúc riêng tư của mình, từ bỏ mọi cơ hội tiến thân hoặc kiếm sống để khoác lên vai môt trọng trách mà ít người biết được: làm sứ giả, làm nhịp cầu nối giữa các cõi âm và dương để xóa bỏ hận thù truyền kiếp, bắt vòng tay nhân ái, gieo trồng hạt giống thiện, xoa dịu niềm đau thể xác lẫn linh hồn...
Quyển sách này là kinh nghiệm thực tế kéo dài suốt 22 năm, trải qua từng ngày, từng giờ một! Bạn có thể vì tò mò tìm đọc, hoặc muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc cũng được! Tất cả đều là người thật, việc thật, không hề được phóng đại hay cắt xén, bóp méo, bẻ cong. Nhân chứng sống đa số vẫn còn nguyên đó - và bạn có thể tùy tiện tra cứu lại, nếu muốn!
Bạn sẽ tìm thấy ở đây những "Luật bất thành văn" về sự giao tiếp, hành xử và liên hệ giữa cõi vô hình và hữu hình. Những quy tắc bất di bất dịch, mà dưới bàn tay tự nguyện của tác giả, nó trở nên linh động, uyển chuyển, đổi thay và cảm hóa...
Người xưa bảo: "Cây kim sợi chỉ không qua được lưới trời" - "Nhân quả báo đền" hoặc "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo"... Quyển sách này được viết lại chứng minh cho loài người biết rằng: tất cả vạn sự trên đòi đều có luân hồi, quả báo - và tấm lòng của các Đấng vẫn rộng cứu muôn loài, những ai còn biết tìm đến, hướng về!
Muôn vạn đạo pháp trên đời chẳng qua được đạo tâm hay còn gọi là "lòng nhân đạo".
Hạt giống thiện khéo gieo trồng sẽ đem đến an lành cho cõi nhân sinh! Xin phép mượn bài viết trước đây (Ngày 17/5/2005) để giới thiệu về tác giả cũng như tác phẩm "Huyền Môn Lược Ký".
Tháng 7 - Mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày xá tội vong nhân - Xin hướng về Phật Pháp đảnh lễ! Xin cúi đầu cảm tạ bàn tay huyền diệu của các Đấng đã ân cứu chúng sinh! Cầu xin phước báu quy về Cửu Huyền Thất Tổ muôn kiếp vạn loài được siêu sinh tịnh độ…
Tiết Lập Thu - Tháng Canh Thân - Ngày Nhâm Thìn - Năm Mậu Tý (Thượng Tam Nguyên niên kỷ)
Huệ Nghiêm Chuẩn đề!
Đệ Tử Diệu Thiện Kính Truyền!
" NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ".
CHỦNG TỬ PHẬT
Tôi chỉ biết một điều rằng Tôi không phải là một người thuộc về cõi trần hữu hạn này. Tôi từ nơi khác đến - và đến đây không phải để sống kiếp sống của một người trần thế bình thường. Mặc dù Tôi cũng sinh ra và lớn lên cùng mọi người, cũng ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, yêu thương và sân hận như họ!
Nhiệm vụ của Tôi là đem mình ra để chịu thế một ít khổ đau của người khác, nhờ đó họ được nhẹ nhàng hơn, và cũng bởi không phải là người của cõi thế này, tôi không cảm thấy phù hợp với nó. Tôi luôn luôn ốm đau, bệnh hoạn - bị dằn vặt bởi những suy tư, bất an rất nhỏ bé của đời thường - và Tôi luôn mất ngủ!
Hàng đêm, những diễn biến của cuộc sống lướt qua như tia chớp trong cái đầu kiệt nhược của Tôi - và Tôi luôn tự hỏi: "tại sao lại như vậy?" Tôi bị điều khiển bởi động lực vô hình, bị nó chi phối, dồn nén - xoay chuyển vá tạo tác, hành xử từng ngày, từng phút…
Nhưng khi cuộc sống của Tôi bị dồn vào ngõ cụt thì họ lại hiện ra, an ủi và nâng đỡ tôi bằng đôi tay dịu dàng của người mẹ, bằng sự rộng lượng của người cha, bằng những vần thơ như chắp thêm đôi cánh cho kẻ bị lưu đày và tôi lại đứng lên, bước tiếp trên hành trình của một kiếp người...
Tôi là một hạt giống trời gieo xuống mảnh đất trần thế đang bị cằn cỗi, xói mòn bởi lòng vị kỷ. Hạt giống ấy lớn lên thành một thân cây có bóng mát để cho người ta tìm tới, nghỉ lại trong chốc lát rồi lại đứng lên lê bước trên đường trần dài dằng dặc, đầy đắng cay và bất trắc!
Bóng mát kia chẳng từ bỏ một ai, nó cúi xuống đưa bàn tay bé nhỏ của mình, nâng lên từ đất bụi, từ những uế nhiễm trần gian những sinh linh mang hình hài tạo tác của Đấng Vĩnh Hằng, đang bị xô đẩy ngửa nghiêng đau khổ, nạn tai và tật bệnh...
Cũng chính vì là một bóng mát cho mọi người, nó phải chịu làm cây cộc đứng giữa đường, dang mình trong nắng lửa. Nó gục xuống rồi lại đứng lên, và bởi không phải là một người của kiếp sống hiện sinh, nó không có bản lĩnh để đối phó với mọi hòan cảnh bên mình, nó luôn luôn "khó ở" và tật bệnh!
Cùng đồng hành với "kẻ tự nguyện bị lưu đầy" này còn có một linh hồn khác luôn kề cận, an ủi sẻ chia, nhủ khuyên và định hướng khi xác trần chán chường và tuyệt vọng. Để rồi sau những đêm dài trăn trở, tôi lại đứng lên, làm tiếp những công việc không mang đến lợi nhuận cho mình!
Tấm giấy thông hành tôi mang theo "nhập thế'" còn có "quyền trợ giúp tha nhân", nhưng quyền trợ giúp ấy không hề có hiệu lực với chính mình!
Khi tôi muốn, tôi có thể tìm biết về người khác, một phần quá khứ hoặc tương lai, để từ đó giúp họ xoay chuyển mệnh trần. Song với chính bản thân thì tôi lại bất lực, những quyền năng tối thượng ấy không bao giờ định hướng cho tôi, nhưng nếu tôi sai bước, tôi sẽ bị đòn đau - rất đau!
Có điều lạ là quyền năng cứu sinh ấy không hề xuất hiện để thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ, thử nghiệm hay xét nét. Nó chỉ hiện diện khi cần thiết, và không lưu lại dấu tích sau khi hành sự. Chỉ còn lại một tôi lơ ngơ đi giữa chợ đời, khờ khạo chán chường và không màng sự thế!
Tôi biết trách ai đây về sự tồn tại chẳng bình thường của mình, ở nơi chốn mà sự hiện hữu được phân định bằng ranh giới thấp cao của "hiện vật trưng bày", của danh vị, tiền tài và bổng lộc!
Bạn bè bảo tôi: "Cô không chịu vận động đấu tranh với cuộc sống, thì thiếu thốn, tật bệnh là lẽ đương nhiên". Hoặc: "Cô làm việc mà không thu lơi nhuận thì sống bằng gì?"
Các em tôi thì nói: "Chị Hai mà làm gì. Cứ như người ở trên mây. Làm chuyện gì cũng ba bảy hăm mốt ngày là dẹp!". Hoặc: "Tôi bạc đầu đi từ Nam chí Bắc chưa thấy ai khờ như cô, bị hết người này đến người khác lừa và lơi dụng mà không có ý kiến gì!"
Đâu phải là tôi khờ khạo để bị người lợi dụng. Tôi biết, nhưng tôi không phản kháng đấy thôi! Thực ra tôi thương hại khi thấy họ chỉ biết mãn nguyện khi tranh đoạt của người khác làm của mình, mà không biết rằng có một thứ hạnh phúc cao hơn: "đó là hạnh phúc của sự ban phát, sự cho đi!"
Giáo lý của nhà Phật có dạy rằng: "Hãy bố thí bằng đôi tay dâng tặng". Tôi mãn nguyện khi tôi dâng tặng người khác đôi bàn tay và tấm lòng của chính mình. Mặc dù trong những đêm dài trăn trở tôi vẫn còn thấy xót xa khi người ta đến tìm nơi ngưỡng cửa nhà mình - và rời đi với những thứ mà mình không hề có được cho chính bản thân.
Mượn nén hương trầm dâng tiến, tôi gởi vào đây những đắng cay chua xót của một kiếp trần nhiều hệ lụy. Hương khói vô thường lãng đãng vòng quanh rồi tan loãng vào hư không trước mặt, liệu có đến tay các Đấng Thiện Toàn - Xin Người hãy ban cho tôi thêm một quyền lực: "Quyền tự cứu chính mình!"
17/5/2005
Huệ Nghiêm Chấp Bút!
DẪN NHẬP HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ
Tôi bắt đầu viết lại hồi ký đời mình sau 22 năm bước chân vào ngưỡng cửa của thế giới tâm linh, với tay nắm bắt những khái niệm về không gian bốn chiều - mà với tầm nhìn hạn hẹp của thế giới con người vốn vẫn rất mơ hồ từ nhiều thập kỷ nay.
Vận dụng cái ảo đưa vào đời thực, chuyển hóa đời sống con người – giống như bánh xe định nghiệp chuyển luân vô hình nhưng mỗi bước xe qua để lại dấu ấn hiện hữu trên mỗi số phận, rành rành như dấu tích hạt mưa rơi trên mặt đất kia, thấm sâu vào lòng đất - cho cỏ cây hoa lá lại đâm chồi...
Việc đón nhận và truyền tải ngọn gió Huyền Môn làm xáo trộn đời sống bình thường của một người như tôi. Đó cũng là quá trình tu tập, khi một phần Linh tử dấn thân vào cõi nhân gian, khoác tấm áo thô mà truy tầm đạo lý.
Sau 10 năm, một lần tôi đã viết tập hồi ký này- Để rồi trong cơn cuồng loạn tột cùng của nỗi đau thể xác và linh hồn, tôi đã đốt nó! Còn lại là những câu thơ như tiếng thét xé màn trời:
“Lửa Luyện Ngục cháy đỏ từng hốc mắt
Khói Thẩm Tra làm điên đảo hồn linh
Phép Ngôi Cao nghiêng ngửa cả bóng hình
Cơn Thử Thách vùi dập thân bèo bọt!
OÁN tự thủa chào đời trong tiếng khóc
HẬN từ ngày mang tấm áo thế nhân
CĂM từ khi đời không chốn nương thân
HỜN từ lúc sa chân vào ngõ cụt!”…
Bây giờ, sau 22 năm - khi ngọn lửa Huyền môn đạt đến đỉnh cao nhất của nó, trở thành lửa Tam Muội quyền năng huân tập và hàng phục. Khi thể xác con người chỉ còn trước mắt "tịch tịch bóng tà dương" - Tôi mới có cơ hội nhìn lại đời mình, và viết lại bằng những hồi ức không còn sự chuẩn xác của thời gian!
Tuy nhiên những người chứng kiến và nhận được "quyền năng siêu hình" vẫn còn đấy, bàn tay dịch chuyển định nghiệp còn nguyên dấu ấn - và còn đó một tôi bước lơ ngơ giữa dòng đời, lạc lõng và xa lạ ngay với cả thế giới loài người, đời mãi thời khắc trút bỏ manh áo trần du, trở về cõi nào chẳng biết…
Tôi viết những dòng hồi ký để lại cho đời sau, con cháu hay ai đó vì tò mò hay hữu duyên tìm đọc, sẽ lại thấy cháy lên lần nữa ngọn lửa Huyền môn. Có thể từ đây, hạt giống Thiện lại đâm chồi. Rồi "cây ấy nên rừng, công đức vạn đời sau!"
Tất cả những chi tiết, hòan cảnh cũng như tên gọi đều là sự thực. Có điều tôi xin phép chỉ viết tắt tên một số người để không làm ảnh hưởng đến đời sống riêng tư. Danh xưng của các Đấng thì tôi vẫn viết y nguyên như vậy, để tôn trọng bàn tay tạo tác, và cũng bởi tôi không có tư cách để thẩm tra, cùng với một lời thề: "Tôi xin thề trước các Đấng tối cao cũng như vời loài người hiện hữu rằng trọn bộ tập hồi ký này đều là sự thực". Có thiếu sót chăng là do trí nhớ không còn trọn vẹn hoặc giản lược đi những chi tiết không nên công bố, nhằm để tôn trọng một ai đó hoặc một Đấng quyền năng nào đó!
Bây giờ, xin mời gọi bước vào hành trình: Mở cửa "Huyền Môn"!...
"Huyền Môn" mở cửa, ta bắt gặp được ngay bút tích người khai phá. Xin chép lại đây hầu bạn, chút nỗi niềm tâm sự của "Lệnh Chủ" HUỆ NGHIÊM!
VÌ AI!
Ta vì ai xây, vì ai phá
Vì ai mà thua thắng chiến trường này
Đôi mắt đỏ những đêm sầu đất lạ
Ta vì ai lưu lạc giữa trùng vây!
Đêm trần thế như dòng kinh nhận tụng
Chuông mõ cười bên làn điệu ê a
Người sám hối lặng quỳ bên chánh điện
Ta xem đời khăn áo đợi mùa qua!
Và bể khổ chừng sâu không cùng tận
Lối sông Mê thuyền trẩy mãi dòng xa
Thấy bơ vơ những con người chìm đắm
Đợi một ngày cây nắng hạn chổ hoa!
Chuyện thương hải tang điền nào ai biết
Trả rồi vay - ấy là luật tuần hoàn
Mây Định số vươn mình trên sóng Trược
Nẻo Luân hồi mờ mịt dấu chân sang!
Ta đứng mãi giữa trần ai, ngơ ngác
Nhìn thế nhân - thương giận, giận rồi thương
Và mong chờ, để thấy mình bất lực
Đạo Hoằng khai hạn hẹp chốn Từ nghiêm!
Cõi thế ấy vẫn muôn màu quyến rũ
Rừng mê kia còn lắm kẻ sa chân
Đêm mù tối biết bao giờ mới rạng
Ta vì ai đợi xếp áo du trần!!
Huệ Nghiêm chấp bút!
(12/8/2004)
l. CHUYỂN "SẮC LỆNH"
Rằm tháng tư năm 1986. Đúng giờ Ngọ! Sau khi thắp hương trên ban thờ Phật, như một sự thúc giục nào đó, tôi lấy bàn Cơ ra (Cơ là trò chơi tiếp xúc với phần Âm bằng các con chữ. Đúng luật là phải hai người đặt mỗi người một ngón tay lên con trỏ thì Cơ mới chạy, và chỉ những người "yếu bóng vía" thì hồn âm mới nhập về được! Con trỏ lầm bằng gỗ từ ván hòm lấy cốt người chết. Hồn nhập về sau khi cầu nguyện và đọc bầi Kệ cầu hồn. Bản thân tôi có khả năng tự ngồi Cơ một mình và xem đó như một tròa chơi thỏa mãn trí tò mò…)
Con trỏ chạy lên dòng chữ "Phật Bà Quan Âm Bồ Tát giáng hạ!" làm tôi sợ hết hồn! Cơ nói: "con là người Nhà Phật, xuống thế với nhiệm vụ "độ đời". Căn duyên đã đến lúc; từ nay trở đi con có khả năng huyền nhiệm xoa dịu nỗi đau cho người khác, hướng họ trở về nẻo Chân, đường Đạo! Tùy cơ ứng biến, tùy duyên mà hóa độ, Điển Nhà Phật trợ con hành Đạo độ đời!"
Tôi lúc đó là giáo viên dạy trường Tân Thới Hiệp 1, vốn chỉ thờ Phật theo gốc nhà. Không phải là Phật tử thuận thành, chưa hề biết đến chay tịnh! Chỉ có điều tốt là tính hiền lành nhu thuận, có đức hiếu sinh, thích giúp đỡ người khác và không sát sanh hại vật...
Ngay đêm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ: "Toi thấy mình đi trên một con đường quê ven bờ kênh lúc chiều nắng sắp tắt. Trước một ngã rẽ, tôi tần ngần: "Đây không phải là con đường của mình, đi lối kia mới đúng!" – Nước lớn tràn bờ chảy ngập chân cầu. Tôi thốt lên: "Mau lên, kẻo không còn kịp!"
Chạy qua khỏi cầu, nghe thấy nhiều tiếng rao, câu chàọ mời từ những chiếc xuồng trái cây đủ loại bắt mắt trông đến mê!: "Mình làm gì có tiền để mua!"
Trước mặt tôi, bước lên từ dưới bến là môt người đàn bà độ 50 tuổi cắp chiếc thúng bên hông, mặc quần đen, áo túi trắng cụt tay bằng loại vải thô. "Ai mua măng, măng cội tre già đây?!". Tiếng rao động trí tò mò, tôi dừng lại nhìn. Những chiếc nhú tre (loại tược non trồi ra từ ngang thân cây chính) tôi hỏi: "Măng này có đắng không dì?" - "Trắng chứ! Luộc rồi thì nó trắng!". Câu trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi!
Bà chìa ra l túi những trái bưởi non bằng nắm tay đứa bé, vừa rụng khỏi cành trơ cuống, bảo: "Mua bưởi đi cô, bưởi ngọt lắm, 10 đồng 4 trái". Tôi nghĩ thầm: "Chắc bà ấy nghèo lắm mới đi bán những thứ chẳng ai mua. Xem như mình cho bà 20 đồng, mua rồi lại kia vứt bỏ vậy!". Tôi nói: "Bán cho con 20 đồng bưởi với măng". Thấy bà cúi xuống loay hoay lượm nhặt, tôi chưa kịp đưa tiền thì giật mình tỉnh dậy…
Trải qua bao nhiêu năm sau tôi mới hiểu hết ý nghĩa giấc mơ, tôi làm bài thơ "Lòng Mẹ ":
LÒNG MẸ
Sáng nay đi chợ mua quả bưởi
Nho nhỏ mà sao vị ngọt đầm
Con nhớ ngày nào đêm mộng thấy
Mẹ về - cho quả bưởi chiều hôm!
“Con trẻ! Đời gian lao còn lắm
Gắng lên con nhé – ngày qua nhanh
Măng “cội tre già” luộc rồi trắng
Trải đời cay đắng con trưởng thành!
Vị ngọt ngày sau Mẹ định rồi
Lòng thương con trẻ chẳng hề vơi
Mẹ theo dìu dắt con từng bước
Đừng khóc nghe con – Mẹ cận kề!
Hương thắp đài cao, Mẹ ngậm cười
Cúi đầu con khấn: “Mẹ hiền ơi”
Con nguyện gìn lòng theo ý mẹ
Giữ đẹp hồn con, cứu hộ đời.
Nhân thế còn đau vạn kiếp người
Chấp tay con khấn: “Mẹ hiền ơi!”
Sinh chúng con trầm luân bể khổ
Mẹ ơi! Xin rộng dạ nương đời…
Con khóc rồi con lại mỉm cười
Quả bưởi ngày nao ngọt thắm môi
Lòng Mẹ theo con từng năm tháng
“Măng trắng” nhờ tay Mẹ sẵn bồi…
27/7/1994.
Vài hôm sau, trên bàn cơ có một vong linh về nói với tôi: "Tôi tên Nguyễn Văn Kính - 27 tuổi, người Cao Lãnh. Tôi chết do tự tử bằng thạch tín vì thất tình, giờ tôi đang đói, lạnh. Xin cô chô tôi chút cơm ăn và cho tôi trú nhờ trong sạp báo của cô!". Vốn có lòng thương người, tôi chấp nhận (lúc đó tôi đi dạy 1 buổi, còn 1 buổi bán quày sách báo).
Vì bận nhiều việc nên tôi quên mất lời hứa của mình. Đến tối ngày thứ ba di bán về đô 7 giờ tối, chồng tôi nói: "Ở nhà có mấy chuyện lạ quá! Đầu tiên là anh đang ngồi đọc báo thấy nguyên bàn thờ Phật rơi xuống đất, đổ vỡ tứ tung. Gần như cùng 1 lúc bé Tí đập bể cái ly kiểu quý của em, rồi tiếp theo bóng đèn tròn mới mua 2 hôm đứt bóng một cách gọn hơ!". Tôi chợt nhớ lời hứa của mình, đi mua giấy tiền cùng bánh về khấn cúng cho người tên Kính. Khi đã nhận và cảm ơn, tên K xin lỗi tôi bảo ba việc lúc nãy là do ông ta làm vì tôi không giữ lời hứa của mình! Tôi nói: "Bàn thờ là nơi linh thiêng của nhà người ta ông giật sập thì là người vô đạo. Ông biến đi, tôi không tiếp xúc với ông nữa!". Hồn nói: "Tôi muôn tạ ơn cô, mai cô mua vé số tôi cho cô trúng". Tôi không bằng lòng, hồn lại nói: “Sáng mai cô sẽ có một niềm vui nho nhỏ. Hay nhớ niềm vui ấy lầ do tôi mang đến!"
Sáng hôm sau tôi di dạy, chồng tôi đi làm ghé qua lớp học báo: “Sáng sớm có con gà trống màu vàng to độ chừng 3, 4 kg vào nhà mình leo lên bếp gas nằm, anh sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khóa cửa lại."
Trưa về đến nhà, Má tôi báo: “Lũc nãy qua lấy gạo nấu cơm thấy con gà trống to nằm trên bếp má sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khoá cửa". Út Thảo em tôi nói hớt: “Con gà trống tàu màu vàng phải không? Lúc con qua mở cửa lấy cây chổi thấy nó còn nằm chình ình trên bếp, sợ nó nhảy đổ chén bát con đuổi ra rồi mới khóa cửa lại". Ba người nói một câu nguyên văn như nhau! Tôi về, mở khóa cửa ra lại thấy con gà trống ấy nằm y chỗ cũ. Tôi sợ quá hét vang nhà, má với em chạy sang, con gầ vẫn giương mắt nhìn mọi người không nhúc nhích. (Lúc đó trong vườn nhà tôi có nuôi 17 con gà lai Úc, nặng 3, 4 kg môt con, những con gà trống không đời nào để cho trống lạ vào đất của mình).
Tôi sực nhớ, bèn khấn: “Tôi biết là của ông tặng tôi, nhưng như thế là ăn cắp, là có tội đấy! Coi như tôi nhận rồi cám ơn, ông đem trả lại cho người ta đi!" Tôi lấy cây xua lần nữa, con gà chạy mất!...
Vì chuyện này, tôi lại làm bạn với hồn tên Kính, thường xuyên ngồi lên bàn Cơ nói đủ thứ chuyện trên trời dưói đất.
Sau này tôi mới biết, hồn Kính là “Điển ông" giả như vậy để thử tôi! Sau này còn Thánh Minh rồi Thần Lam Sơn... nhiều người nữa, thảy đều là do Điển trên giả ra để thử lòng tôi mà thôi!
Dạo ấy Phật Bà Quan Thế Âm rất hay về nói chuyện cùng tôi, bắt đầu thời kỳ "rửa xác". Như thanh thép muốn làm thanh kiếm quý phải chịu rèn dập đớn đau, tôi bắt đầu chịu tra tấn, cực hình! Phật Bà thích về lúc nửa đêm, khi tôi đang ngủ chợt nghe có ai đó cấu một cái thật đau giật mình tỉnh giấc, tiếng vọng trong đầu: "Phật Bà ta về nè con". Là tôi lại ngồi dạy rửa mặt cho tỉnh táo và nói chuyện...
Trong thời gian này tôi chỉ thấy mường tượng là chiếc bóng chuyển động cùng với tiếng nói vang lên trong đầu. Tôi hỏi đáp bằng suy nghĩ cùng ý thức của chính mình, còn tiếng nói kia thì hoàn toàn không phải tiếng nói của tôi!
Tôi phải nhấn mạnh cùng độc giả rằng tất cả quá trình nhìn thấy, nhận biết và tiếp xúc của tôi cùng các Đấng trong suốt thời gian hơn 20 năm qua chỉ bằng "thể vía", "thần thức" chứ không phải bằng mắt và đôi tai của người trần.
2. THỤ ĐIỂN
Đến ngày rằm tháng 10 năm ấy Phật Bà về hỏi tôi: "Người ta mặc đồ gì đi dự lễ hội", tôi nói: "Mặc đồ đẹp". "Thế thì hôm nay con tắm gội sạch sẽ. Giờ tí canh ba ta về đưa con đi dự hội!"
Nửa đêm tôi được gọi dậy đánh răng rửa mặt thay đồ rồi ra phòng khách: "Con đừng mở đèn, để bóng tối như vậy đi!" Tôi mơ hồ thấy rất nhiều vị sư đắp y màu vàng bước vào ngồi xếp bằng lặng lẽ trước mặt tôi. Phật Bà nói: "Con đứng trước bàn thờ Phật, để tay lên khấn 3 lần: "Nam mô Quan thế Âm Bồ Tát - xin hiển hiện cho con thấy mặt" (Tấm ảnh Phật Bà tôi thờ được tạc bằng gỗ mun, không có đèn thì không tài nào thấy được gì)
Tôi làm y lời, những tia chớp lằng ngoằng hiện ra giông như ánh chớp trên bàu trời. Ảnh Phật Bà xuất hiện khuôn mặt đến ngang mũi với tấm khăn xếp trên đầu bằng ánh sáng, chỉ trong tích tắc là biến mất. Tiếng thúc giục: "Tiếp tục lần nữa". Lần này tia chớp vẽ khuôn mặt đến ngang cằm - "Tiếp tục lần nữa": Hình tượng Phật Bà xuất hiện đến ngang bờ vai bằng ánh sáng, đẹp lộng lẫy huy hoàng trong tích tắc rồi biến mất, còn lại nguyên hình bóng tối....
"Điều kỳ diệu thứ hai! Ngửi đi con!" tôi chợt nghe một mùi hương thanh khiết nhẹ nhàng làn tỏa tràn ngập cả phòng khách, thứ mùi hương chưa từng nghe thấy trong đời.
Phật Bà nói: "Ta mang đến cho con mùi hương hoa Mạn đà la - Hoa cõi Phật đấy!". Tôi sung sướng hít lấy hít để... Phật Bà lại bảo: "Điều kỳ diệu thứ ba - con xòe tay ra!" Tôi bướng bỉnh nắm cứng nắm tay lại! Tự nhiên có một lực vô hình nắm bàn tay đưa về trước mặt bẻ cho thẳng ra từng ngón. Phật Bà đặt vào lòng bàn tay tôi một mặt chữ Vạn bằng vàng bé cỡ bằng ngón tay: "Đây là Phật ân! Của con ta trả lại cho con – để con có quyền nâng hành Đạo hộ đời. Phật ấn bằng vàng khối Mễ Tây Cơ đấy!" Tôi hỏi tại sao, Người đáp: "Vì xứ Mễ Tây Cơ trong lòng đất có nhiều mỏ vàng, chúng ta lấy nó để tượng trưng cho sự trường cửu của Nhà Phật! Kinh đô của Nhà Phật nằm ở Kompong Chàm - nhưng chúng ta không chọn người K.P.C làm người Nhà Phật vì họ còn man rợ và u mê lắm!" Phật Bà lại bảo: "Nào, há miệng ra!" Lực vô hình lại bắt tôi há miệng, lè lưỡi – Phật Bà lấy chữ Vạn để trên đầu lưỡi, tự nhiên tôi làm động tấc nuốt xuống cổ! Xong rồi Phật Bà bảo tôi quay lưng lại. Đột nhiên như có ai đó cầm bút vẽ vòng tròn nho nhỏ rồi lớn dần lên, nhồn nhột trên lưng, cảm giác là thực!
P.B lại nói: "Từ hôm nay trở đi con muốn chữa bệnh thì chữa, muốn xem số soi căn cứ làm. Nhưng phải nhớ môt điều ai đang bị Cửu huyền hành hay đang trả nghiệp thì đừng có nhúng tay vào - Bị đòn thế đau ráng chịu nghe!". Rồi P.B lại nói: "Con là chim én mang mùa xuân hạnh phúc đến cho mọi người. Từ nay ta gọi con là Én Mùa Xuân" nghe! Pháp danh của con là Diệu Thiện, nhớ cho kỹ!"
3. RỬA XÁC
Từ đêm ấy trở đi, mỗi lúc P.B về lại nghe tiếng gọi từ thinh không: "Én mùa xuân. P.B ta về đây". Sau gần 10 năm tôi có làm một bài thơ nói về danh hiệu mà P.B đã ban cho. Bài thơ có tên "Én mùa xuân khóc mùa đông"
Những ngày tháng kinh khủng đối với tôi đã bắt đầu, "quyền năng" đi cùng với "khảo đảo" hay còn gọi là "Hành Điển, hành xác, hành căn"... Quá trình "măng luộc rồi trắng" trải qua từng ngày, thậm chí từng giờ, từng phút một!...
Ba năm đầu tôi không ngủ được chút nào, cứ gần nửa đêm, vừa chợp mắt P.B lại về gọi dậy nói chuyện gần 1 giờ đồng hồ, khi người đi rồi là tôi thức luôn đến sáng. Những liều thuốc ngủ cứ tăng dần lên và không còn tác dụng. Cả đêm tôi đau đớn từ đầu đến tận chân, tưởng chừng xương gãy ra từng khúc. Sấng sớm, thường xuyên không đứng được vững vàng, có khi chống tay xuống đất ma lê từng bước đi làm vệ sinh buổi sáng.
Tôi cứ y như tên tù bị đem đi tra tấn xong mang về vứt nằm ở 1 góc xà lim, có lúc đau nằm liệt một chỗ không tài nào day trở, phải lên tiếng kêu ai đó kéo dựng lên mới ngồi dậy được!
Vào tháng 9/1996 vong hồn tên Kính biến mất, thay vào đó là 1 hồn xưng là Thánh Minh, Đệ tử cua Quan Âm Bồ Tát. Người tầm thước, da ngăm đen, đầu cạo trọc, tính tình hiền lành nhẫn nhục! Người ấy nói tôi và họ tiền kiếp là hai vợ chồng nên P.B cho về trợ duyên cho tôi hành Đạo. Từ đó, hồn T.Minh ở cùng tôi 24/24. Và tôi bắt đầu chữa bệnh cho mọi người. P.B nói: "Mỗi phần linh căn độ trần theo một cách khác nhau. Có người về bùa, khoán nhang, cạo gió giác hơi, hoặc cho uống nước lạnh… Con là người trí thức ta truyền phép bấm huyệt, truyền nhân điện trị bệnh cho có khoa học, kẻo người ta cười con mê tín"
Dạo ấy, tôi chưa biết cách mở luân xa, thu năng lượng bên ngoài. Chỉ dùng khí lực nội tại nên chữa bệnh xong, người rất nhược sức, có ngày chữa 8 người, tôi về nằm dã dượi như xác chết, sáng hôm sau phải bồi dưỡng nhiều mới lại sức!
Hơn 20 năm chữa bệnh, tôi không hề lấy tiền bạc của ai vì nghĩ rằng quyền lực siêu nhiên về trợ mình cứu người vô điều kiện.
Mỗi lần bắt mạch chẩn bệnh, tôi lại hỏi trong đầu và chờ nghe tiếng nói báo trong tai về bệnh chứng. Lời tiên đoán của tôi rất chính xác, người ta hay nói: "Cô ấy chẩn bệnh còn hay hơn B.S - đi bệnh viện làm đủ thứ xét nghiệm mới biết, cô chỉ đặt tay lên là nói danh dách!" hoặc tôi chẩn bệnh xong cho bệnh nhân đi khấm lại, kết quả y hệt như lời tiên đoán của tôi! Chẳng ai biết rằng đó là lời phán đoán của "các Đấng"...
Và tôi bắt đầu biết soi căn, xem bói, tiên đoán số mệnh, ứng biết sự có mặt của các âm phần hoặc Căn Điển. Tôi làm nhịp cầu nối giữa người Âm và Dương, làm sứ giả cầu hòa hoặc ứng cứu. Những bệnh khó chữa, thuốc dạng B.V không tìm ra bệnh và không điều trị được tôi tìm nguồn cội ở phần Âm để điều đình, năn nỉ cầu xin hoặc "hối lộ", hoặc xin các Đấng về trợ cứu...
Từ đây trở đi, tôi xin phép viết xen kẽ về những trường hợp điển hình đã được các Đấng giúp cho thoát qua khỏi nạn tai, tật bệnh hoặc âm tà. Có thể tôi không còn nhớ chính xác địa chỉ của từng người, song những nhân chứng sống vẫn còn - Năm 1994, khi bị Điển hành quá, tôi không chịu nổi, đã đốt toàn bộ tập hồi ký, sổ ghi tên bệnh nhân và địa chỉ. Này còn nhớ vài trường hờp, tôi kể lại hầu Bạn vậy nhé!
4. THỰC HÀNH CỤ THỂ
* Cậu Nguyễn Văn Tuyên, 20 tuổi. Bộ đội tiểu đoàn Phòng không. Đơn vị B.Đ đóng gần sạp báo của tôi! Tuyên bị sưng phù cứng và tím ngắt cả 2 chi dưới. B.V 175 chẩn là bị bệnh hoại huyết – Đề nghị cắt cơm nằm viện 1 tháng rưỡi. Tôi đã chữa hết hoàn toàn sau 7 ngày (7 lần điều trị).
* Cậu Trần Văn Công 19 tuổi, tân binh Phòng không, bị phạt chạy 3 vòng sân lên cơn đau tim tắt thở, sùi bọt mép và co cứng tay chân. Khi tôi đến BN đã nghỉ thở nửa giờ đồng hồ rồi, tôi làm cho Công tỉnh lại sau 15 phút!
Đơn vị trả Công về nhà. Hai cha con có tới sạp báo cám ơn tôi. Về việc này mà cậu Mạnh (Y sĩ Tiểu Đoàn Phòng Không) ra năn nỉ tôi "Chị muốn "Bái Tổ" sao tôi cũng chịu, xin chị truyền nghề lại cho tôi với".
* Cậu Nguyễn Văn Lĩnh 20 tuổi, BĐ Phòng không. Lĩnh chơi banh bị bong gân bàn tay phải, chỉ 15 phút sau đã sưng cứng và tím ngắt mu bàn tay - Tôi chữa hết mọi triệu chứng sau 5 ngày.
* Cậu Thắng: là trung úy Pháo binh. Mẹ Thắng bị tà nhập, đã đưa đi điều trị bệnh viện Bạch Mai và Việt Pháp mà không khỏi, điện vô: "Mẹ hấp hối, con về gấp"
Tôi xin Điển về chẩn, nói: "Ngày trườc, thời Hà Nội bom đạn có 1 người đàn bà quê mặc bộ bà ba đen chết ngay trước cửa nhà cậu, kế bên có bụi cây gì cao lúp xúp có trái nho nhỏ. Mẹ cậu là người nhìn thấy trước tiên".
Thắng nói: "Đúng rồi, bà ấy ở đâu đến không biết, bị đạn chết kế bên bụi cây mâm xôi, mẹ em đi chợ sớm phát hiện la lên kêu mọi người, lúc đó kiến lửa đã bu đầy"
Ấy thế mà mười mấy năm sau vong hồn ấy chưa siêu thoát, quay lại bắt hồn người đã có công đưa xác mình đi chôn cất.
P.B giận quá, bảo tìm 2 đồng xu tiền điếu quét vôi về chôn tại gốc cây mâm xôi, triệt âm phần luôn chẳng tha! (Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng PB cho Điển "triệt vong")
Lại truyền: Trong vòng 7 đêm, mỗi tối dìu mẹ ra trước bàn thờ Phật thắp hương xin P.B, xong lấy mực tàu vẽ hình chữ "Vạn" trên lưng để giải ám khí.
Bảy ngày sau mẹ cậu Thắng khỏe mạnh hoàn toàn, hai năm sau vào Nam cưới vợ cho con có ghé tặng quà và cảm ơn tôi. Cậu Thắng hiện vẫn còn ở cùng gia đình ở Hiệp Thành!
* Cô Trúc tuổi độ chừng 30, thôi chồng có 3 con, hiện đang ở với người cha ruột, mẹ mất. Môt hôm cô tới hỏi tôi: "Ba em dạo này có nhiều hành động kỳ quặc làm em sợ quá, chị xem dùm tại sao". Tôi xin Điển rồi bảo: "Nhà chị có một gốc cây to đã cưa, đứng trong nhà nhìn ra nằm ở góc bên phải, chỗ chị hay quét rấc tấp vào đó! Có 1 con quỷ 1 giò nhập vào ba chị làm cho ông đau chân đi khập khiễng. Nó xúi ông có hành động loạn luân muốn cưỡng bức chị. Gần đây ông mua một con dao dài và sắc để trên đầu giường, sẽ dùng nó để cưỡng bức chị vào đêm tối trời không trăng cuối tháng!"
Chị T. khóc mùi và kể: "Chị nói đúng em mới dám khai. Ông cứ theo rình nhìn em lúc em tắm, em hỏi thì ông nói đi kiếm con gà con vịt - chân không hề có tật, tự nhiên rồi đi cà nhắc. Ông mới mua một con dao xắt chuối dài (mà ở nhà đâu có nuôi heo) ông cứ lấy dao ra mài, nói là để rình ăn trộm. Lúc đó ông cứ nhìn em con mắt lóe lên tia dọa nạt làm em sởn cả gai ốc! Tối ông đuổi mấy đứa nhỏ qua hàng xóm coi ti vi, đến nửa đêm mới cho về, còn em ông nói: "Đàn bà không được đi lung tung, leo lên giường nằm"...Kể rồi cô T ôm mặt khóc ngất: "Chị cứu em, không em chết mất!"
Lúc đó, năng lực bản thân của tôi còn yếu tôi phải tiếp xúc âm vong năn nỉ, xin hối lộ 1 con vịt quay, con quỷ rời đi nơi khác, cha cô T tính cách trở lại bình thường, chân hết đi khập khiễng!
*Cậu Thành làm CN công ty Satimex, gần chỗ tôi bán báo, bị té do gẫy cổ xe gắn máy, chấn thương phổi đã 1 tuần chích và uống thuốc mà không bớt. Đau ngực, ho ra máu và nói không ra tiếng!
Ngay lần đầu truyền điện, Thành nhắm mắt mà nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Tôi hỏi: "Làm gì như ma nhập vậy?" T nói: Chị có xem phim "Bao Công xử án", lúc Triển Chiêu đánh võ chị nhớ không? Em nhắm mắt mà thấy ánh sáng xẹt qua xẹt lại trông đầu sợ bắt rùng mình luôn!" Tôi chữa sau 5 lần (5 ngày) cậu Thành hết đau hẳn!
5. LIÊU TRAI TÂN THỜI
(HAY SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ I)
Từ dạo Điển về nắm tay tôi độ đời, tôi bắt đầu bị tra tấn cả phần hồn lẫn phần xác. Thần thức bị nhiếp giữ, đau đớn cũng không được kêu rên, càng than vãn thì đau đớn càng nặng. Bệnh cứ như giả đò, uống thuốc vào đau lại càng tợn! Để vậy mà chịu, đến lúc tự nhiên hết thời thôi…
Chỉ cần có tư tưởng oán hận là bị đòn nặng nề ngay! Có lần tôi bị nhức răng, cái răng nanh phía bên phải không hề bị sâu ăn hay có va chạm gì. Từ 10 giờ sáng tự nhiên phát đau nhức liên tục đến ba giờ chiều, không ăn cơm được! Tôi khóc van xin Mẹ Quan Âm cứu, Mẹ về bảo: "Dậy rửa mặt ăn cơm đi rồi hết". Tôi ức quá bảo: "Không hết con không ăn!" Thế là P.B bỏ đi, cầu xin mấy cũng không về nữa. Đến 10 giờ đêm, P.B vê bảo: "Ta cho hết đau, dậy ăn cơm đi". Thế là cơn đau dứt hẳn, không còn chút di chứng nào!...
Tôi chữa bệnh, người ta hết bệnh tôi bị đau trả! Sợ nhất là người dữ, bất thiện hoặc bị đau do Cửu Huyền hành hay bệnh do trả căn, trả nghiệp (nhưng bệnh này thuốc men của BS không có tác dụng). Chữa đôi lần không thấy bớt tôi phải cầu xin tiếp xúc với các Đấng Linh căn của xác trần hoặc Tổ tông của BN để năn nỉ xin tha. Họ có bằng lòng buông tay thì tôi mới chữa được, nhưng chữa cho những người này tôi bị hành rất dữ - Đến nỗi có lẽ đây là lần đầu tiên trông mấy mươi năm tôi mới có can đảm nhìn lại đời mình!..
Thường đêm tôi đau đớn toàn bộ cơ thể, tưởng chừng như các đốt xương trong người chỉ cần nghiêng trở là sẽ gãy ra từng khúc. Đau đến tận cùng tôi rơi vào cơn mê thiếp rã rời trong chốc lát, giật mình thức dậy lại đau...
Có lần vào nửa đêm trong lúc mê mệt, tôi nghe trong người dội lên tiếng nấc nghẹn ngào – Mở mắt ra tôi thấy Thánh Minh ngồi ở một góc giường gục đầu khóc, đôi vai rung lên từng cơn. Tôi khẽ cựa mình, tiếng khóc nín bặt. Ông nói: "Anh thương em lắm nhưng không có cách nào cứu được em"
Tôi cần phải mở ngoặc ra để giải thích với độc giả rằng: đêm tôi ngủ riêng với các con chứ không nằm cùng giường với chồng! Vợ chồng tôi sống không có tình yêu và hạnh phúc, sau 10 năm chung sống, chúng tôi ly hôn (1983-1993). Một điều nữa cũng cần nói để bạn đọc thông cảm và đỡ bị "sốc" khi theo dõi chuyện là tôi và Điển Ông từ ngày đầu tiên đến giờ vẫn xưng hô và giao tiếp với nhau y hệt như hai vợ chồng trần thế. Thậm chí trong buổi cơm, tôi gắp 1 món ăn vẫn thấy ông đưa đũa gắp món khác, và ngồi riêng chứ không nhập vào xác của tôi!
Đêm ngủ, ông mặc quần vải đen lưng bằng dây rút. Có lần nửa đêm mua hè trời nóng đến kinh người, ông giở màn chui ra, một phút sau trở vào, tôi vẫn đang nhắm mắt, bỗng nghe những giọt nước từ đâu bắn tung tóe, tôi la lên và mở mắt thấy ông đang dùng 10 ngón tay lùa vào mái tóc còn ướt sũng: "Nóng quá, dội chút nước cho mát!" (thể vía cảm nhận được những điều linh hồn làm, nhưng xác trần cũng cảm giác y như vậy, và đương nhiên những giọt nước ấy không thể nhìn thấy bằng mắt trần!)
Ông thích mặc áo sơ mi trắng cổ cồn tay dài cài kín mít. Quần tây đứng ống xếp ly màu nâu xám! Có lần ông mặc một chiếc áo bằng loại vải lụa dày, mịn màng màu trắng và chiếc quần Âu xám đen, vải cũng dày và mịn. Ông hỏi tôi: "Anh mặc bộ này có đẹp không?" Tôi bảo: "Đàn ông ai lại mặc đồ bằng lụa vải mịn thế kia, trông đỏm dáng quá!" Từ đó ông không bao giờ mặc bộ đồ ấy nữa…
Hàng ngày vì hay bệnh nên tôi không có sức khỏe, hễ làm viêc nặng chút xíu là mệt thở không ra hơi, những lúc ấy tôi năn nỉ: "Giúp em với, em mệt quá rồi" Ông nhập vào tôi làm việc - Lúc đó sức khỏe của tôi gấp 2, 3 lần và làm không biết mệt...
Lúc nhàn rỗi tôi bảo: "Bịt mắt em đi nào" tôi nhắm mắt lại, chừng 15 giây sau thì không tài nào mở mắt ra được nữa, đến khi chịu thua ông thì thôi! Hoặc tôi nói: "Đè cứng hai chân em coi". Để yên 2 chân duỗi thẳng ra chừng 15 giây sau là bị đè cứng như khúc gỗ không giơ lên được. Đến khi tôi cố sức giật mạnh hai chân mới thoát.
Có lần Mợ Út của tôi nghe kể bảo: "Mày nói xạo! Bảo ông xô tao té thử coi, làm được tao mới tin". Mợ đang ngồi trên võng bỗng nhiên ngã người dần dần đến khi lăn ra võng thì vùng đứng dậy chạy mất, nói với Má tôi: "Trong người con Lan có ma, chị Hai ơi!"
Vốn tôi rất thích thơ và đã làm rất nhiều thơ từ năm 17 tuổi, ông cũng hay làm thơ tặng tôi: thơ thổ lộ tình yêu, thơ giảng Đạo, khuyến tu... Lúc đó ông đọc cho tôi chép lại và đề ở dưới là "Huệ Nghiêm chấp bút". Riêng có thơ tình ông không đề tên tác giả. Chính vì vậy trong những quyển thơ của riêng tôi, có 1 số bài ý tứ lạ lẫm là thờ của ông.
Bây giờ, tôi chép lại tặng bạn đọc mảng thơ của ông nghen! Nhưng ở đây tôi chỉ chép lại thơ tình thôi, còn thơ Khuyến Đạo xin để vào phần sau, khi hạt giống đã đâm chồi!...
TÌNH TỤC - DUYÊN TIÊN
Có một đêm, một đêm trăng sang lắm
Trên cõi Trời cô quạnh, giữa tầng sao
Thánh tôi buồn, ai biết tại vì sao!
Vì thánh nhớ người yêu nơi cõi thế!
Và len lén chờ mọi người ngủ cả
Thánh xuống trần, ôi thương kẻ tình si
Đợi ngoài hiên Thánh đợi mãi, sương rơi
Vai áo lạnh, hề chi – nhưng hồn lạnh!
Thánh đợi mãi, đợi hoài trong im lặng
Lá vàng rơi xào xạc, lá vàng rơi!
Cửa nhà ai vẫn khép kín ngậm ngùi
Thương cho khách tình si hồn lận đận…
Thánh đợi mãi, đợi hoài rồi Thánh giận
Đem phép thiêng phá khung cửa dương trần
Người yêu kia, còn say giữa giấc nồng
Thương mà giận, giận mà thương - xa xót!
Và tình yêu lại bừng trong máu huyết
Thánh bắt hồn người con gái mình yêu
Giấu vào tim, đem về cõi hư vô
Tình yêu vốn không biết chờ biết đợi!
Khi cõi thế đám tang buồn dịu vợi
Thì cõi trên - có hai kẻ yêu nhau
Tay trong tay ngồi ngắm mãi trăng sao
Ôi hạnh phúc, ngọt ngào như hương mật!!!
Tháng 7/1990
ĐỢI CHỜ
Con đường hạnh phúc dài thăm thẳm
Kẻ kéo người co – hạnh phúc nào?
Tung hứng vui lòng nhau thoáng chốc
Tình yêu đâu vá nỗi lòng đau!
Anh đợi chờ em biết bao lâu
Lòng riêng trăn trở suốt canh thâu
Tình yêu cõi thế sầu dịu vợi
Thân trải đắng cay bạc mái đầu
Đêm cứ dài trôi, anh thức đây!
Ngày qua anh đếm mãi bao ngày
Người yêu gần đó mà xa cách
Lạnh lòng, không ấm nổi vòng tay!
Đừng khóc nghe em, giọt lệ sầu
Anh lau – em có biết gì đâu
Hồn quen, xác lạ, sầu vời vợi
Ngăn cách muôn trùng đau lòng nhau!
Hãy đến cùng anh – ơi người yêu!
Chờ nhau, xin chớ trách đêm sầu
Ngày vui, cuộc thế còn trơ đó
Hẹn nhé, người yêu! Đời muôn sau!!!
15/9/1990
… Tình cao, núi cao, cồn cao!...
Cờ lau còn mất - ai chờ, ai đi
Đêm đêm bút chép chuyện đời
Ngàn sau còn để một lời thệ minh…
… Tình gọi ngàn xưa về bắt mộng
Hững hờ dâu bể, mặc ngàn sau
Người vẫn chờ nhau từ muôn kiếp
Duyên đó, tình đây – chớ để sầu!...
Tháng 11/1990
HOÀI NIỆM MỘT MÙA TRĂNG
Trời mưa ướt áo chị Hằng
Gương nga để lạnh hương nguyền lẻ đôi
Ai hiu quạnh một góc trời
Nhớ người trong mộng hát lời tương tư
Lam Sơn núi phủ mây mờ
Đình xưa hoang phế, ai chờ riêng ai?
Quạnh hiu một góc trời Tây
Người ơi bóng ngã không đầy tâm hao
Ai duyên, ai nợ, ai sầu
Ai ngồi đợi mãi bên cầu oan tương
Lời ca ngày cũ còn vương
Bóng người năm cũ chừ phương trời nào?
Duyên tơ tóc mãi nghìn sau
Phút giây ngắn ngủi để sầu muôn thu…
22/9/1991
ẢO ẢNH 3
Anh nói rằng anh đã lỡ yêu
Làm sao em hỡi – nhớ thương nhiều
Lam Sơn chiều cũ buồn hiu hắt
Núi nhớ, rừng thương – suối gục đầu!
Dù chỉ một ngày vắng bóng nhau
Anh buồn như cả thế gian sầu
Chao ơi là nhớ ai người biết
Tình ấy làm tim xót đến bao!
Trầm mặc núi cao đứng gục đầu
Mây buồn giăng mắc đỉnh tương tư
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Lạnh lắm em ơi – mùa đông sầu!
Biết đến bao giờ - em dấu yêu
Nói đi cho ấm chút lòng nhau
Hứa đi, mai nhé, chờ kiếp khác
Trời hỡi, duyên này ta mất nhau!!
22/4/1992
PHIÊN KHÚC XANH
Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ
Hoa Ngọc Trâm ấp ủ giấc mơ dài
Anh ước làm trâm ngọc tóc em cài
Từng cánh nhỏ trắng một màu trinh bạch!
Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ
Hoa xu xi từng chùm nhỏ nồng hương
Em xòe tay xin, anh tặng một nụ hôn
Còn hoa ấy anh cài lên mái tóc!
Tình yêu tỏa hương đưa em vào trong giấc ngủ
Hoa ngọc lan trắng muốt ủ hương trầm
Em mãi đợi chờ - như tình ấy ngàn năm
Hoa vào mộng, sắc hương cùng nỗi nhớ!
Tình là hoa – và em là mật ngọt
Nụ hoa xinh, nhụy thắm ngẩn ngơ lòng
Để anh còn say mãi đến ngàn năm
Cho đẹp giấc mơ êm – người yêu ạ!
17/7/1992
6. SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ HAI
Một thời gian sau, T.Minh đột ngột biến mất, thay vào đó là thần Lam Sơn (Ông xưng là thần núi Lam - Thanh Hóa). Thần LS da trắng nhờn nhợt, tướng thư sinh bạch diện, mắt to và có khoen, mũi to, môi đỏ như con gái...
Thần kể rằng trên núi Lam có ngôi đền cổ bỏ hoang từ rất lâu, đền Thần của ông ở đó ! Ông xưng mình cũng là một trong những kiếp chồng vợ với phần linh căn Diệu Thiện. Thần LS tâm sự với tôi: Núi Lam có những khi mưa dầm dề ngày này sang ngày khác, khí núi bốc lên mù mịt như khói và lạnh thấu xương. Buồn thực là buồn! Vì vậy Thần hay bỏ đền điện đi chu du khắp nơi - Bây giờ Linh căn về xác Thần xin phép về cùng trong một thời gian rồi đi…
Thần giải thích: Hai linh căn Nam và Nữ đã trải qua rất nhiều tiền kiếp cho đến nay và luôn chuyển kiếp cùng nhau để tu tập hoặc hành Đạo, độ đời! Từ ngàn xữa, chỉ có người Nam tình nguyên xuống thế, người Nữ chỉ đi theo phò trì. Kiếp này là kiếp đầu tiên người Nữ tình nguyện Độ Đời - xác ông thương vợ đi theo trợ cứu!
Thần nói: "Rồi em coi, lần lượt sẽ có những phần khác từ Linh căn của người chồng về với em để cho em biết mặt!"
Thần an ủi tôi: "Em bị đau đớn hành xác nhiều bởi vì anh làm sai luật. Nếu không có anh thì em không chịu nặng nề đến vậy! Nhưng từ bao nhiêu đời kiếp rồi vợ chồng mình luôn có nhau, anh bỏ em sao đành!"
Hai bài thơ in ở trang trước là của Thần Lam Sơn làm!
Thần Lam Sơn phép cao hơn Thánh Minh. T.M người nhu nhược, rụt rè, ít nói; Thần LS thì ăn to nói lớn, tính khí bướng bỉnh lì lợm. Lúc thì ngọt ngào, vui vẻ, hóm hỉnh. Khi lại buồn giận hỏi mãi không chịu trả lời. Người luôn mặc một áo sơ mi trắng cụt tay, quần tây màu xanh dương đậm.
Có lần tôi đang ngồi xem ti vi, thấy Thần mặc đồ võ tướng giáp trụ bằng vàng đẹp lộng lẫy. Tôi hỏi Thần đi đâu về. Người nói: "Anh đi làm lễ duyệt binh!"
Thần LS giỏi phép lắm! Tôi đang ngồi, Thần chỉ đẩy một cái là tôi ngã lăn quay, không tài nào gượng dậy được. Cho đến khi thần kéo dựng dậy, cả hai cùng cười… Có khi cả nhà đang quây quần xem ti vi, Thần đẩy tôi ngã, tôi phải vờ như cố tình nằm xuống để mọi người không để ý!
Đời sống của tôi lạ hơn mọi người, chính vì thế hay bị em út cho là "lửng tửng". Trong lúc đang làm việc gì đó hay nói chuyện với một người, Điển Ông lại xen vào nói một câu khác - tôi nghe và bật cười, với mọi người thì đó là một nụ cười vô căn cớ! Hoặc ai đó hỏi 2,3 lần cùng một câu hỏi, tôi đang bận nghe ông nói gì đó trong tai nên không trả lời được bèn hỏi lại. Con tôi hay nói: "Mẹ hỏi câu đó 3 lần rồi" hoặc Mấ tôi chép miệng: "Con này khùng mất rồi"
Khi buồn, tôi nằm lên giường để tờ giấy lên mũi, bảo: "Thở cho tờ giấy tung lên coi anh" Tôi nín hơi, nín thở - tự nhiên tờ giấy này lên từng hồi theo hơi thở (đương nhiên không phải là hơi thở của tôi). Hoặc: "Anh thở trên chóp mũi cho em nghe coi". Rõ ràng có ai đó thở hơi ra bên trên mũi, mùi hơi thở thơm và nhộn nhột y hệt như hơi thở của một người bình thường!
Có khi tôi thức giấc nửa đêm, nghe trên ngực trái của mình ngay chỗ trái tim, có một trái tim khác đang đập, nhịp chậm hơn xen kẽ vào nhịp đập của trái tim tôi. Hễ đưa bàn tay để lên ngực thì hết, buông ra lại đập tiếp! Ông cười bảo: "Trái tim anh đập đó nghe không"…
7. SỰ XUẤT HIỆN CỦA LINH CĂN THỨ BA
Đến rằm tháng 10/1991, trưa ấy tôi cúng hoa trái vừa xong đang còn đứng chắp tay xá Bàn thờ Phật, bỗng nhiên nghe có l luồng kình lực đè nghiến trên đầu tôi nặng như phiến đá đè, sau đó luồng ấy đi dần xuống, chuyển đến đâu cả người rần rần đến đấy!
Lại nghe tiếng vang trong đầu "Ta-Phật tổ Như Lai đây! Ta về kiểm tra Linh thể !"
Thế là từ đó phần Linh căn thứ ba xuất hiện: Lệnh chủ Huệ Nghiêm, Chủ nhân của "Huyền Môn Lược Ký"!
Người giải thích với tôi: Phần trần kiếp cuối cùng của linh căn 2 người là Tất Đạt Đa Hoàng tử và Công Chúa Da Du Đà La. Hoàn thành sứ mệnh trở về Trên, từ ấy đến nay không còn tái kiếp nữa. Nay vì đời mạt Pháp thế sự nhiễu nhương, các thế lực tà rất mạnh – trấn áp và khuấy nhiễu chúng sinh, khổ nạn quá nhiều nên phần linh căn người Nữ tình nguyện xuống thế độ trần...
Đây là việc chữa từng làm, vì kinh nghiệm còn ít nên "Điển Ông" về trợ!
Ông cũng nhắc cho tôi biết: phải biết cư xử cho rạch ròi và cẩn trọng, chớ có "đánh đồng" phần xác với linh căn! Xác trần ông về bên tôi là Tất Đạt Đa, còn Thích Ca Mâu Ni là Linh Căn - và Linh căn không ở bên tôi.
Quả thật, từ ấy đến nay khi có lễ cúng gì, vui miệng chúng tôi mời Ông cũng ra mặt, nhưng luôn mặc một chiếc áo chùng dài tới gót màu khói nhang! Ngài Thích Cà hãn hữu lắm mới về, cạo đầu đắp y vàng – không bước chân vào cửa nhà tôi hoặc có chăng ngồi trên ghế sát cửa chính, không đi lại và gọi tôi là "Cô Lan", xưng "Ta"!
Tôi hỏi ông: "Linh căn người nữ tính danh là gì?" Ông lại cười, bảo: "Chờ đi, rồi sẽ biết"! Tôi không tin vào lời giải thích của ông. Một xác trần vô danh như tôi, khờ khạo, nghèo nàn và thiếu thốn, bệnh tật như thế này mà là Công Chúa sao?
Người lại nói: "Hai chúng ta là vợ chồng vĩnh kiếp - đã trải qua 91 kiếp rồi, đây là kiếp thứ 92". Tôi hỏi: "Lây gì chứng minh điều đó?" Người bảo: "Chờ đi"…
Ba ngày sau, bà Ba Củi (người thầu gỗ vụn ở công ty gỗ Satimex) cho tôi mượn 1 băng giảng Đạo có tên "Đạo nghĩa vợ chồng". Trong đó có đoạn Sư giảng về sự thủy chung đời đời kiếp kiếp của 2 vợ chồng Tất Đạt Đa và Công Chúa Da Du đã trải qua 91 kiếp!
Tôi mở ngoặc ở đây để thưa với các bạn thêm rằng: "Bất cứ điều gì "Điển trên" nói với tôi, chỉ trong ít ngày là số mệnh xoay chuyển để đưa đến cho tôi tài liệu xác nhận sự thật đúng như vậy!
Vào năm sau, tôi nhớ là gần ngày rằm tháng 7/1992. Tôi vui miệng có hỏi ông: "Thế trong đời khi đã thành Phật rồi, ông có làm điều gì sai luật không?" "Có, anh đưa mẹ là Hoàng hậu Maza về cung trời Đạo Lợi. Ba tháng mùa Kiết Hạ anh về đó giảng Đạo cho mẹ nghe để mẹ đắc Quả vị Phật"
Hai hôm sau, mẹ tôi đi chùa về cho tôi một tờ bướm có kể lại chuyện này y như lời ông nói!
Để giữ lời thề ở đầu Bộ sách "Huyền Môn Lược Ký" rằng chỉ nói đúng sự thật mà mình đã trải qua - Tôi buộc lòng kể lại nguyên văn những lời Điển Ông nói. Trước tiên phải chân thành xin lỗi các tín đồ Phật Giáo về sự "mạo phạm" ngôn từ! Thứ nhất vì tôi không đủ tư cách để thẩm tra thực hư; thứ hai vì tôn trọng những phần Linh Điển.
Thôi thì xin độc giả "thể chấp", hãy để cho tôi được kể lại nguyên vẹn mọi việc không sửa chữa. Nếu không, e "Huyền Môn Lược ký" trở thành "tiểu thuyết khoa học huyền bí viễn tưởng" mất!
Từ ngày đầu tiên về với tôi đến nay, Điển Ông và tôi vẫn xưng hô "anh em" như hai vợ chồng thực thụ…
8. THỰC HÀNH CỤ THỂ (2)
Bây giờ tôi lại kể tiếp vài trường hợp thực hành cụ thể để thay đổi không khí cho bạn đọc đỡ nhàm chán, vậy nhé!
* Mẹ của chị Hương (bán gạo Hợp tác xã Tân Thới Hiệp) bị tăng huyết áp, trụy tim rơi vào hôn mê hơn nửa giờ đồng hồ. Tội đến cấp cứu cho bà, bà hồi tỉnh sau hơn nửa giờ nữa và ngồi dậy được bình thường!
Lúc đó 2 quạt máy để 2 bên góc phòng quay ào ào, tôi đặt 2 tay lên người bà cụ, mồ hôi chảy ra dầm dề như đang tắm, và nước thì uống vào liên tục. Thực ra, tôi cũng không hiểu do cơ chế nào mà mỗi khi Điển về nhập vào tôi, nhất là khi trụ thần để chữa bệnh là mồ hôi tuôn ra liên tục như vậy nữa! Có điều tôi rất khổ về việc này, vì mỗi ngày tôi phải thay 3, 4 bộ đồ - mùa hạ phải tắm 6 lần, mùa đông lạnh cắt da chí ít cũng tắm 3 lần 1 ngày…
* Cậu C. 22 tuổi là quản đốc XN Cưa thuộc công ty Cơ khí (hiện nay thuộc khu vực ngã tư chợ Hiệp Thành)
Đêm C thường xuyên mơ thấy 1 cô gái tóc dài mặc đồ bà ba trắng, người có tật 1 chân. Cô gái dẫn C đi chơi. Một người bạn khuyên: "Vậy là phần âm đó thích mày. Mày lập bàn thờ cô ấy để cô phù hộ cho"
Từ lúc có bàn thờ, đêm nào hồn cô gái cũng dẫn C đi chơi sáng đêm. Hơn 1 tháng sau người gầy rạc hẳn đi, da xanh mét. Đến mua báo tôi thấy C đi lảo đảo, nhìn mặt tôi sanh nghi! Nghe C kể chuyện, tôi xin Điển P.B về cứu, Người bảo: "Đó là vong con quỷ một giò" Rồi P.B chỉ: Chờ tối 9 đến 11 giờ đêm, đem 1 dĩa bánh trái và lư hương, bình bông ra ngã 3, ngã tư đường cúng kiếu, bỏ lại tất cả rồi ra về. Xong thượng hình PB lên thờ (vì C muốn xin thờ PB)…
Tôi tặng 1 tấm gỗ đen khắc hình PB, bảo C để dựng lên đầu giường ngủ. Một tuần sau, C ra tôi kể lại: "Từ ngày thờ PB đêm nào cô ấy cũng về đứng ngoài cửa nhìn ra dáng oán trách lắm! Kế bên có 1 ông mặc quần đỏ cầm roi cứ chực xô vào đánh" - Đến nữa đêm thứ bảy, C ngủ quên quơ tay đụng tấm ảnh PB rơi úp mặt xuống đất. Người mặc quần đỏ xô vào đánh C rất dữ. Cậu C la đến nỗi cả xí nghiệp phải phá cữa vào mới cứu được.
Tôi hỏi lại thì ra C tiếc bình hoa và lư hương đẹp nên không đem bỏ, chỉ để hình PB lên thờ thôi! Phần vong của họ ở trong lư, giờ án Điển PB vào họ sợ, họ quậy là phài - tôi chỉ C về cúng kiếu một lần nữa, từ đó về sau không thấy cô gái trở lại.
Thế mà sau 15 năm, tôi vẫn còn nghe có người nhắc đến con quỷ 1 giò ấy!
Cách đây 5 năm, cậu em của tôi ngủ ngoài tiệm chụp hình, nữa đêm thấy phần âm nhận dạng y hệt như vậy: tóc dài kẹp, áo bà ba trắng dài tay, dài áo, tướng xinh xắn, thanh mảnh, và đặc biệt là có cái chân bên trái bị thọt!
Cách 2 năm trở lại đây, một cô học trò của tôi (học và làm thầy chữa bệnh bằng nhân điện) lại tả là gặp một người y như vậy đi lảng vảng trước nhà. Lúc đó chó trong xóm sủa, tru lên kinh khủng mà cô ấy vẫn đi bình tĩnh như không, cái chân thọt kéo lê trên đường trông thật thương tâm!
Mười lăm năm, và khộng biết còn bao nhiêu năm nữa ở trước mặt, rồi trước 15 năm ấy là bao nhiêu năm, kể từ ngày lìa bỏ cõi thế ra đi, hồn lạc phách xiêu phưởng phất nơi đầu cây ngọn cỏ, lang thang giữa cuộc trần, lẩn lút đi về như khói, như sương...
Thương cho 1 số phận, tiếc cho một linh hồn - khi còn mang hình hài nhân thế, chẳng biết đường tu, chẳng lo gieo trồng quả thiện. Nay mất thân người, hận kiếp nào nguôi?!
* Phần cậu C, do chuyện trên nhận tôi làm chị kết nghĩa, mỗi đêm tụng kinh niệm Phật siêng năng lắm!
Có lần C bị đau mắt đỏ, cả 2 mắt sưng húp và đầy nhữ - tôi xin PB về chữa. Đêm đó C mơ thấy PB Quan Âm về mặc áo lụa trắng rất đẹp. PB nói: "Để ta chữa cho con hết đau mắt nghen!" nói rồi cầm 1 lọ con, trong đó có thứ nước thuốc màu trắng như sữa, đem trút xuống đất. Đỉa ở đâu bò đến rất nhiều len vào hút nước ấy rồi bò lên mặt hút máu trong hai con mắt…
C sợ đến chết khiếp, tỉnh dậy 2 mắt hết đau hẳn và không còn chút di chứng gì!
Cho đến 1 ngày C bảo tôi: "Em muốn cưới vợ, chị xin Mẹ về hỏi giúp em về cô ấy xem sao!"
Mẹ về, cầm tấm ảnh lên ngắm 1 hồi rồi nói: "Già đình đó không ra gì: Cha 2, 3 đời vợ, Mẹ 2, 3 đời chồng. Cô gái đó không còn trong trắng nữa, mở miệng ra thì chửi thề, nói tục. Con lấy nó là chôn vùi đạo hạnh xuống chốn bùn nhơ!"
C bán tín bán nghi vẫn tiến hành đám hỏi, sau đó mấy hôm thì bị trúng gió, tay chân co cứng, tim ngừng đập, sùi bọt mép, xem như là đã chết hẳn rồi. Tôi cấp cứu 15 phút sau thì C sống lại, cả xí nghiệp cưa đều chứng kiến chuyện ấy!
Ngày C đám cưới, tôi được mời đại diện họ nhà trai. Cha vợ của C gọi tôi lại giới thiệu: "Đây là con lớn của đời vợ trước của bác. Đây là con lớn của đời chồng trước của bả đó" C đứng chết trân, mặt tái mét như sắp xỉu!...
Một tuần sau C ra sạp báo ngồi ôm mặt khóc: "Em cãi lời Mẹ, giờ ân hận cũng muộn rồi! Đêm tân hôn cô ấy không còn trong trắng, em hỏi thì cô ấy chửi thề một tiếng rồi nói: "Tao vậy đó, mày chịu không chịu thì thôi"...
* Bẵng đi gần 1 năm, tôi gặp 2 vợ chồng C đi xích lô đạp ngang sạp báo. Tôi gọi lại, lúc đó C bị bệnh sốt vàng da, người chỉ còn bộ xương, bệnh viện không chữa được trả về chờ chết! Tôi xin PB về cứu, Người bảo: "Không nghe lời ta thì chết cũng đừng cầu ta cứu" - Tôi năn nỉ hồi lâu, PB nguôi giận nói: "Giờ Ngọ trưa nay con lên nhà nó, chữa 1 lần hết hẳn không còn triệu chứng!"
Sự thực đúng như vậy. Mãi đến hôm nay C vẫn còn sống và khỏe mạnh bình thường, ở gần nhà tôi...
* Bà Bảy Miết (ở đầu đường vô nhà tôi) đang đi ngã xuống đất xỉu cứng người. Tôi chạy ra cấp cứu, chỉ 2 phút sau bà tỉnh dậy.
* Kế bên sạp báo của tôi có 2 vợ chồng ông H làm nghề sửa xe, vợ mua bán gà vịt ở chợ! Cứ 3 giờ sáng là trở dậy cắt cổ gà, tiếng gà vịt kêu la thảm thiết...
Tôi khuyên mãi bà H không nghe, bởi mê tiền lời lãi nhiều từ mua bán gà vịt – Cản hoài không được, tội thắp hương xin Mẹ về chuyển hóa! Một buổi sáng nọ, bà H sang kể với tôi: "Đêm hôm mơ giấc chiêm bao sợ quá: Đang ngủ chợt nghe 1 luồng gió mạnh cuốn đi. Bay bên trên tôi là một người đàn bà, tôi mừng quá tưởng được đưa về cõi Trên, ai ngờ người ấy đem dúi đầu tôi xuống 1 mảnh ruộng bùn. Còn nói "Mi chừa chưa, chưa tội sát sanh hay chưa?" tội ngộp thở sặc sụa - Bà ấy kéo tôi lên cho thở vài hơi rồi lại nắm tóc, dúi đầu xuống. Tôi cầu xin mãi bà mới buông tha"…
Ấy thế mà bà H vẫn chưa chịu bỏ nghề, bà nói như để ngã giá: "Nếu chị xin Mẹ chuyển cho tôi có nghề làm ăn khác thì tôi không bán gà vịt nữa". Một thời gian sau, bà H hùn với một người bạn mở tiệm bán cơm, sang bảo tôi xin Mẹ cho ngày khai trương và lễ khấn cúng! Tôi giúp bà trọn vẹn mọi chuyện - Thế là gia đình bà H đem cả đồ nghề sửa xe cùng với bình khí đá, các thứ linh tinh trong tiệm để cả sang trước sạp báo của tôi. Rồi âm thanh tiếng nổ máy xe, khói thụt ống pô mù mịt làm tôi đến chết ngộp...
Tiệm cơm bà H mới mở ra đã bán rất đắt, buổi trưa xí nghiệp ở gần đó đổ ra ăn cơm đông nghịt. Tội chịu hết xiết, xin Mẹ về xử chuyện này. Mẹ nói: "Không biết điều thì ta cho dẹp". Từ đó trở đi tiệm cơm không bán được gì cả, độ 10 ngày sau thì dẹp. Không biết bà có oán Mẹ cho ngày khai trương chỉ bán đắt có 1 tuần hay không nữa...
* Vốn bà H có đứa con gái lớn học may xa nhà - Một hôm PB về bảo: "Một năm rưỡi nữa bà nuôi đứa con gái lớn chửa hoang trong nhà". Bà H sợ quá bắt con bỏ học trở về. Thế mà sau đúng 1 năm rưỡi, con bà có thai hoang thực!
Cô bé ấy sang khóc với tôi, đòi đi phá bỏ! Tôi can ngăn xong rồi đứng ra dàn xếp, mượn quyền lực Bề trên xui bà H cho cưới gả...
Bà H nghe lời, tổ chức đám cưới! Sang báo với tôi ngày giờ đàng trai sẽ sang rước dâu. Điển trên ứng về báo: "Sáng ngày hôm đó ông chủ nhà sẽ quậy và đập phá tan hoang đám cưới". Bà H khóc, năn nỉ xin Mẹ cứu! PB bảo: "Sáng sớm trước 7 giờ dâng 1 bình hoa huệ và ngũ quả lên bàn tròn lớn để ở giữa nhà, khấn xin PB ta về cứu cho"
Sáng sớm hôm ấy, bà H chạy sang mượn bình hoa huệ tôi vừa mua về, chưa kịp dâng hương đem về cúng lễ Phật.
Một lúc sau ông H cũng la hét om sòm trong nhà, đập vài cái chén rồi thôi - Ấy thế mà bà H vờ quên luôn bình hoa, 1 tuần sau tôi sang đòi bà đưa trả tôi cài bình không…
* Một lần nọ Mẹ Q.Âm lại bảo: "Từ đây đến rằm tháng bảy chồng bà bị người ta đánh lỗ đầu". Bà H lại năn nỉ xin cứu và hứa ăn chay hết tháng bảy để giải nạn! Đúng chiều 14, ông H đang đứng sửa xe máy thì có 1 đám đông thanh niên say rượu đánh nhau chạy vào nhà - Một người chui sau lưng kéo ông H làm bia đỡ đạn, còn 1 người khàc thì cầm cây gỗ đầu vuông bổ xuống đầu ông H. Đánh trợt bị mọi người tréo tay đưa ra ngoài...
Xưa nay vẫn thế, lời tiên đoán của Bề trên chính xác lắm. Nhưng nếu chủ nhân van cứu, sự việc vẫn "tuần tự như tiến", có điều không xảy ra chấn thương gì nặng nề!
* Lại có lần PB bảo: "Cái bình khí đá này sắp nổ và sẽ có thương vong đây". Bà H lại xin cứu, sau gần 10 ngày bình khí đá nổ thật! Một buổi trưa chung quanh đang yên ắng bỗng nghe 1 tiếng nổ kinh hoàng, lại thêm 1 điều kỳ diệu nữa là không có ai bị tai nạn gì!
* Ông H bị lên cơn suyễn, ba hôm liền tôi đi qua đều thấy ông ngồi thu mình trong 1 góc mùng kín. Tôi hỏi mới biết là ông H bị lên cơn suyễn đã hơn tuần rồi, không ăn uống và cũng chỉ ngội chịu trận chứ không nằm xuống được. Tôi sang nhà, xin Điển rồi chữa có 1 lần đầu tiên đã thấy ông H ngồi dậy được, ra ngồi uống cà phê nhìn tôi cười chào!
* Giữa tháng 5/1995 tôi đang có thai cháu thứ ba, PB hứa cho tôi nghỉ để dưỡng thai. Lúc đó đột ngột bà H bị đau nhức ngay cổ tay bên phải (bàn tày cầm dao cắt cổ gà). Nhức từ sáng sớm đến lúc nửa đêm, nhức kinh khủng đến nỗi đã chích 3 mũi thuốc giảm đau mà chẳng tác dụng gì!
Đến hơn 12 giờ khuya nghe bà thét lanh lảnh: "Đem con dao đây, chặt bỏ ngay tức thì, chứ không đau đến chết mất". Cầm lòng không đậu, tôi trở dậy sang nhà bà H xin PB về cứu! Tôi không dám truyền điện, chỉ cầm lấy bàn tay đau và cầu xin PB về, Người đứng ở cửa buồng nhẩn nha nói: "Ta kể chuyện cổ tích cho bà nghe nhé! Ngày xưa ở bìa rừng nọ có gia đình ông tiều phu rất nghèo, có 3 cô con gái. Ngày nọ 1 vị chúa Quỷ giả dạng đến xin trọ lại một đêm. Sáng hôm sau hắn thuyết phục người cha cho 3 con quỷ trú ngụ trong nhà, đổi lại sẽ ban cho toàn gia giàu có, tiền muôn bạc ức...(tôi phải xin lỗi các bạn, chuyện này kết như thế nào tôi quên mất rồi) chỉ biết rằng PB kể vừa xong, bà H hết đau ngay lập tức!
Thế nhưng vài năm sau tôi vẫn còn thấy bà H ngồi chợ bán gà vịt. Phải công nhận là lòng tham lợi đáng sợ thật!
9. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY
Đã nhiều lần ông Điền (ba Tí Ti) kiếm chuyện gây và cấm không cho tôi chữa bệnh cho mọi người nữa: "Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng! Từ nay tôi cấm cô không được chữa bệnh cho ai nữa. Nếu không đừng trách tôi". Tôi lại cầu cứu PB, Người bảo: "Để ta trị cho nó biết tay" Một buổi sáng, ông Điền bảo: "Chết rồi em ơi, trĩ nó lòi ra 1 khúc" (vốn ông Đ bị trĩ nội bao nhiêu năm rồi vẫn hay ra máu - Là Đại úy lái xe, nghề tài xế sợ nhất là trĩ ngoài, bệnh này mà ngồi lâu thì đau đớn lắm! Tôi bảo: "Anh phải thề là từ nay không bao giờ cấm tôi chữa bệnh nữa, tôi làm cho nó thụt vô sau 15 phút". Ông ấy thề, nằm xuống cho tôi bấm huyệt, vừa xong trĩ đã thụt vào như cũ và không bao giờ lòi ra nữa…
Giữa năm 1991, PB về bảo với tôi: "Một năm rưỡi nữa con ly hôn với chồng và gần như ngay lập tức con lại lấy chồng khác, đó là Định mệnh". Tôi khóc lóc, cầu xin, PB bảo: "Không được! Nó làm trở ngại công việc của con. Nó là ma quỷ tà mị, con không chung sống lâu với nó được"... Tôi nghe đó rồi lại quên đi! Mãi về sau không chịu nổi tính càn quấy và trăng hoa của chồng, tôi đưa ra tòa ly hôn…
Ngày tòa xử là trọn 1 năm ba tháng sáu ngày PB về báo! Lúc ấy tôi như kẻ vừa được thoát khỏi địa ngục sau 10 năm giam cầm, sung sướng tưởng chừng như con chim được sổ lồng vậy…
PB về tôi vừa khóc vừa cười: "Mẹ ơi! Con thoát nghiệp rồi" PB buồn hiu, nói "Con mừng chứ ta không mừng, còn 3 tháng nữa mới mãn số - Ba tháng trả bằng 3 năm nghe con".
Ông Điền vì oán hận, truy đuổi và làm nhục tôi mọi lúc mọi nơi. Tôi đành nhắm mắt bước đi bước nữa với người đàn ông vừa mới quen biết qua loa…
Ngay ngày đầu tiên tôi quyết định, PB nhập vào tôi nói với người chồng mới như sau: "Lan nó còn nhiều bổn phận và trách nhiệm với đời. Nếu hai đứa lấy nhau con phải hứa là không ngăn cản nó, nếu không ta cắt đứt". Tôi còn nhớ hôm đó PB nói mà bàn tay ra dấu oai phong lẫm liệt: "Trong tay ta Càn Khôn nắm lại, trong tay ta Nhật Nguyệt bừng soi..."
PB lại nói với ông H như sau: "Phần Linh căn của con là Thần Võ, lại là thần ở vùng núi trọc nên tính khí nóng như lửa. Đêm nay ta sẽ làm tái hiện tiền kiếp của con cho con xem"
Gần nửa đêm ông H đang nằm trên giường vụt chỉ tay vào vệt sáng màu đỏ từ bóng điện trên bàn thờ PB hắt lên nóc nhà nói: "Em có thấy vệt sáng kia không? Anh thấy nó y như màn hình ti vi đang chiếu nhiều cảnh kỳ lạ quá". Tôi hỏi và ông H kể: "Có 1 người đàn ông mặc áo bằng da thú, cầm cây lao, đang đánh nhau vời 1 nhóm người khác. Rồi người đàn ông đó bị đâm ngay tim ngã xuống, máu ra nhiều lắm. Rồi...nằm im rồi... chết rồi!..."
Nằm im lìm độ 1, 2 phút ông H lại nói: "Nữa kìa, anh thấy nữa kìa! Bây giờ là 1 cậu trai trẻ mặc sơ mi trắng, quần tây xanh, chắc là sinh viên, đang leo đứng trên 1 sạp bán đồ giữa chợ diễn thuyết. Người ta bu đến nghe đông lắm! Có 1 ông sĩ quan nấp đằng sau 1 người đưa súng lên nhắm bắn - súng nổ, mọi người chạy tán loạn, chàng trai ngã xuống nằm im bất động. Chết rồi, chết rồi..."
Lúc đó ông H như rơi vào cơn mê thiếp nói lảm nhảm y hệt người lên đồng - Tôi sợ quá ôm gối rúc vào 1 xó tường, không dám lại gần!
Ông H kể lại cả thảy 5 tiền kiếp của mình, tôi chỉ nhớ được có 3, chuyện cuối cùng như sau: "Có 2 đội binh đánh nhau bằng cung kiếm. Đội nào cũng giáp trụ, mũ miện đàng hoàng! Có một viên Tướng trẻ mặc giáp trụ màu vàng, cỡi con ngựa trắng rất đẹp, đôi giày cũng mạ vàng nữa. Viên Tướng trẻ rất dũng mãnh, một mình tả xung hữu đột, rồi lạc qua vùng địch - bị cả đội quân vây đánh, Tướng ấy đánh trả rất dữ! Có 1 tên đâm 1 gươm vào bên hông. Viên Tướng ấy ngã xuống, 1 chân bị vướng lại, con ngựa lồng lên chạy kéo lê vị Tướng dưới chân. Rồi... chết rồi, máu chảy ướt cả áo giáp rồi kìa"…
Sau lần tái hiện tiền kiếp này, ông H nhắm mắt, rơi vào cơn mê rồi ngủ luôn tới sáng!
Vốn ông H là người đạo Tin Lành, không cùng nhánh Đạo, thế mà PB chuyển được "thần thức" của ông ày. Quả thực là huyền nhiệm!
10. LIÊU TRAI TÂN THỜI (2)
Kể từ rằm tháng 10/1991 phần trần xác của Tất Đạt Đa về cùng tôi! Ngay đêm đó tôi mơ thấy 1 giấc mơ lạ: Tôi thấy mình cùng 1 người thanh niên mặc áo sơ mi trắng quần Âu đen mang giày Tây, áo cài kín cổ và tay – Tất cả bộ lệ trên người đều thẳng thớm, cứng ngắt và nghiêm chỉnh, kiểu ăn mặc cổ kính, thiếu tân kỳ!
Tôi thấy 2 người cùng đi trên một chiếc xe mui trần, kiểu có lẽ còn cổ xưa hơn quần áo của chàng trai nọ: Tay lái gắn vào 1 cái cần sắt, 2 bàn đạp cũng như pêdal xe đạp, chắc là loại xe thời "tiền chế".
Đến một nơi như dinh thự sang trọng, có một người phụ nữ đưa ra rất nhiều cô gái đẹp, rõ ràng là để người nam "lựa chọn". Người đàn bà ấy giới thiệu những cô đẹp và nổi bật nhất! Chàng trai lặng lẽ ngắm xong, mỉm cười chiếu lệ rồi vẫy tay chào, quay ra nắm chặt tay tôi, y như bảo: "Tôi chọn cô gái này" xong bảo: "Ta đi thôi". Có thế, tội giật mình tỉnh dậy!
Tôi vẫn còn nhớ trong giấc mơ tôi chỉ là 1 cô gái quê mùa, mặc áo bà ba trắng quần đen, tóc thề bỏ xõa! Có lẽ "Điển ông" đang muốn tỏ cho tôi biết rằng tôi được ông ấy chọn, thay vì những cô Tiên ở tận cõi trời kia. Quả là "vinh dự" thay cho kẻ phàm nhân...
Từ dạo ấy trở đi "Điển ông" thường xuyên đưa linh hồn tôi đi đó đây, điều đặc biệt là đi lúc còn thức, hoàn toàn tỉnh táo và có lý trí, chứ không thụ động như trong giấc mơ!
Tôi kể lại các đợt xuất hồn của tôi cho các bạn nghe nhé!
* Đang nằm lơ mơ chuẩn bị ngủ, tôi chợt nghe thấy cả người mình bốc bay lên! Ông bay trước kéo tôi theo sau lưng (chỉ đứng mà lướt gió, chứ không bay như cánh chim). Gió lạnh rít lên bên tai, tôi sợ quá bật lên tiếng la, ông bảo: "Đừng sợ, có anh đây, anh đưa em đi chơi!". Độ chừng 5 phút, ông dẫn tôi hạ xuống, tôi thấy mình đang đứng giữa một khu rừng già. Anh trăng chiếu lấp lánh trên những tàn cây cao… Dưới chân tôi, thật nhiều lá rơi, đi lún cả bàn chân, tôi lại thấy trên những phiến đá rải rác dưới các gốc cây có vài người ngồi xếp hàng im lặng, cả người như chỉ còn bộ xường khô! Tôi thốt lên: "Ma kìa!". "Không phải đâu, các vị Thiền sư tu theo phái ép xác đó, đừng làm phiền họ". Rồi ông bảo: "Đây là rừng Tây Tạng, đi lại đằng kia xem". Tới một chỗ, tôi thấy có mấy chiếc quan tài để trên mặt đất, có 1 đoàn binh lính Triều đình và 1 vị đội vương miện trên đầu. Vị ấy bước tới chỉ cây phương trượng đang cầm trên tay vào từng chiếc quan tài một! Bỗng nhiên, nắp hòm bật lên, xác người đứng dậy bước ra, đôi mắt đứng tròng, tay chân bước đi hệt như tượng gỗ - Những người lính bước tới khiêng từng súc cây rừng để trên vai, hai người một cây và họ bước đi từng đôi một, không hề lên tiếng nói, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo dẫm lên lá rừng...
Tôi sợ đến muốn chết ngất. Ông siết tay tôi và nói: "Anh cho em thấy cảnh các vị Pha-ra-ông ngày xưa và tục ướp xác để phục vụ cho họ như vậy đó ".
Có điều kỳ lạ là những người ấy chừng như không hề nhìn thấy chúng tôi, y như chúng tôi là "kẻ tàng hình" vậy!
Rồi ông dẫn tôi đi tiếp, đến 1 quãng trống đất sạch trơn, không có 1 chiếc lá rơi, y như có ai đó vừa quét dọn vậy.
Ông đứng ra ngay giữa trảng trống, tôi đứng kế bên. Chợt nghe trên đầu mình đâu đó giữa từng không vang lên tiếng một dàn đồng ca, tiếng thánh thót nghe rất hay. Tôi cố lắng nghe, những ngữ âm hoàn toàn xa lạ, tôi chẳng hiểu được gì!
Có một đoàn các vị Thiền sư phương phi đạo cốt, đầu cạo trọc vai đắp y vàng chắp tay, lặng lẽ đi tới, dạo một vòng quanh chung tôi – rồi một vị lớn tuổi nhất đi tới trước mặt Ông quỳ gối xuống 1 chân cung kính nâng lên ngang đầu một cây phương trượng bằng vàng, giống như đã thấy trong tay "Trần Huyền Trang" (phim "Tây Du Ký")
Ông cầm lấy, chống xuống đất một cái! Vị lão sư đứng lên cung kính chắp tay xá xong đi giật lùi trở ra nhập vào hàng diễu hành thêm 1 vòng nữa rồi rẽ vào rừng sâu đi mất. Ông đưa tôi về nhà...
Tất cả những việc này tôi thấy trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức và đương nhiên bằng con mắt của tâm linh!
* Có lần tôi đang ngủ ngon, chợt nghe có 1 luồng gió mạnh cuốn bay đi, hất tôi xuống đất ở đâu đó! Khi té đau lồm cồm ngồi dậy là lúc tôi giật mình tỉnh giấc, và tôi lại tiếp tục cuộc du lịch kỳ thú trong mơ, cuộc du lịch bằng tâm thức…
Tôi ngồi dậy, phủi cát dính trên mặt mũi, áo quần, có 1 vị sư nữ từ đâu hiện ra bước tới hỏi tôi: "Thí chủ đã tới đây rồi. Đây là cõi Trên. Thí chủ muốn ở lại đây bao lâu - Nói mau!". Tôi lắp bắp: "15 phút". Xong sực nghĩ: 15 phút thì ít quá, lại nói: "30 phút, 30 phút" - "Người được chuẩn y, đứng lên đi"!
Vị sư nữ ấy dẫn tôi đi qua 1 cây cầu nho nhỏ, màu trắng y hệt như làm bằng bông gòn hay bông tuyết vậy. Tôi sợ chẳng hoàn hồn, bước đi cứ bập bềnh như người say... Qua khỏi cầu tôi thấy trước mặt là một khu rừng chắn lối – chợt lại thấy từ đâu xuất hiện những ông lão râu dài tới gối, cả người chỉ bé độ chừng cao hơn đầu gối ta 1 chút! Họ cầm rìu, ra bộ như chặt cây, thế là cây rừng ngã dài xuống xếp thành đường đi dưới chân tôi...
Đi một đoạn, tôi lại thấy mình đang men theo 1 bờ suối trong vắt, nước chảy róc rách dưới ánh trăng nghe rất êm tai - Tôi nhìn thấy chung quanh mình toàn là hoa tím, vàng, xanh, đỏ nở ra từ những cây cỏ dại bên đường, bé xíu xiu và nhiều như trải thảm, tiếng chim hót trên tầng cao đâu đó, âm điệu nghe thật du dương!
Rồi tôi thấy một cánh cổng màu nâu xỉn tựa như màu rỉ sét. Tôi nghĩ trong đầu: "Cõi Trên gì mà cửa bằng sắt rỉ thế này" Ni sư bật cười, như nghe thấy lời tôi, Người nói: "Mã não đấy, mã não xám", tôi sờ vào đúng là bằng đá, mát lạnh!
Bước qua cửa, tôi thấy một căn phòng rộng mênh mông trần thật cao với những cây cột to bằng 1 vòng ôm toàn bằng đá cẩm thạch.
Chính giữa phòng có 1 chiếc ghế nạm rồng phụng rất đẹp. Ni cô sờ tay vào những hoa văn, chỉ tôi: "Đây là Hồng ngọc, Lam ngọc, Bạch ngọc..." Toàn bộ căn phòng chìm trong bóng tối, chiếc ghế phát ra thứ ánh sáng chập chờn kỳ ảo, nửa hư nửa thực của những vàng, ngọc nạm trên mình... Tôi thấy có 1 bóng đen đi lướt qua trước mặt, ngồi vào ghế, rồi nói: "Phật Bà Quán Âm đây. Con niệm Quán Âm xin hiến hiện cho con thấy mặt đi". Tôi niệm xong, thấy từ trên cao có nhiều tia sáng nhoáng nhòang bổ xuống ghế ngồi thoáng chốc rồi tan biến. Niệm 3 lần như thế vẫn không thấy được gì! PB nói: "Con chưa có huệ nhãn, thôi để lúc khác vậy".
Đột nhiên trước mặt tội, từ xa trôi tới, trụ lại một giây trước mặt rồi biến mất, cả thảy 4 lần, 4 khuôn mặt Quỷ ác nhe nanh, lè lưỡi dọa nạt tay cầm giáo mác trông rất khủng khiếp! Tôi bịt hai tai lại thét lên, nhưng hình ảnh ấy vẫn "tuần tự như tiến", giống như một lập trình đã có sẵn vậy…
PB nói: "Con có biết ai đó không? Tứ Đại Thiên Vương hầu bốn bên Phật Tổ đó" - Tôi vốn lì lợm, bướng bỉnh lắm, vội hỏi: "Tứ Đại Thiên Vương mà là 4 con quỷ sao? Họ để làm gì vậy, PB?". Người trà lời: "Họ là những vị quan hành xử, mỗi vị một phương. Con tưởng nhà Phật chỉ có cứu độ thôi sao - Nhà Phật cũng y như một vương triều, có ban ân phúc và có cả trừng phạt nữa".
Rồi PB dẫn tôi ra phòng sau, tôi thấy sát vách là một phản gỗ màu đen bóng loáng, trên đó có 1 cái gối cũng bằng gỗ y như vậy! PB nói: "Ngài Thích Ca ngự tọa ở nơi này"... tôi ngạc nhiên: "Nằm trên gối bằng gỗ như vậy sao?" PB chỉ ừ một tiếng, không nói gì nữa!
Tấm phản thấp chỉ cách mặt đất chừng 2 tấc, ngang độ 1 thước, dài chừng 2 thước. Trông bé xíu, lọt thỏm giữa căn phòng rộng.
PB lại bảo: "Về thôi con, mất ngủ hết đêm rồi đó" Thoát cái, lại thấy tôi nằm trên giường như cũ...
Sáng hôm sau, tôi kể cho cậu Công nghe (người tôi đã nhắc đến vào đoạn trước). Công bảo tôi đóng cửa sạp báo nghỉ bán, dẫn tôi xuống chùa Vĩnh Nghiêm, nơi có tượng Thần Hộ Pháp!
Công không nói gì, đưa tôi lên lầu 1 đi bằng cửa sau, vào Chánh Điện dâng hương xong tôi sung sướng trầm trồ ngắm mãi những tượng Phật rất đẹp ở đây. Công đưa tôi đi vòng ra phía trước, vừa nhìn thấy 2 bên chính diện là tượng 2 vị thần hộ pháp thật cao to, tôi đã sợ đến khuỵu chân không đi được nữa, tôi la lên: "Đúng rồi, đúng 2 ông đó rồi C ơi". Tôi gần như xỉu đi, C phải dìu tôi chạy nhanh, xuống tới dưới đất còn chưa kịp hoàn hồn!
Tôi phải xấu hổ mà nhận rằng: mặc dù gốc nhà đạo Phật, tôi vẫn không biết gì về các sự tích hoặc Kinh sách nói về Phật Đạo. Và cũng xin mở ngoặc ra đây để giải thích với bạn đọc rằng: thời gian đầu tiên "Điển trên" ngự về với tôi (Tính ra gần 15 năm) Huệ nhãn chưa phát, con mắt tâm linh của tôi cũng chỉ thấy những gì Điển đưa tới cho thấy! Vì vậy ngay cả quang cảnh "cõi trên" tôi cũng chỉ được nhìn thấy hạn hẹp vài cảnh, chứ không nhận biết được toàn bộ chung quanh.
* Có lần nửa đêm giật mình thức dậy, tôi lờ mờ thấy như mình đang đi trên một mặt sàn bằng tre nứa gập ghềnh và bồng bềnh rất lạ! Ông dẫn tôi đi về phía trước, chạm tay vào 1 lan can bằng gỗ. Lúc đó ánh trăng chiếu thấp thoáng cho tôi thấy 1 căn nhà sàn, nói đúng hơn là 1 khoảng sân rộng de ra nằm trên mặt nước một dòng sông đang chảy! Dòng nước đang độ sung mãn tràn trề cuồn cuộn chảy qua, trên đầu tôi có 1 tán cây Bồ Đề rất to, những chùm rễ lớn buông từ trên cao xuống đong đưa như những con rắn đang múa. Ánh trăng chảy quã từng kẽ lá lao xao, chiếu thành những vệt sáng lấp loáng trên mặt nước như đang nhảy múa, vươn dài ra rồi thu ngắn lại, chập chờn...
Ánh trăng như dát bạc trên ngọn sóng vỗ vào chân cột nhà sàn, chạm vào rồi tóe ra như muôn ngàn vì sao nước lung linh...
Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, tưởng chừng trong thoáng chốc có thể giật tung, cuốn trôi cả mặt sàn cùng những gì trên đó, tôi sợ hoa cả mắt, la lên: "Đưa em đi khỏi đây mau, em sợ lắm". Ông lại dìu tôi bay lên, thoáng chốc đã thấy mình trở về nằm trên giường như cũ...
ll. RỬA XÁC (2)
Giai đoạn này là lúc tôi bị hành căn khủng khiếp nhất (dài gần trọn 20 năm). Phải nói là tôi không hề muốn nhìn lại bao giờ! Nhưng vì tôn trọng sự thực, tôi xin phép chỉ kể lướt qua... Nếu không có 2 năm trở lại đây được giảm về mọi mặt: cả về thể xác lẫn tinh thần cũng như hoàn cảnh sống thì có lẽ chẳng bao giờ tôi có can đảm nhìn lại đời mình - Cơn ác mộng 20 năm rồi sẽ chìm vào quên lãng. Giống như hạt bụi kia rơi xuống từ thiên hà, cọ xát cùng cát bụi dương trần ố lem, trộn lẫn hay dúi dụi vào 1 góc kẹt nào đó giữa cuộc đời, chẳng còn lại lấy một âm vang...
Gần 50 năm, hơn nửa kiếp sống con người chỉ còn lại ánh chiều vàng qua song cửa, nhìn lại đời mình tôi chẳng biết nên cười hay khóc! Nước mắt khô mất rồi qua bao hố thẳm nhân gian – Vẫn còn cháy đâu đây ngọn lửa Huyền Môn lặng lẽ soi tận cùng những nỗi đau thương và niềm bất hạnh. Còn nguyên bàn tay cứu sinh vô hình mà Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi! Và vẫn còn nguyên một tôi làm chứng cho 2 sức mạnh: Sức mạnh của sự cứu rỗi và sức mạnh của sự tàn phá chẳng nương tay!
* Tôi hay bị nhức đầu, nhức như có ai đó cầm cây kìm to kẹp vào hai bên thái dương. Đến ngày thứ ba thì hai mắt đổ hung quang, nhìn một thành hai! Không uống thuốc còn đỡ, càng uống càng nhức muốn chết được, chừng 10 ngày thì dịu lần, đến nửa tháng thì hết hẳn.
* Tôi từng bị viêm khớp bàn chân trái trong 2 năm rưỡi: lúc thì đau lặng lẽ, lúc lại sưng to và nhức đến nỗi chỉ muốn chặt bỏ cho nhẹ mình – Đủ thứ thuốc men, bệnh viện Đông Tây y rồi vật lý trị liệu, cao hổ cốt, thuốc thang, thuốc rượu... Đau vẫn hoàn đau! Cuối năm 1987, tôi đành phải xin nghỉ dạy ở nhà. Cũng chẳng nhớ bệnh hết từ lúc nào, chỉ biết là cho đến tận bây giờ không hề phát đau lại...
* Năm 1982 tôi được cử đi học khóa Hiệu trưởng 1 năm. Nhà nghèo, 5g 30 sáng phải trở dậy đạp xe cọc cạch từ Tân Thới Hiệp đến tận Đinh Tiên Hoàng SG để học, trưa 12 giờ lại đạp xe về! Cuối năm học tôi bị trúng mưa viêm phế quản đúng 3 tháng rưỡi. Ho liên tục cả ngày lẫn đêm, đêm không ngủ được, để 1 chiếc gối trước ngực dựa vách ngồi chịu trận và ho!
Trường cho phiếu đi xét nghiệm đờm, nghi bị ho lao - Tôi không đi vì sợ phải đối diện với sự thật mình sẽ bị tuyệt vọng - Sau 3 tháng rưỡi hết ho! Từ đó trở đi mỗi tháng 30 ngày tôi cảm hết 28. Viêm phế quản trở đi trở lại, tiếng lúc nào cũng khàn. Chích Streptomicine miết rồi 2 mông chai cứng cả dề, ngồi đứng cũng đau…
* Đầu năm 1994, tội bị 1 cơn viêm phế quản nặng, sốt và rét liên tục! PB về bảo: "Con đừng điều trị hay thuốc men gì, ráng chịu đau đi, ta cho cắt cơn vĩnh viễn". PB nói thì đừng có cãi, cãi là bị đòn chết thôi! Tôi không điều trị nữa, tối ngày hết sốt lại rét, ho ra đờm xanh tanh tưởi và thối như mùi cá chết...
Xong trận viêm đó quả nhiên là đến tận giờ (14 năm sau) tôi chưa hề bị viêm phế quản lại lần nào nữa!
Bù lại tội bị giãn phế nặng - khí phế nghẽn, bị lên cơn hen và khó thở thường xuyên. Tim lúc thì loạn mạch, lúc lại nhảy điệu rock lên đến một trăm, trăm mốt nhịp! Huyết áp lúc lên 14, 15 – nhức căng cả đầu, khi hạ còn 10/8 chóng mặt buồn nôn...
* Từ năm 1994, sau khi cắt cơn viêm phế quản, tôi đổi sang rối loạn tiền đình! Mỗi cơn như vậy kéo chừng hơn 2 tháng - Cho tỉnh táo hoàn toàn, nghỉ dưỡng sức chừng nửa tháng hoặc mười ngày lại bị tiếp trận kế, đến tận giờ phút này (sau 14 năm) cơn rối loạn tiền đình 10 phần chỉ còn lại 2 hoặc 3!
Cứ bị chóng mặt buồn nôn, y hệt như say sóng, trời đất quay cuồng, hễ day trở là dội lên cơn buồn nôn hoa cả mắt. Ánh sáng giữa ban ngày những lúc ấy tôi thấy màu khói xám như trời sắp trở mưa - Chỉ có 1 điều lạ là tôi chưa hề bị nôn lần nào! Và khi cơn hết thì cứ y như có ai cắt đi tấm lưới màu trên đầu, mọi vật chung quanh sáng rực rỡ như bầu trời sau cơn mưa vậy…
Tôi nghèo lắm, bạn ạ - Một thân một mình nuôi 3 đứa con, lại bệnh hoạn hoài như vậy phải nói là cực hình, vì bản thân tôi làm gì có tiền điều trị! Đau hết chịu nổi thì ra tiệm thuốc tây mua vài viên giảm đau, uống được vài hôm hết tiền lại nghỉ, để vậy mà chịu trận, bao giờ hết thì thôi - Không giỏi làm ra tiền, nhưng tôi giỏi nhịn chịu lắm! Miếng thịt miếng cá kiếm được giành hết phần con, bao giờ chúng ăn no, phần thừa mới đến mình – Cả đời tôi, tôi thường tự hào khoe là chưa hề biết thèm hay nghiện một thứ gì, tôi chỉ cần ngồi nhìn các con ăn là cũng no rồi! Tôi hay bảo: "Sao đàn ông yếu đuối quá vậy. Không nghiện thứ này thì thứ khác - Tôi có thì ăn, có thì mặc không có thì thôi, chẳng biết nghiện bao giờ!".
Thực ra mình chỉ giỏi khống chế chính mình thôi, phải không các bạn? Giống như ai đó đã nói: "Người ta nhổ vào mặt kẻ hèn nhát, hắn nói "trời mưa"!"
* Cuối năm 1998, tội bị loạn mạch tim - Tim thường loạn nhịp, cơn kịch phát tay chân ríu lại, cứng cả hàm! Đang đi té vào tường, đang cầm chén cơm ăn ríu tay là chén cơm rơi vỡ tan tành…
Mỗi lần lên cơn, tôi thuê xe ra BS Cự -Trần Hoài Cự! Ông chỉ châm cứu xong, tôi đứng lên là khỏe mạnh bình thường trở lại, như chưa hề biết mệt bao giờ!
BS Cự là BS trưởng khoa ngoại bệnh viện 175 đã về hưu. Duyên lành xui cho tôi gặp vợ chồng BS – Thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi, anh chị Cự nhận làm em kết nghĩa và chữa bệnh, cho thuốc không lấy tiền...
Có lần chị Cự vào nhà, thấy tôi bị bệnh cúm sốt nằm mê đã ba ngày không ăn uống và chẳng có viên thuốc điều trị nào, chị vừa lầm bầm cuốn mùng mền mở cửa dìu tôi ra nhà chích thuốc, vô đạm xong trả về! Trong những lúc bệnh hoạn ngã lòng được một chút sự quan tâm chăm sóc tôi mủi lòng đến rơi lệ. Má và các em tôi ở kế cận, nhưng chẳng ai biết rằng tôi bệnh và bệnh đến cỡ nào! Nó bệnh tưởng thì có - cái mặt lúc nào cũng tròn đầy, phốp pháp thế kia mà cứ than bệnh là sao?
Tôi hay nói: "Mẹ đánh con không để lại dấu tích". Nhìn bề ngoài, đố ai biết rằng tôi đang bệnh! Nằm mê mê trên giường, có ai đến là tôi chỉ cần chỗi dậy, rửa mặt, rữa tay xỏ bộ đồ dài vô ra chữa bệnh, đâu ai biết khi họ ra về tôi lại vùi mình trên giường trong cơn mê thiếp rã rời...
Anh chị Cự hay nói: "Đừng ngại gì cả, em chữa bệnh cho người có lấy tiền ai đâu. Anh chị giúp em khỏe để em cứu người, anh chị cũng được phúc"
Thế nhưng ngại làm phiền anh chị Cự, hán hữu lắm những khi anh chị vào thấy tôi bệnh nằm, còn không thì tôi giấu biến. Điện thoại vào hỏi thăm, tôi nói: "Em khỏe re!"
Những trận bệnh như vậy đều nặng và lâu đến nỗi lúc nào tôi cũng chán đời đến cùng cực và chỉ muốn được chết, đó như là một giải thoát, một cứu cánh! Cho đến tận giờ phút này, tôi vẫn không hề thấy luyến tiếc cõi trần này chút nào, và luôn muốn rời nó ra đi - Thiên đàng hay Địa ngục đối với tôi chắc cũng chẳng có nơi nào đáng sợ hơn cõi Người này!
Thôi! Ngưng "ta thán" ở đây, tôi lại kể hầu bạn chuyện của tha nhân - Xem như nhấp ngụm trà thơm buổi sáng, lấy một chút ấm nồng xua băng giá mùa đông...
12. THỰC HÀNH CỤ THỂ (3)
* Chị Hoa (con bà Hai) ở gần chỗ tôi bán báo. Một buổi sáng chị tới nhờ tôi coi xem tại sao dạo này trong nhà "loạn đủ điều" (theo lời chị nói)
PB về bảo: "Nhà cô có một người nam chết vì bệnh dữ, thành quỷ về quậy trong nhà, nhập vào đứa em trai bị thọt chân. Hiện âm vong đang ở sau nhà tắm, chỗ có cây gì cao lúp xúp đang có trái!: "Hèn nào thằng Bình nó thấy gì đó, về đòi chặt bỏ cây ổi. Mà chị không chịu, vì cây ổi xá lỵ mới ra trái chín ngon lắm".
Chị H nói chị có người anh trai chết vì bệnh thủy trướng, từ đó chị H ăn chay trường và tu tại gia đến giờ - Rồi chị bảo: "Thằng B từ trước giờ rất ngoan. Nay thì quậy phá đủ kiểu. Còn dám bóp cổ Má lấy tiền đi chơi nữa chứ! Mỗi buổi tối hễ chị tụng kinh thì B bỏ nhà đi chơi, tụng kinh xong nó mới về ngủ". PB dạy cho cách nhận diện âm vong: "Tối nay, đợi đến lúc B về nhà chui vô mùng ngủ, cô lại lấy Chú Đại Bi ra tụng nữa, rồi sẽ biết!"
Sáng hôm sau, chị H ra kể chuyện đêm qua làm y lời PB dặn. B đang nằm trên giường thét lên: "Chị điên sao mới tụng kinh rồi giờ tụng nữa vậy?". Chị H không thèm trả lời - thế là B trùm mền kín mít, rên hừ hừ và lăn lộn trên giường, độ 15 phút chị H sợ quá không tụng chú nữa, B mới nằm im! PB dạy: "Lấy tấm hình thờ của người cha để nằm đè lên hình người anh, vong đứa con không xuất ra để phá được, xong lập bàn hương án dưới gốc cây ổi, xin phép thỉnh tấm hình PB đang thờ ra để đó tụng 3 thời Chú Đại Bi, PB ta về giải vong cho... Tụng kinh xong xịt dầu thơm tẩy trần để lên bàn thờ như cũ". Từ đó trong nhà yên ổn như xưa…
* Có một chị tên là Thảo, vợ của một ông chủ trại cưa (nghe đâu ở Xóm Mới - Gò Vấp). Chị giận chồng xách túi lên ở nhà bạn. Chị T bị bệnh gì không biết đã 3 ngày nay, trên hai cánh tay và chân các mạch máu nổi gồ lên khỏi da, bầm tím, giống in như con đường những con giun đội đất lên mà đi, trông thấy mà bắt rùng mình! Tôi trị cho chị đến ngày thứ ba thì hết hẳn - Chị T buồn khóc kể chuyện nhà. Tôi ứng miệng nói: "Có hộc tủ ở ngay bàn thờ ông Địa, tiền bạc để ở đó coi chừng mất. Còn nữa, chị đem túi xách của mình để qua bên kia đi! Tiền bạc mang theo nhiều quã lỡ mất ở đâu tôi bị mang tiếng". Chị T phải nhận là đúng và cảm ơn rối rít.
* Phong, em trai thứ năm của tôi bị chạm xe – Cả phần ngực trái sưng lên đỏ bầm, khó thở! Tôi chẩn xong bảo: "Chỉ bị phần mềm, không ảnh hưởng cơ quan nội tạng. Đi BV làm xét nghiệm lại cho chắc ăn". Quả thật, BV cũng kết luận y như vậy. Tôi chữa 6 lân (4 ngày) hoàn toàn trở lại bình thường!
* Năm 1990 có cô gái tên K, người Tàu lai ở gần nhà của tôi, thường hay sang chơi và tâm sự - Cô nói: "Nhà em có một xưởng dệt bị phá sản, ba mẹ em buồn chỉ muốn chết! Em quyết định lấy một người không yêu làm chồng để "bù của" cho nhà em. Anh này giàu lắm, có trại bò sữa hơn trăm con, chị xin PB về hỏi giúp cho em chuyện này xem sao".
PB về nói: "Ta soi căn tiền kiếp cho cô biết nha! Trước cô là một người đàn ông họ Mạc ở tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc. Người ấy có tội tư thông với vợ của người bạn thân, kiếp này trả nghiệp phải thất tiết với người không phải là chồng mình. Và lúc này chính là lúc cô phải trả nghiệp đó".
Cô K không tin vẫn tiến hành đám hỏi rình rang, còn lớn hơn cả đám cưới nhà người! Chỉ nửa tháng sau, biết chuyện gia đình cô K phá sản, vị hôn phu sỉ nhục cô K đã muốn lừa mình để lấy của - K tức quá hồi hôn, trả lễ vật lại cho đàng trai!
Thế rồi việc gì đến đã phải đến: Chàng trai thuê năm tên du đãng bắt cóc cô gái ra Vũng Tàu thuê phòng ở 1 tuần sau mới trả về - bánh xe luân nghiệp vẫn đi đúng con đường của nó...
Cho dù được cảnh báo, mấy ai dễ tin tưởng vào những lời phán bảo vô căn cứ, bởi lòng tham đã làm mờ mắt con người mất rồi! Kho tàng trước mắt trăm người hết chín chín kẻ chỉ muốn vục tay vào, cho dù có phải đánh đổi đến thế nào cũng mặc! Ôi nhân loại, tại sao người ta chẳng ham sục sạo kho tàng tri thức nằm kia, dấu bụi trầm tích của thời gian vùi chôn lớp lớp - Thế nhân ơi, sử thi kim cổ còn ghi, vạn vạn Thánh nhân Hiền triết, đời nay mấy kẻ noi gương?
Đạo pháp lưu truyền khắp cõi, Kinh luận Giáo điều ra rả bên tai, sao chẳng để tâm lóng tìm, theo dấu? Ai ai cũng ra sức dấn bước trên con đường hoan lộ: sắm thêm cái xe đẹp, cái áo mới, cái nhà sang! Quán bar, hý viện, vũ trường mọc lên như nấm, trong lúc trường học, Giáo đường, Thư viện Đình chùa xuống cấp, bụi bặm, nhện giăng...
Thôi thôi, có lẽ tôi đã đi xa đề mất rồi, mời các bạn trở lại hành trình khám phá "Huyền Môn"!
13. LlÊU TRAI (3)
Cứ mỗi đêm, khi tôi ngủ say là lúc "Điển ông" đi về cõi Trên. Chỉ cần tội cựa mình thức giấc, cất tiếng rên là lại thấy ông giở màn chui vộ: "Anh đây, anh về đây". Nếu ông bận việc đi cả đêm, thường cho người về canh nhà giúp tôi! Ông nói: "Xác trần có phần về nhập là xác trống, giống như mảnh đất lạ có người bắt cây cầu sang! Một người sang được thì 10 người sang được - Anh không cho người về canh nhà, em sẽ bị phần âm về quấy".
* Có đêm tội giật mình thức giấc, người vẫn nằm trên giường nhưng vía thấy đi ra phòng khách gặp 1 cô gái trẻ đẹp mặc đồ lụa trắng thắt chẽn ngang eo. Tôi hỏi: "Ai đó". Đáp: "Tôi là Huyền nữ". Tôi hỏi: "Ngồi đây làm gì?" Lại đáp: "Canh nhà" – hỏi nữa cứ vờ như tượng đá chẳng trả lời gì!
* Có lần thấy mình đi ra giữa sân lúc nửa đêm, thấy có 1 người đàn ông mặc áo thụng bằng gấm đen đồng tiền thật to, đầu đội mũ cánh chuồn đen và cũng đi đôi hài gấm màu đen. Tôi lại hỏi: "Ai đó". Đáp: "Tôi là Chư Thiên". Tôi hỏi: "Đứng đây làm chi?" - "Canh nhà". Câu trả lời y như một lập trình, hỏi nữa cũng chẳng thèm đáp lại một tiếng...
Chừng như Ông chỉ đi vào ban đêm, và đêm nào cũng đi vào lúc tôi đang ngủ. Nếu tôi tình cờ thức dậy, ngồi lên là lại thấy ông về, tôi có hỏi thì ông nói: "Anh đi làm việc, anh còn nhiều trách nhiệm. Nhưng anh chỉ đi vào lúc em ngủ thôi, khi em thức là anh về"...
Lúc tôi có khách hay các em tới chơi thì ông đi mất, khi cần làm việc liên quan tới âm phần lại thấy có ông rồi, mặc dù ông không hề ra mặt, nhưng tôi biết đằng sau mình, vẫn có ông lặng lẽ hỗ trợ. Thời gian đầu tôi bị phần Âm đánh hoài, trong lúc đang truyền điển cho bệnh nhân thì họ thừa cơ đánh lén, chỉ thấy mình xây xẩm choáng váng rồi ngã y như bị trúng gió, phải có người dìu đưa vào ghế ngồi 5 phút thì hết!
Những lúc như vậy tôi khóc và cằn nhằn ông ghê lắm. Ông nói: "Rồi em sẽ học được kinh nghiệm từ những cú ngã đó. Anh ở sau lưng em, anh không để cho ai làm hại em đâu!"
* Trong thời gian tôi bị loạn mạch tim, đành phải năn nỉ gởi con cho Ba chúng nuôi giúp (trong hơn 1 năm). Có 1 lần bé Ti bị Ba đánh - bèn bỏ nhà đi, trốn theo bạn về thành phố. Ông Điền điện về không có con hốt hoảng, còn tôi thì khóc ròng, cầu xin PB về giúp! Người nói: "Nếu con nguyện cạo đầu ta đưa nó về cho con trong vòng hăm bốn tiếng đồng hồ". Tôi đồng ý, đến sáu giờ tối ngày hôm sau tôi vẫn chưa thấy tăm hơi thằng bé, mọi sự tìm kiếm đều vô vọng...
Do quá lo lắng, tôi đi rước bé Chi trễ giờ đón trẻ, đó cũng là thời khắc định mệnh! Tôi gặp bé Ti (lúc ấy 12 tuổi) đang đi với mấy đứa bạn, thế là tôi bắt nó đưa về! Thằng bé bảo: "Con nhớ mẹ định nửa đêm trốn về thăm nhà rồi sáng mai theo 2 thằng bạn lên thành phố bán bánh mì với nó".
Sáng ngày hôm sau tôi khấn xin xuống tóc tạ lễ với PB, Người về nói: "Ta thử con như vậy thôi, đừng xuống tóc làm gì! Ngồi bán sách báo mà cạo đầu ai coi cho được". Vậy đó, tấm lòng Bề Trên rộng lượng và bao dung như thế, những khi cần thiết thì cũng lạnh lùng như băng giá - Tôi ngẫm câu "Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi", mà thấm thía: Roi của Mẹ đánh con đau lắm, nhưng ngọt bùi Mẹ cho cung thấm thía lòng trần!
* Ngày xưa, trong nhà tôi có điều kỳ lạ xảy ra gần như đã có lập trình sẵn rồi: Ngày Rằm, ngày Vía nếu tôi cúng hoa Vạn thọ trên bàn thờ là y như rằng qua 1 đêm tất cả các cánh hoa đều được ngắt ra để nằm gọn vun 1 dúm ngay chính giữa bàn thờ, đàng sau các lư hương! Ba bàn thờ là ba dúm hoa như nhau, điều lạ lùng là cả bình hoa còn nguyên vẹn, không hề có dấu tích của bàn tay phá hoại và những đóa hoa Vạn thọ còn nguyên cả cuống cả đài, giống như có ai đó đã tẩn mẩn chơi 1 trò chơi lạ, đánh đố kẻ phàm nhân...
* Một lần trong nhà có con gà mái đẻ trứng so (lần đầu tiên). Phải nhốt cho nó quen ổ mới. Tôi đem cái thúng to để vào đấy nắm lá cọ cho êm, lót lên trên bao gạo gấp làm tư rồi để cái trứng và con gà mái, úp lại bằng 1 cái trạc (loại đan bằng tre nứa dùng để nhốt gà) xong lại cẩn thận đè lên trên bằng 1 khúc gỗ lớn!
Buổi trưa tôi đi dạy về, đố bạn biết điều gì đã xảy ra? Con gà mái không đẻ trứng nào, nằm ôm cái trứng cũ ngoài đất, cách chừng 1 mét - cái trạc úp ở ngoài còn nguyên, khúc gỗ chặn trên cũng còn! Tôi mở trạc ra, đứng ngẩn người nhìn bao gạo gấp tư nằm gọn dưới đáy thúng, nắm lá cọ trồi lên trên. Ai muốn chứng tỏ sự có mặt của mình trong căn nhà khóa cửa, không người?...
* Một buổi trưa, tôi tìm mãi không ra cái đế cắm nhang muỗi, lầm bầm: "Nhà có 2, 3 cái mà giờ mất cả rồi". Tôi cầm cây chổi đi quét nhà – tự nhiên, từ trên đầu phía sau lưng có ai đó ném cái đế cắm nhang bay qua đầu tôi rơi xuống ngay trước mặt, cùng vời tiếng cười của Ông vang lên trong đầu...
* Tôi bị mất xâu chìa khóa. Tìm lung tung mãi không có, tôi vái Ông tìm giúp, rồi bỏ đi bắc nồi nấu cơm! Lát sau lên nhà, vừa sục tay vào định tìm, xâu chìa khóa đã nằm gọn trong mấy quyển sách, 1,2 chiếc chìa đong đưa như trêu cợt trước mắt tôi...
* Có lần tôi đang ngồi xem ti vi thì Ông về tới. Lúc đó ngoài trời đang mưa lớn, tôi thấy ông mặc 1 chiếc áo Ba đờ suy dầy và mịn rất đẹp. Vào nhà, ông móc trong túi ra 1 nắm trà, cọng trà se lại nhỏ xíu trông rất khéo, tỏa mùi hương thoang thỏang. Ông nói: "Chè mạn đó, thơm không?"
Rồi lại móc từ túi bên kia, cẩn thận mang ra 2 chùm hoa nhỏ xíu rất lạ đặt vào lòng bàn tay tôi: "Tặng em nè". Tôi nhặt lên 1 chùm hoa trông y như Mai chiếu thủy, nhưng cánh lớn và dày hơn một chút, hoa màu trắng kem (mai chiếu thủy có màu trắng muốt). Ông bảo: "Đây là hoa Xu xi, còn đây là hoa Ngọc trâm. Hai loại hoa này ở tận trên tầng cây cao ở Ba Núi, anh hái về cho em đó! Đặc biệt vào mùa khí trời lạnh giá hoa mới nở, càng lạnh hoa lại càng thơm".
Hoa ngọc trâm trông mường tượng như cây trâm cài đầu với nhiều đóa hoa nhỏ xíu chung quanh, màu trắng long lanh như những viên ngọc – cả hai loại hoa đều có mùi thơm nồng và lạnh, cứ y như vừa lấy ra từ trong ngăn tụ lạnh vậy!
Tôi hỏi: "Ba Núi là ở đâu? Nó trông như thế nào?" Ông nói: "Là nơi ba ngọn núi cao ngất chụm đầu vào nhau. Quê hương của các Thánh ở đó. Đê hôm nào anh dẫn em lên núi chơi"
* Ngày ấy đã đến - một đêm PB về bảo tôi: "Dỗ cho trẻ nó ngủ sớm, ta đưa con về thăm Ba Núi". Sau khi con ngủ, tôi trở dậy thay áo bà ba trắng, lên giường chui vô mùng ngồi xếp bằng, xuất hồn đi theo PB! (ngày trước nhà tôi còn đất rẫy tập đoàn phía sau, chiều tối là muỗi nhiều lắm không vô mùng sẽ bị muỗi cắn, khó mà tĩnh tâm được). Khi tôi xuất hồn đi như vậy, người vẫn tỉnh táo hoàn toàn, đến nỗi khi 2 đứa con mê ngủ lăn trúng, tôi khe khẽ đẩy chúng xê ra và vẫn tiếp tục đi - Độ 1 lát nghe tiếng bầy gà kêu ngoài sân, lúc trời đang mưa, tôi còn xin phép cho ngưng để trở dậy, bắt nhốt bầy gà, xong vào ngồi xếp bằng lại đi tiếp, khộng hề có trở ngại gì!
PB dẫn tôi đi loanh quanh 1 con đường nhỏ lên cao dần trên núi, tôi lờ mờ thây như một bên là vực sâu, 1 bên tay trái có trồng nhiều cây cao ngang tầm nguời, trái giống trái na (mãng cầu ta).
Lên đến đỉnh núi, trên ấy mặt bằng rất rộng, có nhiều căn nhà nho nhỏ xinh xắn, nhà tây nhà tà có cả - căn lợp ngói, căn lợp lá xé, lá chằm – lại thấy một nơi lợp bằng lá rộng và dài như hội trường, trong đó để hai dãy bàn ghế thật dài, phủ khăn màu xanh! Trên bàn bày thật nhiều thức ăn, hoa trái rất lạ và những chai, ly bằng pha lê óng ánh một thứ nước màu xanh, màu hồng rất đẹp - Tội nghĩ thầm trong đầu: "Cõi trên mà cũng uống rượu nữa sao?" PB cười bảo: "Nước quả đó, uống thử xem". Đoạn đưa cho tôi một ly nước màu xành, vị thơm ngọt, uống vào đến đâu biết đến đấy!
Lại thấy những đĩa thức ăn như đồ chế biến sẵn thành viên hình tròn, vuông, hình chữ nhật... nhiều màu. PB gắp bỏ vào miệng tôi - chưa kịp nhai đã gần như tan ngay trong miệng vị mằn mặn, bùi bùi lại ngòn ngọt, rất là ngon!
PB kéo ghế, bảo tôi ngồi xuống. Tự nhiên tôi thấy trôi tới trước mặt mình những hình ảnh của nhiều người, mỗi hình ảnh chuyển tới trước mặt tôi, trụ lại chừng hai giây, ai cũng vẫy tay chào rồi trôi đi mất - Cùng với lời giới thiệu của PB vang bên tai: "Nhà bác học Einstein, Tưởng Giới Thạch, Laphongtaine, Pascal..." Còn nhiều nữa mà tôi chịu không nhớ hết!
PB lại dẫn tôi ra sân. Ở đây đã có sẵn rất nhiều người, tiếng nói nho nhỏ, lao xao nhưng tôi cố nhìn mà chẳng thấy tận mắt ai và cũng chẳng nghe được họ nói điều gì!
PB giới thiệu tôi là: "Thánh Cô Lan". Tất cả đồng vỗ tay! PB hỏi tôi 3 câu hỏi đến nay tôi chỉ còn nhớ được 1 câu: "Hoa mùa Xuân là hoa gì?" Tôi đáp: "Hoa Xuân".
PB lại hỏi tôi tại sao trả lời như vậy - Tôi nói: "PB hỏi hoa muà Xuân chứ đâu hỏi hoa ở xứ nào!" Tất cả mọi người đồng vỗ tay, PB cũng mỉm cười mãn nguyện…
Nguyên có một điều lạ là xác trần của tôi khờ khạo, nhút nhát và chậm chạp bao nhiêu thì linh hồn (hay thể vía) của tôi lại khôn ngoan, ranh mãnh bấy nhiêu! Từ suốt ngần ấy năm, vạn vạn lần ứng xử với các Đấng cũng như các cõi Âm phần tôi chả thua ai! Chỉ có PB là tôi thua - Người rất thông minh, chặn đầu chặn đuôi một hồi là tôi bí!
Đây cũng là trò chơi mà PB thích nhất, và cũng là cách làm tôi khổ sở suốt ngần ấy thời gian: về lúc nửa đêm, dựng tôi dậy lục vấn đủ mọi chuyện trên trời dưới đất - Khi PB rời đi là tôi thức luôn tới sáng...
Đến tận sau này tôi mới hiểu là PB đang luyện để tôi "cao tay ấn", tự mình biết quyền biến trong hành xử với các cõi, để không "bị động" hoặc phải chịu thua, cầu cứu Ơn Trên!
Làm một Sứ giả, một nhịp cầu nối như tôi không dễ, luôn phải căng thẳng đầu óc để suy nghĩ, trong chớp mắt tìm ra cách ứng xử để thủ thắng, đưa phần Âm (hoặc Linh căn) vào chỗ thúc thủ, hoặc là "há miệng mắc quai" phải chịu thua mà "tâm phục khẩu phục" để trả tự do lại cho xác trần! Và điều quan trọng là lấy cái Tâm Đức Từ Bi của Nhà Phật mà chiêu dụ, mà khuyên can, không phải dùng tới quyền lực và sức mạnh (Trừ những phần Âm càn quấy, hung hãn vừa nhìn thấy đã tiến đánh. Với những người này tôi bắt trói lại, có lúc nhốt 1 tuần lễ, cho tiền bạc lộc thực rồi thả ra). Các bạn sẽ biết chuyện này vào đoạn sau…
14. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC TINH CHỦ
VỀ Y THUẬT:
* Tháng 7/1989, con trai thứ hai của tôi được ba tuổi rưỡi. Một sáng nọ đột nhiên bị phù cứng cả mặt, hai mắt chỉ còn như ke chỉ, một bên cổ nổi lên 4 cục hạch sưng to rất đau không day trở gì được! Sáng đó trời mưa bão tối đen, nhà lại mất điện - Má tôi bảo: “Nó bị bệnh tràng nhạc, bệnh này nặng lắm, đưa đi BV ngay kẻo trễ”.
Tôi thắp nén hương cầu xin PB về, Ngươi bảo: “Để ta cho Thầy về trị cho cháu nghe!” chợt thấy có một ông lão người gầy và cao da ngăm mặc chiếc áo chùng đen - chân đi dép cỏ, ngang vai khoác một tay nải bằng vải màu nâu. Ông nói: “Ta làm cho thằng bé 10 phút sau hết phù, con thưởng gì ta? Nửa con vịt quay nhé!” Tôi bảo: “Con tạ ơn Ông nguyên con” Ông cười: “Nói chơi thôi, ta ăn chay mà”!
Rồi hỏi tôi xem trong nhà có vật gì bằng kim loại không - Tôi tìm mãi mang ra cây kim may tay! Ông cầm cây kim day ấn vào các huyệt trên người bé Ti, cách làm nhanh và điệu đàng, lã lướt in như bàn tay khảy trên phím đàn - Tôi nhìn đến say mê! Tuy nhiên, khi Điển nhập vào tôi mà làm, tôi nhìn bằng “thể vía” thấy tay mình ra tay ông lão ấy, năm ngón gầy đét, móng tay dài và đầy cáu bẩn. Thấy tôi nhăn mặt, ông nói: “Tay ta dơ quá phải không? Hái thuốc cả ngày sạch làm sao được.”
Tôi lại hỏi: “Con nghe người xưa nói: Chân đi hài cỏ – sao ông lại đi dép?”. Ông bảo: “Đi trong rừng mang hài có mà ngã té què chân - mang dép hai ngón kẹp quay đi mới dễ”. Một chốc sau, thấy đôi mắt bé Ti mở lơn lớn, PB nói “Con đem cháu ra chỗ đèn sáng, ấn ngón tay vào cơ bắp, nếu buông ra thịt không còn dấu nún xuống là hết phù”. Tôi làm y như vậy, quả nhiên bé Ti không còn bị phù nữa, chỉ sau 10 phút!
PB lại bảo: “Cháu nó bị viêm tuyến Ba-tô-lin, là tuyến nước bọt đó - không sao đâu! Con lấy chai nước nóng bọc khăn chườm, chừng 2, 3 ngày hạch sẽ lặn hết cho coi”.
Bạn đọc thấy sao - tất cả các phương tiện y học hiện đại, có phương pháp nào làm hết phù sau 10 phút không? Ta còn phải phục người xưa dùng từ khoa học chuyên môn: tuyến Ba-tô-lin!
Tiên ông bảo: “Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”
Tôi lại mở ngoặc để thưa với các bạn đọc rằng: nguyên văn thầy Thái Thượng nói như vậy, tôi không có điều kiện để tra cứu thực hư!
Thầy còn kể chuyện thầy tự tay đi hái thuốc trong rừng như thế nào...Rằng thuốc có nhiều loại - vị bổ phải hái lúc sáng sớm, vị độc nhiều phải hái vào lúc giữa trưa và có loại phải hái lúc nửa đêm, có loại phải theo mùa, theo tiết nữa...Tôi hỏi: “Nếu Ơn Trên chuẩn cứu 1 người bệnh ở cõi trần thì cứu bằng cách nào?” Thầy cười đáp: “Thì cung y như cõi trần vậy thôi! Ví dụ người bệnh đó có người bà con là phần Linh căn ở trên: Thánh, Thần, Tiên, Phật gì đó… Họ đến cầu cứu thầy, xét thấy hợp căn, hợp mệnh thầy ra phép cứu - Ở dưới trần sẽ xoay chuyển cho có người chỉ cho một phương thuốc đơn giản nào đó, thế mà khỏi bệnh, vậy thôi”
Huyền nhiệm ở chỗ là tôi không hề tu học ngày nào về Đông, Tây y, về phép chẩn bệnh, điểm huyệt... Thế mà tôi ấn vào đúng huyệt không sai! Về sau ngày càng tiến bộ, tùy bệnh trạng mà day, ấn, xoa, vuốt... vào huyệt vị hoặc kinh mạch!
Có lần tôi tìm được đồ hình huyệt vị trong con người, nhìn đến hoa cả mắt, học mãi mà chẳng nhớ tên huyệt nào, cứ như bị trêu ngươi, che mắt vậy! Thế mà có bệnh nhân tới, tự bàn tay tôi làm thành thạo như từ trong tiềm thức đã chuyên…
Đến giờ này, tôi mới tin là có tiền căn, hậu kiếp! Con người ta đâu từ thuở hồng hoang đã biết hết mọi điều, cho dầu đơn giản nhất. Đã có bàn tay các Đấng trợ giúp hoặc ứng về ai đó để tự nhiên mở khẩu truyền thông tin, hoặc theo như lời PB giảng: Tất cả những Thiên tài, Bác học, Thần đồng, những nhà phát minh hoặc các bậc Danh sư, Thần y... đều do các Đấng sai xuống để hỗ trợ con người. PB nói: “Trần gian là cõi trung chuyển, là lò tôi luyện hoặc chốn hành Đạo, trả nghiệp...Các cõi khác đều từ nghiệp quả trần kiếp mà luân chuyển!”
Nguồn cội từ cái nhân mới sinh ra cái quả. Người trần không biết, cứ lo tạo tiện nghi vật chất mà quên rèn luyện, nâng cao tâm hồn mình - Chết rồi quay lại nhìn chẳng thấy nắm được gì trong tay ngoài gánh nghiệp vương mang, luân hồi thác sinh kiếp khác vay trả báo đền, thảm thương biết mấy!
* Tháng 6/1990, con trai lớn của tôi lúc ấy 6 tuổi. Một đêm nọ sốt cao liên tục cả đêm, đến 3g30 sáng thì bại liệt cả người, không còn nhúc nhích được nữa, cả người bé nóng ran, nói sảng lảm nhảm... Tôi sợ quá cầu PB cứu. Người về nói: “Để ta cho nó hết sốt, ngủ dậy thì khỏe liền”.
Mới loay hoay, bé Tí đã lăn ra ngủ, sờ tay vao thấy hạ sốt rồi! PB ngồi lại với tôi nói chuyện đến 5g kém 10 phút Đài Truyền thanh của Xã phát, cháu ngồi dậy mừng rỡ: “Mẹ ơi con nhúc nhích được rồi, con hết bệnh rồi”...
Nhân đây, tôi kể luôn cho các bạn nghe nhân duyên tôi được 2 vị thầy nữa về trợ cho tôi chữa bệnh cứu người.
* Vài tháng sau khi Thầy Thái Thượng về, lúc nửa đêm trở dậy, vía tôi thấy mình đi ra nhà trước, thấy có 1 Tiên Ông ngồi trên đầu tủ. Thấy tôi ông cười bảo: “Biết ta là ai không? Đoán đúng ta nhận làm đệ tử”. Trong đầu tôi vang lên lời nhắc. Tôi bảo: “Hải Thượng Lãn Ông”. Người nói: “Lạy ta 3 lạy ta truyền nghề thuốc cho”. Tôi quỳ lạy, đứng lên nghe người nói: “ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là thầy. Thầy có viết bộ sách “Hải Thượng y tôn tâm lĩnh” gồm 4 quyển, con tìm đọc đi”
Sáng hôm sau, tôi hỏi một người biết về thuốc Đông y, họ xác nhận đúng y như vậy! Từ đó, bệnh nào nặng hoặc bị hành căn, khó chữa tôi lại xin thầy về chẩn mạch và cho thuốc. Thường thầy hay cho những vị thuốc Nam dễ tìm ở ruộng đồng bờ bãi hơn là những vị thuốc Bắc đắt tiền. Thầy dạy rất kỹ: Loại này phơi âm can, gần khô thì sao, hạ thổ, loại kia ngâm nước cơm vo qua đêm, rửa lại rồi phơi ráo ngâm rượu...v.v
Đa số các bài thuốc Thầy cho thường có 5 vị; hoặc chỉ độc 1 vị cây cỏ đơn giản mà uống hết bệnh. Thầy dạy, tôi chỉ nhớ loáng thoáng: thuốc có mấy vị: Quân, Thần, Tá, Sứ - mạch có: trầm, phù, trì, xác (?). Chứng có: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa…
Tôi nhớ mang máng như vậy, nếu viết lại có sai xin các bạn đừng cười tôi nghe!
Thầy dạy tôi cách thăm khám (nói đúng hơn là Thầy “nhập thần” vào tôi để chẩn bệnh, tôi nghe mãi rồi thành quen tai). Khi bệnh nhân đến, tôi hay hỏi nhẩn nha, dông dài: “Anh (hay chị) làm nghề gì? Có mấy cháu? Hoàn cảnh đầy đủ hay khó khăn, bệnh phát lâu mau? Chứng như thế nào? An ngủ có đúng giờ, ăn có ngon miệng không?...” Hỏi xong rồi chẩn mạch (thực ra tôi có biết nghe mạch đâu, tôi chờ nghe thầy nói đó thôi) và thầy chẩn cho ai cũng chính xác, mọi người đều phục!
Tôi cũng không nhớ rõ từ lúc nào thầy đã “truyền thần” cho tôi hoàn chỉnh, chỉ biết là cho đến về sau này, tôi tự đặt tay lên mạch là nói đúng y, không cần phải chờ nghe thầy phán nữa! Tôi còn nghe được cả trong các cơ quan nội tạng, chỗ nào có trục trặc là tôi cảm nhận được ngay…
Từ ấy đến nay, có nhiều vị thuốc lạ Thầy truyền lại cho tôi và tôi đã chữa cho nhiều người hết bệnh. Tôi không thể nhớ hết được. Xin để đoạn sau tôi sẽ chép lại tặng bạn đọc, giờ tôi xin phép kể tiếp về sự xuất hiện của “Tinh chủ y thuật” thứ ba để cho câu chuyện có mạch lạc, vậy nhé!
* Một buổi tối, tôi đang sửa soạn đi ngủ, thầy Thái Thượng bước vào, theo sau là 1 người hình tướng rất kỳ lạ: Người to bè, tóc cứng như rễ tre, trán dẹp, môi dày thâm đen – đi chân không trên đất và đặc biệt là đôi bàn tay, bàn chân to và thô nhám rất khác thường! Thoạt nhìn, tôi đã nghĩ ngay: “chắc là người tiền sử”.
Thầy Thái Thượng nói: “Đây là Thần Nông; người về trợ duyên cho con đó”. Tôi xá Thầy 1 cái cảm ơn! Thần Nong nói: “Người ta tặng cho Thầy biệt danh là Vua nếm thuốc. Thầy có để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày hơn 700 trang đó”. Tôi hỏi: “Sao Thầy đi chân không vậy, gai rừng đâm đau chân làm sao?”, thầy bảo: “Thầy đi chân không quen rồi, da chân dày thế này, gai nào đâm được” Thầy trò cùng cười!...
Thầy lại bảo tôi: “Mai mốt con chuẩn bị thu xếp đi vài ngày, thầy sẽ dạy con nếm thuốc! Phải tới nơi bờ sông bãi sú thì mới có nhiều vị thuốc” Thầy còn dạy tôi (y như dạy một đứa trẻ mới học vỡ lòng): “Con mang theo một con dao, đồ bấm, bao nilon, 1 quyển tập, viết...Thầy dạy con ngắt lá hoa hoặc trái của cây thuốc để làm mẫu - con bỏ vao bao, bấm cứng vào trang vở, xong mở lên ghi ở dưới công dụng, cách thu hái và chế biến, liều lượng”
Một dịp may có 1 không 2 trên đời, thế mà tôi đã để vuột mất... Hoàn cảnh gia đình lúc đó khó khăn làm tối mặt chưa đủ miếng ăn, bỏ việc đi chơi rong thì chết đói mất!
Sáng hôm sau tôi kể lại chuyện này cho các em tôi nghe - Quang, em trai thứ sáu của tôi nói: “Chị bị bệnh hoang tưởng mất rồi, Thần Nông là ông vua dạy nghề nông bên Tàu mà chị nói là thầy thuốc”. Ngay chiều hôm đó, quyển đặc san “Thuốc và sức khỏe” có viết 1 đoạn như sau: “Người đời xưa truyền tụng Thần Nông là Vua nếm thuốc – ông còn để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày 750 trang...”
Vậy đó, đa số những điều “Điển” về nói với tôi gần như ngay lập tức có tài liệu minh chứng kèm theo, chuyền vào tay tôi bằng cách nào chưa kể, có điều sự huyền nhiệm thì đã hẵn!
Đêm sau, tôi nhớ mang máng vào độ tháng 7/1996. Lúc 11 giờ đêm, ba vị Thầy về cùng một lúc dạy tôi học thuốc - để các bạn thấy thêm một điều kỳ diệu, tôi phải giải thích thêm một chút: tôi vốn cận thị 3 độ, mắt rất kém! Bóng đèn ngủ (loại bóng cà na màu đỏ) gắn trên cao hơn 2m. Ngay 1 người tỏ mắt cũng không thấy được gì, nữa là tôi!
Thế mà Điển Thầy về nắm tay tôi viết 8 trang giấy học trò, dạy cơ bản về phương pháp chẩn bệnh, nói sơ về các huyệt chủ và các vị thuốc điều trị bệnh. Chỉ tiếc là qua bao thăng trầm dời đổi tôi đã để thất lạc gần hết, nay còn lại một ít cũng xin chép lại đây, mặc dù thực hư tôi vẫn chưa có cơ hội kiểm chứng.
- Thần phương: (Xem lại bản gốc)
- Chữa bệnh cốt cần an huyệt, thông huyệt. Khi huyệt, mạch lưu thông không còn ách tắt thì bệnh hết. Thuốc không cứ là loại nào, nguồn gốc từ đâu, chỉ cần sao chế đúng cách là sử dụng được!
- Người tạng nhiệt thì bình ôn, tạng hàn thì chỉ nhiệt, khí trệ thì bổ khí, tâm hư thì an tâm, tỳ yếu kiện tỳ, vị yếu bổ vị...
- Khí hư thì tâm phiền, tích nhiệt, trích đờm! Tâm hư thì mất ngủ, phiền não, hay lo sợ, hồi hộp, làm mệt. Tỳ yếu biếng ăn, khó tiêu, hay đi cầu, ấm ách bụng thường xuyên. Vị yếu cũng lười ăn, khó tiêu (vị yếu đi kèm với các chứng của tâm hư)
- Đàn ông chủ thận, đàn bà chủ huyết!
- Đàn ông hư thận sinh chứng đau thốn bên hông trái, tiểu dắt, tiểu nóng, đỏ, khai nhiều, lâu dần đi tiểu đục, chân khí tiêu hao, người nóng nhiệt, mắt đỏ...
- Đàn bà huyết hư đau cả 2 bên hông, người gầy yếu xanh xao, có kỳ hành đủ chứng, khó ngủ, hay hồi hộp, cáu gắt, tâm phiền nhiệt, hư tỳ vị, bế huyệt mach, khí không thông, mắt mỏi thường xuyên, tay chân run rẩy...
- Có 360 huyệt mạch chính trong người. Chủ yếu là huyệt Bách Hội (ngay giữa đỉnh đầu điểm thẳng xuống). Day 5 ngón tay chung quanh là kiện toàn bổ túc!
- Trước tiên bắt mạch định bệnh, bấm huyệt đỉnh đầu để khai thông kinh mạch, sau bấm huyệt tùy theo bệnh chứng (mất...)
- Các loại cây lá chủ trị từng loại bệnh (không cần dùng kèm)
- Ích mẫu: Khai thông huyết mạch, kiện toàn cơ thể phụ nữ (nhất là người mẹ), trị hư huyết, tâm phiền, đau bụng khi hành kinh.
- Ngải cứu: Đặc biệt dùng chữa chứng đái dắt đái buốt (viêm đường tiết niệu), làm thông khí, hạ đờm. Ho có đờm: lá tươi đâm lấy nước uống không cần liều lượng. Đái dắt đái buốt: lá tươi uống hay nấu nước dùng sau 1 lần hiệu nghiệm ngay tức thời, uống 3 ngày hết viêm đường tiết niệu!
- Lá chanh chữa bệnh đau gan, xơ gan trướng bụng: Mỗi ngày sử dụng chừng 1 dúm lá tươi nấu 3 chén nước, chia làm 3 lần uống lúc bụng đói, chừng nửa tháng bụng tiêu!
- Trái chanh non: bằm nát chung quanh cả vỏ, vắt lấy nước bỏ đường uống lúc bụng đói trị ung thư gan mới phát, nửa tháng có tác dụng, dùng đến khi xét nghiệm lại hết hẳn mới thôi!
- Hạt cây đậu ma (còn gọi là cây sục sạc): Loại hạt sử dụng trong gói trà thanh nhiệt (không kể hoa hòe, cam thảo). Dùng lâu dần trị được chứng tâm phiền, não nhiệt, làm dịu mát cơ thể, chữa thần kinh suy kiệt (stress), ngủ an giấc không mơ ác mộng, tay chân hết run. Sử dụng liên tục cả đời đều tốt, (cần sao hơi cháy mới nên thuốc).
- Cỏ mực: Người nóng nhiệt nấu nước uống, trẻ nóng sốt cao vắt nước cho uống hạ nhiệt mau hơn thuốc tây. Trị đau nhức khắp mình mẩy, tay chân rũ liệt trong bệnh cảm, trúng gió lấy cỏ mực nấu nước uống thì hết!
- Lá giấm: Bó gân, xương - thông tiểu tiện, viêm đại tràng, táo bón - hơ lá cho nóng già áp lên chỗ viêm vài lần trong ngày, bất cứ sưng nhiệt hay mụn nhọt đều hạ rất nhanh! Bong gân đau xương hơ nóng lá đè lên chỗ đau 2, 3 lần trong ngày, chỉ 2, 3 ngày thì khỏi - tiểu không thông, táo bón, viêm đại tràng nấu nước uống (trái lá đều dùng được)
- Hoa quỳ (dã quỳ): Trẻ bị huyết vận vò nát đắp lên khắc tan trong 1 tiếng đồng hồ. Hoa quỳ (cánh hoa) trị chứng sốt khát nước, nóng tiểu rát, viêm phần phụ của đàn bà, viêm đường tiết niệu, tuyến tiền liệt của đàn ông. Cánh hoa chưng cách thủy vơi đường phèn uống thì khỏi -
Đoạn sau này tôi xin kể cho bạn đọc biết những loại thuốc, cây lá mà Thầy Hải Thượng đã dạy cho tôi, để các bạn nghiên cứu lại cho có hệ thống...
- Buổi trưa mùa hè nóng bức đến như muốn nổ tung cả người, tôi gần như phát điên, thầy Hải Thượng về, đứng ngoài sân nói: “Thuốc đây sao không biết dùng”! Thầy cúi xuống, tay nâng cành lá cây móng tay: “cả cây đem vô rửa sạch nấu nước sôi để lửa riu 15 phút, uống lúc thuốc còn ấm thử coi sao”. Tôi làm y, chỉ 15 phút sau khi uống cả người mát dịu, cơn nóng sốt bay đâu mất!
- Sau nhà tôi có cây cà ri, lá nó vò trong tay ngửi rất thơm! Cây có trái be bé màu xanh, chín đỏ mọng, vị ngòn ngọt trẻ con rất thích - có lần tôi đang đứng sau vườn ngắm trẻ đua nhau hái trái ăn. Thầy về rầy: “Nếu không sử dụng thì chặt bỏ nó đi, kẻo trẻ con ăn nhiều sẽ bị ngộ độc đấy”. Thế là tôi chặt cây bỏ, không dám để lại!
- Thầy dạy: Lá cây cỏ xước, đem rửa cho hết lông tơ đi rồi vò nát đắp lên bướu cổ, bướu sẽ tiêu dần…
- Có bệnh nhân đau cột sống lâu ngày, chích thuốc giảm đau mãi rồi hư thận, nước tiểu tự động chảy ra, người chỉ còn 37 kg, BV trả về!
Tôi chữa trong 2 tháng thì hết hẳn mọi triệu chứng. Kèm theo Thầy cho uống các loại thuốc sau:
- Đầu tiên uống 7 thang thuốc có 5 vị: sen, cỏ xước, cây đau xương, râu bắp, thiên niên kiện. Uống sau 1 tuần thì đi tiểu bình thường và giảm đau...
- Uống hết 7 thang thuốc, thầy cho ăn 10 trái cật heo (3 ngày 1 trái): Đậu đen ngâm qua đêm nấu gần chín nhừ bỏ vào giữa trái cật (khi đang còn nóng), chưng cách thủy chín chấm muối mà ăn, chưng lạt không nêm nếm - thuốc này để trị thận hư!
- Sau đó thầy bảo mua 500gr táo tàu đen, cách 1 ngày mua 1 trái dưa hấu nhỏ cắt mặt khoét ruột đủ bỏ vừa 50 gr táo vào đậy nắp lại chưng cách thủy, đợi táo vừa mềm nhừ đem ra ăn cả táo lẫn ruột dưa...
Ay thế mà bệnh nhân hết bệnh, hai tháng sau BV xét nghiệm lại, các chức năng gan thận hoàn toàn trở lại bình thường và cột sống hết đau!
* Có một loại thuốc quý, rẻ tiền mà ít ai biết: trà khô - Thầy dạy và tôi chỉ lại cho rất nhiều người, kết quả “tuyệt vời”!
- Đau nhức, bong, sưng, trặc, do viêm khớp hoặc sang chan, vết bầm tím do tụ máu: lấy 1 nắm trà khô bỏ vào bát, đổ nước sôi lấp xấp, đậy kín như trà uống, 5 phút sau bọc vào túm vải chườm nóng, đồng thời xoa xát nhẹ lên chỗ đau, kết quả ngay tức thì! Thầy còn dặn một điều cơ bản mà ít ai biết: trong đa số các loại đau nhức không bao giờ được bóp mạnh tay, sẽ viêm đau nhiều hơn vì lúc đó thần kinh, mạch máu và cơ bắp đang căng - Chỉ nên xoa xát hoặc day nhẹ nhàng để dẫn lưu máu huyết và thần kinh mà thôi!
- Viêm họng: Nước trà đặc, bỏ muối mằn mặn như nêm canh để trong bình thủy giữ nóng, ngậm “khò khò” trong cổ họng rồi nhổ bỏ, giảm đau rát ngay tức thì - Độ chừng 2 giờ đồng hồ ngậm súc miệng 1 lần, bao giờ hết viêm thì thôi!
- Hàn thấp, thần kinh tọa: 1 nắm cứng trà nấu nước sôi vài dạo (bỏ thêm 2 muổng canh muối). Cho một nửa vào thau, pha thêm nước nóng, ngâm 2 chân tới mắt cá! Nước phải nóng già (độ nóng làm đỏ da mà không phỏng). Nước bớt nóng châm thêm nước trà ngâm chừng 15, 20 phút, đồng thời 2 tay cào, xoa nhè nhẹ 2 bàn chân để rút hàn khí và dẫn lưu khí huyết. Chỉ 2, 3 hôm là 2 chân nhẹ nhàng, đỡ mỏi, đỡ lạnh…
Thầy còn nhắc kỹ điều này: những người bị phong hàn, thần kinh tọa luôn luôn chân đi phải cách đất, dù nền gạch hoa cũng vậy, luôn phải mang dép trong nhà, nếu không bệnh thần kinh tọa không tài nào chữa hết được!
- Tôi có người anh kết nghĩa được ai đó tặng cho 2 chậu cây Hoàn ngọc và cây Xuân hoa (gọi chung là Hoàn ngọc lá lớn, Hoàn ngọc lá nhỏ) đem về không dám sử dụng, tôi chiết giống đem về trồng cũng để đó chẳng biết làm gì (thời gian này cây Hoàn ngọc chưa biết công dụng và chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ dùng theo kinh nghiệm dân gian)
Thầy Hải Thượng về bảo: Thuốc quý đây con, thầy dạy con cách sử dụng nghe!
Viêm họng: hoàn ngọc lá nhỏ (nam thất nữ cửu) dùng lá hoặc đọt non cũng được, nhai nuốt nước để trôi chầm chậm qua cuống họng, kết quả tức thì!
Tôi đã dùng cho nhiều người, đều khỏi. Có điều mụn lỡ trong miệng phải nhỏ nước thuốc đặc vào đúng chỗ lở thì tác dụng giảm đau liền, nhai có nước bot tác dụng chẳng bao nhiêu! Có lần tôi bị té quỵ trầy sướt đầu gối, làm độc viêm và sưng mũ, tôi lấy lá giã đắp lên, 1 tiếng đồng hồ sau viền đỏ viêm chung quanh vết thương hạ xuống, chỉ 4, 5 hôm là khỏi hẵn! Điều kỳ diệu là vết thương ngay đầu gối thường lâu khỏi vì nằm ở chỗ co duỗi chân, nay nước lá hoàn ngọc có tính năng tạo đàn hồi, làm cho da non không bị tổn thương khi co giản…
Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm điều trị bằng lá hoàn ngọc rất tuyệt vời, nhờ Thầy dạy, thầy còn dạy tôi cách chế biến và ngâm rượu 2 loại hoàn ngọc khác nhau: Lá lớn thì tẩm nước cơm vo, lá nhỏ ngâm với gừng... cách sao tẩm công phu và tác dụng điều trị thì “khỏi chê”!
Rượu hoàn ngọc lá lớn để trị bao tử và huyết áp, các bệnh về đường ruột...
Hoàn ngọc lá nhỏ công dụng nhiều hơn, ngoài trị các chứng như trên còn sát trùng, giảm đau, tiêu viêm...
Rượu hoàn ngọc lá nhỏ dùng trị đau bụng cấp tính, đau bụng gió, tiêu chảy, viêm đường ruột, đại tràng, nôn mửa...xoa ngoài giảm đau, tiêu viêm, thông khớp, chữa bong, sưng, trặc, bầm tím, tụ máu...kết quả thấy chuyển ngay sau lần đầu tiên sử dụng!
Thế nhưng, cho dù thầy giỏi đến thế nào cũng không chữa được bệnh cho tôi. Khi tôi đau dữ xin thầy về, thầy chỉ đứng nhìn buồn rầu rồi nói: “Thầy xin lỗi, thầy không chữa được bệnh cho con” rồi thầy quay lưng đi. Tôi chẳng dám trách thầy nhưng lòng tôi đau đớn lắm...
Ngay cả các con tôi, tôi cũng không chữa được bệnh cho chúng. Khi con tôi bệnh tôi chỉ có đưa đi bác sĩ. Định mệnh gì mà nghiệt ngã đến thế này?
Về sau, từ khi tôi học thêm về nhân điện, tôi mới chữa được bệnh cho con của mình, cũng có lúc được, lúc không (từ năm 1999)
15. THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO
Giờ, để thay đổi không khí, tôi xin chép lại vài bài thơ văn khuyến đạo của “Điển ông”. Những bài này là Điển cầm tay tôi chép lại, không hề sửa chữa, bôi xóa gì - Khi viết xong, ông hay đề thêm câu: “Huệ nghiêm chấp bút”.
Thơ của Phật Bà thì đề : “Huệ Minh chấp bút”, còn Nam Hải Liên Hoa thì đề “Nam Hải Liên Hoa ứng tặng.”
NHŨ BẠN
Cõi đời trải có bao lăm
Chiêm bao tỉnh mộng trăm năm thẫn thờ
Công hầu khanh tướng _ ai ngờ!
Giàu sang vinh hiển bụi bờ vong thân
Người ơi, một kiếp phù vân
Đắng cay nhục thể, muôn phần ai hay
Để rồi nằm xuống trắng tay
Cuộc cờ sinh tử ai bày thế nhân?
Sông Mê chèo mãi không cùng
Thuyền nan phận mỏng e chìm giữa khơi
Chắp tay mà khấn bên trời
Mâm cao lễ vật, cỗ đầy thức xin
Xót xa hai chữ nhân tình
Những mong đút lót phận mình an khương
Tượng thờ vàng thiếp son sơn
Lọng che sáo phủ, e còn chưa nguôi
Trên cao trông xuống nực cười
Bụt đất tượng gỗ cả đời lạy van
Mẹ cha hất hủi bên đàng
Tiếng kêu đồng loại chẳng màng tâm hao
Ai thương, ai lụy, ai sầu?
Mấy ai tỉnh mộng bên cầu oan tương
Bắt tay, khuyên lấy bạn đường
Nẻo về xa lắm sao còn phân vân...
Huệ Nghiêm chấp bút!
17/5/1991
KHUYÊN AI
Xa Luân pháp chuyển dời tứ hải
Cõi trầm luân thập loại u mê
Đón người mấy nẻo đi về
Từ bi _ Phật độ hồn mê giữa đời!
Mấy ai biết thế - gian - vạn - hữu
Ai tỏ tường Tứ - đại - giai - không
Làm người giữa cõi trầm luân
Tử sinh còn động, lòng trần còn xao!
Tâm còn động thì thân chẳng tịnh
Hồn còn mê, xác ấy tỉnh sao?
Liên hoa – Sen chốn bùn nhơ
Mà trong trắng mấy ai ngờ, ấy duyên!
Nầy chân lý phá Mê, khai Ngộ
Thương thế nhân Phật trợ hồn mê
Đoạn lìa đau khổ – hướng về
Đạo Tràng – mai hậu còn nhờ thân sau
Nẻo đường chân lý dài lâu
Hào quang Vĩnh cửu, tỉnh mau hỡi người!
Rằm tháng tư – chín hai
Huệ Nghiêm chấp bút!
NGỘ
Phòng trung khởi lệ – đoạn trường sa
Trọng giang hí thủy lộ thu ba
Nguyệt lãm thi đề vi nhất dạ
Vụng khởi – tâm sầu bán tự đa!
Bạch lão phi vân trùng tuyết ngạn
Bỉ tâm cô sự lãnh vi hòa
Thế hạ miên trường sinh bách nạn
Sử nhân mặc khải, ngộ Long Hoa!
1/1/2001
Huệ Nghiêm chấp bút!
SUỐI NGUỒN HẠNH LẠC
Nếu ở chốn Thiền môn người không tìm được cứu sinh – thì hãy can đảm rời đó mà đi, can chi phải chôn thân ép xác mình – để cho tháng ngày trôi qua ngoài cửa, luống phí một đời! Hãy mặc chiếc áo người đời đang mặc, ăn món ăn mà đời đang ăn, mang đôi dép đời đang mang – và đi con đường mà mọi người đang đi đó! Hãy cúi xuống nhiều hơn ngẩng lên và hãy dừng lại, cho dù trong lúc đang muốn tiếp tục ra đi!
Hãy nâng lên bàn tay mình những sinh linh đang khó ở và hoạn nạn. Hãy che chở cho họ, dìu họ bước đi cùng ta – và hãy rời họ khi nào họ không cần ta nữa! Người sẽ làm được nhiều hơn hết thảy những kẻ khoác áo thiền môn để trốn tránh sự đời, sẽ cởi bỏ được gánh nặng phiền muộn ưu tư đang lưu giữ trong lòng mình khi để tâm vì người khác.
Mỗi giọt mồ hôi, mỗi giọt lệ và thậm chí một giọt máu đổ ra vì tha nhân còn đáng giá hơn ngàn vạn câu kinh người tụng niệm miệt mài mà không hiểu hết nghĩa từ.
Mỗi giờ khắc bỏ ra vì người khác là giờ khắc bội thu mai sau. Thượng Đế có mặt bên bạn khi bạn quên mình vì tha nhân. Và những Thiên thần chúc phúc cho bạn trên những bước đường bạn đi qua. Những đau khổ bất hạnh hiện kiếp rồi sẽ không còn – và cơ duyên bình an hạnh lạc sẽ tự tìm đến!
Hãy đón lấy ngọn gió xa đã khởi đi từ sau những vòm lá biếc dưới cội Bồ đề mang theo tấm lòng của đấng cứu thế từ bi!
Hãy ban phát như ta đã từng được nhận! Hãy yêu thương như ta đã từng được yêu thương – và hãy nhóm lên ngọn lửa từ ái trong lòng nhân thế vốn đã từ lâu chai mòn bởi lòng vị kỷ. Ngọn đuốc Huệ hãy còn kia, và vẫn lặng lẽ cháy sáng qua biết bao nhiêu thăng trầm cuộc thế, màu hư linh vẫn còn mang!...
Nào! Hãy đứng lên và hãy dấn bước ra đi, bước dấn thân cũng là bước tìm về. Đừng ngồi đó mà chờ đợi! Sẽ chẳng tìm thấy đâu một góc thuyền Bát nhã bập bềnh trôi trên sóng nước luân hồi…
Hãy tự mình nương cậy vào mình, tự mình chèo chống và dìu đỡ mọi người trên bước đường tìm về khởi thủy. Hoa Vô ưu rồi sẽ nở tự nguồn cội úa tàn, và người sẽ thấy mình như sống lại, tươi trẻ – khát khao và rạo rực, sự khởi phát của nguồn suối thanh tân, an lạc và viên mãn đời đời!!!...
Huệ Nghiêm chấp bút!
22/07/2005
LÒNG YÊU THƯƠNG
Cuộc đời quá ngắn – thế mà con người ta có dư thời gian để thù hận, trong lúc chỉ có rất ít ngày tháng để yêu thương - có phải ngọn lửa của lòng vị kỷ dễ nhen lên và bùng cháy hơn là suối nguồn tuôn chảy từ mạch sống dịu dàng?
Con người ta bận tâm đến xem mình đã đánh mất những gì, hay bị người lấy cắp bao nhiêu – mà quên đong đếm xem ta đã mang cho nhân chúng được gì!
Loay hoay với những toan tính, so đo người ta quên mất tháng ngày trôi qua ngoài cửa, mùa xuân đã rời đi – và buổi chiều định mệnh sắp về…
Đến khi gối mỏi chân chồn, mắt mờ tay run – người ta mới giật mình ngoảnh lại, và vụng về làm sao với những bước đi khập khiễng ban đầu: người ta đi chùa cầu phước, cúng bái và bố thí, thi ân như chuẩn bị để mua một chiếc vé đi qua ngưỡng cửa vĩnh hằng - mau lên kẻo không còn kịp, nhanh lên kẻo ngày sắp tàn rồi!...
Người ta dè dặt mở hầu bao, rón rén nhấc lên từng đồng xu tích cóp, nhặt nhạnh và hãnh diện để rơi vào bàn tay đang xòe ra của người hành khất, hoặc đèn nhang bạc lễ đến dâng mình ở cửa Phật từ, nơi mà cả một thuở hoa niên họ đã từng đi qua không hề ngoái lại! Rồi người ta trở về nhà, ngủ giấc ngủ ngon, mơ thấy từ những đồng xu của mình – cây Định Mệnh mọc lên xanh tươi và vươn ngọn tới bầu trời Vị Lai ngập tràn ánh sáng. Đó cũng là một hạnh phúc: hạnh phúc với những giấc mơ, phải không các bạn!?
Còn chúng ta – mang trong người niềm ân cảm sâu xa đối với cuộc sống, với những gì mà chúng ta có được quanh mình: một tiếng chuông nhà thờ gióng giả kêu gọi, một sắc màu tươi thắm của cánh hoa vô danh ngoài ngõ, một nụ cười cảm thông hay một tiếng chim gù… Một thoáng mây trắng lãng du cuối chân trời vô định, một cốc nước mát buổi trưa hè hay một chút hương xa…
Một cánh bướm chập chờn bên cửa, hay một bờ cỏ xanh êm dịu dưới bàn chân… Thãy thãy đều như muốn nói lên rằng: chúng ta đang hạnh phúc biết bao với những gì mà thiên nhiên hào phóng tạo tác và ban tặng – thế thì… sao chẳng mở rộng lòng mình, để thấy gần gũi và yêu mến hơn vạn vật chung quanh – để có thể nâng lên từ trong lòng tay một cành hoa gãy dập đêm qua vì mưa bão, vuốt ve một đứa trẻ xa lạ kêu khóc bên hè, có thể dìu đi một người vừa té ngã, hay kề vai chia bớt một chút gánh nặng của kẻ lạ qua đường - có thể cho người đang đói một vốc cơm nguội, cho kẻ khát một ngụm nước trong, cho người rách rưới một chiếc áo, cho kẻ yếm thế một lời động viên, cho kẻ đang buồn một câu an ủi… Những điều đó hoàn toàn có thể, phải không các bạn?!
Và… hãy thương yêu nhau đi, để rồi mốt mai định mệnh có làm xa nhau người ta không phải ân hận rằng đã không trao tặng cho nhau những gì mình có thể – Bởi vì “cho là nhận” đó mà!...
16. LIÊU TRAI (4)
* Vào đầu tháng 7/1991, gần sạp báo của tôi có 1 tai nạn xe cộ: hai người thanh niên say rượu chạy xe máy đâm vào 1 chiếc xe ngựa chở cỏ, càng xe bịt đồng đâm lủng bụng và gảy nằm luôn trong đó. Xe cấp cứu đưa tơi bệnh viện - Ngay lúc đó tôi cầu xin Ơn trên cứu cho người bị nạn...
Nửa đêm đang lúc “lơ mơ” sắp ngủ, tôi thấy mình xuất hồn vào bệnh viện. Bước vô tiền sảnh tôi thấy tấm bảng ghi tên BS trực ca ngày, đêm, và tên y tá, hộ lý đàng hoàng bằng phấn trắng - “Điển ông” đưa tôi vào phòng cấp cứu, tới bên giường giở tấm ra phủ tôi thấy xác người Nam đó đã chết rồi! Tôi thét lên một tiếng, tông cửa chạy mất!
Quả nhiên, ngày hôm sau có tin người thanh niên bị nạn đã chết vì vỡ lá lách.
Sau đó 1 tháng (vào tháng 7 AL) mưa dầm dề cả ngày đêm. Độ 6, 7 giờ tối tôi đang ngồi trong sạp báo nhìn ra, sực thấy hồn cậu thanh niên chết ngồi gục đầu, đúng ngay cửa tiệm may, nơi bị xe đụng chết. Lúc đó, tôi mới tin lời truyền miệng của ông bà xưa: Chết vì tai nạn xe cộ cũng như chết dưới nước, ở đâu thành cô hồn ở đó, không được về nhà, chờ cho đến khi bắt được người thế mạng mới được rời đi!
Đêm đó, tôi làm bài thơ “Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu”, xin chép lại cho bạn đọc nhé!
ĐIỆU BUỒN THÁNG BẢY MƯA NGÂU
Đèn vàng nhạt nhòa mái phố
Mưa qua hiu hắt từng cơn
Bóng ngã gục đầu trong gió
Về đâu – lạnh lẽo hương hồn?
Cửa khép – nhà xưa bỗng lạ
Bạn quen còn có ai đâu
Còn chăng nấm mồ vô chủ
Quạnh hiu ngọn cỏ mai sầu!
Trời cao động lòng trắc ẩn
Mưa buồn, mưa mãi từng cơn
Làm sao giúp người lận đận
Có ai mở cửa Thiên đường?
Địa ngục cũng không, Người ạ!
Số chưa phải số thì thôi
Lang thang cuối trời quạnh quẽ
Rồi về chốn cũ đợi ngày...
Nơi chết xin làm nơi ở
Đây thôi – còn biết đi đâu
Gục đầu đếm ngày giông bão
Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu!
Tỉnh mộng người ơi, kẻo trễ
Công hầu, Khanh tướng mà chi
Nằm xuống – mộ phần vô chủ
Một nắm cỏ khâu xanh rì!
Chi bằng tu nhân tích đức
Nhờ đèn Từ rọi hồn mê
Tháng bảy, vài hàng cảm tác
Tri âm – xin bắt tay thề!
Diệu Thiện
* Có một người phụ nữ độ 25, 27 tuổi – nhà ở tận Củ Chi, có căn cậu Trạng 6 tuổi về theo! Thỉnh thoảng lại đi bộ từ nhà xuống chợ Hiệp Thành, lang thang khắp nơi, phán bảo đủ điều tùy hứng! Có lần bà D kế bên rủ tôi: “Trạng đang về bên nhà chị Hồng – người đến xem đông lắm, chúng ta sang đó coi đi”. Tôi tò mò cũng đi theo – lách qua đám đông, tôi vào ngồi ở 1 góc phản gỗ ở phòng khách…
Lúc đó xác Trạng đang khấn khứa ở phòng khách, bỗng nhiên quay lại nhìn tôi và nói: “Có căn sao không về nói chuyện chơi” – Tôi cười bảo: “Biết gì đâu mà nói”: “Không nói ta làm cho nói” - Đoạn đưa tay ngắt 1 bông hoa vạn thọ đang chưng trên bàn thờ nhúng vào ly nước cúng vẩy vào mặt tôi, lầm rầm xin gì đó! Ông nói trong đầu “Vào chơi nhé!” Tôi “ừ” xong leo tuốt lên giữa bộ ván ngồi xếp bằng trông oai lắm...
Xác Trạng ngẩn nhìn một lát, rồi chắp tay vái lia lịa: “Ông tha cho con, tha cho con”. Xong leo lên ván nằm vùi trong lòng tôi, nói giọng nũng nịu: “Ong tha cho con, đừng bắt con về tội lắm. Con chỉ ham chơi chút xíu con về hà! Ong ứng hỏi, xác nói: “Con 6 tuổi, con trốn đi chơi 2 năm rồi” – Tự nhiên cũng vui chuyện, ông không rầy rà gì xác Trạng, quay qua xem số cho hết người này đến người khác, cuối cùng không phải Trạng nói mà là ông nói...
Tôi chỉ nhớ 1 việc mà sau này ứng đúng như vậy! Ông chỉ chị Hồng nói: “Ráng mà ăn chay niệm Phật cầu xin đi! Thằng con trai độc nhất của cô hơn 1 năm nữa thì chết đó”
Mỗi lần “Điển” về phán bảo những điều như vậy, tôi thường rất lo sợ, sợ người ta mắng mình ác miệng rủa họ - Vậy mà đúng! Hơn 1 năm sau một buổi chiều nọ tôi đang ngồi trong quầy báo, kế bên có 1 thùng thư của bưu điện. Một cô gái bỏ lá thư bào thùng rồi đi, lá thư còn thừa ra 1 góc! Bé Tín (con chị Hồng) lúc đó chừng 12, 13 tuổi đi qua đường, vừa đi vừa ngoái lại nhìn và cười. Một chiếc xe máy phóng nhanh trờ tới đụng “rầm” một tiếng. Thằng bé lăn ra đất dãy lên đành đạch như cá bị đập đầu...
Một tháng rưỡi sau cậu bé sống, đưa về! Bà ngoại (Mẹ chị Hồng) kể: “Đưa xuống BV Trưng Vương cấp cứu một hồi nó tắt thở, BS rút ống thở ra, tôi không chịu vác lên vai kêu xe chạy qua BV Chợ Rẫy, mới cứu được nó”. Vậy là phúc nhà vẫn còn... Thằng bé bị vỡ mất một mảnh xương trán, đến giờ hãy còn mềm phập phều, về sau tâm thần có hơi bất ổn một chút! Bà ngoại và Mẹ cậu bé từ đó hay ăn chay và thường xuyên đi chùa để tạ ơn!
Có điều lạ ở tôi là các phần Điển không bao giờ tự động về nhập xác, chỉ khi nào tôi đồng ý hoặc cầu xin thôi! Nếu Điển tự về mà tôi không muốn, sẽ trụ lại trong đầu xoay tôi chóng mặt một hồi rồi tan chứ không ép buộc - Và khi Điển nhập vào rất nhẹ nhàng, không bị ợ ngáp, múa may quay cuồng hoặc cướp cái thần của xác để ứng về trong xác mê! Với nhiều người khác khi Điển về hành nhiều lắm, và khi Điển xuất ra xác ngã vật ra sau bất tỉnh độ chừng 1 phút, sau khi tỉnh lại thì rất mệt...
Phần tôi, khi Điển về cả người nóng ran lên, phần da ở đầu và cổ đỏ rần, chỉ nghe choáng váng một chút thôi, khi hồn xuất ra cũng nhẹ nhàng và hoàn toàn bình thường như không có gì!
Những lúc như vậy tôi thấy linh hồn mình ngồi ra một góc, Điển phán bảo gì hồn nghe cả, sau kể lại chẳng sai 1 chi tiết nào! PB bảo: “Căn nhà Phật là căn tỉnh nên khi nhập căn thì tỉnh táo vậy đó”.
Và thêm một điều lạ nữa là trong tôi có thể nhập về hai ba phần Điển cùng một lúc, ngay cả linh hồn tôi cũng có mặt giữ quyền tra xét, giải thích, cầu cứu, quyết định...
Linh hồn tôi ngồi nghe tất cả, thỉnh thoảng xen vào góp ý kiến hoặc cầu xin Ơn Trên ứng cứu cho hồn ai đó...y hệt như người đóng 2, 3 vai trong một bộ phim lồng tiếng: lúc thì oai nghi, khi sợ sệt cầu xin, khi bướng bỉnh lúc lại dọa nạt, van cầu...Giọng thay đổi tùy theo phần nhập, cho đến khi giải quyết xong mọi việc mới thôi!
Trong lúc Điển về hành xử, hồn và xác của tôi luôn luôn là người chủ trì, Điển trên chỉ làm theo lời yêu cầu của tôi và chính tôi phải là người động não, “tùy cơ ứng biến” y hệt như vị Quan tra án ở Công Đường. Điển trên chỉ là “phương tiện trợ cứu” mà thôi!
Tôi thường nói vui với mọi người: “Tôi chỉ làm Quan tắt, tự điều tra, phá án, ra quyết định rồi trộm con dấu đóng cái “cụp” là xong, chứ có được học tập, rèn luyện bao giờ đâu!” Phải tự mình suy nghĩ tìm cách rồi linh động mà hành xử, những lúc ấy, đầu tôi căng lên như muốn nổ tung, phải khéo léo và cẩn trọng, không thể chuyên quyền, áp đặt hay dọa nạt, lợi dụng Phép Ngôi cao mà khống chế Am phần. Luôn phải giữ đúng lương tâm và đường lối của nhà Phật: “Từ Bi Hỉ Xả”, độ lượng khoan dung và từ ái, phải xử cho công bằng và hợp lý, sao cho muôn người vạn loại phải “tâm phục, khẩu phục”! Và tôi luôn làm được điều ấy trong suốt 22 năm qua, chưa bị khiển trách lần nào...
Để rồi sau những lần “phá án” cam go, tôi như quả bóng bị xì hơi, lơ ngơ lẩn ngẩn y hệt “thằng khờ xuống chợ” vậy!
Và tôi phải cảm ơn sự “khảo đảo” trong ngần ấy năm của PB, để tôi trở thành người “giỏi ứng biến" như bây giờ...
Suốt từ những ngày đầu tiên đến nay, “Điển ông” không ra mặt hành xử, nhưng tôi vẫn biết Ông ở bên tôi và lặng lẽ trợ cứu khi tôi lâm nạn. Những quyết định đột xuất của ông lắm lúc làm tôi phát điên lên được, nhưng chả lẻ cãi lại trước mặt mọi người sao! Ông rộng lượng và bao dung, thấy ai cũng muốn cứu, nhưng “cứu người thì ông cứu, bị đòn tôi lại bị” mới kỳ chứ! Khi bị “hành trả nghiệp” đau đớn quá tôi khóc lóc và trách cứ đổ tội cho ông và kiếm chuyện làm nư đủ kiểu...Những lúc như vậy ông im lặng chịu trận, không giải thích gì cả, tôi lằng nhằng quá thì ông biến mất, bao giờ tôi hết kiếm chuyện ông lại trở về...
Có điều bất bằng nữa là ông không bao giờ “vẽ đường chỉ lối cho tôi”, và khi tôi đau ông chỉ im lặng! Tôi có năn nỉ ông góp ý về việc gì đó ông lại bảo: “Tùy em, em làm sao cũng được”
Ông hiền lắm, suốt 22 năm nay ông chưa lần nào mắng mỏ hay nặng giọng với tôi, mặc dù lúc đau bệnh tôi “nghịch thường hết biết” có lẽ ông thương tôi phải chịu đòn oan...
Nhưng điều đáng sợ nhất lại là “đòn cân não”: Điển thường chuyển vào bộ não của tôi những lời thô thiển, xúc phạm tôi vô cớ, thậm chí bắt chước tiếng chươi thề, nói tục của ai đó - giọng nói của người lạ như vọng về từ đâu đó nơi mù mù tâm thức...Những lúc như vậy tôi phát điên lên, tưởng có thể đập đầu vào tường cho vỡ tan đi, để không còn nghe tiếng nói vọng từ trong não mà lại nghe chừng như ở một cõi nào rất xa vọng tới. Ngày xưa thỉnh thoảng có đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi còn nhớ có một cụm từ diễn tả được trạng thái này: “Truyền âm nhập mật”!
Sau những lần như vậy, thần trí tôi gần như muốn điên lên, rất lâu sau, 10 bữa nửa tháng, vẫn chưa trở lại bình thường - Bây giờ tôi mới biết đòn “tra tấn tinh thần” đáng sợ đến thế nào!
Qua lúc đó, ông khuyên tôi: “Khi nào em nghe từ miệng anh nói, em muốn xử sao cũng được! Điển đưa vào thần trí của em để thử thách em, xem như hành trình tu tập vậy. Em còn để tâm nghe và giận thì còn bị dài dài. Điển rèn luyện chữ “nhẫn” và đức “xả” cho em đó thôi!
Trời đất, tôi vẫn là “người trần mắt thịt” cơ mà! Có câu châm ngôn của ai đó: “Người ta nhổ vao mặt kẻ hèn nhát, hắn nói: trời mưa”, tôi mà là kẻ nhu nhược, yếu hèn sao!? Thế là tôi “quậy tới bến”…
Càng quậy càng bị đòn đau, càng đau càng quậy, lại đau! Đến lúc tận cùng của sự chịu đựng, tôi khóc thê thảm một lần, khóc đến lạnh ngắt tay chân, khóc tưởng đứt từng đoạn ruột - Thế là sáng hôm sau... hết bị đòn!
Mọi cái đau đớn biến đi đâu mất, cứ như một trò đùa - khi nó đã qua rồi, tôi không tài nào có thể tưởng tượng ra cơn đau ấy nặng tới chừng nào. Cứ như người ngủ mê mơ một cơn mơ dử, tỉnh ra thấy mình nằm trên chăn êm nệm ấm và giấc mơ không còn nữa...
* Có lần tôi vừa đau vừa quậy trong nửa tháng trời như vậy. Đến một đêm đang nằm mê mê trên giường nghe tiếng ông nói, mở bừng mắt ra, tôi thấy ông đang đứng chắp tay cầu xin tất cả các cõi Trời, Phật hỗ trợ cho ông hiện nguyên hình Tất Đạt Đa Hoàng Tử để tôi tin ông. Thế là tôi lại thấy các vệt sáng nhoáng nhoàng bủa xuống trên đỉnh đầu ông, sau đó hiện ra hình ảnh Tất Đạt Đa Hoàng Tử (Chỉ thấy nửa người trên) đẹp lộng lẫy, toàn thân như dát đầy vàng! Một dáng thanh niên tuổi chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, đội chiếc mũ có ngù cao toàn bằng vàng. Hoàng Tử cười với tôi, đưa bàn tay lên chào rồi biến mất, tôi còn kịp thấy ngang cổ tay đeo 1 băng tay bằng vàng và bàn tay với những ngón thon mảnh đẹp như tay người con gái...thế là tôi hết “kiếm chuyện”!
* Có lần cũng qua một thời gian bị đòn, và tôi đang ra sức oán thán, đổ tội cho ông. Đêm đó tôi vừa lơ mơ ngủ, chợt thấy một cảnh tượng rất lạ: có 1 chiếc bè lớn, trên đó là tất cả người, vật, nhà cửa...PB mặc áo lụa trắng, đang cố sức chống cây sào đẩy chiếc bè lớn qua sông. Dưới dòng sông ấy nước đen kịt và đủ thứ rác rưởi dơ bẩn trôi lềnh bềnh... Chỉ thấy hình ảnh đó thoáng qua chừng 1, 2 phút rồi biến mất. Tôi lại ngồi dậy khóc và xin lỗi PB với Điển ông và sáng ra...hết bị đòn!
Đến khi nào thấy tôi đi đến tận cùng của sự chịu đựng và tuyệt vong, Bề trên lại “xả hành”! Coi như qua một cuộc tra tấn dài ngày, được cho nghỉ dưỡng sức vài hôm, để rồi lại bắt đầu một trận đòn mới...
Thời gian càng lâu, tôi càng tiến bộ nhiều hơn - mọi việc đều xử nhanh chóng, mau lẹ! Chẳng bù với 10 năm đầu, tôi còn bị những phần âm giỏi tà phép đánh cho “xiểng liểng”, đầu váng mắt hoa, cảm giác lúc ấy y như người bị trúng gió, bước đi chỉ chực ngã té! Mặc dù lúc đó sợ đến mất hồn nhưng vốn “lì lợm” tôi chẳng chịu thua bao giờ. Định thần lại tôi cầu xin các thế lực Trên về cứu và tôi lại thắng! Những phần âm hung hãn Điển về bắt đưa đi mất, chẳng còn hại người được nữa...
Đầu tiên, ơn Trên để cho tôi tự hành xử, đến khi nào tôi thua, tôi cầu cứu thì Trên mới ra tay ứng cứu! Những lúc như vậy tôi ức lắm, trách cứ ông đủ điều, và ông cũng chỉ một chiêu duy nhất: “Im lặng là thượng sách”
Có lúc bị đòn nhiều quá, tôi khóc và trách PB: “Người nắm đầu con nhấn xuống bùn, đến khi nó ngộp thở sắp chết thì kéo lên cho thở vài hơi rồi lại nhấn tiếp, tại sao vậy chứ? Con có tội gì, Người nói đi”. Đương nhiên là chẳng ai thèm trả lời tôi...
PB gánh thay cho Ông tất cả. Hễ tôi trách cứ ông là PB về nhận hết tội cho mình: “Ta làm đấy, Ông không can dự gì”. Bởi PB biết tôi rất sợ PB, Người hay dùng uy lực của mình xử ép tôi, càng cãi lại càng bị đòn thêm. Tôi ưc lắm mà không dám nói gì!
* Có lần bị đòn nặng lắm, tôi thắp nhang xin cúng kiếu xong dẹp hết bàn thờ, tìm đến nhà Thờ xin rửa tội theo đạo Thiên Chúa. (Trong vòng 22 năm tôi đã 4 lần dẹp bàn thờ y như vậy)
May là hôm đó Chị bạn hứa dẫn tôi đi bận việc, nếu không, có lẽ tôi đã mang toàn bộ gánh nặng nghiệp chướng này chuyển vào nhà Thờ mất rồi!
Trưa hôm sau, độ 10 giờ sáng, đang đứng bán báo trong quầy chợt tôi thấy một chiếc xe mui trần chạy ngang qua, trên xe chở một tượng PB đẹp lộng lẫy, cao chừng 1m50. Chiếc xe như đang diễu hành qua lễ đài, chạy “xình xình” thực chậm qua khỏi sạp báo, tôi bước ra đứng nhìn thấy người phụ xế leo xuống, hướng dẫn cho chiếc xe đánh vòng quay lại, chạy qua sạp báo 1 lần nữa, xong đi xa dần rồi mất hút...
Có điều lạ là quãng đường trước cửa sạp báo không có ngã ba hay ngã tư, cũng không thấy người phụ xế hỏi đường hay tìm địa chỉ gì. Chiếc xe đến rồi đi cứ như trong một giấc mơ...
* Lại một lần nữa (trong hoàn cảnh tương tự) tôi chán chường ngồi lan man lật xốc mấy quyển báo đặc san. Ngay chính giữa quyển Đặc san Sân khấu có in hình Phật Thích Ca Mâu Ni thật lớn chiếm cả 2 trang báo - Cứ mỗi lần như vậy lại dường như có 1 tia chớp cảnh tỉnh trong đầu, tôi quay vào thắp hương xin lỗi PB và Ông!
Người chẳng buồn trách tôi đâu, tôi biết - Bởi liệu có mấy kẻ trên đời này chịu làm việc trong hoàn cảnh tương tự như tôi?! Cho dầu đau bệnh đến mấy, tôi vẫn không từ chối bất cứ ai tìm đến nhờ mình giúp (cho dầu là việc gì đi nữa, tôi không xử lý được trọn vẹn thì cũng một phần) Tôi làm mọi việc chỉ vì lòng thương người, chứ không vì lợi lộc hay danh tiếng! Tôi chỉ như là một hạt cát nhỏ nhoi vô danh ở một góc đời quạnh quẽ, không tiền bạc địa vị, không hạnh phúc cũng chẳng được yêu thương... Một người đàn bà tật bệnh liên miên, thiếu thốn nợ nần như cơm bữa, cuộc sống gần như “tứ cố vô thân”, không có cả tình thương yêu của người thân ruột thịt...
Người không thương tôi nhưng tôi lại yêu thương tha thiết mọi người...tôi yêu từ con người đến loài vật, 1 cánh hoa tàn cũng động mối thương tâm, cây cỏ dại nhổ bỏ đi lòng cũng xót. Đang đi thấy con cuốn chiếu, chú ốc sên bò ngang đường cũng dừng xe lại gắp bỏ vô lề “kẻo xe nghiến chết nó tội lắm”!
Thấy người ỷ mạnh hiếp yếu, tôi đau nghẹn như chính mình bị xử ép vậy. Tôi không bao giờ xem các trận đấu Bò hay đấu quyền anh, không ưa coi các phim bạo lực, cũng không thích xem các trận thi đấu, bởi vì ở đó có giọt nước mắt của người thua cuộc, có nỗi đau...
Tôi hay bị mang tiếng là “nhiều chuyện”, hoặc “ách giữa đàng lại mang vào cổ” và thỉnh thoảng cũng bị (nói vui theo kiểu dân gian) “đá giò lái” hoặc là “gậy ông đập lưng ông”. Mỗi đợt như vậy tôi buồn đến bỏ ăn, bỏ ngủ...sau đó vẫn chứng nào tật nấy, thấy chuyện bức xúc lại nhào vô!
17. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (2)
Kể từ ngày lấy ông Hinh làm chồng, tôi thường hay có những giấc mơ lạ (hay còn gọi là “Mộng ứng”). Đa số đều khó khăn và nặng nề, về sau ngẫm lại đúng như hoàn cảnh thực. Tôi kể bạn đọc nghe nhé!
* Tôi mơ thấy mình mặc bộ đồ lụa trắng rất đẹp cùng 2 bé Tí, Ti được ông Hinh chở bằng xe đạp (loại xe đạp thồ để chở nặng đi đường núi) đi từ cuối dốc lên căn nhà nằm cao ngất trên đỉnh dốc. Con đường vừa mưa xong trơn trợt, đầy dấu bánh xe dọc ngang - Chiếc xe đạp chở 3 mẹ con nhích từng bước nặng nề… Ông Hinh nói đùa: “Yên tâm đi, dân này chuyên đạp xe thồ mà!”. Rồi cũng lên tới dốc, vào 1 căn nhà trống, lúc đó 2 đứa nhỏ than đói bụng, ông H đi 1 vòng trở lại mang mấy trái khổ qua bảo: “Không có gì, ăn đỡ mấy trái này đi!”. Bé Tí vơ lấy, cắn 1 miếng rồi nhăn mặt vứt ra sân “Đắng nghét”. Tôi chỉ vào vách ngăn phòng khách nói: “Ngày xưa Ba xây nhà cho em có nói để của ở trong bức tường này. Ba còn dặn sau này phải tìm cây đèn nào sáng thực là sáng soi vào mới thấy được mà lấy của ra”. Không có đèn, ông H lấy cây sắt to đập mãi mà không vỡ được tường. Có thế, tôi tỉnh dậy - Quả đúng là lấy nhau khổ nạn trùng trùng, giống như người đói phải ăn trái khổ qua vậy!
* Một lần vía tôi mơ thấy mình đang có thai, đói bụng mà không có gì để ăn! Tôi và ông H leo lên cây ổi hái trái ăn cho đỡ đói. Cây ổi chỉ co toàn trái non, đắng nghét! Ông H nhai, nhăn mặt rồi nhả bỏ! Còn tôi không ăn, nghĩ “phải trèo xuống đi kiếm gì ăn, để con mình trong bụng nó đói!”. Sực nhìn xuống, thấy gốc cây bị kẽm gai rào chắn tứ phía tự lúc nào! Tôi bươn bả leo xuống, gai quào toạc cả tay chân...
* Tôi mơ thấy nhà mình ở cuối 1 con đường đê nhỏ hẹp. Một buổi chiều nọ tôi nhặt được 1 sợi dây chuyền thật to (của ai không biết). Nhìn tứ bề đồng không mông quạnh, tôi đem vào nhà cất định chờ mai ai tới hỏi tìm sẽ trả lại cho họ. Chẳng hiểu sao lại leo lên giường gát sợi dây chuyền lên bloc lịch treo tường rồi đi ngủ!
Sáng ngày hôm sau, cô gái giàu có kêu căng con ông phú hộ đầu làng dẫn 1 toán lính tới nhà tôi sục tìm. Mắng tôi: “Ở đây chỉ có nhà con nhỏ này, nó lấy chứ không ai! Tao mà tìm ra tao còng đầu mày đưa lên quận nhốt cho coi”.
Tôi ức quá không thèm lên tiếng, chúng sục sạo một hồi rồi bỏ đi mất! Tôi đi chân không, chạy riết lên Dinh Quan Huyện, vào công đường, thấy Ông đang ngồi lim dim, tôi la lên: “Anh Hai, lính nó lục soát nhà mình anh có biết hay không?” Anh nhẩn nha hỏi: “Có thấy gì không?” Tôi nói không, anh lại bảo “Thì thôi, để tâm làm chi!” Tôi ức quá tấm tức khóc, anh lại dỗ: “Đâu phải làm Quan rồi muốn sao cũng được đâu em. Cái gì cũng phải chiếu theo luật mà làm thôi”…
* Lần nữa tôi mơ thấy bị 3 người điên đuổi đánh, chạy vòng vòng - ba tên lực lưỡng cầm roi cứ tìm tôi mà đánh, mọi người đứng xem chật đường, không ai bênh vực hay nói năng gì - Sợ chúng phá tan tủ kính, trong quầy, tôi chạy vô, bị đánh đau quá chạy lộn ra đằng sau, vía thấy nhào đại xuống hầm nước sau nhà. Nước màu đất sét dơ bẩn, đầy rác rưởi, quần áo một ôm trên tay rơi vãi lung tung...
Ba tên điên nháo nhác đi tìm ngoài đường - bỗng nhiên có 1 người phụ nữ nhảy xuống theo, đưa cho tôi chiếc nón lá, xong vắt quần áo bỏ vào trong nón rồi ra dấu cho tôi núp sau lưng, leo lên mà chạy trốn đi chỗ khác!
Lại thấy một Ông lớn đeo kính gọng vàng, cặp táp, giày Tây, áo veston, chừng như đang đi thị sát! Ông tới trước mặt, nhìn tôi mà chừng như không thấy, quay ra vẫy tay ra dấu nói: “Không có ở đây đâu, sang bên kia tìm đi!”. Thế là ba kẻ điên xách roi bỏ đi mất...
Tỉnh dậy, tôi thấy mình khóc đến sưng cả mắt, cầu xin PB về hỏi: “Mấy người điên đó là ai! Tại sao họ đánh con dữ vậy?” PB bảo: “Người ta nói “họa vô đơn chí” là vậy đó con”. “Người phụ nữ và ông lớn là Phật Bà với Phật Ông phải không? Sao chẳng ai cứu con hết vậy?” PB lại bảo: “Con phải tự cứu mình, chúng ta chỉ hỗ trợ chút xíu thôi! Con phải tự chèo chống mà vượt qua sóng gió cuộc đời, con à!”. Vậy đó, mọi người khóc kêu thì Mẹ cứu, còn tôi thì Mẹ bảo phải tự chèo chống, nghĩ đáng buồn chưa?!
* Cuối năm 1994, vào một đêm mùa đông lạnh lẽo, tôi mơ thấy một giấc mơ lạ: “Thấy mình đang đi vào 1 khu rừng nọ, đến 1 ngôi Đền để vay tiền dùm bà H (đã kể vào những đoạn trươc). Chờ mãi đến lúc trong Đền có 1 cô gái mặc bộ đồ màu trắng đi ra, cô ấy nói với tôi: “Bà ấy hết chuẩn cho mượn rồi, chị về đi, lo cho thân chị, nợ nần lung tung kia kìa!”. Nói vừa xong, thoạt thấy trong đền đi ra một ông lão phơ phơ tóc bạc mặc 1 bộ đồ trắng cũng giống cô gái kia!
Ông cụ chân đi lửng thửng, cô gái lặng lẽ theo hầu đàng sau. Tôi cũng đi bên cạnh, lòng buồn rười rượi - Ông cụ nhìn tôi một thoáng rồi nói: “Con à, của Bề trên cho của một sinh mười, Bề trên lấy lại của mười không còn được một”.
Tự dưng tôi reo lên: “A, con biết rồi. Hèn nào trước đây 3 năm hai ông bà ấy nghèo lắm. Nhờ ông cho mượn tiền, họ mở 1 xưởng cưa, mướn 30 người thợ, còn sắm được 2 chiếc xe máy xịn nữa! Đợt này làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất - Ông mà không cho mượn nữa họ bán hết của cải chưa trả hết nợ, còn lo bị ở tù nữa à”...
Ông cụ đi bộ dài theo con đường nhỏ bên hông ngôi đền, cô gái vẫn kính cẩn theo hầu phía sau. Dưới chân tôi lá mục rụng đầy, lẫn trong xác lá có đầy những vàng nhẫn, vòng xuyến bằng vàng ròng sáng lấp lóa... Trong tôi dâng lên lòng tham: “Chỉ cần 2 khâu như thế này là đủ cho mình trả nợ rồi!” Lại đấu tranh tư tưởng: “Không được, đây không phải là của mình, lấy là ăn cắp”. Ông cụ mỉm cười, theo dõi diễn biến trên mặt tôi, đoạn cúi xuống nhặt 1 chiếc nhẫn đặt vào lòng tay tôi, nói: “Ông cho con, để ăn dần. Mai mốt ông cho tiền trả nợ. Nhớ lời ông dặn nghe không!” - Tôi lặp lại như con vẹt rồi giật mình tỉnh giấc: “Của Bề trên cho, của một sinh mười. Bề trên lấy lại, của mười không còn được một”...
* Năm 1994, khi tôi cấn thai đứa thứ ba 1 tháng rưởi. PB về bảo tôi: “Con làm việc cho ta 10 năm, nay Ta trả công cho con. Là đứa con gái trong bụng của con đó. Con nói trước với chồng con kẽo nó nghi ngờ: chồng con đen như cột nhà cháy, con thì nước da ngăm ngăm - Nhưng con gái của con da trắng, má đỏ, môi hồng, nó là Thánh Nữ, pháp hiệu là Minh Tâm - 13 tuổi rưởi, con nhớ nghe! Nó sẽ ra đời ngày hai mươi tám tết, con lo chuẩn bị sẵn sàng đi. Mọi đứa trẻ khác khi lọt lòng mẹ thì hồn mới nhập xác, còn con bé nhập hồn ngay trong bào thai. Trong suốt thời gian đó, nếu hai vợ chồng con có tư tưởng không tốt thì nó không ra đời.
Ta dặn trước, nhớ cho kỹ! Đến khi đủ tuổi học lớp 1 mới cho nó vào trường, còn bé mà đưa đi xa mẹ linh căn nó sợ là nó bệnh. Đủ 12 tuổi mới tin nó là con của con nghe chưa!”...
Sung sướng biết bao nhiêu mà vẫn bán tín bán nghi. Tôi vốn có 2 đứa con trai, giờ có con gái thì rõ là điều tuyệt vời nhất!
Để được “điều tuyệt vời” ấy tôi phải đánh đoi một cách đáng sợ - Từ lúc có mang đến khi sinh con tôi không ăn được gì lạ ngoài cơm trắng, bánh tráng nướng hoặc nhúng chấm nước mắm với canh rau! Tất cả các loại thịt động vật không đưa vô miệng được...
Vốn tôi đã gầy ốm (43 kg) mang thai tới khi sinh cũng có đúng 43 kg! Bệnh viện thì khám hàng tháng BS cứ chau mày, đủ thứ thuốc bổ dưỡng vẫn chẳng lên cân tí nào!
Cái thai hành mới ghê chứ - mỗi đêm tôi nằm đau nhức rã rời, ông H phải day phần lưng mãi mới nằm xuống, ngồi dậy được!
PB bảo cho tôi nghỉ chữa bệnh một thời gian để lấy sức cho con, thực ra là nghỉ để lấy sức chịu đòn: Hai bàn tay tôi mười ngón sưng cứng cả 10, đau nhức liên tục, ban ngày còn đỡ, đêm tới nhức cả đêm, không để vào đâu mà chịu được! Cả 2 tay đều mất cảm giác, đụng đâu rơi vở đó, rửa chén bát không còn biết sạch hay dơ; chiên xào bị phỏng hoài không biết đau đớn là gì…
* Có thai độ 3 tháng, một đêm tôi đang nằm trên giường, thấy PB đưa về 1 bé gái độ 12, 13 tuổi, mặc áo đầm bằng voan trắng, chân cũng đi hài trắng! Con bé xinh xắn, tóc cắt ngang tai, da trắng, má đỏ môi hồng. PB bảo: “Con bé Minh Tâm đây! Mẹ con đó, chào mẹ đi”. Bé Minh Tâm nói lí nhí gì đó trong miệng, điệu còn xa lạ lắm…
Tôi ngồi dậy ôm bé vào lòng, hỏi: “Con thích ăn gì, mai mẹ mua cho con ăn?” Bé nói: “Con thích ăn nhãn tiêu”, 10 p sau PB đưa bé đi!
Từ đó, thỉnh thoảng PB lại đưa bé về để an ủi tôi, tôi nhìn con mà có thêm sức chịu đựng cho mình, chứ thực lòng tôi chỉ muốn quyên sinh mà thôi - sự đau đớn cùng cực không có bút mực nào tả xiết được. Có đêm trong cơn mê thiếp rã rời, tôi nghe như có gì âm ấm ở bàn tay. Mở mắt ra thấy bé MT đang quỳ dưới đất, gục đầu khóc, nước mắt từng giọt, từng giọt rơi ấm trên tay tôi...
* Lần nữa, PB về thăm tôi, đang còn đứng đó, đột nhiên bé MT từ ngoài chạy vào quỳ xuống đất hôn gấu áo Mẹ Quán Am vừa khóc vừa van: “PB ơi tha cho mẹ con đi, tha cho mẹ con để con chịu đòn thế cho mẹ”. PB nạt: “Ai cho phép mi đến đây, biến mau”. Thế là con bé biến mất...
Những lúc như thế này, tôi cứ nghĩ mãi trong đầu mình “Bề trên, những vị mà tôi từng tiếp xúc lâu nay, phải chăng là quỷ ác đội lốt Thần Tiên, Phật để đày đọa mình?!
- Nhưng chỉ có tôi là chịu đòn, chịu sự tàn nhẫn nghiệt ngã này, còn tha nhân thì được cứu độ kia mà! Từ bàn tay họ đã từng chiết giảm đớn đau tật bệnh và cưu sống bao nhiêu người, chẳng lẽ tôi chỉ là kẻ tội đồ bị lưu đày. Nếu thế thì tại sao tôi phải làm việc cơ chứ?
Tôi lặng lẽ nhìn, mường tượng thấy đàng sau khuôn mặt đẹp lộng lẫy, sau tấm áo lụa sang trọng kia là một linh hồn ác đang chuẩn bị xé tôi ra hàng trăm mảnh và tôi bắt rùng mình!
PB thì như một robot có trái tim bằng thép, chẳng hề động tâm đến những nỗi đau đớn mà tôi đang chịu. Chẳng biểu lộ một chút thương tâm, đôi mắt đẹp chẳng hề chao đảo, giọng nói vẫn quyền uy, hình dáng oai nghi, đẹp đẽ và sang trọng. Tay đeo vòng ngọc màu xanh trong vắt tưởng chừng soi thấy mình trong ấy! Bàn tay thật đẹp với những ngón mảnh dẽ chuốt nhọn kia có thể chẹn cổ mình sao? Mài tằm mắt phượng kia nhìn thấy sự đau đớn của người khác không hề biết chớp, đôi môi nhỏ nhắn màu son kia có biết run rẩy khi xuống lệnh cực hình?!
Chính trong thời gian này sự chịu đựng của tôi đã đến đỉnh điểm, và tôi đem ra đốt bỏ tập hồi ký 10 năm của mình.
Giờ hồi tưởng lại: đốt bỏ cũng là điều hợp lý thôi, bởi tôi làm sao có can đảm đọc lại nó 1 lần nữa trong đời. Tôi viết nó khi lòng chao đảo mất niềm tin, đau đớn và căm phẩn, tập hồi ký ấy nếu để lại chỉ khiến cho ai đọc thấy tự đưa linh hồn mình về địa ngục mà thôi!
Tôi nhớ có lần đọc thấy một chuyện kể về hai vợ chồng người phú hộ giàu sang, có 3 đứa con trai xinh xắn và ngoan ngoản. Tuổi đã cao, tiền bạc đã có thừa, họ đưa nhau lên Chùa quy y! Sau khi quy y, lần lượt 3 đứa con ngã ra chết, hai vợ chồng già tuyệt vọng đem chuỗi hạt, áo tràng lên Chùa trả lại cho thầy...
Rồi lại nhớ “sự tích con chim tu hú”: Một anh chàng phát nguyện đưa đò qua sông không công xá cả đời - trên 1 dòng sông rộng mênh mông và đầy sóng dữ. PB bảo: “Mi chèo qua sông đủ 10 lần ta cho hiển Bồ Tát” Rồi giả làm 1 người đàn bà, cứ hễ thuyền ra giữa sông lại bảo rằng bỏ quên một món, người chèo thuyền quay thuyền trở lại - Đến lần thứ 9 thì chịu hết xiết! PB hiện ra bảo: “Mi tu gì, tu hú thì có”...
Có lẽ tôi phải chấp nhận sự thử thách nghiệt ngã ấy để đánh đổi cho những gì tôi đã làm được cho tha nhân. Sự công bằng hay bất công cùng nằm trên một cán cân, cán cân kia là cánh cổng Thiên đàng với những linh hồn có cánh...
Ngẫm lại, tôi thấy thương mình quá! Tôi thương tôi biết bao nhiêu. Nó xinh đẹp hiền lành nhu thuận, nó dịu dàng đôn hậu yêu hết thảy muôn loài, nó tội gì mà phải chịu đòn roi đến thế? Tôi thở dài, nhớ hai câu ca dao: “Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục lại giần lửa rơm”.
Đến tháng thứ 5 tôi bắt đầu bị viêm thần kinh tọa, đau thắt từ hai bên xương chậu trở xuống, mỗi ngày một nặng hơn. Đến lúc bại cả 2 chân, phải ngồi dưới đất mà lết đi...khốn nỗi đang mang thai chẳng uống được thuốc gì!
Con ơi, có biết chăng tấm lòng người mẹ, chịu đựng sự đau đớn để cho con trọn vẹn hình hài, chỉ mong cho sau này con ra đời thành người chí thiện, chí nhân...
Con ơi, mẹ đánh đổi tất cả bất hạnh đời mình để cho con ngày mai hạnh phúc, Ơn trên sẽ vì mẹ mà cứu lấy đời con:
“...Hãy cứ cười cho trọn vẹn nghe con
Mẹ nuốt lệ, vì con mà sống
Dẫu đời mẹ không còn niềm hy vọng
Vẫn gọi đông về giấu kín, để con vui”...
(Với con)
“...Cô gái Hoàng Cầm chỉ thức một đêm thơ
Đêm dẫu dài vẫn chỉ là muôn một
Đêm đời mẹ dài theo chiều con trốt
Con trốt xoay theo định mệnh dần xoay”...
(Trường dạ Cô Miên)
Và:
“...Đứng lên đi, trời ngoài kia đầy nắng
Vai mẹ đây, cúi xuống để con trèo!...”
“...Hát nữa đi con, múa nữa đi con
Để cho mẹ thấy lòng mình vui lại
Mưa đầy trời, mưa hoài, mưa mãi
Mẹ lạnh một đời
Vẫn mong ấm phần con!..”
(Con tôi hát trong mưa)
* Đến 9 giờ sáng ngày hai mươi tám tết, tôi bắt đầu đau bụng, đồ đạc chuẩn bị sẵn cả rồi. Ngặt nỗi còn 2 triệu tiền báo xuân, sáng 30 tết người ta tới lấy, không bán được lấy tiền đâu trả bây giờ?
Tôi thắp nhang lên bàn thờ xin PB cho chậm sanh 2 ngày, để bán hết báo xuân lấy tiền trả nợ! 10 giờ 30 bắt đầu ra tí huyết, tôi lấy băng vệ sinh ra băng, lại cầu xin PB cứu, rồi lì lợm ngồi bán tiếp - Thỉnh thoảng lại đau quặn qua 1 cơn, ra tí huyết... Lại cầu cứu PB, thế mà không sanh, chịu được tới chiều mùng 1 tết còn chở đi chúc tết Má và các em. Đến 10 giờ đêm thì vơ ối, nước ra ướt cả chiếu! Tôi lại cầu xin: “PB ơi, mùng 1 tết Bác sĩ đâu có mà đỡ đẻ - xin cứu con chịu qua đêm nay.” Năm giờ sáng đi BV - BS đo huyết áp 18/16: “Coi chừng sản giật! Đưa vào phòng cấp cứu”. Đau bụng thúc, đau đến đứt ruột mà chưa sinh được. Tôi nhớ lời PB dặn: “Ta sẽ về đỡ đẻ cho con” Tôi khấn thầm: “PB ơi cứu con, con đau đến chết mất”!
Cổ tử cung nở mới có 3 phân, chưa có dấu sanh! Chích đến 6 mũi thuốc, thêm mũi thứ 7 chích thẳng vào chai dịch truyền, tôi mới sinh - Trong cơn đau mê, tôi thấy PB mở cửa bước vào, nhìn qua vai BS! Tôi la lên: “PB ơi, ở đây dơ bẩn lắm, PB ra ngoài đi.” PB cười: “Con quên ta là đàn bà sao. Để ta đỡ đẻ cho con”. Nói xong dứt tiếng thì con bé dọt ra...
Tôi nghe tiếng BS la lên: “Trời ơi”! Máu văng lên đầy bức tường trắng , đỏ cả áo blu BS - Nhau choàng 3 vòng cổ, BS nói: “Con bé này lớn mạng thật, con người ta nhau choàng 1, 2 vòng đã khó sống rồi, nó 3 vòng cổ mà không nghẹt thở mới là chuyện lạ”...Tôi biết rồi, Mẹ cho nhau choàng cổ để kéo em bé lại, không cho bé chui ra sớm đó thôi!
Tôi phải nói dài dòng và chi tiết đến thế, về một chuyện không được “sạch sẽ” so với đề tài quyển sách. Bởi vì muốn cho bạn đọc thấy hết sự huyền nhiệm của bàn tay các Đấng, in dấu ấn hiện thực trong đời sống của tôi từng ngày, từng ngày như thế đó! Và bàn tay ấy vẫn tiếp tục nắm lấy tay tôi suốt 23 năm, để xoa dịu nỗi đau của con người...
Mặc dù những lúc đau đớn và tuyệt vọng tôi có căm phẩn oán thán, PB, Người cũng không giận tôi đâu, tôi biết! Bởi những gì tôi phải chịu lớn quá và tôi đâu có tội gì để phải chịu như vậy.
Trong thời gian nầy tôi còn nuôi con nhỏ, PB lại cho tôi nghỉ thêm để dưỡng sức. Khi PB tuyên bố như vậy, người đã sắp xếp mọi chuyện cả rồi...
18. THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO CỦA HUỆ MINH
(QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT)
Hít một hơi thật dài, xua đi ảnh hưởng nặng nề mà tôi vừa mang đến cho các bạn trong chương mục thứ 17. Chúng ta hãy lắng tâm mình, để tưởng như nghe thấy giọt Cam Lộ Thủy nhuần rơi từ bàn tay Đấng Từ Bi, thấm sâu vào tận cùng những mạch đời bất hạnh...
LỜI HIỆU TRIỆU NHỮNG VÌ SAO
Một tia chớp từ thượng tầng thanh khí
Soi sáng Thiên hà
Lời hiệu triệu những vì sao!
Vũ trụ rùng mình tỉnh giấc chiêm bao
Nghìn trùng gió, tin truyền đi muôn hướng
Mây lớp lớp tầng tầng qua khắp chốn
Đêm hoang vu vời vợi một trời không
Trăng thắp đèn xua bóng tối nghìn năm
Vẫn thăm thẳm một màu đêm lồng lộng
Một tia chớp vạch trời cao soi núi thẳm
Lời sấm truyền rung chuyển cả trời quang
Đá núi cao đồng vọng những huyền âm
Và núi lở, đá lăn lòng đất hẹp
Vùng tỉnh thức cả Trời Người –
Giờ chuyển tiếp!
Ngửa bàn tay đón ân sủng cõi Thượng Thiên
Phép lành ban cho muôn chúng tín nhân
Lần dấu Pháp đợi chờ duyên xóa nghiệp
Hoa Thanh khí nở trên vùng uế trược
Xóa hận thù, mở rộng vòng tay
Bao đau thương oan trái một kiếp người
Cam Lộ Thủy rửa sạch đời trong muôn một
Đóa sen trắng giữa bùn thêm tinh khiết
Liên hoa đài đâu để dấu trần hoen
Tự tầng cao về với cõi Trầm luân
Mai chuyển kiếp -
Lại trở về phụng lệnh!
25/7/2000
HUỆ MINH chấp bút!
KHUYÊN CON
Đời ngắn lắm, nầy tu mau kẻo trễ!
Bao năm dài Mẹ xa cách con thơ
Lòng dạ này như rối tựa guồng tơ
Duyên chưa điểm, đầu con dường đã bạc
Hoa Khai Kiến chờ dâng lên cửa Phật
Cặp thuyền Từ, Bến Đạo ới nầy con!
Mõi mê đời, tủi phận với hờn duyên
Con của Mẹ lại về bên chân Mẹ
Một bến Giác trăm nẽo về Trí Huệ
Một sông Mê ngàn vạn cánh buồm dong
Mẹ chờ con ở giữa chốn bụi hồng
Đem quả Thiện về dâng cành lộc Chủ
Gió sẽ tạnh, mưa sẽ ngừng cho xuân ngự
Vầng thái dương lộng lẫy một trời xa
Quên đi con bão táp với phong ba
Bàn tay Mẹ độ đời con chuyển nghiệp!
Trăm uế nhục Mẹ trả bù sau trước
Vạn căn lành lộc phước Mẹ ban cho
Vững lòng tin con trẻ chớ buồn lo
Quy mạng lễ con đáo đầu phụng lệnh
Mùng 1 tháng tư năm Tân tỵ (2001)
HUỆ MINH chấp bút!
NẺO GIÁC
Qua sông mõi lái trách dòng sâu
Vượt cạn nào hay lỡ chuyến tàu
Mây trắng vời trông cơn nắng hạn
Bụi hồng chạnh nhớ buổi mưa ngâu
Trăng Thiền rạng tỏa trời mông muội
Ao Bụt yên che cõi tịnh cầu
Ai khách thường trần qua bến đục
Nương dòng Bát nhã vượt mê lầu.
25/11/2006
HUỆ MINH chấp bút!
BƯỚM HOA
Thiên hà động giấc muôn tinh
Sao sa cõi Thế, lộ trình tha hương
Đêm trần mờ mịt khói sương
Ngỡ nơi tiên cảnh, lạc đường bướm hoa...
HOA THANH KHÍ
Trần ai một cõi đi về
Hoa Thanh khí nở, bốn bề phong sương
Cành lá sắc níu thanh hương
Nghe trong ảo ảnh vô thường thơ bay!
19. LINH CĂN CHỦ XÁC
Đến cuối năm 1990, một buổi tối tôi đang ngồi bán báo, cậu công nhân nhà máy Satimex tên Thu, đang ngồi uống nước bên kia đường vụt bước sang bảo tôi: “Bửa nay tôi nhìn thấy Linh căn của chị rồi - là Quan Am Diệu Thiện”. Tôi gạt đi: “Nói bậy mang tội chết đó” – “Ừ tôi nói vậy Chị không tin thì thôi...”
Cậu Thu tuổi chừng hăm mấy, người hơi “lưng tưng”, hay nói những điều khác thường, mọi người gọi chết danh là “Thu khùng”! Và tôi quên mất chuyện này, mãi đến 10 năm sau tôi mới nghe lần thứ hai...
Một đêm nọ (vào cuối năm 1993). Lúc 8g30 toi ngoài trời đang mưa tầm tã, cậu Thu đội áo go cửa nhà tôi, vào nói: “Ổng Bả biểu tôi nói, tôi không nói tôi bị đòn. Họ biểu tôi đi, tôi phải đội mưa đi vầy nè, thấy hông. Ổng Bả biểu chị phải nhớ cúng vía giờ ngọ hàng tháng ngày mùng 8, 18, 28 - Chị còn 1 phần linh căn bên Địa Mẫu. Cúng vía Địa Mẫu thì Mẫu mới trợ cho chị được không thì chị còn khổ dài dài...”
Quả thật lúc ấy tôi không hề để tâm tới lời Thu khùng nói, hắn nói lung tung đủ điều, quả là khùng thiệt rồi! Vốn cậu Thu là người dốt chữ, lại chân quê ăn nói bổ bả quen miệng rồi: “Nó kêu ai bằng Ổng Bả vậy kìa” Tôi nghĩ mà cũng chẳng thèm hỏi lại, rồi quên đi mất...
Về sau mới biết cậu Thu có phần Căn bên Địa Mẫu, nhưng do chơi thân, theo thầy bùa, thầy ngãi gì đó mà bị hành hoài! Có điều Thu coi quẻ hay lắm, nói đâu đúng đó: Lần Thu nói Ba tôi sống không quá tháng 5, quả đúng ba tôi chết mùng 8 tháng 5. Còn con trai lớn của tôi, Thu bảo: “Không qua khỏi tháng này” thì đúng 28/10 con tôi chết, chuyện này, tôi xin kể cho bạn đọc nghe vào chương sau!
Cuộc đời tôi, phép lạ ứng nghiệm từng ngày, hăm mấy năm là ngần ấy phép huyền nhiệm của “Ơn trên” - Cho kẻ hữu duyên tìm đến, cho gia đình, bè bạn, cho Cha mẹ, các em và các con...
Sự huyền nhiệm ấy diễn ra từng ngày, về sau (kể từ đầu năm 2000) có ngày cao nhất tôi phải giải quyết 5 vụ việc liên quan đến Am phần, có ngày chữa đến 30 người.
Từ năm 2001 đến nay, tôi mới bắt đầu ghi lại sổ thăm khám bệnh, có đầy đủ tên tuổi và địa chỉ của bệnh nhân. Bệnh chẩn, phương pháp, thời gian điều trị. Rút kinh nghiệm từng trường hợp một...Những bệnh khó chữa khi hết bệnh nhân ky tên xác nhận đường hoàng!
Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi xin phép trở lại “Linh căn chủ xác”
Năm 2000, ăn tết xong tôi cất nhà trên đất mới. Ngày rằm tháng 4 năm ấy, tôi vừa Thượng trang, thắp hương xin PB về chủ lễ. Mẹ Quán Am về, đứng chắp hai tay sau lưng ngắm ảnh Phật Bà ngồi trên tòa sen tôi vừa đặt lên, hỏi: “Con thờ ai đây?”. “Dạ, Phật Bà Quán Thế Am Bồ Tát” – Tôi nói rành rọt, ngẩn người ra, không biết PB nói thế với ẩn ý gì! Người lại nói: “Trật lất! Quan Am Diệu Thiện - thờ chính Linh Căn của mình bao nhiêu năm nay mà không biết”
Xong người nói cho tôi biết: Quan Am Diệu Thiện tình nguyện xuống độ thế, xác trần sống 63 năm. Tôi hỏi: “Nếu là người Nhà Phật tại sao con không trường chay, cạo đầu, trì niệm và không đi tu?”. PB giải thích: “Người nào việc ấy, đó là việc của người Hoằng Pháp. Độ Trần là ở ăn cùng trần thế, là lăn lộn khổ nạn cùng thế nhân, giống y như thế nhân vậy!”
Tôi lại hỏi: “Nếu con là QA Diệu Thiện, tại sao lại để cho con khổ nạn trùng trùng như vậy? Để phải chịu ô uế xác trần đến 2 đời chồng tai tiếng oan gia nghiệp chướng, sao Mẹ lại chẳng cứu con?” PB bảo tại tôi trả nghiệp cho người ta đấy thôi: “Đã bảo những người bệnh do hành căn trả nghiệp thì con đừng chữa, con không nghe thì trách ai? Người ta nợ 10 đồng, mới trả được 2, 3 đồng chạy tới kêu khóc với con, con đưa tay ra cứu thì phải chịu trả thế cho họ vài đồng - họ bị án 10 roi con cứu tất nhiên phải chịu phụ cho ho vài roi, trách ai bây giờ!”
Tôi khóc nói: “Hai người cùng bị nạn và gục xuống như nhau, Mẹ bảo con cứu một người và bỏ một, con không làm được. Một là con cứu cả hai, hai là con không làm gì cả, con trả phép cho Mẹ! Mẹ lấy phép lại đi để cho con làm người trần thế bình thường, khỏi nhìn thấy cảnh bất công như vậy”.
PB lại bảo: “Ta gieo một cái hạt giống, ta chẳng đời nào để cho nó thui chột đi. Chờ đấy”! Nói rồi biến mất...
Trưa hôm sau, có cô Nhung ở gần nhà rũ tôi lên chỗ xác Mẹ Quan Am cứu khổ cứu nạn, tò mò tôi cũng đi theo!
Cô Yên, trước cũng là Giáo viên, người đẹp đẽ, nghiêm trang và đạo hạnh - cô kể sự tích Mẹ về hành xác để ra căn, nghe mà bắt rùng mình: Trước cô bị bệnh nặng, liên miên hơn 2 năm trời, thuốc men BV khắp nơi chẳng ăn thua gì. Người “man man” luôn, nhìn đâu cũng thấy ma quỷ, mỗi lần thấy lại ngã ra xỉu cứng người...
Đến lúc bỏ ăn 11 ngày nằm liệt một chỗ mê man. Sáng hôm đó tỉnh dậy thều thào bảo gọi hết cha mẹ 2 bên lại để cho cô nói chuyện. Khi tập trung đủ hai họ, cô Yên nói: “Ta là Quan Am cứu khổ cứu nạn. Nay Ta muốn về xác để độ trần. Ta cho hai họ bàn tính lại với nhau, nếu đồng ý thì Ta cho xác sống, còn không thì sữa soạn đem chôn đi”. Hai nhà bàn đi tính lại, cuối cùng phải đồng ý. Thế là từ 1 người Đạo Thiên Chúa cô Yên trở thành người xem quẻ, xác Mẹ Quan Am cứu khổ cứu nạn!
Tôi đến đó đã 12 giờ trưa, ba chị em chưa ai ăn cơm thế mà ngồi nói chuyện đến 4 tiếng đồng hồ. Cô Yên về xác Quan Am cứu khổ cứu nạn, còn tôi Quán Thế Am Bồ Tát nhập! PB cứu khổ theo năn nỉ bên tôi xin tha cho xác trần, đừng có hành xác quá không nên! Giọng nói của Người dịu dàng, thuần hậu, còn giọng nói của Quán Thế Am thì cứng cỏi, quyền uy và nghiêm khắc. Khi Điển trên rời đi, nhìn lại đã 4 giờ chiều…
Xác cô Yên không biết mình nói gì, còn tôi thì nhớ không sai chi tiết nào - ra về còn nhớ mãi giọng nói êm êm như ru của Mẹ cứu khổ ... Mẹ người ta thương con đến vậy, còn Mẹ của mình thương cho roi cho vọt, nghĩ buồn quá...!
Quan Am Diệu Thiện rất ít khi về xác, mỗi lần tôi đau quá, van nài kêu khóc - Người về, nhìn tôi rơi nước mắt mà chẳng làm gì được, nói: “Vì Ta mà con khổ”. Thế rồi bỏ đi…
PB thì nói quanh co cho qua chuyện: “Nếu Ta can thiệp, sau này không tròn căn quả, về trên Diệu Thiện trách ta, ta biết ăn nói làm sao?” thì ra (tôi nghĩ mà không dám nói): “Quan Am Diệu Thiện xuống trần để chịu đau thế cho người chứ không phải để độ người”
Mãi đến đầu năm 2008 là thời gian tôi chuyển được nghiệp trần lẫn Căn đạo, Mẹ Diệu Thiện mới về và cười với tôi lần đầu, cũng là cười trong nước mắt. Q Â Diệu Thiện! Đúng như tên gọi, Người hiền lành và dịu dàng lắm - về với tôi luôn mặc 1 chiếc áo màu lam bình dị, không sang trọng và uy nghi như PB. Người còn trẻ, chỉ chừng hai mươi mấy tuổi - còn PB thì trông người trên dưới 40 tuổi.
Chỉ từ rằm tháng tư đến nay, Mẹ Diệu Thiện hay về thay tôi hành xử. Có điều cũng không ra mặt! Khi tôi cần đưa linh hồn đến đâu đó để điều tra, nhìn lại thì thấy không phải xác trần của mình, mà là Quán Am Diệu Thiện. Người đến chẳng đợi tôi mời, ra đi cũng chẳng cần tôi tiễn! Hèn nào con giống Mẹ: chẳng cầu kỳ trong ăn vận, chẳng trang điểm phấn son, không khoe khoang thành tích, không màng danh lợi xa hoa - Ăn uống cam khổ, đạm bạc qua ngày các thức sơn hào hải vị không hợp khẩu, bạn sang giàu danh vọng ít gần, người thiếu thốn đói nghèo năng gặp...
Học theo Phật: “Đi không để lại dấu chân: Cho bàn tay phải, bàn tay trái không hay biết”
PB hay nói, mãi rồi tôi cũng quen miệng: “Chúng ta là người nhà Phật”. Lắm lúc bị người sửa lưng - Tôi chỉ cười trừ! Có biện minh nầy nọ, chỉ tổ người ta bảo mình “bệnh tâm thần” mà thôi...
Chỉ có bệnh nhân, người cần tôi là biết tôi. Hàng xóm cách vài căn chẳng ai biết tôi làm gì, ngay cả các em của tôi còn bảo: “Chị Hai ở không suốt ngày mà cứ than bận”!
Đối với nhân thế thường tình thì làm lụng “đầu tắt mặt tối” để có tiền muôn bạc vạn mới là giá trị của con người. Nhân suy nghĩ nầy, tôi làm bài thơ “Phong trần khách”. Xin tặng bạn đọc vài bài Thơ Khuyến Đạo của Diệu Thiện (Tịnh Vân).
20. THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO (3)
PHONG TRẦN KHÁCH
Giữa cõi phong trần xem lá rụng
Ngắm khách trần gian lũ lượt về
Cười khan: nhân thế mơ hồ mãi
Đêm dài nghe gió cuốn lê thê...
Lạc lõng mình ta nơi phố chợ
Rao mời Nhân Nghĩa chẳng người mua
Kẻ áo Công Hầu buông chẳng nở
Người thang Khanh Tướng lã đường trưa!
Giọt mật phù hoa rơi mái cỏ
Hóa hạt sương chờ Cội phúc xưa
Ta vén mây mù, trăng lại tỏ
Tầm nẽo Chân Như vẹn ước thề...
24/7/2007
Tịnh Vân
Tịnh Van là bút hiệu của tôi đó! Sẵn đang lúc hứng khởi, tôi chép lại vài bài thơ khuyến thiện, để các bạn đọc cho vui, nghe!
CHUYỆN NGƯỜI LÀM VƯỜN
Người làm vườn
Trên luống cày đơn độc
Mưa gió, bão cuồng, chớp giật
Ngày lại ngày...
Giọt mồ hôi rơi xuống đường cày
Hóa loài cỏ lạ màu xanh biếc
Rẽ lối bể dâu, vượt cồn sóng lạc
Lặng thầm vươn!
Người làm vườn nhỏ bé vô danh
Up mặt vào đêm, thao thức
Những đường cày lẻ loi, bất lực
Bao giờ đất phủ màu xanh?
Ngóng về xa vô tận mênh mông
Thiên hà vẫy gọi
Giữa trời đất chập chùng bóng tối
Biết nơi nao là lối đi về?...
Trên luống cày đơn độc lẻ loi
Người gieo những hạt mầm ngủ muộn
Đợi một ngày mưa xuống
Lại hồi sinh cây Thiện giữa đời
Hạt Bao Dung che bóng mát phận người
Hạt An Lạc che ngày giông bão
Hạt Từ Bi xin làm Hướng Đạo
Để muộn phiền nở đóa Vô Ưu!
Người - làm - vườn - làm thơ!
Vần điệu dấu che bao điều huyễn hoặc
Đêm - giữa cội nguồn vô thức
Người ra đi, về phía Thiên Hà...
Tịnh Vân
DƯƠNG CHI TỊNH THỦY -
PHÚC LẠC HỒNG ÂN
Từ bàn tay Người mầu nhiệm
Giọt Cam Lồ rửa sạch tội chúng sinh
Từ bàn tay Người mầu nhiệm
Cành Dương Xanh ban những hồng ân
Cõi thế nhọc nhằn đau khổ trầm luân
Có bàn tay Người xoa dịu!
Sóng áo lụa rũ mây trời tan hợp
Điểm Linh quang soi thấu bể tam đồ
Đêm thế trần có đuốc Huệ bừng soi
Người trong cõi u mê tầm dấu Phật
Tâm từ ái, Người đâu ngồi trong Tịnh thất
Nỗi đau đời xót dạ Đấng từ bi
Chẳng chờ ai phủ phục dưới chân đi
Người tìm đến, chìa bàn tay cứu rỗi
Muôn chúng sinh cúi dập đầu trước bệ
“Đứng lên đi, mau hành đạo cứu đời
Nầy con ơi! Long hoa hội tới rồi
Đời mạt Pháp – tu mau kẻo trễ.”...
Người tưới mát hồn con bằng dòng Tịnh Thủy
Nâng bước con bằng phép nhiệm Dương Chi
Con ngẩng đầu, tầm theo dấu Người đi
Bàn tay ngắn nguyền độ đời trong muôn một...
7/3/2000
NGHIỆP THẾ
“Đừng đợi già mới tìm đường theo Phật
Những nấm mồ hoang rặt thiếu niên”
Đời tất bật làm ta quên chân lý
Trốn bão giông, ta rẽ lối thay đường
Thơ khóc mãi bao mùa chưa ráo lệ
Sông Mê dài, thuyền mỏng, vượt sao đang!
Ta cúi đầu dưới tượng đài lễ Phật
Trái tim se, từng nhịp đập ngậm ngùi
Lòng sám hối mà sao chưa tỉnh ngộ
Hồn ăn năn sao chân bước cứ rời?
Người vĩnh cữu nên bình an vạn thuở
Ta kiếp trần hữu hạn vốn đổi thay
Hồn nổi sóng nay dập đầu trước bệ
Thiên thu đời trong khoảnh khắc nầy thôi!
Sao chẳng rũ bụi trần ngoài hiên nắng
Dưới Phật đài giữ chút dạ thanh trong
Sao chẳng ném bể dâu trên đường vắng
Dưới chân Người, bình an đến vô cùng...
Xa Bến Giác, chốn hồng trần còn nợ
Ngược Sông Mê, dạ thế vẫn còn mang
Đời có phút này thôi, rời chẳng nỡ
Phật đài ơi! Dẫu thác vẫn không quên!
27/10/1993
LÒNG MẸ
Anh sáng diệu kỳ từ hào quang của Phật
Vẫn lặng lẽ chảy tràn, thấm đượm chúng sinh
Vẫn âm thầm gỏ cửa những buồng tim
Hạt giống Thiện thay đời cho nghiệp dữ!
Tâm Từ ái xót người trong Mê lộ
Đêm thế nhân dài lắm, Mẹ hiền ơi!
Đuốc Huệ sáng ngời Mẹ rộng lòng soi
Thuyền Từ đó độ người cơn lầm lạc!
Con chẳng đến dưới chân Người, trong Tịnh thất
Không trường chay, chẳng khoác áo cà sa
Chẳng gìn lòng, xa lánh chốn phù hoa
Mãi ngụp lặn giữa trần ai, bể khổ…
Những đêm dài vẫn nghe lòng nổi gió
Trở dậy, âm thầm Mẹ đã kề bên
Con khóc con buồn Mẹ nhủ Mẹ khuyên
Mẹ vuốt tóc – ôi dịu dàng tay Mẹ!
Con lại đứng lên giữa đời giông bão
Lại bước đi – có lòng Mẹ theo cùng
Thân dẫu đau, đời vùi dập muôn phần
Tâm chẳng loạn, bởi bao lời Mẹ dạy...
3/10/1994
LẠC BƯỚC
Chốn Phật đài một chiều nao lạc bước
Duyên – không duyên, hương khói quyện chân ngày
Giữa cuộc đời còn kẻ tỉnh người say
Thì hư thực – giả chân nào ai biết!
Người Chín Bệ vẫn trầm tư mắt khép
Chốn nhân gian còn bao nẻo luân hồi
Kiếp vô thường mờ mịt dấu sương rơi
Đường mây rộng đi về dăm ảo ảnh!
Dòng Đuốc Tuệ soi đêm trường ấm lạnh
Sắc Liên Đài hoằng thịnh chốn Từ Nghiêm
Màu hư linh phảng phất cửa Thiền môn
Duyên chưa điểm – ơ hờ câu Mặc Khải!
Cõi Yên hoa khách hồng trần mê mãi
Men phù trầm say đắm dạ thường nhân
Sóng trần dương vùi lớp lớp mê phong
Sao chẳng tỉnh, mãi trôi dài hoạn lộ?!
Chốn Phật Từ chưa quen hồi tế độ
Bát cơm rau nhạt miệng giữa kinh thành
Ngoảnh nhìn sau, rồi tàn cuộc trăm năm
Mãi lạc bước đường Mê, lòng có hận...
Tháng 6/2004
21. NGUỒN TRỢ DUYÊN MỚI –
THỰC HÀNH CỤ THỂ (4)
Đầu năm 1999, tôi đi học thêm về Nhân điện! Từ đó đến nay tôi có thêm 1 nguồn hỗ trợ quý báu cho mình. Biết cách tự thiền để nhận Điện, tôi không còn bị mệt khi chữa bệnh cho nhiều người! Và điều quý báu mà tôi nhận được là chữa bệnh cho chính mình - Đương nhiên chỉ những bệnh của xác trần, còn bệnh do “chịu đòn thế” cho người khác thì… “bất lực”!.
Tôi trở thành một “Bà Lang” chuyên nghiệp, có bài bản và kết quả đạt được cũng khả quan hơn. Tôi chép lại một số ca chữa bệnh của tôi, vì khuôn khổ quyển sách có hạn nên không thể trình bày hết được. Mong bạn đọc thông cảm!
* Ngày 20/11/2001, Vũ Đan Chi (6 tuổi) bị phỏng nước sôi nguyên bàn tay. Trị 03 lần (2 ngày) thì hết hẳn mọi triệu chứng.
- Nguyễn Thị Anh (60 tuổi) bị đau lưng, thần kinh tọa hơn 10 năm đã chữa nhiều nơi không khỏi. Trị 10 ngày sau thì hết đau!
- Lê thị Lệ (2 tuổi) bị té trật cánh chỏ phải xương khớp bị trồi lên cao, sưng và rất đau đớn! Sau lần điều trị đầu tiên xương chỏ đã trở về nguyên vị, 4 lần thì hết đau hẳn.
- Lê Hồng Kỳ (65 tuổi) lên huyết áp đột ngột (trên 16). Sau khi điều trị 10 phút, huyết áp trở lại bình thường (12/8).
- Trần Trọng Huệ (45 tuổi) bị ngã từ giàn giáo xuống chấn thương, ngất xỉu! Chẩn đoán: chỉ bị phần mềm, không ảnh hưởng các cơ quan nội tạng. Tôi vào tận nhà chữa, sau lần đầu tiên đã ngồi dậy và bước đi được, sau 1 tuần (7 lần điều trị) hết đau hẳn.
- Nguyễn Hoàng An (16 tuổi) bị chấn thương tét phần trán 4 phân, máu chảy rất nhiều. Cầm máu, khử trùng, làm ngủ, giúp liền da không để lại sẹo (không cần may). Sau 10 ngày hết hoàn toàn (có kết hợp nhỏ nước lá hoàn ngọc).
- Nguyễn Thị Huyền (25 tuổi) chóng mặt, xây xẩm, ngất (lập đi lập lại). Chẩn đoán: thiếu dinh dưởng, bao tử hoạt động yếu, thiếu máu não, nhược toàn thân, hư huyết. Trị: thần kinh, bao tử, chỉ huyết điều kinh - sau lần thứ 2 hết chóng mặt, 01 tuần sau thì khỏi hẳn.
- Nguyễn Thành Công (8 tuổi) chảy máu cam mãn tính hằng đêm trong lúc ngủ. Người gầy ốm, xanh. Trị sau 3 ngày thì hết hẳn.
- Nguyễn Thị Duyên (18 tuổi) bị xoang trán, mũi, tái viêm nặng, sưng đỏ mũi và sốt cao. Điều trị sau 1 tuần hết đau, viêm!
- Ngô Thảo Nhi (5 tuổi) bị cảm, viêm phế, sốt cao, khó thở. Điều trị hết sau 5 lần (3 ngày).
- Trần Minh Khang (4 tuổi) bị trúng thực nặng: tiêu chảy, nôn ói, mất nước, co giật, sốt cao. Bác sĩ không nhận chữa (vì tình trạng nặng). Tôi cấp cứu và chữa hết cho cháu sau 3 ngày, hoàn toàn khỏe mạnh bình thường!
- Nguyễn Thị Ngâu (84 tuổi) dau do xẹp đốt sống L3 – L4. Cấp cứu ở bệnh viện về mang nẹp lưng! Chữa 1 lần giảm đau, bỏ nẹp lưng. Sau 1 tuần tái khám xương sống trở lại bình thường( điều trị kèm thuốc tây).
- Nguyễn Thị Kính (28 tuổi) bị viêm phần phụ: bụng sưng cứng và to, sờ vào rất đau! Chẩn đoán: do đặt vòng biến chứng, đề nghị tháo vòng. Chữa hết sau 3 lần.
- Nguyễn Quốc Dũng (12 tuổi) bị té xe chỏi tay. Chẩn đoán gãy xương, đề nghị chụp X quang! Kết luận đúng như phán đoán. Điều trị hết, trở lại bình thường sau 15 ngày (20 lần điều trị).
- Võ Văn Chi (24 tuổi) bị lệch vẹo cột sống 1 tháng rưỡi, điều trị bằng thuốc chích giảm đau và thuốc uống ở nhiều bác sĩ và bệnh viện - hậu quả là thuốc làm hư thận và bàng quang, nước tiểu tự động chảy ra, người gầy ốm còn 37 kg. Bệnh viện trả về chờ chết.
Trường hợp này tôi phải điều trị đúng 2 tháng. Xin thầy Hải Thượng về cho thuốc để trị cho gan, thận. Kết hợp tập đi (hàng ngày đi trên 1 đường thẳng, đội 1 quyển sách trên đầu).
Các bài thuốc Thầy cho tôi đã chép lại cho bạn đọc ở chương 15, trang…
Hai tháng sau, bệnh nhân hết đau. Gan và thận đã trở lại bình thường, ăn uống và lên cân trở lại. Cho đi bệnh viện làm xét nghiệm, kết quả đúng như chẩn đoán!
Hết bệnh, cậu Chi theo tôi học nhân điện, hiện nay chữa cho mọi người rất tốt. Khi tôi đau nhiều, tôi trốn về nhà Mẹ và giao chìa khóa cho Chi ra mở cửa đón bệnh nhân và chữa thay cho tôi. Có ai nhìn và tin cậu trai lực lưỡng trên 60kg này ngày xưa chỉ còn có 37kg…
- Tô Thị Mỹ Xuân (26 tuổi) bị tai nạn xe cộ nứt 2 bên gót chân, bó bột từ trên gối trở xuống. Đau nhức, sưng cứng chân và không đi được! Tôi điều trị sau 2 ngày (4 lần) hết đau nhức đến ngày thứ 4, bệnh nhân tự ý tháo bỏ băng bột! Chữa hết mọi triệu chứng sau 15 ngày (chỉ dùng thuốc giảm đau 3 ngày đầu tiên).
- Nguyễn Thị Thìn (27 tuổi) hở van tim bẩm sinh, thường xuyên làm mệt, thiếu máu nặng, đầu váng vất, tay chân bủn rủn! Chẩn đoán độ 8 – 10 nhịp tim lại nghe tiếng rít dài rất lớn…
Ngày đầu tiên vừa đến nhà tôi đã ngã ra xỉu, tôi cấp cứu và điều trị sau 10 lần, tim trở lại bình thường, hoàn toàn hết tiếng rít, người khỏe dần, ăn ngủ được (lúc ngất xỉu, đo tim 105, huyết áp 9/7).
Sau 1 tháng điều trị (cách nhật). Cô Thìn hoàn toàn hết hở van tim, nhịp 72/ phút. Sau đó nửa năm cô có trở lại thăm tôi, kiểm tra lại nhịp tim vẫn ổn! (Có sử dụng 20 thang thuốc “sinh mạch” gồm có 3 vị: nhân sâm, ngũ vị và mạch môn)
- Trần Hồng Hải (14 tuổi) té chỏi sưng cánh tay. Chẩn đoán nứt xương, gãy kín. Đề nghị chụp X quang! Kết quả đúng như vậy. Tôi khuyên bệnh nhân uống calci và ăn tôm, tép, cua… Điều trị hết hoàn toàn sau 20 ngày!
- Lê Văn Hưng (4 tuổi) bệnh yết hầu tái nhiễm! (trước đó 1 tháng đã nằm bệnh viện 1 tuần và chữa hết). Màng trắng đóng dầy trên vòm họng và cổ họng, sốt cao, nổi hạch, khó nuốt! Tôi đã điều trị hết mọi triệu chứng sau 4 ngày, kèm súc miệng bằng giấm pha đường (thầy Hải Thượng chỉ dạy!). Uống thêm nước chưng giá với đường phèn!
- Nguyễn Thị Phương Thúy (11 tuổi) bị trái rạ toàn phát, sốt cao, viêm phế quản – khó thở, đau nhức! Sau 2 lần điều trị mụn nước lặn dần, liền mặt và không lên mụn mới. Một tuần sau hoàn toàn hết bệnh.
- Nguyễn Thị Lý (2 5 tuổi) bị zonar toàn bộ phần trước và sau mông; nổi mụn rộp ăn lan màu tím ngắt, trông rất đáng sợ – sốt, rét (ớn lạnh)! Tôi chữa hết mọi triệu chứng sau 1 tuần lễ…
- Phan Thị Hà (10 tuổi) bị lên sởi – sốt cao, sởi lên nhiều! Ngay lần đầu điều trị sởi đã cầm không lên nữa. Ngày thứ ba hết sốt. Sau 5 ngày (5 lần chữa) bệnh khỏi hẳn!
- Lê Thị Nhung (10 tuổi) bị sốt siêu vi. Trị hết sốt hoàn toàn sau 5 lần.
- Vũ Thị Trâm Anh (3 tuổi) bị sốt nửa người trên, lạnh 2 chi dưới. Bệnh viện không tìm ra bệnh. Chữa hết sau 5 lần.
- Vũ Văn Đoàn (30 tuổi) bị zonar một bên tay và 1 bắp chân. Chữa hết bệnh sau 5 lần điều trị.
- Nguyễn Thị Thùy Trang (9 tuổi) bị bong gân bàn chân trái và sưng đau khuỷu tay trái. Chữa hết đau, viêm sau 4 lần!
- Nguyễn Ngọc Loan (12 tuổi) bị chấn thương giữa trán tét 1 phân rưỡi, máu chảy rất nhiều, trầy xước nhiều chỗ trên tay và mặt. Chữa lành toàn bộ các vết thương sau 7 ngày (9 lần điều trị). Không phải may, không để lại sẹo!
- Trần Thanh Liên (48 tuổi) bị phỏng nửa bên mặt trái. Chữa hết sau 1 tuần lễ (1 lần chữa trực tiếp, 6 lần chữa qua điện thoại) không viêm nhiễm, không để lại sẹo…
- Mẹ cô Bình ở tỉnh Thanh Hóa (chữa qua điện thoại, không biết mặt). Bà bị hư đường ruột! Cả tuần mới đi cầu 1 lần, đau bụng liên tục và nôn ói - bệnh viện không chữa được trả về! Bà tuyệt vọng, gọi con ở miền Nam về cho gặp mặt lần cuối…
Cô Bình điện vào nhờ tôi chữa cho Mẹ. Tôi điều trị sau 1 tuần lễ bà đi cầu 2 ngày 1 lần, ăn uống lại bình thường, hết nôn ói và đau bụng!
- Phan Thị Sen (37 tuổi) bị quáng gà, sụp tối là không thấy đường, gần như lòa hẳn! Thầy Hải Thượng cho ăn 3 bộ óc heo chưng (ăn cách nhật). Tôi chữa sau 12 ngày đôi mắt trở lại bình thường.
- Nguyễn Ngọc Loan (12 tuổi) bị trái rạ toàn phát. Chữa hết sau 1 tuần lễ…
22. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (3)
Chúng ta trở lại chương “Nghiệp Thế Trả Vay”. Có theo dõi hoàn cảnh của tôi trong từng thời kỳ một, bạn đọc mới thấy rõ nét hơn nữa sự huyền nhiệm của các Đấng đối với đời sống con người và thực tế nhất là tôi – trong suốt 23 năm dài đăng đẳng…
* Ông bà xưa có câu “Họa vô đơn chí!”. Bạn đọc thử tưởng tượng cảnh tôi vừa lo tiền cất xong 2 phòng trọ để cho công nhân thuê - người đến ở chưa đầy 1 tuần thì hố xí bị nghẹt! Đào hố xí phụ đặt ống thông, vừa ổn được 3 ngày thì gió giông giật tung cả mái tôn lẫn giàn cây, lật ngửa sang phòng bên cạnh, đổ nửa bức tường ngăn! Lại cắn răng vay tiền về sửa chữa – mất 2 ngày đục tường, chằng dây neo mái. Vừa xong chiều hôm trước, trưa ngày hôm sau Má tôi ra sạp báo gọi: “Lan ơi! Về mà coi giông gió lại giật mái tôn còn lại lật sang bên phòng mới sửa rồi kìa!”.
Lúc đó bạn cảm giác thế nào? Tôi chỉ muốn đứng giữa trời, dậm chân xuống đất mà kêu: “Trời đất ơi! Sao mà khổ đến thế này?”.
Có lúc trong cùng 1 buổi sáng - Ba mẹ con cùng nhau đi bệnh viện, hai chiếc xe thuê cùng chi phí cấp cứu, thăm khám mất khối tiền. Trong khi chữa bệnh cho người, tôi có lấy đồng bạc công xá nào đâu!
* Bé Chi từ lúc còn trong bụng mẹ đã có cảm ứng. Mỗi lần Ba về rồi đi, chỉ cần thông báo trước 15 phút là hành Mẹ đau bụng quằn người, hễ ba dắt xe vô là hết đau ngay tức khắc!
Sau biết ý – ba nháy mắt với mẹ xong xách xe ra đi ngay tức thì, bé trở tay không kịp nên mẹ mới được yên!
Độ chừng 4 – 5 tháng tuổi – trẻ con lúc ấy chẳng biết gì – vậy mà ba mẹ cự cãi với nhau là bé giận ba. Ba giơ tay đòi bế - bé hất tay ra, day mặt đi chỗ khác!
Mới hơn 4 tháng rưỡi – vừa biết lật! Dạo ấy đang mùa bóng đá thế giới, nhà nào cũng xem tivi đến cả đêm, hò hét vang trời! Bé Chi đang ngủ bỗng trở mình lật sấp thật nhanh rồi nhỏm lưng cong như con tôm thét lên một tiếng “vào!!!” rõ ràng như tiếng người lớn, khiến tôi sững cả người…
Sáu tháng rưỡi, bé ngồi chưa vững! Thấy tôi mua tấm ảnh Phật Bà mới đem về, bé bò tới đập tay lên hình nói hai lần: “pập pà! Pập pà!”. Độ 6 – 7 tháng, trẻ còn chưa biết pi pô những âm thanh vô nghĩa nữa là!...
Bé Chi được 6 tháng thì chúng tôi về nhà mới. Thuê đất, cất nhà xong nợ như “Chúa Chổm”! Lại thêm tiền bạc làm ra như có ai đó ở sau lưng lấy bỏ vào túi, tính toán mãi mà chẳng biết tiền đi về đâu! Ba bé Chi lo lắng quá, sinh ra nghiện rượu!
* Lúc bé Chi được 7 tháng rưỡi, tôi đã “ngắm chỗ” để gởi nuôi bé cho tôi đi bán báo trở lại. Đúng 3 lần trong vòng 1 tháng, đều không đưa bé đi được!
Sáng sớm tôi đi chợ, bé hãy còn chơi, khỏe! Vừa ghé nói chuyện gởi con với chị Diễm xong trở về là thấy bé lên cơn sốt cao, nằm lữ ra đó rồi!
Bé được 8 tháng rưỡi, tôi làm cơm cúng dâng lên bàn thờ Phật Bà xin cho gởi bé, từ đó mới ổn! Chị Diễm giữ bé phải than: “con bé kỳ lạ quá! Mỗi lần tắm lấy áo dơ để xuống đất thì bé mới chịu đứng lên, bằng không cứ co quíu 2 chân lại, không chịu dẫm lên nền gạch hoa! Khăn thì cái lớn lau người, cái nhỏ thì lau mặt – khăn lớn đem lau mặt là bé hất ra không cho lau…
Cơm ăn phải riêng chén, riêng muỗng! Hễ cô Diễm đút cho bạn khác, quay lại đút bé là bé ngậm cứng miệng lại, không chịu há ra ăn!
* Khi bé Chi gần 8 tháng. Có người muốn thuê khoảng sân sau nhà tôi (có 1 hồ nước 2 khối) để “làm bò lậu”! Cuối cuộc đất nhà tôi là rẫy tập đoàn, họ chích điện cho bò chết xong đem vô nhà mình xả thịt - cái giá họ đặt ra đến 1 triệu rưỡi mỗi tháng (vàng lúc đó có 400 ngàn/chỉ).
Tôi không bằng lòng, vì sợ cảnh sát sanh - thế nhưng càng chịu đựng thì số phận nghiệt ngã lại càng dồn! Nợ nần chồng chất, không trả nổi! Hai tháng sau đến bước đường cùng, tôi thắp hương xin Phật Bà cho phạm tội sát sanh: “Mẹ cho phép con cho người ta thuê đúng 3 tháng – lấy tiền trả nợ rồi con ngưng! Chúng con cùng đường rồi, xin Mẹ thương mà xá tội!”.
Tôi nói với chồng. Ba bé Chi bảo: “để ăn cơm xong, anh đi kêu người ta!” – vừa dứt tiếng nghe đánh “rầm!” một tiếng – bé Chi đang ngồi chơi ở góc nhà bị cây ngã đè cứng trên đầu (nguyên tôi có 1 giường gỗ tạp vừa mua về, còn dựng ở góc nhà chưa ráp lại thành nguyên mẫu).
Cả người bé không bị gì, trên đỉnh đầu nổi lên 5 cục u như đỉnh mụt nhọt – thêm 1 đường gờ chạy từ trán lên tới đỉnh đầu, con ngươi mắt bên trái bị giật sang 1 bên, còn ló ra có nửa! Bé sốt cao ngay tức thời 42 độ, vậy mà không hề đổ 1 giọt máu! Má tôi nghe vậy có lên thăm, cho 100 ngàn bảo đưa bé đi bệnh viện chụp hình sọ não “con ngươi nó lạc mất rồi kìa! Đưa đi bệnh viện ngay nếu không coi chừng khó cứu!”.
Tôi biết là con mình bị hành – vừa sợ vừa ức! Để bé nằm úp mặt lên chân lấy dầu xức, vừa xức vừa khóc, lầm bầm: “ác gì mà ác dữ vậy! Con bé biết gì mà hành nó – có giỏi thì hành tôi đây này, cho xe nhà binh đụng chết cho rồi đi. Tôi đâu có muốn sống làm chi!”. Vừa dứt tiếng, con bé chợt nẩy lên một cái dập mặt xuống nền nhà – bứt nướu răng, máu chảy không cách nào cầm lại được…
Ngay lúc đó Phật Bà về nói: “Ta đã nói với con rồi – món quà đó là do ta mang đến, ta lấy đi lúc nào cũng được! Sát sinh là tội trọng của nhà Phật mà con muốn nhúng tay vào máu sao?” – rồi Người hạ giọng: “Để ta làm cho nó hết sốt nó ngủ – khỏi đi bệnh viện, lấy chai nước nóng chườm vài hôm là lặn. Con ngươi mắt từ từ sẽ bình thường trở lại, không có di chứng gì cả – nướu răng cũng 1, 2 ngày thì lành, khỏi thuốc men gì!”.
Nói vừa xong, quay lại thấy bé Chi đã lăn ra ngủ, không còn sốt nữa!
Tôi chẳng dám đưa con đi bệnh viện, mặc dù lo đến chết được. Cãi lời Phật Bà lần nữa đi rồi biết! – Vậy mà mấy vết thương trong miệng bé Chi không hành đau đớn gì, bé vẫn ăn uống bình thường. Năm mụt u trên đầu lặn xuống rất nhanh, duy có cái gờ ngay chính giữa đầu phải 4 – 5 tháng gì đó mới lặn hẵn! Phật Bà muốn để tôi nhớ cho lâu tội của mình đó mà!
Chính vì tin tưởng vào phép huyền nhiệm của Phật Bà – và biết chúng tôi đang bị “khảo đảo”, ba bé Chi mới uống rượu say về nổi cơn điên đập nát bàn thờ Phật Bà. Cũng vì vậy mà tôi bỏ chồng, bồng bế các con trở về nhà cũ!...
* Đầu năm 1996, bé Chi mới tròn 1 năm tuổi, chưa biết nói tiếng nào. Cứ sụp tối là bé đội nón trên đầu đi vòng vòng trong nhà khóc hờ vì nhớ ba - Tôi chỉ biết khóc theo!
Từ đó bé bệnh liên miên, cứ mỗi lần sốt là lên cơn động kinh, tôi lại sợ đến mất hồn… ba tháng một đợt lên phong ngứa mưng mủ cả hai bên chân (điều lạ là chỉ bị 2 chân – cả người trên không có). Chạy thuốc thế nào cũng phải hơn 2 tháng mới hạ hết, sang tháng thứ tư lại phát lên tiếp, cứ như số đã định sẵn rồi!
Thường đêm bé ngủ, cả người luôn bị rung lắc nhè nhẹ, y hệt như “co giật nhẹ”, tôi rất sợ con bị di chứng của những cơn động kinh – nhưng nhà lúc ấy nghèo quá, lấy tiền đâu ra để đi bệnh viện chẩn cho con. Chỉ biết cầu khẩn, van vái ơn trên cứu mà thôi: “con giúp người chẳng kể công – cầu xin Trời Phật cứu lấy con của con!”…
Các bạn thấy đó – trong hoàn cảnh như vậy mà tôi vẫn không từ bỏ được “căn nghiệp” của mình. Người ta tới tôi chữa bệnh cho người hết, rồi con mình bệnh thì ôm con đi bệnh viện! Nghiệt ngã và cay đắng biết bao nhiêu… Mỗi lần đưa con đi bác sĩ, tôi len lén né tránh mọi người, không để ai nhìn thấy, hoặc có ai đến nhà thì vội vã giấu túi thuốc đi!.
* Bé Chi không chịu ăn cá, thịt gì hết… chỉ ưa độc có 1 thứ: nước tương! Có bắt buộc, bé vừa ăn vừa khóc! Người gầy tong teo – đến 20 tháng hãy còn bú, có điều làm tôi khổ sở là bé gần như bú sáng đêm, chỉ ngủ lơ mơ, trở mình lại bú!... Phần tôi thì trắng đêm chỉ lo cho con bú và… thay tả!
Cứ đầu hôm tôi pha 3 bình sữa lớn (250ml). Nửa đêm dậy súc bình pha thêm 3 bình nữa! Trở mình dậy, không thấy sữa đút vô miệng là bé khóc vang nhà – khóc lớn và dai, không cách nào dỗ được! Hàng xóm mất ngủ, rủa: “con nầy là con quỷ con yêu chứ phải người đâu – con tao mà thế thì tao bóp chết!”
Sau này tôi mới hiểu từ “con Ông con Bà”. Ông Bà ta xưa nói về những đứa trẻ là phần linh căn, nuôi nó “trần ai” hết biết! Cứ mỗi lần con bệnh là tôi “hồn vía lên mây” liền nhớ lời Phật Bà cứ sợ không giữ được con!
Thôi, tạm ngừng “tự thán” ở đây! Tôi lại kể tiếp bạn nghe chuyện “liêu trai” vậy nhé! Thực ra từ “liêu trai” tôi nghe có bề chưa ổn, nhưng vì “trình độ có hạn”, biết sao giờ! Các bạn có thể góp ý dùm tôi xem nên dùng từ nào cho thích hợp chăng?!
23. LIÊU TRAI (5)
Đầu năm 1999, trong xấp lịch Phật cuối năm có một ảnh Thích Ca Mâu Ni rất đẹp! Ông ngắm nghía rồi bảo tôi: “Tấm này đẹp, đem ép lamina về treo trong nhà đi!”. Tôi hỏi Ông xem tấm ảnh nầy là ở giai đoạn nào. Ông nói: “lúc vừa mới cắt ái ly gia!”.
Tôi đem thuê người làm 1 hình ép lamina rất đẹp, về nhà treo ở phía đối diện bàn khách. Vừa ngồi xuống ngắm nghía, “Điển” đã về quay tôi đến chóng mặt như người say rượu, tôi sợ quá bỏ chạy!...
Ba ngày liền đều như vậy! Tôi chịu hết xiết đóng đinh treo trên đầu bàn khách. Không nhìn thấy ảnh nữa – hết quay!
Một thời gian sau, Phật Bà về – tôi hỏi: “Phật Bà ơi! Có phải tấm ảnh nầy là lúc mới cắt ái ly gia không?” Phật Bà phì cười: “Ai nói?” – Tôi bảo rằng Ông nói với tôi như vậy. Phật Bà buông một câu: “Thích Ca thành Đạo!” – À, thì ra “Điển Ông” lừa tôi! Nếu biết là ảnh Phật Thích Ca, tôi chẳng dám để trong nhà vì Điển của Phật Ngài mạnh lắm, mỗi lần về chỉ đứng ngoài cửa thôi, tôi đã bị quay đến tối tăm mặt mũi rồi!
* Vào đầu năm 2003 có người đưa tới cho tôi một phụ nữ bị âm vong nhập. Nguyên cô ấy làm việc trong nhà có 1 người nam vừa mới chết - cậu này vốn bị tật cụp xương sống từ năm 12 tuổi, về sau 25 tuổi lại bị lao phổi. Hận đời, cậu P. chui đầu vào lu nước tự tử!
Sau khi chết, P. nhập về xác cô N. Mỗi lần về lại đánh xác rất dữ, hai ba ngày sau người vẫn còn đau nhừ! Gia đình đã đưa tới cho 1 vị thầy pháp nào đó, ông đòi công 3 triệu, dùng roi dâu đánh tả tơi vẫn không đuổi được âm vong…
Vừa lên nhà tôi, cậu P. đã nhập vào xác và đánh cô N. Có nhìn thấy cảnh ấy mới thấy lạ lùng: cô N tóc dài cột cao lên, lúc ấy tự mình nắm đầu mình mà đánh, mà thoi, mà vả… Đầu tóc xút xổ, hai mắt long lên sòng sọc, răng thì nghiến kèn kẹt. Trông thực kinh khủng!
Tôi nạt 1 tiếng lớn, N buông tay, ngẩng nhìn! Tôi nói: “Còn đánh xác trần 1 lần nữa, ta đánh cho hồn phách tan thành tro bụi luôn, thử coi! Tại sao lại đánh người ta dữ vậy?”. P. buông gọn lỏn một câu: “Hận đời!”
Tôi bắt P lấy dây cột, buột tóc lại đàng hoàng, rồi ngồi khuyên can, an ủi và khuyên P vào chùa tu để giải nghiệp dữ, P bằng lòng, thế là xong! Đòn roi chẳng khuất phục được hồn, vài câu nói dịu dàng, phải lý đã làm cho vong hồn cải hối, quay đầu tìm về nẻo Thiện!
Về sau, mỗi lần cậu P muốn nhập về, lại bảo cô N “đi lên chị Hai nói chuyện chơi!”. Cậu sợ nhập xác ở nơi khác, hồn không tỉnh lại làm điều sai trái…
Hồn cậu P thiêng lắm! Cậu về cho số đề ai, người ấy đánh là trúng liền! Tôi đã tận mắt chứng kiến, có lần chị em rủ nhau đi chùa, ra khỏi cổng, cô N ghé tai cô bạn H.A đi kế bên nói: “Em biết hôm nay chị Bảy kẹt tiền, đánh số 82 đi! Không được nói với ai – mà đánh vài đồng thôi nghe!”. Quả nhiên, chiều hôm đó H.A trúng đề số 82!
Từ ngày vào Chùa ở, cậu P rất ngoan, dễ thương và vui vẻ. Không còn chửi thề, nói năng ngang ngược như hồi mới nhập xác cô N. P vẫn thường về nhà chơi, mỗi lần như vậy lại rủ cô N lên tôi nhập vào xác, chị em nói chuyện. Phương cho tôi biết mình là phần linh căn cao, phải tội nên bị đày thê thảm vậy đó! Bây giờ nhờ chị Hai khuyên nhủ mới trở lại đường ngay, mai mốt về căn sẽ độ lại cho chị để trả ơn…
* Có lần, tôi bảo P tìm hiểu xem “Điển Ông” đang ở bên tôi, nguyên gốc là ai? P nói: “Ông muốn em cho nhập xác để nói chuyện cho chị nghe!” – Tôi đồng ý! Thế là Ông nhập xác cô N, xưng mình là 1 vị tu Phật sắp đắc đạo, Ông khuyên tôi phải rèn luyện mình cho giỏi – để Ông an tâm rời tôi mà đi: “Tôi còn việc của tôi, tôi không thể theo trợ cô hoài được”. Hỏi tính danh, Ông nói: “từ từ rồi sẽ biết!”.
Nói xong, khi cô N ra về, tôi hỏi tại sao Ông lại nói như vậy? Ông bảo: “Nói nghe cho hợp lý vậy mà!”.
Qua trưa ngày hôm sau, tôi ghé nhà cô N chơi, gặp lúc cô đang đau đầu dữ, nhờ tôi chữa!
Tôi đưa điện chữa cho cô N vừa xong, cô hỏi tôi: “Sĩ Đạt Ta là ông Thánh của Đạo Phật phải không?” Lúc chị chuyền điện, em nhắm mắt lại bỗng thấy một luồng hào quang tỏa xuống đầu và tiếng nói: “Ta là Quan Âm Bồ Tát, ta chữa bệnh cho con nha!”. Lời chưa dứt, lại thấy 1 đạo hào quang nữa xẹt xuống, rồi nghe tiếng người đàn ông: “Ta là Sĩ Đạt Ta. Để ta chữa bệnh cho cô Ngọc!”.
Tôi ngạc nhiên: “Em có nhớ lộn không vậy?”. Cô N nói: “Không mà! Em cố nhớ cái tên đó để hỏi lại chị”. Cô N là người Đạo Thiên Chúa. Cô không biết tên Sĩ Đạt Ta là ai cũng phải thôi! Còn tôi, tôi biết mà chưa bao giờ dám tin!...
* Đến ngày rằm tháng bảy năm 2003. Cô Ngọc lên nhà tôi phụ nấu cơm cúng (thường vào các ngày rằm, ngày vía. Chị em chúng tôi tụ lại nấu 3 mâm cơm chay cúng Phật). Cúng xong mời cậu P về nói chuyện chơi và ăn cơm cúng, P nhập về cười ngất nói: “Chị Hai ơi! Em biết “Điển Ông” trong nhà chị là ai rồi. Em là đệ tử ruột của Ông mà không biết mới là kỳ chứ. Ông là Thích Ca Mâu Ni đó”.
Tôi lại hỏi: “Thế tại sao hơn nửa năm nay em không biết?” – P bảo: “Người ta phép cao muốn khoác áo nào chẳng được! Em theo dõi mãi tới hôm nay mới thấy Ông ra mặt đó!”.
Việc Ông tự xưng với tôi – tôi chưa hề nói lại với ai, tôi sợ người ta bảo tôi bị “tâm thần hoang tưởng”.
Lần trước tôi có hỏi Ông tại sao lại xưng mình là Sĩ Đạt Ta – Ông bảo là muốn nhờ miệng người khác nói để cho tôi tin, nhất là 1 người khác Đạo…
* Qua 22 năm, tôi được biết 1 số linh căn của 91 kiếp (phần của người Nam). Trong đó có: Thần Lam Sơn, A Di Đà Phật, Di Lặc Tôn Phật, Thần Nam Tào, Ngọc Đế, Đế Thích, Độc Giác Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật… Điển Ông đưa về cho tôi biết và tiếp xúc với mỗi người trong 1 thời gian ngắn.
Lần lượt – tôi sẽ kể nhân duyên nào tôi được gặp, các bạn sẽ biết trong các chương kế tiếp!
Ngài còn nói một điều: Chúa GiêSu chính là hậu thân của Thích Ca Mâu Ni! Tôi vặn lại Ông: “Chúa GiêSu không có vợ! Còn Ông thì xác nhận Sĩ Đạt Ta với Da Du Đà La là đôi vợ chồng vĩnh kiếp không hề rời nhau. Ông giải thích sao về chuyện này? – Rồi còn nghe kinh giảng: “Thích Ca là đời cuối cùng – Từ ấy đến nay các vị Phật không còn xuống thế nữa – là sao?”. Ông giải thích từng phần một: “Gần như tất cả các giáo phái thuộc về chính giáo đều chung một nguồn cội. Tùy theo phong tục tập quán, quan niệm hay trình độ tri thức mà chọn phần linh căn cho phù hợp mà thôi! Chia rẻ là do lòng dạ của loài người còn đố kỵ, nhỏ nhen, tư lợi và thích xưng hùng xưng bá – Họ tự đưa ra những điều luật riêng, ép các tín đồ phải tuân thủ, rồi gán cho là của các Đấng, khiến sinh lòng tị hiềm, tranh đấu – Tạo ra những cuộc Thánh chiến để tạo quyền lực riêng cho mình. Các Đấng ở trên cao lướt gió nương mây, theo làn thanh khí mà đi về, có thiếu thốn chi điện đài, áo mão?!
Mộng tranh bá đồ vương là mộng của kẻ tục thế. Nếu anh có ý đó đã chẳng để cho em lủi thủi ở một góc đời như thế này! Chuyện làm cho em trở thành 1 người nổi tiếng, dựng nên 1 nhánh Đạo mới và quy tụ tín đồ là chuyện nhỏ, nhưng chúng ta đâu cần phải làm như vậy. Em tình nguyện xuống Thế để độ đời chứ đâu phải để Hoằng Pháp!”
Còn về việc Chúa GiêSu không có vợ, ngay điều đó đã là 1 giải thích hợp lý cho em rồi: GiêSu sống có hơn ba mươi năm và phải chịu tội nhục hình thế cho loài người! Có vợ để rồi vợ con phải đưa mình lên giàn hỏa sao?
Việc kinh sách ngày xưa nói: “Các Phật không còn xuống thế nữa” – đó là chuyện của ngày xưa! Bây giờ tình hình cõi Thế đang ở vào giai đoạn hỗn loạn, các thế lực tà giáo phát triển mạnh khống chế, đàn áp và bức hại chúng sinh, trên cao đâu thể làm ngơ! Các Đấng, ai có lòng thảy đều tình nguyện xuống trần để độ đời…
Mọi việc đều phải theo đúng công pháp, đâu phải muốn làm sao thì làm! Nếu thế thì chúng ta chỉ cần phẩy tay một cái là tạo lập lại trật tự, can gì phải chịu khổ, chịu nhục như em! Các Đấng xuống trần, khoác áo trần – ăn, uống, ngủ nghĩ như người trần thế và lặng lẽ trợ cứu chúng sinh…
Chỉ cần trong 1 tập thể nhỏ đã có thể tồn tại 1 ma, quỷ, yêu, tinh – hoặc 1 Thánh Thần, Tiên Phật – khoác áo trần như bao nhiêu người bình thường khác, và làm những việc mà họ muốn làm. Chờ đi, rồi phép trên sẽ xoay chuyển cho em được diện kiến nhiều người, để cho em có thêm lòng tin mà vững bước!”.
Giờ mời bạn trở lại chương “Thực hành cụ thể”. Kẻo không Ơn Trên trách: “Chúng ta xuống trần miền đâu phải để rong chơi!”…
24. THỰC HÀNH CỤ THỂ (4)
* Có một người đàn ông bán bánh bò dạo - Ông dừng ở sạp báo mua tờ báo Công An, ho rũ rượi, mồ hôi vã ra, mặt sốt đỏ bừng bừng… Tôi gọi lại hỏi, ông nói: “Tôi bị viêm phế quản mà uống thuốc cả tuần rồi không giảm”.
Tôi trị bệnh cho Ông, chỉ 4 lần trong 3 ngày là hết hẵn!...
Chừng hơn 1 năm sau. Người đàn ông ấy đến tìm tôi, nhờ chữa cho bàn tay bị liệt 50% chức năng. Trên gần cổ tay có vết dao chém đã liền sẹo từ lâu, ông nói: “Từ lúc liền sẹo đến giờ cánh tay bị liệt, cầm nắm gì cũng không được - Tôi về Rạch Giá làm ăn hơn 1 năm nay, giờ gặp nạn vầy lại trở lên đây, ở nhờ người bạn để tìm chị, may mà còn gặp!”.
Tôi nhìn vết thương với khuôn mặt người đàn ông hung dữ bặm trợn – Rõ ràng là đâm chém nhau mà nên chứ chẳng sai! Những vụ như thế nầy mà nhúng tay vào thì “bị đòn chết thôi!”. Lại chắc lưỡi nhủ thầm: “Người ta ở tận miền Tây lên tới đây tìm, tức là ở dưới đó đã không chữa được, mình bỏ đành sao!”… Thế là tôi chữa cho ông có 4 ngày (7 lần điều trị). Bàn tay đã co giãn trở lại bình thường!
Ngay tối đêm đầu tiên, tôi ngồi quờ tay chạm vào cạnh giường, sưng lên 1 cục u đau điếng. Sáng ngày đã thấy bong gân sưng đỏ lên rồi! Ra sạp báo chữa bệnh cho người đàn ông đó, tôi ngẩn ngơ nhìn vết thương trên cánh tay ông ấy rồi nhìn lại dấu đau bong gân trên tay mình: “Phải công nhận đòn thay thế chính xác thực!”.
Người đàn ông ấy hết bệnh, hí hửng trở về quê, còn tôi bị bong gân đau cả tuần lễ - sự đánh đổi nho nhỏ cho 1 nỗi đau lớn, có thấm thía gì phải không các bạn?!
Nếu có ai đó bị một bệnh lạ hoặc đau đớn bất thường, là tôi lại phập phồng lo sợ cho chính mình… “Đòn phép” học được “chiêu mới” rồi đây!
Y như rằng! Ngày mai, ngày mốt thế nào rồi tôi cũng sẽ bị đau “na ná” như vậy - mãi đến giờ tôi mới hiểu: tôi đau giống BN bởi vì tôi chịu thế cho họ đấy thôi!
* Cô Thủy 20 tuổi – công nhân Satimex: Bị lên cơn suyễn đã 01 tuần, mỗi ngày một nặng hơn, BS cầm cơn không được- Người rũ rượi, chỉ thở lấy hơi lên. Tôi điều trị cho Cô, chỉ 3 ngày là cắt cơn hẵn!
Một thời gian sau, Ba cô T tới nhờ tôi chữa bệnh suyễn (bị y như con gái của mình). Vốn ông ấy là người “nói trây” có tiếng ở khu nầy, tôi chẳng dám đặt tay chữa bệnh, thoái thác rằng: “Chồng tôi không cho chữa bệnh cho Đàn ông!” Ông Tư đứng lên đi một nước – buông lại một câu: “Thầy Bà gì – chữa bệnh còn kén đàn bà, đàn ông!”…
* Tôi có người anh kết nghĩa – làm giám đốc công ty TNVLXDMN. Năm 1997 ông bị bướu độc bàng quang (5 bướu), lo sợ, tuyệt vọng và xuống tinh thần trầm trọng – Bệnh viện chuẩn bị mổ và xạ trị!...
Tôi về – thắp hương lên bàn thờ P.B, xin cứu lấy Anh – P.B về – bảo tôi: “Nếu con chấp nhận đánh đổi, ta cho bướu độc thành bướu lành!” – Tôi hứa!
Sáng hôm sau vừa ngủ dậy, trên mặt tôi (má bên phải) nổi lên 01 cái mụt nhọt. Tôi hốt hoảng – mụt nhọt mà nằm trên mặt thì xấu hổ đến chết mất! Vả lại từ bé đến giờ mình có bị nhọt bao giờ đâu…
Tôi ngắt một nắm lá bông bụp (còn gọi là bông lồng đèn) vò nát đắp lên rồi đi nằm. Nghỉ trưa 1 giờ đồng hồ, choàng dậy sờ lên má – Ôi trời ơi! Dưới da nó độn lên 01 dề to bằng quả chanh nhỏ cứng ngăn ngắt!
Tôi thắp hương, xin P.B, Người về nói: “Con đã chấp nhận đánh đổi rồi. Để y như vậy đừng có thuốc men điều trị gì, bao giờ hết thì thôi!” – Cái mụt nhọt không làm đau nhức gì nhiều, chỉ hơi đỏ 1 tí và có đầu miệng, từ đó mủ chảy ra không ngớt! Tôi đứng bán báo mà lúc nào cũng có miếng gòn trong tay – chưa kịp chùi mủ đã chảy thành dòng…
Cố đưa tay mà nặn, chỉ ra chút máu nhờn nhợt – có gì khác đâu! Thế thì mủ từ đâu chảy ra vậy? Được 1 tháng rưỡi, chịu hết xiết – tôi đi BV Xóm Mới xét nghiệm máu: “Mụn nhọt lành tính!”. BS bảo: “Tiểu phẫu – may thẩm mỹ, không để lại sẹo đâu, yên chí!” xong – uống thêm 01 tuần lễ thuốc kháng sinh…
Sau 01 tuần, mủ lại tìm đường ra bên trên vết mổ đã liền sẹo – Chịu đựng thêm một tháng rưỡi nữa… nhiều người bảo: “Coi chừng mạch lươn, nó ăn ruồng vô não là tiêu đời!” – Sợ quá, tôi đi tới Trung tâm Ung Bướu xét nghiệm! Lại “Nhọt lành tính” và “Tiểu phẫu, may thẩm mỹ – không để lại sẹo!” Hai BS cùng học có 1 thầy chắc – nói 1 câu bài bản y như nhau!
Lại 01 tuần lễ kháng sinh – Uống vừa hết thuốc, mủ lại len lén bò ra phía dưới hai cái sẹo nhỏ bên trên…
Đến 3 tháng rưỡi, tôi tìm đến nhà Ông Ba (Thầy Bùa) nhờ khoáng dùm! Ông nhìn tôi một lúc rồi nói: “Cô bị hành căn, tôi không dám chữa đâu!” – Tôi năn nỉ ông thắp hương xin P.B, ông vừa gõ chuông, P.B đã về nhập vào tôi bảo: “Đã bảo đừng chữa mà cứ cãi – ta cho chết luôn!” – Ông Ba năn nỉ xin tha cho tôi, P.B nói: “Ông nặn hết máu ra dùm nó đi thì hết – Đừng khoán, vô ích thôi!” – Ông Ba nặn ra 2 cục gòn lớn đầy máu đen, tịnh không có chút mủ nào! Về nhà hết hẳn!... Ba tháng rưỡi cho 01 cái “mụn nhọt lành tính” – Đến nay, trên má tôi hãy còn 1 vết sẹo nhỏ xíu, dấu vết của 02 lần tiểu phẫu!
Từ ấy đến giờ, ông anh của tôi vẫn còn sống khỏe mạnh, và không tái phát lại lần nào!
* Chị Chín (kế bên nhà) bị xe đụng may hơn chục mũi trên bắp vế. Vết thương bị nhiễm trùng, mưng mủ và đau nhức, sờ vào phập phều trông rất sợ! Ấy thế mà tôi chữa có 4 lần chị Chín đã hết hẳn, không còn nhiễm trùng nữa…
Sau nầy nghĩ lại, tôi biết là Mẹ đã “lót đường” cho tôi khi chuyển về ở nơi chốn lạ, chữa hết bệnh cho bà chủ đất có nghĩa là “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” rồi!
Từ dạo ấy đến nay (đầu năm 2000) toàn bộ gia đình 16 nhân mạng của chị Chín là bệnh nhân đắc lực nhất của tôi trong xóm! Một hai giờ sáng chẳng kể, mưa bão lạnh lùng chẳng chừa – Cứ: “Cô Lan ơi!” là tôi trở dậy khóa cửa chạy sang… Cứ thêm một “sinh linh nhỏ bé” chào đời, tôi có thêm 01 trách nhiệm mới – y hệt như BS chuyên nghiệp hay điểm cấp cứu trong khu phố! Có nạn tai xóm giềng lại dìu nhau tới tìm tôi, kéo theo sau lưng 1 đoàn rồng rắn trẻ con hiếu kỳ…
Chỗ tôi ở thuộc vùng quê Ap Đông, xã Thới Tam Thôn – Huyện Hóc Môn! Đời sống người dân còn nghèo khó, thiếu thốn cả về tiện nghi vật chất lẫn vệ sinh - bệnh hoạn cứ như cơm bữa, có khi cả nhà chữa bệnh 4, 5 người…
Cứ vô đầu xóm hỏi: “Cô Lan chữa bệnh” là ai cũng dẫn tới nhà liền! Chòm xóm người ưa, kẻ ghét! Bởi tính tôi ít nói, tối ngày đóng cửa ở trong nhà, không bước chân sang hàng xóm, người được chữa bệnh thì thương quý tôi lắm: “Vì cổ chữa bệnh không ăn tiền. Có bánh trái gì trong nhà, đem chia hết cho trẻ con hàng xóm.”
Lâu lâu tôi về dưới nhà xin đồ cũ của các em, cháu đem về. (Các cháu tôi có quần áo bà con bên Mỹ gởi về, mặc chán lại đem cho – đa số còn mới và đẹp!) Tôi đo ni từng đứa bé trong xóm xong may, sửa lại đàng hoàng – giặt tẩy, nước xả thơm lừng đem cho… Trẻ con mỗi đứa 01 ôm, cười vui ríu rít như ngày hội…
Vậy đó mà tôi bận tíu tít suốt ngày, có khi 1 giờ trưa hay 6, 7 giờ tối chưa có miếng cơm vô bụng, trưa mới đóng cửa định nằm nghỉ 1 chút lại nghe: “Cô Lan ơi! Chữa bệnh.” Một hai đứa bệnh, trẻ kéo nhau đến cả bầy… vào cô Lan chữa bệnh không tốn tiền lại được ăn, đứa nào chả thích! Do vậy chỉ cần cô Lan kêu 1 tiếng là trẻ con hàng xóm “dạ” rân!
Chiều mát, trẻ con tập chạy xe đạp. Cứ nghe “rầm” một tiếng, bé Chi – con tôi lại nói: “Có bệnh nhân nữa rồi!”
Cô Lan “mát tay” lắm – đau đớn, khóc lóc một hồi đưa vào cô L chữa bệnh, xong cho thêm cái kẹo hay cái bánh, cam đoan… hết đau!
Chiều tối, người tập trung đến nhà tôi chữa bệnh đông – xe để chật sân nhà! Hàng xóm tụ tập lại nghe ngóng, hỏi nhau: “Nghe nói Cổ chữa bệnh không ăn tiền, mà chữa suốt ngày như vậy rồi lấy gì sống – uống nước lả chắc!” Lại có người bảo: “Nói vậy, chắc sau lưng cũng móc ngoéo người ta đưa tiền cúng lễ nầy, lễ nọ – chứ chẳng lẽ ở không đi làm chuyện thiên hạ!”
Có nhà khác Đạo, nói dèm: “Bà Thầy lang đó làm thầy Bùa thầy Pháp thì có! Bả thư yếm cái gì trong bụng cô S mà bụng càng ngày càng lớn, đau quằn đau quại, mai mốt nổ cái “bùm” chết ngắt cho coi!” – Con tôi về mách mẹ, buồn hiu: “Mình chữa bệnh không ăn tiền mà sao họ còn nói xấu mình nầy nọ…” Tôi khuyên: “Kệ họ, con à! Họ khác Đạo không có lòng tin, đừng chấp họ làm gì!”
Vốn cô S do hoàn cảnh gia đình khó khăn, đi “kế hoạch” những 6 lần trong vòng có mấy năm, giờ tử cung biến chứng – bụng dưới cứ sưng to, chướng hơi, như có ai từ trong ấy thổi ra – đau đớn lắm!
Tôi chữa giảm đau, ngày khác đau tiếp lại vào! Bệnh viện cũng thua, biết bao nhiêu tiền thuốc men cũng chẳng tác dụng gì!...
* Bé Dung – con chị Chín – ngộ độc do ngậm phải keo thổi (đồ chơi trẻ con). Hai bên má sưng phồng to lên và khó thở! Tôi cấp cứu sau 20 phút thì hết sưng và hơi thở bình thường trở lại…
* Bé Trúc (con cô Tiến nhà kế bên) 4 tuổi. Bé dậm chân lên con dao để ngửa – đứt sâu và dài, máu ra xối xả! Tôi cầm máu, ngưng sau 5 phút, điều trị thêm 05 ngày chân lành hẳn, không còn đau nhức nữa!
* Bé Nhung (con cô Lý) ở gần nhà tôi lúc nhỏ 3, 4 tuổi thường hay bệnh, vẫn sang tôi chữa luôn! Có lần bé bị làm kinh co giật, hai mắt đứng tròng, sốt cao! Tôi sang cấp cứu – chỉ 2 phút sau thì bé tỉnh, làm khỏe cho bé thêm – chốc lát bé đã ngồi dậy và uống sữa được…
* Bà Nội bé Nhung – bị zonar phần cổ sau lưng, ăn lan rất nhanh và đau nhức, sốt – lại ớn lạnh. Tôi chữa sau 5 ngày thì bà hết hẳn! Có người cháu trai ngoài Bắc vào chơi nghe bà khoe, cậu ấy nói: “Cô ấy chữa bằng gì mà hay vậy? Ngày trước cháu cũng bị giời ăn – nằm viện đúng 1 tháng rưỡi mới khỏi”.
Phần tôi – tôi chỉ nói với mọi người rằng chữa bằng Đông Y: Bấm huyệt! Tôi khoe nghề nầy do ông Ngoại của tôi truyền lại – Nói cho người ta dễ tin thế thôi! Ông Ngoại tôi mất năm tôi 13 tuổi, truyền cho tôi sao được – Nhưng tôi vẫn tin ông trợ cho tôi cứu người, và có lẽ cũng hãnh diện khi có đứa cháu nối “Nghiệp Nhà!”
Ông Ngoại tôi xưa là Đông Y Sĩ – người Trung Quốc, dòng họ Tạ ở Mai Hoa Huyện! Sang Việt Nam yêu bà Ngoại rồi ở lại không về… Cô gái quê Cái Bè đẹp, thất học – Lấy chồng được ông Ngoại tôi “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” suốt cả một đời…
Ông tôi tài giỏi mà lại đạo đức nữa! Ông đã từng là Hiệu trưởng trường Tàu, ngày xưa có loại thuốc “Ngoại cảm tán” của nhà thuốc Đồng An Đường, Trung Hòa Đường là do ông Ngoại tôi chế ra, tác dụng hay hơn hết thảy các loại thuốc Bắc đương thời…
Vào thời Ngô Đình Diệm, có 1 người lính Việt Minh bị đạn xổ ruột, nằm ngay cửa nhà thuốc. Năm giờ sáng ông tôi dậy sớm tập thể dục thấy vậy khiêng vào nhà giấu biến, tự tay mình chế ra thuốc uống, thuốc rửa vết thương rồi may lại. Nghe ông kể: “Ruột người ấy đổ ra ngoài nhiều bằng cả rổ…” Ấy vậy mà ông tôi cứu người lính sống, hai tháng rưỡi sau hoàn toàn khỏe mạnh, ông cho tiền rồi lén đưa xuống tàu về quê!
Mấy năm sau, người đàn ông ấy vác trên vai 1 bao khoai củ các thứ lên nhà tạ ơn ông: “Con về quê lấy vợ, nghèo quá! Không có gì đáng giá – xin Thầy Bảy nhận cho tấm lòng con”…
Còn 1 việc lớn nữa về ông tôi – mà tôi phải kể lại cho các bạn nghe: Nguyên ở tại chợ Cao Lãnh, có tiệm thuốc Bắc “Trung Hòa Đường” của ông tôi là lớn nhất – mỗi sáng sớm, bệnh nhân ngồi 2 hàng đợi, dài ra tới ngoài chợ!
Ông bà đều tốt và thương người, ai nghèo thì bốc thuốc cho không lấy tiền… bà ngoại tôi “một chữ cắn đôi” không biết, vậy mà bốc thuốc mát tay không thua gì ông! Ai đến mua thuốc, bà nhớ mài mại lấy ra đưa, đem về uống vô bệnh nào cũng khỏi…
Ông bà ở căn nhà lầu 4 tầng, đúc tường dầy nửa thước, nhà chắc chắn như 1 lô cốt vậy! Đêm đó hai phe đánh nhau – cả chợ đổ vào nhà thuốc trú nhờ, ông bà chứa cả…
Hai trái B40 nổ thẳng trong nhà – căn nhà lầu 4 tầng tan gần như thành bình địa! Đến khi ông Quận trưởng (quen với dì tôi) tới, chỉa loa vào nhà: “Ai còn sống chui ra coi!”… Mọi người lóp ngóp chui ra – đếm cả thảy 72 người, không có thương tích gì, ai cũng bảo: “Ông bà Bảy phúc lớn quá, cứu được bao nhiêu là người…” Bù lại – ông bà tôi trở thành người tay trắng, tán gia bại sản luôn!
Thôi, tạm ngưng ở đây – Tôi kể tiếp về hành trình của Huyền Môn cho các bạn nghe nhé!
25. NGUỒN ÂN CỨU MỚI
Vào cuối năm 1999, tôi có dịp xem số cho một người Đàn ông tên HC. Khi đó Điển báo những điều quan trọng – mà sau nầy ứng chẳng sai! Đại khái: “Căn nhà hiện tại ông đang ở chỉ phát trong vòng 20 năm, sau đó sẽ là 1 quá trình tàn lụi rất nhanh, trở tay không kịp! Trong nhà có một mạch nước ngầm độc hại đi xuyên suốt từ sau ra trước – Tính từ cửa sổ buồng giữa đếm 6 miếng gạch là chỗ mạch nước đi qua – khí độc của nó sẽ triệt chết tất cả những ai là phái nữ ngụ cư ở trong nhà. Đầu tiên sẽ là người cao niên nhất…
Mọi việc bắt đầu vào năm Ngọ sắp tới đây! Ông HC xác nhận: hiện tại trong nhà ông còn 3 người nữ là Mẹ, Vợ và Con gái út – Mẹ và vợ ông bệnh nặng, con gái út thì xanh xao, nhược sức và hay bị choáng…
Thế nhưng – đâu dễ gì tin vào 1 lời phán đoán mông lung, ông HC và gia đình vốn trí thức, có danh vọng và địa vị! Để hỗ trợ cho ông làm giảm bớt tác dụng nặng nề của mạch nước ngầm – tôi chỉ ông tìm mua 01 chậu kiểng có lá nhỏ màu xanh thẫm, loại lá dầy – đem về để ngay chỗ có mạch nước ngầm… Quả nhiên 1 thời gian ngắn chậu kiểng chết, lại thay chậu khác!...
Đến cuối năm 2001 – Mẹ ông phát bệnh nặng! Năm 2002 (ngày cuối tháng Giêng) – Ông điện lên nhờ tôi xuống xem có trợ gì được cho Mẹ ông không: “Mẹ tôi đã hôn mê rồi. BS chẩn không quá 2 giờ trưa nay, bảo lo hậu sự đi là vừa!” – Tôi xuống nhà, thắp hương trên bàn thờ PB và Cửu Huyền khấn xin cho Bà “phải ở thì ở nhẹ nhàng, phải đi thì đi không đau đớn!” – Tôi về, quá trưa thì Bà tỉnh lại, kể chuyện: mơ thấy mình đi qua 1 con đường hầm, tới 1 nơi đầy ánh sáng và rất đông người, chợt nghe tiếng con cháu la khóc quá Bà quay trở lại - Hồn nhập vào trong xác và… tỉnh!
Nhưng vì bệnh quá nặng – Bà chỉ sống thêm được 1 tháng rưỡi – mỗi ngày tôi trợ điện cho Bà qua điện thoại! Cứ hễ Bà nói đau ở đâu, chữa xong Bà nhẹ còn tôi thì đau thế…
Sau ngày hôm đó – Ông HC lên nhà, PB về bảo: “Mẹ con không sống được bao lâu nữa đâu. Kêu Sư Thầy tới tụng Kinh cho nhẹ mình!” Ông ấy nói: “Khổ nỗi mẹ con không tin gì cả, không chịu con biết làm sao giờ!” – “Không tin ta làm cho tin!”. Ngay đêm đó gần 11 giờ khuya, mẹ HC bảo ông mời Sư đến tụng Kinh và Quy Y cho Bà… Từ đó bà nghe kinh suốt ngày, còn nói với HC: “Nếu biết tu tốt như vầy thì Mẹ tu từ lâu rồi!”. Kinh giảng có câu “chỉ cần niệm Di Đà nhất tâm bất loạn trong chừng một niệm khi chết sẽ vãng sanh Cực Lạc Quốc”. Có phải chăng ngay lúc bên bờ sinh tử Bà đã ngộ được “nhất tâm bất loạn”?!
Thấy sự mầu nhiệm của Nhà Phật đã chuyển tâm được Mẹ mình, ông HC tin lắm – từ đó hay lên thắp hương lễ hay lạy Phật ở nhà tôi! Một hôm P.B về bảo: “Mẹ con sống không quá 10 ngày nữa, con chuẩn bị hậu sự đi là vừa! Vì tấm lòng hiếu thảo của con không thua gì Mục Kiền Liên, ta ban cho con ân phúc: Nhà Phật sẽ đưa Mẹ con đi đầu thai chuyển kiếp ngay tức thì – không phải về trả tội chốn Âm Cung!
Nhớ lời ta dặn: Mẹ vừa tắt thở – thay vì ngồi đó khóc thì con thắp đèn sáng lên tất cả các Bàn thờ, đốt hương trầm xin đích danh ta: Quán Thế Âm Bồ Tát – xong rồi lấy tấm hình P.B đang thờ đem xuống cho Mẹ con ôm vào trước ngực! Con ngồi ôm tay Mẹ trong vòng 10 phút, xong xịt dầu thơm tẩy trần trả về chỗ cũ, từ đó trở đi hành lễ theo Đạo Pháp, cúng chay không cúng mặn! Và nhớ phép chỉ thiêng trong vòng 10 phút đầu tiên sau khi chết!”
Quả nhiên chỉ 8 ngày sau mẹ ông HC chết! Ông làm y như lời dặn của P.B. đám tang nhẹ nhàng, trang trọng, cúng chay – không cúng mặn…
Vốn ông HC nhà chỉ có 1 mẹ 1 con, cha chết khi ông còn nhỏ, mẹ thủ tiết thờ chồng nuôi con từ thuở đôi mươi – Nay 82 tuổi thì bà mất! Tình mẹ con gắn bó lắm – Lên nhà tôi ngồi chơi chốc lát nghe bồn chồn, nóng ruột là ông đứng lên ra về: “Mẹ tôi nhắc tôi”… Chuyện vệ sinh và chăm chút cho mẹ, ông tự tay làm không để cho ai!
Cúng xong thất tuần (49 ngày) cho Mẹ, ông HC mua hoa lên thắp hương Phật tại nhà tôi - Ông còn đang đứng thì tôi thấy Bà (mẹ của ông) về đứng sau lưng nhìn qua vai ông ra dấu muốn tiếp xúc. Tôi nói – HC đứng dậy bỏ về, có lẽ do đột ngột chưa chuẩn bị tâm lý, có khi do không tin lời tôi, sợ tôi giả để lừa ông!
Đêm đó – âm vong của mẹ HC ngồi cả đêm trên ghế trong phòng khách nhà tôi – Còn tôi thì sợ đến… cả đêm không nhắm mắt! Sáng sớm, tôi điện cho HC bảo lên gấp!
Mẹ HC về tiếp xúc với con, ông hỏi: “Mẹ đầu thai về đâu – nói cho con biết với!” - : “Mẹ không có đầu thai – Mẹ đầu sanh về cõi Vô Vi! Cõi Vô Vi là cõi của nhà Phật đó con!” Rồi bà kể tiếp: “Nguyên căn của Mẹ là Diêu Trì Phật Mẫu Tây Cung. Do có tội vì hành xử sai việc mà bị bắt đi đày 570 năm! Lẽ ra phải còn 2 kiếp trần nữa mới mãn hạn. Nay vì nhờ nhà Phật trợ cứu Mẹ mới được trở về căn!”
Quay lại tôi, bà nói: “Nhờ cô Lan cầu xin mà ta mới được nhà Phật giúp. Ta nguyền rằng: Ngày nào cô Lan còn sống trên cõi đời nầy, hễ kêu một tiếng là Diêu Trì Ta có mặt trợ cứu!”
Rồi bà ra lệnh cho HC xây mộ theo ý Bà: Sơn màu xanh ngọc, bia màu xanh dương – chữ đỏ. Bên trên làm một vòm tròn tượng trưng cho cõi Vô Vi…
Bà đưa về hai người, giới thiệu: “Đây là Hoàng Mẫu – em Ta! Còn đây là Cửu Thiên Huyền Nữ, Đệ tử của Ta!
Hoàng Mẫu mặc áo Lụa vàng, Cửu Thiên áo lụa trắng, còn Mẹ Diêu Trì mặc áo màu xanh da trời!
Vốn tôi là người Đạo Phật, lúc đó chỉ nhớ mang máng: “Tây Vương Mẫu! Chuyện Tề Thiên Đại Thánh trộm Đào Tiên…” Mẹ Diêu Trì còn nói: “Khi mặt trời xuống là cung điện phía Tây hiển hiện” Mẹ bảo tôi: “Phật Mẫu đáo gia ở đâu thì nơi đó phát – Ta sẽ không để cho con phải khổ như thế này nữa đâu! Từ nay trở đi ta nắm tay con độ đời – Từ từ rồi ta chuyển ngân cho con có tiền độ nhật!”
Tôi xin: “Nếu thế thì xin Mẹ cho phép con mỗi năm lấy ngày giỗ Mẹ HC làm ngày vía an vị Mẹ Diêu Trì tại nhà con!” – Mẹ bằng lòng! Từ đó đến nay, HC giỗ Mẹ ngày 11 tháng 3 – còn tôi cúng vía Mẹ ngày 12 tháng ba hằng năm, đã 6 năm rồi…
Đây có lẽ cũng là sự xoay chuyển của các Đấng để giúp cho tôi có thêm năng lực mà độ đời, giống như lời P.B Quán Âm đã nói: “Ta cho con gà đẻ trứng là ta đã lót ổ sẵn hết rồi!”
Lẽ ra chúng ta chuyển sang một đề chương khác, nhưng chỉ e mất đi phần mạch lạc của câu chuyện – đang bắt đầu minh chứng cho sự huyền nhiệm hiện hữu từng ngày… không phải ở chỗ tôi mà ở nhà của HC!
Cũng phải thôi, các bạn nhỉ! Một dòng tộc mà tổ tiên bao đời thai sinh và dung dưỡng phần trần xác của Mẹ, đương nhiên xứng đáng để được báo đền!
Có điều Mẹ đã dặn dò HC: “Chỉ ở nhà cô Lan mẹ mới biết con – và là mẹ của con, chỗ khác thì không – Khi đã trở về ngôi là phải đoạn căn trần, mẹ không còn liên can tới con, không biết con là con của mẹ nữa!” giờ – tôi xin phép liệt kê một cách có trật tự từng việc một, để tiện bề theo dõi cho bạn đọc. Chúng ta chuyển sang đề mục “Thực hành cụ thể!”
26. THỰC HÀNH CỤ THỂ (5)
* Việc quan trọng đầu tiên Mẹ bắt HC phải làm: “Ngay lập tức xoay chuyển nhà cửa – Bán và mua nhà mới, nếu không sẽ không giữ được sinh mệnh của vợ con!” HC nói: “Vợ con không chịu, bà ấy nói nhà đang ở bao nhiêu năm làm ăn khấm khá không dời đi đâu hết!” – “Không chịu ta làm cho chịu…”
Thế là vợ HC đêm đó ngủ mơ thấy mẹ chồng về bắt dọn nhà đi chỗ khác ở – Bà cãi lại mẹ chồng, bị mẹ mắng!...
Sáng hôm sau hai vợ chồng bắt đầu đi tìm mua nhà và đăng báo bán nhà cũ! Đôi ba hôm – HC lại lên nhà tôi một lần, mang theo một lô những địa chỉ nhà bán. Tôi xin Mẹ về cho ý kiến! Mẹ nhập vào tôi – đưa bàn tay rà chầm chậm lên từng địa chỉ một, hai mắt lúc đó nhắm nghiền – xong Mẹ phán: “Căn nhà nầy xuống móng, nứt tường! Căn nầy nhà tranh chấp, không làm giấy được – Căn nầy có người tự tử chết trong nhà…” Vài đợt như vậy, Mẹ mới chỉ vào căn nhà địa chỉ :… : “Nhà nầy mua được! Giấy tờ có trục trặc chút xíu rồi cũng thông…”
Từ ngày giờ đi coi nhà đến thời gian đặt cọc, giao tiền… Nhất nhất đều do Mẹ chọn! Mọi việc như ý cả! – Chưa bán được nhà cũ, mua nhà mới xoay tiền không kịp, ông HC than với Mẹ, Mẹ bảo: “Về suy nghĩ lại. Chọn người quen ở hướng Tây – Chiều mai 2 giờ đi hỏi tiền, Mẹ cho người xuất ngân cho con vay!” – Quả nhiên, chiều hôm sau HC đến nhờ một người quen làm ở Ngân hàng về phía Tây, mượn ngay được 1 số tiền lớn…
Sau, vì tiền góp Ngân hàng mỗi tháng nhiều mà nhà cũ vẫn chưa bán được – HC đâm lo, than van với Mẹ! Mẹ Diêu Trì về, lại nói: “Để ta cho trẻ nó kiếm tiền về phụ cho con!” – Thế là cậu con trai thứ vừa tốt nghiệp Đại học nhận ngay được 1 hợp đồng thiết kế bản vẽ trị giá 40 triệu đồng. Cô con gái út thực hiện công trình phụ được bồi dưỡng 12 triệu… Ba tháng sau do quy hoạch nhà nước, cậu con thứ HC vẽ lại công trình cũ – lại được 40 triệu đồng!
Đăng báo đã lâu mà chưa bán được nhà, HC lại lên xin Mẹ! Mẹ Diêu Trì về nói: “Ráng đợi xong giỗ mẹ rồi bán, keo bà con xóm giềng họ quở!”. Ông HC vẫn còn lo, Mẹ nói “Con tin 10 con được 10 – con tin 3 sẽ chỉ được 3” – HC hoảng hồn: “Dạ, con tin – con tin”… Nếu tôi nhớ không lầm thì sau ngày giỗ đầu của Mẹ có mấy hôm là ông HC bán được nhà!
Các bạn thấy mẹ Diêu Trì do tính kiên quyết của mình, đã xoay chuyển mệnh số cho cả 01 gia đình hay chưa!?
Đến tận giờ phút nầy, những đứa cháu của Mẹ chắc vẫn nghĩ số tiền lớn vào trong tay là do tài lực của chính mình, nào biết đâu từ sự “xuất ngân, ban lộc” của mẹ DT…
Ông HC mua được đất, cất được nhà – tôi “chịu đòn” 1 tháng lẻ 5 ngày. Khi ông bán nhà cũ, tôi nằm 24 ngày chẵn! Sở dĩ tôi nhớ như in bởi vì những trận “hành căn” đến và đi đột ngột, tôi nhận biết chính xác đến từng giờ, từng phút… Chưa có đợt nào tôi đau nhiều và lại đau dai dẳng đến như vậy – Mái tóc dài nằm một chỗ mãi dính bết lại với nhau chải không nổi nữa, tôi nhờ người chở đi uốn ngắn cho nhẹ đầu, lại nằm chịu tiếp!
Tôi trích lại đây 1 đoạn văn tôi viết trong cơn đau, các bạn đọc nhé!
… “Cơn đau trải dài từ chót cổ xuống thắt lưng, xuống hai đầu gối, hai khoeo chân – và tận cùng ở khớp ngón chân cái! Chừng như ở đâu có xương thịt ở đó có cái đau, chừng như máu đang ngừng lưu thông trong cơ thể. Cả một thể xác to lớn kiệt quệ không ngừng rên rỉ, quằn quại! Mỗi bước đi là một chuyển dời đau đớn, mỗi một thời khắc sống là một đọa đày…
Đứng lên, ngoi xuống, bước tới, quay lui… mọi day trở chuyển vận đều như có cơn đau đang xé lên đâu đó trong người. Lặng nghe ngóng, theo dõi… mãi chẳng biết nó đến tự bao giờ và chừng nào thì nó sẽ ra đi!...”
Thường khi, tôi làm nhiều việc khác nhau trong mỗi ngày, nên khi “bị đòn” lắm lúc cũng chẳng biết bị từ vụ việc nào nữa! Đợt nầy vì đau quá lâu tôi cứ nằm khấn Mẹ: “Xin cho con biết tại sao con phải chịu đau đớn như thế nầy!” – Và Điển báo cho tôi 01 giấc mơ:
* Tôi thấy mình đang đau và đang nằm một chỗ y như thế này! Một buổi trưa độ 2, 3 giờ – ông HC lên tới thấy tôi nhịn đói nằm một chỗ bèn xốc dậy bảo ngồi lên xe ông chở đi kiếm gì ăn… xe vừa chạy, sực nhớ mình đang mặc bộ đồ lửng ở nhà, tôi la lên – bảo ông quay lại để kiếm cái áo khoác!
Xe vừa dừng lại, bỗng nhiên thấy có 1 toán người đuổi đánh ông HC, mà tôi thì đau quá chỉ đứng chịu trận đó, chẳng làm gì được! Nhìn qua bên kia đường, tôi thấy có 1 đứa bé đang ngồi, thấy tôi thì che mặt lại trốn… Vía tôi biết đứa bé cùng phe với bọn người kia, bèn bước tới dỗ ngọt: “Con nhà ai mà sao ngồi một mình, mặt mũi tèm lem vầy nè! Đưa cô lau sạch cho! Con ngồi làm chi ở đây!” – “Tui chạy theo coi người ta đánh ông kia kìa!”. Hỏi “Tại sao đánh?” – Con bé đáp: “Họ đánh không cho ổng ở dưới, ổng lên trên miệt nầy mua đất cất nhà, họ chạy theo lên đây đánh nữa!” - “Ai đánh?” – Đáp: “Phe ông Tòng chứ ai!”… Có thế rồi tôi giật mình tỉnh dậy! Chợt nhớ: ông Tòng là người bán rau cải dưới chợ Hiệp Thành vừa chết vì bệnh ung thư hơn chục ngày… Âm phần phá rồi chứ chẳng sai! Vậy là tôi biết đợt nầy đau do đâu – Cố chịu đựng thôi, ơn Mẹ bề trên cứu bao người, mình đau một chút để “trả nghĩa” cho Mẹ, cố lên!...
* Con gái út của ông HC dạy trường Đại học. Một buổi chiều bị ai đó lấy mất túi xách đang để ở văn phòng. Nghe nói trong đó có 1 số tiền cùng với hầu hết giấy tờ: hộ khẩu, CMND, bằng lái, bằng giáo sư… ông hớt hải chạy lên bảo “Xin Mẹ tôi về cứu đi, mất cả rồi!” – Mẹ về hỏi: “Trong số đó giấy tờ nào quan trọng nhất” Ông đáp: “Bằng Đại Học - vì không cấp phó bản” Mẹ nói: “Được rồi, về đi – để Mẹ lo.”
Hơn 7 giờ tối – Tôi đang ngồi xem ti vi, Mẹ DT về bảo: “Có rồi đó con!” – “Có gì vậy Mẹ” Mẹ nói: “Bằng Đại Học”.
Sáng hôm sau, quả nhiên ông HC điện lên bảo: “Có ai đó đã tuồn Bằng Đại Học qua khe cửa văn phòng trường…”
Các bạn có thấy chuyện hy hữu “có một không hai” chưa? Nếu ai đó có lòng, sao không ném trả toàn bộ giấy tờ?!
Mẹ giải thích: “Định mệnh là vậy, mình cũng phải chịu mất mát một chút cho trọn số, con à!”
* Lại có lần tôi mơ thấy đang đạp xe trên đường thì gặp ông HC – ông cũng đi 1 chiếc xe đạp, có giấy tờ gì đó nằm trong giỏ xe phía trước! Vừa gật đầu chào tôi – tới ngã rẽ ông gặp 1 người bạn, bỏ xe bên đường sang chào hỏi tay mắt mặt mừng… Khi quay trở lại thì mất xe! Tôi và ông đi tìm mãi mà không thấy – ông HC bảo: “Thôi chết, mất bản vẽ của thằng nhỏ đền công trình thì tiêu luôn!” – Đến đó, tôi giật mình tỉnh giấc…
Ứng biết sắp có điềm chẳng lành, ông HC và tôi lại cầu Mẹ cứu! Ba ngày sau, chú mèo nhảy lên bàn làm việc, “ị” tèm lem lên bản vẽ công trình của cậu kỹ sư!
Thực may – mới chỉ là bản phác thảo!
* Trong tay tôi có hầu hết hình ảnh của gia đình ông HC! Lòng tin vào Mẹ, hễ ai có việc gì là ông lại xin Mẹ về cứu. Ai bệnh hoạn thì tôi trợ (gián tiếp qua hình!).
Nguyên vợ của HC bị bệnh tiểu đường đã lâu năm, thường xuyên biến chứng – mỗi lần như vậy tôi vừa cầu xin vừa chữa bằng nhân điện cho đến khi khỏi thì thôi – Và công lao đó thuộc về… bác sĩ và bệnh viện!
Có lần tôi xin Thầy Hải Thượng về, thầy cho 1 loại thuốc để trung hòa lượng đường trong cơ thể: “Dây đậu dại” – Loại dây leo thường mọc theo hàng rào, lá như lá đậu mà nhỏ hơn, trái cũng nhỏ – trong có hạt như hạt đậu bé xíu xiu!
Tội nghiệp cho ông lão ngoài 60 tuổi, vì thương vợ phải lần mò đi tìm hái lá thuốc, tôi dắt ông vào tận hang cùng ngõ hẹp… Hai người vất vả lắm mới tìm được 01 bao thuốc lá, chừng nửa tháng lại đi một lần!
Dây đậu dại không kỵ với thuốc tây, chỉ nấu uống thế nước làm cho cơ thể dịu mát, an thần, hạn chế biến chứng của bệnh! Nghe đâu vợ ông HC còn đóng gói gởi cả về ngoài quê cho bà con nữa…
Sau, thấy đi tìm thuốc cực quá, tôi lấy giống đem về gieo trồng trên hàng rào quanh nhà, để ông chỉ việc hái đem về cho đỡ tốn công sức!
* Có lần, bà Cửu Thiên về bảo với ông HC “Nội nhật ngày mai – ngày mười bốn, con sẽ bị tai nạn xe cộ, có thể gãy chân! Để cứu con ta dặn: Cả ngày 14 từ sáng sớm đến 6 giờ tối con không được đi ra ngoài bằng bất cứ phương tiện gì. Qua 6 giờ chiều thì nạn dứt! Tuy nhiên ta cũng nhắc con nhớ cho kỹ – Số mệnh sẽ xoay chuyển bằng mọi cách để thực hiện án lệnh, nếu có ai đó tìm kiếm hay kêu gọi con ra ngoài vì bất cứ lý do gì, con đều phải từ chối! Ta sẽ cho người bảo trợ”…
HC làm y lời dặn – cả ngày 14 ấy chỉ ở nhà, nằm đọc sách và làm việc vặt, nhất định không đi ra ngoài! Đến hơn 5 giờ chiều, ông đang nằm lơ mơ trên võng, thoạt nhìn vào bức tường ở phía đối diện thấy mường tượng như hình 1 con cọp hay sư tử gì đó – thật to, lấp loáng như vẽ bằng ánh sáng - : “Tôi biết rằng Ơn trên đã cứu tôi!” Ông nói!
* Đến ngày rằm tháng 10 năm 2002 – ông HC lên thắp hương cho Phật – bà Cửu Thiên về nói: “Ở dưới Châu Đốc Hai có điện thờ Mẹ Diêu Trì. Hôm nay ngày Vía lớn – con đưa cô Lan xuống đó lạy Mẹ đi!”
Ông HC chở tôi đi Điện Bà Chau Đốc Hai ở Cần Giờ! Ngày rằm lớn người đến dâng hương đông đến nỗi chen chân không lọt… chúng tôi tìm tới chỗ thờ Mẹ Diêu Trì – một nơi đẹp đẽ và trang trọng! Hình tượng Mẹ Diêu Trì đứng giữa phòng, thật cao lớn, oai nghi – Ao Mão Cân đai, tràng phang bảo cái đủ đầy… Mẹ Diêu Trì mặc áo lễ bằng gấm đồng tiền màu đen! Chúng tôi hỏi Bà Từ ở đó: “Điện nầy thờ ai vậy bà?” - : “Không biết sao – Diêu Trì Địa Mẫu, Mẹ hóa sanh toàn cõi địa cầu đó!” – Tôi sững sờ, cả HC cũng vậy…
Ra khỏi Điện Bà, thay vì về nhà mình, HC nhất định trở lên nhà tôi: “Cô xin Mẹ về đi, tôi muốn gặp Mẹ!”…
Bà Cửu Thiên vào nhà trước, hỏi chúng tôi” “Sao – có thấy Mẹ Diêu Trì ở đó không con?” Tôi trả lời: “Dạ có – mà sao mặc áo màu đen, Mẹ về đây con thấy mặc áo xanh không mà!” – Bà CT nhích qua một bên: “Có giống người nầy không con?”. Lúc đó, Mẹ bước vào, mặc chiếc áo màu đen bằng gấm đồng tiền y như tôi đã nhìn thấy ở Châu Đốc Hai!
Ông HC hỏi: “Tại sao Mẹ nói là Phật Mẫu Tây Cung, dưới đó lại là Địa Mẫu toàn cõi?” Bà CT giải thích: “Tùy theo hành xứ, trú xứ, trụ xứ mà có tên gọi khác nhau – chung quy cũng chỉ là một mà thôi”. HC lại hỏi: “Con có duyên gì mà được phúc đức lớn như vậy?” Mẹ Diêu Trì nói: “Đâu phải chỉ có Thích Ca Mâu Ni xuất thân từ kẻ quyền quý – Quán Am Thị Kính xuất thân nhà bình dân đấy thôi!”
Rồi Mẹ bảo tôi thỉnh tượng Mẹ về thờ, để Mẹ phò trợ cho! Người đã bảo vài lần rồi, song tôi cứ lần khân, chối quanh mãi – Mới có 1 Điển nhà Phật tôi đã sống giở chết giở thế nầy rồi, thêm Điển lạ nữa… chắc tiêu luôn quá!
Tôi cứ từ chối, lấy lý do: “Con còn Điển chủ quản, để con xin phép đã, nếu cho phép thì con mới thờ – Bằng không bị đòn chết!” Nay Mẹ nói: “Ta đã hỏi qua PB rồi!” – Tôi biết nói sao giờ: “Nếu vậy con xin phép Mẹ cho thỉnh ảnh bà Cửu Thiên về thờ!” Mẹ lại nói: “Thờ Phật còn chưa nghiêm minh, thờ Cửu Thiên ba ngày vía trong tháng mà không đủ le là bị Điển phạt chết đó - Con thơ Ta, rồi vui thắp nhang buồn thì nghỉ ta chẳng trách con đâu!” Mẹ nói đến vậy, tôi còn từ chối đàng nào?!
Me lại bảo ông HC: “Mẹ thấy bên kia đường người ta có bày bán tượng Diêu Trì, con ra đó thỉnh 01 cái đem về đây!” – Rồi chính tay Mẹ bày lên bàn thờ Phật và thắp nhang, không cần lộc lễ thượng trang gì cả!!
Xưa nay, tôi vốn là người đạo Phật, không biết chút gì về Địa Tiên – Mẹ nói tới đâu thì tôi nghe và biết đến đó vậy thôi! Do chuyện nầy mà ông HC nảy ra ý cúng tặng cho tôi hai tượng Mẹ Diêu Trì và Quán Am cao 1m60 – to và đẹp như người thật! Nói là để trả nghĩa tôi đã giúp ông mua bán được nhà đất, xoay chuyển cho mọi sự hanh thông…
Tôi “giở khóc giở cười” khi người ta chở đến nhà, và tôi chỉ có ký nhận! Hai tượng Mẹ to lớn, mỗi tượng phải đến 4 người khiêng, tôi biết để vào đâu? Vả lại – xưa nay tôi có tu hành, trì niệm cho có bài bản bao giờ!...
Thế là phải lo tiền cất 1 cái am nhỏ thờ tượng Mẹ – Về sau Am tự thiêng lắm, ai khổ nạn tới xin là Mẹ cứu!
* Kể từ ngày Điển Mẹ Diêu Trì về ngự, người tìm đến ngày một nhiều! Đủ mọi nạn khổ trên đời tôi đều phải đảm đương – Nhưng chuyện nầy tôi xin kể bạn nghe vào chương sau, giờ chúng ta trở lại để biết thêm về sự huyền nhiệm của Mẹ Diệu Trì…
Hai tượng Mẹ đem về chưa có chỗ để, còn nằm nguyên trong bọc nilon – mấy ngày sau tôi phát hiện tượng Mẹ DT hơi nước bốc ra mờ mịt cả vỏ bao, kiểm tra lại thấy ngón trỏ của bàn tay phép Mẹ bị bầm giập, lòng tôi đau xót quá!
Điềm ứng mãi về sau tôi nghiệm lại mới biết, Mẹ về với tôi vui ít buồn nhiều! Mẹ nhìn tôi đau đớn đến rơi nước mắt mà không cứu được, chỉ than 1 câu: “Mẹ ruột của con không cho – Ta mẹ đỡ đầu cho con làm sao được!” – Còn nữa… mọi hoạn hạn dưới nhà ông HC, ông đều lên đây cầu cứu Mẹ, nghiệp trần của gia đình ông – Mẹ chống đỡ cũng mòn hơi!
Nhân đây, tôi viết 01 bài văn – xin chép ra đây mời bạn đọc – Để thấm thía hơn nữa tấm lòng hy sinh của Các Đấng với nhân loài…
MẸ TỪ ÂN
Đàng sau sự đẹp đẽ uy nghi là nỗi đau đời rất thực. Sau dáng vẻ điềm nhiên là sóng gió dậy lòng! Sự đường bệ cho bao người thần phục - Mẹ là Bậc Mẫu Nghi lập Địa, tạo Thiên…
Chỉ con biết Mẹ ơi – còn một trái tim riêng: nhân hậu, bao dung và dễ dàng rung động. Biết khóc cười, biết yêu thương và bi hận. Đau đến cháy lòng mà chẳng thể nói cùng ai!...
Khi con buồn Mẹ an ủi bên tai, khi con khóc có Mẹ lau dòng lệ – Những nỗi niềm giấu trong lòng của Mẹ ai sớt chia – Mẹ chịu lấy riêng mình! Sao trời cứ mưa, mưa mãi không ngưng. Cho lòng Mẹ nỗi buồn lo không dứt… Mẹ về với chúng con những ngày bão rớt – Ao Mẹ ướt rồi, thương biết mấy Mẹ hiền ơi!!
Nhân thế khổ đau tìm đến dưới chân Người, Mẹ bước xuống đài cao dìu con đứng dậy. Bàn tay phép vung lên Mẹ cất đi niềm khổ lụy – Ban cho con sự bằng an, lòng Mẹ vô cùng!
Quỳ dưới chân Người, con lạy Mẹ Từ An! Mẹ vén mây mù cho nắng hồng soi tỏ. Để đời con một ngày có Mẹ, bỏ đường Mê theo chân Mẹ độ Đời…
21.06.2003
* Mẹ giải thích: “Mỗi con người có 3 phần hồn: linh hồn vĩnh cửu, hồn hiện kiếp và linh căn (hoặc âm căn). Linh hồn vĩnh cửu mang dấu ấn của họa phúc tiền kiếp vào hiện kiếp, linh hồn hiện kiếp thụ lãnh – tạo tác: trừ cộng, nhân chia… phần Linh căn chỉ có tác động rất ít hoặc tác động gián tiếp mà thôi! Trừ khi Linh căn nhập xác trần để hành Đạo, độ Đời…”
Chính vì vậy, khi phần Linh căn có tội, bị đi đày thì chỉ một phần hồn vĩnh cửu đi. Còn Linh căn vẫn ở lại Ngôi Trời! Mẹ nói: “Ta đau lòng lắm vì biết rằng một phần của mình luân lạc đâu đó dưới kia, tâm trí chẳng phút nào yên!...”
Vậy mà – có ai đó đến bên chân Mẹ kêu khóc, Mẹ vẫn không đành lòng bỏ! Biết rằng họ có tội và đang chịu trừng phạt, nhưng thấy khổ nạn bỏ sao đành.. Thế là Mẹ tìm hết cách này đến cách khác khéo léo xoay chuyển sao cho phù hợp, để cứu được người thoát khỏi nạn tai!
Vừa cứu vừa răn – Mẹ nói: “Ta không có gì để cho không hết! Con đến kêu khóc, ta xét xem từ nay về hậu con còn phúc lộc hay không, nếu còn ta chuyển qua để cứu. Mai nầy không còn phúc lộc có than mấy ta cũng thua!” Rồi Mẹ kiên nhẫn ngồi lại khuyên răn, giảng đạo lý cho những ai có lòng nghe. Từ bàn tay Mẹ, bao nhiêu người đến nhà tôi – về sau nhiều ít đều có chuyển tâm, biết ăn chay, niệm Phật, làm lành – lánh dữ!
Tôi vốn là người Đạo Phật – nên Mẹ về chỉ giảng theo Phật Đạo, không bao giờ đá động đến Địa Tiên, không nói về mình – chỉ cốt giúp tôi độ đời cho trọn nghĩa…
Mẹ giải thích: “Nhà Phật chính độ phần hồn, Địa Mẫu lại chánh độ phần xác”. Chính vì vậy Mẹ Quan Âm khó khăn, nghiêm khắc hơn Mẹ Diêu Trì – Bởi rèn tâm khó hơn luyện xác! Ơn trên thương tôi một lòng một dạ cứu người, không màng bổng lộc nên cho cả hai Điển chủ lực: trợ xác và hồn!!
Cũng chính vì điều nầy mà nhiều người cho rằng tôi tà mỵ, lại háo danh! Cứ tự xưng mình là phần chân Điển cao nhất - : “Bao nhiêu Điển cao về nó cả rồi còn gì!”
Căn trên nhập vào tôi và tự xưng, tôi nào dám cản ngăn – Bảo rằng không phải thì cũng chẳng lấy gì xác định! Rốt cuộc rồi bị mang tiếng oan, không biết phân giải thế nào…
Sáu năm trở lại đây – từ khi có Mẹ Diêu Trì, Mẹ Quan Âm ít về, chuyện hành xử giao phần Mẹ Diêu Trì chỉ khi nào ngày rằm, ngày lễ Phật hoặc chuyện hành xử liên quan đến các phần Linh căn nhà Phật PB mới về giải quyết…
Giờ tạm ngưng ở đây, chúng ta chuyển sang đề mục khác!
(Chào các bạn, sau khi đăng HMLK một số bạn có người thân trong gia đình gặp những nghiệp dữ bệnh nặng nên có ý muốn liên lạc với cô Lan để nhờ chữa bệnh nhưng rất tiếc là vào thời điểm này khi sắp hoàn tất HMLK phần 3, cô Lan không tiếp tục chữa bệnh nữa. Sau đây là nội dung cô nhờ mình gửi lên TGVH như là lời xin lỗi mọi người đã kì vọng, và mong mọi người thông cảm.
----------------------------------------------------------------------------------------
Con chuyển bài nầy lên mạng đi Linh - cũng là một Lời "xin lỗi" chung với tất cả mọi người, để họ không nhờ cô chữa bệnh nữa! Hỏi đáp về mặt Tâm linh thì cô sẵn sàng, nhưng... làm việc thì cô không làm nữa ...
Thân mến !!
---------- Thư đã chuyển tiếp ----------
Từ: Thanh Lan Nguyễn
Ngày: 23:54 Ngày 04 tháng 7 năm 2012
Chủ đề: Re: Gửi cô Lan !
Cường mến !
Cô đã chấm dứt mọi chuyện, kể từ hai tháng nay... Bởi vì những việc tương tự như vậy đã lấy đi của cô quá nhiều sức khỏe và tâm lực. Để đến nỗi bây giờ - qua 26 năm làm việc, cô trở thành một con người "sống cũng giở mà chết cũng không xong" !...
Hoạn nạn hay tật ách xảy ra cho một người, làm cho mọi người trong gia đình đều đau buồn, khốn đốn - ta gọi là "Cộng nghiệp" ! Định nghiệp chỉ là quá trình kết "Quả" từ những cái "Nhân" của tiền kiếp hoặc hiện kiếp mà nên ... Khi can thiệp vào quá trình vận hành của định nghiệp , là ta đã làm "sái luật trời" !
Chính vì vậy mà cô đã phải trả giá rất đắt cho mọi việc mà mình đã làm - Đến nỗi cuộc sống chỉ là sự triền miên đau đớn và hận tủi !...
Bệnh ung thư - khi đã đến BV mổ , bóc tách và xạ trị , thường kết quả chẳng được mấy... Các tế bào ung thư thường rất nhạy cảm bởi những động chạm, can thiệp trực tiếp. Nó như con thú hung hãn đang nằm im "chờ thời" - động đến nó là nó vùng dậy rất dữ , tạo ra những cơn bão mà các phương tiện y học khó bề khống chế nổi !
Quan niệm của cô là để im nó, tìm các phương thuốc tác động, khống chế từ từ ... Điều quan trọng là người bệnh không được "xuống tinh thần", lo sợ bất an ... Những yếu tố tiêu cực chỉ làm mạnh thêm con thú đang nằm im một chỗ đợi thời cơ!
Thường lên mạng và có nhiều bạn bè từ các nơi, cô đã nhận được nhiều tài liệu nói về các phương thuốc đơn giản đã điều trị hết bệnh ung thư... Tuy nhiên - tâm lý chung của người bệnh là lo sợ, chỉ muốn dùng các phương tiện y học hiện đại để chặn đứng ngay tức thời cơn ác mộng. Nên cũng khó bảo họ sử dụng "thử nghiệm" một vị thuốc dân gian nào đó !
Thí dụ như : Lá Đu đủ, cây Xả , rau Dừa đất , Nha đam, Trinh nữ hoàng cung, cây Lược vàng ...vv...
"Phước chủ mới may Thầy" - Nước lạnh mà cứu được người, cũng như Hoài sơn mà giết người ( Tích xưa kể chuyện Hoa Đà ). Chẳng qua cũng là do "Phước chủ" mà thôi ! Người tận phước thì có là Thượng Đế cũng phải bó tay !
Cô xin lỗi vì không giúp được gì cho con -
Thân mến !!)
27. LIÊU TRAI (6)
Tôi kể tiếp cho các bạn nghe về Duyên phúc cho tôi được diện kiến những phần Linh căn khác.
* Năm 1999 – có lần Điển ông đi mất hơn nữa tháng không về. Đêm ngủ có Huyền Nữ về canh nhà, còn ban ngày thì lạnh ngắt!... Tôi đã quen với việc lầm bầm, lẩm bẩm với ông – nay nói ra một câu không nghe tiếng ai trả lời, tôi phát điên lên được!
Một buổi chiều nọ vào khoảng 3, 4 giờ tôi đang ngồi trong sạp báo sực thấy 1 người ăn mặc Au phục, mang giầy Tây bước vào – tưởng là Điển ông, vía tôi thấy mình xốc tới nắm hai tay vừa rung, lắc lại vừa khóc kể lu loa… Tôi trách ông bỏ tôi đi mất, để tôi một mình chịu đau đớn, tật bệnh triền miên như vậy!
Người đàn ông đứng chết lặng, hai tay buông thỏng, ngượng ngập! Tôi giật mình bước ra xa, lí nhí xin lỗi… Điển xưng mình là Đế Thích, một trong những phần Linh căn tiền kiếp của Ngài Thích Ca, nay về thăm cho tôi được biết mặt!
Ngài Đế Thích cao ráo, rắn rỏi, da ngâm đen, bàn tay với những ngón thanh mảnh thật dài và đẹp! Ông viết chữ đều tăm tắp, không phóng bút – một nét chữ đẹp kiểu mẫu…
Tôi quên chưa kể cho các bạn nghe một điều kỳ diệu nữa: nguyên tôi có tật bong gân mãn tính ở ngón tay cái, cầm bút viết chút xíu là bắt đầu đau và chữ viết ra nét “bổ nghiêng, bổ ngửa”. Những lúc ấy tôi cầu cứu Điển ông – Người cầm tay tôi viết chẳng nói gì!
Ngắm nghía nét chữ một chốc, tôi biết ngay ai vừa cầm tay tôi viết: Nét tròn trịa, chân phương là của PB; nét cứng cỏi mà đẹp, đều tăm tắp là của Ngài Đế Thích, nét đẹp phăng và tài hoa là của “Điển ông” – còn nét nhỏ xíu mà thanh tao là của Mẹ Diệu Thiện! Thần Lam Sơn là người có nét chữ phóng bút, lớn và táo bạo nhất – đến nỗi tôi đâm quen, về sau viết chữ lớn và rộng rãi như chữ đàn ông!
Thỉnh thoảng những phần Linh căn khác của ông lại về thăm tôi, ở lại trong 1 thời gian ngắn (khi ông bận vào các ngày lễ lớn như những ngày rằm, ngày vía…). Họ lui tới và trở lại trong nhà tôi y như một người bạn, người anh bà con: tế nhị và khách sáo!...
Tôi quen giọng nói của từng người một: giọng lớn tiếng sang sảng như chuông đồng là của Ngài Di Đà. Giọng “hơi liệt liệt” là của Thần Lam Sơn! Giọng truyền cảm là của “Điển ông” – Giọng ngài Đế Thích thì dịu và nhẹ… Giọng nói của Ngài Di Lặc thì phóng khoáng, hồ hởi – Và giọng của Thần Nam Tàu thì cứng ngắt, khô khan… Riêng tiếng của Ngọc Đế cũng to và vang như tiếng Ngài Di Đà, nhưng hơi “trào phúng, dí dỏm” một chút… Giọng nói của Độc Giác Phật hơi khàn nhưng cứng cỏi, giọng của Người khô khan và khó gần!...
* Phật Ngài Di Đà tướng người to lớn, mũi cao, miệng rộng, môi dầy, vầng trán cao vợi. Ở Ngài toát ra một vẻ oai nghi, đĩnh đạc! Tôi không nhớ nhiều lắm về Người, Người về thăm tôi vài lần, nói vài câu chuyện rồi đi – mặc áo thụng màu lam! Đôi chân mày làm tôi nhớ rõ nhất: dầy và đen, nằm vắt ngang trên hai mắt tạo thêm vẻ quyền uy, trọng phục!
* Một lần – Ngài Độc Giác về với tôi khi tôi đang khóc vì “bị đòn”. Ngài hỏi tôi: “Hành hương là gì hả con?”. Tôi trả lời một cách máy móc: “Dạ là đi cầu Đạo ạ!” – Phật Ngài nói: “Con tưởng hành hương là đi trên thảm mà mang hài thêu sao! Hành hương có nghĩa là đi chân trần trên đất, qua nắng lửa mưa dầm – bão tố phong ba, qua sỏi đá chông gai, bóng đêm và vực thẳm…”
Tôi có hỏi Ngài: “Độc Giác có phải là tên riêng của Người không?” - : “Phải, ta chính là vua Độc Giác, giàu có và nhiều tiền của – Gần như trong tất cả các vị Phật, chỉ có Độc Giác là người giàu có! Độc Giác còn có nghĩa là “Tự mình Giác Ngộ” – Vì vậy có nhiều vị Phật hiệu là Độc Giác chứ không chỉ riêng Ta!
* Trong các vị Phật mà tôi diễm phúc được gặp – duy có Ngài Tỳ Lô Giá Na là hoàn cảnh đặc biệt nhất: Vào 1 buổi chiều độ 5, 6 giờ, tôi đang ngồi viết, sảy thấy một vong ngạ quỷ từ đâu xuất hiện đứng ở cửa chính – Thấy tôi nhìn, hắn ngửa mặt lên trời cười ha hả… Thấy thái độ ngạo mạn thách thức ấy, tôi nổi điên tống cho một đấm! Nếu là phần âm vong, bị đánh là văng ra xa ngay tức thì! Đàng nầy con quỷ bay lên cao, đáp xuống lại cười như cũ… Cả 3 lần tôi đánh hắn đều tỉnh như không! Nghi ngờ tôi chạy ra dùng phép trói nghiến lại, đem vào trong Miếu Mẹ… Con quỷ vẫn ngoan ngoãn đi theo! Tôi bắt khai tính danh, hắn nói độc 4 chữ: “Tỳ Lô Giá Na!”. tôi hỏi: “Tỳ Lô là ai?”. Trả lời: “Cung chủ Đạo Tràng Thủy Sám Pháp”… Tỳ Lô thì tôi không nhớ, nhưng Thủy Sám Pháp thì tôi có nghe! – Tôi bảo: “Ngồi yên đó, ta vào tra lại kinh sách, nếu không có tên ông thì đừng trách ta!”
Lật Kinh, ngay bài Kệ Thủy Sám đã thấy tên Phật Tỳ Lô Giá Na! Tôi hoảng hồn trở ra cởi trói và xin lỗi, mời vào an vị trong nhà…
Phật Ngài Tỳ Lô nói: “Đạo Tràng Thủy Sám là nơi chuyển căn, chuyển nghiệp! Tới duyên Cô được cứu, Ta mới về đây, ta về trợ cho Cô làm xong giấy chủ quyền đất để tiện việc xoay chuyển mệnh trần”. Nguyên giấy tờ sở hữu đất tôi làm đã tròn 01 năm nay, chạy bay tóc trán mà vẫn chưa xong…
Sau khi Ngài Tỳ Lô về 15 hôm, tôi lấy được chủ quyền. Đem lên ngân hàng vay 100 triệu lấy tiền trả nợ, còn lại một ít để dành chi tiêu dần, chờ đến ngày bán đất… Chuyện nầy tôi sẽ kể sau!
Từ đó, xem như cuộc đời mẹ con tôi bước sang một giai đoạn mới – thiếu thốn, đói nghèo, bất hạnh đã qua…
Giờ tôi xin kể đến nhân duyên mà tôi được tiếp kiến với Đức Ngài Ngọc Đế, chuyện nầy có mối tương quan hơi dài dòng một tí. Và cho đến bây giờ tôi mới biết hai từ “Ổng Bả” mà cậu Thu đã nói năm xưa chính là nhắc đến Ngọc Đế và Diêu Trì Địa Mẫu: Cha Trời, Mẹ Đất đấy mà!
* Dạo mới chuyển nhà về ở trên nầy (năm 2000), vào độ giữa năm, một hôm tôi đang nằm ngủ trưa, mơ thấy một giấc mơ lạ: tôi thấy căn nhà tôi đang ở biến thành 1 điện thờ sang trọng, trang nghiêm và đẹp đẽ! Một bức trướng đề: “Điện thờ Lục Cung Thánh Mẫu”. Trong vía lại bảo: “Điện thờ nầy là của mình. Người ta xây nên để thờ mình đó”… Tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm cả áo vì sợ “thất lễ” với Bề trên: “Trời ơi! Tại sao mình lại dám nói là Điện Thờ chính mình cơ chứ. Tội chết!”
Qua sáng hôm sau, tôi tìm hỏi Dì Sáu (Đạo Mẫu) ở gần nhà dưới Hiệp Thành. Dì Sáu nói “Lục Cung Thánh Mẫu là công chúa Thuỷ Kiều!” Dì cũng chỉ biết có vậy thôi!... Mãi đến năm 2006, khi Đức Ngọc Đế về, Ngài mới giải thích cho tôi biết: “Nguyên Ngọc Đế có 1 Hoàng Hậu (tước hieu là Bà Thiên Hậu) và 09 Phi. Cửu phẩm là tước phẩm cao nhất thuộc về Mẹ Diêu Trì! Còn tôi ngày xưa có phần căn là Lục phẩm – tương truyền là “Lục Phẩm Nương Nương”. Tôi chợt nhớ lại chuyện năm xưa, cậu Thu nói “Chị còn một phần căn bên Địa Mẫu, phải cúng vía thường kỳ thì Mẫu mới trợ cho chị được!”
Thực hư là đâu đây, hở Trời?!...
Đức Ngọc Đế về đưa cho tôi 01 chiếc lệnh bài bằng vàng sáng choá, cỡ to hơn 2 ngón tay nhập lại chút xíu, hai bên khắc 2 con rồng, chính giữa là 1 hàng chữ gì tôi không biết (tương tự như chữ Tàu, sau nầy Mẹ nói là chữ viết bằng tiếng Thiên!)
Ngài bảo: “Lệnh bài của cô đây! Ngay đêm nay hãy thu xếp về lại Lục cung, mở kho lấy tiền để trợ cho mệnh trần”. Tôi nói: “Lục cung ở đâu, con làm sao đến được?”. Đức Ngài lại bảo: “Nửa đêm thức dậy ăn mặc gọn gàng, sẽ có người tới đưa đi!”
Tôi mừng háo hức, chẳng ngủ được chút nào tưởng chắc sẽ được một phen du ngoạn ngắm cảnh Thiên Đình, nào ngờ chỉ thấy một màn đêm - chẳng nhìn thấy được cả người dẫn đường. Chỉ mường tượng mình đang ở trong 1 tiền sảnh rộng mênh mông. Có ai đó bước đến đặt vào tay tôi 1 xâu chìa khoá, tôi cầm lấy – điềm nhiên mò mẫm lấy ra 1 chiếc, rồi bước ngay về căn phòng phía bên trái tiền sảnh tra chìa mở cửa. Mọi việc thành thạo cứ như người chủ nhà quen từng ngõ ngách trong đêm! Chỉ có thế rồi tôi giật mình tỉnh dậy… Tiếc quá, không kịp nhìn thấy kho của Thiên Đình, rồi cũng không biết có lấy được gì hay không nữa!
Tôi xin Mẹ về. Mẹ Diêu Trì giải thích cùng tôi: “Bí mật Thiên Đình đâu phải ai cũng biết được! Con chỉ là xác trần, không phải Linh căn chính chủ, lại là xác tỉnh, cho con thấy thì lộ Thiên Cơ không được phép.”
Chắc là tôi lấy được của, vì chỉ vài hôm sau tôi có tiền vay ngân hàng!...
* Tôi quên không kể cho bạn nghe về Di Lặc Tôn Phật. Ngài có nước da trắng hồng hào, người đẫy đà một tí, nhưng không hề có “bụng phệ” như hình ảnh dân gian truyền lại! Ngài vui vẻ, hồn hậu và đơn giản, dễ gần – không nghiêm trang và cách biệt như các vị khác!
Thôi, chấm dứt phần giới thiệu các linh căn. Chúng ta sẽ trở lại vào một dịp khác. Giờ mời bạn đọc sang đề mục mới vậy!
28. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY
Trong 22 năm Ơn trên về với tôi, tôi nhận được 3 ân huệ lớn: thứ nhất là có được đứa con gái để an ủi cho tuổi già, thứ hai có nhà cửa yên ổn, thứ ba là việc độ vong cho ba tôi và đứa con trai lớn! Đây là phần khó khăn và nặng nề nhất đối với tôi, so với toàn bộ quyển sách, nhưng tôi không thể bỏ qua hay chạy trốn, bởi vì sự huyền nhiệm chứng minh thực tế từ đây - Thôi thì tôi giản lược những gì cần thiết, xin bạn đọc thể chấp!
* Thôi chồng, ôm con nuôi một mình từ năm đứa lớn nhất mới tròn 9 tuổi, những mong sau nầy con lớn lên làm cho mẹ được nhẹ lòng. Thế mà 20 tuổi con tôi chết!
Cháu bị bệnh ung thư đại tràng, khi hay biết đưa đi bệnh viện thì đã di căn nhiều nơi, không còn chữa trị được nữa…
Tôi nuôi cháu đúng 4 tháng. 120 ngày sau thì con mất. Cứ mỗi lần lên cơn đau, khó thở là tôi lại cấp cứu, cháu hết đau và chịu trận tiếp…
Tới lúc đường ruột hư hoại hoàn toàn, đi cầu lên tục, cháu nằm liệt một chỗ, lòng tôi đau đớn quá! Đêm nào cũng tụng kinh cầu an ngoài miếu Mẹ, cháu lê ra ngồi kế bên nghe, xong rồi nói với tôi: “Khi nào con hết bệnh mẹ cho con ra chùa ở tối con về nhà với mẹ nghe! Con sống, hết bệnh con không lấy vợ, con ở nhà với mẹ, rồi con làm miếu thờ Bà y như mẹ, con tu luôn!”
Tôi thắp hương xin: “Mẹ ơi! Con hết mức chịu đựng rồi. Mẹ đưa cháu đi đi, không con chết mất”. Điều kết cuộc không thể tránh, càng kéo dài càng đau đớn nhiều hơn… Mẹ Diêu Trì về bảo: “Ba ngày nữa ta đưa nó đi!”. Chiều ngày thứ hai lúc 2 giờ chiều, Mẹ Diêu Trì về bảo: “Con nấu nước pha ấm tắm cho cháu sạch sẽ, ta đưa cháu đi!” – “Mẹ, Mẹ nói gì?” - : “Không có gì đâu! Tắm cho nó để nó hết bệnh ta đưa nó lên chùa quy y!”
Tôi nấu nước , dìu cháu vào tắm sạch sẽ thay đồ. Kể từ 2 giờ chiều đến 2 giờ sáng cháu không hề đi cầu lần nào! Tôi ngạc nhiên: “Chắc là Mẹ cứu, cho cháu hết bệnh thật rồi!”
Đến hai giờ sáng, cháu gọi tôi: “Mẹ ơi, ra nằm với con. Mẹ ôm con đi!”. Tôi dặn cháu: “Con nằm im không nghĩ ngợi gì và nhớ niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nghe con!”
Cháu nói: “Con không đi cầu, không còn đau nữa từ hôm qua tới giờ, chắc là con hết bệnh rồi hả mẹ!”…
Đến 3 giờ 30, nghe tiếng cháu ú ớ, tôi chạy ra thì thay cháu đưa tay như kiếm tìm - Tôi nắm tay, cháu yên tâm lại rơi vào cơn hôn mê, tôi bật Kinh lớn, bảo linh hồn con lắng nghe, vạch mi mắt thấy đã đứng tròng, tôi biết cháu chết… tim vẫn còn đập nhẹ nhàng, đều đặn!
Mãi đến 7 giờ sáng cháu vẫn chưa đi hẳn, thỉnh thoảng lại đưa tay ra, tôi nắm tay con áp vào má mình. Chỉ cần nghe tiếng Mẹ là cháu yên lòng, Mẹ cứ như là thần hộ mệnh, không có mẹ là cháu sợ, vì khi lên cơn đau chỉ Mẹ mới cầm được!
Tôi nói: “Mẹ biết thần thức con còn. Nghe mẹ niệm Phật rồi niệm theo mẹ nè!”. Cứ thế mẹ con tôi ngồi chờ đợi. Tôi nói: “Mẹ biết con nuối Ba, Ba con về Bắc giỗ Nội chưa vô kịp. Con đi đi, rồi Ba về Ba thắp hương cho con sau, con nuối Ba hoài Mẹ chết mất!”. Nói xong, tôi đứng lên bảo thằng em kế: “Nắm tay anh cho nó không sợ! Mẹ đi đánh răng!”. Tôi vừa quay lưng, cháu đã thở hắt, ra đi!
Các bạn thấy đó. Có ai bị bệnh như vậy mà ra đi nhẹ nhàng không hề đau đớn, chỉ ngủ yên lành, giờ phút cuối cùng không vật vã… Từ lúc bệnh đến khi mất, chỉ sút có 2kg. cháu chết còn 52kg…
Đã có hiểu biết, tôi làm như lời kinh Phật dạy, tôi cắn răng đến bên con: “Mẹ hôn con nè! Mẹ khong khóc. Con đi đi, theo Phật đi con!”. Hôn cháu xong, tôi lao vào buồng mới khóc cho đã đời…
Mấy ngày liền tôi ngồi miết bên áo quan con, bỏ con một mình con sợ! Khi vào nhà vệ sinh, thấy cháu đứng co ro: “Mẹ ơi, con lạnh!”. Tôi chạy ra khóc ngất, vía thấy lấy quần áo mặc vào cho con: “Mai mốt không để Mẹ thấy con trần truồng như vầy nữa nghe không!”
Điều đày đoạ tôi nhiều nhất là tôi nhìn thấy được âm vong! Chính vì vậy mãi đến giờ nầy sau 4 năm con mất, lòng tôi chưa hề nguôi thương nhớ… Ba bữa cơm cháu về ăn đủ, thậm chí thèm món gì cũng nói cho Mẹ biết để Mẹ nấu cho ăn!
* Mẹ Diêu Trì về bảo: “Nó là Thiên Tướng, trốn đi chơi xuống đầu thai làm con của con. Ở trên biết thì bắt về ngay, làm sao khác được! Giờ con thương con của mình thì ăn chay đủ 100 ngày Ta cho đưa nó về ngôi”. Tôi cầu Mẹ cứu, xin cho cháu không chịu kiếp luân hồi nữa. Mẹ hứa với tôi!
Tôi tụng kinh cầu siêu cho cháu đủ 49 ngày.
Trước, thời gian cháu bệnh, tôi nguyền rằng không cứu được con thì thề không chữa bệnh cho ai nữa! Cháu mất 49 ngày, bệnh nhân lại tìm tới… Bỏ sao đành, nghiệp cũ lại mang!
An chay mới được 3 thất (21 ngày) miệng đã lở đầy, vốn tôi ăn ít - mỗi buổi, chỉ đầy 1 bát, nấu đồ mặn cho con, mình ăn uống qua loa nuốt không trôi. Người liêu xiêu đi đứng không nổi! Mẹ Diêu Trì về bảo: “Thôi, ráng 49 ngày đi con!”… Đến ngày thứ 27, Mẹ lại về nói: “Trưa mai cúng thất thằng nhỏ. Con mua chè xôi cúng tất cả bàn thờ trong nhà, mua cho nó 1 con ngựa và 1 bộ áo mão màu vàng nghệ, ta cho trả nó về căn”…
Trưa hôm sau, Thầy tụng kinh cầu siêu, cả nhà tề tựu trong phòng khách (tôi đốt áo mão và ngựa cho cháu từ sớm!). vía thấy cháu về, mặc bộ đồ quan tướng đẹp lộng lẫy! Cháu bước vô lạy bàn thờ Phật 3 cái, quay lạy Mẹ 3 lạy trả ơn Mẹ đưa về Ngôi. Xong ôm vai Bà Ngoại: “Con thương ngoại lắm!”. Chiếc mão vướng trên đầu, cháu hất cái mão ra sau lưng, siết hai vai ngoại 1 cái rồi đi! Chiều tối vô chùa tụng lễ cầu siêu, lại thấy cháu mặc đồ lễ lách qua hàng người, quỳ lại Tam Bảo 3 lạy!
* Khi con mất, tôi mới tin điều ông bà xưa truyền lại mỗi người có 3 hồn 7 vía!
Tự dưng tôi mất một, giờ lại có 3 đứa giống y như nhau, giống nhau về nhân diện nhưng tính cách lại khác : thằng ở nhà ăn cơm ngày 3 cữ đúng là nó, chẳng sai vào đâu! Tối ngày lịch sự lắm thì mặc quần tây, ở trần tính hay giỡn thích chọc mẹ và có tật xấu là thích ăn vụng trên bếp … tôi đang nấu đồ ăn, vừa nếm thử sau lưng đã nghe tiếng : “hén hén ăn vụng hén – hổng cho con ăn kìa!”… “Tí thích chọc mẹ vậy đó cho mẹ vui, để mẹ cứ khóc hoài!” … đạp xe trên đường thấy ai đó có đầu tóc giống con cũng khóc, thấy xe 67 , thấy lính dân quân, thấy bạn con ngày trước - thấy chút xíu gì tương tự như con cũng khóc!
Có lúc thấy con đứng lên đàng sau yên xe ôm vai: “Tí đây nè, mẹ đừng khóc người ta cười đó!” ra chợ ngồi ăn sáng quên mời con, lại khóc ! Tôi nói: “mẹ mất hồn, mẹ quên con cũng phải ăn cùng mẹ để đói nghe con !...” Có lần đi hội Thơ về, buồn quá tôi đi bộ lang thang trên hè phố giữa trời trưa nắng cháy - thằng nhỏ hiện ra siết hai vai tôi: “đi xe buýt về mẹ, nắng lắm!”. Vừa nói xong xe trờ tới, tôi leo lên, khi tìm được chổ ngồi lại thấy cháu bước tới: “Tí đi chơi nghe mẹ!”. Nói rồi đi mất!
* Thằng ở chùa thì nghiêm trang, đạo đức – chuyên mặc áo sơ mi màu xanh biển, tay dài – nói năng nghiêm túc! Còn thằng thiên tướng thì mặc sơ mi trắng hoặc đồ tướng, đối với tôi chỉ vừa đủ lễ, cứng ngắt và hơi khô khan, không bộc lộ cảm xúc…
Chết cũng như khi còn sống, thằng bé có tật hay chọc ghẹo mọi người bằng cách nói dối. Trong các em tôi, có Út Thảo là thương cháu, lúc nào nhớ lại cầu cơ gọi về…
* Có lần Tí về than: “Con đói lắm út kiếm gì cho con ăn đi!” – hỏi thì cháu nói có ông nào lạ, ông không cho con về nhà, mẹ cúng con không về được. Út vừa khóc vừa đi mua bánh cho cháu ăn ! Bé Ti về nói với tôi: “Mẹ điều tra lại xem sao, phần âm nào cũng cho ăn được, con mình để đói sao” – tôi nghi ngờ - về tận nhà dưới, gọi Thiên Tướng về tra hỏi! Tí - Thiên Tướng (chúng tôi gọi thế để phân biệt với thằng ở nhà) về, nghe tôi vừa khóc vừa quát lính quýnh quỳ xuống đất giữa nhà: “Mẹ lo cho con về ngôi đàng hoàng, giờ con bỏ không để tâm tới linh hồn mình là sao?” Thiên Tướng bảo: “Nó không đói. Con bảo đảm với mẹ là con không để cho linh hồn khổ, con cũng là nó cơ mà!”. Tôi lại mắng: “Mẹ đủ bổn phận với con rồi, giờ con đi đi - Mẹ con mình không còn dính líu nhau nữa. Để mẹ lo cho linh hồn của con, con đi cho khuất mắt mẹ !”…Lúc đó, hai thằng đều là thằng Tí con tôi cả !
Tôi lại gọi đứa ở trong chùa về, cháu bước vào ngơ ngác: “con không đói, con ở chùa ăn cơm chùa lâu lâu mới về thăm mẹ…” thấy chau mang đôi dép loại tổ ong đã cũ và rách cả rồi! Tôi hỏi thì cháu nói: “dép con đứt con lượm đôi này dưới cột đèn mang đở, còn mang được, không sao đâu mẹ”.
Đau lòng tôi quá, tôi cho âm vong, bố thí cho tất cả các phần từ người tới ma vậy mà để con mình ra nông nỗi này sao?: “Thôi được để rồi mẹ lo! Nếu mẹ đốt tiền vàng, quần áo cho con, con nhận có được không?”. Cháu nói nhận được, chỉ xin tôi cho một cái áo sơ mi trắng để lạy Phật !
Tôi bảo đứa ở chùa trở về chùa, Thiên Tướng cũng không nhìn! Thằng nhỏ đứng bên tôi từ nãy giờ nói nhỏ vào tai: “Thiên tướng nó còn đứng ngoài sân kìa mẹ, con sợ nó lắm!” Nó nhảy tót lên giường ngồi kế bên tôi bảo: “con nói nhỏ vô tai mẹ, cho mình mẹ nghe thôi nha!” rồi nó nhẩn nha kể: “Lúc con mới chết, bị hai người kè vai dẫn con tới một căn phòng rộng mênh mông, trong đó có rất nhiều người vừa mới chết như con, ai cũng đau đớn nằm lê la dưới đất chờ gọi tới ten mình đưa ra xử. Tới lúc Ông Quan hành xử kêu: “Nguyễn Hoàng Nam!” bỗng nhiên có ai đó bước tới nói nhỏ vào tai, Ông Quan khoát tay cho người đưa con ra ngoài…
Con không phải bị giam dưới địa ngục, ở trong trại tập trung 3 ngày đem đi chịu đòn 1 lần, sau tới bảy ngày… con chỉ có chịu đòn ba tháng rưỡi thôi!”
Cháu còn kể cho tôi nghe: sinh hoạt ở cõi dưới cũng y như trên nầy, tội nhẹ là được ở ngoài trại ăn uống, ngủ nghĩ, làm việc và vui chơi y như là còn sống … tới ngày kêu tên đưa đi chịu đòn, trả tội xong về lại sống như thường!
Cháu nói : “Con giả bộ nói con đói để Út mua bánh cho con ăn đó mà”. Tôi hỏi thì cháu kể danh dách hôm qua mẹ cho ăn món gì…
* Nghe con nói là sử dụng được những đồ hàng mã như nhà, xe, tiền vàng… tôi mới tin! Tôi mua nhà, xe máy, quần áo giầy dép và tiền bạc đốt cho con. Mua cả cho ba tôi một căn nhà, về sau cháu về bảo: Ông ngoại còn ở trong địa ngục, chưa ra được nên nhà ông con giữ, giờ con có hai nhà.
Tôi hỏi xe máy đâu đi về cho mẹ coi. Út nói con nói với Út là xe bị cướp rồi phải không?. Cháu kể tôi nghe: “Tối đó con đi xe qua bụi cây kia có ba thằng xông ra để cướp xe. Con đánh nó bò luôn, xong nó quỳ lạy xin tha! Nó biểu là tại Mẹ nó ở trên này đang bệnh nặng không có tiền chữa, nó muốn lấy xe bán gởi tiền về cho Mẹ… Con tội nghiệp quá nên cho nó cái xe đem bán, rồi con cho ba đứa về ở chung nhà với con luôn!”. Cháu hạ giọng: “Mẹ đừng có la con nghe, mấy thằng đó hiền lắm, cho nó ở chung với con nghe Mẹ! Còn nhà của ông ngoại con cho ba Mẹ con của bà bán vé số ở nhờ, mai mốt Ông ngoại lên con lấy lại trả cho ông !”.
* Tôi nghĩ ra cách để trợ cho con: mỗi tháng tôi chiêu đãi âm vong (hay còn gọi là cúng cô hồn) một lần! Khi cúng tôi gọi con về cho nó làm chính chủ phân phối lộc thực. Vì có lần vị Chúa Quỷ được tôi mời về đã nói: “Con của Cô Hai là trùm ở cái xứ nầy!”: “Gì, nó quậy hả?,” Chúa Quỷ nói: “không, trùm phân phối lộc thực!”. Tôi hỏi cháu thì cháu nói người đói nhiều quá thấy tội nghiệp, nên ngày nào Mẹ kêu về ăn cơm cháu cũng đem ra cho người khác ăn cùng…
Con tôi linh thiêng lắm! Tôi kể cho bạn đọc nghe. Cũng là để biết thêm về thế giới vô hình một chút:
* Lúc mới chết chưa tới 49 ngày, có lần nửa đêm tôi đang ngủ nghe tiếng con gọi ngoài cửa sổ sát bên giường nằm: “Mẹ ơi mẹ, mở cửa cho con!”. Tôi lên tiếng: “Thằng Ti hả?” – “Dạ, mở cửa đi mẹ!”… Tôi thức dậy ra cửa và mắng: “Đi chơi tới nửa đêm mới về kêu cửa là sao?” – Mở cửa ra, một trời trăng sáng dằng dặc không người…
* Khi cháu mất được 01 tuần lễ, tối về chui vô mùng: “Cho con ôm mẹ con ngủ với mẹ nghe!” – Ba đêm liền cháu đều về ôm mẹ ngủ, sáng sớm hôm sau cả người tôi đau như muốn gãy ra từng khúc. Thấy tôi đau quá, hôm sau cháu chỉ chui vô mùng hôn mẹ 1 cái rồi chui ra đi mất!
* Thương cháu, út Thảo xin điện thoại di động của Tí đem về sử dụng. Thời gian đầu cứ than: “Có ai đó cứ phá điện thoại hoài! Đang ngủ nửa đêm chuông kêu, choàng dậy cầm điện thoại lên thì chuông ngưng, không có số ai gọi hết!...” Tôi cũng chẳng nghĩ gì, mãi về sau thêm vài lần có sự lạ, tôi mới biết là âm vong làm được nhiều điều mà chỉ khi thật mắt chứng kiến ta mới tin!
* Hai anh em Ti và bé Chi đi chơi Đầm Sen với út Thảo, đến 7 giờ tối vẫn chưa về, tôi nôn nao trong dạ, nhủ thầm: “Để nấu xong nồi canh điện cho út hỏi sao coi!”. Vừa lúc đó chuông điện thoại di động reo, tôi lên thấy út Thảo gọi… Đầu dây bên kia, út cũng: “Alô! Chị Hai điện cho em hả?” – “Mày gọi chị thì có. Đang nấu nồi canh nghe chuông reo mà!”. Út cãi lại: “Em đang ngồi chơi, nghe chuông reo, mở ra thấy số của chị gọi, em mới lên tiếng đó chứ!” - thì ra thấy tôi lo, Tí “kích” cho điện di động của hai chị em liên hệ với nhau…
* Một lần, nghe tiếng chuông reo, tôi cầm máy thấy số của Ti đang gọi mẹ! Tôi lên tiếng: “Alô! Con gọi mẹ chi vậy?”. Đầu dây bên kia: “Mẹ kêu con có chuyện gì vậy?”… Tôi gắt: “Con điện cho mẹ, mẹ mới bắt máy mà!”. Thằng nho hạ giọng: “Thôi rồi! Anh Hai điện méc mẹ con uống rượu chứ gì! Tại hôm nay sinh nhật bạn, mẹ đừng la con nghe!”…
* Điện thoại bàn của nhà tôi, hễ người nào tôi không thích, là cháu chặn không cho chuông reng. Họ tới nhà bảo: “Sáng hôm qua gọi 3 lần không có ai bắt máy!”. Lúc đó tôi ở quanh quẩn trong nhà, có nghe tiếng chuông reng hồi nào đâu!...
Khi nào điện cho ai bấm số 2, 3 lần đều trật hoặc nhảy thiếu số, tôi biết ngay người đó không có ở nhà!
* Có lần phải tiếp điện thoại của 1 người, nghe họ nói chuyện “bất lịch sự”. Tôi giận quá nói: “Có khi nào đang nói mà máy mất tín hiệu không vậy?”. Vừa nói xong thì mất tín hiệu thực… Tôi tức quá, điện lại để mắng họ, hỏi: “Sao tự dưng cúp điện thoại vậy!” – “Anh đâu biết, tự nhiên em nói xong thì nó cúp, anh nghĩ em giận anh ngắt điện đấy thôi!”…
* Tôi đi đâu, cháu theo sau lưng… Rất nhiều lần tôi mất mát, cháu giữ lại cho tôi! Có hôm sáng 7 giờ tôi đến tiệm in vi tính để lấy tài liệu đặt in, kiểm tra lại các thứ mất 10 phút, trở ra móc túi thấy tiền không còn. Nhìn dáo dác, tờ 100 ngàn rơi ngay dưới đất chỗ chiếc xe đạp đang dựng đó! Lạ một điều nó nằm “trơ trơ” chỗ bàn đạp, không có cục đá hay bánh xe chèn lại. Nếu có gì che chắn, ta bảo gió thổi tờ tiền mắc vào, đàng này… 100 ngàn, tờ giấy polime mỏng dính, đang buổi sáng sớm người qua lại thật đông, suốt 10 phút mà không ai nhìn thấy thì thực lạ lùng!
Lần nữa tôi vào nhà đứa cháu gái chơi suốt 1 giờ rưỡi, buổi chiều gió thổi lồng lộng, lá cây trứng cá ngoài sân bay cả vào nhà… Vậy mà bước ra về mới phát hiện tờ 50 ngàn rơi dưới đất, cũng nằm ngay chỗ bàn đạp giống y đợt trước, và nó nằm đấy suốt tiếng rưỡi đồng hồ!!
* Có lần tôi đi công việc buổi tối, đang mặc áo hở cổ, lo mất dây chuyền, tôi mở ra, cẩn thận moc khoen khóa lại rồi bỏ vào túi quần. Túi vải lại nằm rất sâu, rơi vào đâu được!
Đêm về thay đồ ra đi ngủ rồi quên mất! Sáng hôm sau bảo bé Chi đạp xe đi mua gạo. Tôi ở nhà phát hiện mất dây chuyền, tìm nháo nhác… Chi đi mua gạo rồi lại mua đồ ăn sáng, về tới cửa nhà thắng xe lại mới nghe sột soạt ở bánh trước, moi ra là sợi dây chuyền của mẹ! Lạ một điều nó chỉ vướng vào căm, 1 cách nhẹ nhàng lấy ra được ngay, thế mà không rơi mất, lại chẳng bị đứt, bị hư!... Tôi cười bảo: “Chắc là Ông giữ”. Nghe sau lưng Tí lên tiếng: “Tí giữ cho mẹ đó đa!”…
* Đã 2 lần, cháu mang hình dạng con vật về thăm mẹ. Xưa hay nghe ông bà truyền miệng: “Bướm bà vô nhà là ông bà về thăm con cháu!”. Tôi có tin bao giờ đâu…
Đêm ấy, hai mẹ con đang ngồi xem ti vi, thấy con bướm đen nho nhỏ cứ bay lượn qua trước mắt xong đậu lên tấm ảnh PB treo trên vách, rồi lượn trở lại ngay trước mặt tôi… Thấy điều lạ, tôi bước tới đặt bàn tay lên tấm ảnh PB, khấn: “Nếu phải là con về với mẹ thì bay lên đậu trên tay cho mẹ tin!”. Con bướm lần mò leo lên mu bàn tay tôi, tôi nhẹ nhàng mang bướm trở lại ghế ngồi và theo dõi… Nó chẳng hề sợ sệt gì, chớp hai cánh múa nhẹ nhàng, nhún nhún đôi râu và chân, thỉnh thoảng bay lượn 1 vòng, lại trở về đậu đúng vào bàn tay tôi đang để mở ra chờ đón, lại múa nhịp nhàng… Suốt hơn 1 tiếng đồng hồ! Khi ngủ, tôi không biết làm sao, để ngoài sợ thằn lằn ăn mất, đem vào mùng một chốc lại lo phấn của nó làm dị ứng. Đành đem ra thả cho nó đậu lên bụi kiểng trước nhà…
* Lần sau, lại có 1 chú dế nhỏ nhảy loi choi trước mặt, tôi đuổi mãi không chịu ra ngoài. Tôi cũng khấn y như lần trước, dế nhảy ngay lên ngực áo tôi rồi bò lên tay – mấy cái chân nhỏ nhún nhún, thỉnh thoảng lại cắn nhè nhẹ, tôi la lên: “Đau, đừng cắn như vậy đau lắm!”. Chơi với dế con, tới giờ ngủ tôi mang ra để lên cây nguyệt quế trước nhà, 3 lần chú dế nhảy ngay trở lại vào người tôi! Tôi khóc và khấn: “Thả cho con dế đi thôi con, kẻo nó vào nhà thằn lằn ăn nó, mẹ thương con mà!”. Thế là con dế chui vào đám lá lẫn mất…
Thôi! Chấm dứt chuyện kể về con trai tôi, vẫn còn nhiều trường hợp lạ lùng về cháu, lúc khác tôi kể tiếp bạn nghe! Giờ chúng ta chuyển sang đề mục khác! Tôi tặng bạn đọc 2 bài thơ tôi làm cho cháu, kỷ niệm một phần hồn đã mất của tôi!
MẤT!!!
Những cành cây cằn cỗi ngoài kia
Còn chờ ra hoa, đợi ngày kết nụ
Trả ơn đời tháng ngày lưu trú
Con thì không!...
Những chú dế sinh tự lòng đất hoang
An lá cỏ, uống sương trời để sống
Còn đợi ngày có đôi có bạn
Con thì không!...
Những cánh chim đậu trên cành xoan
Ngẩng nhìn trời xanh khao khát
Đợi tung bay về phương trời mơ ước
Con thì không!...
Những thanh niên đồng trang lứa với con
Đang chuẩn bị cho ngày mai – đang yêu và đang sống
Đang mỉm cười tự tin và hy vọng
Con thì không!...
Chẳng đợi ngày đơm hoa kết trái
Chẳng chờ khi có bạn có đôi
Chẳng ước mơ khao khát một ngày
Thời gian điểm, hư vô là tuổi sống!
Ngày sinh con ra…
Trong nỗi đau của người đàn bà – lần đầu tiên vượt cạn
Mẹ mỉm cười – ơn Thượng Đế bao dung
Mơ một ngày mai con mẹ lớn lên
Đẹp đẽ, thông minh và nhân hậu
Ngày sinh con ra…
Mẹ nguyện cùng trời đất
Đánh đổi bất hạnh của đời mình – thành hạnh phúc cho con!
Không kịp nữa rồi, Thượng Đế đã quay lưng
Lời khấn nguyện rơi vào biển lửa
Cơn lốc cuộc đời kéo con xa rời vòng tay của mẹ
Và Tử thần đếm mỗi bước con đi!...
Mẹ gục đầu đau đớn trước ngày mai
Cho dù đổi cả trái tim và tấm lòng người mẹ
Cả hạnh phúc một đời không có nữa
Mẹ rồi cũng mất con!!!
Tịnh Vân
HOA MƯỚP VÀNG
Hoa mướp vàng không đậu rào cao
Mẹ đưa con về lại chiêm bao
Yêu con bằng hết tình của mẹ
Bằng cả một đời bước thấp cao!
Ngủ đi con – ngủ thôi con yêu!
Mẹ ru con, đêm dài cô liêu
Mình mẹ với con trong giấc trắng
Nghiêng vành nôi, trăng rụng giọt sầu
Quên ngày đôi mươi, quên ước mơ
Quên tình yêu – niềm tin và hận
Quên cay đắng, muộn phiền, tật bệnh
Con lại về trong lòng mẹ bao dung!
Hoa vội tàn, trăng vội khuyết ngoài song
Ngày tháng lạnh lùng qua – cứ thế!
Dẫu sương tuyết phủ giăng đời mẹ
Vẫn vẹn nguyên tình mẹ yêu con
Hoa mướp vàng lạc lõng ngoài sân
Ong bướm lượn, thẫn thờ bóng lẻ
Con yên ngủ trong vòng tay mẹ
Mẹ ôm con – ru suốt một đời!!!
Tịnh Vân
* Từ năm 2000 trở đi, khi chuyển về ở chỗ mới, tôi có nhiều thời gian và điều kiện rỗi, Ơn trên cho làm việc nhiều hơn! Lúc nào bị đòn nặng, tự nhiên ít có bệnh nhân. Vừa khỏe chút xíu, bệnh nhân đã kéo tới đầy… Tới “lai rai” cả ngày, tập trung vào buổi tối! Kể từ khi mẹ Diêu Trì về trợ xác, Người tới tôi toàn bị bệnh giả (có nghĩa là bệnh do âm vong phá hoặc căn Trên, căn Cửu Huyền hành).
Đến nỗi tôi nghi ngờ thần thức của mình, chắc là bệnh tưởng – sao nhìn vào đâu cũng thấy ma quỷ thế nầy?! Tôi hỏi mẹ, mẹ Diêu Trì nói: “Phần hành nào đưa về cửa nấy. Tất cả đều có sự sắp xếp cả rồi!”. Vậy, tôi là người chuyên “bắt ma” sao?
Ngày xưa, nghe nói tới thầy bùa thầy pháp, là sợ mất hồn… Cứ tưởng tượng đến bà phù thủy Babazaga cỡi cây chổi bay vèo vèo khắp hành tinh, ai nhìn thấy cũng phát run! Lắm lúc, tôi nhìn lại chính mình: Ta trở thành phù thủy từ lúc nào vậy? – Tất cả những việc thầy bùa, thầy pháp làm tôi đều làm được, không cần phải yểm bùa, khoác áo thụng làm phép, không đội vải đỏ múa may quay cuồng trước bàn thờ, cũng chẳng ợ ngáp uốn éo thỉnh vong về. Và không phải đổi giọng theo kiểu âm hồn lớn bé, già trẻ, gái trai!...
Tôi có thể mời Sơn Thần Thổ Địa, Thần Sông, Thần Biển, Chúa Quỷ… Mời ai, người ấy tới cho tôi gặp! Có điều tôi cung kính, nhẹ nhàng, khéo léo và tế nhị dẫn dắt, điều tra sự việc cho đến cùng. Khi giải quyết xong chuyện mới chịu thôi… Người Âm tới người Dương, kẻ dưới trên các cõi đa số đều tâm phục, khẩu phục! Bởi tôi lấy cái Tâm, cái Đức mà hành xử, không dùng quyền phép áp đặt, gò bó người nào…
Có điều đừng ai nộ nạt, đánh lén tôi! Lúc đó tôi dùng phép trói nghiến nhốt vào ngục tối và chưa có phần nào tôi chịu thua! Khi tôi “nổi cơn giận” là tôi thủ thắng… Bình thường chỉ cần 1 âm vong ngoan ngoãn, buồn sợ là tôi cứu, tôi cho tiền bạc, ăn uống – phần nào hiếp đáp kẻ yếu tôi chẳng tha! Kể từ hai năm trở lại đây, ai bị bùa chú các loại tôi giải rất nhanh. Có điều tôi sợ! Giải bùa “bị đòn” dữ lắm… Tôi xóa lệnh phù, xong cung cấp tiền bạc lộc thực cho Binh gia trở về Thầy Tổ! Đa số nghe lời tôi khuyên thường “cải tà quy chánh”, được tôi đưa vào chùa hoặc trả về quê hương xứ sở…
Tôi kể tiếp bạn nghe chuyện “thực hành cụ thể”. Nghe điều có thể “thực mục sở thị” vẫn hơn lý luận dông dài, bạn nhỉ!
29. THỰC HÀNH CỤ THỂ (6)
* Vào năm 1991 cô Kh vốn mồ côi mẹ từ lúc 18 tháng tuổi. Lúc đó cô bé đến nhà tôi chơi, kể chuyện mẹ uống thuốc quyên sinh, không biết 14 năm nay, từ lúc chết đã ra sao rồi! Tôi xin Điển tìm âm vong dời về cho tôi tiếp xúc. Tôi tả cho Kh nghe: Mẹ con chừng 20 tuổi, tóc dài tới mông kẹp lại, mặc áo bà ba màu xanh biển, đi đôi dép nhựa quay kẹp cũ kỹ, đứt quay. Kh bảo: “Nếu đúng là mẹ thì nói cho con biết khi mẹ chết có mất gì không?” – Mẹ Kh nói: “Tôi làm rớt cây kẹp ba lá rơi trong vách nhà, về sau mọi người mới thấy”. Rồi cô ấy kể thêm: “Con Đẻn (là tên gọi ở nhà) hồi nhỏ bị chí đầy đầu. Tôi xui Dì út nó lấy kéo cắt tóc ngắn, nó khóc thôi là khóc! Mười ba tuổi nó xách nước tưới rẫy, bị té xuống giếng, tôi lấy dây gàu quấn ngang eo tôi kéo nó lên!...” Kh nghe vậy khóc và tin là mẹ của mình, Kh nói: “Con té xuống giếng mà không biết làm sao tự nhiên dây gàu quấn cứng vào cây xà ngang trên miệng giếng, con cứ bám dây mà leo lên!”. Một thời gian sau, PB bảo Kh đem tiền tới chùa xin lễ cầu siêu cho mẹ, xong PB cho đưa đi đầu thai, từ đó không thấy mẹ Kh về nữa!
* Năm 2003, cô Kh (lúc ấy có chồng và 2 con) bị tà nhập. Đêm tối thường mơ thấy ân ái với người ngoài khi thì ông hàng xóm, lúc lại anh chồng… Tỉnh dậy bụng dưới đau thốn, có khi ra huyết, đau đến có lúc đi không nỗi nữa. Bị 8 tháng rưỡi như vậy, tình cờ có chị bạn tới chơi nói: “Tao thấy trong buồng ngủ nhà mầy có vong 1 con cọp vàng to lắm” (Người nói chính là cô Ng, xác nhập của cậu P mà tôi kể vào đoạn trước).
Kh sợ quá, ra ông thầy Ba (cũng là người đã trị phần vong cậu P). Ông đòi 3 triệu! Kh đưa được mấy trăm, lấy 2 lá bùa về để trong gối nằm, đêm đó bị “cưỡng bức” luôn 2 lần trong đêm. Tối hôm sau chồng Kh chở lên nhà tôi, Kh khóc: “Cô cứu con không con chết mất!”. Tôi hỏi: “Sao lại để mà chịu đến hơn 8 tháng, sao không nói cho cô biết?”. Kh bảo: “Con sợ cô rầy con tưởng tượng tà dâm”…
Hai vợ chồng vừa tới 10 phút thì thấy 1 người đàn ông to lớn, vai u thịt bắp bước vào! Tôi đưa ghế ra mời ngồi đàng hoàng, xong hỏi tính danh - Ông ấy cho biết mình không phải là con người nên không có tên, chỉ mượn xác về thôi, hỏi tuổi thì bảo là 127 tuổi! Tôi thấy thế bèn dụ dỗ: “Nhỏ nầy là con nuôi của tôi. Tôi bảo gì nó cũng nghe! Ông muốn gì cứ nói với tôi, tôi giúp cho”. Hắn bảo với tôi: “Cô nói nguyên văn chứ?”. Tôi ừ!. Hắn “tương” cho một câu: “Anh yêu em và muốn có em trong đời!”. Tôi hỏi: “Ông nói gì kỳ vậy. Thấy chồng nó đó không?”. Hắn huênh hoang: “Can gì cái thằng bất tài vô tướng đó mà sợ!”…
Hắn lại nói: “Bảo cô Kh bỏ chồng ở với tôi, tôi lo cho không thiếu thứ gì” – “Thế ông lấy vợ người ta, ông trả bằng gì?”. Suy nghĩ một chốc, hắn nói: “Ba năm, cả lương lẫn bổng!”. Tôi nói: “Lương bổng nó nhiều lắm, ông trả nổi không?” – “Cô đừng có lừa tôi, tôi biết hết!”. Đoạn, hắn nhìn quanh quất bàn thờ, xong hỏi: “Cô thờ ai đây?” – “Tôi đâu biết! Ra chợ thấy đẹp thì mua về để lên thắp nhang chơi vậy mà!”… (Lúc đó tôi đã xin giấu Điển đi hết rồi, để cho tôi tự điều tra).
Hắn lại nhìn tôi: “Cô đẹp đó. Cô lấy tôi đi tôi lo cho cô đến mãn đời lên xe xuống ngựa, muốn thứ chi cũng có!” – “Ông nói bậy! Tôi có chồng mà”. Hắn cười khẩy: “Cô đừng dối tôi, tôi biết hết! Cô ở có một mình!”… Lúc đó, Điển mẹ không còn nhịn được trước sự càn rỡ của hắn. Tôi chỉ nghe tiếng thốt lên bên tai: “Mẹ Diêu Trì nè con!”. Và thấy hắn thoắt vụt dậy chạy mất… chỉ 30 giây sau mẹ đã đưa hắn vào vứt nằm vắt vẻo trên chiếc ghế hắn vừa ngồi đường hoàng lúc nãy, từ đó hắn cứ nằm úp mặt, không dám ngóc lên nữa…
Chưa bao giờ tôi thấy 2 Điển Mẹ Quán Am và Mẹ Diêu Trì về cùng 1 lúc như đợt nầy, tên nầy hẳn là ghe gớm lắm đây! Mẹ Diêu Trì đứng ngoài, mẹ Quán Am đứng trong canh. Mẹ Diêu Trì lên tiếng: “Nói cho ta biết can cớ gì mi gặp cô nầy?”. Hắn kể rằng một buổi chiều nọ hắn đang đi tìm chỗ để cất giữ Linh vị thần, ngang cửa nhà thấy cô Kh đang đứng đó. Cô đẹp, hắn mê nên đột nhập vào nhà luôn! Mẹ hỏi: “Linh vị Thần để ở đâu? Mi là con gì, khai ra mau!” – “Linh vị để trong tủ chỗ giường cô Kh nằm”. Hắn bảo mình là con cọp trắng có vằn đen! Tôi hỏi: “Sao cô Ng thấy cọp màu vàng?” – “Ngu gì để cho người khác biết chân tướng của mình!”
Mẹ Diêu Trì bảo: “Gọi Thần Bạch Hổ về đây cho ta!” – “Lần đầu tiên, tôi mới thấy nhân diện của Thần Bạch Hổ: chỉ có phần đầu là mặt người, tứ chi lốt cọp trắng vằn đen, có đuôi đàng sau thật dài! Thần đi 2 chân như người, chỉ thấy từ trên cao đáp xuống đất, cung hai tay chào Mẹ - Mẹ phán: “Tới nhà cô Kh vô cái tủ trên đầu giường lấy Linh vị của hắn đem về đây cho ta!”. Độ chừng 1 phút sau Thần BH vừa đáp xuống, tôi thấy mẹ Quán Am thoắt chồm tới thật lẹ, xé tan chiếc Linh vị vứt bay vèo ra ngoài! Tôi la: “Mẹ, mẹ không để cho con xem linh vị đó ra làm sao!”. Mẹ nói: “Nó cướp được chạy trốn mất, ta truy bắt được cũng còn khó!”
Mẹ Diêu Trì bảo thần BH: “Đem nó về giam dưới gốc cây mai trước nhà cô Kh”. Tôi hỏi thì cô Kh xác nhận là có 1 gốc mai lớn ở ngay trước nhà! Thần BH đưa hắn đi mất, phút sau trở về nói với cô Kh: “Báo gia chủ tôi đã giam hắn ở gốc mai bên phải căn nhà. Sau 21 ngày mới đưa đi xét xử! Tôi cần nhắc kỹ để cho hai vợ chồng nhớ: “Để ngay tại đó 1 ly gạo, 1 ly nước cho hắn ăn uống, nếu thấy dơ phải thay ngay ly khác! và trong suốt khoảng thời gian 21 ngày phải giữ sạch sẽ khoảng sân trước - ngay 1 tàn thuốc, 1 chút nước thừa cũng không được đổ ra đó, nếu không phép của thần BH không thiêng.”
Mẹ Diêu Trì giải thích: “Quỷ tu lâu năm thì hiển Thần, chúng ta phải tôn trọng họ!”. Hèn nào mẹ không cho tôi tiếp xúc nhiều với các vị Thần, vì “Trong Thần có Quỷ” (Mẹ nói như vậy!)
Mẹ bảo tôi án hình chữ Vạn trên lưng cô Kh thêm mấy ngày nữa để tẩy hết tà khí ra khỏi người cô! Tôi làm được 2 ngày, Kh lên bảo: “Sao con nhức đầu dữ quá, nhức 24/24 luôn!”. Tôi sanh nghi, hỏi; “Thế Ong Ba có đưa gì cho con không?”. Kh bảo: “Có đưa 2 lá bùa để ở dưới gối nằm!” – “Hèn nào mà chẳng bị đòn. Binh không ở trong đó mà!”…
Tôi giải bùa, bảo Kh chiêu đãi Lộc thực trả về thầy Tổ, cô Kh hết nhức đầu ngay tức thì và cũng hết bệnh tà mị…
Đúng như lời Mẹ nói – Người đã bị Tà nhập được 1 lần thì cứ bị hoài! Từ ấy đến nay đã 5 năm trôi qua, Kh thường xuyên bị hết phần nầy tới phần khác quấy phá, hễ tôi giải ra lại bị “chịu đòn thế!”
* Hai vợ chồng cô Kh mua được 1 căn nhà xây cất rất đẹp, giá lại rẻ! Chưa kịp mừng, rất nhiều chuyện kỳ lạ xảy đến:
- Có con rắn chui vào nằm khoanh trên bếp gas, dưới ấm nước… Lạ một điều căn nhà sạch sẽ, tân kỳ, bếp gas đời mới – Có ẩm thấp, dơ bẩn, là môi trường cho loài động vật bò sát đâu!
- Đứa con gái 6 tuổi đang “ngồi pô” trợt té u đầu chảy máu, một mực đổ là “tại cái sào phơi đồ nó xô con té!” – Chắc thấy gì lạ ở đấy không chừng!
- Chồng Kh vốn là thanh niên khoẻ mạnh, tỉnh táo, có mê tín gì đâu! Tự nhiên đang đi, nghe như có ai đó xô 1 cái ngã va đầu vào cạnh tường chảy máu…
Tôi nghiệm lại: “Có lẽ chủ trước người ta xây xong về ở bị quậy phá quá họ sợ mới bán rẻ mà đi chỗ khác! Căn nhà đẹp, thiết kế tân kỳ đến như vậy, tại sao chủ về ở có 3 tháng rưỡi thì bán rẻ, đương nhiên phải có vấn đề gì đấy!”
Tôi tới nhà Kh, vừa bước vô cửa thoắt đã rùng mình liên tục: 2 âm vong gác hai bên buồng ngủ, WC 2 tên, bếp gas cũng 2… Mở cửa sau ra thấy 1 người nữ và 2 nam. Chúng nắm tay nhau sẵn sàng “nghênh chiến”! toàn bộ là dân ma tuý xì ke, chết dữ thành âm Ngạ Quỷ…
Lúc đó tôi đang bị hành, rối loạn tiền đình dữ lắm! Người chóng mặt quay cuồng thì trụ Điển về không vững, đành nhờ “Huynh trưởng” lên giúp cho!
Hai vợ chồng Kh sợ quá phải đăng bảng bán nhà. Người tới xem cũng nhiều, giá lại rất rẻ, vậy mà ai cũng đến rồi đi, thậm chí có người đặt cọc rồi bỏ cọc…
Sau khi giải phần âm ra chừng có nửa tháng thì Kh bán được nhà…
* Chị Tám vốn trước làm nghề nấu đám tiệc - Sau bệnh hoạn liên miên, nằm bệnh viện mãi đến nỗi bán cả căn nhà đang ở. Hai năm rưỡi mà bệnh không khỏi! Hết tim lại tới huyết áp, đang đứng ngã đùng ra xỉu – cấp cứu… Đến BV, bác sĩ xét nghiệm máu, điệm tâm đồ không có gì nặng nề, bác sĩ vừa quay lưng đi khỏi đã xỉu rồi!!
Có người giới thiệu chị lên nhà tôi, đặt ống nghe thấy mạch tim vẫn ổn, mới ra tới đường cái lại xỉu, chồng gọi xe đưa đi cấp cứu…
Hôm sau, tôi dò ra 2 âm phần: 1 đứa con trai chết bé và 1 con chó cái – Lông nó màu hung, eo bụng thon mảnh, tướng vừa vặn trông bề ngoài rất đẹp! Mẹ Diêu Trì nhập vào tôi, tra án: “Mi bao nhiêu tuổi?”. Đáp: “Hai mươi bảy!” – Hỏi: “Mi có tội gì – khai mau!” – “Dạ, tội đam mê sắc dục” – Thằng bé trai thì độ chừng 4 tuổi trần truồng người trắng nõn trông rất dễ thương! Bé nhập về thì người mẹ lạnh – rét run, bao nhiêu mền đắp cũng chẳng ăn thua!
Chị Tám nói: “Đi coi Thầy bảo cháu nó là Trạng, bảo cúng liên tục: lúc thì quần áo Trạng, ngựa xe, rồi tập vở, tiền bạc… đủ thứ hết trơn!” – “Thằng bé lắc đầu bảo không nhận được gì, ngay cả bộ đồ trên người cũng không có mà mặc – Am vong là quỷ, cúng cho Trạng nhận làm sao được! Thằng bé chết dưới nước, hèn nào lúc về là làm cho mẹ nó lạnh run…
Mẹ khuyến dụ 2 phần đi vào Chùa Hang tu, chúng đồng ý! Mẹ cho ngày, giờ đưa vong – bảo chị Tám mua hoa trái đem lên chùa cúng để gởi vong!
Đến ngày, chị Tám lên nhà tôi mua hoa trái cúng. Và nhờ tôi đi theo lên chùa! Mẹ về không cho, ngay cả hoa trái Mẹ cũng bắt đưa cả vào chùa: “Nghiệp cô còn lớn lắm – chưa dứt được. Cô Lan nhận lộc bị đòn thế chịu không nổi đâu!”. Chồng chị Tám bảo chị tin lời tôi là mê tín, nên giận chẳng thèm đưa vợ đi (nguyên anh Tám trước là y sĩ, lại theo đạo Công giáo).
Mới được có 5 hôm, Mẹ về bảo tôi nhắn chị Tư lên cho Mẹ gặp. Mẹ Diêu Trì nói: “2 âm vong đó không chịu tu, quay quá ta cho trói lại rồi - Cô phải cố niệm Phật và thắp nhang cầu xin cho nhiều, phải tu tâm dưỡng tánh đi! Chúng nó mà trốn ra được thì cô khó mà yên ổn”.
Mẹ còn vạch ra những tật xấu, thói hư của chị, sau nầy người hàng xóm xác nhận đúng y như vậy!
Tròn 1 tuần lễ, 2 phần âm trốn ra – về quậy chị Tám nữa! Chồng và con trai dìu lên nhà tôi, vừa tới nơi chị ngã vật ra ghế: “Chị Lan ơi! Cứu tôi”. Hai âm phần nhập vào, chị Tư rét run và giẫy muốn sập ghế nhà tôi – 2 cái mền đắp và 4 người đè vẫn không lại! Vong con chó nhập vào nghiến răng trèo trẹo: “Tại sao bắt trói tôi ngoài cửa, tại sao không cho tôi ăn”.
Tôi cầu cứu, Mẹ về – nhẩn nha hỏi: “Sao con, giờ muốn ăn gì ta cho! Gà, vịt hay giò heo?...” – :“Hổng ăn gì het á!” – Chị T (lúc đó vong đang nhập vào) nhìn sững vào mặt tôi xong xuống giọng! Tôi thúc hối Mẹ bắt vong, để lâu sợ chị T chịu không nổi chắc chết!
Đợi lúc “xuất kỳ bất ý” – Mẹ bắt 2 con trói nghiến đem vứt ngoài Miếu. Chị T lập tức trở lại bình thường! Chồng chị xin lỗi đã nghi ngờ tôi, anh nói: “Từ cha sanh Mẹ đẻ tới giờ tôi mới thấy lần đầu, lần trước không có mặt tôi – tôi không tin nên đâu có đưa bả đi, để bả thuê xe ôm đi 1 mình. Tôi ghét mê tín lắm – Bữa nay tôi mới tin!”
Đêm ấy, Mẹ gọi cậu Ph (phần vong vào xác cô Ng lần trước) ở chùa Hang về, bảo đem 2 âm vong đi. Ph nhăn nhó: “Lần trước Mẹ bắt con canh, con mới đi ăn cơm nó đã bứt dây chạy mất rồi. Chân con là chân đi, Mẹ bắt con ở một chỗ canh nó con không chịu đâu!”… Mẹ dỗ ngọt gì đó một hồi, Ph nói: “Rồi, Mẹ lấy dây phép Mẹ trói cứng lại, con vác nó về trển con giao lại là xong!” – Tôi chợt nhìn ra miếu thấy trên cổ 2 phần âm có sợi dây bằng vải màu đỏ…
* Chị Tám về nhà, khoẻ và mừng chưa được bao lâu – Tới chuyện Mẹ chồng mất! Bà mất có 10 ngày đã về nhập vô chị T, đánh mắng xác trần, đòi ăn sống, uống máu tươi… và uống rượu như uống nước lã – 1 chai lít rưỡi uống bằng hết mà khi xuất vong chị không hề say! Chị Tám lại bệnh liên miên, lên tôi chữa cũng khi bớt khi không.
Độ vài lần như vậy, 1 ngày kia bà cụ ra mặt! Tôi nhìn thấy, giả vờ cung kính tới ngồi dưới chân ngọt ngào khuyến dụ… Ban đầu bà lão trừng mắt ngang ngạnh – chốc lát sau thì nhập vào chị T khóc kể lung tung, cuối cùng chịu vào chùa tu, bảo anh chị biện 1 mâm cơm ra tới ngoài phần mộ gia đình để mời cha Mẹ anh Tám ăn 1 bữa từ giã rồi đi! (Nguyên bà là Mẹ kế của anh Tám)
Từ đó anh chị T tin lắm! Chị đi làm xa tới ngày vía Mẹ Diêu Trì cũng điện về bảo anh đi mua trái cây lên cúng – Khổ nỗi anh T “tứ thời tám tiết” mặc áo thun, quần short! Có lần 8 giờ đêm đập cửa nhà tôi khi ngoài trời đang mưa tầm tã, xin vào thắp nhang cúng vía Mẹ với bộ đồ ấy, làm tôi đứng ngẩn người ra đấy mà chẳng biết nói sao!...
* Có đêm 2 Mẹ con chị T lên chữa bệnh. Con gái chị nói: “Chết rồi, chắc là bể bánh xe rồi! Giờ nầy lấy ai đâu mà vá! Xe chạy không nổi lết bánh như là chở mấy người trên xe vậy!”
Tôi chữa bệnh xong, rờ bánh xe thấy 2 bánh còn cứng nguyên, bèn vỗ vào tay cầm xe, nói: “Thôi, đi chỗ khác chơi – để cho Mẹ con người ta về nghe chưa!” – Có thế, hai Mẹ con chạy xe về tới nhà nhẹ bâng! (Lời chị T nói lại!)
* Cô Duyên. 18 tuổi – bị viêm xoang mũi tái phát! Mũi sưng đỏ đau nhức và sốt cao – Tôi chữa hết sau 5 lần, về sau vài tháng tái viêm tôi trị thêm 1 đợt nữa het hẳn, không tái bệnh nữa!
* Năm 2001 – Cô Duyên bị ma nhập! Khi người nhà đưa lên, cô D đã nói sảng, phải dìu mới đi nổi!
Tôi cho Điển trục phần âm, D đau nhức cả người giống như có trăm ngàn mũi kim đâm - Người vẫn tỉnh, hỏi vẫn trả lời nhưng vật vã vì đau ghê lắm. Sau đó chìm vào cơn mê sảng, không còn biết gì nữa!
Tôi bảo người nhà đưa đi BV cấp cứu: “Cháu bị nặng quá, để ở đây rủi có bề gì tôi phải tội, đưa đi cấp cứu rồi tôi trục âm gián tiếp cho!”
Gia đình đưa D đi BV Xóm Mới. Ba ngày đêm BV không làm cho hết đau được, mặc dù xét nghiệm kết quả không có bệnh gì! BV Xóm Mới đề nghị chuyển viện lên tuyến trên. Gia đình đưa cháu về nhà…
Bốn ngày đêm không ăn uống ngủ nghỉ gì, con bé nằm mê mê – không cho ai lại gần! Vong nhập vào nói lảm nhảm lung tung. Gia đình D báo cho tôi xuống nhà từ 9 đến 11g30 đêm vong mới chịu ra… Nằm nhắm nghiền mắt, nhưng lạ 1 điều chỉ cần tôi đưa điện (đưa cách không, không sờ đến người) – Vong lại vật vã, quằn quại nhưng nhất định không chịu xuất ra…
Ngủ được 1 đêm, sáng sớm vong lại nhập vào. Gia đình lại gọi (dạo đó vào năm 2001 chưa có Mẹ Diêu Trì, Điển trợ còn yếu, nên tôi giải vong chậm hơn!). xác cô D đã đuối lã, không còn nói rõ tiếng nữa…
Tôi dụ ngọt: “Tôi biết trong nầy có vong mà, xưng tên cho tôi biết coi nào – rồi muốn gì tôi cho nấy không cần phải vật xác đau đớn như vậy!”. Tôi mượn lời dịu dàng giảng Đạo, khuyên nhủ một lúc thì xác chợt mở bừng mắt ra nói: “Con là em bé! Cho em bé rồi em bé đi! Cho quần áo đẹp con mặc, cho giầy có quay hậu con đi, cho nhà con ở (mà phải nhà lầu con mới chịu) cho xe con đi (phải là xe 4 bánh) Rồi cho tiền bạc bánh trái nữa thì con mới trả xác!”
Tôi khuyên: “Con là em bé, con cầm nhiều thứ ra kia mấy đứa lớn nó đè ra giật hết! Bây giờ vô chùa tu đi, có Phật che chở, có Sư tụng kinh cho nghe, có cơm ăn áo mặc đủ đâu có sợ đói nữa! Giờ cô Lan mua hủ tíu cho con ăn nghe!”. Vong vỗ bụng: “Con đói bụng lắm nhưng đau cổ không nuốt được! Con nhịn ăn hơn 2 năm rồi, chị D nhịn có mấy bữa thấm tháp gì!”
Vong chịu vô chùa tu nhưng nhất định bắt tôi phải đưa đi thì mới chịu! Thế là cả nhà cô D cùng tôi (cả thảy 6 người) vô chùa Long Thành (ở Đông Thạnh). Vừa vô tới giữa chánh điện cô D nằm ngã vật ra nhắm mắt thiêm thiếp, tôi dụ cách nào cũng không chịu ngồi dậy! Tôi đành khấn xin Mẹ về. Vừa nghe tiếng Mẹ bên tai cô D đã bật ngồi dậy lại ngồi lật Kinh ra đọc miết, tiếng ngọng nghịu như tiếng trẻ con… đợi đến hơn 1g trưa, tôi lại dụ: “Thôi, muốn đọc kinh chiều lại nhà cô cho đọc, giờ về ăn cơm đã, đói bụng quá rồi”…
Cô D cùng gia đình đi về, trưa đó ăn cơm trở lại bình thường. Chiều 4 giờ đòi gia đình đưa lên nhà tôi! Lúc đó D đã tỉnh nhưng tôi biết vong vẫn còn ở trong xác: “Con nhức đầu quá!” – Tôi bảo: “Thắp nhang lạy Phật 3 lạy đi thì hết!”. Quả nhiên, lạy Phật xong D hết đau đầu!… Vong lại nhập về, nói chuyện hoàn toàn tỉnh táo: - “Cô Lan nấu cho con nồi xông con tắm rửa tẩy trần rồi con trả xác con đi!” – “Để tối cô nói Mẹ chị Duyên nấu cho con tắm nha!”. Vong lắc đầu quầy quậy: “Hông! Cô Lan nấu thì con mới tắm. Mẹ chị Duyên nấu con hổng thèm đau!” (Điệu nầy chắc đang thử thách mức chịu đựng của mình đây! Tôi nghĩ) Ngặt nỗi gia đình cô D đưa con lên gởi rồi về mất, tôi đành sang nhờ bà hàng xóm đi tìm dùm 1 nồi xông.
Nấu nước xông rồi tôi pha 1 thau, dìu cô bé vô tắm! Con bé nặng phải gần 60kg, hai cô cháu vô được nhà tắm cũng mệt (cô D lúc đó không còn chút sức lực nào!) – Tôi để 1 ca múc nước trong thau, vậy mà ở ngoài cứ nghe tiếng đập tay, giỡn nước bì bõm hoài… Chờ lâu sốt ruột tôi la lên: “Mau đi, người đang yếu dầm nước lâu bệnh đó!” – “Bé giỡn nước một chút nữa mà!”…
Tắm xong ra ngoài, tôi nau bát nước nhân sâm cho uống, xong gọt trái cây cho ăn! Cô bé D vừa nằm đọc Kinh vừa ăn, vừa cười tủm tỉm…
Vong nhập vô xác trần cô D có tròn 6 ngày đêm, cô bé đã xuống cân 1 cách thảm hại. Mãi đến 5 năm sau vẫn không lên cân nổi, cho dù ăn uống bồi bổ, bác sĩ thuốc men đủ thứ cũng thua! Người ốm tong teo, da tái xanh… Nhiều lần, thấy nước da vàng ệch như người bị gan nặng, tôi bảo D đi xét nghiệm ở BV – Vẫn không có bệnh hoạn gì!
Giá các bạn nhìn thấy trường hợp nầy, còn ai không tin là “có ma” – ai dám nói rằng “mê tín” khi thuốc men BV cũng chào thua! khi 1 cô bé tròn mập “như con trâu nước”, giờ ốm còn hơn 40kg, da vàng như nghệ!...
* Về sau, thỉnh thoảng D vẫn hay bị vong nhập, hết vong nầy đến vong khác! Mỗi lúc khả năng tôi lại cao hơn, giải vong nhanh và dễ dàng - Vì thế tôi không kể chi tiết cho các bạn nghe nữa! Tôi lại nói về Điển trợ cho D như thế nào trong hôn nhân…
Điển về bảo cô D: “Con phải giữ mình, con sẽ mất sự trong trắng với thằng Hùng, nhưng con với nó có duyên mà không có nợ! Ta báo như vậy, con phải cố mà giữ mình!” (Lúc đó Hùng mới là người yêu của Duyên)
Mấy tháng sau, cô bé lên tôi khóc ngất: “Cô ơi xin Mẹ cứu con đi. Anh Hùng bỏ con rồi!” – Tôi sinh nghi: “Con mất rồi phải không?” – Con bé gật đầu thú nhận! Cầu xin tôi giải quyết mà lại không chịu cho Cha Mẹ biết. Trời hỡi trời! Tôi biết làm sao đây?
Thế là tôi phải cầu xin Mẹ se duyên cho chúng nó… Cứ vài bữa là cãi lộn, bỏ nhau! Lại khóc, lại cầu xin Mẹ… Có lần con bé đang nằm ngủ trưa, nghe tiếng ai gọi rõ ràng bên tai: “Dậy mau chạy lên chỗ thằng Hùng! Nó cuốn quần áo bỏ đi rồi kìa!” – Con bé chạy tới khóc lóc, năn nỉ, lại … huề! Cho đến khi cưới được nhau – Rồi đến giờ con gần đầy tuổi, tôi vẫn chưa buông được cô bé D ấy, nhỏng nhẻo, nũng nịu với tôi như con ruột! Lúc giận chồng thì điện lên khóc kể, đòi tự tử… Tôi lại phải khuyên răn hết lời…
Vậy đó – Có ai dạy gì buông một “bà thầy đa năng” như tôi?! Vì thế, tôi trở thành người thân gần như cật ruột của biết bao người…
Người ta vui vẻ, hạnh phúc, bình an tôi không thấy mặt! Bất hạnh, nạn tai đến tìm tôi, tôi phải chịu. Có khi ngày này sang ngày khác – chưa ổn, tôi phải chuyển dời cho đến bao giờ ổn cả mới thôi!
Làm quan tòa, thẩm phán là tôi. Luật sư biện hộ hay công tố viên cũng tôi! Quan võ gươm đao hành xử – Quan văn khua môi, uốn lưỡi cũng tôi… Làm sao – miễn là đem đến sự bình yên cho người ta thì làm, họ chưa yên thì tôi cũng đừng hòng được… ổn!
Thường tự xưa nay, khái niệm về tôn giáo, tín ngưỡng vẫn rất mơ hồ, chỉ chứng minh bằng lý luận qua loa – Và cũng chỉ bằng “cái tâm” mà cảm nhận … Ở đây tín ngưỡng và tôn giáo trở thành bàn tay cứu sinh, thực chứng rành rành như bàn tay của tôi đây – Bàn tay 5 ngón, cũng ngón dài ngón ngắn như bao người khác…
Từ chỗ tôi rời đi, người ta chuyển được tâm mình biết ăn chay niệm Phật, biết đi chùa, biết làm lành lánh dữ, biết hiếu sinh… Phần là do mọi người tin ở bàn tay huyền nhiệm của Bề trên – có sống tốt thì mỗi khi gặp hoạn nạn, Bề trên đâu có bỏ!
Mỗi người tới nhờ tôi, tôi vừa điều trị vừa an ủi, can ngăn và khuyên cho họ chuyển tâm, bởi bệnh tật và tai ách là định nghiệp – muốn xoay chuyển định nghiệp chỉ có 1 cách là “lấy cái Thiện trừ cái Ac!” – Muốn người tin vào Chánh Đạo, tôi chỉ có 1 cách duy nhất là phải cứu được họ! Niềm tin ở đây còn là sự đánh đổi giữa cai thực và cái ảo – để đổi vai trò: “Điều thấy rằng thực kia chẳng qua cũng chỉ là định hình cái giả – Điều tưởng chừng như ảo lại chứng tỏ lối đường chơn!”…
* Đêm hăm chín Tết D lên khóc kể với tôi đến gần 10g đêm mới về! Tối mùng 1 Tết tới Mẹ D lên từ 8g đến 10g30, khóc từ giã tôi – bảo là thôi chồng đi về quê… Chuyện nào tôi cũng phải nghĩ đến căng cả đầu để tìm lời can ngăn, khuyên nhủ và tìm hướng giải quyết cho ổn thoả. Đến giờ nầy (5 năm sau), ba Mẹ cô D vẫn còn chung sống hạnh phúc, và D thì lấy được người mình yêu – Điều đó nói lên tấm lòng các Đấng xoay chuyển mệnh trần, đem đến bình an hạnh lạc cho những ai có lòng tin tìm đến, hướng về…
Bàn tay của các Đấng không từ bỏ một ai, cho dù khác đạo! Đúng như lời Phật dạy: “Không có giai cấp khi máu người cùng đỏ, khi nước mắt người cùng mặn” – Thậm chí đến kẻ vô thần, tà đạo… chỉ cần mong muốn được cứu giúp, chỉ cần đưa bàn tay ra, bạn sẽ được dìu đỡ! Đương nhiên điều tối cần thiết là phải có lòng tin: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả trái đất”. Lòng tin là động cơ, lòng tin cũng là cứu cánh!
Ay thế mà… Các bạn có biết điều bí mật nầy ở tôi không – Điều mà tôi giấu kín tận đáy tâm hồn, điều hoàn toàn nghịch lý với những lời dông dài mà tôi vừa nói ở trên: Tôi là kẻ “không có niềm tin” – Không có niềm tin cho chính bản thân!
Chẳng ai cứu được tôi thoát khỏi cái Địa ngục mà tôi đang ngụp lặn, nếm trải nầy! Chẳng ai làm cho tôi hết đau đớn, trong khi bàn tay tôi lại cất đi nỗi đau cho biết bao người… Điều nghịch lý đó đã tồn tại và vẫn còn tồn tại suốt hai mươi mấy năm qua…
Xin chuyển sang phần khác, kẻo không bạn đọc phải nghe tôi “ca cẩm” đến sáng mất!
30. LIÊU TRAI (7)
* Trước khi tìm thợ xây miếu thờ 2 tượng Mẹ, tôi đã xin phép Điển PB về chỉ cho địa điểm, vẽ sơ đồ, cẩn thận từng chút một – Bởi đối với tôi mọi sự đều lạ lẫm và tôi chưa hề có kinh nghiệm!
Mọi việc đều tiến hành thuận lợi, mãi đến giờ phút cuối cùng, có một trục trặc nho nhỏ: Khi chỉ còn tô thêm mặt ngoài của bệ thờ (độ chừng 70 phân vuông). Cậu Long không thể nào xong được! Hồ trét lên rơi xuống ngay… Nghĩ: chắc là thiếu xi măng, L cho thêm xi măng, lại rớt!: “Hay do hồ khô quá!” – Thêm nước vào, tô lên lại rơi xuống tiếp… Gần 7 giờ đêm đói mờ cả mắt! Long vào nhà mượn cây quạt máy ra quạt cho chóng khô, cứ tô lên lại rơi xuống…
Không chịu nổi nữa, Long vào bảo tôi thắp hương xin Phật cứu: “Có ai phá rồi, không tài nào làm được!” – Tôi xin Mẹ về trợ, Long tô lần nầy được ngay!
Cậu em khéo tay có tiếng, làm thầu xây dựng, tình nguyện: “Để em xây cho chị 1 cái Miếu thực đẹp để chị thờ Mẹ…”. Cuối cùng bó tay trước vài mươi phân vuông tô vữa đơn giản nhất! Bàn tay vô hình án vào ra thế, các bạn thấy không?!
* Tượng Mẹ bốn người khiêng mới nổi, thế mà có 1 ngày tự nhiên rung lắc nhẹ như không! Cô Kh tới ngày vía lên lau rửa tượng thờ, la lên: “Cô ơi! Sao tượng Mẹ Diêu Trì rung dữ vậy!” Tôi cúi xuống xem xét: “Không hề có vết lún gạch hay đội nền, sờ cũng chẳng thấy đế dưới chân bị sứt mẻ chút nào – Tượng rung lắc do đâu?” Về sau tôi mới biết là điềm báo con trai tôi mất – Sau những ngày định mệnh đó, tượng cứng nguyên như cũ tự bao giờ chẳng biết…
* Con mất, tôi tụng kinh cầu siêu 49 ngày ngoài Miếu. Ngày nào cũng kêu vong con về quỳ lạy theo Mẹ! Có hôm trời mưa, nền xi măng ngoài sân ướt đẫm nhưng cháu vẫn quỳ – Thương con, tôi đem cái áo mưa trải ngoài sân để có chỗ sạch sẽ cho con ngồi lạy Phật… Tôi vốn nhát lắm, ngồi ngoài Miếu 1 mình thường vẫn sợ, nhưng nay biết có con ngồi sau lưng lòng Mẹ cũng an! Một phần xác, một phần hồn – Mẹ đây con đó… Thiên thu trong 1 tầm tay với mà với hoài không tới, nghe tiếng con mà mở mắt ra nhìn chẳng thấy con đâu…
* Tụng kinh được 1 thời gian ngắn thì xảy ra 1 chuyện: anh Ch (huynh trưởng Nhân điện) điện lên bảo tôi tìm hiểu xem tại sao 3 ngày đêm rồi anh cứ ớn lạnh rùng mình hoài, đến không dám tắm luôn! Anh kể trước đó 3 hôm anh đang ngủ ngoài phòng khách, mở mắt ra chợt thấy bóng 1 người đàn bà cao lớn tóc xoăn mặc đồ tang đứng trước mặt. Anh Ch sợ quá chạy vô buồng, bước ra xem lại thì không thấy nữa…
Tôi xin Điển trụ thần nhìn, quả nhiên thấy một âm vong đứng ở cánh cửa bên phải nhà, giống y như lời anh Ch tả! Nhưng tôi thấy lại là vong nam – tóc dài xõa và uốn lọn xoăn như nghệ sĩ. Tôi nói: “Họ đứng đó, hai tay bắt chéo buông xuôi, có nghĩa là cầu xin chứ không dọa nạt gì đâu. Thôi anh đi nấu nước nóng tắm cho sạch sẽ rồi tụng 1 thời kinh cầu siêu giúp họ đi!”
Mười lăm phút sau anh Ch hí hửng báo: “Nghe em nói anh lấy kim tự tháp ra trục vong ngay chỗ đó ra khỏi nhà xong hết ớn lạnh liền tức thời”… Nói chưa dứt lời, đã thấy âm vong đứng ở cửa nhà tôi rồi! Tôi nói: “Họ đến đây rồi, cúp máy để em ra nói chuyện với họ coi sao!”
Có điều lạ mà tôi thường kinh nghiệm là phần âm “đánh hơi” tài lắm – Chỉ nghe qua điện thoại, thoắt đó đã lên tới chỗ tôi rồi…
Tôi hỏi, âm vong khai tên Nguyễn Văn Sâm – người tỉnh Thái Bình, chết năm 47 tuổi – mất cách đây 2 năm rưỡi do bị “tình địch” thủ tiêu… Nhìn anh chàng đẹp trai tướng thư sinh bạch diện, 2 mắt to mơ màng, mũi thẳng môi son – tóc uốn dợn như “tài tử xi nê”, tôi nghi ngờ hỏi chận. Thì ra vong anh ta lúc sống làm nghề “mồi chài phụ nữ”… với bộ dạng nầy, khối cô chết mê , chết mệt đây!
Tôi lại tra: “Sao công an người ta không điều tra cái chết của ông?” Vong nói: “Tôi bỏ làng vào Nam sống vô gia cư lâu rồi, chết đâu ai biết!” – Tôi khuyên vong mỗi tối về nghe kinh quỳ lạy cho chuyển tâm rồi tôi xin Bề trên cứu! Vong bằng lòng, rời đi!
Chiều hôm sau, tôi đang đứng trong bếp làm thức ăn, chuẩn bị bữa cơm chiều. Có 1 cọng đậu văng ra khỏi chảo, nhác thấy ai đó chạy vào nhặt lên ăn, nhìn lại thì ra vong người đàn ông ấy! Tội nghiệp, tôi dọn cơm lên mời ăn… Chiều hôm ấy, chỉ có mình tôi ở nhà. Vong tên Sâm ngồi xuống, ngước lên nhìn tôi nói: “Cảm ơn cô!” – Vừa nhìn thấy 2 mắt xanh lè, tôi kinh hoảng tống cho 1 đấm – âm vong văng ra ngoài sân! Bước vào, hắn nói: “Thưa cô Hai, tôi đâu có làm gì mà sao cô đánh tôi?” – Tôi xin lỗi: “Tại ông nhìn tôi làm tôi sợ. Thôi ông cứ ngồi ăn một mình xong rồi đi, tôi ăn sau vậy nhé!”. Lúc đó tôi bị bế tim, gần như sắp xỉu, lê được vào buồng ngồi trụ thần thiền 5 phút xong cấp cứu cho mình mới tỉnh!
Các phần âm vong ngạ quỷ hay yêu tinh, chỉ nhìn thấy đôi mắt của chúng là ta bị Điển âm đánh quỵ liền tức thời! Dạo mới bắt đầu chữa bệnh, tôi đã bị đôi ba lần như vậy – xỉu mất mươi mười lăm phút mới tỉnh… lúc đó thay vì chữa bệnh, lại thấy bệnh nhân giật gió, xức dầu cho mình…
Về sau năng lực mạnh hơn, chỉ bị choáng váng, trống ngực đập liên hồi, mệt tim và khó thở chừng 5, 10 phút – tự mình cấp cứu cho mình là hết!
Đêm hôm ấy, hồn tên Sâm về ngoi kế bên con trai tôi nghe Kinh… Tôi ngồi trong Miếu, 2 người ngồi ngoài sân, sau lưng tôi. Tôi tụng kinh mà cứ nghe thoang thoảng mùi thơm gì đó rất lạ, gần như mùi son phấn… nghi là trong thẻ nhang, tôi lấy lên ngửi – không phải! Mùi thơm nầy ở đâu ra?
Tụng kinh xong, tôi hỏi con trai: “Con có thấy mặt thật của ông ấy sau khi chết không?” – Cháu nói: “Mẹ mà thấy là “ác mộng” luôn, khủng khiếp lắm!”. Tôi lại hỏi: “Con không sợ sao?” – “Sợ gì, con hay coi phim kinh dị còn ghê gớm hơn vậy nhiều! Mà Mẹ nè – ông nầy ổng điệu hết biết luôn, chết rồi còn xức keo vuốt tóc láng o, ngồi bên ổng thơm “nhức mũi”… Thì ra người sao hồn vậy! Chết rồi mà lòng trần vẫn chưa chừa!
Tuy rằng vong là ngạ quỷ. Ngạ quỷ thì phải nhịn đói, chỉ được ăn ngày mùng 2 và 16, những ngày khác có cúng cũng không hưởng được (Đó là lời Mẹ giảng). Nhưng ở nhà tôi, hễ tôi mời thì họ ăn được! Vong tên Sâm ăn uống từ tốn, lịch sự – ra vẻ một “quý ông lịch lãm”, chắc còn sống lắm cô mê đây!
Tôi tụng kinh – mỗi đêm đều xin cầu siêu cho hương hồn tên Sâm, xin Mẹ cho đi đầu thai chuyển kiếp! Được hăm mấy ngày tự dưng vong biến đâu mất 2 đêm liền, đêm thứ ba tới trễ, cũng ngồi xếp bằng ngoan ngoãn… Tôi liếc nhìn – ngạc nhiên: Sao hôm nay ông ấy to lớn dữ vậy kìa? Mọi ngày người nhỏ nhắn, thanh nhã mà… Mỗi lúc niệm Phật, tôi bảo “xá” thì hai người sau lưng chắp tay xá 1 cái! Nay ông ta chỉ ngồi im, hai tay chắp trước ngực như người Thiền định không nói gì… Tôi nhủ thầm: “Lát nữa tụng kinh xong phải nói mới được. Đến mà ngồi im thế kia thì đến làm gì!” – Nào ngờ vừa dứt tiếng Kinh, người đàn ông ấy bỗng phát một nụ cười mỉm, đưa tay vẫy chào tôi xong với tư thế ngồi xếp bằng ấy – cả người bốc bay lên cao, hóa thành tượng Thích Ca Mâu Ni đẹp lộng lẫy oai nghi – xa dần rồi mất hút… Tôi ngồi sững sờ mà rơi lệ!
Thì ra vong hồn tên Sâm được cho đi đầu thai, còn tôi được thưởng công nhìn thấy Kim Thân của Phật…
* Có một người đàn bà nghề làm rẫy, thuê phần đất lớn ở ấp 6 xã Đông Thạnh. Hôm ấy tới nhờ tôi giúp tìm hiểu xem trong nhà có gì mà cô ấy bệnh hoạn liên miên ngủ mơ toàn ác mộng! Vừa nhìn vào tôi biết ngay trong nhà có quá nhiều phần âm quấy rối: Hai mắt lạc thần, mặt mày xanh tái… Điều lạ là thấy có 1 người đàn ông mặt mũi hiền lành, tướng cao ốm, tay chân bắp cơ gò cứng, chứng tỏ là người luyện võ hoặc làm nghề lao động nặng! Tôi hỏi thì vong hồn ấy bảo mình là chồng của người phụ nữ kia! Tôi hỏi: “Chồng chị chết rồi phải không?” – “Dạ không. Chồng em còn sống nguyên!” – “Chị hai đời chồng?” – “Có một đời thôi, ông ấy vẫn còn sống!” Tôi tả người đàn ông: tứ thời hay mặc 1 quần cụt màu xanh dương đậm, áo thun không có tay – và đặc biệt là có 1 chân gỗ… Chị ấy gật đầu ngay tức thời: “Chồng em đấy! Cô tả đúng y người thật!”… Tôi ngạc nhiên, chả biết nói sao!
Thấy ở chỗ chị có nhiều âm vong, tôi phải nhờ anh Ch – huynh trưởng lên hóa giải giúp. Ngày xưa năng lực tôi còn yếu – Mẹ không cho động đến vong hồn chiến sĩ (vì họ có đội ngũ và võ trang đầy đủ, sợ tôi bị vong đánh, làm không lại!)
Sáng hôm sau tôi và anh Ch đến tận chỗ người phụ nữ làm rẫy để giải vong! Cả tôi và anh Ch đều sững sờ khi gặp chồng chị kia – nhân dạng y như tôi đã tả: cũng quần cụt xanh dương, áo thun ba lỗ, đặt biệt là cái chân cây!
Từ xưa đến tận giờ, đây là trường hợp đầu tiên mà tôi biết: Người đang còn sống nguyên lại có thể xuất hồn đưa vợ mình đi xin cứu giúp! Tôi khéo léo dọ hỏi: thì ra trước kia anh chồng chị ấy là người dân tộc miền cao, biết võ nghệ và bùa phép – Hèn nào có thể xuất hồn!…
* Mỗi trường hợp cá nhân, ở xa thì thôi. Nếu ở gần chỗ tôi, lâu dần đều trở thành tập thể! Tôi gần như thành “bác sĩ gia đình”, lại còn kiêm luôn “tư vấn tâm lý, hôn nhân gia đình, gỡ rối tơ lòng”… Mỗi chuyện của 1 gia đình có thể viết thành 1 chuyện tiểu thuyết nho nhỏ – Và nhiều chuyện tiểu thuyết nho nhỏ như vậy vẽ nên một nhân vật: “thằng Tôi”! từ cát bụi sinh ra, và ngày mai lại trở về cùng cát bụi…
Tôi đã từng viết 1 bảng quy định để lại cho con, bảo khi nào Mẹ chết – hãy thực hiện y lời Mẹ:
1. Không để nải chuối xanh lên bụng như tục xưa để lại (nặng bụng, đau bụng chứ ích gì!)
2. Không cúng cơm! (Chỉ tổ đãi lũ ruồi nhặng)
3. Không đăng cáo phó rình rang, không đàn ca sênh phách…
4. Chỉ cúng hoa trái: hoa huệ trắng hoặc lay ơn đỏ! Tìm thực nhiều hoa lài để kề bên. (Rồi mình sẽ hóa thành hương bay về cõi hư không)
5. Quần áo đưa theo chỉ 2 bộ, đủ thay đổi!
5. Đem nhục thể đi thiêu, về đưa ra biển – khúc nào trong xanh rải tro xuống nước ( nước đục sợ đau mình!)
7. Ngày cúng giỗ, chỉ cần 1 mâm cơm chay, tránh bày biện và mời đãi đông người. (Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi!)
Vậy đó! - “Sinh ký tử quy”. Ta lại trở về nơi đã từ đó ra đi, cõi nào chẳng biết! Trần ai là cõi tạm, luyến tiếc gì chút mộng phù sinh…
Chợt nhớ, tôi chép vài bài thơ là lạ một chút, nói về những suy nghĩ “nghịch thường” của mình trong suốt thời gian bị “khảo đảo” – Xem như là mặt trái của tấm huân chương! Các bạn đọc xong rồi “thở khì” một cái, lật trở về mặt phải – để ngắm cái đẹp lóng lánh của nó, vậy nhé!
31. MẶT TRÁI CỦA TẤM HUÂN CHƯƠNG
BI KỊCH CỦA SỰ XÂM LĂNG
TỪ THẾ GIỚI HUYỀN BÍ
Tôi bị đuổi ra khỏi linh hồn mình
Thành lũy cuối cùng bị công phá
Đức Vua lưu vong, triều thần rục rã
Dũng sĩ kỵ binh xếp giáo quy hàng…
Ôi! Manh áo bào đẫm máu ba quân
Mũ miện rơi mất rồi trên đường trốn chạy
Nhà Vua khóc, đêm công thành lửa dậy
Đâu một thời vàng son áo gấm chăn hoa!
Loa – loa – loa – loa!...
Ai bắt được Vua thưởng một ngàn nén bạc
Ông vua trẻ với cái đầu lão nhược
Khóc vùi bên ấn tín Tiên Vương!
Tôi bị đuổi ra khỏi linh hồn mình
Vương quốc cũ dành cho người mới
Hoàng Thượng khờ, chưa một lần lầm lỗi
Dại dột mời tên thích khách vào cung!
Đó là cái giá của lòng tin
Đặt nhầm chỗ – đêm trường bão lộng
Tăm tối u mê, chán chường tuyệt vọng
Vua còn đâu – Hoàng Thượng đã băng hà!...
Tháng 3/1991
LẦN BƯỚC
Hãy nhìn lên nụ cười vĩnh cửu của Đức Phật
Tìm lấy sự bằng an giữa cõi thế vô cùng
Hãy nhìn vào đôi mắt Phật bao dung
Tìm điểm tựa cho linh hồn chao đảo!
Người quỳ xuống và dập đầu trước bệ
Tôi đến đây không phải thế – ơi Người!
Không muốn cúi đầu van lạy cầu xin
Đấng Từ Phụ ban cho nhiều ân sủng!
Tôi đến đây dưới chân Người – lẳng lặng
Ngước nhìn lên chiêm ngưỡng – chỉ thế thôi!
Ngàn ngàn năm… và mãi mãi muôn đời
Sự hoàn thiện bao dung là cái đẹp!
Và vĩnh cửu là nụ cười Đức Phật
Dạ Từ Bi soi từng mảng đời riêng
Dưới chân Người, xin một chút bình an
Mai dời bước – Lại sóng đời vùi dập!
Không tiếng kệ, không câu kinh, chuông mõ
Không nén hương – xin thể chấp lòng thành
Không tịnh chay, không giữ giới – kiếp trần
Sao – cứ thế mà về bên chân Phật!
Với trọn vẹn một linh hồn rất thực
Không dấu che, không lễ vật cung nghinh
Phật đài cao sẽ soi thấu lòng trần
Người Chín Bệ không lạc lầm như ông Tạo!
Nói dùm tôi – ơi Người! Công hay tội?
Nên hư chi, thiện ác hỏi làm sao?
Tôi đâu cần lời cửa miệng khen chê
Tôi chỉ muốn tìm đường theo dấu Phật!...
21/08/1991
VÔ THƯỜNG VÀ BẤT TỬ
Sự bất tử vẫn nghìn năm tồn tại
Mặc bể dâu, mặc tháng ngày qua
Người khép mắt, nghìn sau còn Thiền định
Kẻ tráo trưng suốt kiếp vẫn phong ba
Mây vẫn bay, gió nổi và sương sa…
Lá vàng rụng, mùa tiếp mùa thay lá
Sinh rồi tử, tử rồi sinh – cứ thế!
Chu kỳ đời đâu làm động hồn thiêng
Hãy cho tôi một chút xíu vô tình
Trong tượng đá bao ngàn năm trầm mặc
Một chút xíu thờ ơ trong ánh mắt
Như nói nhiều – mà như chẳng nói chi!
Nhân thế ơi – các người cứ cười đi
Dẫu cuộc sống phù du như sương khói
Dẫu hạnh phúc, vấp ngã và lầm lỗi
Dẫu trái tim đầy giông bão xót xa…
Tượng đá vẫn ngồi – và thời gian qua
Người vẫn đến, ngắm nhìn và suy ngẫm
Bao công trình nghiên cứu và tưởng tượng
Người vẫn người, tượng đá vẫn thờ ơ…
16/12/1991
ÂN SỦNG
Phải có những con người hy sinh
Thì mới có những Thánh lễ
Linh hồn được tôn vinh
Sau sự đọa trầm của nhục thể!
Hãy chịu đựng, ơi anh!
Đừng kêu van – nầy bạn!
Để linh hồn bay lên
Vượt tầng tầng thanh khí
Vòng Nguyệt Quế dành cho người không ngừng nghỉ
Trả giá để mua: Hạnh phúc Cõi Vĩnh Hằng!
Là ngày mai – (một ngày của Vô biên)
Cẩn thận – đừng so đo tính toán
Cái giá của cõi Thượng Thiên
Đâu thể lấy dạ trần đong đếm
Hỡi kẻ phàm nhân, tay ngắn vợi vô cùng!
Thượng Đế chẳng gieo hạt giống Thiện ở đất lành
Bởi trần thế không phải là Thánh Địa
Hãy tự nảy mầm trên vùng đất dữ
Tự nên cây sinh trái, để thành rừng!
Rồi sẽ bay lên trời lớp lớp sinh linh
(Có tài biến đen thành trắng)
Thượng Đế vuốt râu cười và phán
“Cho chúng mi thành Tiên” – Vinh dự thay kẻ phàm nhân!
Để rồi mai đây tận một góc Thiên Đường
Những chiếc bóng đi về với hào quang vĩnh cửu
Những chiếc bóng nhớ nghìn đêm không ngủ
Đêm thế trần cay mắt đỏ nhân sinh!!
15/03/2002
LỜI CỦA HƯ VÔ
Người từ cõi sáng về đây
Thế trần đêm tối, bão vây còn nhiều
Ngàn dặm xa vẫn đìu hiu
Tay Người độ lượng cầm gieo mệnh đời
Đoá sen trắng đã tàn rơi
Khóc ư! Vọng tiếng ai cười đêm mê…
Bể sầu mạch cả nào khơi
Chảy tràn, cho lạnh đất trời sang xuân
Cúi đầu đếm những bước chân
Bao nhiêu bước nữa ly trần, hởi ai?
Tìm hư vô nắm bàn tay
Vẽ lên Nhật Nguyệt tháng ngày huyễn không
Hương Trầm thắp giữa mùa đông
Tàn đêm, khơi ngọn nến hồng giải oan
Nầy cát bụi! Đợi mùa sang
Trời cho mũ áo xênh xang về chầu
Biển xanh còn đợi ngàn dâu
Thiên thu đợi một giấc sầu – ai hay!...
14/11/2002
KẺ HÀNH HƯƠNG ĐƠN ĐỘC
Tôi bị buộc phải chấp nhận cuộc chơi
Không khí giới và chẳng cần nghi lễ
Không diễn văn chào mừng – chẳng có ai đón đợi!
Chỉ có một con đường – Tiến chứ không lui!
Chẳng có văn bản giao kèo nào ở trong tay
Tôi bị bịt mắt dẫn độ vào cõi sống
Với một tên gọi hẳn hoi – một cấu thành định mệnh
Cõi hằng sinh cười khóc một thằng tôi!
“Cuộc Hành Hương đâu phải để rong chơi
Để mang hài gấm và bước đi trên thảm
Là gót mỏng, chân trần trên cát nóng
Qua chông gai, sỏi đá – vực thẳm và bóng đêm”
Hãy tự cày xới đi mảnh đất trần dương
Hãy gieo hạt – và tự mình chăm bón
Sẽ có ngày nỗi buồn thành sức mạnh
Cây nên rừng, trái ngọt để đời sau!
… Người gục đầu bất lực, xót đau
Kẻ Hành Hương đơn độc!
Những ân phúc trời cao dành người khác
Đêm đông dày, lạnh một góc đời riêng…
Tháng 10/2000
ĐỘC THOẠI
Trong căn nhà êm vắng lung linh khói hương bay dường như chứa đựng âm ba của cõi vĩnh hằng – với những tượng thờ oai nghi trầm mặc, với những ánh mắt Từ bi, như ban phát cho tầng tầng cõi thế giấc mộng huyền sinh…
Tiếng con thạch sùng tắc lưỡi trên cao tưởng cũng khẽ khàng như sợ làm động cái khí trang nghiêm ở chung quanh. Ngoài kia tán lá che mát vuông sân, gió nhẹ lay hoa trắng rụng đầy… Thanh tịnh bình yên, an nhiên và tĩnh tại – cơ hồ như chẳng có gì bất trắc xảy ra, hồ như giông bão cuộc đời chưa hề có mặt! Thế sao tận giữa lòng người không có sự bình yên? – Chừng như đâu đó ngoài kia cơn giông chực chờ kéo đến, chừng như dâu bể đường trần vẫn rình rập trên mỗi bước chân qua…
Nầy hỡi những sinh linh mang hình hài tạo tác bởi bàn tay của các Đấng Vĩnh Hằng – Các mi đã làm gì nên nỗi? Điều gì ẩn chứa đàng sau những sắc màu khoác vội bên ngoài, điều gì dấu che trong nụ cười lạc điệu – Trong ánh mắt thờ ơ mà như chứa đựng cả sương khói vô thường trong ấy?!...
Mi tìm gì ở cõi thế phù vân? – Quỳ trước Đấng Quyền Năng mi cầu nguyện những gì? Một chớp mắt suy tư thiền định là bao dấu luân hồi, một trang trải muộn phiền dài đến bao lăm??
Bức tranh toàn cảnh ấy phải chăng là chưa nhất quán? – Làm chi có An bình, Tịnh lạc ở giữa chốn trần ai, tìm đâu sự bằng an giữa linh hồn sóng gió! Mây trắng chiều sương đi về phai màu tóc, mùa qua mùa “Lạc hoa tương dữ hận”, còn đâu!...
Giấu đi tiếng thở dài tự sâu kín tâm tư, ta mở cửa đón thế nhân tìm đến – Giấu nỗi đau đời mình đàng sau khói hương trầm dâng tiến, mượn tay Đấng Thiên Toàn cho sự sống khai sinh. Để rồi đêm đêm bên gối lẻ cô phòng, giọt lệ chảy vào trong thầm lặng. Ta giấu cả chính mình, chôn vùi bao xúc cảm, trầm luân cõi thế còn bao?!...
27/11/2003
VỊ ĐẮNG VÔ THƯỜNG
Ngọn đèn vĩnh cửu vẫn cháy
Trong ngôi miếu phi thời gian
Những đoá hoa phai hương
Còn nguyên màu rực rỡ!
Gió đi qua, khẽ khàng
Thả rơi vài xác lá
Tưởng cũng phi thời gian…
Lá nằm yên – ngẫm nghĩ
Cõi Thiền kia có, không?!
Và những Sứ giả của Thượng Đế
Người nghĩ gì sau vầng trán mênh mông?
Ngoài kia mưa còn rơi
Bao giờ hết mùa bão loạn
Những linh hồn cõi tạm
Đau vùi, chưa vơi!!...
Đem Vĩnh hằng đặt để giữa trần ai
Vị đắng vô thường có làm cay mắt Phật?
Có rẽ lối bể dâu vẫn nao cồn sóng lạc
Tấm áo luân hồi ai khoác buổi sầu vương…
Nghiệp thế còn mang, sao vội trách Hoá Công
Tâm cứ loạn – vọng trần làm sao xoá?
Hành Thiện đi, bớ con người vị ngã!
Cõi Vô Vi chẳng chứa kẻ u mê
Biến nỗi buồn thành sức mạnh hôm nay
Nâng thế tục từ bàn tay giá lạnh
Hoa sẽ nở, và mùa xuân lại ấm
Trên môi cười … tha nhân!
Ta trở về khơi bếp lửa mùa đông
Sưởi nhành Vô Ưu bất lực
Nghe trái tim thét gào trong lồng ngực
Nỗi buồn cộng phân!
Khoác áo vô thường – đợi đến phong vân
Dấn bước lưu sinh mà tầm câu Phúc Lạc
Gieo những mùa vàng trên nền bất trắc
Mai xuân hoà ngồi hát khúc Đông phân…
03/12/2003
MÙNG TÁM THÁNG TƯ
Hôm nay là ngày Mùng tám tháng tư – ngày Phật đản sinh! Thay vì tìm đến cửa Thiền, những nơi tôn nghiêm với đầy đủ lễ nghi phụng chúc, thì tôi lại ở đây – Trong ngôi Miếu nhỏ, lặng lẽ ở một góc đời xa xôi, mờ khuất – với một chút hoa và một chút hương!
Tấm lòng có thế, và sự vọng tưởng cũng chỉ được chừng ấy! Chẳng chờ đợi vọng cầu, không chúc tụng tôn xưng… Nhìn lên ảnh Phật cũng như đang suy tư trầm mặc. Người nghĩ gì hỡi Đấng Cứu thế Từ bi? Người có nhìn lên không để thấy chúng sinh đang trầm mình trong lớp lớp mê đồ, màu giả tạm đang che mờ ánh mắt! Ngọn đuốc Huệ Người nhen tự mấy nghìn năm, nay từng trải mê phong Người cất giữ nơi nào?
Lãng đãng khói hương trầm dâng tiến, ngẩn ngơ chiếc lá xa cành. Vĩnh cửu đây – mà vô thường cũng là đây…
Sự an lạc Người ban, nhân thế ai người thọ lãnh, Cội Vô Ưu nở bao cánh hoa Đàm?... Có một ngày khai sinh thế thế thường hằng, cho Đại Đạo hoằng khai chuyển dời tứ hải… Lối dâu bể còn in trên nếp sầu thiên cổ, vị trầm luân nhuộm trắng sắc trời xanh! Cái lẽ vô thường mãi chẳng tỏ thông, được mất cứ dần xoay nay cười, mai khóc!
Tôi là ai trong cõi người ngơ ngác, lạ mặt nhân gian sớm tối đi về - Những đêm thế trần cứ thế dài trôi, chẳng nhìn thấy phía chân trời ánh hồng Đạo cả!
Hôm nay, như một tia chớp lóe lên tận chốn mù mù tăm tối: “ngày Mùng tám tháng tư!” Có một hồi chuông nào đó trỗi lên tận cùng mê thức, con người ta mới tự nhận ra: hình như mình vừa qua lớp ngủ đông dày dặc, chợt cuống quýt trông nhìn trước mặt sau lưng… Hình như chiều đã sang rồi, đêm vĩnh hằng sắp đến! Có kịp chăng để cho ta làm một cái gì đó cho mình và cho người?! Có kịp chăng khi ta muốn hướng về cõi Tịch lặng An nhiên nào đó – Ngoài cái cõi Sinh Tử luân hồi cứ như một trò chơi may rủi nầy?!
Quỳ dưới hình tượng Đấng Chí Tôn tôi lặng lẽ nhắm mắt, đợi chờ một sự “Mặc khải”! Liệu rồi sáng mai đây, khi ánh ngày lên soi sáng tận cùng ngõ hẹp – hay lúc mưa giông mây xám giăng trời, có còn tìm thấy một góc thuyền Bát Nhã bập bềnh trên sóng trần ai?!
Thôi thì mượn ba nén hương dâng, những mong hương khói mỏng manh kia sẽ kéo dài hơn phút giây vọng niệm: “Mùng tám tháng tư”…
26/05/2004
Hình như chúng ta lạc đề mất rồi, thôi xin mời các bạn cùng tôi trở về lối cũ, xuôi ngọn mê phong mà nương nhẹ khách hồng trần… Để rồi mai mốt đây cuối ngọn triều dâng, dẫu có xuôi tay cũng còn điểm trên môi nụ cười mãn nguyện…
32. THỰC HÀNH CỤ THỂ (7)
* Tôi có người quen tên H, cô ấy bán rau cải ở chợ Hiệp Thành – Người có căn Tổ nghiệp nhập, khi nhập vào thì hút thuốc như kéo bể và ăn trầu, ợ ngáp suốt… Nhưng được cái là vẫn tỉnh táo, bình thường! Cô H cũng làm Thầy pháp, khi cần thì hương khói đội vải đỏ nhập đồng, múa may quay cuồng và làm phép khoáng nhang, rảy nước…
Lâu lâu, khi bị hành, bị phá bởi những tà cao tay ấn, cô H vẫn tìm tới nhờ tôi xin Mẹ về giải cho… Có lần nọ cô giúp 1 cậu làm nghề trồng rau, bị vong anh ruột nhập vào! Cậu này bị đã mấy năm rồi, nay đau mắt, mai đau ruột, mốt đau đầu… Nằm BV hàng tháng là chuyện thường!
Cô Huệ “Tôn Bát Nhang” thờ Cửu Huyền, xong án phép không cho vong vào nhà – Trong một tuần lễ liền cứ hể đêm tới là vong người anh lại về than van trách móc, năn nỉ, rủ rê đứa em trai – Người em thương anh bước ra khỏi nhà, vong lại nhập vào…
Người anh xưng mình là Thánh, muốn học nghề chữa bệnh để cứu nhân độ thế, cho người em đau là cốt để vào BV học phép cứu người! Có điều kỳ lạ mà ai chưa thấy không thể nào tin: vong nhập vào, người em nằm ngửa dưới đất, tay chân đưa lên trời – chỉ co duỗi các cơ ở lưng mà đi được 200 mét, lúc đó có nhiều người chứng kiến chuyện này!
Cô H không thể làm cho vong rời đi hẳn, tới năn nỉ tôi trợ lực… Thời gian đó, tôi đang bị rối loạn tiền đình rất nặng: chóng mặt xây xẩm buồn nôn… Những lúc như vậy, thì mọi vật chung quanh cứ quay cuồng, thần trí không trụ được!
Nể cô H, tôi tới nhà! Lúc đó vong đang nhập xác trần, lăn lộn đánh võ, trồng chuối ngược và la lối như người điên! Có điều lạ là hai mắt cứ nhắm tít như vậy – lại lăn lộn ầm ầm trong căn nhà chật hẹp mà không làm đổ vỡ thứ gì chung quanh. Tôi ngồi xếp bằng hồn tỉnh xác mê, cảm nhận mọi sự nhưng tay chân đầu óc quay cuồng rũ liệt, tứ chi không chịu theo sự điều khiển của não.
Cô H la lên: “Chị – xin Mẹ Quan Am về đi chị!” – Tôi sực tỉnh chắp tay xin… Điển về thì vong quỳ trước mặt tôi lạy lục, khóc van xin Mẹ tha tội cho – Chỉ 2, 3 phút sau tôi lại rơi vào cơn lạc thần, vong điểm mặt tôi chửi mắng không tiếc lời! Tuy nhiên không dám đánh hay làm gì tôi. Có lẽ vẫn e dè sợ Điển phạt… Phải nói buổi sáng hôm ấy là cực hình lớn với tôi: phải chịu ngồi im nghe vong sỉ vả đủ điều: - “Bà lừa tôi, bà giả Mẹ bà tưởng tôi không biết hả…” Khi tôi trụ thần lại được thì vong quỳ lạy van xin – Cuối cùng tôi chịu thua, bảo cô vợ của xác người em mua mực tàu về vẽ hình chữ Vạn trên lưng trong vòng 1 tuần đợi tôi khỏe rồi tính tiếp!
Ấy thế mà cậu trai đó hết bị vong quấy! Hơn nửa tháng sau tới tìm tôi: “Em xin chị giúp – Dạo nầy trong người em nóng như có 1 lò lửa thiêu vậy! Ruột gan thì nôn nao không làm được việc gì cho ra hồn, cứ bứt rứt vật vã, trong người làm sao đó!”
Cậu thanh niên lấy thuốc ra hút, tình cờ tôi thấy giữa lòng bàn tay có hình chữ Vạn. Tôi bảo xòe 2 tay cho tôi xem: “Ai vẽ cho em đây!” – “Vợ em, hôm đó chị bảo em vẽ trên lưng, chị Huệ biểu vẽ trên 2 bàn tay cho chắc ăn!” – Tôi phải giải thích: “Đây là phép của nhà Phật, cần tuyệt đối thanh sạch thì mới thiêng! Chị bảo vẽ trên lưng, lại còn phải tắm rửa sạch sẽ thắp nhang xin nữa. Bàn tay của mình làm đủ thứ chuyện không sạch sẽ, em chưa bị Điển hành cho điên khùng đã là may!” – Tôi xin xả phép và xin lỗi PB Quán Thế Am – Từ đó cậu thanh niên ấy hết hẳn…
* Có lần một người P.N tên H nhờ tôi giúp chữa cho con trai của mình, tên Qu – 22 tuổi! Cách đấy 3 năm bắt đầu bị tâm thần, đã chạy chữa nhiều nơi nhưng không khỏi…
Tôi rủ cô Huệ, cô hứa trưa mai 1 giờ sẽ đi cùng tôi! Đêm ấy, thầy Hải Thượng về nói với tôi: “Thằng bé ấy sắp chết rồi, con không giúp được gì đâu - Đừng nhúng tay vào kẻo bị đòn nặng đó! Bà ấy tạo ra nghiệp chướng, giờ tới lúc trả nghiệp rồi, Thượng Đế cũng không cứu được!”
Trưa hôm sau, vì lỡ hẹn với chị H – Tôi cùng cô Huệ cũng đi, tôi có thắp hương xin phép Mẹ Quán Am…
Sang nhà chị H, tôi xin phép đi ra sau rửa tay – Ngang qua 1 căn buồng tôi thấy bên trong có vong 1 người đàn ông ngạ quỷ cao lớn, bệ vệ đang nằm trên giường! Tôi hỏi, chị H cho tôi biết đó là phòng của ông già chồng, đã bỏ không 3 năm nay từ khi ông chết…
Tôi xin phép Mẹ trợ, còn cô Huệ thì đốt nhang khoán cho vong nhập xác cậu Qu. Một lúc sau vong về, cậu Qu nói lảm nhảm lúc mê lúc tỉnh – Cứ ôm siết lấy Mẹ, 2 bàn tay lần sờ mó và xoa nắn 2 bên ngực người Mẹ… Lúc đầu tôi nghĩ: “Cưng con kiểu gì hăm mấy tuổi còn “sờ ti” Mẹ!” – Về sau, trụ thần nhìn – tôi thấy ra vong của… ông già chồng!
Tôi chợt hiểu toàn bộ sự việc, đêm qua Mẹ về nói với tôi: “Người đàn bà đó có tội loạn luân trên bọc trong dâu” – Chị H thì nói với tôi: Ông già chồng hồi xưa nổi tiếng đẹp trai, nằm trong giới xã hội đen về cá cược đua ngựa – Có 49 đời vợ… Lúc chị H về làm dâu, sinh con ra được đúng 3 tháng thì chồng chị lặng lẽ bỏ nhà đi vượt biên, không 1 lời từ biệt – Hơn hai mươi năm không 1 lần trở về thăm lại vợ con!
Nhìn người đàn bà đẹp như Tây – da trắng má đỏ môi hồng… Dễ gì thoát khỏi đôi mắt của ông già háo sắc 49 đời vợ!
Và… bánh xe định nghiệp ngừng quay khi đứa con trai của chị H chết, gần 1 tháng sau ngày chúng tôi đến nhà… Người cha có trở về thắp nhang cho con, đưa con ra huyệt mộ xong rồi lại lặng lẽ ra đi…
Chị H ở lại trong căn nhà vắng vẻ mênh mông với hai phòng đầy đủ tiện nghi luôn luôn khép cửa, ôm di ảnh của con, chị nghĩ điều gì?...
* Có một lần, đang ngồi trong quầy báo, nhìn sang bên kia đường – trong dãy “chợ tự phát”, tôi thấy 1 phần âm đang ẩn trong xác 1 người đàn ông tuổi dưới 40. Điều lạ lùng là hồn và xác giống nhau như hai giọt nước – cả quần áo mặc trên người lẫn tuổi tác, mặt mũi nhân diện…
Thấy điều lạ, tôi đi qua đường, hỏi cô Huệ đang bán rau ở gần đó – Cô H bảo đó chính là em trai của cô – Và âm hồn tôi thấy là anh trai mình. Anh cô bị bệnh tiểu đường và chết năm 37 tuổi – Chết đã 14 năm, điều trùng hợp là năm nay cậu em trai cũng tròn 37 tuổi…
Cô H đưa em trai lên nhà tôi – Cậu em bị phần âm khuấy mãi gần như bệnh thần kinh, khi hiền khi dữ, lúc lên cơn thì rất đáng sợ!
Tôi đã gọi âm vong về – khuyến Đạo, khuyên nên vào cửa Thiền tu để chuyển nghiệp, đừng theo quấy phá em mình nữa. Vong đã bằng lòng!
Tôi bày cho cô H mua hương hoa đưa vào Chùa, tôi xin Mẹ cho chuyển vong – Gia đình cô H từ ấy đến nay bình an trở lại…
* Cô Huệ làm ăn giỏi, chỉ một hàng rau cải mà nuôi được 2 con, mua được đất – xây nhà lại sắm được xe máy… “Bốc ngắn cắn dài” nợ nần vây bủa, cô H thường xuyên vay tiền của tôi, tôi vẫn vui vẻ cho mượn, nếu số tiền lớn tôi không có khả năng, tôi về vay gia đình em út cho cô H mượn!
Một lần cô H đến lúc 8 giờ đêm, bảo tôi đi vay cho cô 800 ngàn đồng, tôi hứa sáng mai 8g00 tôi sẽ đi vay dùm cô, số tiền lớn ấy tôi không có!
Sáng hôm sau, tôi về vay đứa cháu gái 1 chỉ vàng, hẹn mấy ngày nữa trả theo lời cô H… Vàng bán được 850 ngàn, tôi mang ra tới chợ đưa cả cho cô H.
Sở dĩ tôi phải kể lể dài dòng cùng các bạn về một chuyện bình thường như vậy,vì tôi muốn nhấn mạnh cho thấy xác suất của hệ Nhân Quả mà theo ông bà ta xưa là “vay một trả mười”…
Người ta gieo một cái nhân nhỏ, tưởng chừng đơn giản, suy nghiệm ra cái quả lại lớn lao vô cùng! Cô H không trả tiền lại cho tôi! Trong lúc đó con tôi vừa mới chết, nợ lại ngập đầu – chuyện nầy cô H biết cả… Tôi đành năn nỉ cô: 1 chỉ vàng tôi chịu, chỉ mong cô mỗi tuần trả cho tôi 50 ngàn để tôi đi chợ – ấy thế mà có tuần ra 4, 5 lần không lấy được tiền! Trong 1 thời gian khá dài, tôi chỉ lấy được 500 ngàn – mỗi lần tới cô H xem như tôi là kẻ tống tiền, sụ mặt kiệm lời, khiến lòng tôi rất nặng nề…
Hôm đó ức quá tôi bỏ luôn số tiền còn lại, định viết tờ giấy đưa cô H – đại ý như thế nầy: “Cô là người có nghiệp Tổ nghiệp Tông, cô về hỏi lại thầy Tổ xem coi xử sự với tôi như vậy có đúng không”… chỉ nghĩ vậy thôi, tôi không viết gì và bỏ luôn số tiền còn lại!
Chưa đầy 1 tháng sau, tôi thấy cô H đẩy xe ba bánh đi bán dạo, quầy rau sang cho người khác! Cũng không đầy 1 tháng nữa – lại gặp cô H đạp chiếc xe đạp cũ kỹ đi bán vé số – Một thời gian sau thì biến mất tăm…
Lâu nữa – tôi chữa bệnh cho 2 vợ chồng người em cô H (người đã kể vào đoạn trước) Tôi nói: “Cô H gặp khổ nạn là do có lỗi với thầy Tổ, nói cô H biện hoa trái mà xin lỗi thầy Tổ thì mới được bình an!” Em cô H bảo với tôi: “Chị H bây giờ bỏ chồng con đi mất, nghe đâu có điện về bảo đang ở lột tôm mướn ngoài Hàm Thuận. Chị bảo gia đình đừng đi tìm vì chị bị thầy Tổ phạt, khi nào hết bị phạt chị sẽ trở về!”
Nay đã 4 năm, cô H chưa một lần về lại thăm chồng con! Thế là tan nát một gia đình… Lòng tôi đau xót quá, chỉ biết cầu nguyện ơn Trên: “Lỗi tại con mà cô H ra nông nỗi. Nếu con đừng oán thán thì cô H chẳng bị phạt nặng nề đến vậy! Xin Mẹ giải nghiệp cho cô H được trở về với gia đình”…
* Nhiều lần như vậy, nếu có ai đó làm điều ác với tôi để cho tôi uất ức, than van là ngay lập tức họ bị báo ứng, rất nặng nề… Mãi rồi tôi sợ đến nỗi lòng dặn lòng: “Quên đi, không nghĩ tới nữa. Kẻo không họ bị phạt trả quả thì mình phải tội!”
Các bạn hãy thông cảm cho tôi, tôi kể cho bạn nghe những chuyện nầy không phải để chứng tỏ rằng mình tài giỏi hoặc là được Bề Trên thương chiều! Chủ ý là muốn cho bạn đọc thấy con đường đi của Nghiệp Quả – mà với bàn tay mầu nhiệm của các Đấng, được dời đổi, dịch chuyển ngay tức thời và rất đáng sợ khi “gieo một, gặt lại đến mười”. Giống như trước đây tôi có nghe đĩa CD của Thượng Toạ Thích Chơn Quang, người giảng có 1 đoạn đại khái như thế nầy: “Một tên trộm vào 1 nhà nọ để ăn trộm, bị chống trả bèn đâm chết ông chủ, chạy trốn mất! Chẳng may gia đình ấy chỉ có 1 tay lao động chánh là người đàn ông đó, nuôi vợ bị bệnh tim và 3 đứa con nhỏ…
Chồng chết – người vợ lên cơn đau tim, rồi cũng chết theo – Mấy anh chị em đứa đi bán vé số, đứa làm gái, đứa bỏ nhà đi mất… Thế là hỏng cả một thế hệ. Tên trộm lấy được số tiền nho nhỏ nhưng hậu quả lại lớn vô cùng!”
* Ngày xưa tôi có đứa em gái thứ tư, mất lúc 6 tuổi (năm 1973). Từ lúc biết ăn dặm đến ngày mất, chỉ có nước tương với đậu hũ, không cách nào bắt em ăn đồ mặn được! Chúng tôi gọi là: “Con nhỏ tàu hũ nước tương”.
Em mất do bệnh ban cua (bây giờ gọi là sốt xuất huyết). Uống thuốc vào nói sảng, hát hờ hát hỏng rồi ngủ luôn, không bao giờ trở dậy nữa!
Thương em, sau nầy sinh ra con gái, biết bé cũng là phần linh căn như dì Tư – tôi lấy tên Chi của dì đặt cho cháu… Gia đình Má và các em tôi phản đối rất nhiều vì sợ “có huông”, nhưng không ai cản được tôi!
Ngày trước, dạo còn thích chơi Bàn Cơ, những khi bị vong Ngạ quỷ về phá thì rất sợ – Họ nói bậy bạ, thậm chí chửi thề – nói tục mà chẳng dám lấy bàn tay ra khỏi Bàn Cơ. “Con trỏ” lúc đó làm bằng đồng tiền xu, khi có phần âm nhập vào thì ngón tay như bị hít chặt vào đó – và đồng tiền lạnh như nước đá, tạo cho ta cảm giác sợ hãi!
Những lúc như vậy, chúng tôi chỉ cần kêu “Thánh Cô Chi – em về cứu chị mau!” – Là em về, vong sợ chạy mất tiêu!
Năm 1997 – nhà nước xoá chòm mộ có mả em, gia đình bàn nhau hốt cốt đưa vào Chùa thờ! Tôi không chịu, nhất định đưa em về nhà: “Má không thờ thì con đem về nhà con thờ” – Tôi xin PB, người về cho ngày giờ bốc mộ… Mẹ còn dặn: “Ở nhà con nấu 1 mâm cơm chay rước vong. Khi tới nhà, chính con phải bước ra khỏi cửa rước linh cốt, không ai được tự động mang vào!”
Tôi làm y như vậy – Đêm đó vừa tắt đèn chuẩn bị ngủ, tôi thấy em về đứng đầu giường nói với tôi: “Ơn chị thờ nhục thể của em ba năm em trả đủ – Em sẽ xoay chuyển cho chị có nhà cửa đàng hoàng!”
Về sau, Ba Tí Ti về xui Má tôi bắt tôi phải đem cốt vào chùa: “Thờ ở nhà vong quậy tan nát hết!” Má tôi nghe lời, lại bảo tôi đưa đi – Tôi vẫn nhất định không chịu!... Tối ấy, em về nói với tôi: “Em chẳng qua chỉ vì chút duyên mà xuống trần với Má và chị em; chứ thực ra chẳng có bà con gì, Má xử thế nào em chẳng màng!”… Em giận rồi đây! – Tôi năn nỉ nói chuyện tình lý một hồi em mới nguôi lòng ra đi…
Đúng như lời em nói: Tôi đổi cho Má 120 mét vuông đất dưới chợ lấy miếng đất trên nầy: Ap Đông xã Thới Tam Thôn – Xây nhà mới và dời về ở! Mọi sự tưởng chừng bình ổn, không ngờ phát sinh rắc rối đủ điều – chuyện nầy tôi xin kể bạn nghe vào chương sau!
Khi xem sách phong thuỷ, tôi có hơi lo lắng; cuộc đất mới của tôi nằm trong cung “tuyệt mệnh” – Xin PB về cho ý kiến PB nói: “Đó chính là chỗ mà ta chọn cho con dừng chân. Ta muốn nơi đó trở thành một Phật Thất Đường!” – Tôi thưa: “Con không muốn - Bé Chi mới có 5 tuổi; 2 đứa lớn 14, 16 tuổi, nhà lại nghèo, nếu cho các con ăn chay – chúng nó không lớn nổi. Bản thân con cũng chỉ muốn hành Thiện chứ không chuyên trì Tu niệm!” PB không nói gì, cho mời một vị thầy Phong thuỷ về dạy tôi cách xoay chuyển nhà cửa…
Vị thầy ấy nói: “Hướng sinh khí của tuổi cô là Đông Nam, nên để một mét bên hông nhà để đón khí thanh, trồng 1 cây to có bóng mát để cản sát khí và tìm mua dây Tóc tiên (một loài có lá nhuyễn, có hoa nhỏ màu hồng) cho mọc che hàng rào phía trước để thanh lọc khí!” – Trong nhà từ cửa cái đến buồng, bếp… các loại cũng đều do thầy vẽ… Từ ngày ấy trở đi, tôi ứng biết về phong thuỷ: Chỉ nhìn 1 cuộc đất hoặc 1 căn nhà nào đó, tôi đoán vận mệnh của những người trong ấy không sai! Có lẽ Mẹ đã cho chuyển cái thần của phép phong thuỷ vào trong tôi, để tôi có thêm phương tiện mà trợ thế…
* Ngày đầu tiên tôi xin phép thượng trang, sực thấy một vị Thần giáp trụ vàng rực bước vào nhà noi 1 câu: “Lộc phẩm chi nghi - Thần Tài giáng hạ!” – Tôi đem ghế mời ngồi, Ngài nói: “Căn nhà nầy chỉ sau vài năm nữa là phát, cây Lộc phẩm đến lúc tro hoa rồi đó.” Nói xong – người cung tay chào 1 cái rồi biến mất!
* Cô Huệ (người mà tôi đã nhắc tới ở đoạn trước) tới nhà chơi, bày tôi phải cúng chiêu đãi phần âm và trả tiền âm mua đất cho âm vong chủ đất các đời, nếu không họ phá không cho mình ở!
Tôi nghe lời bạn khuyên cũng bày ra cúng, nhờ cô H biết lễ xin dùm! Lúc đó cô H đang đứng cầm hương khấn cúng, tôi thấy có rất nhiều âm hồn tới nhận lộc, trong đó có vong chiến sĩ…
Cô H tự nhiên đứng sượng trân đỏ mặt tía tai xong rồi vất hương chạy mất - Tôi hỏi thì cô nói: “Mấy vong chiến sĩ nhào vô sờ mó em, em sợ quá mới bỏ chạy!”… Bà Thầy pháp còn phải sợ vong hồn chiến sĩ – và tôi, tôi cũng sợ!
Mẹ Quán Am về dạy tôi: “Đừng có đối đầu thách thức với họ, họ mà đánh lén thì mình khổ lắm đó! Họ là tàn binh của chế độ cũ, thua cuộc bị truy đuổi cùng trời cuối đất nên họ phẫn hận, sẵn sàng làm điều ác, lại trang bị đầy đủ vũ khí trong tay, họ mà tiến công thì người trần nạn tai dồn dập và thê thảm lắm!”
* Cô Kh (Người tôi đã kể vào đoạn trước) có một người hàng xóm. Cô Ph có 1 Điện thờ ở Thủ Đức, nghe kể là thiêng lắm! Ngày vía tới 1, 2 trăm người, cô phải đứng từ sáng tới 2, 3 giờ chiều - mỗi tháng cô làm ra 400 triệu đồng, đem giúp người nghèo khó và trợ cho những chùa ở vùng sâu vùng xa ít Phật tử hỗ trợ…
Kh rủ cô Ph lên nhà tôi, cô Ph không đi! Một buổi trưa Ph đang nằm ngủ, nghe Mẹ Diêu Trì về gọi: “Dậy mau! Thay đồ đi lên nhà cô Lan mà lạy Mẹ!”
Hai cô lên nhà tôi. Nhìn vào mắt, tôi biết phần căn đã về – Hỏi: “Linh căn là ai vậy!” – “Dạ con là cát bụi, con đâu có là gì đâu… Để con múa chầu Mẹ cho cô L coi nghe!” – Thế là cô Ph múa hát – điệu múa oai phong, hát cũng rất hay, y hệt như 1 cô Đào Võ vậy!
Hát một hồi, tôi hiểu: khi là tích Bùi Thị Xuân, lúc Trưng Trắc, lúc lại là Triệu Thị Trinh. Giọng hát Bội pha Hồ Quảng – Gần 1 tiếng đồng hồ tôi và cô Kh xem mà mê! Tôi xin Điển Mẹ về hỏi thì ra cô Ph là xác Thánh Minh Nữ Cô, người giữ và phân phối Lộc thực của Mẹ Diêu Trì - hèn nào mà cô giàu có vậy! Cô lấy ra xấp vé số 100 tờ, rút ngay 10 tờ cho tôi và Kh…
Tôi hỏi cô Ph có thấy Mẹ về hay không, Ph nói: “Có chứ, không có con đâu hát chầu Mẹ!” Rồi cô nói: “Cô Lan có thấy Rồng chầu ở nhà cô Lan không? Đầu Rồng nằm ngay dưới Bệ Thờ Mẹ, cái đuôi nằm tít ngoài cửa rào kia kìa! Mẹ đâu có cho cô L bán đất nầy mà đi – Mẹ đã chọn nơi nầy để cho cô trụ lại rồi, cô có muốn bán cũng không được…”
Cô Ph ra về, tôi cũng ngồi thần ra đó, lòng buồn rười rượi… Kẻ giàu sao giàu quá, người nghèo lại nghèo đến vô cùng… Mẹ có biết những đứa con mà Mẹ chọn lựa để trao cho quyền bính và tài lộc, họ đã sử dụng để làm gì không? Bao nhiêu người nghèo khó được ân cứu, và ai kẻ vinh thân phì gia, vàng đeo ngọc dát – đi xe 4 bánh và nói chuyện trên trời??
Mẹ đã từng bảo với tôi: phần Linh Căn cho xuống trần Hành Đạo và cứu nhân độ thế bị mê đắm bởi lục trần dẫn đến đi sai đường, hành sai nẻo! Có muốn truất lộc phẩm cũng phải chờ cho có người thay thế – Kẻo không bao nhiêu Tín đạo lấy ai dìu dắt, ta giác ngộ họ rồi buông cho trở lại đường Tà đành sao!
Tôi là con của Mẹ Quán Am – Hạnh Quán Am là hạnh khổ nhục, xem tích Quan Am Thị Kính thì biết – Mẹ xưa oan khuất trùng trùng, làm con của Mẹ phải chịu nghiệp oan như Mẹ! Cố lên cho tròn quả vị, kẻo thiếu Hạnh Bồ Đề…
33. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (5)
Nhà vừa xây xong 3 tháng rưỡi đã xuống móng, người ta xây nhà kế bên, nền bên ấy vừa xong – nền nhà của tôi sụp xuống cứ như “lâu đài trên cát”! phải lo tiền mua gạch mới, lát nền, đầm nền lại… Một thiên gạch ống vừa giao lúc chiều đếm lại còn có 750 - sau nầy tôi mới biết tên thầu thi công đã bắt tay cùng chủ VLXD để ăn chặn vật tư!
Nhận nhà đúng 01 tuần thì máy nước cháy, phải thay máy khác! Có ai nghe mà tin cho được: chỉ 1 đường ống nước đơn giản của 1 căn nhà cấp 4, làm đi làm lại những 5 lần, bồn cầu sập 3 lần – Bồn sứ tráng men cao cấp bị hư cần gạt, mỗi lần dội nước cũng mỏi cả tay…
Mãi đến giờ phút nầy tôi mới tin có thuật Phong thủy và Tử vi! Số tử vi của tôi: năm 2000 không nên dời đổi, xoay chuyển nhà cửa – “lợi bất cập hại!” Hướng Tây Nam so với với tuổi của tôi là hướng tuyệt mệnh, trăm điều bất lợi… Cho dù có trồng cây cao bóng cả để chặn khí xấu hay rào dây leo xanh, có để hướng Đông Nam để đón sinh khí cũng chẳng ăn nhằm gì! Ở đây gió đồng lồng lộng thổi mỗi chiều – mùa bão giông cả mái nhà run bần bật mỗi lần gió lốc đi qua…
Người xưa có câu “tận nhân lực mới tri thiên mệnh” – Tận nhân lực rồi, tôi mới biết mệnh trời chưa qua được… Căn nhà như có ác thần, đóng cửa đi ra ngoài thì nhẹ nhàng, chỉ cần mở khóa vô nhà y như bệnh đau chực chờ kéo tới! Mỗi ngày tự kiểm chứng lại, tôi bị chừng 5, 6 chứng bệnh cùng 1 lúc là chuyện thường – Mãi rồi tôi cứ thấy rùng mình khi phải trở về căn nhà của mình, nơi tự lúc vừa hoàn thành, tôi đã ngỡ là mái ấm bình yên…
* Ở được 1 năm, tôi bị 1 người thanh niên say rượu kiếm chuyện đập phá lung tung trong nhà, Mẹ con chạy tứ tán mỗi người nấp vào 1 xó… Chuyện nầy tôi cần kể tường tận cho các bạn nghe – Bởi vì trong đó có bàn tay huyền nhiệm của Ơn trên xoay chuyển!
Nhỏ em Út của tôi lên chơi, lúc về xe máy đạp hoài không nổ. Cậu Th nhà bên đang lúc say liêu xiêu bước tới, chẳng nói gì đưa tay nắm cái xe định giúp, nhỏ em sợ quá vứt xe vừa la vừa chạy – chỉ có vậy mà Th chạy vào nhà đập phá tan hoang! Lạ một điều như có ai che chở: cửa kiếng như vậy mà sức thanh niên cường tráng như Th đạp hoài không vỡ, trong nhà những thứ giá trị còn nguyên – chỉ vỡ mấy cánh cửa lá sách nho nhỏ, 2 cây đèn Néon, bình hoa và lư hương… Nước dơ và đất cát đầy nhà!
Cậu Th nổi tiếng cả xóm nầy như một “trùm khủng bố” _Ghiền rượu, mỗi lần say xỉn thì vô phúc cho ai chọc giận: Th đập phá tan hoang nhà cửa, qua ngày hôm sau lại mượn rượu về quậy tiếp… Không ai dám ứng cứu nhà bị nạn, mọi người rón rén đóng kín cửa trốn - im thin thít!
Công an có bắt lên xã, chỉ 1 giờ đồng hồ sau đã thả về. Vài căn nhà ở gần Th – gia chủ sợ quá bán nhà đi chỗ khác, chỉ còn lại tôi không có chỗ đi về…
Hôm đó – sau khi CA bắt 1 giờ, cậu Th được thả ra, có người đưa về bằng xe máy đàng hoàng! Hai đứa em trai và 2 con tôi đang đứng nghe ngóng, cậu Th đi qua cầm con dao phay thật to dứ dứ: “Tao đi uống rượu lát về tao làm thịt bây hết cho coi!”
Tôi sợ quá vào thắp hương trên bàn thờ khấn xin Mẹ về cứu – Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì cũng oan uổng nếu đổi mạng với thằng say…
Th về, đi xăm xăm vào nhà tôi! Đột nhiên quỳ xuống lạy bàn thờ, chắp tay xá tôi xin lỗi: “Con bị bệnh tâm thần ma, cô Lan tha lỗi cho con, cô chữa bệnh dùm con đi!” Th quỳ lết giữa nền nhà đầy đất cát và manh kiếng vừa khóc vừa xin - hàng xóm bu lại, nín thở ngồi sau hàng rào nhà bên theo dõi, ai cũng ngạc nhiên vì sự thể lạ lùng…
Sáng hôm sau, cha cậu Th về, chẳng hề bước qua han hỏi một tiếng! Tôi tức quá xế chiều qua nhà gặp cha Mẹ Th. Cậu làm ly nước chanh bưng lên mời tôi, vốn trước đây anh chị của Th là học trò của tôi nên gia đình cũng quý! Nói chuyện một hồi, rốt cuộc tôi lại chữa bệnh cho cha cậu Th và … huề!!
Qua ngày sau nữa, tôi gọi Th sang hỏi: “Hôm qua nhìn Th – cô thấy có 1 âm vong ngạ quỷ nhập vào khuấy phá! Một đứa con trai tuổi độ 16, 17 da ngăm đen – mũi cao, tai dão mặc áo thun 3 lỗ màu đen, người nầy con có biết hay không?” Th đáp ngay: “Là anh con - thằng Mỹ đó!” Phần vong lúc ấy đang đứng tựa cửa nhìn sang, tôi mời qua nhà, hỏi lý do tại sao lại khuấy phá mọi ngươi như vậy. Vong nói: “Mồ mả ông bà bị động, phân bò phân heo các loại bẩn thỉu quá chịu không được nên con mới nổi điên con quậy”… Hỏi lại, Th nhận là bán đất cho người ta làm trại chăn nuôi, phân bò heo chảy đầy mồ mả ông bà!
Tội nghiệp âm vong, tôi mua bánh trái cho ăn, mỗi đêm lại thắp hương cầu xin Mẹ cho âm vong và cậu Th đổi tính, thuần lương trở lại!
Sau, có lần Th đang lên cơn đập phá nhà cửa tan hoang, tôi cầu xin Mẹ về: “Mẹ ơi về cứu đi, của cải làm ra khó mà Th nó đập tan hết rồi còn gì – Mẹ về trói tay lại không cho nó quậy nữa, Mẹ ơi!” Gần như ngay lập tức cậu Th không đập phá nữa, quay lại thắp hương quỳ lạy bàn thờ PB xin lỗi và khóc…
Từ đó trở đi, Th đổi tính hẳn – Trong một thời gian rất dài không thấy tiếng tăm, giống như bốc hơi đi vậy – Làng xóm yên ổn, bình lặng hẳn!
Th nghe lời tôi, làm cửa rào và đập bỏ thanh trụ chống ngay chính giữa hàng ba nhà mình, đưa vong người anh vô chùa…
* Hai năm sau ngày quậy phá ở nhà tôi, một buổi trưa nọ cậu Th đột ngột mở cửa bước vào nhà tôi, cũng với dáng vẻ đang say rượu! Tôi thất sắc: Nó lại muốn quậy gì nữa đây? – Nào ngờ Th nói: “Lúc nãy con đi qua nhà cô thấy Mẹ Quan Am đứng ngoài cửa nhìn con ra dáng buồn trách lắm! Con nhớ lại chuyện hai năm trước con xúc phạm cô Lan nên con qua xin lỗi cô lần nữa!” Tôi nói cho có chuyện: “À! Mẹ Quan Am đứng trong Miếu đây phải không?” –“Không phải, con thấy Mẹ đứng ngoài cửa rào kia kìa, y như người bằng xương bằng thịt vậy đó!” – Đúng là chuyện lạ…
* Đối diện nhà tôi là chuồng nuôi bò sữa của nhà ông D. Đủ thứ chất ô uế từ bên ấy văng cả sang nhà tôi, mùi hôi lan theo gió đến ngộp thở. Tôi than thầm: “Đúng là chạy ô mồ mắc ô mả!”… Mẹ Quán Am về nói: “Cố chịu đựng chút xíu, chừng nửa năm là họ dẹp chuồng bò” Tôi hốt hoảng xin: “Mẹ ơi, đó là chuyện làm ăn của người ta, Mẹ cho phép triệt người ta phá sản tội nghiệp lắm!” PB nói: “Đâu có, họ làm ăn khấm khá dời chuồng bò đi chỗ khác chứ có gì đâu!” – Quả nhiên chỉ nửa năm sau, bà Mẹ vợ của ông D ở quê lên, tôi chữa cho bà hết bệnh đau thần kinh toạ – Bà Mẹ về nói với con: “Cô Lan chữa bệnh từ thiện không ăn tiền, lại thờ Mẹ Quan Am tụng kinh niệm Phật, để chuồng bò ngay cửa nhà cô mang tội!” Thế là ông D xây tường cao bít kín chuồng bò, tôi thoát được 1 nạn!...
* Bên hông nhà tôi là nhà anh Chín. Cả nhà 15 nhân khẩu, anh Ch làm nghề đi nhặt phế liệu – ngày nào cũng đốt mùng mền, dây điện… Các thứ! Khói lên đen nghịt cả xóm, khí đốt hít phải là bị bế phổi không thở được! Đã thế lại “đi đồng” tự do dọc theo hàng rào nhà tôi, hố xí trong nhà dẫn chảy ra ngoài dùng nước phân tưới rau quả… Ban đêm – vừa nhắm mắt đã giật mình vì tiếng nước chảy ào ào, 15 nhân mạng – chỉ cần mỗi người “xả” 1 lượt tôi đã thức trắng đêm!
Mùi hôi thối đến ngộp thở, lợm giọng! Cả đêm đóng kín cửa lại mà chịu… Tôi thường xuyên bị bế phổi khó thở – chất 2, 3 chiếc gối dựa đầu cao để ngồi chịu trận cho hết đêm…
Sau, chịu không nổi nữa tôi dời Miếu cùng 2 tượng Mẹ đi để đăng bảng bán nhà! Bán mãi vẫn chẳng ai mua…
* Tháng 7/2007 – ba bé Chi bệnh, đi nằm BV 175 và giải phẫu dạ dày! Vợ ông ấy điện về cho tôi: “Anh Hai sau khi giải phẫu tỉnh dậy giật tung hết các dây dẫn truyền, la thét om sòm rồi giờ đang hôn mê, cái bụng chướng to lên – chắc là sắp chết rồi. Chị xuống mau lên em sợ quá!” – Mười giờ đêm Mẹ con tôi tới BV, tôi xin Ơn Trên về cứu mạng ông H!
Sau khi tôi chữa bệnh cho ba bé Chi, tình trạng của ông bình ổn trở lại…
Sáng ngày hôm sau, tôi phát đau chiếc răng cuối hàm dưới, nơi chỉ có 1 lỗ châm kim nhỏ xíu và xưa nay chưa hề đau nhức lần nào… Đau cho đến nỗi như có ai đó cầm sợi thần kinh rút kéo từng hồi, mỗi lần siết lên đến như mưng cả óc!
Tôi đã từng có 3 đứa con, người xưa bảo: “Không có cái đau nào cho bằng đau đẻ!” – Tôi sanh 3 lần không ai nghe một tiếng rên – ấy vậy mà chỉ đau 1 chiếc răng tôi đã bò lê trên giường, rên siết cứ như sắp chết đến nơi rồi vậy!
Ti – con trai tôi về (lúc đó tôi đã hết đau) nghe kể lại, cháu nói một câu “lịch sự” như sau: “Tại Mẹ sức khoẻ yếu nên đau 1 tưởng ra 10, chứ đau đến vậy thì chết – sống sao nổi!” – Hôm sau cơn đau lại phát y như cũ – bé Chi gọi anh về, thằng nhỏ chỉ nói gọn một câu: “Thực là kinh khủng!”
Thế roi, ngay lập tức Ti chở bà Ngoại đi tìm nhà thuê cho tôi ở – Sáng hôm sau “áp tải” tôi bỏ nhà ra đi, chịu bỏ tiền thuê nhà hàng tháng để “trốn nghiệp” không cho tôi chữa bệnh cho người – để khỏi bị đau thế hoài như vậy…
Thế là tôi bước sang một giai đoạn khác! Ba bé Chi thì được ra viện chỉ sau 8 ngày, với vết mổ dài 1 tấc và 2, 3 lỗ nhỏ bên hông – BS khen bệnh nhân nầy sức khoẻ đề kháng cao, da thịt lành tính, bệnh án “lủng bao tử” phải nằm viện nửa tháng - Ông ấy chắc là người đầu tiên ra viện sau 8 ngày… Ông H có biết đâu để đánh đổi lấy sự “lành tính” cho ông, tôi đã đau nhức như đã kể ở trên những 12 ngày chẵn, chỉ để giữ cho con còn có người gọi một tiếng: “Cha” hờ!
* Gắn chiếc bảng “Cho thuê nhà” ngoài ngõ, tôi không ngờ mình đã “vẽ đường hươu chạy” – Bệnh nhân lại lần theo số điện thoại tìm tới nhà mới: “Chị có xuống địa ngục em cũng đi theo!” – Ti về gặp tôi chữa bệnh, chỉ biết lắc đầu ngán ngẫm, nói với Ngoại: “Mẹ con hết thuốc chữa rồi!”…
Về nhà thuê, tôi lại lâm vào “khổ nạn” mới: nạn nhà “ổ chuột”! chuột cống chạy ngang dọc, có lúc đứng lại nhìn ta như đang đánh giá “thực lực đối phương”, hai con mắt tròn xoe nửa như rình rập, nửa như doạ nạt…
Mẹ con tôi sợ chuột có tiếng, lúc đó chỉ biết leo lên giường nín thở… rình lại chuột!
Mái nhà thấp lè tè, nóng đến muốn chảy mỡ, mưa lại thành “sân trượt patin” – Nhà sát hè đường, nửa đêm tiếng xe máy còn gầm rú đinh tai nhức óc – Con đường rộng thênh thang làm tiêu điểm cho phe “yên hùng xa lộ”, thấy mà thương!
* Vừa cúng cơm Thượng trang thờ Mẹ (lúc nầy tôi chỉ còn giữ 2 tượng Mẹ Quán Am và Mẹ Diêu Trì, mỗi tượng cao chừng 3 tấc!) Có thêm 1 tượng Chuẩn Đề bằng gỗ – Tượng khắc nhữnh cánh tay bằng gỗ và khuôn mặt thực sống động và oai nghiêm… Trời đổ cơn mưa lớn, dột nát bàn thờ – Vài hôm sau, tôi đang nằm nghỉ trưa chợt nghe “rầm” một tiếng, toàn bộ trên bàn thờ Phật đổ xuống đất, tượng Phật rơi ngổn ngang…
Tôi đứng ngẩn ra, suy nghĩ: “Lạ lùng thực, nếu có con chuột chay cùng lắm thì rơi 1 tượng đàng nầy đổ cả 3 tượng với cả tấm hình Phật Bà thật lớn để ở trong cùng, lý do làm sao vậy?”
Điều lạ lùng thứ hai: Hai tượng Phật bằng gốm sứ và tượng Chuẩn Đề chỉ gãy 2 cánh tay, tôi mua keo dán gắn vào lại vẹn nguyên như cũ - mặc dù rơi cách mặt nền gạch hoa hơn 1 mét chiều cao…
Nhà thuê không có cống ngầm, cứ xả ra bao nhiêu nước thì bơi đủ bấy nhiêu, mùi tanh hôi khó chịu liên tục xông vào nhà. Chịu hết xiết, tôi lại đi tìm thuê nhà khác – Với chiếc xe đạp Martin, tôi lang thang 3 ngày khắp hang cùng ngõ hẹp, từ phường Hiệp Thành, Tân Thới Hiệp rồi Tân Chánh Hiệp… Chẳng tìm được căn nhà nào vừa ý, giá nhà thì đắt như vàng! Ở đâu cũng đầy người, đầy bụi khói… sự loạn động ở những địa phương gần khu công nghiệp đến bây giờ tôi mới tận mắt chứng kiến – dường như ở đâu đó cũng đầy rẫy sự bất an. Tôi thì cứ như con gián ngày nấp ở xó nhà, không dám mon men ra đường, chỉ e trời sập trên đầu!
Bệnh tật và sự căng thẳng thường xuyên của công việc làm cho tôi – Ngoài những lúc “lên gân” - trở nên như một quả bóng bị xì hơi, lơ ngơ lẩn ngẩn suốt ngày… Tình trạng đãng trí hoặc thiếu ý thức mỗi lúc càng thường xuyên hơn – Đến nỗi có ngày tôi làm cháy khét 2 chiếc nồi cùng 1 lúc!
Con trai tôi về thấy thế bảo: “Mai mốt bán được đất có tiền rồi Mẹ thuê người phụ việc đi, chứ không chắc có ngày Mẹ làm cháy nhà mất”.
Có khi tôi hỏi câu gì đó, Ti nói: “Mẹ hỏi con câu đó đúng 3 lần rồi!” – “Hình như con chưa trả lời Mẹ mà!” – “Con trả lời đủ 3 lần!”…
* Đến một ngày, tôi tìm được 1 căn nhà ưng ý – giá lại rẻ! Mừng quá, tôi gọi điện cho chủ hẹn gặp để ký hợp đồng, tưởng chừng mình sắp thoát nạn trời đày…
Tôi được gặp 1 ông sĩ quan cấp Tá – bác sĩ quân y: cao ráo, đẹp trai, trí thức! Sau một tiếng đồng hồ tiếp chuyện, ông ta bảo cho tôi ở không tốn tiền, chỉ cần thỉnh thoảng đi “uống cà phê” với ông cho vui thôi!
Tôi quyết định ngay lập tức: “Tôi không thuê nhà nữa – Mời ông về cho!” Hắn đứng lên chào về, đột ngột ôm hôn vào má! Tôi tát cho 1 cái, hắn chìa má bên kia: “Tát thêm cái nữa cho đồng” - trơ tráo đến thế là cùng…
Tên chủ nhà vừa ra về, tôi vô buồng nằm khóc đến lã người: “Mẹ ơi! Sao Mẹ lại đẩy con đến tận cùng sự tủi nhục đến thế nầy?...”
Ba giờ sáng đêm hôm đó, Mẹ Nam Hải Liên Hoa về đứng đầu giường, ngâm tặng tôi bài thơ “Hoàn Ngôi” – Người chẳng phân giải điều gì, chỉ chờ tôi chép lại xong cả bài thơ là biến mất… Mười ngày sau, tôi bán được đất, trở về đất cũ ở Ap Đông xây lại nhà ở, bấy giờ tôi mới tin rằng “sỏi đá được hoàn ngôi!”. Xin chép tặng các bạn, để kết chương “Nghiệp thế trả vay”, tôi bắt đầu vào 1 đoạn đời mới!
HOÀN NGÔI
Muốn cho người khóc được cười
Muốn cho sầu tịnh, cho vơi nỗi lòng
Muốn nắng sớm, ghét mưa dông
Người đi tứ hải thong dong cõi Người
Muốn tan hoạ, Phước thêm bồi
Hoa cười bướm hát bao lời thanh tao
Trả công cho kẻ cần lao
Ban Lộc cho kẻ lao đao phận người
Đem vinh đổi nhục cho rồi
Đem duyên thù thắng đổi dời truân chuyên
Lấy hoan hỉ đổi ưu phiền
Lấy câu chúc tụng ban riêng cho người
Xua tan bóng tối một đời
Cho vầng dương rọi một trời phong quang
Đem áo ấm đổi cơ hàn
Đem vòng Nguyệt quế đăng đàn tặng ai
Đền bồi cho kẻ trúc mai
Cho người nguyện gánh hai vai nhân tình
Canh khuya thao thức một mình
Đem huyền cơ tỏ quang minh một lần
Công cao, bổng lộc trả dần
Đem áo gấm đổi cơ bần một phen
Tràng phang, bảo cái tặng đền
Pháp Luân thường chuyển, vinh danh giữa đời
Tam đồ lục đạo chuyển dời
Đoá sen trắng lại về nơi Liên Đài
Tàn đêm – rạo rực chân ngày
Dung nghi tỏ lộ, an bày hậu thân
Ngựa xe qua cõi Phù Vân
Trả người nửa kiếp bụi trần vương mang
Đây Phật Ấn – nọ Bảo Đàn!
Trả về cho khách hồng nhan – để rồi…
Đem Pháp thí chuyển mê đời
Lần trong mạt lộ dắt người thiểu căn
Mai ngày nắng ấm, mưa xuân
Dòng dòng Cam Lộ tưới nhuần duyên sau
Tàn đêm, giúp trẻ giải sầu
Nhẩn nha Mẹ hát vài câu ấm lòng
Hết nắng lửa, hết mưa giông
Tròn câu tâm nguyện, minh thông cận kề
Tây phương – lối cũ con về
Phật Đàn lại ngự, xác mê trả trần!...
12/10/2007
(Nam Hải Liên Hoa Phật ứng tặng!)
34. THỰC HÀNH CỤ THỂ (8)
* Cháu Vũ (con trai bác sĩ Cự) bị xe tông trầy xước nhiều chỗ, bị tét phần cơ bắp chân bên trái, sợ cha Mẹ lo lắng, Vũ báo với gia đình là đi công tác xa nhà, rồi điện về cho tôi nhờ chữa gián tiếp… Tôi chữa cho Vũ 3 ngày sau thì cháu khoẻ, về nhà! Kiểm tra lại vết thương (cũng là gián tiếp qua điện thoại) tôi thấy bên trong vết khâu may còn dị vật, chất dơ… do quá trình cấp cứu chưa cẩn thận. Tôi bảo Bố cháu mở ra sát trùng và khâu lại. Anh kiểm tra thì đúng như lời tôi nói! Anh Cự là trung tá bác sĩ quân đội, anh có 2 bằng bác sĩ: cả Đông và Tây y – Trước làm trưởng khoa ngoại BV 175, nay về hưu chữa bệnh tại nhà…
Anh có tay nghề cao, “mát tay phục dược” - cả hai anh chị đều phúc hậu, giúp người bằng tất cả tấm lòng của người lương y, ai khó khăn anh chị chữa bệnh không lấy tiền!
Nhiều lần anh chị thử đưa bệnh nhân tới cho tôi chẩn, kết quả so với xét nghiệm, của bệnh viện giống y như nhau! Khi trong nhà có người bệnh chữa vài hôm chưa hết, anh chị lại gọi cho tôi, vừa uống thuốc vừa điều trị thêm bệnh hết nhanh hơn… Phần tôi, khi nào thiếu tự tin tôi lại nhờ anh thăm khám bằng phương tiện y học hiện đại cho những bệnh nhân có bệnh nặng!
* Tổng cộng là 30 người (từ bệnh nhân được chữa hết những bệnh lạ) –Đã tin và theo học Nhân điện! Hiện có 11 người chữa bệnh giỏi và phát triển về tâm linh cao… Nhận xét kỹ tôi phát hiện ra một điều: tất cả đều là phần Linh căn – và đến thời điểm nhất định, Ơn trên đã xoay chuyển để họ tìm đến đây, học tập và rèn luyện để rồi nhận một trọng trách – giống như tôi ngày xưa…
Tôi đa được huấn luyện để làm “Người-dẫn-đường” như vậy đó! Diễm phúc cho những người đi sau là được có “người dẫn đường” bằng xương bằng thịt, để trong quá trình tôi luyện có kẻ đỡ nâng, che chở, có người “chịu đau thế”, xin tội thay… có người “đón ý Bề trên”, kiểm tra lại kết quả thực hành! Có người dìu bạn đứng lên những khi quỵ ngã, người lau giọt lệ đắng cay chua xót đổ xuống mệnh trần… Tôi thà gánh tội vào mình, chớ không để cho ai ức hiếp họ: những người chị, đứa em, đứa cháu đã tự nguyện bước vào con đường hành Thiện nặng nề và đầy bất trắc nầy – Để rồi vừa trả nghiệp trần, vừa đa mang gánh nợ tha nhân…
* Cháu Hương ngày trước tự nhiên bị sưng cứng cùi tay bên phải, đau nhức mà không rõ nguyên nhân… tôi chữa hết sau 3 lần điều trị. Vài hôm sau lại bị đau nhức hai vai, nặng đến giở tay lên không nỗi! Trong những trường hợp như vậy, nếu loại ra các bệnh chứng thông thường như: viêm cơ cổ, đốt sống cổ hoặc viêm tuyến bã nhờn, viêm cơ bậc thang v.v… thể nào nguyên nhân chính cũng là do bị Cửu Huyền hành!
Tôi xin Điển về hỏi, quả nhiên do Tổ cô của Hương làm đau, cô muốn Hương theo học Nhân điện để làm thầy chữa - “Tương kế tựu kế” tôi bảo: “Nếu đúng như vậy, tôi không chữa cho H, Tổ cô làm cho hết đau tôi sẽ dạy H học chữa bệnh”. Chỉ 5 phút sau, H hết đau hẵn! Từ đó tôi mở luân xa, hỗ trợ cho H – Đến nay, cháu Hương đã học hết lớp 15 – chữa bệnh tốt và khả năng về tâm linh rất cao!
Đã kể, thì phải kể cho hết chuyện! Mỗi một người học chữa bệnh là một gánh nghiệp choàng thêm cho tôi – Tôi phải theo họ xuyên suốt trong một thời gian rất dài, ba hay bốn năm là chuyện thường… Mọi người tìm đến tôi như một người “chị Cả”, trút tất cả hoạn nạn buồn thương từ định mệnh tiền căn, hậu kiếp đến tai ương trần thế… Những vấp ngã, lỡ lầm, tội lỗi… tin cẩn như nói với lòng mình! Và tôi có trách nhiệm phải dìu chị em bước qua vực thẳm, tới nẻo đường quang…
Gần như một “quy ước bất thành văn”: bắt đầu bước vào đường Đạo là bắt đầu chịu “dồn nghiệp, trả nghiệp”. Hoạn nạn, tai ương kéo tới liên tục, chưa kịp tỉnh hồn đã chịu đòn kế tiếp, chẳng nhẹ nương…
Nghiệp Tổ của cháu H là thầy bùa, muốn H mở tâm linh để giữ nghiệp nhà! H không chịu theo nghiệp Tổ phụ – thế là bị hành liên tục… Gần hai năm chưa ngã ngũ, nội một việc nầy tôi chiến đấu cũng mệt – Bởi đối với Cửu Huyền của người khác, tôi không được phép động chạm - xúc phạm tới họ là bị đòn nặng ngay tức thì! Chỉ được dùng trí mà hành xử cho khéo léo, sao cho Cửu Huyền tự nguyện buông tay, không đánh đòn con cháu nữa thì thôi…
* Mở luân xa 100% vừa xong, phần Linh căn cháu H nhập về: đang quỳ lạy Phật trong Chánh điện chùa Long Thành, H cứ dập đầu xuống đất liên tục! Cô cháu chúng tôi vừa phải lo che chắn cho H, lại phải nói lý lẽ cho phần căn không hành xác nữa – Hỏi mãi chỉ khóc mà không khai danh tánh là gì…
Một thời gian sau, có một âm căn về tiếp xúc với tôi trong bộ áo Nữ Thần, tự xưng là người của Mẹ Diêu Trì cho về để nhận H làm đệ tử và truyền phép cho độ đời… Tôi hơi ngạc nhiên vì bộ áo người đàn ba đó đang mặc trên người màu đen, nhưng cũ kỹ mờ nhạt – Tà chánh bất phân!
Tôi ngầm nhắc khéo H: “Con tự quyết định, cô không có ý kiến gì! Và nhớ là cẩn thận, đừng vội vàng hấp tấp…” Vốn H là đứa hiếu chiến, hiếu thắng – Nghe được quyền phép giỏi lập tức đồng ý ngay! Chuyện nầy làm cho hai cô cháu tôi “dở sống dở chết” nhiều phen!
Khi mở luân xa 100%, học viên nhân điện bắt đầu cảm nhận được các luồng sóng giao thoa vô hình từ các cõi (cả trên lẫn cõi dưới). Có khi luân xa tự quay, có lúc Điển thầy hoặc các Đấng về: Mặt đỏ dần lên, phần từ ngực lên đầu nóng sực, có cảm giác chao đảo nhẹ như người say sóng – mất thăng bằng (nhẹ) hoặc đau nhức hay nặng trì ở đỉnh đầu…
Trong thời kỳ nầy, ta mới cảm nhận được sự có mặt của các năng lực Siêu hình – và mỗi người nhận được nhiều hay ít phụ thuộc vào tâm năng của bản thân! Cháu H mê lắm, cứ thích lui tới đền Chùa để cầu xin nhận Điển, mặc dù tôi đã khuyên răn nhiều lần: “Giai đoạn nầy là lúc “hổn quân hổn quan”, năng lực của ta còn yếu, tâm đạo chưa vững – Điển Thanh chưa kịp về khí trược đã đi trước rồi, lỡ bị tà nhập thì khổ lắm!”
H bằng lòng nhận Điển của người đàn bà tự xưng là Nữ Thần – Từ đó bị nhiếp giữ phần hồn, xác trần ngày càng giỏi: nhìn thấy nhiều chuyện lạ, xuất hồn về quê nhà tận ngoài Bắc, sau điện về hỏi lại mọi sự việc đúng như in! có thêm hai vị thần Tổ nghiệp hỗ trợ – Những hiểu biết nhanh chóng làm cho H trở nên kiêu ngạo và thiếu thận trọng trong mọi việc… Thấy tính H hiếu chiến hiếu thắng, tôi chưa dám trợ cho lên cấp cao hơn. (Lúc đó H mới học lớp 7 đặc biệt). Chỉ e H ngã đường tà – với năng lực cao thì tác hại sẽ khôn lường cho nhiều người!
Cháu H nói với các bạn: “Cô đố kỵ với tôi, cô thấy tôi giỏi không dám cho tôi lên lớp – sợ tôi giỏi hơn cô”. Thế rồi H khoe có bà Cô họ hứa dạy lớp 11, 12, 13 cho H… Đến gần tết năm 2007 nghe H bảo sẽ về Bắc và có thể không trở vào nữa, tôi định đưa H lên lớp, để về quê có thêm năng lực trợ cho đời. Nghe tôi nói, H thoái thác: “Để con về Bắc vô rồi học cô ạ!”…
Tôi buồn rất lâu về chuyện nầy! Qua 1 thời gian khá dài, tôi đã dùng hết tâm lực của mình để dìu dắt, thế mà vẫn chưa chuyển được Đạo tâm của H. Mỗi chị em đạt được kết quả khả quan trong rèn luyện, khi đem kể lại – tôi đều hoan hỉ, sung sướng như nhau – Thêm năng lực cho người chánh là thêm nhiều bàn tay dìu đỡ nhân sinh, là bớt đi khổ nạn…
Tất cả những gì tôi dày công nghiên cứu và thử nghiệm, tôi đem truyền cả cho các chị em để rút ngắn thời gian mày mò, tôi luyện! Không phải như 1 người thầy còn giữ lại “tuyệt chiêu” cho riêng mình, điều đó chưa đủ làm rung cảm tấm lòng của chị em hay sao?!
* Một thời gian dài, H không tới tôi, chắc vì thấy tôi không còn gì để cho H học! Hôm ấy chúng tôi cúng rằm tháng 7 – Thường mỗi ngày rằm, ngày vía chị em tôi tụ lại nấu 4 mâm cơm chay dâng cúng Phật 1 mâm, 1 mâm cúng chư Thần Thánh, 1 mâm âm vong và 1 đưa sang Miếu Mẹ (hiệu dời qua nhà cháu Minh).
Khi H qua tới – trời đang bắt đầu đổ mưa… Minh đùa giỡn không chịu mở cửa – Khi H vào được trong nhà, cô chỉ tay vào mặt M và nói: “Tao cho mày thức trắng 1 tuần lễ!” Tôi rầy: “Bạn bè giỡn chơi đừng có giận mà làm bậy không nên”. H gằn lại: “Con nói như vậy đó! Con cho nó thức trắng 1 tuần lễ”. Tôi bực mình, không thèm nói gì, quay sang lo chuẩn bị thức ăn…
H đang đứng nấu bếp, bỗng dưng ú ớ gì đó trong cổ họng rồi đưa tay khua khoắng loạn xạ một hồi... Tôi ngạc nhiên: “Con nhỏ nầy đang làm trò gì vậy không biết nữa!” – Một lúc sau thì H bình thường trở lại, la lên: “Tao đuổi 2 thằng Tổ cậu của thằng Minh ra ngoài đường dầm mưa”. Tôi nói: “Người ta là Tổ cậu cũng nể một chút chứ!” – H lại nhấn thêm 1 câu: “Con cho chúng nó dầm mưa luôn!”… Một hồi sực tỉnh, sợ tôi rầy la H cắp nón đi về mất, không trở qua nữa…
Hôm sau, H trách: “Lúc con đang đứng nấu bếp 2 Tổ cậu của anh Minh nhảy vào bóp cổ, con vời cô cứu, cô nhìn mà chẳng thèm nói tiếng nào!”. Thực ra, tôi có biết H nói gì đâu…
* Hơn 1 tháng sau, H tới nhà tôi – Cả người xanh nhợt, lạc thần, tay chân run lẩy bẩy… H bảo cả tháng rồi tự nhiên không ăn, không ngủ được, người đuối lã chỉ được chực xỉu đi! Tôi tìm hiểu căn duyên sự việc, thì ra H bị bà Sư phụ hành xác, vì tội gì tôi cũng không biết! Lúc đó tôi giận quá, bèn xin Điển trụ về cho người đàn bà ấy hiện nguyên hình… Tôi thấy 1 phụ nữ trẻ đẹp độ chừng 40 tuổi, đội trên đầu 1 chiếc nón kiểu dáng rất lạ màu nâu xám, bên trong có nhiều sọc ngang, giống như những chiếc nan quạt, bước đến gần nhìn kỹ, tôi chợt rụng rời: một con rắn hổ mang bành! – thì ra là một con rắn tu luyện thành tinh…
Tôi nói: “À, thì ra chính bà hôm trước nhập vào con H. hí lộng giữa nhà tôi! Lâu nay tôi không nói gì bà nghĩ rằng tôi sợ nên bà làm tới – Bây giờ tôi với bà đánh nhau 1 trận xem ai thắng ai thua nào!” – Nói xong, vía tôi thấy mình xông ra đánh nhau, y hệt như trong phim võ thuật, đòn mạnh như vũ bão đối phương trở tay không kịp, bị tôi tấn miết qua tới bên kia đường, đẩy té xuống hồ nước! Nhồi xuống hụp lên 3 lần, tôi nắm đầu kéo lên về bên nhà…
Đây là lần đầu tiên tôi thấy mình hung dữ đến như vậy – Vía đánh mà xác run ơi là run! Sợ nhỡ thua xỉu nằm một chỗ thì sao?
Thực ra – trong lúc thần vía của tôi làm điều gì, chỉ có tôi là biết! Mọi người chung quanh chỉ thấy tôi nhắm mắt lại tập trung suy nghĩ, nếu lúc đó có ai la lên một tiếng hay vỗ vai 1 cái – Chắc tôi đứng tim mà chết quá! Nhẹ thì cũng bị loạn thần, giống y như phim chưởng gọi là “Tẩu hỏa nhập ma”.
“Sư phụ Rắn” lúc đó ngồi lết dưới đất mà rên, còn tôi cũng mệt muốn hết hơi! Tôi nạt: “Bây giờ ta tha cho – trốn đi cho xa, đừng để ta thấy mặt”. Con rắn làm nư: “Con đau quá, con đi không nổi!”. Tôi ngồi thần ra: “Làm sao giờ, chẳng lẽ rồi cõng nó đi?” Điển ông ra mặt: “Để ta giúp cô, ta đưa nó đi khỏi đây!” Ông phẩy tay 1 cái – con rắn biến mất!!
Tất cả những chuyện hành xử như vầy, mọi người nhìn vào chẳng biết gì, chỉ nghe tôi nói lõm bõm vài câu, bằng vào kết quả là ngay lập tức mọi triệu chứng bệnh đau hết liền, hoặc tạm ổn… Có khi phần âm cao tay ấn, phép án vào mạnh – tôi phải giải vài lần mới hết hẳn!
* Chuyện kể về cô H vẫn còn dài, các bạn ạ! Để các bạn thấy chiến đấu với loại tà cao tay và chiến thắng họ không dễ, qua nhiều lần và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, tôi mới cứu H thoát khỏi bàn tay của kẻ ác!
Sáng hôm sau, sau ngày tôi đánh con rắn hổ mang bành, khi giải phép ta xong – H ăn ngủ trở lại bình thường - còn tôi tự nhiên bị đau cổ họng! Đau nhức đến nỗi tắt tiếng, ăn uống gì cũng đau nuốt không vô – Người hết sốt lại rét, đầu váng mắt hoa nằm mê mê trên giường…
Những lúc bị hành căn, tôi chữa cho mình chẳng tác dụng gì, và không thể nhờ ai cứu được – Thuốc men uống như uống nước lã vậy! Các chị em bệnh đã có tôi lo, phần tôi bệnh chỉ có nằm chịu chết!
Hương qua nhà thấy vậy, chỉ biết ngồi khóc: “Con xin lỗi cô, vì con mà cô khổ!”… Tôi đau như vậy đúng 7 ngày mới khỏi – Vừa bị vụ ba bé Chi 12 ngày, nay thêm 7 ngày nữa, tôi xuống cân đúng 3kg, người liêu xiêu nhẹ như bông…
Thấy chưa ổn, tôi nhờ anh Ch (huynh trưởng) lên hỗ trợ cho H! Anh Ch lên bắt và đưa “nữ thần rắn” về núi tu tập – Được có 10 ngày sau bà ta trở về, cho rắn hổ mang bao vây quanh nhà H. cô bé sợ quá chạy qua kêu tôi cứu… Anh Ch đưa sư Hướng tới giúp cho H – Chiều hôm đó khoảng 4 giờ, sư H để mõ lên đỉnh đầu H, xong cầm dùi gõ mõ tụng 1 thời kinh bằng tiếng Phạn.
Tôi nhìn mà tội nghiệp cho H – đầu lắc lư liên hồi theo nhịp Kinh… Vía tôi thấy ngoài đường lớn lúc đó đầy rắn hổ mang bành, chúng sắp hàng quay đầu về phía cửa nhà tôi, ngóc cao cổ ứng chiến… Tự dưng thấy có 1 giải lụa màu vàng lướt qua đầu bầy rắn, 3 lần như vậy thì cả bầy gục xuống cả, không còn ngẩng đầu lên được nữa!
Vòng đệm lót dưới cái mõ rơi xuống đất, sư Hướng để mõ trên đầu H gõ tiếp tục liên hồi cho đến khi H không còn lắc lư nữa… Sư H khuyên Sư phụ Hương đi theo Thầy về chùa tu – xong việc, tôi tặng sư Hướng tượng Phật Chuẩn Đề, pho tượng mà tôi quý nhất trong nhà! Đã hai lần Sư H nài nỉ xin mà tôi không chịu tặng, nay vì hy sinh cho Hương tôi đã tự nguyện cúng dường, chỉ cầu mong H hiểu cho lòng cô đã bằng mọi cách cứu đứa học trò lầm đường lạc lối của mình, mong cháu đứng cho vững, bấm chân mà đi theo nẻo Chánh, chớ lạc ngõ đường tà…
Điển trong đầu tôi vẫn báo rằng mọi chuyện chưa an!
* Bẵng đi gần 1 tháng, H lại chạy sang nói: “Cô ơi! Bà Sư phụ con lại về, cô xin Mẹ về cứu con đi”.
Lúc đó, tôi đành phải để cho bà ta tiếp xúc với H. 1 lần - phần tôi đang bị “đòn khảo” nhừ mình, lòng muốn nổi điên…
“Nữ thần rắn” nói: “Chúng ta là loài yêu tinh, trong tay đầy phép thuật. Bôn ba năm châu bốn bể trong chớp mắt, việc gì phải quy thuận Thánh Thần Tiên Phật làm chi – Để rồi tối ngày phải bái lạy quỵ quỳ, tụng kinh niệm Phật cho đau đầu mỏi gối! Nhìn cô Lan kia, tu hăm mấy năm nay được gì, đau bệnh tối ngày, miếng cơm không có mà ăn, nạn tai bất hạnh liên tục – có ai cứu cho không? Đi theo ta, ta truyền phép cho rồi lộc thực đầy nhà – can gì phải chịu khổ hạnh như vậy?”
Phải nhận lời kẻ tà rất “có lý”, và lực tác động lên tâm hồn đang chao đảo mạnh vô cùng! Sáng ngày hôm sau tôi cúng cơm chay xin dẹp bàn thờ và thề bỏ Đạo (Đây là lần thứ ba tôi xin bỏ Đạo). Mấy chị em ai cũng khóc khi nghe tôi thắp hương nguyền xin làm người vô Đạo – “Kể từ ngày hôm nay!”…
Sau khi cúng cơm, H cầu xin Mẹ về cứu H thoát khỏi bà Sư phụ ác độc. Lần nầy, Điển ông ngự về rầy H 1 trận dữ lắm, vì không chịu nghe lời cô Lan, cứ muốn được giỏi hơn người mà nên chuyện! Đi tới đâu cũng cầu xin “tiếp Điển” – giờ mới ra nông nỗi nầy, làm hại tới cô Lan… Ông bảo: “Trong vòng 3 tháng (từ hôm nay trở đi) cô H không được tới đây nữa – Cố gắng mà chịu cái nghiệp mình đã gieo đi! Sau 3 tháng tới Ta giải nghiệp cho…” H đành gạt nước mắt ra về!
* Chuyện kể về cô H vẫn còn dài, xin các bạn cố gắng đọc cho hết, đây thực là một bài học lớn cho cả tôi nữa!
Đi ngược thời gian về trước chút xíu - Dạo cuối tháng 9/2007! Từ vụ sập chân cầu Cần Thơ, làm chết rất nhiều người… Chị em chúng tôi đã tổ chức lễ truy điệu và tụng kinh cầu siêu 49 ngày cho các nạn nhân! Cô H và cháu Minh ở gần, buổi tối hay sang tụng Kinh với tôi – Phần âm kéo về rất đông, đứng chật cả con đường lớn, trật tự và ngoan ngoãn nghe Kinh – Có hôm trời mưa, nhà dột tôi không tụng, họ vẫn đứng ngoài đường lặng lẽ chờ! Thấy xót lòng tôi lại khoác áo, dâng hương…
Hai đêm đầu tiên có H qua nhà, tôi ngồi tụng chừng 20 phút – tự dưng cái mõ điếc câm, gõ vào dội ra âm thanh như khúc gỗ mục. Tôi dừng Kinh xem xét… H không nói gì, cầm chiếc mõ để sang chỗ khác: “Hết rồi cô!” – Tôi gõ mõ, tiếng lại trong vang như cũ… Đêm thứ 3, tôi cẩn thận phủ trường đóng cửa không cho âm vong nào bước vào nhà – Tụng Kinh một chốc, tôi thấy phần căn của H nằm sát vách. Do bị phủ trường nên nó hiện nguyên hình, không biết là con gì: dài gần 2 mét, có 4 chân, hai mắt tròn xoe màu xanh biếc như hai hòn bi ve, trông bề ngoài thì giống con cá sấu, nhưng hai mỏ lại ngắn (Sau nầy nghe tôi tả lại, có người bảo là con kỳ đà!) Cũng không có nhiều răng lởm chởm như răng cá sấu… Nhìn sơ qua, con vật nầy có vẻ hiền lành, không có gì đáng sợ!
Vía toi thấy mình đưa dùi gõ mõ dứ dứ: “Nằm cho yên, phá phách là ta khỏ lủng đầu nghe chưa!” Con vật ấy nằm im, hai mắt mở to, tinh nghịch – y như đứa bé ranh mãnh giả vờ làm trẻ ngoan… Một lát, tôi thấy nó đưa chân khều khều cháu Minh đang ngồi kế bên, làm thằng nhỏ cứ ngọ nguậy hoài! Tôi bảo: “Hương qua ngồi bên kia, thằng Minh qua bên cô ngồi!” – Thế là con vật lấy chân vuốt ve dọc cột sống cháu H, ra chiều thương yêu âu yếm!...
* Sẵn muốn tổ chức lễ truy điệu, tôi lập đàn phúng thí âm vong luôn! Đã làm lớn, phải tính toán cho cẩn trọng, nếu sơ xuất – âm vong tụ về đông phá khuấy hàng xóm chung quanh chứ chẳng vừa…
Xin Điển Trên về dạy – Thần Nam Tào về nói: “Phải thật cẩn trọng, vong người hưởng được các thứ ta cúng, xem chừng còn đánh nhau để tranh đoạt, lại còn bao nhiêu là rắn theo cô H, chúng không ăn được tụ lại phá khuấy gây hấn lung tung, e chừng lợi bất cập hại”. Tôi hỏi: “Nếu như vậy, điều gì sẽ xảy ra?” – Thần NT đáp: “Dọc con đường sinh biến cố, nạn tai dồn dập – Có thể xe cộ đụng nhau, người sinh hung hãn, chém giết – hiềm khích, tranh đoạt, sinh sự lẫn nhau…”
Tôi lo quá, nhưng cũng tự tin: khi biết tường tận, ta sẽ tìm cách hóa giải!hôm đó tôi cho Điển nhốt hết bầy rắn và linh căn của H. xong nhờ Thầy Tổ cho binh chốt chặn, xin Mẹ Diêu Trì cử Thien Binh và Chư Thiên bảo an - mọi sự đều ổn!
Nói chung – như ông bà xưa nói: “Trần sao âm vậy!” – Những cuộc lễ lớn thường phải có chính quyền chủ đạo và quân binh giữ an ninh, trật tự – Rút kinh nghiệm như vậy, sau nầy những khi lập đàn chiêu đãi âm vong, tôi vẫn xin Thầy cho Chư binh về canh gác, phòng xảy ra biến cố…
Thầy của chúng tôi có nhiều binh lắm! Khi Thầy còn sống tôi chỉ thấy thầy về một mình, sau khi mất, Thầy về tới là binh theo về chật nhà! Tôi có hỏi thầy: “Họ là Thiên binh phải không thầy?” Thầy cười nói: “Không phải đâu – Là những linh hồn tiến bộ tự nguyện theo thầy độ đời đó thôi!”
Thầy không nói cho tôi biết, ngầm cho 50 binh về án trong ngôi gia của tôi để trợ giúp! Gần đây (sau tết 2008) – Sư Hướng lên nhà tôi chơi, nói: “Cô Lan bây giờ giỏi quá! Trong nhà cô có binh của thầy Tổ nhiều lắm – Có Thiên binh, có 2 Chư Thiên – lại có Nhị thần Hộ Pháp trợ cho cô hành đạo độ đời nữa.”
Nghi ngờ lời sư H, tôi xin cho chư binh trình diện, thấy có 13 Thiên binh y phục như quan tướng triều đình và 50 binh của thầy Tổ. Tôi cầu Mẹ Diêu Trì về hỏi, Mẹ bảo chính Mẹ cho về để bảo an trong ngôi gia của tôi – vì càng ngày càng nhiều ác ma, tà đạo cao tay ấn tìm tới, Mẹ sợ trong nhà tôi sinh biến động…
Điểm lại thì thực đúng như vậy! Chỉ từ dạo sau tết 2008 đến giờ, các phần tìm đến nhà tôi đa số là yêu tinh, thần tướng, dạ xoa, ngạ quỷ – ít có vong bình thường – vụ nào cũng nặng nề và khó giải quyết!
Điều lạ nữa là những người có phần Linh căn, đang làm chủ 1 Điện thờ nào đó: có người ở Thủ Đức, Bình Dương, Hóc Môn, Gò Vấp, Phú Nhuận… Mỗi người tới, Mẹ Diêu Trì lại về, kiên nhẫn khuyên dạy, vạch ra cho họ thấy ưu và nhược điểm của từng người, để họ sớm nhìn thấy mà sửa chữa (Đây là lời Mẹ nói với tôi).
Trong các giới, tôi sợ nhất là những phần nầy! Mỗi một phan Linh căn xuống thế để tu tập hoặc độ đời, đều có khả năng và quyền hạn khác nhau, đa số đều giỏi và có biệt tài riêng! Tôi chỉ là 1 kẻ vô danh: Điện Thờ, áo mão cân đai không có - Lễ nghi, bài bản chẳng tỏ tường… Người nghe có khi không tin lại trách mình vì đố kỵ mà phê phán – Tôi cũng sợ xúc phạm đến các bậc cao niên!
Khổ một điều khi Mẹ về phán điều nầy lẽ nọ, tôi làm sao dám can – nhưng miệng mình nói, tội mình chịu biết trách ai bây giờ?!
Ngày xưa khả năng còn có hạn – các loại tà cao như vong chiến sĩ, binh gia, ngạ quỷ, yêu tinh tôi sợ lắm. Mỗi lần thấy họ là đã “thất kinh hồn vía” rồi! Đến giờ, ngay đến Thần Tướng mà sai đường, lạc nẻo quấy phá, nhiễu nhương – sau khi đấu trí, nói lý lẽ, nếu còn có ai ngạo mạn thách thức hoặc “ra đòn trước” khiến tôi nổi điên… thì tôi đánh tất chẳng chừa một ai… Có điều chỉ cần họ phảy tay một cái, là tôi có thể đau nằm trọn 1 ngày… ai nói là tôi không bị “trúng đòn”?
* Vừa mới gần đây, H điện lên cho tôi nhờ tôi “cấp cứu” – Kể: “Ở ngoài quê con có 2 đứa con trai ra Quảng Ninh làm mỏ rồi vướng ma túy, chết vì si đa! Người quê đem về chôn ở đầu làng – Tự dưng từ tết đến giờ tháng nào trong làng cũng có người chết trẻ trạc tuổi chúng nó! Thầy xem quẻ bảo bị 2 đứa ấy bắt hồn… Chiều hôm qua con xuất hồn về quê tìm , chúng nó bảo ngày mai nầy bắt em trai của con! Con tức quá bảo: “Tao cắt máu trong tay nhỏ xuống đất làm phép cho chúng mày tiêu hồn xác, hết đầu thai luôn! Rồi con cắt tay cho máu chảy – Con đánh và trói chúng nó lại. Từ lúc đó đến giờ tròn 1 ngày, con đau nhức cả người và nhức đầu, chóng mặt như búa bổ vậy!”
Tôi trụ thần nhìn, thấy H trói được 2 âm hồn rồi, bèn nhốt vào Kim tự tháp! Quay qua giải phép âm cho H - chút xíu sau, cháu H đã trở lại bình thường…
Hôm sau nữa, H lên nhà – đưa tay cho tôi xem dấu cắt: trên cánh tay H có 2, 3 vết sướt tựa như dấu lá cỏ, lá lúa sượt qua còn để lại vết tích vậy. Lạ quá! Tôi chẳng biết thực hư ra làm sao… “Người xuất hồn, hành động có thể để lại dấu tích như thực vậy ư!!” Buồn một nỗi, cô cháu nầy vẫn có xu hướng thích dùng tà phép để trấn áp hơn dụng Đức Từ Bi mà Giáo độ sinh linh…
* Tôi chỉ cho các Chị Em hỏi Điển: khi cần tìm hiểu về một việc gì đó, chỉ cần rửa tay rửa mặt sạch sẽ, mặc đồ dài vô – đứng trước bàn thờ hay Linh vị mà hỏi! Điển sẽ ứng về trả lời bằng nhiều cách: - Cả người xoay vòng nhẹ rồi ngã người ra sau nếu lời đáp là “Đúng”. Nếu “sai” Điển sẽ im lặng!
Hoặc là gật đầu hay lắc đầu, hoặc đếm số trên ngón tay… đếm chầm chậm đến khi nào đúng số đang hiện diện, ngón tay đếm sẽ tự động dừng lại!
Với bàn cơ, tôi có thể hỏi nhanh và chính xác hơn, nhưng các chị em khác không lên cơ được, nên tôi hay sử dụng cách nầy – Vì độ chuẩn xác cao và dễ hỏi! Có điều cần phải biết “tùy cơ ứng biến” hỏi cho đúng người, đúng việc! Câu hỏi cần đơn giản tránh hỏi “nước đôi” hoặc dài dòng văn tự…
Theo trải nghiệm của tôi – người phụ nữ hỏi Điển bằng phương pháp nầy dễ hơn Nam, vì thể vía của người nữ nhẹ hơn, Điển dễ chuyển báo…
Tôi dùng cách nầy để hỏi mọi người khác cũng tốt, khi người ta tự “gật” hay “lắc đầu” – họ sẽ tin tưởng hơn – Bởi những điều liên quan đến thế giới vô hình rất khó kiểm chứng, nhất là ở người có tri thức cao!
Với cháu H – hai ông Thần Tổ nghiệp cứ chen vào ứng báo, và luôn muốn đảo ngược hoặc làm cho sai lạc sự thực, để chống lại tôi – vì đã dẫn con cháu của họ đi theo con đường mà họ không muốn… Lắm lúc tôi tức điên lên được khi các chị em khác hỏi Điển trả lời giống tôi – mà ở H thì cứ báo nghịch lại! Ngặt nỗi H lại là người tự tin, có khi nghĩ rằng tôi cố tình làm bẽ mặt H không chừng!
Lần nọ – H tìm lên hỏi Điển về mấy việc quan trọng và cần thiết của mình – Đứng trước bàn thờ nhà tôi, Điển trong H vẫn cứ báo nghịch lại với phần Điển trong tôi – Bực quá tôi điều tra lại, thì ra là hai ông Thần Tổ nghiệp!
Tôi truy hỏi nhẹ nhàng, lịch sự… thấy thế 2 ông càng lấn tới bảo: “Chính chúng tôi làm cho Điển báo sai! Chúng tôi không muốn cháu H đi theo cô Hai - Yêu cầu cô lên tiếng cấm không cho H lên nhà cô nữa!”. Hèn nào Minh tới chơi, cô H chuyên nói những điều trái ngược với những gì Điển báo tại nhà tôi.
Tự dưng (như Bề Trên đã sắp xếp) – Minh “lò dò” tới… Đang cơn giận, tôi đánh cho thần Tổ nghiệp 1 trận, 2 tên quỳ xin lỗi tíu tít! Quay qua, tôi lại rầy Minh với H một hơi: “Hai đứa phải biết tự lực đi chứ chuyện gì cũng đợi cô là sao! Người ta đi học Nhân điện tốn biết bao nhiêu tiền, học xong về phải tự mình rèn luyện – Cô dạy các con không tốn đồng nào – 2, 3 năm rồi vẫn chưa buông rời được cứ ỷ lại hoài biết đến bao giờ mới nên… Từ nay tự mà đứng lên đi, đừng có níu cô hoài như vậy! Cô còn bao người, bao việc – đâu có ở không”.
Tội nghiệp, hai đứa hoảng hồn một phen…
* Mới vừa đây có 1 việc – tôi kể bạn nghe để kết phần chuyện về cô bé Hương nhiễu sự, người đem đến cho tôi nhiều chuyện rắc rối nghịch thường nhất trong nhóm chị em nhân điện!
Hôm đó H lên nhà tôi kể chuyện mình được Điển về dạy múa hát và nói tiếng Thiên (Là tiếng của Cõi Trên) – Nghe thế tôi gọi thêm vài cháu ở gần để tìm hiểu về chuyện nầy…
Phần căn của H nhập về, bảo với tôi là hiện đang theo Mẹ tu tập trên núi! Tôi hỏi có gặp bà Sư phụ hay không thì cô ấy bảo thỉnh thoảng cô có sang thăm SP tu ở gần chỗ cô. H múa hát còn ngượng ngập – có lẽ do về xác chưa quen, được một lúc thì SP H tới – Tôi nghe nói bà đi tu thì mừng, vội mời vào nhà… Bà ta quỳ lạy bàn thờ Mẹ xong chợt quay lại, hai mắt lóe lên, định thừa cơ đánh lén tôi!
Tôi giận quá, trói cứng lại nhốt vào Kim tự tháp. Quay lại, thấy Mẹ Diêu Trì đã về tự lúc nào, Mẹ bảo: “Cất một mẻ lưới, bắt được con cá lớn”… Thì ra Mẹ đã bày cho phần căn H nói là Sư phụ của mình đi tu – để bà ta ngỡ mọi người tin như vậy – mới lần mò về ra mặt, sau hơn một năm trốn biệt, thỉnh thoảng về phá H một trận rồi đi… “Nó tưởng lừa được ta, nào ngờ con Lan giỏi!” – Tôi giải giao cho Mẹ – Mẹ đánh cho một đòn, xác tan thành tro bụi bay lả tả…
Thật đáng thương! Nếu biết cãi hối thì có đâu phải tội tiêu hồn! Suốt 23 năm nay, đây là lần thứ hai tôi thấy Bề Trên triệt vong… Lòng Từ Bi Đại Đạo chỉ dốc sức cứu đời – kẻ thủ ác đã 5 lần 7 lượt Ơn Trên cho cơ hội cải tà quy chánh không nghe, giờ dẫu dày công tu luyện cũng hoài! Giống tích Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa – quậy nát càn khôn tưởng mình giỏi tuyệt, nào ngờ bôn ba bốn biển chẳng qua được ngón tay Phật Tổ Thích Ca!
Chuyện về cô H chắc đã làm bạn đọc phát chán rồi. Chúng ta sang đề chương khác vậy nhé!
35. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC
PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (1)
* Quan Thánh Đế (1): Con trai thứ hai của tôi, thằng bé tuổi Bính Dần! Lúc nhỏ mấy lần chết đi sống lại. Có lần leo lên cây điều té từ trên cao xuống nằm xỉu 1 lát sau mới tỉnh lại, người không có xây xát gì – Có lần nọ leo lên trần nhà, té từ độ cao 2 mét xuống, cũng ngất xỉu 5 phút rồi tỉnh lại bình thường – Có lần té đập đầu vào cạnh bàn ngất đi, 10 phút sau tỉnh dậy, bảo: “Nãy giờ sợ Mẹ rầy nên con giả ngủ!”. Thuở nhỏ nghịch ngợm hết biết, chuyên leo lên nóc nhà, rồi lần đi theo gờ tường, y như người học làm xiếc – Người ta học xiếc có phương tiện bảo trợ – Còn Ti làm xiếc… trốn cả Mẹ sợ bị đòn!
Lần nào nghe ai đó kể lại tôi cũng “hồn phi phách tán”… Sau khi học nhân điện, thỉnh thoảng lúc thiền để nhận năng lượng Ti hay thấy có 1 mũi tên màu đỏ như lửa xuyên vào đỉnh đầu đau buốt, sau đó năng lượng đổ về rất mạnh!...
Đến một ngày – Linh căn Thầy của Ti xuất hiện. Út Thảo (em tôi) đang ngồi bàn cơ, thấy có người về xưng là Quan Thánh Đế! Ngài bảo phần Linh căn của Ti là “đệ tử ruột” của mình. Nghe vậy, tôi mời về để xin tiếp xúc – Người xưng: “ta là Quan Thánh Đế, hiệu là Thể Quán Thiền Sư!”. Tôi hỏi thì ngài bảo mình không phải là Quan Công, Quan Thánh Đế là 1 chức danh của nhiều người, chỉ có Quan Công hiệu riêng gọi là Quan Thánh Đế Quân!
Thầy của Ti mặt đỏ, râu rìa hàm én mài ngài, mặc đồ võ phục cũng màu đỏ – Người nóng nảy, nghiêm trang và khắc nghiệt! Ông vói với Ti là mình không thích tiếp xúc với đàn bà, con gái, và không thích lui tới cửa Thiền – Mới đầu tới nhà tôi đứng ngoài sân, quay mặt ra đường mà nói vọng vào, về sau cũng nhất định không bước qua ngưỡng cửa…
Sau tôi mới hiểu: đa số các vị Thần đều có tính nóng nảy và hiếu chiến, có người nghênh ngang coi trời bằng vung – Tuy nhiên cũng có nhiều người rất mực tế nhị, khiêm cung và hòa nhã…
Ngài Thánh Đế thương đệ tử của mình lắm, nhưng không ưa cho nó uống rượu – Mỗi khi Ti làm điều gì không hợp ý, thầy giận trò rất lâu… Có điều Thầy nương cho tính tự cao tự đại của Ti, làm cho tôi cũng bực mình không ít!
Phần âm nào phá phách, Ti đánh cho bò lê bò càng – Đến khi chúng hăm he là sẽ trả thù, Ti sợ chạy về mách Mẹ kêu cứu…
Có lần thích “chơi trội”, thằng bé bắt về nhà một lô lốc – toàn ngạ quỷ với yêu tinh, tối để đi lang thang trong nhà chơi! Nửa đêm, vía tôi thấy mình về nhà dưới kiểm tra, gặp 6, 7 phần âm… Kêu Ti về hỏi, cháu nói: “Con đem về tối đưa ra nói chuyện, khuyên chừng nào họ chuyển tâm thì đưa vô chùa tu”. Tôi phân tích cho cháu nghe: “Muốn phần âm biết tu, trước tiên con phải cho họ ăn uống để lấy lòng tin – rồi giảng đạo, tụng kinh cho họ nghe! Con không ăn cơm nhà dưới đó, không thờ Phật, lại không Kinh kệ. Con khuyến Đạo họ bằng gì?”
Lần đó, tôi phải đưa 7 phần âm nhốt vào Kim tự tháp đem về nhà trên nầy. Thường các âm vong hung hãn, quậy phá mọi người tôi bắt nhốt vào KTT – Ngày 3 bữa cho ăn no, tối cho nghe Kinh. Mỗi tháng tôi trả tự do cho họ 1 lần vào ngày rằm, cung cấp lộc thực, án hình chữ Vạn vào giữa trán rồi cho họ đi! Tôi nói: “Những người được án phép Nhà Phật mỗi tháng được trở lại đây lãnh lộc thực 1 lần, và phải biết tu tâm, dưỡng tánh – Nếu ai còn phá khuấy người khác, hình chữ Vạn nầy sẽ làm cho đau đớn kinh khủng lắm đó!”
Bao nhiêu năm nay, tôi chưa thấy những phần âm vong nầy phạm tội thêm lần nữa, có nhiều tên còn năn nỉ tôi cho ở lại trong KTT vì được no đủ, ấm áp – chỉ tội là bị giam lỏng thôi!
* Có lần Ti đem KTT của mình về bảo tôi: “Con bắt trong nầy mấy đứa, tối nó quậy con sợ quá. Mẹ thu qua KTT của Mẹ dùm con, cẩn thận nó sổng ra chắc nó giết con chết quá!” – Tôi nghĩ thầm: chắc cũng húng hiếp, khảo tra người ta dữ lắm, bây giờ mới sợ bị trả thù… Tôi rầy mắng cháu một hồi, khuyên: “Điều thiện, lòng từ ái và bao dung mới khuất phục được người! Sức mạnh chỉ làm sinh lòng căm phẫn và ý chí phản kháng, trả thù mà thôi! Mẹ làm việc nầy hăm mấy năm nay, các phần đều tâm phục, khẩu phục – Con thấy có ai thù ghét Mẹ không?”
Thầy của Ti không ưa tôi, vì tôi là phụ nữ và là người nhà Phật! Tôi thì phải phục lụy thầy vì là Sư phụ của con trai mình, cháu an nguy cũng nhờ tay thầy ân cứu… Trước ông tôi luôn phải xuống giọng năn nỉ – Còn ông thì lên giọng “ta đây”, lắm lúc tôi ức lắm mà phải nhịn chịu! Có lần tôi giải bùa cho cháu mà không xin phép thầy, giải xong đầu tôi quay mòng mòng, đi xiểng liểng hơn cả người say rượu – gần cả tiếng đồng hồ sau mới tỉnh… Tôi cũng chẳng dám trách cứ gì ông, phải là người khác, tôi “còn lâu mới chịu thua!”
* Quan Thánh Đế (2):
Minh (học viên Nhân điện của tôi) – Một hôm tới nhà, tôi thấy theo sau là 1 ông mặc đồ đỏ giống như Thầy của Ti. Người ấy đứng ngoài đường nhìn vào nhà – Tôi mời “nhập gia”, nhìn kỹ hóa ra không phải: Thầy của Ti ốm mà cao, người nầy cao to, vạm vỡ – vai u thịt bắp – có điều giống nhau là bộ võ phục màu đỏ!
Tôi hỏi – ông ấy bảo mình là thầy của cháu M và cũng là Quan Thánh Đế! Mới lần đầu gặp, ông ấy nói chuyện cũng lịch sự, bảo ý muốn vào tiếp xúc làm bạn với tôi – Tôi khéo léo từ chối, vì nhớ chuyện đã từng biết rất nhiều vụ về những ông Thần về “tà dâm” với đàn bà cõi thế…
Thầy của Minh kiên nhẫn đến nhà tôi mấy đêm liền… Đến ngày rằm, tôi cúng cơm chay – Minh ra nhà không chịu tiếp xúc với ai, cứ ngồi đó, thỉnh thoảng lại cười nhạt 1 tiếng – Đầu cổ mặt mũi đỏ lựng… Biết ý, tôi bảo chị em không động chạm gì tới, để cho ngồi yên đó một mình!
Cúng cơm xong, tôi lịch sự mời ông Quan ăn cơm, ông ấy bảo: “Tôi không biết ăn chay!” Đến lúc ngồi vào ăn, Minh cứ cầm chén cơm đôi đũa dầm dầm mãi không ăn, tôi rầy thì M cất tiếng nói: “Nể cô Hai lắm tôi mới ăn cơm chay đó cô Hai” Rồi lại xuống giọng thuyết phục tôi cho ông về với tôi làm “bạn”! Tôi cắt cớ bảo: “Tôi có người chủ quản. Nếu ông xin phép họ được tôi sẽ đồng ý. Tôi chỉ ông chỗ đến xin nhé! Ong lên Thiên Đình gặp ngài Ngọc Đế, Ngài xuống chỉ cho ông liền, hễ có Lệnh bài là tôi bằng lòng.” _ thoắt cái vía tôi thấy ong đứng trên mây thật cao cung tay trước mặt chờ xin – Thấy ông đứng hoài đó tôi biết ông không nhập vào Thiên Đình được! Bèn gọi ông về hỏi, ông ấy bảo: “Tôi chưa xin phép tiếp kiến được”…
Về sau, có lần ông nói năng ngang ngược, tôi nổi điên đánh cho một trận, từ ấy tới nay mất mặt - không hề thấy tới nữa, cũng không theo cháu M…
Bản thân tôi tế nhị, lịch sự và tôn trọng tất cả mọi người, mọi giới – Tôi chỉ phản kháng khi nào bị xúc phạm – và khi tôi đánh, tôi chả thua ai bao giờ, có lẽ “Điển ông” trợ cho tôi đấy thôi! Nghe nhiều người kể lại những vị thầy bùa, thầy pháp yếu cơ bị đánh nôn ra máu hoặc bò lết, loạn thần là chuyện thường… phần tôi, nặng lắm là tối tăm mài mặt, nôn nao một chút rồi hết.
* Cô Tiến (học viên nhân điện) – Một hôm đang ngồi Thiền để nhận điện, thấy một phần Linh căn về. Nhìn giống như Quán Âm Bồ Tát – thấy người đứng trước mặt thấp thoáng, hỏi Điển thì Điển ứng báo không phải là Quán Âm Bồ Tát! Vì không tiếp xúc được, Tiến qua nhờ tôi – phần Linh căn về, ăn vận như Bồ tát nhưng nhìn khuôn mặt thì không phải – Người xưng danh là Nam Hải Liên Hoa Phật, bảo phần Linh căn của T là đệ tử của Nam Hải – nên người về trợ mệnh trần, Người dặn là khi nào gặp hoạn nạn kêu xin danh tính Nam Hải Liên Hoa, người về cứu cho…
Về sau – Mẹ Nam Hải đã ứng ban cho tôi bài thơ “Hoàn ngôi” – (tôi đã chép tặng các bạn vào đoạn trước).
* Linh Điển Trì Địa Bồ Tát: cô Lan (học viên nhân điện) – Thời gian từ lúc học xong lớp 10, Ơn Trên xoay chuyển cho L liên tục đưa các phần vong về cho tôi để nhờ ứng cứu! Đúng như lời Mẹ nói: “phần hành nào đưa về cửa ấy!” Khi vong kéo về bên cô Lan – họ sẽ cho phép tà thúc giục làm cho L nôn nao, thể nào cũng phải tìm xuống tôi, chưa đi được thì đầu óc cứ bấn loạn cả lên!
Mỗi lần xuống, tôi lại gọi từng phần ra xử y như xử án – ai giúp được gì thì giúp, kẻ nào hung hăng trói nghiến nhốt lại 1 thời gian, cho nghe Kinh kệ cho thuần tính lại rồi phân phối lộc thực cho đi…
Cõi âm cũng như cõi dương trần! Có nhiều phần bị hà hiếp, oan ức… tìm cách kéo tới nhà tôi kêu oan, và tôi lại phải “xử lý” y hệt như “quan Huyện đăng đường”… Cần phải thật cẩn trọng, sáng suốt và nghiêm minh! Không được xử ép, xử oan người vô tội – Lắm lúc tôi muốn điên cả đầu khi phải tập trung thần lực để “tra án”! khi xong việc – tôi cứ như 1 quả bóng bị xì hơi, mệt lử – hơn cả người lao động tay chân… Có khi leo lên giường nằm mê mê cả buổi!
Có lần cô Lan tự nhiên bị nôn ói – Liên tục mấy tiếng đồng hồ. Điện cho tôi mãi mà không được (lúc đó tôi đi vắng) – Đến chiều về L điện báo cho tôi biết chuyện… Tôi ứng nhìn thấy 2 vong yêu tinh đàn ông áng vào, và hiện chúng đang ở sau sàn nước nhà cô L – dưới gốc cây khế!
Tôi vừa báo cho L biết, đã thấy hai vong tới đứng bên cửa sổ rồi – Tôi tiếp xúc với họ, vừa năn nỉ vừa khéo léo “hù dọa”: “Cô L là học trò của tôi, cô L gặp nguy tôi không thể bỏ, nếu tôi trình việc nầy về trên, Bề trên sẽ cho người về hành xử, các vị đâu được bình an! Chi bằng xin cho cô L dâng lễ cầu an, 2 vị nhận rồi ra đi cho đẹp cả đôi đàng…” Hai vong ấy bằng lòng, đòi lễ vật là 1 con mèo đen đập chết đem cúng. Tôi bảo: “Không, chúng tôi là người tu học Phật pháp không được phép sát sinh!” Năn nỉ chốc nữa, hắn bằng lòng cúng 2 con cá lóc luộc chín (để nguyên con, không đánh vảy – làm sạch nhớt rồi luộc) – Đôi bên thỏa thuận ngày 13 giờ Ngọ sẽ cúng…
Tối hôm sau, L nằm mơ thấy 1 người phụ nữ trung niên mặc đồ bà ba về bảo: “Ta là Bồ Tát, để ta về giải hoạn nạn cho con nghe!”
Cô L xuống nhà tôi ngày 12 âm lịch – Vừa tới có 10 phút, tôi thấy 1 vị bước vào nhà, ăn vận y như Quán Âm Bồ Tát, nhưng nhìn kỹ tôi thấy không phải Mẹ Quan Âm, và người nầy nhân dáng rất cao, phải chừng 1m80 (PB chỉ cao 1m60 là cùng!)
Tôi xin phép hỏi danh tính, Người bảo: “Ta là Trì Địa Bồ Tát” – Nghe vậy, tôi cung kính nói “Con chào Mẹ”. Vị Bồ Tát ấy phì cười, bảo “Trì Địa là đàn ông”. Xong – Người bảo phần Linh căn của cô Lan là đệ tử của Người, nay gặp nạn lớn Người ra mặt ứng cứu: “2 tên đó là con yêu râu xanh, thấy con có năng lực cao chúng nó “hợp đồng tác chiến” – phép đã nhập vào người con được rồi.
Đây là kiếp nạn lớn trong đời con đó! Ta cũng không thể cứu con ngay tức thì – Chỉ khi thành án mới xử được… Ta dặn con: nếu thấy có gì bất thường, ngay lập tức gọi cho cô Hai đây ứng cứu. Nếu gọi không được thì thắp 3 cây nhang ra đứng giữa trời xin danh tính Trì Địa Bồ Tát, ta về cứu cho con”!
Nói xong, Người ra đi – hai con yêu tinh lại tới (thì ra chúng đã theo cô Lan và nghe thấy cả mọi chuyện) – Tôi bảo: “Các người muốn kiếm chuyện nữa sao. Hôm nay là ngày 12, trưa mai mới tới ngày cúng – Muốn đòi hỏi gì nữa đây!” Nào ngờ hai vong nọ cung tay chào rồi nói: “Chúng tôi chỉ tới chào cô Hai rồi đi, chúng tôi sẽ rời đi ngay tức thì và không bao giờ trở lại, chúng tôi không nhận lễ cúng – và xin hãy tha mạng cho chúng tôi”. Chỉ có thế rồi họ đi mất, chị em chúng tôi vui mừng không kể xiết…
Sau nầy nghiệm lại: Đúng là Mẹ Bề trên đã xoay chuyển cho các phần Linh căn tìm về chỗ tôi – để (theo lời Mẹ nói) “Thụ Điển”, rèn luyện năng lực, rồi trở về chỗ mình ở nhà hành Thiện trợ đời!
Tôi cũng thấy mình không giống ai: Các phần Linh căn lớn thường thích quy tụ đệ tử hoặc tín đạo thành lập Đạo Tràng để Hoằng pháp. Riêng bản thân tôi lại chỉ thích thanh tịnh, sống 1 mình lặng lẽ – không ưa giao tiếp bạn bè, nói đúng hơn là không muốn tiếp xúc với ai, tối ngày chỉ ra vào trong nhà, và chỉ có bệnh nhân là tới gặp tôi dễ mà thôi… ma chay, cưới hỏi, đám tiệc xa gần tôi cũng gửi phong bì đến chúc rồi trốn biệt.
* Chị Th (học trò nhân điện) – là vợ của anh Th – xưa nguyên là Tiểu đoàn trưởng, bị đạn chấn thương cột sống, về sau đau nhức suốt và teo hai chi dưới… Bác sĩ Cự chữa mãi không được, giới thiệu vào tôi – và tôi… cũng thua! (Việc nầy tôi sẽ kể chi tiết sau). Chị Th theo học nhân điện đã đến lớp 13, năng lực cảm ứng bản thân rất nhạy! Một hôm nhân ngày chủ nhật, chị vào nhà tôi để nhận điện (thường các học viên tập trung lại nhà tôi nhận điện thì cảm ứng mạnh hơn tự nhận ở nhà).
Lúc đó, Kh cũng là học viên đến nhận điện, Kh vừa tới, bước vô nhà – tôi thấy phần Linh căn của Kh là Ngũ Cô Nương của Thập Điện Diêm La cung cũng tới, bước vào nhà cung tay chào tôi 1 cái rồi nói “Tôi tới lạy chào Mẫu Mẹ” – Rồi phục xuống quỳ lạy chị Th 1 lạy! Tôi hỏi, Ngũ cô nương đáp: “Linh căn của cốc chủ đây là Mẫu Mẹ ngự ở Hậu cung của Thập Điện Diêm La – Tôi đi về vẫn thường đến chào Mẹ!”
Một thời gian sau – Trong lúc chồng chị Th bị hành bệnh đau đớn kinh khủng, không có cách nào cầm được, chị Th vào nhà tôi thắp hương xin Mẹ giải cứu! Đột nhiên tôi nhìn thấy 1 vị người quắc thước phương phi, tráng kiện, ăn vận toàn 1 màu đen – Vị ấy bước vào tới cửa thì đứng lại bên ngoài, tôi hỏi – Người ấy xưng danh tính: “Ta – Cung chủ của Thập Điện Diêm La cung!”. Tôi ngạc nhiên, hỏi lại! Người ấy bảo: “Ta đã nói rồi đấy thôi, ta là Cung chủ của Thập Điện.” – “Xin Người cho biết Người đến đây dạy bảo con điều gì?” – “Không! Ta chỉ xin cô cho tiếp xúc với Bà đây!”… Rồi vị ấy quay sang nói với chị Th: “Phần Linh căn của Bà vốn là Lệnh Mẫu của Thập Điện, có chút duyên với Ta nên Ta về trợ cứu cho một phen! Vốn ông nhà gieo nhiều nghiệp chướng, cuối đời bị vong hồn chiến sĩ quậy, không ai có thể cứu được. Chiều nay bà cúng cho Ta 1 đĩa Tam Sên, 2 nước 2 rượu – cúng trên bàn ở giữa nhà khách khấn xin đích danh Ta: “Cung chủ của Thập Điện Diêm La cung!” – Ta sẽ về trợ cho ông nhà đỡ đau đớn”…
Chị Th làm y lời – quả nhiên chồng chị nhẹ bớt bệnh – Một thời gian sau lại tái y như cũ!
* Cô Kh (học viên nhân điện – Người ngày trước bị vong thần cọp khuấy mà tôi đã kể). Trong 1 lần tới nhà tôi vào ngày rằm – Tôi thấy xuất hiện 1 cô gái người mảnh mai – mặc bộ đồ bằng lụa màu đen thắt đai ngang eo. Cô gái ấy bước vào nhà xưng danh là “Ngũ cô nương ở Thập Diện Diêm La cung” – (Linh căn chính của cô Kh) người làm nhiệm vụ chiêu tập vong hồn!...
Tôi chú ý nhìn: người thì bé nhỏ, mảnh mai nhưng giọng nói đanh thép, nghiêm lạnh không có tình cảm. Hai con mắt nhỏ – đuôi dài, ánh nhìn sắc sảo mà lạnh lẽo… Đúng là nhìn vào cô ấy có thể thấy cả Diêm cung!
Từ dạo ấy trở đi, Kh hay bị hành xác – đủ kiểu, đủ chứng… Mỗi lần như vậy, Kh chạy lên tôi – và tôi lại mời Ngũ cô nương về năn nỉ xin tha! Một thời gian sau thì “tạm ổn” – Khi cô Kh có hoạn nạn cầu cứu, Ngũ cô nương lại về ứng cứu…
Cô nương ấy chẳng bao giờ nói thừa hay thiếu 1 câu, với chất giọng đều đều, lạnh lẽo không hồn – chắc là phải cứng rắn như vậy thì mới làm được công việc đáng sợ của Thập Điện! Có lần Kh bị hành nhức đầu kinh khủng, lên nhà tôi khóc sụt sùi, Ngũ cô nương về bảo: “Đừng có khóc lóc với tôi, tôi không có động tâm đâu”…
Với những phần Linh căn thì tôi thua, tôi chỉ biết xuống giọng “năn nỉ ỉ ôi”, chứ chẳng làm gì được họ – vì họ về xác trần hợp pháp – có “lệnh bài”… cùng lắm thì tôi cầu xin Mẹ Bề trên về can thiệp giúp, từ từ rồi cũng ổn!
Trong thời gian đầu tiên mới giác ngộ bước vào đường đạo, xem như bắt đầu hành trình “tu tập” – ai cũng bị dồn nghiệp, hoạn nạn tai ách dồn dập, đến “Thất điên bát đảo” chứ chẳng nhẹ nhàng – Và tôi phải có trách nhiệm dìu đỡ từng người một cho đến lúc mọi chuyện qua đi và cuộc sống của chị em hoàn toàn trở lại bình thường mới thôi!
Hoạn nạn đến từ nhiều phía: cả đời sống thực lẫn âm phần – Ai cũng bị “khảo đảo” nặng nề trong khoảng chừng 2 năm thì bắt đầu bình ổn trở lại, nếu vẫn còn kiên tâm vững bước, vững lòng tin thì năng lực càng ngày càng cao! Bằng như ngã lòng, thối chí thì bỏ mất đường Đạo – Đã có 8 người học Nhân điện từ nhà tôi không chịu nỗi sự “khảo đảo” – buông tay chịu thua – dần dần các luân xa đóng lại như cũ… Tiếc cho bao nhiêu công sức rồi mai một mất!
Ngày trước, khi mới bắt đầu tìm hiểu về Nhân điện; qua lời Thầy giảng tôi mới biết: Những “hành giả Nhân điện” (theo lời Thầy) như chúng ta là những người đã có căn tu từ nhiều kiếp, đến nay mới được mở luân xa, phát triển con mắt tâm linh dễ dàng như vậy! Những người thiểu căn thường không có điều kiện học lên lớp cao, hay bỏ giở nửa chừng… Thầy nói: thường độ chừng 15 người học Nhân điện chỉ có 1 người có khả năng làm Thầy chữa bệnh cho mọi người, số còn lại chỉ chữa được cho chính mình và gia đình mà thôi…
Bản thân tôi hỗ trợ cho 30 người học nhân điện – nói vui là “từ A… tới Z”! trong đó có 11 người giỏi, phát triển cao về tâm linh – Khả năng đó quả thực nhờ ân phúc của Bề trên!
PHẦN 2.
36. LUYỆN TAY NGHỀ
Trong suốt quá trình chữa bệnh, cho dù được nguồn “ân cứu” từ các Đấng, tôi vẫn luôn mày mò nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao trình độ và phương cách điều trị, sao cho mỗi ngày một hiệu quả hơn…
Từ ngày anh K (người anh kết nghĩa mà tôi đã kể vào đoạn trước) tặng cho tôi quyển “ATLAS Giải phẫu người” đến nay, tôi chữa bệnh tốt hơn nhiều!
Qua đó, tôi tập làm quen với các phần chi tiết cũng như cơ quan nội tạng của con người, tập nhìn và đưa hình ảnh vào não bộ, cho đến khi nhìn thuần thục, nhắm mắt lại có thể thấy ngay từng cơ quan một, rõ ràng như đang nhìn hình ảnh trên trang sách… Đưa “bàn tay nhân điện” (là bàn tay vô hình do tôi tự luyện bằng cách nhìn bàn tay của mình) vào tận nơi thăm khám, nghe ngóng cho đến khi tìm thấy trục trặc hoặc Tổn thương. Sau đó đưa điện đi đến chỗ đau giúp luân chuyển máu huyết, thần kinh, tái lập cân bằng hoặc trừ ổ viêm, giảm đau…
Bằng cách này, bệnh sẽ chuyển nhanh hơn là cứ đưa điện “hú họa” vào chỗ đau đủ thời gian quy định rồi thôi! Tôi tự nghiên cứu, tìm hiểu và thử nghiệm trên nhiều bệnh nhân và nhiều loại bệnh, kết quả rất phấn khởi! Từ đó tôi phổ biến kinh nghiệm lại cho các chị em trong nhóm của mình. Tôi sẽ trình bày kết quả với bạn đọc vào chương sau!
Năng lượng còn gọi là “Điện” được điều khiển theo ý của người chữa trị, bằng luân xa 6 ở giữa hai chân mày (huyệt An đường) chuyển giao cho người bệnh. Đầu tiên điện phải đi qua LX7 ở giữa đỉnh đầu (huyệt Bách hội) sau đó mới lần lượt đưa vào chỗ đau… Điện tùy thuộc vào người điều trị, khi nào “thấy đủ” là thôi, không hạn chế thời gian và cũng không có tác dụng phụ (chỉ có tác dụng tích cực chuyển biến bệnh hoặc không mà thôi)
Phương pháp sử dụng nhân điện có lợi thế là không cần dùng thuốc hoặc các phương pháp hỗ trợ, không kiêng cữ về ăn uống… Nếu muốn, ta có thể điều trị song hành với các phương thức khác của Đông hoặc Tây y, chỉ làm tăng kết quả, không có ảnh hưởng nghịch chiều, với điều kiện là ta cho điện hỗ trợ vào thuốc uống hoặc công cụ điều trị để cắt tác dụng phụ và tăng tác dụng điều trị!
Từ “bàn tay vô hình” của các Đấng, tôi đã vận dụng một cách cẩn trọng, sáng suốt và khoa học để tạo nên sức mạnh cho mình, không sa vào chỗ mê tín hay cuồng tín! Bằng cách rèn luyện kiên trì và có hệ thống, tôi đã khám phá và phát triển thêm khả năng tiềm tàng của bản thân, để trở thành một người thầy chữa tốt, tất cả cũng chỉ vì tấm lòng tha thiết muốn bằng mọi cách làm giảm nỗi đau, tật bệnh cho mọi người…
Bề Trên chỉ cho tôi năng lực, phần tôi phải tự rèn luyện để năng lực đó trở nên dũng mãnh. Ít ra tôi cũng có điều tự hào là không để cho các Đấng “nhắm mắt dắt tay”. Tôi cũng tự mình bước đi đấy thôi! Và các “nguồn ân cứu” chắc cũng mãn nguyện vì đã chọn một học trò, đệ tử như tôi… Mặc dù những lúc bị “hành căn” nhiều quá, tôi cũng oán thán hay uất hận: “Tội nghiệp nó! Nó làm việc không công lại còn bị đòn hoài nên trở nên lì lợm, bướng bỉnh cũng phải thôi!”
Nếu khả năng thăm khám cao, khi đưa điện ta có thể thấy ngay kết quả là bệnh hoặc cơ quan bị đau có tác động được hay không, chuyển biến nhiều hay ít, thực như nhìn thấy bằng mắt thường vậy!
Nhưng nói thì dễ, thực hành lại rất khó. Những người thiếu kiên nhẫn thường không đạt được kết quả khả quan, ngay đến người có tự tin cũng dễ bị lừa. Bởi những kết quả sai lạc do thiếu cẩn trọng hoặc bị “mà mắt” bởi các âm phần án vào cơ quan bị bệnh, tạo ra một “hiện trường giả”! Vì điều này tôi phải lắm phen giở khóc giở cười với những người học viên của mình trong khi quá trình thực nghiệm mỗi người được báo một kết quả khác nhau, không đúng như bệnh tình thực thụ…
Tác động chuyển biến bệnh tùy thuộc nhiều vào khả năng thăm khám của người thầy chữa. Huynh trưởng nhân điện (A.Ch) vẫn bài xích phương pháp nghe ngóng bệnh của tôi và các chị em bên nhánh mà tôi tự đào tạo, vì không giống cách mà Thầy đã phổ biến… Tôi bào chữa: “Em chữa bệnh từ hai chục năm nay bằng cách của riêng mình, học nhân điện mới chín năm, học để bổ sung thêm vậy thôi. Thầy, Tổ cũng như các Đấng không rầy rà hay trách cứ gì em, thế là được rồi, nếu em làm sai phương pháp thì bệnh nhân đâu có hết bệnh!”
Quả thế thật! Từ ngày học thêm nhân điện tôi chữa bệnh ngày một tốt hơn, có ngày tới ba mươi bệnh nhân. Chiều tới xe máy để chật sân nhà, người bệnh ngồi chờ tới lượt… Điều tuyệt vời mà tôi được kế thừa từ Tổ, Thầy nhân điện là phương pháp chẩn và chữa bệnh gián tiếp qua hình ảnh và qua điện thoại: dù ở xa, chỉ cần nghe tiếng nói của bệnh nhân, tôi hỏi bệnh, bảo bệnh nhân trụ thần nghĩ đến chỗ đau, yên lặng và nhắm mắt… vậy là tôi nghe báo động từ các cơ quan tương ứng của mình bằng nhiều cảm giác khác nhau: đau nhói từng cơn, co giật nhẹ hoặc khó chịu, đau “lâm râm” hoặc căng tức bất ổn… khi chuyển điện vào chỗ đau, tác dụng không thua gì chữa trực tiếp!
Có điều buồn cười là đôi lúc chẩn báo đau có tính cách đối diện: bệnh nhân đau mắt trái tôi được báo ở mắt phải, hoặc lỗ tai, mũi, miệng hay răng... Thường lúc kiểm tra lại, tôi phải đặt mình vào vị trí đứng ở sau lưng bệnh nhân, thì khi chữa điện mới đưa vào đúng chỗ đau!
Chữa gián tiếp còn một điều khó nữa là cả người điều trị và bệnh nhân đều phải tập trung cao độ, chung quanh không được có tiếng ồn hoặc hình ảnh chuyển động làm cho bệnh nhân bị phân tâm. Người thầy chữa cần đạt đến độ “ngưng thần” và “truyền thần” tuyệt đối! Chỉ cần thiếu tập trung là điện đưa đi bị gián đoạn, không có kết quả khả quan.
Khi bệnh nhẹ và sắp khỏi, bệnh nhân đã quen tập trung nhận điện, tôi hẹn giờ và để bệnh nhân tự nhận điện một mình, không sử dụng điện thoại nữa! Để trừ hao, tôi hẹn bệnh nhân ngồi nhắm mắt trụ thần nghĩ đến chỗ đau trong năm phút, thế là xong!
Cách điều trị có kết quả tốt nhất là tôi được tiếp xúc thăm khám bệnh nhân một lần. Lúc đó tôi hay hỏi lần khân: “Anh (hay chị) bao nhiêu tuổi, làm nghề gì? Con cái, gia đình thế nào? Hoàn cảnh có đủ ăn hay không? Sinh hoạt và làm việc nhẹ nhàng hay nặng nề? Bệnh phát bao lâu, diễn biến thế nào? Đã điều trị ở đâu, kết quả ra sao?”… Từ đó quá trình chẩn đoán và điều trị dễ dàng hơn, dựa vào hoàn cảnh, tâm lý và chế độ sinh hoạt của cá nhân người bệnh!
Tôi rất mê nghiên cứu, tìm hiểu về “chuyên ngành” của mình, ở đâu có tài liệu về bệnh là tôi tìm tới, đem về đọc, tự tìm hiểu và phân tích rút ra kinh nghiệm cho bản thân… Ngặt nỗi trình độ thông minh có hạn và trí nhớ thì trì trệ nên đọc xong rồi chữ nghĩa bay đâu mất, tôi chẳng còn nhớ được mấy!
Danh ngôn có câu: “Cái đầu không trí nhớ như một mảnh đất thiếu đồn binh”. Tôi vẫn tiếc: nếu thông minh và có trí nhớ hơn một chút, chắc sẽ chữa bệnh giỏi hơn nhiều!
Sự hết lòng của tôi làm cảm động các Đấng – nên tôi cứ như người “Thầy chữa” thuần thục, thăm khám bệnh và điều trị đều tốt! Những gì tôi nhìn thấy qua những cuộc thăm khám bằng con mắt của tâm linh làm tôi hết sức ngạc nhiên.
* Người vừa qua một cơn nhồi máu cơ tim khi tôi cấp cứu năm phút sau thì tỉnh lại, bị liệt nửa bên người! Tôi chữa thêm một lần nữa, cử động được tay chân… Trong suốt thời gian hơn mười ngày sau người bệnh vừa đi Bác sĩ vừa điều trị thêm bằng nhân điện, khi thăm khám tôi thấy quả tim như một quả bóng bị non hơi màu nâu sẫm (không đỏ và tươi nhuận như bình thường) sờ vào có cảm giác mềm nhão và xôm xốp chứ không căng chắc, no đầy…
* Có người bị chứng giãn ruột, nhà ở tận Nam Định, là Mẹ vợ của bác sĩ Cự - Người nhà mang một tấm ảnh cho tôi chẩn bệnh và liên lạc bằng điện thoại!
Khi chẩn bệnh, tôi cho “ngón tay nhân điện” vào cổ họng rồi lần xuống thực quản, bao tử, vô đường ruột… Đến đoạn cạnh cuống rốn tự nhiên thấy ngón tay bị hẩng một khoảng độ chừng năm phân. Tôi hỏi gia đình bác sĩ, được xác nhận là đoạn ruột bị giãn trong ảnh chụp ở bệnh viện nằm đúng như tôi đã chẩn…
Phần ruột bình thường ngón tay lần vào chắc và đầy, đoạn bị giãn lại giống như phần ruột đã bóc hết niêm mạc bên trong, còn trơ lớp da ngoài! Lần đó, tôi chữa được một tuần thì bà cụ hết đau bụng và ăn uống trở lại bình thường!
* Ơ tại chỗ bị đau như khớp hay cơ bắp chẳng hạn, tôi thấy điện không đi qua được! Đến đó thì dòng điện bị chững lại hoặc lướt vòng bên cạnh chỗ đau đi xuống… Những lúc như thế tôi cho bàn tay nhân điện xoa vuốt nhẹ nhàng rồi mới kích thích cho các mạch máu lưu thông. Nếu thấy điện đi xuyên qua chỗ đau được, tôi biết chắc chắn sẽ giảm đau trong lần điều trị đó, bằng không thì… thua!
Trong quá trình chữa bệnh, tôi linh động tìm mọi cách để đạt kết quả như ý muốn. Phương pháp chữa gián tiếp hay truyền thần có điều hay là: nếu trụ thần thực vững, ta có thể điều khiển bệnh nhân theo một tư thế phù hợp để dễ nhận và luân truyền dòng điện.
Ví dụ: Qua điện thoại, nếu người bệnh nặng không thể ngồi dậy được, tôi chuyển thần thức của mình đến bên cạnh dìu bệnh nhân ngồi lên và đưa tay chuyển điện vào đúng nơi cần thiết…
Khi cần phải học hỏi một điều gì đó, tôi không thể nào ghi nhớ được gì cho ra hồn! Loay hoay đến khổ sở, tự mắng mình: “Ngu gì ngu dữ vậy trời!”… xong rồi vứt sách đâu mất - Vậy mà đến khi cần thiết, những kiến thức từ đâu tuôn ra chẳng biết, khiến ai nghe cũng phải khen! Lúc khác, cái đầu tôi đặc sệt, chẳng nảy ra được chút gì, hình như nó chỉ giỏi khi cần thiết mà thôi, ngoài “chuyên môn” ra thì tôi “dốt đặc”!
Các con tôi luôn phải than van về trí nhớ kém cỏi của Mẹ. Bé Chi, con gái út mười lăm tuổi của tôi, ngay từ lúc chín, mười tuổi đã là “bộ óc bổ sung” của Mẹ: bé có thể nhớ danh dách hơn một chục số điện thoại, từ di động tới điện bàn. Hễ tôi cần tìm vật gì cứ hỏi, bé Chi nhớ ngay chỗ đặt vật ấy! Mãi rồi tôi có thói quen ỷ lại: “Chi, nhớ lời Bà ngoại dặn Mẹ nghe!” hoặc “Sáng thứ ba tuần tới nhắc Mẹ đi họp Hội Thơ”, “Mở máy tính cho Mẹ đánh chữ coi Chi!”, “Chuyển kênh dò sóng truyền hình cách nào, Chi”.
Con bé thì cứ như một chuyên gia có hạng, mày mò, khám phá các chức năng của máy móc, vật dụng trong nhà, để rồi khởi động sẵn sàng dành cho Mẹ…
Phải chăng khi các Đấng chuyển Điển về nhập vào thần thức của tôi đã làm cho trì trệ khả năng tư duy của bản thân, để nó trở nên ù lì, chai cứng dần… và giống như người bệnh quen thuốc, nó chỉ linh hoạt khi có Điển “nhập thần”.
Từ chiếc Kim tự tháp nhỏ xíu mà chúng tôi bắt đầu học sử dụng từ lớp sáu - Tiến lên một bước, tôi có K.T.T vô hình của bản thân (K.T.T tượng trưng cho năng lực của não bộ: năng lực tập trung, năng lực điều khiển, là khả năng hợp nhất với các Đấng). K.T.T giống như một “bảo bối” của người “Hành giả nhân điện”, cùng với năng lực trợ cứu của Thầy, Tổ!
Nếu một người bệnh có “tà nhập”, chúng tôi dùng KTT bắt nhốt các âm vong, xong chuyển điện giải tà phép, rồi sau đó mới bắt đầu quá trình chữa bệnh… Bệnh do “trúng tà”, nếu không giải hết tà phép ra, ta không tài nào chữa được, bệnh còn trở nặng hơn do các thế lực tà chống đối!
Trong các loại bệnh, tôi sợ nhất là loại do phần âm nhập vào phá, rồi “đau nam chữa bắc”, được người nhà đưa đến thầy bùa, thầy Pháp… Hết thầy này đến thầy khác, mỗi vị thầy án vào cơ thể đạo bùa cùng với mười hai binh gia (nếu bệnh nặng thầy cho hai đội - hai mươi sáu binh!). Nhiều đạo binh vào trong cơ thể chống phá lẫn nhau, thể xác con người trở thành bãi chiến trường, lúc đó, thầy cao tay cũng còn phải sợ!
Tôi đã nhìn thấy nhiều bệnh nhân như vậy: xét nghiệm đủ các nơi vẫn không tìm ra bệnh. Rồi bác sĩ dựa theo chứng mà điều trị, thuốc uống vào không có tác dụng, hoặc có nhiều tác dụng phụ như: rối loạn dạ dày, gan, thận. Gây chứng chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu ù tai, buồn nôn, đau bụng, phù nước… Ôi thôi đủ chứng, đủ tật- một bệnh hóa ra bốn, năm bệnh khác!
Đến lúc bệnh đã quá nặng, đưa tới tôi, tôi chữa được cũng “trần ai”, và bị “đau thế, đau trả” rất dữ…
Tuy KTT vô hình nhưng năng lực tác dộng dõng mãnh lắm, tùy thuộc vào khả năng tự khám phá và rèn luyện của bản thân. Người thầy chữa bệnh bằng nhân điện có giỏi hay không là do tự rèn luyện hơn được truyền dạy từ thầy. Do đo cùng một cấp lớp, có người này giỏi hơn người khác, tất cả đều do “cái Tâm” mà ra!
Tôi luyện được nhiều cách sử dụng từ KTT: phủ trường bảo an cho bệnh nhân và giường nằm, phòng ngủ hoặc toàn bộ căn nhà (sau khi đã trục hết âm vong), cách giải phần âm, binh gia, xóa lệnh phù… và cách điều trị, đưa điện luân chuyển theo ý mình: xoa vuốt, day ấn, dẫn lưu máu huyết, thần kinh hoặc cô lập mầm bệnh, triệt tiêu vi khuẩn… Còn nhiều phương pháp mà tôi không tiện kể với các bạn ở đây. Xin hẹn lại một dịp khác, giờ xin chuyển sang đề mục mới vậy nhé!
37. THỰC HÀNH CỤ THỂ (09)
* Cô T. (ở kế bên nhà) có đứa con gái nhỏ lúc đó chừng ba, bốn tuổi. Suốt từ lúc sơ sinh đến giờ, có bệnh lại đưa sang tôi…
Mấy ngày liền, bé đòi Ba bế lên đặt ngồi trên trụ cổng trước nhà chơi, độ vài lần như vậy thì bị – nói nôm na là “bị phạt”!
Ông bà xưa nói hai bên trụ cổng có hai vị Thần Thanh Long – Bạch Hổ canh gác; con bé lên cơn, cứ giật nảy mình, khóc thét lên từng hồi ra vẻ hốt hoảng kinh sợ lắm!
Tôi cho điện trấn an thần kinh thì bé hết, về nhà ngủ lại bị… Đến nửa đêm cô T phải mang cháu sang nhà tôi, cháu mới bình ổn trở lại và ngủ ngon tới sáng!
Cô T người không có bệnh gì, nhưng nước da tái mét như người bị bệnh trầm kha, ốm chỉ còn da bọc xương, tôi khuyên nên đi bệnh viện xét nghiệm, sợ bị lao… Về sau sang tôi chẩn bệnh mới hay bị tà nhập!
Sau khi đẩy phần âm và tà khí ra hết, tôi cho điện bình ổn cơ thể, cô T dần khỏe mạnh, “có da có thịt” trở lại… Cô T theo học nhân điện, nay trở thành người chữa bệnh giỏi và có năng lực về tâm linh cao!
* Cậu Phong (nhà ở cổng chợ Hiệp Thành) – người không có bệnh gì, tự dưng không ăn và ngủ được suốt hơn ba tháng. Bệnh viện không chữa được trả về chờ chết, người chỉ “còn da bọc xương” với hai hố mắt thâm quầng, tay chân run lẩy bẩy và hay bị ngất xỉu, khuôn mặt ai nhìn thấy cũng phải giật mình…
Tôi chẩn thấy Phong bị tà án vào, tôi giải tà xong rồi cho điện vào làm cho ngủ, làm ăn được! Cậu Phong về nhà lúc mười giờ sáng, lăn ra ngủ một mạch đến ba giờ chiều, tỉnh dậy đòi Mẹ mua chuối cho ăn… Phong ngồi ăn hết một nải chuối hai kí, cả nhà lo, cứ sợ trúng thực vì đã lâu không ăn được gì!
Tôi chữa thêm một tuần thì cậu Phong ăn ngủ bình thường trở lại, có điều đôi bàn tay lúc nào cũng run! Tôi xin thầy Hải Thượng về chẩn, thầy nói Phong bị nhiễu “đám rối thần kinh dương”, có thể do một thời gian dài không ăn ngủ được, bệnh này rất khó hồi phục, chỉ cầu may khi khỏe mạnh bình thường trở lại sẽ hết.
Tính đến nay đã mười lăm năm, cậu Phong vẫn còn sống và khỏe mạnh ở chợ Hiệp Thành!
* Cô H. (người Tàu lai ở chợ Hiệp Thành, người tôi đã kể vào quyển một), về sau lấy chồng, có đứa con trai sáu tuổi! Một buổi chiều H đưa con lên nhà tôi bảo: “Con em bị tà nhập tháng rưỡi rồi đi khắp nơi, bệnh viện nào cũng thua! Cứ sốt rồi rét, nói năng lảm nhảm đau nhức khắp người và bỏ ăn bỏ ngủ”!
Tôi trụ thần nhìn, thấy một vong quỷ đàn ông tuổi chừng năm mươi, người chỉ còn bộ xương, trần truồng đứng đó! Tuy ngạ quỷ nhưng vong rất hiền, không có vẻ gì hung dữ…
Tôi tả nhân dạng, cô H chẳng biết là ai! Tôi giải tà và cầm sốt, rét, làm cho cháu ăn được, ngủ được. Hôm sau đưa hai Mẹ con vào nhà, tôi tiếp xúc với vong hồn, chỉ nói được một câu: “Tôi tên Tám!”, tuổi tác, vợ con nhà cửa không biết… Vong ấy bảo mình là anh cô H., nghe vậy H. hứa mai sẽ đem ảnh người tên Tám cho tôi nhận diện!
Cô H về, lúc ấy trời đã sụp tối, tôi đang đứng bên hông nhà, sực nghe sau lưng có tiếng nói: “Thưa cô Hai!”. Giật mình quay lại, tôi thấy vong tên Tám: “Xin cô có gì cho tôi ăn với, tôi đói!”… Tôi vào nhà, đem ra gói bánh ngọt, vong đứng ăn từ tốn, nhẹ nhàng, xong lại nói: “Phiền cô Hai cho tôi ly nước”. Thấy vậy, tôi hứa mai sẽ mời về ăn cơm- Rồi tôi quên khuấy đi mất!
Mãi đến chiều tối hôm sau, lúc tôi đang nấu thức ăn, có một cọng đậu cove đang xào trong chảo rơi xuống đất, xãy thấy có một chiếc bóng chạy vào nhặt lấy ăn - ra là vong tên Tám! Tôi xin lỗi và dọn cơm ra mời vong ăn (lúc đó, tôi chỉ ăn cơm một mình). Tên Tám vừa ngồi xuống, ngước lên nhìn tôi nói: “Cảm ơn cô Hai!”… Đôi mắt xanh lè vừa lóe lên, theo phản xạ tôi tống cho một đấm, vong ấy văng ra ngoài! Bước vô nhà, vong nói: “Tôi đâu có làm gì, sao cô Hai đánh tôi?”. Tôi xin lỗi: “Tại ông nhìn tôi làm tôi sợ, thôi ông cứ ăn một mình rồi đi nghe”. Lúc đó tôi như người sắp xỉu, bế tim, lê được vào buồng ngồi thiền độ năm, mười phút sau mới trở lại bình thường!
Những âm vong ngạ quỷ, yêu tinh có đôi mắt màu đỏ hoặc màu xanh. Nếu ta tình cờ nhìn thẳng vào mắt sẽ bị khí âm truyền sang làm cho loạn thần, bế tim ngay lập tức…
Qua ngày sau, H đem ảnh người tên Tám lên, nhìn tấm ảnh lúc còn sống mập mạp và tươi cười, tôi lắc đầu: “Không phải người này!”. Cô H đưa tấm ảnh lúc chết nằm trên giường, nhìn vào giống y hệt âm vong, không sai khác chút nào! Tôi xin Mẹ về trợ Điển để cho vong tiếp xúc với cô H.
Mẹ về hỏi vong vẫn không biết gì hơn! Mẹ giải thích: “Những vong chết do bệnh dữ hoặc nạn tai, trước lúc chết đau đớn quằn quại, thường vướng nghiệp ngạ quỷ thành vong điên, không còn nhớ gì, đa số là hồn xiêu phách lạc”…
Mẹ lấy tấm ảnh đưa tới trước mặt, đặt bàn tay lên trán tên Tám, buông ra, vong tỉnh ngay lập tức khai tên tuổi đàng hoàng, và nhắc lại những điều từ trước chỉ có hai anh em biết! Cô H tin đúng người, xin tôi cho cúng chiêu đãi âm vong một lần để chuyển vào Chùa tu (nghe chị em tôi thuyết phục, vong đã bằng lòng đi tu!). Âm vong xin được ăn những món mình thích lúc còn sống…
Ngày sau lúc sáu giờ tối, cô H cùng tôi cúng một mâm cơm. Cô H. mua một chiếc áo giấy màu đà, tôi bảo H. đưa ra tận ngoài ngỏ đốt! Vía tôi thấy tên Tám bước vào nhà xỏ áo, cài khuy, trên áo có một cà vạt màu xanh dương… Tôi hỏi thì H. xác nhận đúng là trên áo có cà vạt xanh! Từ đó tôi mới tin rằng âm hồn sử dụng được những đồ “hàng mã” và tiền, vàng âm của người trần cúng cho!
Từ kinh nghiệm này, về sau mỗi tháng tôi cúng chiêu đãi phần âm một lần, mời các âm phần từ khắp nơi tụ về để phân phối lộc thực… Trước khi cúng cho ăn, tôi án chữ Vạn của nhà Phật lên trán từng âm vong một, vừa dụ dỗ vừa đe nẹt: “Phần âm nào có An Phật ở giữa trán mỗi tháng sẽ trở về đây lảnh lộc thực một lần, có ăn đầy đủ trong một tháng, không còn bị đói rét hay thiếu thốn nữa! Ăn xong phải tu tỉnh tìm đến đình Chùa miếu mạo mà nghe Kinh để sớm tiêu tan nghiệp chướng… Nếu ai phá khuấy chọc ghẹo mọi người thì An Phật sẽ hành cho đau đớn, nghe chưa!”
Họ có ăn không thiếu đói thì mới biết tu, ta gọi là “phóng tài hóa thu nhân tâm” vậy mà!
Phần vong tên Tám, vài tháng sau cô H lên nhà tôi, chưa kịp chào hỏi đã thấy vong một vị sư đầu cạo trọc mặc bộ đồ màu đà bước vào! Vong ấy xưng pháp danh là “Thiện Nhẫn Thiền Sư”, chính là vong tên Tám, biết cô H. tới nhà tôi nên tìm tới chào, đổi giọng xưng hô là “Tôi, cô”, không còn “anh anh, em em” như trước nữa…
* Cô Tiến, khi học nhân điện còn ở lớp thấp, thường xuyên bị vong về quấy phá liên tục… Có lần đi chơi Bình Dương hai ngày, vừa về tới nhà đã bị chóng mặt và nhức đầu, nôn mửa rất nặng… Sang tôi chữa bệnh, vừa đưa điện vô ngay lập tức lên cơn nôn gấp, tiếng ụa mửa vang cả nhà, nghe mà phát rùng mình!
Nghi Tiến bị vong phá, tôi dùng điện giải phần âm, Tiến lại ụa dữ dội tiếp… Biết không phải là vong thấp, tôi xuống giọng năn nỉ, xin lỗi và mời ra tiếp xúc, thì ra là một vị Thần ở chân cầu! Tôi bảo: “Tôi xá ngài một xá xin thứ lỗi vì tội sơ ý đã mạo phạm, để tôi bảo em tôi về quỳ giữa nhà lạy ba lạy xin ngài xá tội và rời đi. Để tối nay cô ấy làm ca đêm, có mệnh hệ nào chết bỏ con thì tội lắm!”
Cô Tiến về quỳ giữa nhà, lạy xong thì dứt hẵn… Lúc đó đã tám giờ ba mươi đêm, đến chín giờ ba mươi Tiến đi làm cả đêm hoàn toàn bình thường, không có chút di chứng nào!
Vậy đó, kẻ “thấp cổ bé miệng” phải xuống giọng năn nỉ, cầu xin nếu không muốn bị bức hại. Lúc đó vong Thần đang ở trong xác, nếu ta xúc phạm thì họ hành xác nặng nề hơn! Chỉ khi nào dụ được họ ra khỏi xác, ta mới bắt được…
Phải nói là đáng sợ! Thế lực của tà giới tác động lên người trần thế, khuấy đảo hành hà xác trần, các phương tiện y học hiện đại cũng đành bó tay bất lực! Hèn gì có người nằm hết bệnh viện này đến bệnh viện khác mà bệnh vẫn hoàn bệnh.
Người thiển cận vô tư ỷ lại vào các phương tiện khoa học tinh vi, cho rằng có sức mạnh vạn năng, đâu biết chỉ một cái búng tay của cõi khác đã đủ làm ta khốn đốn…
Chúng ta, những con người đứng chân trên mặt đất, tưởng chừng “vững như bàn thạch”, nào hay đâu chỉ một trận cuồng phong đá chạy cát bay, những thành quả bao năm gầy dựng có thể tan thành tro bụi… Loài người bé nhỏ và bất lực trước sức mạnh vô hình của cõi giới khác, chỉ cần liên tưởng đến thế đứng chênh vênh ngoài rìa quả địa cầu đã thấy ngay những lầu các, đền đài cũng chỉ như bọt biển. Nếu mốt mai lực hút của trái đất này không còn nữa, chúng ta sẽ về đâu?
Đâu phải chỉ một lần “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, trái đất này đã bao phen rơi vào cơn “Đại biến di”, tiêu tan tất cả để rồi tái tạo lại từ đầu đấy thôi. Chúng ta hiện diện ở đây ngày hôm nay, liệu ngày mai còn có ta không giữa cơn hồi sinh mới, khi vũ trụ rùng mình đổi thịt thay da…
Vẫn còn, còn một “Quy luật bất thành văn”, luật của lẽ công bằng tạo tác và hành xử, luật của “cái Quả sinh ra từ cái Nhân”, không có nhân làm sao có quả!
Ta gieo một hạt ớt, hạt xoài, mốt mai nên cây trổ trái, ra hằng trăm, hàng vạn trái xoài, trái ớt, trái cay đắng hay ngọt bùi cũng là trái ta trồng đấy thôi… Thế thì sao chẳng cân phân để chỉ gieo nhiều quả ngọt, trái lành, gạn đục khơi trong để mai kia dòng trong ta hưởng!
38. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (06)
* Ngày xưa, vì gia cảnh khó khăn, tôi đã ba lần đi “kế hoạch” khi vừa kịp cấn thai - Về sau, cứ vài tháng tôi lại mơ một lần, trong giấc mơ thấy mình bồng bế đứa con trai chừng sáu, bảy tháng tuổi, cũng khuôn mặt ấy, quần áo ấy! Bé rất ngoan, không hay khóc nhè, khi khó ở trong người chỉ nhăn mặt tí xíu xong lại cười ngay… Tôi thấy mình lo bươn bả chữa bệnh cho người, bế con đi trần trụi ngoài đường, nay chỗ này mai chỗ khác… Mỗi lần thức giấc tôi ngồi thừ ra suy nghĩ: “Bé Chi con út lại là gái, đâu có con trai sao cứ mơ hoài, đứa bé ấy là ai?”. Nói đó rồi quên đó, công việc bộn bề cuốn hút, tôi lại quên đi…
Đến một ngày nọ ba đứa con về đủ trong nhà, tôi lại mơ thấy mình đi chữa bệnh cho người, ở nhà ba anh em mê chơi bỏ mất em bé… Vía tôi thấy mình hoảng loạn khóc la đi tìm con! Hai đứa lớn ngủ nhà trước chạy vào lay tôi dậy hỏi: “Mẹ mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?”, tôi kể lại giấc mơ, cháu hỏi: “Mẹ nhớ lại coi có bỏ đứa con nào không?”… Tôi rùng mình sực tỉnh, bèn khấn Mẹ: “Nếu đúng như vậy, con xin Mẹ cho mơ thêm một giấc giống y hệt để con tin!”. Liền đó tôi lại mơ: Vía thấy năm, sáu người bệnh tới nhà chờ chữa bệnh - Lúc đó con trai nhỏ của tôi (vẫn là đứa bé ấy) cũng đang tiêu chảy và nóng sốt, trời thì lạnh cắt da! Không kịp nấu nước nóng để pha, tôi đem cháu vô vòi nước rửa vội vàng, xong cho ngồi vào một cái sọt nhựa (loại để đựng quần áo), lo đi chữa bệnh cho người ta… Thằng bé đang bệnh, sốt cũng chỉ nhăn nhó vậy thôi chứ không thấy lên tiếng khóc!...
Tỉnh dậy tôi nghĩ thương con ngồi ôm mặt khóc một mình. Sáng ra tôi xin Mẹ cho tìm vong bé trai ấy, Mẹ Diêu Trì đưa về một bé trai đẹp như tranh vẽ, hai mắt to, tròn xoe, tóc màu bạch kim, bụ bẫm và xinh xắn như một thiên thần độ chừng ba, bốn tuổi!
Tôi ôm con khóc, xin lỗi vì đã bỏ quên con ngần ấy năm trời… Han hỏi, cháu cho biết mình là “Thiên đồng”, không có tên riêng! Cháu kể mình còn có sáu người bạn, ba trai ba gái ở cùng một nhóm. Do Thái Bạch Kim Tinh điều quản: “Chúng con bay đi, đến mọi nơi. Chúng con ca hát và múa cho hoa nở, cho chim hót và cho mọi người cùng vui…”
Tôi xin Mẹ cho lập bàn thờ, thờ bé. Mẹ nói: “Nó là thiên thần, không phải âm vong, thờ làm chi!”. Tôi xin Mẹ cho nhận con, và nhờ Mẹ đặt cho cháu một cái tên. Mẹ Quán Am nói: “Thiện Tâm, Thiện Phúc, Thiện Nhân”. Mẹ Diêu Trì thì bảo: “Thiên An!”. Tôi xin Mẹ cho chọn tên bé là Thiên An, và xin cho lễ cúng Cửu Huyền để nhận con. Hỏi bé muốn ăn gì, bé bảo: “Con muốn ăn thứ bánh mà các anh chị ăn tối hôm qua!” (Bánh bông lan), tôi muốn cho bé quần áo, giày dép các thứ và nón, dù… Bé nói: “Cho bé ba cái nón khác màu để bé tặng ba bạn trai, cho giày có quai hậu để bay không bị rơi, bé không cần dù, bé có cánh quạt mát lắm, không cần dù che đâu!”
Tôi bày một mâm có gà luộc và bánh trái các thứ, bé hỏi: “Bé đem các bạn về ăn chung có được không?”… Thế là bé đi gọi bạn trong lúc tôi thắp hương khấn Mẹ. Nghe tiếng quạt cánh “xành xạch” sau lưng, quay lại thấy bảy em bé giống y như nhau, có điều ba bé gái tóc xoăn dài, còn 4 bé trai tóc xoăn ép sát da đầu… Các bé đứng xuống đất thì bước đi bình thường, đôi cánh sau lưng biến đâu mất!
Tôi bảo: “Các con thử múa chào Mẹ coi nào!”. Ngay lập tức đôi cánh màu trắng lại hiện ra sau lưng, các cháu xếp hàng ngang trước bàn thờ Phật nhún mình vỗ cánh ba lần, xong quay lại phía tôi cũng làm như vậy! Tôi ngạc nhiên chỉ tay vào sau lưng các cháu, Mẹ Diêu Trì ra dấu ngăn lại, không cho tôi lên tiếng sợ cháu ngượng… Mỗi bé có một cái đuôi ló ra đàng sau, giống như đuôi cá, màu xanh da trời giống màu áo của bé, không có màu trắng như đôi cánh!
Từ đó tôi có thêm một đứa con trai - dạo đầu bé còn ngượng nghịu, về sau thì như con ruột trong nhà, có điều những thứ không ăn được bé ăn vào nôn ra thấy mà thương! Đậu hũ kho thịt bé không ăn được, sầu riêng cũng không…
Có lần bé về, thấy chị Chi đang nằm trong lòng Mẹ, bé đứng nhìn, đôi mắt mở to buồn rười rượi… Biết ý, tôi bảo bé Chi ngồi dậy, vẫy bé lại ôm vào lòng han hỏi, hôn lên trán và vuốt ve âu yếm! Bé bảo ở cõi Trên không có tình, không ai biểu lộ tình cảm với ai hết, chỉ có công việc và mệnh lệnh, cuộc sống tập thể đầy đủ, không thiếu thốn gì cả nhưng không có tình thương yêu: “Bé cũng muốn được Mẹ thương như thương chị Chi vậy!”, nghe con nói mà thương đứt ruột! Hèn nào cõi trên các Đấng cũng muốn xuống trần, mặc dù trần thế đầy cạm bẫy, đắng cay và hệ lụy… Nếu không có tình thương yêu, thì lầu vàng điện ngọc ích chi! Nếu con người sống với nhau lãnh đạm như một cỗ máy biết đi, chắc có lẽ hoa không nở, chim thôi hót, suối không còn chảy nữa và cuộc đời chẳng có mùa xuân…
* Sinh bé Chi ra, tôi quên bẵng đi mất phần Linh căn của bé là Minh Tâm, cứ ngỡ hồn nhập xác trần. Bé Chi lúc nhỏ đau bệnh liên miên, có một chứng nặng nề mà tôi chữa hoài không khỏi suốt mười mấy năm liền: chứng đau bụng! Bé thường lên cơn đau đột ngột, bụng đau quằn quại khiến bé gập người, mồ hôi vã ra, mặt mày tái mét - Cơn đau kéo dài chừng mươi, mười lăm phút, có khi cả giờ đồng hồ, tôi chữa bệnh hạ xuống ngay lập tức rồi lại lên tiếp như cũ, chừng ba, bốn lần cấp cứu mới hết hẳn!
Mới đây bé lên cơn đau ở lớp, nhà trường gọi Ba cháu lên rước về! Tôi sinh nghi gọi phần Linh căn bé Minh Tâm về, thấy cháu ngồi gục đầu trước bàn thờ Phật, dìu cháu đứng thẳng lên tôi thấy lộ ra hai mắt quỷ đỏ ngầu… Tôi hỏi thì cháu bảo hơn mười ba tuổi bị xe đụng vỡ lá lách mà chết, từ đó cứ đau hoài, mỗi lần lên cơn thì hai mắt quỷ lại xuất hiện, hết đau mắt không còn đỏ, cháu lại là bé Minh Tâm xinh xắn! Tôi chữa cho cháu, xin phép dùng Phật ấn để giải nghiệp cũ, hai phút sau bé Minh Tâm hết đau và bé Chi cũng tự động hết dù tôi không chữa cho bé…
Độ hai mươi phút sau, tôi phát đau bên thành bụng bên trái, đau đến đi đứng cử động không nổi, độ nửa tiếng đồng hồ sau, cơn đau tự động hết!
Đêm hôm sau nữa, tôi lại gọi bé Minh Tâm về chữa bệnh và giải nghiệp, cũng bị cơn đau bụng ở phía mình y hệt như lần trươc. Bé Chi nói: “Thấy chưa, con bị đau như có ai cầm dao cắt từng đoạn ruột, con nói mà Mẹ không tin”
Bà Barbara Ann Brennan, tác giả cuốn “Bàn tay ánh sáng” gọi những cơn đau đột xuất đó là ngọn giáo tiền kiếp”, tức sự đau đớn ở kiếp trước, ngay trước lúc chết, những cơn đau đến và ra đi không rõ lý do. Đương nhiên các xét nghiệm của bệnh viện không tìm ra bệnh, Phật bà Quán Thế Am gọi đó là bệnh do Căn hoặc Nghiệp!
Bệnh căn là bệnh của các phần Linh căn ở trên xuống, do có tội bị đi đày. Bệnh Nghiệp là bệnh của linh hồn vĩnh cửu, chịu cái đau do nghiệp tiền kiếp dồn trả… Chúng tôi sợ nhất là loại bệnh này, chữa “trần ai” mới hết, lại chịu đau thế, đau trả dữ lắm!
Không phải phần Linh căn chủ xác nào cũng được tự nhiên nhập xác trần, phải đúng thời điểm ấn định! Có người bốn, năm mươi tuổi, có người hơn hai chục, có người chưa đầy mười tuổi đã ứng về… Chỉ có phần bị đi đày mới nhập xác từ sơ sinh, những phần ấy không có linh hồn vĩnh cửu, chỉ có hồn hiện kiếp, và thường phải chịu một hoàn cảnh rất nặng nề (tùy theo tội trạng).
Mãn hạn lưu đày, nếu không gieo Nghiệp mới thì được trở về, bằng không lại phải đầu thai kiếp khác để trả tội đã vay! Người trần thế không biết, cứ gieo nhiều nghiệp chướng để rồi hết kiếp người phải chịu nghiệp báo luân hồi sang kiếp khác. Vì vậy mà chúng ta thấy nhiều hoàn cảnh trái ngang, nghịch thường và bất công đến nỗi khó tin, để chỉ có thuyết “Nhân quả luân hồi” của nhà Phật là hợp lý hơn cả!
Được làm thân người đã khó, chẳng chịu gieo Nhân lành… Đến một lúc mất cả thân người, thành ngạ quỷ, súc sanh, hồn lạc phách xiêu lang thang hàng xứ đói rét lạnh lùng, phẩn hận không nguôi - Hoặc như loài vô tri vô giác súc sanh, bàng sanh không còn cơ hội trở lại kiếp người được nữa.
* Mùng 8 tháng 5 năm 2006 Ba tôi mất sau mấy tháng nằm bệnh… Tôi về quê Nội ở Vĩnh Kim – Trà Vinh (nơi Ba tôi sống cùng người vợ sau) xin rước vong Ba về Sài Gòn thờ, cho trọn bề hiếu đạo.
Lúc đó, con trai lớn tôi mất mới nửa năm, mỗi ngày dọn cơm tôi vẫn gọi hồn cháu về ăn, không mời Ba vì tôi nghĩ dưới quê đã cúng cơm hàng ngày rồi… Đến bốn mươi chín ngày cúng thất tuần cho Ba, Ba tôi về, bước vào nhà xá Bàn thờ Phật ba xá rồi quay lưng đi ra không nói gì đến tôi! Tôi gọi lại han hỏi xem ba có thiếu thốn và cần thiết gì không, Ba nói có một câu rồi đi: “Nếu có thể thì con giúp Ba, Ba hiện đang ở cửa ngục thứ bảy, bị tra tấn đau đớn lắm!”. Tôi nghe vậy khóc ròng…
Từ ấy trở đi tôi tụng Kinh Cầu siêu cho Ba. Khi bắt đầu tụng kinh, tôi xin phép đưa phần Linh Điển của mình tới tận cửa ngục thứ bảy để tụng một thời Kinh Siêu độ, cầu cho tất cả các tội nhân trong ngục ấy cũng được nghe để phát tâm tu trì hầu tiêu tan nghiệp chướng, được đầu thai trở lại làm người!
Suốt thời gian tụng kinh, tôi luôn thấy mình ngồi giữa một hành lang tối đen, hai bên là tường thành bằng sắt cao ngất không tìm thấy cửa. Có lúc Vía tôi thấy mình mò mẫm đi tìm, áp tai vào thành sắt mà chẳng nghe động tĩnh gì, chỉ có sự im lặng lạnh lẽo cùng tiếng kinh tụng từ miệng tôi vang lên nghe rõ mồn một giữa chốn không người…
Trong một tuần liền, tôi bị đau nhừ nhẫn. Thỉnh thoảng chừng mười lăm, hai mươi phút lại nghe một luồng đau rát và nóng buốt vút qua ở sau lưng, y như có ai cầm roi nung lửa mà đánh, đau rát và nóng đến kinh người… Tôi sợ quá nói với Má: “Chắc con bị ung thư xương!”, Má tôi bảo đi bệnh viện xét nghiệm kẻo rồi bệnh chuyển nặng không kịp chữa!
Tối hôm sau, khi tụng kinh tôi quên khuấy lời khấn “Đưa phần Linh Điển tới tận cửa ngục”. Thế là sáng hôm sau hết đau! Nghiệm lại tôi biết mình đã chịu đau thế cho Ba…
Đến rằm tháng bảy - tôi cúng cơm chay và kết hợp chiêu đãi phần âm! Ba tôi về, vui cười Bảo tôi: “Ba được lên cửa ngục thứ Ba rồi, cảm ơn con”. Từ đó, mỗi lần cúng cô hồn hàng tháng, tôi lại xin cho Ba tôi và con trai về làm chính chủ đứng ra phân phối lộc thực để tạo công đức mà “đoái công chuộc tội”. Tôi cũng khấn xin quy công đức chữa bệnh, giúp người từ giờ trở đi cho Ba tôi để xin giải nghiệp cho Ba… Sau ngày giỗ hai năm của Ba, đêm ấy tôi nằm mơ: tôi thấy mình đi làm công quả ở Chùa - chỉ có một mình làm đủ thứ chuyện nặng nhọc, nào đắp đường, nào nhổ cỏ trồng cây… Mãi đến chiều tối mệt lã, tôi vào Chùa chào Sư Cô Trụ Trì nói: “Con làm xong việc rồi, thưa Sư cô con về”. Lúc ấy Sư Bà đang nằm trên giường bảo: “Con thấy gì không Lan? Ba con ngồi trên bàn đà đang cười kia kìa!”. Có thế, tôi giật mình tỉnh giấc… Từ “Bàn đà” hoàn toàn lạ lẫm với tôi, nhưng nghe nói Ba cười là tôi biết có tin vui cho Ba rồi!
Từ hôm ấy trở đi Ba tôi được mãn hết tội, về ở tại nhà tôi. Mỗi bữa cơm tôi chỉ ăn một mình một bát, nhưng dọn năm bát năm đũa mời Ông Bà Nội, Ba tôi và bé Tí, bé Thiên An, và cho những âm vong bị nhốt trong KTT ăn… Có điều lạ là âm hồn trong ấy tự bốc ăn bằng tay, không dùng bát đũa - Tôi đưa mâm thức ăn vào, họ thò tay ra bốc ăn, chén bát không sờ đến, tiếng những ngón tay khua xuống bàn nghe y như tiếng gà mổ thóc vậy!
Tôi cũng thấy mình chẳng giống ai, mỗi buổi cơm một mâm chén bát, ngồi bên mâm cơm nói láp giáp một mình - Đúng là “sống cùng cõi âm”, mãi rồi quen tật không còn muốn bước ra đường, bạn bè không có, các cuộc vui cũng từ bỏ, chỉ thích tịch lặng một mình!
Tôi làm mọi việc không phải vì mê tín, bởi tôi đã tận mắt nhìn thấy âm phần ăn uống chi dụng được những thứ mà cõi thế tài trợ, tôi cho họ ăn chỉ vì lòng nhân đạo đấy thôi! Có lúc tôi quên, lại nghe văng vẳng bên tai: “Cho Ba ly nước!” (vốn Ba tôi có tật vừa ăn vừa uống).
Có lần tôi nhận quyết định làm chủ nhiệm CLB thơ Đồng Vọng, về nhà vừa làm việc vừa nhớ lại cuộc họp công bố quyết định lúc sáng… Bỗng nghe tiếng ba tôi vang lên sau lưng: “Con Sáu Núi mà vừa gì!”, kèm theo một trận cười sảng khoái của Ba.
Ba tôi xưa kia là Hiệu trưởng trường làng, Má tôi cũng là cô giáo. Ba Má hồi mới yêu nhau làm thơ cho nhau nhiều lắm! Nay con gái Ba làm thơ giỏi, chắc Ba cũng mãn nguyện rồi…
Thôi, chắc tôi kể về mình cũng nhiều rồi, xin tạm ngừng ở đây, chúng ta sang chương khác vậy nhé!
39. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC
PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (2)
* Chúa Ngọc Nương Nương hiện hình:
Một đêm vào tháng 7/2005, điện cúp đột ngột! Nhà tôi lúc đó có ba cô cháu: tôi cùng cháu Minh và Tuyết (học trò nhân điện). Chúng tôi thắp cây đèn dầu ngoài miếu thờ Mẹ…
Tuyết bảo: “Để con ra thắp hương Mẹ rồi con về!”, vừa ra, Tuyết chạy vào ngồi sụp xuống chân tôi, nói không ra hơi: “Có ma cô ơi, ma ở ngoài miếu, ma nhập vào tượng Mẹ nhìn con cười đàng hoàng!”. Tôi nạt: “Nói bậy không, ma quỷ nào dám nhập vào tượng Mẹ!”. Cháu Minh nghe vậy chạy ra rồi cũng trở vào mặt mày xanh lét: “Đúng là người thật mà cô, thấy con tới cũng nở nụ cười”. Cô cháu tôi “lò dò” đi ra… Đúng là tượng Mẹ hóa thành người thật, chớp mắt và nở nụ cười với chúng tôi. Trời ạ! Khuôn mặt Mẹ Diêu Trì rộng lớn phương phi, hai mắt dài có đuôi, người tôi thấy mặt trái xoan nhỏ nhắn, mắt hai mí tròn xoe, nhìn thấy chúng tôi mỉm miệng cười chào!
Tôi chạy vào nhà, thắp hai cây nến to mang ra: “Chắc do cây đèn dầu ánh sáng yếu nên mình tưởng tượng ra thế!”. Khi ánh nến sáng rực soi vào, pho tượng cũng nhếch miệng cười chào như cũ, cả ba cô cháu đều sợ run… Vừa lúc ấy điện có, tôi nói hùng hồn: “Điện sáng, hết ảo giác rồi, còn sao được, ra coi!”. Vẫn là người nhập vào tượng Mẹ cười cùng chúng tôi như cũ…
Tôi vào nhà thắp hương xin Mẹ Diêu Trì, xãy thấy ngoài miếu bước vô một người tự xưng danh là Chúa Ngọc Nương Nương (Người đời hay thờ trong nhà, gọi là “Mẹ Sanh Mẹ Độ”), Người bảo mình có dịp đi qua, rẽ vào thăm cô cháu!
Nghe vậy tôi kính cẩn: “Con chào Mẹ”. Người ấy nói: “Chúa Ngọc là nữ cô, con gái của Mẹ Diêu Trì. Chúa Ngọc xin chào Lục Nương!”. Người giải thích với tôi rằng: tôi có một phần Linh căn bên Địa Mẫu, là người vợ phẩm thứ sáu của Ngọc Đế, phẩm danh là “Lục Nương”. Người cho biết: Ngọc Đế có một Hoàng Hậu, phẩm danh là Thiên Hậu Nương Nương, cùng với chín Ai phi, phẩm tước xếp từ thấp đến cao! Người có tài điều binh khiển tướng toàn cõi là “Cửu phẩm Lệnh Bà”, còn gọi là “Diêu Trì Địa Mẫu Chơn Thiên”.
Nói thế thôi, Chúa Ngọc người chào chúng tôi rồi đi!
* Chúa sứ Nguyên Nhung.
Rằm tháng 8/2006 (ngày Vía bà Cửu Thiên), chị em chúng tôi nấu bốn mâm cơm chay cúng Mẹ!
Vừa thắp hương xong, Vía tôi thấy một người bước vào ngồi xuống ghế, người ấy xưng: “Ta là Diêu Trì Địa Mẫu”, tôi nhìn kỹ, hóa ra không phải Mẹ, một người mặc đồ võ tướng, người nhỏ nhắn, đeo bao tay màu đen, chân mang giày cao ống của Tướng võ, cân đai mũ miện đường hoàng!
Tôi bực mình nạt: “Đừng có lừa tôi! Mẹ Diêu Trì nào mặc đồ võ, giọng nói cũng không phải của Mẹ! Cho biết người là ai, nếu không đừng trách sao tôi xúc phạm à nghe!”. Người ấy cười xòa, cung tay vái tôi một cái rồi nói: “Tôi là Chúa Sứ Nguyên Nhung, ái nữ của Diêu Trì Kim Mẫu. Chúa sứ Châu Đốc cũng là tôi, xin chào Lục Cô Cô!”…
Hết “Lục Nương”, giờ lại đến “Lục Cô Cô”, gì kỳ vậy không biết nữa! Tôi nói: “Con xin chào Mẹ!”. Nguyên Nhung cười khì một cái, bảo: “Nguyên Nhung là nữ cô!”. Tôi lại nói: “Người đời gọi Nguyên Nhung là Mẹ, tôi cũng là xác trần, xin cho phép tôi gọi Người như người trần thì hơn!”.
Chúa sứ Nguyên Nhung nói: “Người làm khó tôi, tôi không thể tiếp chuyện cùng Người, tôi đi đây. Xin chào!”. Lại cung tay vái một vái rồi biến mất…
* Lê Sơn Thánh Mẫu:
Tôi không nhớ Mẹ Lê Sơn về với tôi lần đầu như thế nào, chỉ nhớ hình tướng Mẹ như đàn ông: mũi dài, môi thâm, miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu… Người về với tôi hay mặc bộ đồ gấm màu trắng kem, cổ dantone, tay lỡ rộng! Tính người nóng nảy bộc trực, ăn nói bỗ bã bình dân, không kiểu cách, quyền uy, chẳng cần “thủ lễ thủ bộ” gì cả! Người giống như một bà Mẹ miền quê chơn chất nghĩ sao nói vậy, thực thà như đếm…
Nhớ lần đầu gặp Mẹ, tôi đã “phỏng vấn”: “xin Mẹ giải thích cho con biết: tại sao những xác Đồng múa bóng, múa rỗi thường đa số đều “ái Nam ái Nữ?”. Mẹ cười nói: “Không biết nữa! Chắc tại giống ta nên ta chọn!”. Mẹ giải thích thêm: người Nam thì có sức nhưng thiếu độ mềm dẻo, người Nữ lại sức không bền! Múa rối cần người có sức lực lại phải mềm dẻo trong cử điệu.
Tôi vẫn còn nhớ có lần Mẹ Lê Sơn rầy dạy tôi một cách chân tình như sau: “Bây nhịn Mẹ một chút không được sao (ý nói Mẹ Diêu Trì), cứ cãi lại hoài. Bà nói thì cứ im nghe đi, từ từ rồi tính! Ta nói cho mà biết nè: từ cõi dưới tới cõi trên chẳng ai là không thích “nịnh” hết! Ngọt ngào một chút với Bà cho Bà vui. Bây được chứ không mất mát gì đâu mà lo!”.
Mẹ Lê Sơn nghe nói thì “dễ chịu” vậy đó, nhưng chớ có lầm! Mẹ “hét ra lửa” chứ chẳng chơi - Làm cho Mẹ giận đi rồi biết… Mẹ là người chủ lễ, từ lúc Mẹ về, tôi được Mẹ dạy dần dần các lễ tiết trong nghi thức thờ cúng, sao cho đơn giản nhẹ nhàng, ít tốn kém và đạt kết quả…
Bề Trên vốn không chú trọng về hình thức mâm cao cỗ đầy, chỉ cốt thanh sạch và trang nghiêm là được!
Tôi viết lại đây tặng các bạn cách cúng để thượng Trang thờ hoặc ngày Lễ, Vía… Các bạn có thể sử dụng cho mình, và tôi chịu trách nhiệm về sự ứng nghiệm! Chỉ cần các bạn thực hiện đủ các bước mà tôi đề ra - Còn một vấn đề quan trọng không kém lễ tiết là phương hướng, nơi đặt bàn thờ, bài vị... xin chuyển sang đề mục liên tiếp, để cho bạn đọc tiện bề tra cứu!
40. LỄ TIẾT
I) Trang thờ Phật:
* Phương hướng:
- Chính giữa phòng khách, đối diện cửa ra vào hoặc phòng thờ
- Trên cửa “Bản mệnh” (tức cửa chánh trổ vào buồng), nằm trên cao ở vừa tầm với hoặc cao hơn.
* Thời gian: giờ Ngọ (từ 11g15 đến 13g), ngày rằm hoặc mùng 01 hàng tháng (tính theo âm lịch)
* Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, 01 trái dừa, 01 lọ hoa (huệ trắng hoặc hoa sen), 02 ly nước, 01 chai dầu thơm, có chè xôi hoặc không…
* Sắp lễ: bên phải bàn thờ là lọ hoa và 01 trái dừa, bên trái là đĩa ngũ quả, 02 ly nước để chính giữa phía sau lư hương.
Hình thờ không cần đưa lên Chùa để “khai quang điểm nhãn”, chỉ cần lau rửa sạch sẽ là được! Nếu hình thờ không có đèn chiếu, ta mua thêm hai bóng đèn nhỏ đặt ở hai bên trang thờ để đón thanh khí.
Người làm lễ phải tắm gội sạch sẽ, mặc đồ dài, đúng giờ Ngọ thì thắp ba nén hương (tất cả các bàn thờ khác đang có trong nhà cũng phải cúng hoa trái và thắp một nén hương)
* Lời khấn: Con tên: … là chủ của ngôi gia này! Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhằm giờ Ngọ. Được ngày lành tháng tốt con xin phép đại diện toàn gia thượng trang thờ Phật (Phật Bà hoặc Phật Ông).
Con xin phép cung thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) về ngự tại ngôi gia của con, để trong nhà có Minh Chủ, đón khí thanh về, xua trọc khí rời đi! Cầu xin cho vợ chồng con cháu trong nhà trên dưới thãy đều biết tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ để đẹp dạ Ông Bà Tổ Phụ cùng các Đấng.
Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước. Kính thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) hoan hỉ ngự về nhậm lễ…
(Cắm ba nén hương vào lư hương xong dùng chai dầu thơm xịt phía dưới chân hình thờ hoặc tượng, xịt vào dưới bình hoa và lư hương, xịt bốn góc trang thờ để làm lễ tẩy trần)
Quay lại rót hai ly nước kính cẩn dâng lên bàn thờ, xong quỳ xuống lạy ba lạy, đứng lên xá ba xá!
Nên nhớ các lễ cúng thượng trang hoặc ngày giỗ chạp, ngày Vía… nước và rượu phải dâng lên mời sau khi thắp hương và khấn. Bình trà (hoặc rượu) và các ly sắp sẵn phía sau lưng, khấn xong mới rót mời!
Nếu là nhà mới hoặc mới chuyển chỗ ở, ngay ngày giờ thượng trang Phật chúng ta có thể cùng một lúc thượng trang tất cả các bàn thờ khác trong nhà, không cần chờ đúng ngày lễ, Vía… Điều này làm đơn giản và chỉ tốn chi phí, công sức cho một lần thượng lễ.
Muốn thượng nhiều trang thờ cùng một lúc, ta phải sắp sẵn cỗ lễ, tất cả lễ tiết đều phải hoàn tất trong giờ Ngọ, quá giờ xem như lễ ấy bất thành!
Chai dầu thơm để trên bàn thờ Phật, ngày Vía hàng tháng sau khi cúng lễ, thắp hương ta lại xịt tẩy trần bàn thờ (nếu để ở bàn thờ khác, ta chỉ dùng riêng tại chỗ, không đem xịt sang chỗ khác được).
II) Trang thờ Thần Tài, Thần Địa:
* Vía thần Tài mùng 10 hàng tháng! Nếu cúng ngày Vía thì thêm một đĩa tam sên và hai chung rượu (rượu trắng, không dùng rượu pha), đĩa tam sên gồm có ba thứ: thịt, trứng, tôm (hoặc cua) luộc chín.
* Phương hướng: bàn thờ đặt trong phòng khách hoặc phòng thờ, đối diện cửa cái, tránh không nên để ở (hoặc bên) gầm cầu thang lên lầu hay gác, (cả trang thờ Cửu Huyền cũng vậy). Nên để ở góc phải hay trái, không để chính giữa nhà.
* Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, hoa, 02 ly nước, chè xôi (lễ thượng trang cúng, khấn sau khi thượng bàn thờ Phật)
* Lời khấn: con tên……… là gia chủ của ngôi nhà này. Hôm nay là ngày… tháng… năm…, nhằm giờ Ngọ! Được ngày lành tháng tốt, sau lễ thượng trang Phật, con xin phép (Phật Bà hay Phật Ông) cho con cung thỉnh phần linh Điển của thần Tài thần Địa về ngự tại ngôi gia, để phò hộ cho gia đạo chúng con trên dưới trong ngoài bình an vô sự, tài lộc hanh thông!
Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước mời Nhị Thần ngự về nhận lễ vật cung nghinh.
(Cắm 3 cây hương lên bàn thờ, xịt dầu thơm dưới chân hình tượng, bình hoa, lư hương, bốn góc bàn thờ xong rót nước dâng cúng, lạy 3 lạy, xá 3 xá… thế là xong phần lễ Thượng Trang)
III) Bàn thờ Cửu Huyền:
Điều nên nhớ: nếu chỉ thờ từ cha Mẹ trở xuống con, cháu… ta có thể thờ bình thường, nếu có thêm ông bà, bắt buộc phải có bài vị Cửu Huyền để đại diện cho một chi phái, kiến họ! Bài vị có chữ hoặc chỉ là một tấm gỗ trơn để trên giá gỗ (có làm bán sẵn ở tiệm bán đồ thờ).
Không có bài vị Cửu Huyền là thất cách, con cháu cũng như gia chủ trong nhà sẽ bị hành liên miên, đau ốm, nạn tai và trục trặc, xào xáo bất an…
* Thời gian: cùng ngày với bàn thờ Phật, hoặc chọn một trong bốn ngày Vía Cửu Huyền: mùng 3, mùng 7, 13 hoặc 17 hàng tháng! Từ đó trở đi ta lấy ngày này làm ngày Vía Cửu Huyền, mỗi tháng cúng một lần cũng vào giờ Ngọ!
* Phương hướng: dưới bàn thờ Phật hay ở một góc phòng khách, hoặc trên đầu tủ thờ, hai bàn thờ phải đặt cách nhau tối thiểu 60 cm.
* Lễ vật: 01 mâm cơm (hoặc 01 con gà luộc, cháo hoặc xôi chè), 01 đĩa ngũ quả, 01 bình hoa, 02 ly trà, 02 ly rượu trắng, 01 chén gạo, 01 chén muối, giấy tiền vàng bạc…
(Gà cúng nên mua loại gà trống nhỏ độ chừng hơn kém 01 kí)
* Lời khấn: hôm nay ngày… tháng… năm nhằm giờ Ngọ! Con tên…………… là gia chủ của ngôi nhà này. Được ngày lành tháng tốt, con xin phép thượng trang thờ Cửu Huyền.
Con xin phép các chư vị Thần Tướng tứ trụ gia môn cùng thần Tài thần Địa, tam vị Táo quân… cho phép con cung thỉnh Linh Vị Cửu Huyền về ngự tại ngôi gia, để con cháu tiện bề hương khói trả ơn Ông Bà tộc Tổ.
Con xin đại diện cho gia đình: vợ chồng, các con cùng các cháu xin mời đại diện chi phái, tộc họ tứ thân phụ mẫu của vợ chồng con về ngự trên bàn thờ. Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng hương cung thỉnh Ông Bà Tổ Phụ… (sau khi xịt dầu thơm làm lễ tẩy trần, ta mới sắp bày thức ăn hoặc hoa quả, để tránh dầu thơm bay vào các thức, dầu thơm cũng xịt bên dưới hình thờ, lư hương, bình hoa và bốn góc trang thờ)
Bày thức ăn xong, ta rót dâng mời Ông Bà Tổ Phụ 02 ly nước và 02 ly rượu (rượu mời ít chừng ¼ chung, không nên rót nhiều).
Sau khi mời rượu, ta xin phép đốt hóa tiền vàng (lạy 7 lạy, xá 3 xá rồi đốt), tiền vàng khi đốt để vào một thau chậu bằng nhôm cũ, đừng bỏ ngoài nền đất mà đốt!
Nên mua hai chum nhỏ có nắp đậy để đựng gạo, muối cúng Ông Bà. Đậy nắp để nguyên như vậy đến tháng sau ngày cúng Vía Cửu Huyền ta thay gạo muối mới, gạo muối cũ đem ra nấu ăn bình thường.
IV) Các dạng lễ cúng khác:
* Cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng ta không cúng tiền vàng (vì Cửu Huyền đã có hộc của, kho của rồi).
* Bất cứ lễ cúng nào (ngay cả cúng giỗ) cũng phải vào đúng Ngọ. Nếu cúng khác giờ, xem như cỗ cúng bất thành, âm phần không được nhận lễ! Ngoài giờ Ngọ, cúng phần âm hoặc nói nôm na là “cúng cô hồn” ta có thể cúng từ 7 giờ tối đến 11 giờ đêm
* Lễ cúng không cần chờ đến tàn nhang mới dọn xuống, sau khi đốt hóa tiền vàng độ chừng mười, mười lăm phút ta dọn được rồi! Vì âm phần nhận lễ rất nhanh, để quá lâu ruồi nhặng bu đậu, chúng ta ăn vào dễ bị trúng độc…
* Các cỗ lễ cúng (ngay cả cúng cô hồn) ta đều đem vào ăn được, không bỏ gì hết! Vì vậy, khi cúng nên chọn món ngon mà ta ưa thích, đừng cúng thứ dở, để rồi đem vứt bỏ đi, ta sẽ mắc tội khinh rẻ âm phần!
Trừ cúng xả xui, giải nạn, giải tà - người cúng đem ra góc ngã ba, ngã tư đường mà cúng, và phải bỏ lại tất cả, không mang theo thứ gì về nhà, ngay cả chiếc quẹt gas… cúng xong trở về tới trước cửa nhà, ta đứng lại ngoài ngõ phủi sạch sẽ quần áo (để giải trọc khí, khí xấu không theo ta vào nhà)
* Nếu cúng cho các âm phần, âm căn hoặc Chúa Quỷ, Thần Thánh… không phải là các âm phần ở trong nhà, khi cúng ta để ngoài hàng hiên trước nhà, lệch qua khỏi cửa cái, về phía đường lớn có xe cộ lưu thông (để phần âm nhận rồi đi, không ở lại trong nhà. Nếu cúng giữa cửa cái, Ông Bà Tổ Phụ và các Chư Thần trong nhà sẽ không cho nhận).
Trừ các nơi làm ăn mua bán thì cúng trước cửa nhưng vẫn để lệch khỏi chính diện.
* “Trần sao âm vậy!”, ta thích ăn gì, thì cúng phần âm món đó, cúng xong ta lại dùng chẳng mất đi đâu! Đừng cúng thứ trái xấu, bánh dở… cúng xong có người vứt ra đường cho xe cộ qua lại giày xéo, trông xót xa biết mấy… cúng như thế chỉ tán tài tán lộc thêm mà thôi (lời Mẹ Diêu Trì dạy)
* Các Đấng cũng như Ông Bà Tổ Phụ, có cho lộc thì ta mới có lộc! Đồ cúng tùy theo gia cảnh, có tiền cũng nên cúng hoa đẹp, trái tốt! Các Đấng với Ông Bà nhìn thấy cũng đẹp dạ, vui lòng, ta mới hưởng lộc và giữ lộc được. Không tiền thì cũng lau rửa bàn thờ, dâng lên hai chung nước trắng với 1 nén nhang (lời Mẹ Diêu Trì)
* Cúng các Đấng cũng như các vị Thần Tiên, Trạng, Thánh Và Chúa Quỷ... khi có đồ mặn ta mới cúng rượu, cúng âm không có rượu (phần âm say sưa sẽ sanh tâm dữ hại người)
* Cúng các Đấng như Thần Tiên, Trạng Và Chúa Quỷ... ta cúng một đĩa tam sên, hoa trái, nước và rượu! Khi cúng, nên mua các con vật làm sẵn bày bán ngoài chợ, chớ nên mua đem về nhà mới giết mổ, cho đỡ phạm tội sát sinh, thêm âm khí, trọc khí trong nhà... Con vật khi đã chết là đã trả nghiệp rồi, ta không vướng nghiệp sát nữa... Gọi là “né tránh” chút xíu cho giải bớt oan nghiệp vậy thôi - Đã là người trần thế, chuyện “ăn mặn” là chuyện thường tình. Đôi lúc “buồn miệng” ta ra chợ mua một, hai kí nghêu sò ốc hến về luộc chín mà ăn, không hay biết vì ta mà trăm ngàn sinh linh nhỏ bé phải chết!
Hoặc “trứng vịt lộn” bỏ vào nồi nước nấu từ lúc nước còn lạnh đến nước sôi, chúng ta thử nghĩ xem các con vật trong ấy đau đớn đến thế nào!
Cũng cần phải “ăn để sống”, thôi thì mua con vật làm sẵn, ăn không ngon bằng đồ tươi sống nhưng đỡ phạm tội sát sinh... (lời Mẹ Diêu Trì dạy)
* Khi cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng, ta nên cúng thêm một mâm cho các âm phần của bàng hệ. Ông Bà ở đâu, con cháu chầu theo đến đấy! Con cháu, chắt có họ hàng xa gọi chung là bàng hệ, để cho họ đói thì họ quậy trong nhà...
Cúng bàng hệ phải để dưới thấp, không để trên mâm cao, họ không dám nhận! Khi cúng ta cúng thêm giấy tiền vàng bạc (nhưng phải xin bàn thờ Cửu Huyền chính trên cao cho phép), không cúng rượu. Thức cúng thì nên cúng những thứ âm phần các loại có thể ăn để no, hơn bánh trái thường chỉ để ăn làm vui... Ví dụ: bánh chưng, bánh tét, bánh đa, khoai củ...
* Mùng 8 tháng 8 hàng năm là ngày lễ Thông Thiên (tức ngày đường lên Trời mở cửa), ta có thể chọn ngày này để cúng giỗ Hội (Ông Bà Tổ Phụ đã mất lâu năm, chúng ta dồn lại cúng giỗ chung một ngày, gọi là ngày Giỗ Hội). Đây cũng là ngày Giỗ Nghiệp Tổ Nghiệp - Tông hoặc ngày ta dâng lễ cầu xin giải nạn, giải nghiệp...
+ Cúng Cửu Huyền: 01 mâm cơm, gạo muối, hoa, trái, 02 trà, 02 rượu (hoặc gà luộc, xôi chè, bánh trái)
+ Cúng các chư vị Quan Binh, Thần Tướng: đĩa tam sên, hoặc thịt heo quay (hoặc vịt quay), 02 trà 02 rượu, hoa trái, chè xôi, giấy tiền (loại để cúng chư Thiên).
+ Cúng Phật: hoa trái, chè xôi, nước.
* Ngoài ra còn vài loại cỗ cúng khác như:
- Cúng khai trương,
- Cúng nhập gia
- Cúng động đất cất nhà
- Cúng xoay chuyển mồ mã Ông Bà Tổ Phụ
- Cúng giải nạn, giải nghiệp
- Cúng rước vong chết đường, chết chợ trở về nhà
- Cúng đưa vong trẻ hư thai, chết nhỏ đi đầu thai
- Cúng Chúa Quỷ
- Cúng Binh Gia
Và thần Tổ Nghiệp... xin các bạn đón đọc ở HMLK tập 3, kẻo viết dài dòng e sa vào đường mê, không biết lối ra mất...
Người trần chúng ta có trong tay tất cả những phương tiện khoa học hiện đại, vũ khí tối tân, tưởng mình dõng mảnh nhất! Đâu hay rằng chỉ một trận cuồng phong thành quách cũng không còn. Ông cha ta tự ngàn xưa còn lưu truyền những nghi thức cúng lễ trang trọng và hoành tráng đến tận ngày nay, người ta gọi đó là “thuần phong mỹ tục”...
Mỗi buổi tối thắp vài nén hương trên bàn thờ, không khí trong nhà ấm cúng hẳn lên! Các ngày Lễ Vía, cỗ cúng và các nghi thức cúng đơn giản mà trang trọng làm cho cả gia đình vợ chồng con cháu đều cảm thấy dậy lên trong lòng niềm tôn kính những người đã khuất, ý muốn trau dồi đạo đức nhân tâm và ý thức hệ trong mỗi cá nhân.
Lại nữa, trong căn bản của niềm tin, người ta đã tìm thấy sự bình an và tin tưởng. Đương nhiên là chớ đặt để niềm tin vào chỗ cuồng tín đến mù quáng, sa vào ngõ tối đường mê!
41. THỰC HÀNH CỤ THỂ (10)
Giờ chúng ta trở lại với gia đình ông H.A. (Phần trần xác của Mẹ Diêu Trì). Nguyên tích về gia đình ấy có thể kể thành trọn bộ tiểu thuyết hấp dẫn... Thế mà cũng chính từ đây, tôi phải chịu một nghiệp quả kinh khủng, nặng nề nhất trong suốt mấy mươi năm theo chân Mẹ độ đời...
* Mẹ ông H.A vừa mất, được Phật Bà cứu vong đưa đi, không theo đúng trình tự thông thường! Ông Bà cửu tộc thấy đột ngột âm vong biến mất, bèn cho người truy tìm...
Đến một ngày, ông H.A vừa lên nhà, tôi thấy ngay một vị theo sau mặc áo thụng màu lam, mặt mũi rắn rỏi, mày rậm mắt sắc như một thầy võ. Người ấy xưng: “Ta là Công Thần của tộc họ Hạ. Ta theo dấu đã lâu, nay mới tầm đến đây, ngờ rằng cô biết chuyện! Xin hãy báo cho tôi biết: âm phần của Bà.... ở đâu!”. Tôi sợ quá, chối rằng mình không biết gì, ông ta lại bảo: “Chúng tôi đề nghị giao âm vong lại cho cửu tộc, nếu không chúng tôi kiện lên Trên xin xử theo án lệnh!”. Ngay lúc đó, trong lúc tôi chưa biết phải ứng phó ra sao thì Phật Bà hiện ra, người bảo: “Am vong hiện đang ở trong cung Nội Đâu Suất, do ta quản lý và chịu trách nhiệm! Được rồi, ta sẽ cho vong về trình diện. Ngày mai con (chỉ ông H.A) dâng lễ cúng Cửu Huyền, đúng giờ Ngọ ta đưa vong Mẹ con về bái lễ Tổ tông!”
Qua ngày mai, mọi sự diễn ra suông sẻ...
Sau này, Mẹ giải thích: một phần Linh căn muốn được đưa trở về ngôi phải đoạn căn trần, cửu tộc được báo rõ ràng. Nay Nhà Phật độ vong Mẹ đưa về ngôi không theo luật định, cửu tộc họ kiện là phải! Nếu Mẹ Quán Âm không khéo thu xếp, mọi sự chắc chưa an…
Đến ngày ông H.A về quê cúng Giỗ hội Tổ tông, Mẹ Diêu Trì phán: “Mua một bộ áo mão cân đai màu vàng nghệ, đem về tộc đường dâng lên giữa bàn thờ Tổ để cung thỉnh phần Linh căn của Mẹ là Diêu Trì Địa Mẫu Chơn Thiên về ngự ở Từ Đường dòng họ”.
Từ ấy mới êm chuyện âm vong của Mẹ!
* Có lần, Mẹ Diêu Trì đưa về một Tiên ông, xưng là Thiền Quán Chân Nhân, một trong tám vị Bát Tiên, ông chính là phần Linh căn của cha H.A!
Người mặc áo thụng bằng vải trắng, tướng người nho nhã thư sinh... Mẹ bảo căn trần của cha ông H.A đã đoạn, giờ chỉ còn lại Linh căn thôi!
Lúc sinh thời, Mẹ ông H.A luôn để trên giường ngủ của mình hai cặp gối nằm và gối ôm. Đến lúc bệnh nặng bà nôn ra gối, ông H.A đem gối vứt đi, tỉnh dậy bà nằn nặc đòi đem gối trả về chỗ cũ. H.A sinh nghi hỏi Mẹ - bà nhận mình để như vậy, xem như lúc nào cũng có người bên cạnh, suốt sáu mươi hai năm qua, để thủ tiết thờ chồng nuôi con! H.A là đứa con độc nhất, xem như diễm phúc bằng non khi được là con của Mẹ...
Chính từ chuyện này mà nảy sinh ra bao nhiêu oan nghiệp mà suốt về sau, khi trở lại với Linh căn Mẹ vẫn còn ân hận khôn nguôi...
Ông H.A kể lại: ngày trước ông có một đứa con trai, lúc mới sinh cháu cứ khóc hoài, không cách nào dỗ được! Đưa sang ngủ với Bà Nội thì cháu nín khóc, ngủ ngon. Thằng bé bị bệnh bại não, đến mười bảy tuổi thì cháu mất!
Mẹ Diêu Trì bảo đó là phần linh hồn của cha ông H.A, vì tình quyến luyến của vợ mà không nỡ rời đi. Lẩn quẩn chung quanh, đầu thai trở lại kiếp người làm con, làm cháu... Những mối oan nghiệp như vậy thường kéo dài không lâu vì “nghịch số”!
* Sau khi Mẹ ông H.A mất một thời gian, đứa con gái của H.A mang thai, lần thứ hai sau mười bốn năm có cháu gái đầu lòng... Vui mừng không kể xiết khi biết đó là con trai!
Gần tới ngày sinh, một buổi chiều nọ ông H.A lên nhà tôi để xin Mẹ về trợ cho con gái của mình được “Mẹ tròn con vuông”. Bởi sau một thời gian dài mới đậu thai, e có điều bất ổn!
Mẹ Diêu Trì vừa bước vào nhà, chợt tôi nghe vang lên bên tai mình tiếng trẻ con: “Cháu chào Bà!”. Vừa nghe câu nói ấy, Mẹ Diêu Trì biến hẳn sắc mặt, sửng người không nói được gì! Thoắt cái, bà Cửu Thiên hiện ra, bảo: “Bà đi đi, để tôi!”... Mẹ quay lưng đi mất!
Bà Cửu Thiên giải thích: “Linh hồn người cha của H.A về tìm không thấy vợ nên độn kiếp vào làm con cháu trong nhà”. Tôi hỏi: “Nếu thế điều gì sẽ xảy ra?”. Đáp: “Đứa trẻ chết ngay khi ra đời, hoặc sống vài tuổi là cùng! Giờ phải dụng phép, quyền biến mà hóa giải...”
Bà Cửu Thiên mời về một người, tôi nhìn thấy một vị người cao to, mặc áo thụng màu trắng tinh, đầu cũng vấn khăn màu trắng tương tự những người theo đạo Hồi. Vị ấy xưng: “Tôi là Thần A Tức Mặc – Xứ Tân Đề Li Cổ!”. Bà Cửu Thiên hỏi: “Trong vòng một tuần lễ có đứa trẻ trai nào sinh ra ở gần nhà của ông đây?”. Thần A Tức Mặc đi một chốc sau, trở về bảo: “8 đến 10 ngày thì có. Một tuần lễ thì không!”. Bà Cửu Thiên bảo: “Phiền ông đem trao hồn đổi xác dùm ta!”.
Quay lại H.A, Bà Cửu Thiên dặn: “Con về tìm hai đĩa kinh Cầu An và Cầu Siêu. Khi nào con gái đi sanh thì bật kinh Cầu Siêu để tiễn vong, xong tới kinh Cầu An để trợ mệnh, nghe liên tục đến khi nào trẻ ra đời thì thôi!”.
Ông H.A làm đúng như lời dặn, cháu trai ấy hiện vẫn còn sống và khỏe mạnh, bình thường...
* Phần người vợ của ông H.A bệnh trầm kha, biến chuyển thất thường, mỗi lần trở nặng ông lại nhờ tôi ứng trợ! Đúng năm lần trở bệnh, tôi đã dùng hết năng lực và trí khôn xoay chuyển phần số, bà khỏe dần... Đến lần thứ sáu, Mẹ Diêu Trì về không cho tôi trợ cứu tiếp tục: “Lẽ ra nó đã hết số từ lâu rồi, hết con rồi đến cô Lan xin. Ta nể cô Lan lại kéo dài mệnh số, lỗi này ai chịu cho ta? Từ nay không được xin nữa nghe không?”
Xác trần thì không hay biết gì, nhưng linh hồn bà vợ ông H.A biết mình sau khi chết bị vướng nghiệp ngạ quỷ, cứ liên tục tìm lên nhà tôi để cầu cứu...
* Có lần bà bị huyết áp lên xuống đột ngột thất thường, khi nóng sốt nhức đầu, lúc lại choáng vã mồ hôi lạnh, làm mệt! Ông H.A điện lên tôi nhờ giúp. Tôi xin Điển Trên cho điều tra, trụ thần nhìn thấy... 13 con chó sói thành tinh! Con đầu đàn hiện hình thành một người đàn ông lực lưỡng, khuôn mặt bị cháy xém trông rất ghê, mặc áo sọc đứng thắt ngang lưng như loại kimono Nhật. Nhìn người biết là ông thầy Võ, thầy Pháp cao tay...
Tôi hỏi, người đàn ông ấy bảo vì có duyên với bà nên muốn về bắt hồn đi theo: “Bao giờ?”. Ông ấy bảo: “Tháng bảy này, thưa cô!”.Tôi lại hỏi: “Ông bị chết cháy à!”. Đáp: “Không, tôi bị cháy trước đó hai năm. Tôi chết là do bị đồng bọn đâm lén!”. Ông ta giở phanh áo, tôi thấy một vết đâm bên hông trái sâu hoắm... Người đàn ông ấy đưa cho tôi thấy Lệnh phép, khi đã có Lệnh phép thì tôi vô phương cứu! Vong ấy bảo: “Tôi yêu cầu cô không can dự vì tôi đã có Lệnh phép!”.
Bí quá, tôi bày cho ông H.A: tối nay sau khi thiền nhận điện thì xin nhà Phật cho phép án chữ Vạn vào 13 vong chó sói, xong phủ trường khóa cửa, phủ trường lên người bệnh và giường ngủ...
Đêm sau, ông H.A điện bảo tôi trụ thần nhìn xem sự thể ra sao! Tôi nhìn thấy cả bầy sói gục đầu xuống như mệt lã, riêng con đầu đàn vẫn đứng nguyên, ngẩng cổ lên trời mà tru liên tục. Đêm ấy lúc ba giờ sáng ông H.A đang nằm ngủ trên võng nghe tiếng la ú ớ vội bật dậy lại bên giường, ông thấy bà vợ đang nằm vặn vẹo người trong cơn mê và nói lảm nhảm, mặt biến dạng đi hẳn, trông rất đáng sợ!
Ông H.A lay dậy, tự nhiên từ phía bụng dưới của bà có tiếng vật gì rút ra nghe “soạt” một tiếng rất rõ ràng...
Thức dậy, bà vợ ông H.A kể: “Có một người đàn ông lạ mời tôi ăn một mâm thịt thú rừng rất ngon! Cả nhà không ai ăn, chỉ có mình tôi ngồi ăn đến no nê...”
Tối đêm sau nữa, ông H.A lại kể: “Tôi lên phòng thờ trên lầu ngồi thiền xong, sực nhớ lại tấm ảnh Phật ngày xưa Điển Ông đã trao tặng cho tôi cùng với lời dặn: “Nếu sau này có biến, hãy đặt tay lên tấm ảnh này khấn xin đích danh ta: Thích Ca Mâu Ni Phật, ta sẽ về trợ cứu!”... H.A làm y lời dặn, xuống lầu đến phòng ngủ, Vía thấy Phật Giáng Sinh thật lớn đứng án gần hết cửa ra vào, ông biết rằng vợ mình sẽ được cứu...
Phần tôi đang cầm điện thoại bỗng nghe tối tăm mày mặt, bế tim nghẹt thở và tay chân run lẩy bẩy... Biết ngay là mình vừa bị đánh lén, tôi gọi âm vong người đàn ông lạ ra hạch hỏi. Hắn nhận đã đánh tôi vì tôi không chịu giữ lời hứa của mình, đã “vẽ đường cho hươu chạy”... Tôi điên lên, trụ thần ngồi thiền năm phút cho tỉnh rồi bắt nhốt toàn bộ 13 “yêu tinh sói” vào KTT!
Sáng ngày, tôi thắp hương trình lên Mẹ sự việc, Mẹ Quán Am Bồ Tát về bảo: “Để ta đưa chúng về rừng!”. Tôi nói: “Mai mốt chúng lại về quậy nữa thì sao?”. Mẹ bảo: “Đó là định mệnh”.
Nếu “yêu tinh sói” chẳng đánh tôi, tôi đã không được phép động đến chúng, vì chúng làm theo án lệnh, như lời Mẹ Diêu Trì: “Có thành án thì mới xử được!”.
Chuyện này xảy ra đúng vào đêm rằm tháng tư năm 2008. Buổi trưa nhà tôi cúng Vía Phật Đản sinh, ngay tối hôm ấy tôi xử lý năm vụ (chỉ qua điện thoại), và thắng cả năm, trong vòng có hai tiếng đồng hồ... Là Ngài Thích Ca ứng trợ đấy thôi!
Nếu tôi nhớ không lầm, chỉ ba tháng sau “yêu tinh sói” lại trở về, lần này chỉ có một mình, và âm thầm theo sát bà vợ của H.A...
* Một lần nọ, cha vợ ông H.A tới nhà, ngủ lại một đêm! Chỉ đến năm giờ sáng ông nằn nặc đòi đưa về lập tức vì sợ, ông kể giấc mơ thấy mình đang nằm ngủ thì bị một người đàn ông to lớn bóp cổ, ông vùng vẫy kêu la, Vía thấy Mẹ ruột của mình (Bà Nội của vợ ông H.A) chỉ đứng nhìn mà không nói gì!...
Vài đêm sau, vợ H.A lại kể mình mơ thấy một con gấu thật to đuổi bắt, mọi người chỉ đứng xem mà không ai ứng cứu! Vía bà thấy Mẹ chồng nằm trên giường với một đứa cháu nội trai, còn bà thì bế một đứa trên tay bỏ chạy, kêu Mẹ cứu, Mẹ chỉ nhìn mà chẳng nói gì!
Cứ mỗi lần như vậy, vợ H.A lại trở bệnh nặng... thuốc men bác sĩ chẳng ăn thua gì, và tôi lại làm “người chiến sĩ vô danh”, chiến đấu cùng định mệnh! Khi tôi “giải quyết” xong mọi việc, vợ H.A qua cơn kịch phát và khỏe lại, phần tôi chịu đau thế, nằm lùi lũi năm, bảy ngày là chuyện thường...
Linh hồn của bà vợ H.A lên nhà tôi cầu cứu liên tục! Tôi bảo: “Bà trở về chuyển cho xác trần đến Chùa quy y đi, thì tôi mới có điều kiện trợ cho linh hồn!”. Hồn lắc đầu bất lực! Suy nghĩ mãi, tôi đưa linh hồn vào trong KTT, tối đến đem ra bắt ngồi nghe Kinh, ban đầu cũng thấy ngồi xếp bằng ngoan lắm, chỉ mười phút sau, quay lại đã thấy bà lăn ra ngủ... Được ba đêm thì tôi thua, trả linh hồn trở về với xác!
* Lần nữa, bà lại trở bệnh nặng, tôi khuyên ông H.A đưa vợ đến Chùa quy y, ông bảo: “Bà ấy không chịu, tôi mà ép buộc có việc gì xảy ra các con chúng nó lại đổ thừa”.
Đêm ấy, linh hồn bà vợ H.A lại lên cầu cứu tôi, với đôi mắt ngạ quỷ đỏ ngầu! Suy nghĩ mãi, tôi bèn xuất hồn đến tận nhà H.A, vô phòng khách bắt xác trần ngồi xếp bằng nghe Kinh... Tôi nhìn thấy bà ngồi đó, tóc tai rũ rượi, khuôn mặt vô hồn y như một người bị bệnh tâm thần, sau lưng có nhiều bóng người lố nhố... tôi độ chừng là âm vong của bàng hệ trong nhà!
Tôi lại gần, nói ngọt: “Nè! Tóc tai để bù rối vầy xấu quá, tôi cột lại cho đẹp nha! Chắp hai tay lại nghe Kinh đi nào!”, bà không chắp tay, hai bàn tay loay hoay làm dấu ấn phép, đôi mắt quắc lên đỏ ngầu! Vừa chợt thấy, tôi bắt ra trói nghiến vào đâu đó, nhìn lại, thì ra một ông Đạo sĩ - Tra hỏi, ông ấy bảo mình thuộc Nghiệp Tổ bên bàng hệ của vợ H.A... Binh của ông đứng chật phòng khách!
Tôi dùng lời khuyên giải và khuyến Đạo, xin phép trói vong người thầy Pháp ít hôm để cho linh hồn bà vợ H.A nghe kinh... Từ đó mỗi tối tôi bật Kinh Sám hối trong một giờ, lại cho thần thức xuống nhà H.A ép bà vợ ngồi nghe Kinh! Đến đêm thứ ba đã thấy bà tự động ngồi xếp bằng hai tay chắp trước ngực, mặt mày tươi tỉnh...
Một tuần sau vong thầy Pháp cũng ngộ đạo, xin vào Chùa quy y cùng 120 binh gia của mình. Tôi lại thắng một keo đấu trí và lực! Vợ H.A lại thoát qua một đợt kịch phát, phần tôi đau đúng một tuần lễ...
Bà vợ H.A bằng lòng theo ông vào Chùa xin lễ quy y Tam bảo!
Sau chuyện ấy, tôi thấy một giấc mơ lạ, trong lúc đang bệnh nằm dã dượi trên giường: Tôi thấy mình chữa bệnh cho hai người là chị em sinh đôi... Hôm ấy cả hai đang chuẩn bị đi xa, một người ngồi trong phòng khách căn nhà sang trọng ăn tiệc linh đình, còn một người ngồi bên hông nhà, bên mâm cơm đạm bạc, ăn vào lại nôn ra đầy cả áo...
Tôi thấy mình bước tới lấy khăn lau, người ấy hất tay tôi ra và sừng sộ mắng chửi lung tung! Tôi dịu lời phân giải cho nguôi, sau đó chạy lên xưởng đóng giày dép ở gần đó lựa mua hai đôi mang về cho hai chị em, miệng nói: “Đường đi xa xôi lắm, không có dép làm sao đi tới nơi cho được”.
Xong tôi trở về nhà, Vía thấy mình bị một đám người hung hãn tấn công rượt đánh rất dữ, chạy trốn đến cùng đường, tôi chui vào một xó ngồi ôm mặt khóc...
Tỉnh dậy, tôi biết ngay điềm giấc mơ ứng báo: hai chị em sinh đôi là xác và hồn người vợ của ông H.A, và đôi dép tôi đem cho chính là Phật Pháp, tôi bị đánh đòn vô cớ chính ra do lãnh nghiệp người...
Đến đây xin tạm khép chuyện gia đình ông H.A lại, ta sang đề mục khác! Mời các bạn đọc dăm bài thơ của Tịnh Vân, người “khách thơ” bị dồn ép do những việc làm “nghịch mạng” của bà thầy Nguyễn Thị Thanh Lan...
42. BÀI CA NGƯỜI ĐI KHAI HOANG
VỌNG CẦU
Có hồi chuông thiền mặc vọng đâu đây
Có ngọn cỏ héo gầy mơ sương sớm
Có cánh hoa nửa mùa e gió chớm
Có vần thơ đợi đếm khúc Nam Bình...
Ơi người khách trần du, chiều gió nổi
Nép vào đây cho vợi bớt phong sương
Mảnh khăn xảo choàng vai rồi sẽ ấm
Lễ Công Thần chỉ đôi ngụm trà suông!
Đây lều cỏ trăng về treo áo mộng
Đây sân rêu, buồn ngã nón trông chiều
Ở ngoài kia chỉ bời bời gió loạn
Nhẹ bàn chân, sỏi đá cũng đăm chiêu...
Về cõi tịnh, lắng nghe hồi chuông vọng
Khói sương bay ấm dạ khách cô thân
Ao trần buông, lòng chẳng chút phân vân
Tâm có nhẹ, thì xin cầu Lục Tự !!( )
KHÚC CHIÊU HỒN
Người không có cả một thời quá khứ
Người không còn chỉ một chút tương lai
Cơn lốc cuộc đời lạnh lùng vây phủ
Tiếng gọi tha nhân nặng gánh lưu đày…
Hoa vẫn nở miệt mài bên hiên vắng
Đỏ tím vàng…- ong bướm lại lần sang
Khung cửa khép, gió đi về thầm lặng
Mái tóc xanh, rồi tóc ấy võ vàng!...
Câu réo gọi, lời than van thống thiết
Tiếng phôn reo nhức nhói đến bàng hoàng
Nguồn ân cứu mượn vay cạn trút
Một góc đời người ngã gục, hoang mang…
Vẫn xa lắc đến bình yên cõi tạm
Khát khao tìm cành trắng đóa Vô ưu
Đêm Linh tử vọng trời cao đòi đoạn
Hồn lang thang lạc lõng chốn sa mù!
Người kêu cứu, và ta đợi cứu
Người gọi ta, ta biết đợi chờ ai?
Cơn gió cả tận trời Linh Thứu
Dạo qua đời - Đạo thế nào khai?
Đã cùng tận niềm đau thể xác
Vẫn chưa thôi đày đọa linh hồn
Người ngẩng mặt nhìn trời khao khát
Gọi hồn ơi! Hồn bỏ xác bay lên!!
14/5/2009
MAI VÀNG CÕI TỊNH
Thoáng bóng áo nâu chìm trong sương
Đất trở dưới bàn chân lặng lẽ
Xuân chuyển bước, sắc mai vàng rực rỡ
Đạo khai mùa,thế thế hoằng sinh!
Sóng tâm ba lan chuyển buổi Kinh hành
Mây Diệu Pháp nhuần che vạn vật
Trời Tế độ sâu dài, rộng khắp
Trống Đại Đồng vang tứ chúng hồng ân!
Cánh chim xa về đậu giữa đất lành
Thả xuống giữa thinh không muôn hồi chuông ngọc
Giun dế giật mình, cỏ cây tỉnh thức
Hoa Đàm nở cội Trần Vi!...
Rộng mở Đạo tràng, đẹp dạ Đấng Từ Bi
Trời đất nghiêng mình cung chúc
Vạn cánh tay trần làm nên Thánh Tích
Từ tấm lòng bi mẫn khách hồng nhan!
Cúi lạy Đấng Chí Tôn bóng cả dõi nhân hoàn
Cảm ơn người dẫn lối đưa đường về bên chân Phật
Hạt giống Thiện nảy mầm, vươn khắp
Mai nên rừng, công đức vạn đời sau ...…………
31/10/2007
(Kỷ niệm hai ngày viếng
Đạo tràng Chùa Tâm Thành – Bến Tre)
ĐẠO CA
Mượn “KHÚC VÔ THƯỜNG” ngẫm ĐẠO CA
Luân hồi kiếp kiếp dạo Ta Bà
Neo hồn bến Đục cầu Vô Ngã
Gởi xác dòng Mê – nguyện Lợi Tha
Giữ ý, lần theo đường Chánh Giác
Gìn lòng xa lánh nẻo Phù Hoa
Lợi danh, gió thoảng ngoài song cửa
Một chút tâm tình gởi bạn xa…!!
LUÂN HỒI
Bó hoa tươi rồi khô dần trên mộ
Gió sẽ mang đi!
Thân xác ấy khô dần nơi đáy mộ
Ai lòng “Thố tử hồ bi”?
Tên người bia mộ còn ghi
Hồn người phiêu dạt, nào khi hẹn về
Ba sinh dẫu có ước thề
Nắm tay chẳng được, giữ người được sao?
Nào ai xương trắng máu đào
Thác đi, một nấm cỏ khâu cũng rồi!
Cội cành khô lại đâm chồi
Viễn trình kiếp kiếp, luân hồi một thân
Tam đồ lục đạo phân vân
Bể trần muôn nẻo, xoay vần mãi sao?
Tang thương từng ấy đã nhàu
Khách hoàng tuyền hỡi, còn đau mấy lần?!
Tháng 10/2007
ĐỒNG VỌNG
Người gọi ta – Người gọi ta!
Bên trời đồng vọng
Đợi chờ – Thinh lặng
Nguồn sinh ca…
Mây triều thiên nở hoa
Tầng tầng nắng lụa
Cõi hoang trần sương pha
Dịu dàng lá ngủ!
Phút Thần Khải giật mình rơi lệ
Lối về xưa chạnh một câu thề
Ơi hồn Linh Tử
Sao còn ngủ mê?!
21/7/2007
BÀI CA NGƯỜI ĐI KHAI HOANG
“Ai người mang gươm mở cõi
Ai người lãnh ấn tiên phong
Tiếng chuông có thấu Đại Đồng?
Câu Kinh nhật tụng chuyển dòng nghiệp oan…”
Ai đi vào chốn hỗn mang
Thắp đuốc mà soi ngõ tối
Vấp ngã, chông chênh, lầm lỗi
Giáo khiên nào che phận người?
Ai lang thang một góc đời
Nhặt lấy giữa dòng cát bụi
Hạt mầm cuối mùa bão nổi
Gieo giống Toàn Chơn – đợi ngày…
Ngày nào nỗi đau biết hát
Người trở về miền lặng thinh
Khép cửa – tháng ngày luân lạc
Thành khói bay vèo hư linh!
Thấp thoáng hoàng hôn soi bóng
Nhân thế vời trông ngậm ngùi
Sau lưng chập chờn nỗi quạnh
Hồn theo cánh gió về trời…
24/7/2008
THẾ LOẠN
Cả cõi thế đang thời loạn động
Một lũ ma vô đạo diễu hành
Đôi mắt đỏ tìm trên sàn diễn
Chiều biến thiên mở cõi, khai thành…
Những hoàng hôn sẫm màu hương khói
Chẳng làm bầu trời xanh hơn!
Những đêm trắng gục đầu sám hối
Nào phai dấu vết tủi hờn!
Người trót mang dòng Thánh tích
Đem thân làm kẻ tội đồ
Nghiêng ngã muôn làn sóng trược
Ngùi tanh vị khí trần ô!
Ngẩng trông đất trời muôn hướng
Tìm đâu một khoảng bình yên
Giông tố bạo hành trường diễn
Một mình – say tỉnh triền miên…
Tháng 4/2008
NGỘ
Hạt mầm dưới cội thu
Nhân danh mùa sám hối
Tiết khí dầu âm u
Lòng hãy như giấy mới!
Cánh nhạn về theo xuân
Chút ân cần gõ cửa
Mau lên, chớ lần lựa
Yêu thương nhau, để mà...
Lợi danh, tấm áo khoác
Đâu che hết phận người
Khi trái tim biết hát
Hoa cỏ kia cũng cười!
Hạt giống Bồ Đề sinh
Từ cội nguồn giông bão
Từ ngưỡng cửa tâm linh
Sắc không đồng nhất thể!
Hạnh nguyện chữa viên thành
Ao trần sao nỡ bỏ!
Hạt sương chờ nội cỏ
Tinh – Khí – Thần vãng sanh !!
15/2/2006
VỌNG CẦU
(Những ngày “đau thế” kinh khủng…
càng kêu khóc, cầu xin lại càng đau!)
Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn
Một mình, nương cậy vào ai?
Con thuyền NO Ê cũng đắm
Còn trơ một vọng hải đài!
Ta nghe linh hồn than khóc
Âm vang rờn rợn thịt da
Tê điếng giữa làn môi nhạt
Ôi trời! Máu chảy thành hoa!!
Ngọn lửa âm cung bừng cháy
Mạch nguồn chân lý ra tro
Cả một lũ ma vô đạo
Nghênh ngang khoác lác, giở trò…
Nẩy lên, cán cân Công Lý!!
Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn
Linh tử làm tên quân thí
Dấn thân vào chốn loạn trường…
Gục đầu dưới bao sức mạnh
Đọa đày, chẳng một cứu sinh
Ngẩng trông đất trời vô vọng
Xin đừng giày xéo LÒNG TIN!!
25/3/2009
HỒN VÀ XÁC
Người nhìn xuống nhân gian bằng
nỗi ưu tư của Chúa
Đôi mắt buồn của Mây
Sự thờ ơ của Gió
Và Nhan Sắc đọa đày…
Một chút kiêu sa làm nền nhiễu loạn
Ngọn gió phong trần thổi suốt đường thơ
Trong hoang vu của thành quách ngày xưa
Ta nghe tiếng hồn hoang thức dậy
Rón rén, ngập ngừng mê dại
Vào hiện sinh tấu khúc Lạc – Hồn - Ca!...
Loài người say sưa nệm gấm chăn hoa
Ru ngủ con tim và lý trí
Trái đất già nua cằn cỗi
Đếm ngược thời gian tàn hoại, suy vi
Ơi này em Nhan Sắc – buổi ta đi!
Một trời loạn, tìm nhau sao được…
Ta đứng lại bên đường, ngơ ngác
Thẫm dấu hoàng hôn, bóng ngã trùng vây!!
25/5/2009
NỖI ĐAU TRẦN THẾ
(Cảm xúc khi nhìn ảnh một bà lão ăn xin. Anh phóng to khổ 30 x 40 do Thiếu Tướng Nguyễn Chu Phác, Giám Đốc bộ môn Cận Tâm Lý - Trung tâm Phát triển Tiềm năng con người Hà Nội gửi tặng cho tác giả Huyền Môn Lược Ký!)
Mẹ già lần dò gậy chống
Nỗi buồn rơi trên vỉa hè
Bỏ lại tình đời ấm lạnh
Mắt già bụi phủi sương che…
Đau thương trở thành nốt lặng
Bất hạnh đâm chồi cây khô
Sau lưng đói nghèo, cô quạnh
Trước mắt hiện thân hoang mồ!
Có ai đưa bàn tay nắm?
Dắt dìu mảnh đời bơ vơ
Có ai lau dòng nước mắt?
Xe qua, cuối phố bụi mờ…...
Mẹ già quay mình ngơ ngác
Chiều xuống, biết về nơi đâu?
Thị thành xa hoa gấm vóc
Buồn cao như gió ngang đầu!
Những bàn tay run vẫy gọi
Anh mắt cháy lời cầu xin
Nỗi đau nhân tình thống thiết
Quay lưng, ngoãnh mặt sao đành!!
15/6/2009
CHUYỆN NGƯỜI
Người ta đi tìm người thân
Bắt gặp giữa thế gian toàn kẻ lạ
Nụ cười va vào vách đá
Vỡ toang!
Người ta bước vào Nhà Thờ
Thấy những Linh Mục đang mở tòa phán xử
Sấm sét giáng xuống đầu bầy dị giáo
Cửa Hỏa ngục mở tung
Đức chúa cha khóc trên nóc Giáo Đường!
Người ta lang thang tới cửa Chùa
Thấy những kẻ ăn mày khất thực
Vị Thiền Sư lên bục giảng bài Đạo Đức
Di động reo, rúc rích tiếng chuột cười…
Đi vào Đại định, nhắm mắt, trên cao – Phật ngồi!!
Người ta đi một mình trên phố
Mắt nhắm mắt mở
Thấy inh ỏi tiếng kèn xe
Ngựa người lố nhố!
Thế gian rồng rắn đi về
Giật mình nhảy vội, đứng bên lề…...
Người ta đi một mình ra biển
Không bạn bè, người thân
Không Giáo Đường Đình Chùa, Phật, Chúa
Không giới cấm, điều răn
Chẳng có ai để sám hối, ăn năn, xưng tội!
Người ta ngồi ngắm trăng suông
Thấy mình rộng hơn biển, cao hơn núi
Và nhẹ nhàng hơn đám mây hoang
...Người đi vào với biển – thênh thang!...
05/7/2009
LÒNG MẸ
(Xúc cảm với tình Mẹ của cô Châu và cô Hiền – Hai Bà Mẹ không chồng nuôi hai người con tâm thần: một người 25 năm, một người 14 năm… Tôi chữa hiện nay đã ổn, không còn bị lên cơn, không phải dùng thuốc của bệnh viện nữa)
Nước tự nguồn xuôi về với biển đông
Biển chẳng rộng bằng trái tim của Mẹ
Muôn sao sáng giữa trời đêm lặng lẽ
Đâu mênh mông bằng tình Mẹ vô cùng…
Ôm con trong tay thuở tóc còn xanh
Lại dìu con suốt một thời tóc trắng
Dâu bể đắng cay trở thành nốt lặng
Mắt Mẹ già còn sương khói chiều hôm!
Quạnh quẽ cô thân bóng chiếc đâu sờn
Mẹ vẫn bên con, tháng ngày nghiệt ngã
Mặc thói đời đắng cay, giả trá
Vẫn thương con bằng tình Mẹ bao dung
Nào đứng lên đi, con có Mẹ nương
Mau tỉnh giấc rời cơn mê, con hỡi!
Những đêm trường lặng nghe trời gió nổi
Lời nguyện cầu Mẹ gởi đến vô biên...
Tiếng mõ câu Kinh lạc giữa đời quen
Mẹ vay mượn Giáo điều làm lá chắn
Quên nỗi muộn phiền, quên ngày cay đắng
Mẹ ôm con, ru cho hết một đời…!!
28/5/2009
MÂY TRẮNG
Trăng vỡ – hồn nhiên gió động cành
Vàng rơi, tâm thức cũng mong manh
Chênh vênh một cõi – Mê còn động
Mờ ảo đôi đàng – Ngộ chẳng sanh!
Mở túi Càn khôn, vời quả đắng
Khép vòng Luân nghiệp, khởi căn lành
Hương bay, vọng niệm tan thành khói
Mây trắng ngang đầu, mộng lại xanh!!
Tháng 6/2008
43. LIÊU TRAI (08)
Trong nhà tôi chuyện bất thường và dị thường xảy ra như cơm bữa, mãi rồi tôi không còn thấy sợ, chỉ biết ngao ngán lắc đầu hứng chịu, chịu một thời gian rồi cũng qua!
Tôi cứ như một ông Quan thanh liêm khờ khạo bị tội oan, đưa đi đày giữa chốn ma binh, để rồi phải chịu sự khuấy đảo, phá phách của chúng, và chỉ biết khoanh tay bất lực đứng nhìn…
Khi tỉnh táo, mỗi tối tôi trục âm một lần, trong nhà mới yên ổn qua một đêm. Chưa kể là âm phần chui trốn trong mọi xó kẹt trong nhà, trốn vào đâu thì phá hư ở đấy… Dường như tất cả máy móc trong nhà tôi đều bị “mazt”. Nếu tôi không nhớ trục âm vong, một thời gian ngắn ngủi là thay máy mới!
Tôi kể lại một số chuyện bất thường, bạn nghe như nghe kể chuyện Liêu trai, nghe qua rồi bỏ, chớ để bị ám ảnh mà sinh bệnh tâm thần!
* Tôi xuống giúp cho ông giám đốc một xí nghiệp xây dựng ở Long An, mang về bốn “yêu tinh” nữ (họ tự nguyện theo tôi, chờ ngày chuyển vào Chùa tu). Khi đưa họ vào KTT, tôi quên không đóng nắp lại… Trưa hôm sau tôi phát hiện điện thoại bàn bị hư! Mùa nắng nỏ, không có gió lốc, mưa giông, điện thoại mới dùng một giờ trước vẫn tốt, tự nhiên rồi “điếc câm”!
Tôi tìm kính đeo mắt, định ra sân xem lại đường dây, vừa cầm kiếng lên tay, có ai đó hất vào tay tôi một cái, kính rơi vỡ tan tành! Kính mắt của tôi thỉnh thoảng vẫn rơi, nhưng chưa lần nào bị vỡ nứt, rõ là có một sự va chạm rất mạnh mới làm vỡ nát cả hai tròng kính!
Tôi sinh nghi, trụ thần nhìn thấy bốn “yêu nữ” ngồi xếp bằng ngoan ngoãn trước mặt - Tôi hỏi, họ xác nhận đã làm hư điện thoại và kính mắt của tôi, vì: “Từ hôm qua tới giờ không nghe cô Hai nói gì, chúng con phải phá để nhắc cho cô nhớ!”. Tôi hỏi: “Các cô ra bằng cách nào?”. Đáp: “Cô Hai quên đóng cửa!”. Ra vậy! Vì chuyện này mà tôi mất sáu trăm năm chục ngàn: bốn trăm năm chục ngàn tiền kính và hai trăm ngàn mua điện thoại mới…
* Cô Bình tới nhà tôi nhờ chữa bệnh, lúc đó tôi đang ngồi máy may sửa lại chiếc áo thun mặc ở nhà. Chữa bệnh xong lại may tiếp. Đường may tự nhiên đi xiêu vẹo như người say, cắt bỏ may lại thì nghe “cụp” một tiếng: gãy kim! Tôi lấy kim khác ra thay, lại gãy… Tự mắng mình: “Máy đã cấn kim mà cứ để may tiếp bảo sao chẳng gãy”, thay kim khác, ngồi lên may… Nghe “phựt” một tiếng: đứt dây cuaroa!
Tôi kiên nhẫn lắp ráp lại, sợi dây cuaroa còn mới, vừa đứt lần đầu, thế mà lắp vô lại đứt nữa, cả thảy ba lần… Lúc đó trời đã tối, người vã mồ hôi lại đói nhừ, tôi bỏ đấy đi ăn cơm, ăn xong lên thắp nhang tối… Đứng quay lưng lại phía máy may, tôi chợt nghe ớn lạnh từng luồng sau lưng, sinh nghi quay lại cho KTT bắt ra… 13 Binh gia từ phía cô Bình!
Sáng ngày mai ngồi lên máy, cứ thế mà may, không còn triệu chứng bất thường nào - Gớm! Chỉ có một đường may thẳng từ nách áo xuống thân mà may đến năm lần mới được!
* Hôm ấy tôi bị rối loạn tiền đình: đầu váng mắt hoa, tay chân run lẩy bẩy như người sắp xỉu… Chiều tối lấy gạo ra vo chuẩn bị nấu cơm, tay run quá làm rơi nồi gạo xuống đất, gạo vung vãi tứ tung. Bé Chi đang học bài, nghe vậy bảo: “Mẹ để lát con học bài xong con dẹp!”. Tôi lấy gạo khác ra vo, nấu! Ngồi bệch xuống nền nhà, tôi gom gọn đống gạo lại một chỗ, lấy tấm giẻ lau nhà chận lên trên. Lát sau, gọi bé Chi xuống dọn dẹp… Tấm giẻ lau còn nguyên đấy, cả lon gạo biến mất tăm. Giống như một giấc mơ, tỉnh dậy không phải là sự thực: không hề có hạt gạo nào rơi vãi, nền nhà sạch bong, tấm giẻ lau vẫn còn đùm túm một chỗ, chứng minh sự việc là có thực! Cả hai Mẹ con ngồi ngẩn người ra đấy, ngỡ ngàng…
* Đầu karaoke mới mua, thợ đưa đến nhà lắp ráp đàng hoàng mọi thứ, máy vẫn đang hát tốt, khi tôi trả tiền, tiễn thợ ra về, trở vào phát hiện nó “rè rè” trở chứng lung tung, càng điều chỉnh lại trục trặc nhiều hơn! Tôi điện hỏi nhỏ em út, út bảo: “Tại chị sử dụng chưa rành, để mai em lên coi!”.
Hôm sau út Thảo lên mở máy, hát ngon lành hơn một tiếng đồng hồ, xong để nguyên máy hát, micro lại đó ra về, tôi trở vào cầm lên hát, máy trở chứng tiếp! Đến tối hôm sau, đang đứng thắp hương lại nghe lạnh dọc sóng lưng, mới biết có âm phần trong ấy. Tôi trục ra… 7 tên. Từ ấy đến nay đầu máy bình thường trở lại!
* Con trai tôi đem bộ máy Vi tính từ bên nhà cũ về, ngồi loay hoay lắp ráp… (cháu là thợ lắp ráp Vi tính chuyên môn). Cắm điện vào bị “mazt” cháy linh kiện! Thằng nhỏ chép miệng: “Chắc để lâu không dùng nó bị mazt”, mang tiền đi mua linh kiện về, ráp vô lại cháy! Cháy đến ba lần cả thảy, tôi tốn hơn hai triệu, coi như mua mới toàn bộ cái CPU…
Tối, tôi ngồi xem truyền hình, nghe ớn lạnh sau lưng từng hồi liên tục. Tôi quay lại truy bắt… gần ba mươi con ma! Nếu để ý từ đầu, tôi đã chẳng mất hơn hai triệu bạc.
* Đêm giao thừa 2009, loay hoay đến gần ba giờ sáng tôi mới đi ngủ… Vừa lên giường, tôi nghe có tiếng gõ trên la phông nhà - Tiếng gõ hai nhịp một, ngưng độ mười giây lại tiếp, cứ hai nhịp đều đặn rõ mồn một, nghe váng cả đầu trong đêm khuya! Ngờ mấy con chuột phá phách, đang mệt tôi chẳng thèm để tâm, cố nằm dỗ giấc ngủ… Tiếng gõ xuống ngay đầu giường, gõ vào đế bàn của cây quạt máy, cũng cứ hai nhịp một, nghỉ đều đặn mười giây lại tiếp tục. Đang mệt lử, tôi chuồi xuống giường đập tay vào cây quạt: “Đi chỗ khác cho người ta ngủ, phá vừa vừa vậy!”, tiếng gõ im bặt, tôi ngồi canh chừng độ hai phút, thấy đã yên bèn leo lên giường ngủ tiếp!
Thấy tôi chẳng làm gì, tiếng gõ lần này kéo xuống chân giường, gõ vào cánh cửa tủ, cũng “cạch cạch” hai nhịp một! Tôi điên người trở dậy, trụ thần cho trường điện mở cửa đuổi ra khỏi nhà, đếm có 3 tên, trở vô leo lên giường ngủ luôn tới sáng…
* Đồng hồ báo thức nhà tôi ba đêm liền mazt đủ ba đêm, đêm thì báo sai giờ, đêm lại câm bặt không thèm lên tiếng, báo hại bé Chi đi học trễ, khóc ròng!
Tôi bực mình, đi mua đồng hồ mới, đem về ba đêm nữa vẫn cứ mazt lung tung… Nghi ngờ tôi cho truy bắt, ra 5 tên ở hai cái đồng hồ!
Mất lòng tin, tôi không thèm dùng đồng hồ nữa, tôi cho điện thoại di động hẹn giờ, đem vô để ngay trên đầu nằm, đâu có ma nào dám chui vô mùng để phá, bé Chi từ ấy hết đi học trễ… Hiện tại ở nhà tôi còn nguyên hai chiếc đồng hồ báo thức “để làm kiểng” trong nhà!!
* Người đạo Phật thường hay đeo chiếc vòng bằng hạt đá hay nhựa trên tay, biểu tượng của người Phật Tử. Tôi đang đeo một vòng hạt màu đen, vừa xỏ xong một vòng nữa đeo cho bé Chi. Hai Mẹ con ngồi dựa vách đọc báo, chợt nghe “cạch” một tiếng bên hông, quay lại thấy nửa hạt đá màu đen vừa rơi từ đâu đó xuống. Tôi ngẩn người: “Chi ơi! Vòng hạt của con vỡ rồi, lấy đâu mà thay!”. Bé Chi xem lại, chiếc vòng vẫn còn đủ y nguyên.
Nửa hạt này rơi từ đâu ra? Đang ngồi ngắm nghía, lại nghe một tiếng “cạch” ở phía hông bên kia, mò tìm thấy thêm nửa hạt đá, ráp vào đúng nguyên một hạt! Hạt đá vỡ đôi đều tăm tắp, cứ như được cắt bằng máy vậy. Tôi ngồi tròn mắt ngắm, chợt nghe vang vọng bên tai tiếng cười giòn dã của… Điển Ông!
Đến nay, tôi vẫn còn giữ hai nửa hạt đá làm kỷ niệm!!
* Chiếc quạt máy nhà tôi trục trặc đã hơn một tuần nay! Bật lên nó kêu như tiếng người nghiến răng trèo trẹo đến nhức óc, đinh tai.
Một hôm có hai anh chị bạn tới chơi, anh bảo đem quạt ra anh sửa giúp! Tôi đem quạt ra cắm điện vào… nó chạy ngon lành và im như thóc! Hai người bạn cứ ngỡ tôi nói đùa cho vui, ở chơi suốt gần ba tiếng đồng hồ, tôi tiễn hai anh chị ra về, trở vào mới phát hiện ra nó đang… rên rỉ tiếp, y như cũ!
Nghi ngờ, tôi truy bắt được… 3 con ma! Hôm sau và suốt mười ngày liên tục chiếc quạt không hề lên tiếng, sang ngày thứ mười một nó trở chứng trở lại. Thấy người thợ sửa quạt đi qua tôi gọi vào… Đem chiếc quạt ra cắm điện, nó quay ngon ơ!!
* Nhà tôi có hai cặp chuột Hamster, nuôi chung một lồng kiếng, bình thường chúng vẫn thân thiện cùng nhau! Chiều hôm ấy có cô cháu đến chơi, đứng ngắm chuột và hỏi han đôi câu… Đêm tới, mấy con chuột cắn nhau, la ó ỏm tỏi cả đêm, đến ba giờ sáng chịu không xuể, tôi trở dậy bật đèn cho truy bắt, ra hai “con ma chuột” đen trùi trũi, nhốt vào KTT! Ngay lập tức, bốn con chuột im thin thít, không còn nghe cắn nhau nữa…
44. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (07)
Anh chị em và bạn hữu khi đọc xong HMLK I có người góp ý với tôi: “Nên cắt xén bớt những điều liên quan đến “trần kiếp”, để tạo lòng tin cho mọi người về tác giả như một người “dẫn Đạo dẫn đời” đúng mực!”.
Thưa không! Tôi không muốn khoác cho mình tấm áo khoác lóng lánh như một thứ “hàng mẫu” để cho mọi người ngắm nghía trầm trồ! Tôi chỉ là một người trần thế, như bao con người khác giữa đời, vẫn ao ước được sống một đời bình thường như bao người, được có chồng có vợ, khi bệnh hoạn ốm đau có người nấu cho bát cháo, có kẻ han hỏi thăm nom… Những lúc chán chường tuyệt vọng có một bờ vai để tựa, khi đau đớn khóc than có bàn tay lau đi dòng nước mắt!
Tôi thèm nhìn cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau trong mâm cơm cuối ngày với nụ cười đầy ắp trong căn nhà nhỏ. Tôi đâu muốn sống đời lẻ bạn cô phòng, giấu mình cho kỹ, sửa mình cho tròn như một vị “Thánh tử vì Đạo” thế này!
Căn nguyên nguồn cội của bình an hạnh lạc bắt đầu từ gia đình, một tập thể nhỏ bé với vài thành viên… Một mảnh đất ấm áp mới dung dưỡng cho hạt giống quý nên cây ra hoa, đậu trái, thành rừng! Mảnh đất khắc nghiệt chỉ đáng trổ ra toàn trái đắng…
Phần tôi, phải làm hạt giống gieo trên vùng đất dữ, làm cây cao bóng cả giữa mùa dông, vẫn phải làm cho đất ấy hồi sinh ra trái ngọt cây lành!
Tôi làm mọi việc chỉ vì lòng mẫn cảm, yêu thương mọi người, không phải để tôn vinh chính mình hay ai đó! Tôi quan niệm: “Thêm một người hạnh phúc là bớt đi một kẻ bất hạnh”. Cho dù đời tôi có buồn đến đâu, tôi vẫn mong muốn mọi người, mọi vật chung quanh mình đều được hài lòng, mãn nguyện, muốn nhìn thấy nụ cười tươi nở trên đôi môi của tha nhân… Cho dẫu có những giọt nước mắt tủi hờn cho thân phận, tôi cũng sẽ giấu kín nó cùng bóng tối, đêm đen. Để vẫn còn thấy lòng rưng rưng xúc cảm khi tán thán cho niềm vui và hạnh phúc của người…
Tôi thương các chị em Nhân điện nhóm của mình lắm, thương còn hơn chị em ruột! Vì họ đã can đảm dấn thân vào con đường đầy cam go và bất trắc, vui ít buồn nhiều này - tất cả vì tha nhân, cho tha nhân!
Cả nhóm không có ai giàu, nhưng khi nghe tôi kể về một hoàn cảnh éo le nào đó thì chị em vét túi mà cho, mà giúp! Khả năng tôi không có nhiều thì tôi “uốn lưỡi” than van, để chị em xót lòng mà hỗ trợ!
Mẹ tôi không thích cách làm này của tôi: “Nghe con Lan riết rồi người ta bỏ Đạo gốc hết! Phải gọi nó là “Đạo bá nạp” mới đúng!” (Bá nạp hay hổ lốn: từ dùng dân gian chỉ một sự pha trộn tùy tiện, cẩu thả). Tôi gân cổ lên mà cãi: “Các Đấng trên cao không có Đạo. Tùy theo quốc độ mà đề ra Tôn Giáo, chủ trương tín điều khác nhau. Lề thói là do người trần đặt để mà nên! Theo quan niệm của con, trăm Đạo đều quy về một mối là Tâm Đạo. Lòng bình an hạnh lạc cho tha nhân là cứu cánh. Con tôn trọng các Đấng như nhau, không phân biệt cao thấp hay Tôn Giáo nào cả!”
Có lẽ vì vậy mà một người như tôi: kinh luận giáo điều không rành, lễ tiết chỉ là tùy tiện… Chỉ có tấm lòng vì người khác là đặt cao hơn tất thảy. Hơn hai chục năm nay, các Đấng lui về ứng trợ có ai rầy rà, bắt bẻ gì đâu! Chẳng ai ra điều kiện rằng tôi phải chay tịnh, quy y đầu Phật, tụng kinh niệm Phật hay thiền định chi cả!
* Mối tình luyến ái là nguồn cội của hạnh phúc và bất hạnh trần gian! Muôn đời muôn kiếp, linh hồn còn tồn tại là còn sợi dây luyến ái: con trai tôi mất hơn một năm, hồn về theo cháu Hương (người yêu lúc còn sống). Suốt ba tháng rưỡi, cô bé cứ bỏ ăn bỏ ngủ, người gầy rộc đi, hai mắt trõm sâu, mặt mày tái xanh tái xám…
Đến một ngày có chị bạn tới chơi nói với Hương: “Tao thấy vong hồn người yêu cũ của mày đứng sau lưng”. Hương sợ quá, tìm tới nhà tôi! Tôi gọi linh hồn con trai về, cháu xác nhận là có: “Con chỉ đi theo thôi chứ không lại gần hay động chạm gì tới Hương hết!”.
Tôi giận quá, đòi bắt nhốt linh hồn, thấy tôi khóc quá cháu cũng hoảng, hứa với tôi sẽ rời cô Hương ngay tức thì và không theo nữa - Tôi bắt con hứa một cách kiên quyết, chỉ có thế! Tôi không phải trục vong, cháu Hương về nhà ngay hôm ấy ăn ngủ trở lại bình thường…
* Tháng bảy âm lịch năm 2008, chị em chúng tôi rộn rịp lo chuẩn bị cúng lễ Vu Lan! Gần đến ngày, đa số chị em đều được ứng báo bằng cách này hay cách khác, tìm đến tôi để cầu xin tiếp xúc với Cửu Huyền - người xin giải nghiệp ngạ quỷ, yêu tinh, người muốn vô Chùa tu, Thần Tổ nghiệp xin giải giáp Binh Gia, người ra mặt để xin cái ăn, cái mặc, các phần Linh căn mắc đọa thì cầu xin ơn Trên cho được trở về núi để tu tập…
Mỗi năm có một ngày Rằm tháng bảy để con cháu và những người còn sống báo hiếu cho cha Mẹ, ông bà tộc Tổ, những người đã chết! Tôi để cho chị em cúng đốt đồ hàng mã cho thân tộc và chiêu đãi, phúng thí âm vong, mãi lo chuyện người, tôi quên không nghĩ gì đến việc của mình…
Đêm 14 âm, thấy tôi quên, âm phần của cha và con trai ứng báo hai giấc mơ: tôi thấy mình đi mua đồ cúng âm vong, về qua một ngã rẽ thì gặp Ba mình đang đứng cuốc rẫy. Tôi dừng lại định tìm gì trong giỏ để cho Ba, mò ra chỉ toàn… thuốc lá! (Ba tôi lại chẳng bao giờ hút thuốc)
Tôi hỏi: “Hiện giờ Ba ra sao, có gì bất ổn nói cho con biết để con lo cho Ba!”. Vừa lúc đó, thấy bên kia đường có hai người đi xe máy qua, Ba tôi chỉ vào họ: “Đó đó! Hai vợ chồng đó là bà con với mình mà họ xấu hết sức, họ tâu rỗi này nọ với ông bà, làm Ba bị rầy mắng hoài!”, chỉ có thế, tôi giật mình thức dậy… Nghiệm ra, Ba tôi bị Cửu Huyền hành!
Nửa đêm về sáng, ngủ lại tôi mơ thấy giấc mơ thứ hai: Vía thấy mình đang đi trên một đoạn đường vắng vẻ, gặp con trai đang ngồi bắn bi cùng mấy đứa trẻ. Tôi chạy tới ôm con vừa hôn vừa khóc, kể: “Từ ngày con chết tới giờ Mẹ mới gặp lại con, Mẹ nhớ con biết bao nhiêu!”, cháu có vẻ ngượng, đứng lên đi bên tôi… sờ vào trán con thấy hâm hấp sốt, tôi hỏi: “Con còn bệnh, còn đau phải không? Sao không nói cho Mẹ biết để Mẹ chữa cho con?”. Con tôi nói: “Ai mà không có bệnh, Mẹ ơi! Giờ con bớt nhiều rồi thỉnh thoảng đau chút xíu thôi!”. Đến đó, tôi chợt thức…
Nhờ vậy, hôm sau tôi mới nhớ mua quần áo cho Ba và con trai của mình!
Qua thời gian, tôi biết rằng âm hồn cũng đau bệnh như xác trần, những bệnh lúc chết hồn mang theo đủ. Qua hậu kiếp, có người bị những bệnh chứng bất thường, dai dẳng mà bệnh viện không tìm ra được… Nỗi đau đớn nghiệt ngã của vong hồn làm gì có bác sĩ hay bệnh viện nào chữa được! Chỉ có tấm lòng người còn sống thi ân bố đức để cầu xin giải bớt nghiệp quả cho người chết thì mới có tác dụng. Vì nỗi cảm thương ấy mà tôi trở thành “Bà thầy chữa” cho cả hai cõi hữu hình lẫn vô hình… Bàn tay phép của các Đấng chữa bệnh cho âm phần còn nhanh hơn chữa cho người sống, giải nghiệp cho người âm có tác dụng tối đa, với người dương thế nhân quả tạo tác “còn nguyên dưới ánh mặt trời”, các Đấng cũng khó bề xoay chuyển!
* Má tôi, đầu năm 2007 bắt đầu hành bệnh tim mạch nặng! Huyết áp lên xuống bất thường, nôn ói, ngất xỉu nằm mê man hoặc đưa đi cấp cứu hoài… Hôm ấy má trở bệnh, các em gọi taxi đi bệnh viện, nhắn tôi xuống nhà đưa má đi, đợi xe chạy ra đường lớn đỡ dằn xóc, tôi bảo: “Con chuyển điện cấp cứu cho má đây, má ráng trụ thần mà nhận nghe!”… Má tôi tỉnh dần, khỏe lại… Tới bệnh viện, xe chạy thẳng vô phòng cấp cứu, má tôi xuống xe đi tỉnh bơ vô trong, bị bác sĩ chặn lại: “Đây là phòng cấp cứu, không vô được!”. Đáp: “Tôi đi cấp cứu!”. Bác sĩ hỏi: “Cấp cứu ai?”. Đáp: “Cấp cứu tôi! Tôi bị tim mới vừa xỉu!”, “Bà đi đứng bình thường vậy mà tim gì. Đâu lên nằm coi!”. Bác sĩ kiểm tra huyết áp, tim mạch: hoàn toàn bình thường! Má tôi bị đuổi về…
Leo lên xe buýt, suốt chặng đường hơn một giờ đồng hồ “tỉnh queo”. Mừng quá nói líu lo suốt buổi… về nhà, các em tôi cười bảo: “Má kiếm chuyện để được đi du lịch bằng taxi!”.
Rồi bệnh dần dần phát liên tục, má tôi thường xuyên làm mệt khó thở, nôn ói và chóng mặt hoài. Ba đêm liền, tôi mơ thấy má chết. Những giấc mơ “ứng báo” bao giờ cũng ngắn và rõ ràng rành mạch, độ chừng năm, mười phút là dứt… Ta tỉnh giấc ngay tức thì và nhớ chẳng sai một chi tiết nào!
Sợ quá, tôi hằng đêm thắp hương cầu cho má qua cơn nguy kịch, khỏe mạnh trở lại, xin “chịu đau thế”, trả hiếu cho Mẹ mình! Tôi bắt đầu bị y như má: huyết áp biến đổi liên tục, lúc mười bốn, mười lăm, khi chỉ còn có tám, chín… mạch tim có khi nhảy lên đến 116/phút. Lại bị rối loạn tiền đình xây xẩm mặt mày, nằm “li bì” suốt ngày!
Chiều tới, con trai tôi chở xuống chữa bệnh cho Má, xong rồi… Má nấu cơm dọn sẵn, tôi ăn xong phủi tay đi về!
Tôi nằm đúng sáu tháng, tròn nửa năm. Tôi nằm đến đâu, Má khỏe đến đó! Tuy nhiên, cũng có điều trị thêm bằng thuốc tây. Hú hồn! May không thì tôi mất Mẹ…
Dạo này Má tôi khỏe nhiều, tim mạch ổn, tôi chỉ chữa cho Má khi nào tim “trở chứng”, Má vẫn phải uống thêm thuốc tây!
Má tôi cũng có học nhân điện, tự chữa được cho mình và con cháu những bệnh thông thường, bệnh nặng thì Má kêu tôi xuống chữa.
Khi bệnh cấp tính, thường người ta lo sợ bất an, không tỉnh tâm để trụ thần nhận điện, vì vậy chữa ít tác dụng. Lúc ấy, phải nhờ Huynh đệ khác hỗ trợ… Nhiều lần Má tôi trở bệnh làm mệt, các em điện báo, tôi ngồi trụ thần chuyển điện cấp cứu, lát sau xuống nhà thấy Má đã tỉnh táo, ngồi dậy và ăn uống được rồi!
* Một ngày nọ Má muốn tôi cùng đi siêu thị để mua một xấp vải may đồ đi ăn cưới, đi bằng xe buýt. Má đâu biết tôi đang váng đầu và đau nhừ cả người…
Tôi từ chối, bị Má mắng: “Mày vì mọi người thì được, vì Má một chút không được sao?”. Tôi đành đi với Má, vừa đi vừa kêu ca trong bụng: “Mẹ ơi! Con mệt quá, Mẹ cứu con cho xe buýt đừng có chạy!”. Miệng khấn mà dạ buồn cười: “Xe tại trạm gốc cứ năm phút chạy một chuyến. Ba tuyến xe chạy liên tục, mi… “chết chắc” rồi!”.
Thế mà điều gì xảy ra, các bạn có biết không: ba chuyến xe qua, đều là xe Chợ Lớn! Tôi nói: “Chuyến nữa không có thì về nghen Má!”. Chuyến thứ tư: cũng Chợ Lớn!
Hai Mẹ con đi về, tôi mừng trong bụng mà đâu dám nói, sợ lại bị mắng! Nghĩ hoài, chẳng biết tại sao. Chắc mấy chiếc xe tuyến Sài Gòn bể bánh hết trơn rồi…
* Tháng 8/2007, khi tôi đi ở nhà thuê (chuyện đã kể ở HMLK tập 1), nhà cũ cho người khác mướn lại. Trong nhà ấy có hai đứa bé: đứa 17 tháng và đứa 7 tháng tuổi…
Một đêm nọ, lúc 22g30, cô Tiến (học viên Nhân điện) ở nhà kế bên, điện xuống cho tôi bảo: “Nhà bên ấy có thằng bé cứ khóc liên tục, hai ngày đêm rồi, em hỏi Điển thì được báo là do Cửu Huyền hai bên của chị và gia đình đó tranh chấp với nhau, thằng bé sợ nên khóc suốt”. Nghe vậy, tôi trụ thần chuyển Vía về nhà, thấy đứa bé 7 tháng tuổi ngủ yên, sang đứa lớn thì thấy cháu đang khóc vã mồ hôi, mệt lữ… Tôi giải âm phần, đẩy ra khỏi nhà, quay lại đặt bé nằm xuống giường, cho điện làm ngủ… Vía thấy bé ngủ được ngay tức thì!
Sáng ra cô Tiến xuống nhà, lúc ấy tôi đi vắng! Trưa về Tiến điện bảo: “Hôm nay xuống nhà không có chị, em thấy Bà Nội chị với một toán phần âm bên nội đứng ngoài đường, còn Ba chị với Ông Nội thì ở trong nhà!”. Tiến bảo: “Sau khi chị trục vong một lát thì thằng bé ngủ, sáng nay không còn nghe khóc nữa!”… Cô Tiến giỏi thật! Tôi có nói gì về chuyện riêng của gia đình mình đâu: nguyên Bà nội tôi lúc sinh thời có thề độc là không bao giờ nhìn chị em chúng tôi (vì ba má tự ý lấy nhau, không theo đặt để của cha Mẹ). Ông nội thì thương, thỉnh thoảng ở quê vẫn lên thăm… Khi Ba chết, tôi đưa về trên này thờ, Ông nội đi theo… Mãi về sau này tôi mới được âm vong của Ba báo cho biết, mỗi bữa cơm tôi vẫn mời Ông với Ba về ăn cùng!
Tôi nhất định “vờ” như không biết chuyện gì, vì thế mà trong suốt một thời gian dài hơn hai năm, tôi bị Cửu Huyền hành rất dữ… Tôi sợ rước vong Bà Nội vào nhà, bà không ưa cháu chắc sẽ bị đòn nhiều hơn nữa, cho đến một ngày…
* Dì Út (nhà ở Chợ Lớn), thỉnh thoảng vẫn hay lên nhờ tôi đủ chuyện “trên trời dưới đất”. Bỗng nhiên hôm ấy tới nhà tôi, vừa mới ngồi năm phút đã có phần Điển Trên nhập về. Dì Út “lên giọng” phán một hơi: “Phải thỉnh bài vị Cửu Huyền về mà thờ! Làm việc với Cửu Huyền trăm họ mà thiếu lễ với ông bà của mình thì còn bị đòn suốt kiếp!”. Chỉ một câu làm tôi sực tỉnh, tôi thỉnh bài vị Cửu Huyền về thượng trang, cúng cho Ông Bà Nội chiếc áo dài bằng giấy màu xanh dương thêu rồng phụng rất đẹp…
Đêm ấy, tôi thấy Bà Nội về ngồi đĩnh đạc trên ghế, mắt nhìn lên bàn thờ, chiếc áo “hàng mã” hóa thành áo dài nhung màu xanh dương sang trọng!
Điển ông nói khẽ vào tai: “Bà muốn nói chuyện với em!”. Tôi không dám lên tiếng, khoát tay ra dấu, lắc đầu lia lịa… Chiều hôm sau con trai tôi về bảo Mẹ trục phần âm cho, lại thấy Bà đứng sẵn đó rồi! Tôi trốn không được nữa, phải chào thưa Bà cho phải phép, Bà không nói gì, bước tới đặt vào lòng tay tôi một nắm cát, xong lại đặt lên trên một giề đất sét, rồi quay lưng biến mất!
Tôi ngồi nghĩ mất năm phút: “À! Ra Bà nội cho điền sản đây, xứ Vĩnh Kim, Trà Vinh toàn gió cát và đất bạc màu… Bên Nội tôi có nhiều đất lắm, đất giồng cao quanh năm nắng gió, cây trồng còn không sống nổi, có nhiều đất cũng bằng thừa…
Vậy đó! Người trần thế hay có quan niệm: “Không có ông bà nào lại hành con cháu! Ông bà cho con cháu không hết nữa là!”. Phần tôi, kinh nghiệm hăm mấy năm cho biết: trăm sự nghịch thường đa số đều do bàn tay của Cửu Huyền!
Thờ không phải cách: bị hành! Phải cách không thờ: bị hành! Vướng tuổi Cửu Huyền: bị hành! Nghịch mạng vô nghì bị hành cũng phải đi… Bằng chuyên tâm tu tập, đạo đức trong một dòng tộc đầy những âm vong ngạ quỷ cũng bị đòn chết thôi!
Ông bà xưa hay nói: “Trần sao âm vậy!”, quả là đúng, kẻ còn sống chẳng ra gì, chết đi rồi bảo nên làm sao được! Những kẻ độc ác vô lương, chết thành ông, thành bà… đương nhiên cũng là Cửu Huyền ác ôn, hành hà con cháu mà thôi, khác làm sao được!
Giận nhất là loại này, người đang bị Cửu Huyền hành, tôi đưa tay ra cứu là bị đòn trả dữ lắm! Họ thì cứ nhơn nhơn ra vẻ: “Con cháu ta ta đánh, mi làm gì được ta?”
Chương này kể đã dài, xin ngưng ở đây, kẻo các bạn đọc đến chán mất thôi!
45. THỰC HÀNH CỤ THỂ (11)
Cô K., có văn phòng môi giới bất động sản ở Hóc Môn, một hôm nhờ người quen dẫn ra gặp tôi, xin Ơn Trên về giải dùm nghiệp chướng - cô thú thực là mình yêu người đàn ông có vợ! Trong lúc cô cũng đang có chồng con đàng hoàng, hạnh phúc và mãn nguyện… Trái tim ngã nhưng lý trí không cho phép, cô đã chạy vạy khắp nơi tìm thầy để giải oan nghiệp, nhưng chẳng tác dụng gì…
Tôi nhìn cô, thấy ngay phần Linh căn một nữ Thánh tu, khuôn mặt đẹp thanh tú giống y như Đức Mẹ Maria, với mái tóc thề bỏ xõa!
Tôi mời Linh căn về cho tiếp xúc và xin góp ý trong hoàn cảnh này, nữ Thánh ấy tới bên tôi quỳ xuống nói nhỏ vào tai: “Con có ý vầy! Bên bỏ chồng bên bỏ vợ lấy nhau là xong. Chúng con có tiền duyên, xuống đây tìm nhau mà gặp nghịch cảnh nên mới khổ vậy đó!”.
Ngay tức thì, tôi thấy Mẹ Quán Âm nhập vào, người đưa tay nâng cằm cô gái lên: “Khuôn mặt trông xinh đẹp vậy mà đê tiện. Muốn phá nát gia cang người ta sao… Đi về cung Nội Đâu Suất ta cho quỳ đội đèn. Biến!”. Lời vừa dứt, nữ Thánh Cô biến mất tiêu!
Quay lại, Mẹ Quán Âm nói: “Ta giải nghiệp chướng cho con, ráng mà sống cho tốt với chồng con nghe chưa!”. Vung tay, đưa Điển vào đỉnh đầu cô K, xong Phật Bà rời đi…
Chuyện nghe như đùa vậy thôi! Thế mà ngay tối hôm sau, cô K. ra nhà tôi, mừng vui báo tin: “Mẹ Quan Âm giải xong, sáng hôm sau em nhìn thấy ông ấy bỗng dưng nghe… lạt nhách, không còn chút nào tình yêu thương, si mê nữa! Đến nỗi ổng ngạc nhiên hỏi em tại sao qua có một đêm mà em thay đổi 180 độ như vậy - Em chỉ cười không nói gì cả mà trong lòng nghe nhẹ bâng, chị ơi!”.
Khi cô K. tới, tôi thấy có vong một bé trai chừng dưới hai tuổi trần truồng đứng kề bên. Tôi hỏi thì bé chỉ vào cô K. bảo là Mẹ của mình. Tôi hỏi, cô K. nói: “Đi coi thầy, thầy nói nó là Trạng, bảo em lập bàn thờ đàng hoàng cúng áo mão cân đai đủ thứ. Sao giờ lại trần truồng?”. Tôi giải thích: “Nó là âm vong, không phải Trạng, cúng đồ Trạng nó không mặc được nên mới trần truồng như vậy đó!”.
Để cho cô K. tin, tôi đặt tay lên đỉnh đầu hỏi Điển. Đầu cô tự lắc ứng báo rành rành, có người bạn gái của cô ngồi bên làm chứng, tự cô K. cũng nghe thấy đầu mình lắc… Thế là tôi xin Điển Trên cho ngày giờ linh ứng để cô K. xóa trang thờ Trạng và đưa vong đi đầu thai…
Lần sau cô K. đến, tôi thấy có một người đàn bà vong ngạ quỷ theo sau, ra vẻ đau đớn lắm. Bà bảo là Mẹ chồng của cô. Quả nhiên cô K. nhận là mình có Mẹ chồng chết do bệnh ung thư tử cung!
* Một thời gian sau, cô K. dẫn vào một đứa cháu trai gọi bằng Dì, quê ở tận ngoài Trung.
Cậu bé học lớp mười, bị động kinh từ năm sáu tuổi, không thuốc nào trị hết được! Trông cậu bé mà xót xa: tay chân ốm trơ xương và gân, người bé loắt choắt chỉ độ bảy, tám tuổi - Có ngày bị động kinh năm, sáu lần, mỗi lúc lên cơn ra vẻ kinh hoảng tột độ, chạy tìm người lớn ôm cứng lấy và la cầu cứu, chừng qua hết cơn thì trở lại bình thường, học giỏi nữa mới lạ!
Tôi trụ thần nhìn thấy một người đàn ông phần trên cổ là một đầu rồng màu xanh lục đậm, tôi chào – mời vào nhà! Người ấy không vào, chỉ đứng ngoài sân… bảo với tôi: “Thằng bé ấy hồi học mẫu giáo bị té sông, tôi cứu cháu sống đó, tôi là Thần Rồng!”. Tôi hỏi: “Chắc phần hồn của cháu thấy ông theo hoài nên sợ mà động kinh phải không?”. Ông lắc đầu: “Không phải tôi, kia kìa!”. Tôi nhìn ra ngoài đường thấy hai con vật dị thường, đưa tay vẫy, chúng lập tức bò vào…
Trông vẻ ngoài giống như loài bạch tuột da màu đen bóng nhẩy, với những xúc tu thật dài, trên những đầu vòi trơn tuồn tuột ấy, không thấy có giác hút như của các loài mực. Hai con mắt bé xíu tròn xoe màu đỏ hồng, nhướng lên, nhìn tôi trông vẻ “ngây thơ vô số tội”! Chúng bò đến đâu, kéo theo sau lưng những vệt nhớt nhầy màu xám bạc…
Tôi ngẩn ra, không biết gọi chúng là gì nữa: ông hay bà, đực hay cái? Sau tôi xin tiếp Điển (là kiểu giao tiếp chung bằng tư tưởng), biết chúng là loài mà ông bà ta xưa truyền miệng hay gọi là “Ma da”, chuyên ở dưới nước và quấn siết người, dìm cho đến chết!
Cô K. nhận đúng vào lúc bé còn học mẫu giáo đã bị té sông một lần, có người trông thấy kêu lên cầu cứu, cậu của đứa bé bơi ra vớt được, may mà còn sống…
Tôi sực hiểu, thì ra số cậu bé đã chết năm xưa, nhưng vì ông Thần Rồng nhìn thấy thương tình cứu sống. Hai con Mada (một cha một con) không làm tròn nhiệm vụ nên cứ lẽo đẽo bò theo đòi mạng hoài, hồn thằng bé sợ nên bị động kinh…
Trước tiên, tôi dụng kế hoãn binh, nói: “Tôi biết các ngươi chỉ làm nhiệm vụ ở dưới nước quen rồi, giờ lên bộ như vậy khổ sở lắm. Tội nghiệp quá, để tôi xin chiêu đãi một lần cho đỡ đói nha!”. Chúng đòi ăn cá lóc và cua đồng, rau thì đòi “cỏ bợ” (còn có tên là rau dừa nước). Thấy khó tìm, tôi đề nghị đổi rau muống nước chúng cũng chịu. Đòi mua đồ sống khấn cúng xong rồi đem ra sông thả! Bánh trái tiền vàng bạc nén chúng chê bảo là không dùng được, thì ra “đàn dưới” không sử dụng được lộc thực của “đàn trên”.
Sau đó, tôi chữa thêm có bốn, năm lần cậu bé hết động kinh! Nhưng tôi biết nếu trở về quê hoặc nơi gần sông nước sẽ bị lại như cũ, nên khuyên cô K. thu xếp cho cháu về thành phố, tránh xa vùng sông nước.
Kinh nghiệm nhiều năm cho tôi biết: quyền lực của các Đấng chỉ hiệu nghiệm với cõi trên, cõi hữu hình và cõi vô hình (loại sống ngoài vòng địa ngục). Cõi dưới nước (Thủy Cung) và Diêm Cung (địa ngục) là nơi quyền phép bất lực, tương tự như “rừng nào cọp ấy” vậy mà…
Còn một điều nữa: ở “Đạo giới” khác cũng cần phải thận trọng khi điều tra, hành xử hay phá án, giống như họ ở trong một “Khu tự trị” riêng! Phép của nhà Phật không thâm nhập được vào nơi thờ cúng của Đạo Chúa hay Địa Tiên, Hòa Hảo, Cao Đài… Tuy nhiên, nếu khéo léo, ta vẫn có thể xin sự hỗ trợ của các Đấng Chủ Quản!
Chuyện này tôi sẽ chứng minh cùng các bạn ở chương sau, thập phần lý thú!
* Chồng cô Bình (học viên Nhân điện) bị đau bụng tiêu chảy liên miên cả tuần lễ liền, uống thuốc chi cũng không cầm! Tới tôi, nghiệm ra do âm vong quấy phá - Tôi truy bắt ra 3 tên ngạ quỷ! Chúng xưng mình là 3 vị Thần có tội bị lưu đày mang hình tướng quỷ, hiện đang ở chỗ chồng cô Bình làm việc. Họ vẽ cho tôi thấy một nơi dơ bẩn, nước đen ngòm, tro than chất hàng đống, 3 âm vong đứng dầm chân trong bùn dưới một gốc cây trông rất thương tâm!
Tôi tả lại địa điểm mình nhìn thấy, cậu nhận đúng là nơi cậu đang làm than đá! 3 âm vong xin tôi hỗ trợ cho dời sang phía trước mặt có một xưởng cơ khí, nơi mặt tiền sạch sẽ khang trang hơn…
Tôi bày cho cậu về nhà cúng một đĩa tam sên, trà rượu và ít tiền bạc chiêu đãi cho 3 vị Thần, kẻo họ đói khát mà tội! Phần tôi xin phép Mẹ Diêu Trì cho chuyển 3 vị ấy sang bên kia đường… Chỉ có thế, tôi chữa một lần cậu giảm bệnh ngay lập tức, chữa thêm hai ngày, hai lần nữa cho chắc chắn, là xong.
* Cô L. (học viên Nhân điện) ngày trước rất hay bị phần âm phá. Cả gia đình: cha Mẹ, anh chị em và các cháu gặp hoạn nạn thất thường đến “thất điên bát đảo”. Suốt hai năm trời, tôi chống chỏi cũng muốn khùng theo!
Ngày xưa trong tộc Tổ có người làm Thầy Bùa, Thầy Pháp chi đó không biết, miếu thờ Tổ nghiệp vẫn còn bên nhà người chú, binh tướng thì tản mác mỗi nơi một ít, bên nhà cô L. có hai Thần Tổ nghiệp cùng 120 binh tướng, vong hồn chiến sĩ cũng đầy. Nghiệp Tổ truyền đời, nếu không có người nối dõi, con cháu bị hành ghê gớm lắm. Đời nào cũng có người điên loạn, giở người!...
Cô L. có phần Linh căn là Thánh Cô, đệ tử của Trì Địa Bồ Tát, chắc cũng có chút tội mới sinh vào trong nhà có toàn Linh căn là Thần cách: Cha Thần, anh Cả Thần, chị gái cũng Thần, còn một đứa em trai cũng là Thần cách nốt! Mẹ của cô L. lại có Linh căn là Thánh Mẹ… Cô L. người trắng trẻo, xinh xắn, gần ba mươi tuổi chưa có gia đình, cũng không có bạn trai hay người yêu!
Nhân duyên đến lúc muốn chuyển căn theo đường Đạo thường phải chịu nạn tai dồn dập… có thế xác trần mới ngộ được sự vô thường mà lo tu! Một hôm cô L. bị lên cơn động kinh, tôi chữa (gián tiếp qua điện thoại) cứ xuống cơn chừng mươi phút lại lên. Người nhà điện gọi liên tục, tôi nhờ A. Ch (huynh trưởng nhân điện) chữa cũng chẳng ăn thua… Vật vã từ trưa đến tối thì hết, từ đó chỉ ôm mặt khóc, ai hỏi gì chẳng đáp được câu nào!
Sau cô L. sợ quá theo tôi học Nhân điện, vừa mở luân xa, Linh căn đã về, xưng là Thánh cô tu ở cung Ngoại Đâu Suất! Lúc đó, gia đình cô L. đang ở vào thời nạn tai dồn dập vô phương chống đỡ… Người trong nhà trở chứng này, bệnh nọ đột ngột hoài thuốc men cũng chẳng ăn thua! Mỗi người bệnh đưa xuống tôi lại mò ra một Thần cách, hai đứa cháu trai đều là Thánh… Phải nói là một gia đình kỳ lạ!
Bây giờ tôi mới hiểu lời Mẹ giảng như thế nào là “cộng nghiệp”: có cùng một nghiệp mới sinh vào chung một nhà làm cha Mẹ, vợ chồng, con cái… để cùng chịu những chướng nghiệp như nhau!
Anh cả của L., cậu P. vốn là em kết nghĩa của tôi từ mười lăm năm nay, sau này khi L. học Nhân điện, tôi thương L. còn hơn em ruột của mình - Vì thấy cô em suốt ngày lủi thủi trong nhà chịu thương chịu khó, người lại xinh xắn giỏi dang…
Suốt một thời gian dài, người trong nhà liên tục đổ bệnh, những bệnh chứng bất thường mà thuốc men chẳng ăn thua gì! Khi đưa xuống tôi, tôi khống chế được cũng chẳng dễ dàng, và “chịu đau thế” cũng không ít… Gần hai năm, sau nhiều lần vận động, Thần Tổ nghiệp mới bằng lòng cho “giải giáp binh gia”, đưa 120 binh vào Chùa gởi, từ đó mới yên ổn trở lại…
Một ngày, cô L. hỏi ý kiến tôi xem có nên trở lại may gia công cho cửa tiệm của một người quen cũ hay không. Tôi trụ thần, thấy cô chủ tiệm may ấy tốt và quý L. lắm, tôi khuyên L. nên đồng ý! (Lúc này cô L. đã học Nhân điện đến lớp 10, trình độ tâm linh cũng cao)
Vừa làm được một ngày, sang ngày thứ hai cô L. đã bị hành nôn mửa liên miên… Cô L. điện mấy lần, nhưng lúc đó tôi đi vắng đến 7 giờ tối mới về - Tra rõ căn nguyên, tôi biết rõ bệnh trạng không phải của xác trần, mà do phần âm phá! Tôi bảo cô L. trụ thần nhìn vào chỗ nhà may, nơi cô đang may gia công. Theo đó, tôi đưa Điển vào kiểm tra, thấy trong nhà có người làm Thầy Bùa Thầy Pháp chi đó - Có thờ cúng linh tinh và bàn thờ lạ cách lắm!
Cô L. nhận là Bà cụ nhà đó làm Thầy có trang thờ hai Cậu Trạng. Nghe vậy tôi biết ngay là bị Trạng hành! Âm phần không thể phá cô L. được đến vậy…
Tôi biết các vị có chức danh Trạng thường tài giỏi và kiêu ngạo lắm. Thấy cô L. có khai mở tâm linh nên cho phép vào đánh chơi “cho biết mặt”!
Người học Nhân Điện được khai mở tâm linh có nhiều điều lợi, song cũng có điều bất lợi là thu hút tà lực, giống như khối nam châm có từ tính vậy…
Tôi bày cô L. cúng một đĩa tam sên ở nhà L., xin tạ lỗi với hai Cậu Trạng, vì đã đến đó làm việc mà không xin phép “Quan lớn”.
Chiều hôm sau nữa cô L. xuống nhà tôi, tôi trụ thần thấy theo sau là hai cụ già hom hem mặc áo thụng màu đen! Khi tôi hỏi, họ xưng là hai Trạng ở nhà may, ngạc nhiên tôi hỏi: “Hôm qua đã cúng xin lỗi rồi, chả lẽ chưa bằng lòng sao các người còn đến đây?”. Một ông bảo: “Chúng tôi không nhận được lễ vì lễ cúng Trạng Cậu, còn chúng tôi là Trạng Ông!”.
Trời đất! Lại còn đến thế nữa - Xưa nay tôi chỉ nghe Cậu Trạng, Cô Trạng nhỏ xíu, hoặc nam trung, có nghe “Ông Trạng bao giờ!”. Thôi thì cũng uốn lưỡi hạ giọng năn nỉ. Hai ông bảo: “Chúng tôi chỉ tới chào cô Hai thế thôi, có bắt bẻ gì đâu!”. Nói rồi chào ra đi…
Người trần thế, hoặc các vị làm thầy: Thầy Bùa, Thầy Pháp, Thầy Cúng chi đó… thường cứ theo phép Tổ mà làm, đâu biết các cõi muôn hình vạn trạng, kẻ có nhiều tài phép thường sinh tâm ngạo mạn ức hiếp, áp đảo người cô thế chẳng chừa một ai! Đến lúc tội ác đã dầy, Trên xử tiêu hồn lạc phách… Xác trần cậy thế làm oai, đem quyền thế biến ra lộc thực, lộc càng dầy thì tội càng nặng, đời con đời cháu ngày sau vướng nghiệp Tổ tông hoạn nạn, tật ách triền miên biết đến bao giờ cho hết…
Tôi nói đây cũng phải xin lỗi các vị làm Thầy, chẳng phải thầy nào cũng cốt vì lợi lộc riêng tư! Nhiều người cả đời lấy binh pháp mà cứu nhân độ thế, lợi danh chẳng màng. Họ là những Thần thánh giáng phàm, quả phúc dồn góp, đời sau con cháu thọ lộc Tổ tông làm nên danh phận mà rạng rỡ tông môn!
Nếu ai có chút tài mọn, cũng đem nó ra mà hy sinh, mà cống hiến, thì nhân loại ắt đã hòa bình hạnh lạc, chúng sinh đều được an vui…
Các vị Thầy Pháp có phép thu hồn, họ đi đến các nơi nghĩa trang, đền Chùa miếu mạo bắt giữ các vong hồn lang thang đem về làm binh tướng cho mình, sử dụng làm công cụ phục vụ, cũng còn may cho các cô hồn, vì họ biết mình có binh, có tướng, mỗi tháng cúng cho ăn một lần…
Riêng những vị làm Thầy theo nghiệp Tổ tông, không biết mình đang sở hữu bao nhiêu là binh, tướng, chẳng biết đâu mà cho ăn, cho mặc. Bùa phép đưa ra không biết cân phân phải trái, nên hư… Cũng không biết mình đang có bao nhiêu âm binh đi theo phục vụ vô điều kiện cho mình!
Binh cho đi chẳng thâu về, những vong hồn xiêu lạc bị trói buộc vào lệnh phù quẩn quanh tại chỗ… Rồi có khi chủ cũ rời đi, chủ mới đến ở, binh đói khát lang thang trong nhà quấy phá làm ra hoạn nạn, tai ương… tội cho “người ngay mắc nạn”!
Tôi cũng muốn nhân đây, vì lòng nhân đạo, gióng lên một tiếng chuông - cầu xin các vị làm Thầy: tất cả bùa chú hay lá phép đưa ra đều có binh án theo… Khi ra phép, xin ghi chép lại cho kỹ lưỡng ngày giờ năm tháng sau một thời gian phù hợp - “Đưa binh đi, xin nhớ đón binh về”, đừng để hồn xiêu phách lạc lang thang… Binh đưa đi hết chẳng thu về, mai không còn binh nữa, phép sẽ không thiêng, các vị Thần Tổ nghiệp phải thân chinh, nạn khó cũng vô chừng!
Phần nữa: mỗi tháng nên cúng cho binh tướng ăn một lần, đừng để họ đói mà tội nghiệp! Khi tuổi cao sức yếu hoặc muốn bỏ nghề, nên vì lòng nhân mà dâng lễ lên nghiệp Tổ nghiệp tông xin cho giải giáp binh gia, trả họ về đời sống tự do, đừng giam giữ oan hồn đời này sang đời khác mà vướng nghiệp quả nặng nề cho con cháu đời sau!
Mỗi tháng nên cúng vào ngày 13 âm lịch, cúng riêng hai nơi: Tổ nghiệp cúng trên bàn thờ Tổ hoặc bàn thờ Cửu Huyền, binh gia cúng bàn thấp đặt ở dưới! Cúng ngày 13 hoặc mùng 2, 16 (đúng giờ Ngọ: từ 11g15 đến 13 giờ).
Tôi cũng xin nhắc các bạn đọc: tất cả các loại cỗ lễ như giỗ chạp, cúng Vía ngày rằm, mùng 1, cúng cô hồn hay thượng trang… đều phải cúng đúng ngọ. Ngoài ra, cúng âm hay cúng cầu giải hạn, xả xui… ta cúng vào “giờ âm”, có nghĩa là từ 19g15 tối trở đi!
Lễ cúng Nghiệp Tổ, Thần Tổ: một đĩa tam sên, hoa trái, 2 trà, 2 rượu, tiền vàng, 2 bát gạo (thêm cà phê hay thuốc hút…)
Cúng chiêu đãi binh gia:
- 1 gói thuốc hút (nếu trong nhà không có người hút thì thôi)
- Để quẹt gas kế bên
- Khoai củ, bánh trái, tiền bạc
- 4,5 bát gạo đầy… tùy lòng hảo tâm mà ta cho nhiều hay ít
Nên cúng những thứ “ăn để no” như: bánh tét, bánh chưng, bánh mì hay cơm cháo…
Nếu có lòng, ta nấu 1 mâm cơm thịnh soạn mà cúng cả chư Thần Tổ nghiệp lẫn binh gia, cúng xong ta ăn tất cả, không phải kiêng kỵ chút nào!
Người xưa nay truyền miệng rằng không được ăn cỗ cúng cô hồn (ăn đồ cúng vong thì nói vong không nghe), hoặc chỉ cúng cháo loãng, không nêm nếm gì… (ngạ quỷ cần cổ bằng sợi chỉ, không nuốt được)! Nếu ta cúng vào đúng ngọ hoặc giờ âm, vong hồn sẽ nhận và ăn được các thứ, ta chỉ đốt hóa tiền vàng, các thứ còn lại đem vào ăn cả, không bỏ thứ gì!
Đây chỉ là cỗ lễ đơn giản nhất mà tôi biết, xin viết ra đây để bày giúp cho các vị Thầy (là nói về các vị làm thầy theo nghiệp Tổ tông, không rành lễ tiết). Riêng các vị theo thầy học đạo thì tùy theo chi phái mà có lễ tiết riêng… Các vị Thầy Tổ đã chỉ vẽ đầy đủ cả rồi!!
46. LIÊU TRAI (9)
* Phải rất lâu, tôi mới tin điều mình nghe thấy là thực: căn nhà của tôi (gian bếp không có la phông), nếu vào lúc trời mưa đột ngột nửa đêm trong nhà đang đóng kín cửa thì không có gì lạ! Nếu mưa lúc ban ngày (khi cửa đang còn mở). Đóng cửa xong, xuống bếp, tôi luôn nghe có nhiều tiếng người nói lao xao, già trẻ lớn bé đủ cả: tiếng cao giọng rổn rảng, tiếng the thé, khàn khàn, tiếng trong trẻo của cô gái, tiếng trẻ nít líu lo ngân vang… rõ mồn một! Có điều lạ là khi lắng tai nghe, tôi không nghe được câu nào cho rõ, cứ như ai đó nói bằng thứ tiếng gì đó rất lạ!
Tôi đã nghiệm rất nhiều lần, vẫn chưa biết tin vào đâu: khi trời mưa lúc nửa đêm trong căn nhà cửa kín thì không nghe tiếng người nói như vậy! Cho đến một ngày, vào buổi trưa độ hai, ba giờ - tôi đang nằm nghỉ trưa thì trời đổ mưa rào, bất chợt nghe nhiều tiếng lao xao… Vía tôi nhìn ra cửa, thấy một tốp người rất đông (đến hơn hai chục), họ kéo nhau vào dưới hiên nhà tôi trú mưa, rõ là “cái bang bị gậy”: già trẻ, lớn bé đủ cả, người chống gậy cà nhắc, người bò lết dưới đất, ăn mặc tơi tả, rách nát, đầu bù tóc rối… trông còn thảm thương hơn những người hành khất ta hay gặp bên đường!
Có lần tôi nghe rất nhiều tiếng nói như vậy trong nhà mình, trời mưa càng lớn tiếng nói càng to đến đinh tai nhức óc, tôi sợ quá, vẫn cố lên giọng nạt một tiếng lớn: “Im lặng! Vô nhà người ta đụt mưa thì đụt, nói lung tung nghe điếc tai, tôi đuổi ra mưa hết bây giờ!”. Tất cả các tiếng nói lạ kia im bặt, chỉ còn lại tiếng mưa rơi sầm sập trên mái nhà…
Chỉ vài phút sau, tiếng nói lại lao xao trổi lên, tôi thua! Đành lòng nào đuổi họ ra khỏi nhà khi ngoài trời đang mưa lớn! Đợi hết mưa tôi mở cửa trục ra kẻo không họ lẩn lút ở lại, phá đến sập nhà mất!
Chẳng biết có ai nghe thấy, cảm giác giống như tôi hay không, bạn cứ tưởng tượng như đang lạc vào một đất nước xa lạ đầy người nào đó, trong khi mắt đang nhắm vậy!
* Năm xưa, dạo tôi chưa biết nhiều về Điển trên và các chuyện thuộc về tâm linh, cũng không biết âm vong, âm hồn là gì… Có lần tôi mơ thấy mình đang nằm ngủ trong nhà, bỗng nhiên có rất nhiều người lạ xông vào mang theo gậy gộc, đánh đuổi Mẹ con tôi và đập tan nát đồ đạc chung quanh!
Vía tôi thấy Mẹ con vừa chạy vừa la cầu cứu… Lại thấy một ông cao to bước vào nạt lên một tiếng, cả bọn người vác gậy chạy mất! Người đàn ông ấy nói: “Xin lỗi cô! Họ đói quá nên làm càn đấy thôi”… Khi mọi người đi hết, tôi nhìn lại thì hỡi ôi, nhà cửa tan hoang, mùng mền rách nát, bàn ghế xiêu gãy, bóng điện rơi vỡ tan tành…
Khi tôi kể lại giấc mơ của mình, Má tôi nói: “Đó là cô hồn, họ đói nên họ phá; Người đánh đuổi họ đi là Tiêu Diện Đại Sĩ, người chăn dắt vong hồn!”. Tôi nghe vậy thương quá, bèn mua bánh trái, tiền bạc, gạo muối cúng cho họ…
* Một ngày nọ, cũng trong lúc tôi nằm nghỉ trưa, đang “lơ mơ” chợt thấy cửa xịch mở, có hai ông bà lão bước vào! Hai cụ trạc tuổi hơn bảy mươi, người hom hem, ông chống gậy trúc, bà vịn vai ông, cả hai mặc áo dài gấm đồng tiền màu xanh rêu. Bà kể: hai vợ chồng nguyên là thổ địa trong đất này, hiện đang ở sau nhà tôi, chỗ cây chùm mứt có tổ mối đùn ở dưới gốc, nay nghe tôi sắp xây hai phòng trọ ở đó, ồn ào và ô uế quá họ không chịu được, xin tôi cho dời đi chỗ khác… Tôi hỏi muốn dời đi đâu thì họ bảo: “Gốc cây ngọc lan trước nhà cô, nơi đó sạch sẽ. Xin cho phép tôi dời ra đó, nhưng cô phải dâng lễ để xin chuyển thì chúng tôi mới đi được! Lễ ngày 13: hoa, trái, nước đầy đủ là được rồi”
Tôi nói: “Hèn nào cô Doanh (người thuê nhà mới sinh con chưa đầy tháng đã chuyển sang nơi ở khác), cô bảo chỗ gò mối bên hông nhà có ông bà khuất mày khuất mặt làm em bé sợ khóc suốt nên không thể ở được!”.
Bà cụ bảo: “Chúng tôi dọa cho cổ sợ mà dời đi. Thứ đàn bà gì hung dữ, ăn hiếp chồng như tinh, ai thấy mà chẳng ghét!” - Thì ra vậy!...
Sáng ngày 13, tôi bị rối loạn tiền đình, chóng mặt đến không day trở gì được! Đến trưa, con trai về, tôi bảo cháu chở ra chợ mua hoa trái về cúng. Vừa xuống xe, tôi đã choáng váng ngã lăn quay, may mà con trai đỡ kịp!
Sự đánh đổi là như vậy! Như đã thành lệ, cứ đến ngày cúng rằm hay cỗ lễ gì đó là tôi bị “quay” tối mày tối mặt, không đau nhừ thì cũng rối loạn tiền đình, xây xẩm, buồn nôn… Trên cho đau dồn thử, coi tôi có đủ can đảm chịu đựng mà “thủ lễ” hay không đó mà!
Nói cho dễ nghe vậy thôi, nhưng sự thực thì “thê thảm” lắm! Những lúc như thế, tôi đạp xe đi trên đường cả người chỉ như cọng rơm trước gió, chỉ chực ngã dúi dụi vào đâu đó… Thần thức lơ mơ nửa tỉnh nửa say! Cứ như có ai đó bóp chặt quả tim không cho thở, người mệt đuối, mồ hôi vã ra như tắm… ai nhìn thấy tôi lúc ấy cũng buông lời thăm hỏi, ái ngại: “Chị bệnh gì mà mệt dữ vậy!”. Tôi chỉ trả lời qua loa rồi thôi!
Mỗi lần cúng rằm tôi phải đạp xe đi chợ đến ba lần, trên tay lúc nào cũng có chiếc khăn lông nhỏ, ướt đẫm vì mồ hôi của chính mình!
Có một điều “bất bình thường” nữa là tôi không thể đến những nơi đông người lui tới, hơi người và cảnh chen chúc, tiếng động làm tôi choáng váng và khó thở! Ngay từ lúc còn là cô gái trẻ trung và khỏe mạnh, mỗi khi đi xe đò hay đám tiệc, tôi luôn phải tìm một chỗ vắng, hoặc chí ít chỗ bên cạnh không có người… Mua vé vào rạp xem phim, nếu phải ngồi vào chỗ đông người, thà tôi bỏ vé ra về chứ không “chịu trận” được đến cuối…
Sự sống và tồn tại đối với tôi chỉ như một cực hình, hạnh phúc và cứu cánh chỉ là sự rời bỏ, nằm xuống và yên nghỉ. Tất cả mọi thứ mà người đời đam mê, gắn bó, với tôi không có ý nghĩa gì: tiền bạc, công danh sự nghiệp… Khi thiếu thốn đói nghèo cũng cần có dầu chỉ vài đấu gạo, thế nhưng lúc tiền muôn bạc vạn vào tay, tôi vẫn chẳng thấy động tâm hay thỏa mãn! Nói một cách văn hoa: “khô lân chả phượng” không ham, “gấm vóc lụa là” chẳng thiết…
* Có lần tôi về nhà cũ, gọi hồn con trai về để hỏi chuyện… Thấy có vong một người đàn ông trung niên, mang một chân giả! Vong ấy đứng lấp ló ngoài ngõ, ý muốn tìm vào. Tôi thốt lên bâng quơ: “Tôi đang có việc, không rỗi! Làm ơn đừng vào, để lúc khác!”. Một chốc, đã thấy lân la đến gần bên cửa, tôi đành lịch sự mời vào! Ông ta xưng tên là Lê Trí Tâm, 47 tuổi, là Chúa Quỷ của khu này. Nguyên ngày xưa là thủ lĩnh của băng cướp, thuở cả vùng Sài Gòn – Chợ Lớn còn sơ khai…
Tôi hỏi: “Vậy ra ông chính là vong quỷ một giò khu này truyền tụng xưa nay phải không? Nghiệp ác dày lắm mới làm quỷ bao đời chưa siêu thoát, sao không bỏ dữ làm lành!”. Vong ấy bảo: “Tôi là Chúa Quỷ, tôi chỉ làm theo sắc lệnh!”.
Từ rất xưa, hơn 30 năm, dạo khu kinh tế giãn dân Trung Mỹ Tây mới thành lập, người dân trong vùng đã truyền tụng với nhau: “Có con quỷ một giò, đi lang thang trong khu này. Hễ nó đứng nhìn vào nhà ai thì nhà đó có loạn!”.
Quả thế thực! Cả con đường ở chỗ tôi, nếu có nhà nào loạn động thì lát sau sẽ có thêm một, hai vụ ở gần đấy… Có chuyện va chạm xe cộ hoặc xô xát ngoài đường, từ đó đến tối thế nào cũng thêm một, hai chuyện tương tự!
Đến nỗi người dân trong xóm ai cũng sợ, bày nhau lập miếu thờ “Quỷ vương” khang trang ở đầu đường, hương khói thành khẩn lắm…
Mấy chị em tôi có bốn căn nhà kề bên nhau ở mặt tiền đường, ai cũng có chồng có vợ! Điều lạ lùng mà tôi suy nghĩ mãi vẫn không giải thích được: nếu một trong năm người có lục đục, cự cãi lớn tiếng, là “y như rằng” ngày mai ngày mốt sẽ có chuyện tương tự ở nhà đứa khác, xoay vòng chừng nào đủ 5 chị em thì mới thôi…
Có lần 3 đứa em của tôi có chuyện xích mích cãi nhau với chồng vợ của mình, luân phiên trong vòng bốn, năm ngày rồi êm. Tôi cười, nói với má: “Lần này quỷ vương nó chừa con với Liên ra!”. Ngay đêm đó, 12 giờ đêm, Liên (nhỏ em kế), vì một chuyện hiểu lầm mà điện lên tôi, hai chị em cãi nhau đến khóc mùi… Thế là đủ bộ 5 chị em trong nhà!
Trở lại chuyện ông Chúa Quỷ! Ông bảo tôi: “Con trai của cô Hai làm trùm ở khu này!”. Hỏi: “Nó quậy phá dữ lắm sao?”. Đáp: “Không! Là trùm phân phối lộc thực”.
Tôi gọi vong cháu về, cháu nói: “Con thấy âm hồn nhiều người đói quá nên ngày nào ăn cơm cũng đem sớt cho họ ăn!”. Nghe xót lòng chưa! Âm hồn còn biết thương xót nhau, chúng ta người dương thế bạc tiền, lộc thực tự làm ra được, ngoảnh mặt sao đành?
Từ đó, mỗi tháng tôi phúng thí cho âm vong một lần, lại xin cho Ba tôi và con trai làm chính chủ phân phối lộc thực.
Khi cúng, tôi mua những thứ lễ làm no bụng như khoai củ, bánh chưng bánh tét, bánh mì, bánh đa… và giấy tiền vàng bạc hoặc có thêm quần áo cô hồn!
Ngày trước, Mẹ Quán Âm cấm không cho tôi chiêu đãi cô hồn và đốt giấy tiền vàng bạc. Mẹ nói: “Âm hồn ngạ quỷ mắc tội bị đày không được ăn, không được mặc. Con cho họ ăn mặc là phạm luật! Con xin thì Trên phải cho, nhưng làm sai bị đòn ráng mà chịu nha!”.
Về sau, từ khi Mẹ Diêu Trì về nắm tay tôi độ thế, Mẹ cho phép tôi cúng chiêu đãi âm hồn mỗi tháng một lần. Mẹ dạy: “Mình ăn gì cho vong hồn ăn đó, cúng xong đem vào ăn hết, chẳng bỏ thứ gì, chỉ có giấy tiền là đốt đi thôi!”.
Khi phúng thí âm vong, tôi đưa hết những phần đã bắt nhốt trong KKT qua các đợt hành xử ra ngoài, cho lãnh lộc thực đầy đủ rồi trả tự do cho họ đi… Có điều tôi ràng buột họ bằng cách điểm “ấn Phật” hình “Chữ Vạn” vào giữa trán, và án lệnh: “Từ nay trở đi mỗi tháng tôi chiêu đãi âm vong một lần, những vong có hình chữ Vạn trên trán được phép trở về nhận lộc thực! Có điều phải biết làm lành lánh dữ, mỗi tối trở lại nhà tôi để nghe Kinh, hoặc tìm đến Chùa chiền… Nếu ai còn quấy phá hoặc làm điều ác, ấn Phật trên trán sẽ làm cho đau đớn, những thứ lộc thực này cầm vào tay sẽ hóa thành đất sét, nghe chưa!”.
Với âm phần, điều ta nói giống như một thỏa thuận bất biến! Từ ấy đến nay tôi chưa thấy phần âm nào quậy phá (những phần có án chữ Vạn).
Tôi nghiên cứu cách dụng phép “Mông Sơn thí thực” của nhà Phật - Biến hóa cho của một hóa ra gấp mười, trăm, ngàn lần để tất cả âm vong đều có đủ ăn, đủ mặc! Kết quả những điều mà thể Vía của tôi nhìn thấy làm cho tôi thực sự ngạc nhiên lẫn thích thú!
Khi dụng phép, tôi cho nhấc và trải bàn ăn hiện có ra thành rất nhiều bàn tương tự, tất cả các vong hồn hiện diện đều được có phần…
Lúc đầu âm vong tụ về chỉ độ vài mươi người, về sau mỗi lúc một đông hơn, đến một, hai ngàn là chuyện thường! Nhìn thấy phải rùng mình kinh sợ, hồn xiêu phách lạc nhiều đến thế này sao? Hồn nào lang thang hàng xứ đói rách, lạnh lùng, hồn nào đau đớn tật nguyền thảm thương kiếp kiếp? Hồn mất thân người vương mang nghiệp ngạ quỷ yêu tinh, đời đời phẫn hận. Hồn điên dại khóc cười lê lết đường quang… Trong đó biết chừng đâu còn có thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp, có vợ chồng con cái gắn bó yêu thương…
Ta nghĩ hoài, nghĩ mãi, làm thế nào cho âm hồn bớt khổ nạn, tai ương? Cứu người cũng là cứu ta đó vậy! Kiếp này, giờ này ta bố thí thi ân, ngày sau, kiếp sau ta cùng con cháu người thân được cứu! Như lời Mẹ dạy: “Gieo một trái cà trái ớt ra cây trổ đến hàng chục, hàng trăm - Sao chẳng cố công gieo giống ngọt lành để mai sau con cháu cùng hưởng!”
* Có lần, đang lúc tôi chiêu đãi âm hồn, chưa kịp phân phối lộc thực thì ngoài trời đổ cơn mưa lớn. Đang xót xa cho những âm vong phải đứng dầm mưa ngoài kia, cô Tiến (học viên Nhân điện) bảo: “Dùng phép lấy bạt che lên, trong nhà mình có tấm bạt đó!”. Ngay lập tức, Vía tôi thấy mình lấy bạt ra che ngang đầu, hai tay làm dấu từ trên đầu che dài ra khoảng sân và con đường phía trước nhà… Trụ thần nhìn, tôi thấy tấm bạt lớn và dài che kín trên đầu các âm vong. Mà lạ - Bạt chỉ che lúp xúp trên sát đầu, mọi người đều đứng lom khom trông đến tội - Suy nghĩ lại, tôi biết: khi tôi làm phép che bạt, tay tôi ra dấu kéo dài ra từ chỏm tóc trên đầu mình, nên bạt che ra không thể cao hơn!
Tôi lại nảy ra sáng kiến, lấy chiếc ghế nhựa màu xanh, dụng phép phân cho mỗi người một chiếc… Trụ thần nhìn lại thấy tất cả đoàn người thảy đều có ghế ngồi trật tự cả rồi, ngoan ngoãn và im lặng như đang tham dự một cuộc họp quan trọng nào đó!
Hôm ấy, được thể, tôi tiến xa hơn, dụng những phép xưa nay chưa từng sử dụng: sau khi phân phối lộc thực, tôi nói: “mọi người đưa lộc thực lên cho tôi xem nào!”… và tôi ngẩn người khi thấy tất cả âm vong đều đùm túm thức ăn vào trong vạt áo - Thương quá, tôi lấy ra phân cho mỗi người một chiếc bọc xốp màu xanh, ngay lập tức mỗi người đều có một bọc xốp màu xanh trên tay…
Tôi lại hỏi: “Đã đủ cả chưa? Còn ai chưa có phần, đưa tay lên cho tôi xem nào!”. Tự dưng ở tít đàng xa, từ hai góc rừng người có cánh tay đưa lên cao! Tôi nhìn kỹ, thấy hai người mặc giáp trụ màu vàng nghệ, tôi hỏi: “Ngài là ai?”. Đáp: “Chư Thiên”. Hỏi: “Ngài đứng làm chi đó?”. Lại đáp: “Bảo an!”
Tôi cung tay xá một cái cảm ơn hai vị Chư Thiên, thì ra Ơn Trên đã âm thầm cho binh tướng ứng trợ chúng tôi! Hèn nào hôm trước Sư Hướng đến nhà, có bảo tôi: “Cô Lan bây giờ giỏi quá! Có hai Chư Thiên, có Nhị Thần Hộ Pháp hỗ trợ, lại có nhiều Thiên binh nữa!”.
Chuyện này Mẹ Diêu Trì đã về báo cho tôi: “Ngọc Đế cho điều 500 Thiên binh về hỗ trợ cho con. Dạo này tà phép mạnh, tà cao lui tới nhiều, ta e con không đủ sức chống đỡ!”. Tôi hỏi Mẹ: “Con biết sử dụng họ như thế nào đâu!”. Mẹ trả lời: “Từ từ nghiên cứu đi! Họ diệu dụng lắm đó!”. Xưa nay, Ơn Trên chẳng bao giờ dạy tôi chính thức điều gì, để cho tôi tự chiêm nghiệm lấy mà thôi, tìm được cách thì sử dụng được phép, không thì phép chẳng thiêng, vậy thôi!
Tôi hướng dẫn cho các chị em Nhân điện dụng phép “Mông Sơn thí thực”, cũng chẳng dễ dàng gì, lần đầu không ai làm được, cỗ cúng còn nguyên, không biến hóa thêm gì! Cả hình chữ “Vạn” án cũng không vào được, sau này tôi xin Điển về hỏi, Điển Trên cho biết vì các chị em không có Phật ấn nên phép không thiêng!
Phần giải bùa thì chị em ai cũng làm được. Đương nhiên phải có tôi theo dõi, hỗ trợ và kiểm tra lại kết quả… Tuy nhiên ai cũng giỏi hơn tôi vì không phải “chịu đòn thế”!
Mẹ bảo tôi là gốc nhà Phật, giải bùa là làm sai căn pháp, bị đòn hoài cũng đúng thôi! Nhưng nếu người bệnh bị vướng bùa, không giải bùa ra thì điện truyền vào chẳng những không có tác dụng, bệnh lại còn nặng hơn vì các thế lực từ bên trong phản công lại!
Người đạo Phật vốn nhu hòa, tôi không muốn động chạm tới ai, “kính nhi viễn chi” là thượng sách! Ngặt nỗi lòng muốn cứu người phải tiễn binh gia về với Thầy Tổ, tôi vẫn cung kỉnh bày cho người bệnh về nhà mua ít lộc thực, tiền bạc và gạo để cung cấp cho các chư binh làm lộ phí tìm về Tổ Đường của mình, không hiếp đáp, bắt giữ giam cầm ai. Chắc các chư vị Thầy Tổ cũng vui lòng mà thứ lỗi cho tôi!
Về sau, qua nhiều lần cố gắng, trong chị em chỉ có chị Thục, chị NT, cô Tiến và Lan sử dụng được phép “Mông Sơn thí thực” - phép án Phật ấn, chỉ có cô Tiến là làm được!
Tôi vẫn dự định là sẽ cố gắng để cho các anh chị em trong nhóm chúng tôi tất cả đều sử dụng được hai phép án kể trên. Trước tiên là có đủ lộc thực cho âm phần được no đủ, sau là khống chế họ không làm điều ác, vừa cho vừa khuyến thì họ mới nghe! Nếu ai ai cũng biết làm điều thiện và lánh xa điều ác, thế giới này sẽ đẹp hơn nhiều… Và nếu các vị Thầy Bùa, Thầy Pháp biết cân phân sau trước, thận trọng mỗi khi cho đi một lá phép, ắt nhân thế bớt đi khổ nạn, tai ương!
Các Đấng có nhiều quyền phép xuống trần cốt để cứu nhân độ thế, đâu muốn gieo Nghiệp ác! Chỉ vì tùy tiện chẳng thận trọng khi lựa chọn môn sinh, trao phép thuật dày công tu luyện vào tay kẻ dữ, để mình cũng bị vạ lây… Đến khi tội ác trùng trùng luật Trên xử chẳng dung tha, trò tiêu hồn lạc phách thầy cũng dạ xót lòng đau. Người xưa bảo: “Cây kim sợi chỉ chẳng qua được lưới trời” đó thôi!
47. CHUYỆN ÂM BINH
Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi chuyển sang kể cho các bạn nghe về “Âm pháp”: bùa chú, thư ếm… là mảng đề tài mà tôi “ớn” nhất!
Ở đây có một hệ thống “chỉ huy hàng dọc” từ Thần Tướng chủ đạo, đến Tổ Thầy, các binh gia hoặc âm binh… Động tới họ là động đến nhiều thế lực liên đới.
Về âm pháp, hàng cao nhất ta gọi là “Đạo phù”, lệnh chỉ của pháp môn! Thứ đến là “Ấn phù”, còn gọi là Sớ Tổ, các vị thầy tầm sư học đạo xong, lãnh sớ Tổ về nhà để thờ (cũng tương tự như Linh vị). Từ đó các chư binh về theo… Mỗi lá bùa đi kèm theo 12 binh và 1 Tướng, Tướng là Thần hoặc Chúa Quỷ! Tùy theo mức độ quan trọng của công việc mà lá bùa có thể có hai đội binh (Tổng cộng 24 binh) và 1 Tướng, hoặc “xoàng xoàng” chỉ có 6 binh!
Ta gọi lá phép là “Lệnh phù” hay “Lệnh bài”, mỗi lá phép đi cùng 1 lệnh bài! Tất cả những điều này tôi “trộm lệnh Mẹ” để cầu kiến, phỏng vấn các vị Thần điều binh khiển tướng. Họ đã cho tôi biết như vậy!
Đến đây, tôi xin phép đi vào cụ thể từng trường hợp.
* Có một cô người Bắc, tuổi độ hai lăm, nhà ở chợ Hiệp Thành. Cô có một con gái còn bé! Nhờ người quen dẫn lên nhà tôi hỏi Điển xem: có phải chồng mình có nhân tình ở ngoài hay không! Mẹ Diêu Trì về, nhìn mặt cô ấy một lát, Mẹ nói: “Người ta có bầu gần sanh đẻ rồi, còn hỏi có hay không gì!”. Cô gái lúc ấy mới ôm mặt khóc và khai thực mọi chuyện, Mẹ lại bảo: “Chồng con nó bị bùa yêu chứ không phải sanh tâm phản bội con đâu!”. Cô ấy kể chuyện chồng mình về lấy quần áo mang đi, bảo cô: “Anh bị bùa yêu! Em thương anh thì đi tìm thầy gỡ bùa cho anh, không anh chết mất! Giờ cô ấy sắp có con rồi, em để cho anh đi nuôi cổ sanh đẻ Mẹ tròn con vuông rồi anh về!”.
Dạo ấy, tôi vẫn chưa biết đến bùa chú và chưa dám giải bùa cho ai, đành lắc đầu chịu thua, dù lòng xót xa lắm!
Sang ngày hôm sau, cô gái ấy lại lên, đem túi trái cây cúng Mẹ. Vừa nhìn thấy cô, tôi đã buột miệng: “Rồi! Bị bùa rồi! Từ tối qua tới giờ chồng con có về, đưa cho con cái gì đó phải không?”. Cô ấy nói: “Anh ấy mang về năm trăm ngàn, bảo là tiền của cô kia đưa, bảo con cầm lấy mà lo cho con mình, còn ảnh thì nuôi đẻ cho cổ, con mang cả lên cho cô xem, mười tờ năm mươi ngàn đây!”.
Lúc đó, trong nhà tôi còn 3 người nữa đang chờ chữa bệnh. Tôi vừa đặt tay lên xấp tiền xin Điển Trên về nghiệm thì bị bùa đánh tức thì! Vía tôi thấy mình ngã xuống đứng lên 3 lần, đành thua - Buông xấp tiền ra… cả người choáng váng, tối tăm mặt mày như trúng phải gió độc, đứng không vững, phải ngồi bệch ngay xuống đất!
Lần theo bờ tường mới đi được vào buồng trong, tôi ngồi xếp bằng xin Ơn Trên về cứu, xin Điển Thầy Tổ về trợ 5 phút sau mới tỉnh! Trở ra phòng khách, đang băn khoăn chưa biết nên xử trí ra sao thì nghe văng vẳng bên tai: “Nhị Thần Hộ pháp trợ, cô Hai giải bùa đi!”. Tôi đặt tay lên đỉnh đầu cô gái ấy giải bùa xong, Mẹ Quán Âm về, người cầm cây bút Bic màu xanh làm dấu nho nhỏ lên góc của 10 tờ tiền, xong bảo: “Con đem về dùng và để ý đi! Thể nào cũng có tờ trở lộn lại nhà, vào tay con cho coi!”. Mẹ dạy cô gái ấy mua đồ cúng tiễn binh… Lại bảo: “Ta cứu con một lần này thôi! Chồng con có duyên nghiệp với cô kia, tách ra không được đâu!”.
Thật tội cho cô ấy, nghe thế thì khóc mà đi về, sau không thấy trở lại nữa! Phần tôi, khi chữa bệnh cho 3 người đang ngồi đợi đó, ai cũng giật mình bảo: “Bàn tay chị lạnh ngắt như nhúng vào nước đá!”.
Đó là lần đầu tiên tôi biết đến sự đáng sợ của bùa…
* Bùa chú có nhiều dạng, nhiều cấp độ mạnh yếu khác nhau, mức độ tác hại cũng vô chừng - Loại nhẹ nhất là bùa của Tổ Tông nghiệp nhà, do âm binh thường, những âm vong xiêu lạc, giống như một đội quân thiếu chính quy.
* Cao hơn nữa là đội quân được đào luyện mặc cùng một sắc phục, quân binh của những vị Thầy chuyên nghiệp, thuộc dạng quân “thiện chiến”.
* Loại “hùng hùng hổ hổ”, chưa kịp nhìn thấy người đã nghe lạnh dọc sống lưng từng luồng là binh của Chúa Quỷ, cả đội binh toàn ngạ quỷ, hai mắt đỏ ngầu sắc máu!
* Ngoài ra, còn có binh của Quan Thánh Đế quân mặc sắc phục toàn đen.
* Bùa của người dân tộc miền Thượng cũng rất đáng sợ, vì họ sử dụng ma xó, ma rừng… Loại bùa này không có quân số cố định: có lúc hai, ba binh; khi bốn, năm; hoặc dùng toàn ma loài vật như: chó sói, chồn, rắn rít, con vắt, khỉ dã nhân, con vượn, báo…
* Loại bùa Miên (còn gọi là cà tha) thường ít khi sử dụng binh, gọi đây là phép thư, phép ếm đối thì đúng hơn! Phép này rất chính xác, dữ và độc!
Có lần tôi thấy bùa Kampuchia của Pôn Pốt, là binh chính quy, họ mặc giáp trụ màu vàng, y như quân lính Hoàng gia, mang cờ xí và trang bị vũ khí gươm đao chứ không dùng súng.
Loại bùa Miên, những ông thầy gỡ bùa ai cũng sợ: lơ mơ giải ra không xong là bị nôn ra máu chứ chẳng chơi!
Loại khó giải nữa là bùa dân tộc, vì nó đa dạng và khó tiên đoán, thầy giải bùa hay bị lầm, đi đến chỗ giải không được hoặc tác dụng không đủ…
Đa số các loại binh pháp đều hành theo Lệnh phù, những việc không liên quan họ không can dự! Tuy nhiên, cho dù có là những âm hồn hay âm căn đi nữa, kẻ dữ cũng biết nghe lời đạo lý! Tôi thường ít khi phải sử dụng “biện pháp mạnh”, chỉ lựa lời phân giải, khuyên can, các Thần Tướng điều binh sẽ tự nguyện cho tôi xóa Lệnh phù, sau đó tùy theo nguyện vọng của họ, tôi cho “giải giáp binh gia” trả họ về đời sống tự do hoặc đưa vào Chùa tu, hoặc trả về cho Thầy Tổ…
Có lần, tôi “uốn lưỡi” nói lý lẻ một hồi, vị Thần của một dòng tộc danh tiếng nọ chịu “cải tà quy chánh”, xin tôi bằng lòng thu nhận ông cùng 500 binh của mình theo về làm việc cứu nhân độ thế!
Tôi từ chối, nếu không thì đến nay tôi đã làm một bà Thầy Pháp cao tay ấn rồi…
* Có một chị làm nghề mua bán gạo, nhà ở chợ Gò Vấp, chồng là Giáo sư! Hai người có cô con gái lớn 23 tuổi đang học Đại học năm thứ 3 tại Mỹ thì phát bệnh tâm thần… Gia đình đưa về Việt Nam chạy chữa rất nhiều nơi không khỏi, quay sang tin tưởng Thần quyền! Được “xác Đồng” ở đâu đó phán bảo, người Mẹ về lập điện thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bà chúa Sứ) trên tầng lầu 1 nhà mình.
Hôm ấy, tôi và Lan (học viên Nhân điện) xuống nhà chị. Lên lầu thấy ngay một điện thờ nho nhỏ, trong ấy thờ Bà Chúa Sứ lộng lẫy, oai vệ với tràng phang, bảo cái đủ đầy… chung quanh có thờ nhiều vị Phật và Cửu Huyền, tất cả đều đẹp đẽ và sang trọng, chuông mõ (loại chuông đại, mõ đại). Bên trong chuông, tôi tìm thấy vài tờ giấy ghi tên tuổi, lời cầu xin của ai đó, chị cho biết điện thờ này thiêng lắm, nhiều người tới xin đều được!
Tuy nhiên, tôi phát hiện ra trong căn nhà của chị đầy binh, lại là binh của các chi phái khác nhau. Chị nói: “Hồi cháu bệnh, vợ chồng tôi cầu vái tứ phương, thỉnh bùa về để trị bệnh cho cháu đó. Khi phần nhập về, cháu xưng là đệ tử ruột của Phật Thích Ca, giảng đạo nói pháp giỏi lắm!”. Xác xưng đệ tử Phật, vậy mà Đồng bảo thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bên Địa Tiên) cũng nghe! Bệnh của con chạy chữa hoài không hết, lại mang nợ năm mươi triệu vô phương chi trả, thực tội cho người Mẹ cả tin! Cô con gái ở trong phòng đóng kín cửa, cười rú lên từng tràng, ai nghe thấy cũng phải rùng mình… Lan nhảy lên tấm thảm chùi chân đứng, nói: “Có gì ghê quá chị ơi! Nó chạy vô chân em rần rần như có điện vậy!”. Tôi nói: “Binh đó! Toàn là “thứ dữ” không hà!”.
Tôi thắp hương, xin Điển Địa Tiên về hỏi và được báo: trong điện thờ này không có Điển của chúa Sứ Nguyên Nhung, cũng không có phần Điển nào của Địa Mẫu ngự về… Tôi xin: “Mẹ có cho phép con tra án hay không?”. Điển báo: “Cho phép!”. Cẩn trọng, tôi hỏi lại: “Xin cho con biết Điển nào chuẩn án!”. Lời văng vẳng bên tai: “Lê Sơn Thánh Mẫu!”.
Tôi xá một xá tạ ơn Mẹ Lê Sơn, xong hướng về tượng Chúa Sứ khấn: “Nếu ở đây có ngự Điển của Bà Chúa Sứ, xin cho phép tôi quỳ lạy 3 lạy đảnh lễ…”. Vừa khuỵu chân xuống định quỳ, tự dưng có một lực nào đó dựng đứng hai chân tôi lên, không cho quỳ, cả 3 lần đều như thế!
Tôi chấp tay khấn: “Nếu thế thì xin cho con xốc áo mão cân đai lên xem cái gì ở trong ấy!”. Tôi đưa hay tay về trước, phóng điện vào trong áo choàng của Nguyên Nhung, thấy nhảy ra tức thì một ông già hom hem, tuổi độ 70, mặc áo thụng màu đen, ngồi co ở bên cửa!
Người ấy xưng tên là Trình Tính, 70 tuổi, nguyên là Tướng Trời! Người khai mình có 2300 binh, tôi ngẩn ngơ: “Chúa Sứ Nguyên Nhung có 2500 binh, ông làm chức gì mà có đến 2300 binh?”. Hỏi Lệnh Ấn, ông ta gục đầu không trình ra được… Thế là tôi cho thiên binh trói nghiến nhốt vào KTT!
Vừa nghe tôi tả lại, chị hỏi dồn: “Có phải ông về ở với con gái tôi hay không?”. Ông ta xác nhận là đúng như vậy, người Mẹ kêu trời: “Hèn nào nó cứ hay nói: “lão Tổ của ta nói như vậy đó!”.
Quay lại, tôi bước tới cửa phòng đóng kín, nhẩn nha nói: “Nghe đồn ở đây có điện thờ đẹp đẽ mà linh thiêng lắm, tôi tới thăm mà không thấy cô chủ ở đâu để chào một tiếng!”. Tiếng cười nín bặt, cô bé lần tới sát cửa nghe ngóng, lát sau hé cửa bước ra… Tôi mời ngồi, phỏng vấn: “Nghe nói con học giỏi lắm ở bên Mỹ, sau bị bệnh mới trở về Việt Nam phải không? Gia đình, ba Mẹ lo lắng cho con biết bao… 23 tuổi, con trả hiếu được gì cho cha Mẹ chưa sao để Mẹ thương con lo đến bạc tóc vầy nè!”.
Cô bé trả lời “tỉnh queo”, giọng cứng cỏi: “Dạ chưa! Con là đứa bất hiếu mà!”. Xong, liếc sang người Mẹ ngồi kề bên, cô bé đổi giọng khiển trách: “Mẹ nói phải không? Có phải Mẹ nói không?”. Người Mẹ run bắn, trả lời lắp bắp không thành câu: “Không phải Mẹ… Mẹ có nói gì đâu!”. Cô bé quay sang tôi: “Con xin lỗi! Con mệt, con đi đây!”.
Đi tới cửa buồng, cô bé quay lại nói: “Mẹ hứa đưa con đi chơi, nhớ không! Năm giờ rồi!”. Một cách đuổi khách rất lịch sự, ai bảo cô bé ấy tâm thần?!
Chuyến ấy, chị em tôi thua! Giăng một mẻ lưới, bắt được một con cá to, nhưng vẫn còn tự nguồn cội tâm linh những mắt gút của cuộn chỉ rối chưa gỡ được… Nhân duyên chưa đủ hay nghiệp quả còn dầy? Có thể là cả hai, trong những trường hợp nặng nề tương tự, nếu gia chủ kiên trì trở lại nhà tôi thêm vài lần nữa… Thể nào Ơn Trên cũng xót lòng mà cứu! Nhưng nếu án này mà giải tới cùng, tôi bị “đòn trả” cũng mệt đừ!
Đêm ấy, tôi xin Mẹ Diêu Trì về bàn giao viên tướng Trình Tính, xin cho trường năng lượng đưa 2300 binh giao về trên. Lạ và rất đẹp, tôi thấy có nhiều đợt mây màu hồng bốc từ dưới thấp lên cao rồi dần tan mất, tôi biết đó là năng lượng chuyển các chư binh về trên…
Trong nhà ấy còn nhiều binh pháp, âm binh mà quậy thì đất bằng cũng còn dậy sóng nữa là… Phần người Mẹ, một mực cứ tin rằng có Chúa Sứ Nguyên Nhung trong điện thờ của mình. Tôi và cô Lan hỏi Điển bảo không, nhưng bà chủ điện hỏi Điển vẫn bảo rằng có. Tôi lại hỏi: “Cho tôi biết Điển nào vừa ứng báo?”. Trả lời: “Điển Cửu Huyền!”.
Vì không phải là tín đồ Đạo Mẫu, tôi chẳng biết thực hư ra làm sao, tối về hỏi lại Mẹ Diêu Trì, Mẹ bảo: “Không được thờ Bà Chúa Sứ ở nhà riêng!”
Con người vốn đam mê quyền lực, sai đường lạc nẽo không hay, khi xác trần chưa có Lệnh Ấn thì Điển Trên không về, phần tà nào đó nhảy vào chấp lệnh, ra oai để nhận lộc lễ, chúng ta thì chỉ biết nhắm mắt tin bừa, thỉnh một “Ông Tà” về đặt lên ngôi cao, diệu võ dương oai thay trời hành xử! Công hay tội, phúc hay là họa… điều ấy người trần thế mấy ai được biết!
Nhớ lại chuyện cô Hương (học viên Nhân điện), cô Hương cũng bị Điển Tổ nghiệp án vào làm cho ứng báo sai lệch theo ý họ. Đến nỗi rước Bà Sư Phụ yêu tinh vào xác, chịu hoạn nạn dồn dập gần hai năm trời…
* Có một vị nguyên là Lương y Quốc gia, có hai bằng bác sĩ Đông và Tây y, là Thầy dạy bác sĩ, có chức danh lớn! Trước ông ở Mỹ, nay trở về định cư tại Việt Nam, có một phương thuốc gia truyền viên thành viên nhỏ xíu mà ông bảo rằng trị được bách bệnh… (tôi xin phép được dấu danh tính!)
Nhìn bề ngoài của ông, ta có ngay lòng tin của một vị Lương y hiền lành, đức độ, vị tha và hòa ái! Tôi quý ông ngay lần đầu tiên gặp mặt, nhìn ra phần Linh căn của ông là một vị Bồ Tát mắc đọa… Tôi giới thiệu vài người đến ông để khám bệnh, bốc thuốc!
Một hôm, tôi đưa Mẹ con chị bạn đến nhà ông mua thuốc về uống, được hai ngày thì phát lên dị ứng đầy người! Điện thoại lên nhờ tôi chữa… Khi đưa điện vào đứa con gái, tôi nghe ứng báo có một cái gì đó rất lạ, chuyển năng lượng sang trục tà, từ huyệt Bách Hội (Luân xa 7) đẩy xuống hai bàn chân, tôi rút ra cơ man nào là rắn, con nào con nấy chỉ nhỏ bằng ngón tay út, dài độ chừng hai gang tay, bầy rắn uốn éo phóng ra từ hai bàn chân, chạy mất!
Sang người Mẹ, tôi cũng lôi được một mớ rắn, con nào con nấy lờ đờ cứ như “tắc kè say thuốc lào!”. Tôi đưa bàn tay lùa tới, chúng uể oải uốn éo một cách lười nhác tránh sang bên… Thì ra với những người có năng lượng bùa phép án vào bị liệt, thuốc uống vào không có tác dụng hoặc có ít!
Đêm trước, tôi nằm mơ thấy một việc lạ: thấy tôi đưa người tới nhờ bác sĩ điều trị, vui chân bước ra nhà sau, tôi nhìn thấy có nhiều hộc gỗ, trong đó chứa đầy lươn, lịch, cá chình, lại có vài con rắn độc bò lơ ngơ… Những con cá, lươn bị chặt mất nửa đuôi, còn lại những cái đầu đầy máu còn sống, trong khoang gỗ nhầy nhụa những máu và nhầy nhớt trông rất kinh khủng!
Tôi hỏi: “Anh làm gì với những con này vậy?”. Ông anh nói: “Làm thuốc!”. Đang bức xúc, tôi buột miệng: “Làm con nào ra con ấy đi, để giở sống giở chết vầy trông tội quá!”. Ông ấy liếc tôi một cái, sợ quá tôi bước mau lên nhà trên, rồi giật mình tỉnh giấc…
Những giấc mơ ứng báo bao giờ cũng chính xác! Ngay tối hôm sau tôi khám phá ra trong thuốc ấy đầy binh… rắn!
Hai anh chị ấy cũng quý tôi, hay tìm lên nhà chơi, chị than: “Anh hay tụng Kinh Dược Sư và Chú Đại Bi vào thuốc để trợ thêm tác dụng, nhưng lại không kiêng sát sinh, các loại động vật mua về phải còn sống thì anh mới ăn!”. Hèn nào mà tôi mơ thấy những hộc gỗ và những con vật đầy máu…
Tôi lựa lời khuyên anh: “Theo Kinh giảng, người muốn tụng Chú linh nghiệm phải ăn chay và tắm gội sạch sẽ, liên tục trong 7 ngày! Anh làm thế Chú không thiêng!”
Lần đầu tiên lên nhà tôi, anh không nhận có bùa trong thuốc. Lần thứ hai, anh bảo: “Lúc anh 13 tuổi, cha có nhờ 3 vị thầy đến nhà để dạy các phép. Anh có lãnh Sớ Tổ đem về để trên bàn thờ nhưng không hành phép, dụng binh!”.
Tôi nghiệm ra: có lẽ vì anh còn sát sinh nên tụng Chú không linh ứng! Do vậy các vị Thần Tổ trên bàn thờ mới chuyển binh pháp vào hỗ trợ, từ đó trong thuốc có binh…
Chị N.T cùng con gái, cậu Phòng, cô Phi và Mẹ uống thuốc vào đều có tác dụng phụ nặng nề: ba người dị ứng đầy người, cậu Phòng đang đi chơi biển Phan Thiết điện về cho tôi, tôi chữa hai lần mới hết sốt và rét, cô Phi vì đang bệnh nặng nên chữa đến bốn lần (hai ngày mới khỏi). Mẹ Phi bị dị ứng cả người, chữa 3 lần vẫn chưa dứt hẳn, tôi phải giải binh ra mới hết…
Anh xem mạch bốc thuốc lấy tiền… tác dụng phụ thì tôi lảnh! Về sau, anh có báo cho tôi biết: “Suy nghĩ lại thấy em nói đúng nên anh không sát sinh nữa và đợi ngày chay đem thuốc ra tụng Chú lại hết!”.
Sau, anh nói với cô Phi: “Cô Lan có hỏi thì con nói Bác không dùng bùa chú nữa, nhưng thuốc của riêng con Bác vẫn phải cho bùa vào, vì bệnh của con là bệnh âm!”… Cô Phi hỏi tôi: “Chị có lên lầu nhà Bác ấy không? Bác để ở bàn thờ dưới đất những cục đá tròn tròn, cu Thái (con cô Phi) sờ vào, bác ấy rầy: “Đừng cho cháu phá, binh không ở trong đó!”.
Khi hai anh chị lên chơi nhà lần đầu, tôi ứng thấy có nhiều vong hồn chiến sĩ Thủy quân lục chiến đứng trước nhà, dọc theo bờ kênh, và thấy trong nhà đầy binh pháp. Chị kể lại một giấc mơ cách đó hai hôm: mơ thấy có mấy người mặc đồ lính Thủy quân lục chiến đi từ ngoài cửa vô nhà! Chị la lên: “Mấy người làm gì vô nhà tôi?”. Họ nói: “Vô chút xíu ra liền!”… Có thế, rồi chị thức dậy…
Cô Phi Bị bướu độc trong bắp chân, uống thuốc vào hành đủ chứng, bác sĩ cũng thua, và tôi cũng phải vất vả lắm mới chận được tác dụng phụ ấy. Ông bà xưa bảo “Phước chủ may thầy” quả đúng - Thầy giỏi mà bệnh nhân hết số cũng thua, dẫu “Hoa Đà tái thế” cũng làm sao chuyển được mệnh trời!
Một bác sĩ định cư tại Mỹ, mỗi lần về Việt Nam thuyết trình trước hàng ngàn bác sĩ của các bệnh viện. Có phương thuốc gia truyền quý trị được cả bệnh ung thư, với phương châm: “Không sử dụng hóa chất trị liệu, không mổ xẻ mà hết bệnh!”. Cuối cùng cũng lắc đầu chào thua 3 cục bướu nhỏ chỉ bằng ngón tay…
Cô Phi Bệnh vẫn y nguyên, uống thuốc vào phải kiêng ăn nhiều thứ, lại bị hành đủ chứng, người càng ngày càng gầy rộc đi, đến lúc bị choáng ngất xỉu vài lần khi đang lên lớp giảng bài đành phải ngưng uống thuốc! Ngẫm lại mới thấy định nghiệp thực là đáng sợ: chết không chết được mà sống cũng sống không yên!
Một bác sĩ danh tiếng vẫn còn phải sử dụng bùa phép để trợ cho y khoa, trách sao mọi người chẳng chuộng! Quyền phép của các Đấng và Âm binh rẻ đến nỗi chỉ cần ly cà phê, vài điếu thuốc lá thơm, một tô phở đáng giá chừng hai chục ngàn đồng là có thể có một lá phép điều binh. Thực uổng phí cho bao công lao dày công luyện phép!
Nếu quyền phép ấy vào tay những vị Thầy đạo đức và có lương tâm, sẽ trở thành bàn tay cứu sinh. Biết bao nhiêu người khổ nạn được xoa dịu, ủi an. Cuộc đời này chắc sẽ đẹp hơn nhiều… Mong lắm thay!
* Tôi xin phép khuyên những người có sử dụng bùa chú như sau: thỉnh thoảng nên cúng chiêu đãi binh gia một lần, có no đủ, họ mới tận lực giúp ta!
Sau một thời gian phù hợp (tùy theo công việc mà ta đã chuộc phép), ta nên cúng “Tống tiễn binh gia”, trả phép, tiễn binh trở lại với thầy Tổ, lễ vật cúng tiễn như sau:
- 2 bát gạo
- 1 đĩa thịt luộc xắt lát (hoặc thịt quay)
- 2 ly nước
- 5000 đ giấy tiền vàng bạc
- 5 điếu thuốc (có thêm cà phê càng tốt)
Tất cả đặt lên mâm cùng với lá bùa, để trên ghế hoặc bàn nhỏ, ngoài cửa chính căn nhà, về phía đường đi (nên nhớ không để trong nhà, binh nhận lộc xong sẽ lẩn lút ở lại. Không để trong khuôn viên cửa nhà, binh sẽ không được phép nhận)
* Khấn: Tôi tên…………………………… Nguyên trước tôi có thỉnh 1 lá phép tại ……………của thầy! Nay công việc đã xong, tôi xin phép chiêu đãi tiền bạc và lộc thực để tiễn trả các vị Thần chủ và binh gia, về với thầy Tổ của mình. Xin các vị nhận lộc lễ rồi ra đi và cho phép tôi xóa lệnh phép, không một ai còn ở lại trong nhà tôi hết, tôi xin cảm ơn!
- Đốt 3 nén hương, đọc bài khấn xong cắm hương, quay lại đốt lá phép cùng tiền bạc, chờ thêm 10 phút nữa thì ta dọn cỗ cúng. Đồ cúng đem vào ăn cả, không bỏ gì!
Có nhiều người hoàn cảnh khó khăn, cúng xong vì sợ mà không dám cho con cháu trong nhà ăn, lộc thực đem cho người ngoài, phải tội con trẻ “nhịn thèm”!
48. CHUYỆN “ĐÀN DƯỚI”
“Đàn dưới”, nói nôm na là dưới nước hay “thủy cung”! Người trần chết dưới nước âm vong bị bắt giam, không về nhà được - Các Thầy bùa Thầy Pháp đôi lúc cũng chào thua.
Tuy nhiên, nếu biết cách giao tiếp khéo léo và tế nhị, ta có thể thay đổi tình huống, đưa người chết dưới nước lên bờ hoặc tiễn phần trên bờ trở về dưới nước… Xin mời các bạn nghe tôi kể chuyện “Đàn dưới”.
* Một cô gái quê Bến Tre, lên Sài Gòn tìm việc làm, xí nghiệp nào cũng lắc đầu, hoặc kiên nhẫn chờ đến lượt thì được báo… đủ người!
Hơn nửa tháng chạy vạy vẫn chưa có việc làm, ở nhà thuê lại bệnh hoạn liên miên: hay bị làm mệt, chóng mặt xây xẩm, đau nhức ê ẩm khắp người - Đêm ngủ hay giật mình và thường bị lên cơn rét không rõ nguyên nhân…
Vừa nhìn cô gái ấy, tôi đã thấy khí âm rất nặng trong người: da mặt tái xanh như da người chết, hai mắt trỏm vào có khoen màu sạm lan hết cả vòm mi trên!
Truy tìm, tôi lôi ra… 3 con “ma nước”: 1 nam, 1 nữ cùng 1 bé trai độ chừng bảy, tám tuổi - Cả ba quần áo tả tơi, người ướt lướt thướt, rét lạnh và run rẩy… Ngỡ là một đôi vợ chồng, tôi hỏi thì họ bảo: “Dạ không! Tôi là anh trai. Đây là em gái và con trai của nó, bị chồng bỏ! Anh em chúng tôi chèo ghe bán hàng rong trên sông bị bão lũ dìm chết ngoài sông lớn”… cả 3 âm vong ấy đều rất hiền, quỳ ở bệ cửa nhà tôi mà xin cứu!
Tôi ra điều kiện: “Sáng mai cô gái này đi xin việc, ba người không cản phá, hỗ trợ cho được việc, cô gái ấy trở lại báo cho tôi biết, tôi sẽ xin Mẹ về cứu cho cả ba!”.
Tối hôm sau, cô gái ấy trở lại báo với tôi là đã xin được việc! Giữ lời hứa, tôi mua cho ít lộc thực và tiền bạc, xin Mẹ Diêu Trì về cứu vong. Mẹ về, phẩy tay một cái, cả ba âm vong tức thì quần áo khô đàng hoàng, không còn ướt lạnh nữa! Rồi Mẹ đưa vong vô Chùa quy y…
* Chị N.T, bạn tôi, có đứa cháu trai làm nghề thẻ mực trên biển, chết đến nay đã 14 năm! Chị nhờ tôi hỏi xem cháu đã được đi đầu thai chuyển kiếp hay chưa - Gọi vong về, tôi thấy cháu đứng đó người ướt đầm đìa, rét run lập cập… Hai chị em tôi vừa lúc ấy cũng nghe rùng mình ớn lạnh từng đợt y như người đang lên cơn rét!
Vong P.T.T mặc áo sơ mi cộc tay sọc ca rô rách tả tơi và một chiếc quần đùi. Chị N.T ra về, hứa ngày mai sẽ mua quần áo lên cúng cho cháu. Tôi cũng vào bếp, Vía thấy cháu không đi, đứng tần ngần bên cửa! Tôi hỏi, vong bảo đang đói và xin tôi cho ăn… Lúc đó, tôi hâm lại thức ăn cũ đã cúng ngày hôm qua không có gì cho cháu. Đành điện cho chị NT bảo gọi cháu về cho ăn…
Tôi bảo cháu: “Lạy Mẹ rồi đi con!”. Vong bước tới, bỗng nhiên ngã lăn quay ra đất, tôi chạy lên nhìn, một cảnh tượng kinh hoàng: hai chân của cháu bị cá rỉa mất cả thịt , lòi xương trắng hếu!
Tôi hỏi cháu có tiền bạc gì không, thằng nhỏ móc túi, lôi ra một nắm vỏ ốc… Tôi ngạc nhiên tự nghĩ: chắc cõi dưới nước dùng vỏ ốc làm vật trao đổi hàng hóa! Chị N.T nghe kể thì bật khóc, bảo: “Nó đói không có gì ăn phải ăn ốc biển đó!”.
Ngày hôm sau chị N.T lên, mang theo tiền vàng bạc nén cùng một bộ quần áo giấy vào một chiếc xe Honda (đồ hàng mã) để cúng cho cháu! Hỏi hiện giờ ở đâu, cháu chỉ tay ra ngoài biển… Ngạc nhiên, chị N.T hỏi: “Cha cháu là người chân tu, đã lập đàn ở nơi cháu mất để xin rước vong đàng hoàng, sao cháu vẫn không về được?”.
Cháu cho biết là vong vẫn còn bị giam giữ dưới nước, chưa được trả về. Ngày giỗ mới được về thăm nhà nhưng Cửu Huyền cũng không cho vô, chỉ đứng ở ngoài cửa! Hỏi lý do, vong chỉ bảo là: “không đủ lễ!”.
Chị N.T cúng cho cháu các thứ, khi gọi cho cháu nhận, tôi thấy từ sau lưng P.T.T có nhiều cánh tay đưa ra: già trẻ, lớn bé đủ cả! Có tay đen sạm gân guốc, có tay trắng trẻo sang trọng, có tay bé xíu của con trẻ… vong cháu nói: có cả thảy là 37 vong chết nước bị giam giữ như mình! Cháu lại đưa vào một bé gái nhỏ chừng năm, sáu tuổi, bảo là con nuôi, vong thấy bé gái chết đuối thì thương mà nhận làm con, và xin chúng tôi cứu cả hai cha con luôn thể!
Tôi nghĩ cách cứu vong P.T.T, trụ thần xin Điển Trên mời vị Thần biển về cho tiếp xúc. Thần biển bảo: “Vong này không phải do tôi quản lý!”. Tôi lại xin Thần sông, người cũng báo y như vậy! Cầu Mẹ cho Điển điều tra và ứng cứu, chốc lát tôi thấy bước vào nhà mình một vị xưng là Thần cửa sông, nơi giam giữ vong P.T.T!
Tôi xin cho dâng lễ vật trao đổi để chuộc vong. Thần lắc đầu không chịu nhận lễ. Tôi bèn “uốn lưỡi” xuống giọng năn nỉ: “Cháu tuổi còn trẻ, vô phúc chết oan dưới nước. Cha Mẹ ông bà thương nhớ không nguôi… Dẫu sao thì trần có luật trần, nước có luật nước. Xin ngài rộng lòng cho phép chúng tôi dâng lễ vật hoán đổi, phóng sinh loài thủy tộc để rước vong cháu về trần luận công hài tội cho được nghiêm minh theo luật của người trần thế!”… Tôi nói một thôi một hồi, vị Thần cửa sông vỗ tay: “Thực là đáng bậc Mẫu nghi thiên hạ, lời nói nghe đẹp lòng đẹp dạ biết bao! Được rồi, ta cho trả vong, khỏi cần lộc lễ!”.
Trời đất! Mẫu nghi gì tôi, một người bị đánh đòn như cơm bữa, tôi mà là bậc mẫu nghi, tôi phẩy tay một cái cho “thế gian biến cải vũng nên đồi” hết!...
Nói cho vui thôi, các bạn nhé! Chúng ta trở lại câu chuyện âm vong của P. T.T, còn nhiều chi tiết ly kỳ, cũng là một bài học kinh nghiệm cho tất cả mọi người trong cái mệnh danh là “cõi giới hữu hình”!
Tôi năn nỉ vị Thần cửa sông, xin cho rước 37 vong ở cùng cháu P.T.T về trần. Vị ấy không bằng lòng, chỉ trả vong cháu Tiến cùng bé gái sáu tuổi. Đành vậy!...
Vong P.T.T được về nhà… Chị N.T mua 2 kí cá con đem ra sông phóng sinh để tạ lễ Thần sông, hai chị em tôi mừng vui chưa hết thì độ chừng một tuần lễ sau, chị N.T lên chơi nhà tôi. Ngồi chuyện vãn chưa được bao lâu, tôi thấy vong cháu Tiến về… Cháu bước vào đứng ở một góc cửa cái, mặt mày “bí xị”, cháu mặc một bộ đồ bizama sọc đứng, giống y chiếc áo giấy chị N.T đốt cho hôm trước!
Tôi lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì mà con buồn thiu vậy? Đã về được nhà rồi hay chưa?”. Đáp: “Dạ rồi! Mà ông bà phạt đứng suốt ngày một chỗ, đi đứng nằm ngồi cũng không cho!”. Tôi hỏi: “Cái xe và tiền bạc có nhận được không?”. Cháu Tiến chỉ vào góc nhà, tôi thấy chiếc xe bị xích vào chân bàn thờ bằng một sợi xích to bản! Tôi chắp tay hướng về bàn thờ Cửu Huyền xá một xá, xin phép hỏi ai là người khóa xe… Nghe tiếng nói sau lưng: “Là tôi ạ! Tôi là Tổ Cậu!”. Hỏi lý do, Tổ Cậu nói: “Cháu nó đi mất bao năm, nay trở về không xin phép, tự động vào nhà nên tôi phải phạt. Tôi chỉ làm theo luật Cửu Huyền thôi, cô Hai!”.
Thì ra, chúng tôi chưa dâng lễ cho Cửu Huyền để xin cho vong cháu được vào nhà! Tôi biết mình làm vậy là chưa đúng luật, hèn nào vong cháu chẳng bị phạt!
Tôi lên tiếng xin lỗi, hứa sẽ dâng lễ tạ tội cùng cửu tộc, xin Tổ Cậu tha cho cháu và đừng khóa xe, để cháu có phương tiện mà đi lại. Tổ cậu đưa tay gãi gãi đầu, lên tiếng ấp úng: “Cô Hai! Tôi cũng muốn có một chiếc xe như vậy!”… Chị N.T lại hứa cho Tổ Cậu một chiếc xe!
Lần đó, chị N.T phải “hối lộ” Cửu Huyền một con gà luộc, bốn bộ đồ cho ông bà và một chiếc xe cho Tổ Cậu…
* Ai bước vào đường Đạo cũng bị dồn nghiệp trả nghiệp, thời gian dài ngắn tùy theo nghiệp nhiều hay ít… Thực tế chiêm nghiệm từ bản thân tôi cùng các chị em Nhân điện rành rành ra đó - Mỗi người học Nhân điện, từ lúc mở luân xa 100% trở đi là bắt đầu khởi phát tâm linh, bắt đầu dồn nghiệp, trung bình trong vòng hai năm… Sau đó bình ổn trở lại, nghiệp nhẹ dần và tâm linh phát triển ngày càng cao!
Giai đoạn dồn nghiệp là giai đoạn thử thách chúng ta trên đường đạo, khi chúng ta sử dụng bằng hết ý chí và nghị lực của mình để vượt qua ách nạn, là ta đã tiến thêm một bước trong hành trình tu tập… Giống như trẻ con phải học đến bỏ ăn, bỏ ngủ mới thi đậu và được lên lớp - “Chân cứng đá mềm” là vậy…
* Cô T. (học viên Nhân điện) khi lên lớp sáu, bảy bắt đầu bị dồn nghiệp liên miên! Cửu Huyền bên chồng toàn ngạ quỷ với yêu tinh: Bà cố Tổ hai mắt long lên sòng sọc, mái tóc bạc xoăn tít xỏa ra che gần hết mặt, với tiếng cười vừa nghe qua đã “lạnh tóc gáy”!
Cửu Huyền liên tục đưa các âm vong bên ngoài vào nhà để khuấy phá, đánh đòn con cháu! Thất trận này, trận sau tìm kẻ giỏi hơn - Cô T. thì bản thân bị hành đủ chứng, đột ngột và bất thường… bệnh đến rồi đi, chứng nào cũng nặng!
Cô T. có đứa con gái nhỏ, ngay từ bé đã đối nghịch với cha như nước với lửa: cha thét một tiếng, con ré lên một hồi. Cứ thế mà nâng cao độ lên dần, cho đến khi… ăn đòn!
Có lần cô T. bị hành đau nhừ tử cả người. Tôi trụ thần nhìn thấy có hai âm vong đứng ở đầu giường, trông thật lạ: họ không giống con người, toàn thân trong suốt như loài sứa biển. Có tứ chi là những chiếc vòi không có giác hút, hai mắt nhỏ tròn xoe như hai viên bi màu hồng ngọc!
Hai vong ấy không biết nói tiếng người, tôi phải dùng Điển để giao tiếp, và họ trả lời bằng cách gật, lắc đầu như một Robot vậy!
Thì ra đó là hai yêu tinh “Đàn dưới”. Tôi xuống giọng năn nỉ, cầu xin họ đừng phá khuấy hai Mẹ con cô T. Hai vong ấy bằng lòng… Một tuần lễ bình an, không có gì bất trắc xảy ra! Rồi biến cố lại dồn dập, tôi trụ thần hỏi hai “yêu tinh nước”, họ lắc đầu ra dấu lỗi không phải do mình, chỉ xuống dưới gầm giường…
Cúi xuống nhìn, tôi thấy hai “con ma nước” nữa, da nó màu đen mun, óng ánh rất đẹp! Chúng nằm dán mình xuống sàn nhà, bốn chi xoãi ra, hai mắt tròn xoe màu xanh lưu ly, ngây thơ và vô tội… Tôi giận quá, cho Điển Trên tống chúng ta khỏi nhà, quay lại hai “yêu tinh nước” đứng ở đầu giường cũng biến đâu mất!
* Con trai lớn của tôi, lúc bệnh nặng sắp chết, người đã nhược sức nhiều! Một hôm cháu nói với tôi: “Cứ nửa đêm là có hai thanh niên vào nằm kế con, nó bắt con phải đưa gối cho nó nằm, kéo mền đắp cho nó, cả người nó lạnh ngắt, làm cho con phát lạnh run, con sợ quá Mẹ ơi!”…
Tôi xót xa cho con, bệnh nặng lại còn bị âm tà, dùng Điển Trên điều tra, bắt ra hai tên thanh niên tuổi độ gần hai mươi, chúng ăn mặc như nhau: sơ mi trắng ngắn tay, quần tây màu xanh dương! Giận quá, tôi cho dây xích trói cứng hai tay, hai chân bắt đứng ngoài cửa miếu, hăm một câu: “Tụng xong một thời Kinh ta xử tội chúng mày cho biết!”… Ngồi trong miếu tụng Kinh, tôi vẫn để mắt trông chừng chúng. Một lúc sau nghe tiếng dây xích lạo xạo sau lưng, tôi nhìn lại thấy chúng đang uốn éo tay chân, hiện nguyên hình là… hai con hải cẩu!
Thấy tội, tôi cho Điển đem trả chúng về với biển. Con trai tôi từ đó không còn thấy hai thanh niên ấy, và cũng thôi không phát rét lúc nửa đêm!
49. RÈN LUYỆN
ĐỂ PHÁT TRIỂN TIỀM NĂNG
Tiềm năng là những khả năng tiềm tàng của mỗi người, hoàn toàn có thể đào luyện và phát triển! Bản thân tôi và những việc tôi đã làm được, một phần do cố công rèn luyện mà nên …
Các Đấng cho chúng ta cơ hội - Đạo Phật còn gọi là Nhân duyên! Có nắm bắt và tiến bộ được hay không, điều đó tùy thuộc vào bản thân, không phải do các Đấng!
Một tảng đá xù xì - cho dù có bẩy được nó lên, đưa đi đến đâu thì nó vẫn là một tảng đá. Nhưng một hạt giống khéo ươm trồng, dày công chăm bón có thể cho chúng ta cả một mùa vàng …
Tôi kể cho các bạn nghe những việc mà bản thân tôi có thể làm được - đọc qua có thể bạn cười xòa, phán cho một câu: “nói dóc” cũng xong! Thế nhưng - nếu bạn có phần nào quan tâm, nghiên cứu hoặc có điều kiện để rèn luyện - thì sẽ có lúc nào đó trong đời, bạn sẽ làm được như vậy, hoặc còn hơn thế rất nhiều!
Tuy nhiên - có điều khó minh chứng là phép chỉ thiêng 100% khi ở vào tình huống cần thiết đột xuất … Tôi đã tự tạo ra tình huống tương tự thì phép chỉ có tác dụng rất hạn chế.
* Xua bụi, khói:
Nhà tôi ở vùng thôn quê, khói đốt đồng hoặc rác thải là chuyện thường ngày - Mỗi lần đốt lên bụi khói dày đặc khắp nơi ... nhà ở kế bên tôi chuyên nghề nhặt phế liệu, đốt dây điện lấy đồng, hoặc bao bì nhựa liên tục mỗi ngày. Những lúc ấy tôi bị bế phổi, khó thở và ho sặc sụa …
Có lần tôi và cô Tiến ( HV nhân điện) đang ngồi nhặt rau, đến khi hay ra thì toàn bộ căn nhà đã chìm trong mù mịt khói! - Tôi vội đóng kín cửa và trục khói. Khói ngớt dần, độ chừng năm phút sau thì hết hẳn trong nhà, lúc đó ngoài sân khói vẫn còn dày đặc …
Vì có điều kiện thử thách thường xuyên mà tôi tiến bộ, chẳng phải sao! Lúc đó toàn bộ các cửa lớn và cửa sổ trong nhà tôi đều đóng kín - Tôi ngồi một chỗ trụ thần, cho thể Vía của mình mở cửa và dùng trường điện đẩy hết bụi khói ra ngoài … Đến tận giờ, tôi suy nghĩ mãi vẫn không hiểu bụi khói ấy bay hết ra ngoài bằng cách nào, trong căn nhà đóng kín cửa!
* Xua mùi hôi, xú uế:
Tôi cũng làm y cách xua bụi khói, mùi hôi thối bớt dần, chừng độ năm phút thì hết hẳn …
Mùi phân sống bón rẫy, mùi xác đậu hũ thối, mùi thuốc rầy, thuốc sát trùng các loại ..v..v…
Lúc nửa đêm - không khí cô đặc lại trong phòng đóng kín cửa, các mùi xú uế ấy làm cho ngộp thở … Tôi chỉ cần ngồi dậy trụ thần trục mùi thì được ngay, có một giấc ngủ ngon, không bị tra tấn như một cực hình nữa…
* Sau nhà mẹ tôi ở chợ Hiệp Thành là xí nghiệp sữa ViNaMilk, mùi hóa chất thải ra trong không khí thực không thể nào chịu nổi … Người dân và chính quyền địa phương đã nhiều lần đưa đơn khiếu kiện, vẫn chưa thấy khắc chế được gì!
Trong một buổi chiều mưa tầm tã, khí độc và mùi hôi tràn vô nhà rồi trụ lại đó, mưa lớn đến nỗi các cửa đều đóng kín - biết trốn đàng nào …
Tôi không nói gì, lặng lẽ chui vô buồng ngồi một mình, trụ thần mở cửa - xua mùi hôi ra khỏi nhà! Các em tôi đang ngồi bên mâm cơm - than trời trách đất nãy giờ … Sáu Quang vỗ tay bảo: “ Hết hôi rồi, ăn tiếp!” - Đâu hay chị Hai ngồi trục khói, có nói ra, chúng cũng chẳng tin cho - Chỉ có một “Chị Hai” ngồi đó - cười mãn nguyện …
* Ngăn mưa:
Người ngoài nghe qua sẽ cho rằng tôi nói “chuyện Tề Thiên” - Chỉ có bé Chi - con gái tôi là tin vào điều ấy! Vì cháu đã chứng kiến nhiều lần, từ lúc còn nhỏ tám, chín tuổi đến giờ …
Hai mẹ con cọc cạch chở nhau bằng xe đạp đi từ nhà, dưới chợ Hiệp Thành về nhà trên (Ấp Đông) – Bắt đầu chuyển mưa, trời đất tối sầm … rồi mưa rơi … Lúc ấy, tôi thấy Vía mình che hai tay lên đầu thoắt bay lên đứng trên không, chắp tay xin thần Mưa cho ngớt hột để kịp về tới nhà! Thế là hai mẹ con đạp xe tới đâu, mưa ngưng đến đấy - Về đến nhà, vừa tra chìa vào ổ khóa là mưa ập tới ngay tức thì …
Tuy nhiên - nói thì dễ, thực hành lại khó. Ta vừa phải trụ thần cho vững, lại phải đạp xe nhanh … Nếu trên đường lúc ấy có nhiều xe thì tôi thua - vì lo né tránh xe cộ qua lại, tôi không trụ được thần! Cũng cần phải chạy nhanh, kẻo ông thần Mưa nín lâu sinh buồn lòng, mai mốt đừng hòng xin được nữa - “Tận nhân lực mới tri thiên mệnh” mà!
* Một chiều nọ - chuyển mưa “đều trời”! tôi lo rối ruột vì hai sào quần áo đang phơi ở nhà trên Ap Đông, tôi vội vô buồng ( ở nhà dưới Hiệp Thành - trong lúc đồ đang phơi ở nhà trên Ấp Đông). Tôi ngồi trụ Thần xin Thần Mưa cho chừa lại khu đất nhà mình (Vía lúc ấy đứng ở ngoài đường trước cửa nhà trên này), để quần áo không bị ướt…
Trời mưa một trận lớn kinh khủng! Khi mưa hết, tôi từ nhà dưới chạy về - không thể nào tin vào mắt mình - trọn một ngõ hẻm nhà tôi dài một trăm mét không hề có một giọt mưa, còn lại tất cả phố sá chung quanh mưa ngập đường, ngập lối … Chị Chín nhà kế bên bảo: “Thấy trời chuyển mưa lớn quá, tôi bảo mấy đứa nhỏ leo rào qua lấy quần áo của chị - Ai ngờ trời không có một giọt mưa …”
* Xua giông bão và sấm chớp:
Con đường nhà tôi nằm kề đồng ruộng, lo nhất là mùa mưa bão - Giông gió giật đổ cây, tốc nóc nhà là chuyện thường! Mỗi lần giông tới gió bay đá chạy rầm rầm từ nhà này sang nhà khác - Hai mẹ con ngồi lo ngai ngái, chỉ sợ nhà sập bất tử!
Về sau - Chỉ cần ngồi trụ thần chuyển Vía đứng giữa trời, quay mặt về hướng giông gió mà xin … Độ vài ba phút là trời hết giông, ngớt gió ngay!
Có lần giông kéo đến ầm ầm và mưa to kinh khủng - Vía tôi thấy mình lên giữa trời chắp tay xin mà giông vẫn không ngớt bèn dang hai tay ra xoay vòng tròn chầm chậm trên không … Gió giông và những giọt mưa chạm vào tôi, tóe lên như muôn vì sao bạc - Độ hai ba phút sau thì giông ngớt! Xác trần của tôi ngồi trên giường phát run bần bật, khi cơn giông qua đi - tôi vừa thu thể Vía của mình lại thì bắt đầu lên cơn rét, y như vừa từ ngoài giông gió trở về …
* Lần nữa – trong một buổi chiều trời mưa lớn đến nỗi nước ngập cả con hẻm trước cửa nhà tôi, nước bắt đầu dâng cao đến nỗi sắp tràn cả vào khoang chứa máy bơm trên thềm nhà cô Tiến… (Che dù đội mưa, cô Tiến chạy sang nhà tôi “Chị xin Điển cho trời ngớt mưa đi! Mưa sắp ngập hư hết máy bơm nước nhà em rồi!)
Tôi trụ thần chuyển thể Vía lên giữa trời, thấy tứ bề tối đen, mưa đều khắp, tôi bảo cô Tiến: “Mây đen còn dầy đặc – Hết mưa thế nào được, thua rồi!”
Cô Tiến bảo: “xin Mẹ cho ngớt mưa đi!” – tôi chắp tay xin Mẹ Diêu Trì ứng cứu, thấy Mẹ đứng trên mây, chìa tay về hướng nhà tôi – Mẹ nói: “mười lăm phút nữa mưa mới hết, con à!” … Lúc ấy tôi nhìn lên đồng hồ: bốn giờ chiều! – Đúng bốn giờ mười lăm phút mưa dứt, gần như đột ngột vậy … Cô Tiến chạy ra sân, quay vào: “ Mẹ cho nước rút cạn hết rồi, chị ra mà coi!”
Quả thật – trời vẫn mưa rất to, thế mà khi cơn mưa vừa dứt, nước đã biến đi đàng nào cả rồi…
* Cơn bão số hai năm 2007 – Nha khí tượng báo là sắp có cơn bão lớn nhất trong vòng mấy mươi năm trở lại, ước tính rằng bão sẽ đi suốt chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam và mức độ tàn phá sẽ là rất lớn! Chánh quyền cho lệnh di tản dân chúng vùng ven biển suốt từ Bắc trở vào, cách xa biển 2km, sử dụng mọi biện pháp để đề phòng triều cường và bão lũ … Cả nước như ngồi trên lửa!
Lúc đó trong nhà tôi – hai mẹ con cùng cháu Minh ( HV Nhân Điện) đang ngồi nghe tin bão. Minh nhắc : “ Cô! Xin Điển Mẹ cứu đi cô!”. Tôi suy nghĩ một chút rồi đứng trước truyền hình nhắm mắt trụ thần chuyển Vía đưa theo ven biển từ Bắc vào Nam, đi tới đâu dang tay xin chuyển năng lượng vũ trụ để ngăn nước biển và triều cường, xin cho tan bão! Vừa chuyển năng lượng vũ trụ, tôi vừa chắp tay cầu khẩn Thần Biển, Thần Mưa bão và Sấm chớp ứng trợ … Lúc đó, cả người tôi lắc lư – cháu Minh đứng sau lưng cứ sợ tôi ngã!
Cách hai giờ sau, đợi lúc truyền hình báo tin bão tôi lại trụ thần xin và chuyển năng lượng thêm lần nữa – Năm giờ sáng thức dậy ngồi thiền nhận điện xong lại đưa năng lượng lần thứ ba …
Sáng hôm sau lúc bảy giờ – cơn bão số hai cũng đến, chạy suốt chiều dài từ Bắc vào Trung và là cơn bão hiếm thấy xưa nay: một cơn bão khô – không có mưa lớn và cũng không có triều cường!
Tôi biết – không chỉ riêng mình, mà cùng một lúc còn có rất nhiều người là học viên Nhân Điện trong cả nước nguyện cầu, làm cho các vị Thần động lòng thương xót mà “nới tay” cho đấy thôi!!
* Tăng trưởng khí đốt: Lâu nay, tôi chỉ mới thử nghiệm có vài lần – kết quả rất tốt … Mỗi bình gas nhà tôi sử dụng trung bình độ hai tháng, khi hơi gas sắp hết, lửa sẽ trở đỏ và cháy yếu đi – cao lắm chỉ sử dụng độ chừng mười, mười lăm phút nữa là cùng!
Tôi gọi em mang gas tới (em gái út của tôi bán gas). Hôm ấy hết hàng, cô út bảo tôi: “Để em đi mượn chỗ khác mang lên cho chị!”… Nói rồi quên mất!
Tôi trụ thần chuyển năng lượng làm tăng trưởng hơi gas, sử dụng thêm hai mươi ba ngày nữa mới hết hẳn!
Vừa rồi, tôi lại làm tăng hơi gas – dùng đến ba tháng hai mươi ngày mới hết … Quả là điều kỳ diệu, vì thời gian ấy đang vào dịp tết, thức ăn trong nhà nấu nướng nhiều và liên tục.
Cũng không dễ – vì mỗi lần mở bình gas để nấu đều phải đưa điện tăng trưởng hơi gas, chỉ cần quên chừng mười phút là … gas hết!
Mỗi lần đổi gas tôi đều ghi rõ ngày tháng cũng như giá tiền, nên việc làm tăng trưởng hơi gas kết quả “rõ ràng như đếm”!
* Những người có khả năng thu năng lượng vũ trụ vào mình, có nhiều điều kiện phát triển tiềm năng hơn người khác – Nếu cố gắng rèn luyện … cũng có khi như một kết quả hiển nhiên!
Từ ngày bắt đầu học Nhân Điện (Năm 1999) tôi đã mua một chiếc đồng hồ đếm giây để canh thời gian luyện tập và chữa bệnh. Đến tận giờ – tròn mười năm – vẫn chưa hết pin! Cục pin ( loại pin đũa nhỏ bằng ngón tay út) sau mười năm đã ngã màu đen dưới đáy, thỏi than chứa bên trong co thể tích, vỏ thiếc bao bên ngoài đã lõm phần tiếp xúc ở đầu cực – thế mà vẫn “ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” của mình. Đây có phải là “Chuyện hy hữu” không – khi tôi biết đa số các loại pin đều bị giảm tuổi thọ theo thời gian, cho dù có sử dụng hay không!
Pin trong chiếc đồng hồ đếm giây của tôi sau mười năm vẫn sử dụng tốt, và tôi mong muốn nó sẽ đồng hành cùng tôi cho đến ngày … tận thế – bạn có muốn nhìn thấy nó không? – biết đâu có một ngày cục pin ấy sẽ được trưng ra ở viện bảo tàng cổ vật, một thành tựu của người “Hành giả Nhân Điện”, hay một sản phẩm được bảo tồn giá trị bằng “năng lực tâm linh”
* Đến chuyện chữa bệnh cho động vật:
Chữa cho người còn thấy dễ tin hơn – vì con người “đồng chủng” với “thầy chữa”, và con người có ý thức thu nhận năng lượng, con vật có biết gì đâu! Vậy mà chữa cho loài vật kết quả cao hơn – thế mới lạ!
Mèo, chó, gà, vịt, chim muông, ngay đến … thằn lằn, rắn mối – tôi đều chữa qua cả rồi!
Hai con thạch sùng cắn nhau, một con rơi từ trên tường cao xuống đất nằm chết dí! Tôi lại gần, lấy que động vào, nó vẫn không nhúc nhích … Thế mà sau khi đưa điện cấp cứu, nó vùng dậy phóng chạy mất tiêu!
Ơ chỗ tôi mèo chó trúng độc liên miên vì ăn phải thuốc trừ sâu ngoài rẫy – con nào ăn xong cũng sùi bọt mép, nằm ngay đơ! Tôi cấp cứu cho nó một lần, xong bảo chủ tìm chỗ để cho nó nằm yên, độ sáu, bảy giờ đồng hồ sau chữa thêm lần nữa, thể nào nó cũng khỏe lại – và sang ngày hôm sau thì ăn được, chữa thêm một, hai lần, con vật trở lại bình thường!
Kết quả tốt hay không, còn do ta biết “linh động”, không chỉ đưa năng lượng một cách tùy tiện – mà phải theo bệnh chứng mà chữa, tác dụng sẽ nhanh hơn!
Ví dụ: con chó, con mèo trúng thuốc trừ sâu, ta cho điện vào đầu (trung khu thần kinh) đẩy hết độc ra, xong vào bộ phận tiêu hóa: Cổ họng, bao tử, đường ruột, gan thận, đại tràng, hậu môn … Cho năng lượng đẩy dần chất độc xuống hậu môn cho ra ngoài, đồng thời triệt tiêu chất độc còn tồn đọng trong toàn cơ thể, lần nữa cho năng lượng làm khỏe!
Con vật bệnh bỏ ăn, ta cho điện chấn chỉnh lại các hoạt động của đường ruột, làm tiêu hơi và làm cho thèm ăn …
Chẳng biết các anh, chị nhóm Nhân Điện khác thì thế nào, riêng cách chữa bệnh của chị em nhóm của chúng tôi cam đoan là “hổng giống ai!”
* Chữa cho loài vật, xưa nay tôi chỉ biết chữa trực tiếp – Đầu năm 2009, sau tết – Huynh Trần Thọ Vệ (Bút hiệu là Song Thanh) nguyên là người bạn thơ cao tuổi – nhà ở tận Tỉnh Phú Thọ … Qua điện thoại xã giao thăm hỏi đầu năm, than rằng : “Nhà có mấy chú “cún cưng” – hôm trước con chó mẹ bỏ ăn rồi chết, thuốc men chẳng ăn thua! Giờ lại tới hai con chó con không biết làm sao mà cứu …” Suy nghĩ một giây, tôi bảo: “Để Tịnh Vân thử chữa gián tiếp xem sao! Huynh chỉ cần đặt tay lên đầu nó, tay kia cầm điện thoại – Tịnh Vân sẽ chuyển điện cho Huynh, chuyển từ bàn tay sang đầu con chó nhỏ!”
Đầu tiên tôi cho năng lượng ổn định đường ruột, làm tiêu hơi, sau đó chuyển Vía của mình đến bên con chó- cầm tô cơm đưa vào miệng dụ cho nó ăn!
Đương nhiên là lần đầu tiên con chó lách đầu sang bên- không thèm nhìn tô cơm, hai con mắt ngầu đục, mệt mỏi … Lần thứ hai ( tức là ngày hôm sau) nó liếm láp qua loa một tí! Sang ngày thứ ba thì ăn uống trở lại bình thường như cũ, vừa ăn vừa sủa hục hặc, cái đuôi ve vẫy như mừng vui và cảm ơn tôi vậy!
Sau ba ngày điều trị gián tiếp từ xa, qua … điện thoại – hai chú chó nhỏ đã hoàn toàn bình phục và đến tận giờ đã “lớn tướng” cả rồi! Ông chủ mừng quá, trả công tôi bằng … “ba tấm ảnh chó con”!
* Vậy đó – cách theo dõi điều trị và định bệnh bằng thần thức đạt kết quả rất cao. Tuy nhiên cách nầy cần trụ thần cho thật vững, và phép “xuất thần” để đến bên bệnh nhân, cách truyền thần để hỗ trợ cho “thể Vía” … Vì vậy – chỉ có những người thầy đã học lớp cao (từ 18 trở lên) tôi luyện phép “xuất hồn” có xuất được thể Vía của mình thì mới có thể đến bên bệnh nhân (chữa gián tiếp qua điện thoại, hay qua thân nhân người bệnh) được!
Qua thể Vía của mình tiếp xúc cùng thể Vía của bệnh nhân, tôi chẩn bệnh đúng hơn – trong lúc điều trị, sau khi chuyển năng lượng tác động lên bệnh, tôi đã có thể biết ngay bệnh nhân có chuyển biến tốt hay vẫn chưa thay đổi!
* Cũng bằng thể Vía, tôi nhìn thấy màu sắc của các dạng năng lượng như nhìn thấy bằng mắt người vậy!
+ Tôi thấy hào quang ( hay năng lượng) của Phật và của Phật ấn (hình chữ Vạn) màu vàng ròng rực rỡ …
+ Năng lượng chung của vũ trụ khi chúng tôi sử dụng thu vào hoặc phát ra có màu lam nhạt, tựa những bụi nước nhỏ li ti, khi phủ xuống trông như ta đang buông một tấm mành bằng hơi nước
+ Khi dùng năng lượng để trục âm, tà khí hay trọc khí – tôi thấy năng lượng xuống thẳng đỉnh đầu như một cột thủy ngân.
+ Khi phủ trường bảo vệ cơ thể người, tôi thấy năng lượng xoáy xuống đỉnh đầu xong rồi xoay tròn, bao phủ chung quanh theo hình trôn ốc. Khi năng lượng bị khựng lại hoặc ngắt quãng, thế nào trong xác trần vẫn còn âm tà…
* Ở ngạ quỷ và yêu tinh thì đôi mắt là chủ lực – ngạ quỷ có đôi mắt đỏ rực màu máu, màu của sự sân hận, căm thù và uất kết … nó làm cho ta có cảm giác đang đứng trước lửa đạn, rừng gươm!
+ Loài yêu tinh có đôi mắt màu xanh ve chai lạnh lẽo, vô hồn – Nhìn vào đó ta thấy rùng mình, ớn lạnh và “sởn gai ốc” từng luồng … Cái lạnh không tài nào kềm nén được! Đi theo luồng lãnh khí chạy dọc sống lưng là nỗi sợ hãi vô cớ, nỗi kinh hoảng cũng tột độ mà không biết do đâu, vì đâu mà có!
+ Còn một loại đáng sợ nữa là dạ xoa! Ông bà xưa nói: “xấu như quỷ dạ xoa!” thật đúng – dạ xoa là loài quỷ có gương mặt biến dạng, bị tàn phá vì tai nạn hay đột biến – trông thật là kinh khủng! Có lẽ vì phẫn hận với hình dạng xấu xí của mình, nên dạ xoa cũng là loại quỷ hung ác nhất!
+ Màu của các vị Thần là màu đỏ của lửa – màu của sự hùng tráng, oai dũng, của chiến đấu và chiến thắng – Hay tượng trưng bằng mũi tên màu lửa xuyên suốt vào đỉnh đầu của ta, đau buốt tựa kim châm!
Đến đây – xin phép chấm dứt đề mục khó hiểu, khó tin và khó rèn luyện nhất trong HMLK – ta chuyển sang: “Người thật việc thật” bạn nhé!
50. THỰC HÀNH CỤ THỂ (12)
* Cậu Th. nguyên là luật sư, trưởng phòng công chứng số 2, tỉnh……… là em kết nghĩa của tôi! Trưa mùng 2 tết đi chơi về bị tai nạn rất nặng, nằm úp mặt, chết dí bên vũng máu ở vệ đường. Người qua đường điện về nhà báo tin, không ai dám động chạm, xoay trở cơ thể cậu Th., vì nghĩ rằng bị gãy xương cổ hay cột sống, và đã chết rồi!
Cô L. (học viên nhân điện) lúc đó đã học xong lớp 13, là em gái của Th., cùng gia đình vừa tới nơi! L. bình tỉnh đưa điện cấp cứu, chỉ 30 giây sau cậu Th. choàng tỉnh, leo lên xe máy cho người em chở đi bệnh viện!
Mãi đến 7g30 tối, cô L. mới liên hệ được với tôi… L. nói Th. hiện tại cả gương mặt đều sưng rất to, bầm tím tụ máu không còn nhìn rõ nét, vào bệnh viện thì hôn mê trở lại đến giờ chưa tỉnh!
Tôi trụ thần cấp cứu cho Th., thấy trong căn phòng lúc ấy có bốn, năm hình bóng lờ mờ như sương khói bay chập chờn chung quanh giường bệnh, nơi cậu Th. nằm… Những chiếc bóng không rõ dạng hình với những đôi mắt xạ ra tia lửa màu xanh thẳm lạnh lẽo… Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi thấy “yêu tinh” bay!
Linh tính cho biết cậu Th. chắc không qua khỏi, tôi xin lực trợ cứu của các Đấng, xong rồi mượn lời năn nỉ, xua chúng đi chỗ khác, hứa sẽ cúng lộc thực cho ăn! Độ chừng hai phút sau, mấy yêu tinh ấy lần lượt bay ra cửa phòng, đi mất… Từ đầu tới cuối tôi chẳng nhìn thấy thực thể chúng như thế nào!
Quay lại chữa bệnh cho Th., tôi cho năng lượng vào trung khu thần kinh, bảo toàn bộ não, làm tỉnh, làm hết hôn mê - vào gương mặt: làm tan máu bầm, dẫn lưu khí huyết, làm lành các vết sang chấn, cho năng lượng đi vào toàn bộ cơ thể và tứ chi dẫn lưu khí huyết thần kinh, thông ách tắc và bảo toàn các cơ quan nội tạng cũng như tứ chi…
Năm giờ sáng hôm sau, tôi lại ngồi thiền định đưa năng lượng cấp cứu lần hai, lát sau thì cô L. điện báo cậu Th. đã tỉnh, và nằn nặc đòi về… Lúc đó mới là sáng mùng 3 tết năm Mậu Tý! Đêm đó cùng phòng cấp cứu có mười nạn nhân tai nạn xe cộ, và đã chết hết tám, chỉ còn lại Th. và một người nữa. Cậu Th. thấy vậy sợ quá nhất định đòi về!
Bệnh viện không cho, nhưng gia đình năn nỉ quá, bác sĩ bắt ký vào bản cam kết rồi mới cho về! Chiều mùng 3 tôi lên nhà Th., và không tin vào những gì mình chứng kiến: Th. tỉnh táo, nói năng rành mạch, khuôn mặt hoàn toàn hết phù, chỉ còn hai vết trầy xước, vết bầm tím trên mặt và gò má trái… Tôi ngẩn ngơ, chả lẽ cô L. nói không đúng!
Gặp Mẹ Th., thím cũng xác nhận y như L. nói lúc chiều hôm qua… Phải cho là “kỳ diệu” trước nguồn năng lượng cấp cứu của Thầy Tổ và các Đấng!!
Khi cô L. tới nơi, cậu Th. đang nằm “chết cứng”. Vậy mà sau luồng điện cấp cứu của L. đã chỗi dậy leo lên xe máy ngồi cho cậu em rễ chở đi bệnh viện…
Khi chẩn bệnh lại, tôi thấy Th. bị vẹo vách ngăn mũi và nứt xương từ chót mũi lên trán, đến ngay chớn tóc. Tuy Th. vẫn nói chuyện tỉnh táo nhưng tôi biết thần kinh bị chấn động nhiều… Tôi chữa cho Th. mỗi ngày hai lần (qua điện thoại): ổn định thần kinh, hàn vết nứt xương trán, triệt tiêu máu bầm tồn đọng trong não, dẫn lưu máu huyết và thần kinh, làm mau lành và tan sẹo vết sang chấn trên má…
Sáng mùng 7 (tức sau 4 ngày điều trị gián tiếp, mỗi ngày hai lần!), cậu Th. đã phải đến phòng công chứng để nhận nhiệm vụ mới… Cả nhà cùng tôi đều lo lắng, chỉ e Th. bị ngất xỉu dọc đường hoặc có biến chứng về thần kinh! Tất cả mọi sự đều suông sẻ!!
Một người bị tai nạn xe cộ “thập tử nhất sinh” như vậy, đã trở dậy đi làm sau có… bốn ngày rưỡi, chưa đến năm ngày! Lại phải đứng ra nhận bàn giao nhiệm vụ mới, quan trọng và khó khăn nhiều lần hơn công tác cũ! Quả là chuyện “thần kỳ” phải không các bạn?
Tôi chữa thêm mỗi ngày một lần (tất cả chỉ là điều trị tầm xa, bằng điện thoại!). Hơn nửa tháng sau thì Th. hoàn toàn trở lại bình thường. Điều kỳ diệu nữa là hai vết trầy sướt trên gò má đóng vảy và bong ra từng lớp như vảy cá, không đau rát gì, còn lại hai mảng da sạm đen, vài tháng sau vết sạm cũng biến mất.
Cậu Th. bảo: “Bây giờ mà nghĩ lại vụ tai nạn ngày hôm ấy, em vẫn thấy cứ như một giấc mơ, vì không có di chứng gì, không đau đớn nhiễm trùng hay dị tật… thật là lạ lùng!”.
Th. còn kể: “Hôm ấy rõ ràng em bị phần âm kéo làm xảy ra tai nạn, vì đang chạy xe chậm một mình trên quảng đường vắng vẻ, tự dưng nghe “rầm” một tiếng, người ngã ra và văng đi, hôn mê luôn chẳng hay biết gì!”.
Ngày hôm sau gia đình tìm tới nơi xảy ra tai nạn dò hỏi, mới biết Th. tông vào một cô gái đang bế con nhỏ băng qua đường. Đứa bé ngất xỉu đưa đi cấp cứu ở bệnh viện, lát sau thì tỉnh lại và không có trầy xướt chi hết! Chuyện quả là “kết thúc có hậu”! Vì nếu đứa bé có mệnh hệ nào, hoặc cậu Th. bị ảnh hưởng thần kinh thì tiêu tan sự nghiệp vừa mới nắm trong tay!
Giờ cậu Th. là một trưởng phòng công chứng giỏi, một thanh niên đẹp trai, thành đạt và sắp… có vợ!
* Phong – em trai thứ tư của tôi, một buổi sáng nọ bị xe đụng, nguyên phần mũi, má và một bên mắt sưng to, đỏ và bầm, không thở được bằng mũi…
Ba giờ chiều tôi mới hay, xuống nhà thấy Phong đang nằm và chưa đi bệnh viện khám chẩn - tôi cấp cứu xong, năm phút sau Phong thở được bằng mũi: “Sáng giờ em chỉ thở được bằng miệng thôi, sợ gãy sóng mũi”. Tôi chẩn bệnh: “Lệch vách ngăn nhưng không bị gãy”. Sáng hôm sau Phong đi bệnh viện chẩn, bác sĩ bảo không bị lệch vách ngăn … Tôi chữa thêm bốn lần ( bốn ngày) kèm uống thuốc tây, Phong trở lại bình thường!
Về sau, thấy mình hay bị nghẹt một bên mũi, Phong đi bệnh viện chẩn lại - Quả nhiên là bị lệch vách ngăn!
* Cậu Danh (cậu em hàng xóm): bị người đánh bằng gậy sắt chấn thương đầu, hôn mê - chuyển đến bệnh viện cấp cứu vẫn hôn mê không tỉnh, kèm nôn mửa … Tôi nghe tin chỉ biết cầu nguyện ơn trên cứu và chuyển điện cấp cứu gián tiếp tại nhà lúc bảy giờ tối - Đến ba giờ sáng tôi thức dậy ngồi thiền cấp cứu lần hai cho Danh.
Khoảng 05 giờ sáng thì cậu Danh tỉnh, Điện não đồ không thấy có chấn thương thực thể gì, BV cho về và dặn nếu cón nôn ói hoặc hôn mê thì đưa trờ vào viện .
Đến trưa cậu Danh vẫn chưa khỏe, ăn uống gì vào cũng nôn ra hết, gia đình gọi điện cho tôi - tôi xuống nhà chuyển điện trực tiếp điều trị cho Danh, lát sau cậu Danh đã ăn uống trở lại bình thường. Mặc dù bị nặng đến hôn mê trọn một đêm, cậu Danh vẫn hồi phục sức khỏe rất nhanh, chỉ hai ngày sau đã đi làm trở lại như trước - Phải nhận là dòng Điện cấp cứu của Tổ, Thầy là điều "kỳ diệu" nhất mà chúng tôi từng được chứng kiến trong đời !
* Cậu bé không mọc tóc: Hoàng Xuân Đông, bảy tuổi
Người gầy nhom, da vàng sạm, biếng ăn – bốn, năm ngày mới đi cầu một lần. Điều đặc biệt là không mọc tóc! Nhìn vào da đầu, ta vẫn thấy chân tóc rất nhiều, nhưng nằm cuộn dưới da không chịu trồi lên …
Gia đình đã đưa cháu đi điều trị ở bệnh viện Việt Pháp, bệnh viện Bạch Mai Hà Nội và nhiều nơi khác nhưng không có kết quả!
Ngày đầu tiên, khi tôi truyền năng lượng, bé ngồi nhắm mắt nghiêm trang, y như một vị Sư đang thiền định. Vừa nhìn, tôi biết ngay cậu bé có phần Linh căn cao …
Mời Linh căn xuất hiện – tôi thấy ngay một vị Thiền sư dáng cao ráo, rắn rỏi, người đắp y vàng độ tuổi hơn sáu mươi – khuôn mặt nghiêm trang và đức độ! Vị ấy chắp tay xá một cái, nói “Tôi chính là Linh căn chính chủ của cậu bé nầy. Tôi chết đã một trăm mười năm nay mà chưa được siêu thoát, nay xin nhờ cô Hai cầu nguyện ơn Trên giải nghiệp giúp tôi!”
Tôi hỏi: “Ngài phạm tội gì thế, thưa ngài?” Đáp: “Tội tạo chướng nghiệp!” – Tôi nói: “Xin hãy kể thực với tôi, tôi mới có thể xin ơn Trên giải nghiệp cho ngài được!” Vị ấy không trả lời, xá một xá rồi rời đi …
Sáng hôm sau – tôi đang ngồi giặt đồ dưới bếp, Vía thấy vị Sư hôm qua vô nhà đứng bên cửa … Tôi ra hỏi, vị Sư ấy nói: “Tôi nghĩ lại rồi! Tôi xin cô Hai giúp cho!”
Cũng hơi ức vì chuyện hôm qua ông ấy đã bỏ đi không thèm trả lời – tôi bảo: “Tôi đang bận việc, không thể tiếp ngài, xin hãy đợi đến tối bé Đông sang chữa bệnh thì tôi mời ngài về nhé!”
Tối ấy (02/09/2006) vị Thiền sư tới nhà tôi, đi cùng một vị Sư khác, sau lưng lại thấy vong một con chó màu đen bị liệt hai chân sau, lết đi bằng chân trước trông rất thương tâm …
Vị Sư kia bước tới xá một cái – vừa nhìn thấy đôi mắt màu xanh tôi sợ quá tống cho một đấm văng ra ngoài… Trở vào, ông ấy nói : “sao cô Hai đánh tôi?” – Tôi la lên: “Các người là yêu tinh giả dạng Thiền sư để lừa tôi! Hai mắt xanh lè kia – Lại nữa, người tu hành ai lại dắt chó theo kè kè bên mình như thế bao giờ!” Vị thiền sư kia nói: “Tôi là người Ai Nhĩ Lan, mắt xanh – thưa cô Hai! Con này không phải chó – mà là con hoẵng, nó chính là oan gia trái chủ của chúng tôi đó!” …
Rồi họ kể: mình là hai vị thầy tu đi hành hương bị lạc đường ở giữa rừng – Lúc đó đang là mùa đông tuyết phủ rét lạnh thấu xương, lại sắp chết đói … Thấy gần đó một con hoẵng bị sụp bẫy thợ săn gãy mất hai chân sau, cũng đang sắp chết vì đói và lạnh!
Biết rằng con vật ấy trước sau gì cũng chết, hai vị sư ấy giết hoẵng mà ăn để tìm đường sống cho mình … Càng đi lại càng lạc giữa rừng sâu, sau rồi hai người cũng chết vì lạnh và rét! Linh hồn con hoẵng ấy lẽo đẽo theo sau báo oán, nghiệp sát sanh hơn trăm năm trả vẫn chưa xong…
Ai nghe kể chuyện cũng thấy rùng mình, ghê sợ cho nghiệp quả, vì hai vị ấy là bậc chân tu, nếu thường nhân đã không thành trọng tội! Và nếu ta giết con hoẵng ấy để cứu cho nó đỡ đau đớn, kèm với lời cầu xin siêu thoát cho nó, ta đã lập được công đức rồi vậy!
Hai vị Sư kia – nếu cam chịu chết vì đói lạnh, ắt linh hồn đã về cõi Cực Lạc Di Đà … Đường Tu gian khổ trăm bề, một chút sai lầm đã phải chịu đa mang gánh nghiệp ngót trăm năm!
Lần đó, tôi xin mẹ Quán Âm – Mẹ về hóa giải nghiệp chướng, đưa linh hồn con hoẵng kia đi đầu thai. Còn hai vị Sư Mẹ bảo: “Chờ một thời gian nữa!”… Con hoẵng được cứu, hai vị Thiền Sư lại chưa – Mẹ muốn làm răn cho đời sau được thấy: “Sát sinh là tội trọng!”
Sau một tuần lễ điều trị, bé Đông đã đi cầu đều đặn mỗi ngày, không còn bón nữa, ăn uống cũng ngon miệng hơn! Sau một tháng tóc bắt đầu mọc lên lún phún, nhưng ác nỗi mọc bao nhiêu gẫy cụp bấy nhiêu (Vì đã nằm cuộn trong chân tóc quá lâu) …
* Cô S. (ở gần nhà tôi). Hai vợ chồng có ba đứa con, tuổi chưa đến bốn mươi – “Vỡ kế hoạch” những sáu lần trong vòng có ba năm … Tử cung sinh biến chứng, đau bụng liên tục – khi đau bụng chướng to lên từng hồi, sờ tay vào nghe như có người trong ấy thổi ra làm cho bụng to dần lên như thổi một quả bóng … Đau dữ, mỗi lần lên cơn đau đi đứng không nổi, người vã mồ hôi lạnh!
Tôi chữa hết rồi lại tái – Nghĩ mà thương cho phận đàn bà … Đã ba lần cô S đi kế hoạch, tôi đều đưa điện trợ trước và sau khi ra về: cầm máu, giảm đau, ngừa nhiễm trùng …
Một giờ trưa đến bệnh viện, tối cô S. đã vô nhà tôi – cười toe toét: “Không đau gì cả, nhẹ bâng chị à!” Từ trưa đến giờ “sạch trơn” – không còn ra huyết nữa!” Tôi nghe chỉ biết “cười đau khổ” – cô S. đâu hay biết mỗi lần can thiệp vào chuyện nầy, tôi bị đòn “thê thảm”!
Lần ấy – Sau khi đưa năng lượng trợ giúp, cô S. ra về, tôi thấy một bé trai bụ bẫm trắng trẻo bò “lổm ngổm” sau lưng! Hôm ấy, tôi đã xin ơn Trên cho đưa vong bé đi đầu thai …
Một thời gian độ chừng ba tháng sau, cô S. lại cấn thai lần nữa, không đủ can đảm đi phá đành để nuôi luôn! Thai hành kiểu gì không biết - cứ đau bụng liên miên … Đi khám bác sĩ nói thai khỏe, bệnh viện cũng chẳng biết lý do vì sao cứ đau bụng hoài không hết!
Vô nhà tôi, tôi sờ vào bụng, lựa lời “ngọt nhạt” năn nỉ chút xíu là hết đau ngay lập tức, về nhà hôm sau lại đau tiếp … Đến một hôm – tôi bảo linh hồn em bé ra cho mình thấy mặt thì hiện ra một bé con độ chừng sáu, bảy tháng tuổi rất dễ thương, hai mắt tròn xoe trong veo!
Thấy bé bò lê dưới đất trần truồng trông thương quá – tôi bảo cô S. về đốt cúng quần áo cho bé. Vài hôm sau, cô S. đau bụng – lại vào! Tôi vẫn thấy em bé trần truồng như cũ, hỏi thì bé lắc đầu ra dấu tay chỉ ra ngoài đường! Cô S. bảo đã cúng đồ rồi, chẳng biết sao bé không mặc được … Điều tra một hồi, ra đồ ấy bị “Cửu Huyền” tịch thu mất rồi!
Tôi đành bảo cô S. về mua bộ khác xong mang vào đốt tại nhà tôi, em bé từ đó được mặc đồ! Nhìn mà thương vô cùng: em bé mặc gì như chiếc áo khoác ngoài dài tận gối, không thấy cài nút hay thắt dây gì. Trên đầu đội chiếc nón lá trông như nón các “Anh lính lệ” ngày xưa – nhìn bé, giống y như một “tai nấm biết … bò”, thương ơi là thương!
Đến lúc thai gần bảy tháng, cô S. cũng cứ đau bụng hoài như vậy, chẳng làm sao cho hết hẳn được! Hôm ấy, cô S. lại vào – Vía tôi thấy “Điển Ông” đặt đứa bé lên lòng bàn tay thật to – đứa bé ngồi lọt thỏm trong ấy như ngồi trong ghế bành!
Bàn tay chuyển đứa bé vào trước bàn thờ, trên tầm cao ngang đầu người – có tiếng ông nói: “Lạy ba lại đi, ta cho quy y đặng mà chuyển nghiệp” Đứa bé lạy ba lạy … Từ đó cô S. hết đau hẳn. Về sau sanh được một bé gái bụ bẫm dễ thương!
Khi bé gái tròn ba tháng tuổi, cô S. bế con vào thăm tôi, tôi lại thấy vong em bé lủi thủi bò theo sau lưng … Tôi hỏi, ra bé không nhập xác trần – ngỡ hồn con nhập xác trần cho Mẹ nâng niu chiều chuộng, ai hay con vẫn “cù bất cù bơ” thế nầy – Rồi lúc mẹ bế con đỡ nâng chăm sóc, đâu biết linh hồn vẫn một mình lăn lóc dưới chân …
Tôi cho cúng chuyển vong cho bé đi đầu thai, từ ấy đến nay không thấy nữa!
Nhân việc này – Tôi muốn nhắn nhủ với chị em bạn gái rằng: Nếu nhỡ trong đời mình có bị “vỡ kế hoạch” hoặc hư thai, hoặc mất con khi còn bé (năm tháng, một tuổi trở xuống) – nên tiễn vong đi đầu thai ngay lập tức, đừng để con bò lẽo đẽo theo Mẹ mà mang hận suốt đời! Nhất là âm vong còn bé, nếu vì lẽ gì đó mà không được ra đời, bé sẽ phẫn uất mà đeo bám theo phá khuấy cha mẹ mãi không thôi!
Cỗ cúng cũng đơn giản, không tốn nhiều tiền của và công sức: gồm một mâm cúng Chúa Quỷ và một phần nhỏ cho vong em bé ( để riêng một mâm khác):
* Cúng Chúa Quỷ: một đĩa tam sên – hai chung rượu, hai chung nước, một chén gạo đầy, ba xấp tiền vàng – một đĩa trái cây (không có cũng được)
Lễ cúng ngay ngày con mất, hoặc mùng hai, mười sáu âm (ngày gần nhất) – Giờ Ngọ hoặc từ bảy giờ tối trở đi!
+Khấn: Hôm nay, ngày…, tháng…, năm … Tôi tên: … có mất một đứa con (hoặc sẩy thai, hút thai) vì lý do (có thể nói theo từng trường hợp: bé bịnh chết hoặc chết trong thai, hoặc vì hoàn cảnh gia đình không thể giữ nuôi được đành phải đi kế hoạch – Nếu con chết nhỏ thì phải khai tên, tuổi, ngày sinh, ngày mất)
Nay tôi biện lễ vật cầu xin vị Chúa Quỷ vùng sở tại địa phương nơi tôi ở (Khai số nhà, địa chỉ nơi ta đang dâng cỗ cúng) – đĩa tam sên, trà, rượu, gạo và tiền vàng bạc nén dâng lên … Xin Chúa Quỷ ngự về nhận lễ! Cầu xin Ngài nhận vong và ngay lập tức đưa vong đi đầu thai chuyển kiếp, không theo bên tôi nữa!
Xin ngài cho vong cháu nhận ít tiền bạc, lộc thực của tôi cho cháu, để cháu có mà mang sang kiếp khác không phải sanh vào nơi chốn đói khổ, bần cùng! Tôi xin cảm tạ ân đức của Chúa Quỷ. Giờ tôi xin phép hóa tiền vàng dâng lễ cho ngài …
Thắp ba nén nhang đọc bài khấn xong cắm nhang, quay qua đốt hóa tiền vàng!
*Cúng cho bé (không cần đốt nhang – chỉ khấn thôi): một bát gạo đầy, ba xấp giấy tiền nhỏ, một hộp sữa tươi ( đã cắm sẵn ống hút vào) – một đĩa bánh nho nhỏ, một bộ đồ thế cho bé, một cái bao xốp (để bé mang đồ cúng đi)
+Khấn: Hôm nay, ngay giờ phút này Mẹ (hoặc Cha) xin vị Chúa Quỷ sở tại đưa vong con đi đầu thai sang kiếp khác. Cha Mẹ không có phúc để được dưỡng nuôi con, thôi thì Cha Mẹ cho con bánh trái, tiền bạc và lộc thực – Con mang theo sang kiếp khác để có mà chi dụng, cầu cho con được đầu thai vào một nơi đầy đủ để con được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, vào một nơi biết tu để con hưởng phúc đức về sau.
Con mau chóng về đây nhận lộc thực của cha mẹ ban cho, rồi theo Chúa Quỷ mà đi, không bao giờ trở lại đây nữa. Cha mẹ đốt hóa tiền vàng cho con đây – Tất cả con cho vào bao xốp mang đi cho Cha Mẹ vui lòng!
Khấn xong đốt tiền vàng, chờ thêm chừng mười phút rồi dọn cả hai cỗ cúng vào – ăn cả không bỏ thức gì, cũng không cần chờ đợi đến tàn hương mới dọn.
* Cô Th. ba mươi mốt tuổi – làm thợ may gia công! Cô bị tà nhập từ rất lâu (hơn mười năm) – gia đình đã đưa đi chữa nhiều nơi mà không khỏi. Cô kể: thế lực của tà rất mạnh, có thể mở cánh cửa phòng máy lạnh được khóa từ bên trong. Cứ mỗi lần nghe tiếng gọi là cô Th lại vứt mọi việc đi ra khỏi nhà, người trong nhà không ai cản được…
Xưa, khi mới mười tám tuổi – có lần cô đã vào nhà xác của bệnh viện để nhận xác chị bạn chết vì tự quyên sinh. Chính tay cô phải kéo những cái xác người từ trong ngăn đựng xác ra để nhìn mặt từng người, đến xác thứ sáu mới tìm ra bạn và lãnh đem về mai táng…
Vậy mà vài năm sau, chính vong hồn cô bạn ấy lại trở về níu kéo và phá cô Th – đến nỗi cô như một người điên: với nước da xanh tái như da người chết, hai mắt có quầng đen thẫm – Thoạt nhìn ta có thể liên tưởng ngay đến một diễn viên tô hai quầng mắt màu đen, tạo cảm giác kinh dị để đóng phim ma! Hai tay đeo hai vòng hạt trừ tà, sợi dây chuyền trên cổ cũng có phép, đã vậy những thầy trừ tà còn cho cô uống vào người bao nhiêu loại nước phép đầy bùa chú nữa - Thế mà “con ma” ấy vẫn ngang nhiên dẫn xác đi hoài, chẳng hề sợ phép tắc gì! …
Với cô Th tôi phải điều tra trong vòng ba giờ đồng hồ, đứng liên tục mỏi rã cả chân – trong lúc người bệnh thì ngồi trên ghế! Phải nói rằng cô Th gần như là một “kho chứa âm vong”, lôi ra phần này lại nảy ra phần khác, tôi mệt đến lả cả người …
+Có hai phần yêu tinh về chung đụng với xác trần: một người Việt và một tên người Campuchia có tà phép cao! Tên Campuchia về ở với cô gần ba năm, hắn mang theo hai “đồng bọn” … Thường các vị thầy trừ tà cũng phải kiêng dè loại nầy, tà phép của Campuchia nổi tiếng là mạnh và đáng sợ, lơ mơ thầy giải có thể bị nôn ra máu, hoặc nhẹ thì cũng rũ kiệt, đau nhức toàn thân chứ chẳng chơi!
+Lại còn Cửu Huyền: bà Cố tổ, Tổ cậu và ông Nội của cô theo kề bên – có vong một đứa em hư thai, vong cô bạn chết thành tinh … ở nhà cô còn có một bàn thờ riêng để thờ lá phép của thầy đưa, tôi trụ thần nhìn, thấy trên ấy ngồi nghênh ngang một … vong ngạ quỷ!
Những điều tôi ứng hỏi và đã được báo, cô Th đều xác nhận là đúng: đứa em hư thai, hình tướng của ông Nội và cô bạn gái đã chết … Cô cũng nhận là mỗi sáng sớm thức dậy thường đau nhừ cả người có khi đau căng tức ở vùng bụng dưới và ra huyết bất thường (là do âm tà về chung đụng với xác!)
Lần ấy – tôi xin Điển trên cho đưa vong em bé đi đầu thai, bắt nhốt tất cả những phần theo quấy phá, xóa các Lệnh phù trong hai vòng đeo tay, trong dây chuyền trên cổ và ở trong người (do uống nhiều nước phép)… Tiễn trả sáu mươi Binh Gia trở về với thầy tổ của mình! Chuyện kể thì nghe đơn giản vậy, thực ra chẳng ít nhiêu khê:
Với Binh Gia phải cung cấp tiền bạc, lộc thực cho họ - với Tướng chủ quản phải dùng lý lẽ thuyết phục để xin xóa lệnh phù! Khi họ chưa vọng động mình cũng không nên dùng thế lực để xử ép hoặc đàn áp họ …
Chỉ với một xác trần, xử ra thành năm vụ âm tà – phải nói là đáng sợ! Cứ đau Nam chữa Bắc mãi rồi tiền mất tật mang, lại rước thêm bao nhiêu binh tướng vô nhà!
Hôm ấy có mặt nhiều chị em Nhân Điện, cũng là dịp may cho chị em chứng kiến cách tôi “hành xử” và tra án! Sau đó – tôi đưa hai vòng tay cho cháu Hương và chị Thục giải bùa, chỉ cho chị em cách xử lý – Sau đó, tôi kiểm tra lại, hài lòng vì tâm huyết của mình đã được “kết quả như ý” - Chị Thục và cháu Hương đều giải được bùa!
Tôi không bao giờ cho mình là “thầy dạy” và chị em là “đệ tử” – chỉ là “người đi trước rước người đi sau” vậy thôi… Mỗi một bàn tay, cánh tay ấy vươn dài ra có thể dìu đỡ bao người, hạt giống Thiện nên cây trổ trái thành rừng! Rồi sẽ có rất nhiều, rất nhiều người hoạn nạn có chút bóng mát tựa nương, được ấm lòng trong giây phút giữa cuộc đời đầy bất trắc nầy!
Nhìn chung quanh, bao nhiêu bất hạnh dẫy đầy: thiếu thốn, đói nghèo, tật bệnh, tai ương … Trái tim mẫn cảm nào lại chẳng thấy lòng mình xót xa, thương cảm! Nếu mọi người trên mặt đất nầy đều có lòng sớt chia một chút những gì mình có, biết chìa ra một bàn tay nâng đỡ cảm thông … Ngày mai sẽ ngớt mưa dầm, nắng hồng lại tỏ và giông bão dần tan!
*Sau một thời gian – cô lại đến, mang theo đứa cháu trai độ chừng hai mươi lăm tuổi …
Cô Th báo rằng sau ngày tôi làm mọi việc giải tà âm giúp, cô đã hoàn toàn trở lại bình thường không còn di chứng gì và đã đi làm việc như cũ …
Đứa cháu trai của cô Th có người mẹ hơi “bất bình thường” đã treo cổ chết trong nhà kho ở chùa, nơi bà thường tới lạy Phật – một chùa ở miền Trung vắng vẻ vào mùa hè nắng cháy … Đến bốn tháng sau, khi có người hay biết thì xác chết đã thành khô!
Các con thương Mẹ – xin tổ chức lễ siêu độ cho mẹ mình, sư Trụ Trì ra giá: “Ba mươi hai triệu” - năn nỉ mãi, sư bớt cho hai triệu còn chẵn ba mươi!
Tội nghiệp những đứa trẻ vì muốn cứu Mẹ phải đi làm thuê, “thắt lưng buộc bụng”, dành dụm tiền cho đủ ba mươi triệu để về cầu siêu cho mẹ! Thương cho lòng hiếu của mấy đứa con, tôi bèn “Ra tay nghĩa hiệp” …
Trước tiên – tôi cho cậu trai ngồi lên ghế, qua đứa con cho gọi vong người mẹ về! Người ấy trông thật kinh khủng: cả cơ thể – nhất là hai tay và phần đầu, màu da đỏ ké như người say rượu, cả gương mặt phù cứng, đôi mắt có khoen đen sạm, đặc biệt nơi cổ có vết sẹo nằm ngang độ chừng bằng ngón tay cái, hằn sâu như một chiếc kiềng đeo cổ – chứng tích của sợi dây thắt cổ truyền đời …
Vong người đàn bà ấy cho biết mình thường xuyên bị khó thở và đau cổ không nuốt được gì! Tôi lấy ba nén nhang khoán hình chữ Vạn cắt đứt vòng dây treo cổ, và đem đốt nó thành tro, hóa giải nghiệp “chết treo” cho con cháu sau nầy! Xong, tôi làm thông khí quản và thực quản, dùng Vía đưa mấy cái bánh ngọt, thấy bà ăn ngon lành và báo là “hết đau cổ”!
Tôi bảo các con bà ấy về nhà cúng cho mẹ, một mâm cơm, cho quần áo và tiền bạc, gạo muối …
Đối với những vong hồn mang nghiệp Ngạ quỷ, khi sắp bày cỗ cúng xong phải điện báo cho tôi, tôi chuyển Vía của mình đến đấy án Ấn Phật vào cho họ thì mới được ăn! Tôi đã biết nhiều trường hợp người nhà cúng cho mâm cao cỗ đầy, nhưng khi gọi vong về thì bảo rằng ăn không được vì đau cổ, quần áo tiền bạc thì bị Cửu Huyền tịch thu cả – Cửu huyền cũng chỉ làm theo luật mà thôi, vong vướng nghiệp ngạ quỷ phải chịu đói khát không được ăn, không được mặc… Mỗi năm chỉ được ăn một lần vào ngày giỗ của mình hoặc ngày mùng hai, mười sáu âm hàng tháng (đúng giờ ngọ hoặc giờ âm – từ bảy giờ tối trở đi) Ngày giỗ của mình nếu cúng quá ngọ thì vong cũng chỉ biết đứng nhìn chứ không ăn uống gì được, thực là đáng thương biết mấy!
Luật nhà Phật rất nghiêm – Ngày trước mẹ Quán Âm Bồ Tát cấm tôi không cho phép “tài trợ âm vong” vì họ có tội mới chịu nghiệp chướng, ta không thể phá lệ được!
Mỗi tháng vong được cho ăn hai ngày mùng hai và mười sáu! Trừ tháng bảy là tháng “xá tội vong nhân”, từ sau ngày rằm đến hết ngày ba mươi ta có thể cúng bất cứ ngày nào – và vong được ăn thỏa thích, ta vẫn phải cúng vào đúng Ngọ hoặc sau bảy giờ tối, thì vong mới được nhận!
Tháng bảy sau ngày rằm cửa Địa Ngục mở, các âm vong về cõi thế rong chơi, ăn uống … Tháng bảy còn là tháng mưa ngâu, mưa thường dầm dề, sùi sụt ngày này sang ngày khác! Ta nằm trong nhà trên nệm ấm chăn êm – nghĩ đến bao cô hồn quạnh tử chiếc thân, xiêu lạc đi về trong mưa gió đêm trường. Hoặc những thân người lang thang không nhà cửa, đói rét cầm canh … Lòng đau như cắt, lệ ướt vòng mi – bát cơm trắng cũng nghẹn ngào trong miệng, gối ấm chăn êm mà muối xát kim châm! Tôi ước sao mình hóa trăm tay nghìn mắt như Chuẩn Đề Bồ Tát, mỗi cánh tay mang tặng cho người vốc cơm, bát nước, tấm áo, mảnh chăn …
Nhân thế ai người biết – khi còn thân người chỉ lo lường cân tráo đấu, tranh đoạt của người chẳng biết làm lành lánh dữ, bố đức thi ân … Đến khi hồn lạc phách xiêu đầu cây ngọn cỏ, đâu còn cơ hội đổi thay!
Nhân đây – Tôi tặng các bạn “bài thơ tháng bảy” để kết chương này, vậy nhé!
BUỒN TÀN THU
Rả rích tiếng mưa thu, buồn não ruột
Âm thầm hơi gió rét – xót đòi cơn
Bờ giậu thưa chim lẻ bạn kêu hờn
Song cửa hẹp, mộng tàn canh còn lỡ …
Hồn ai đó trốn tìm đêm dương thế
Giọt mưa ngâu chia hai nửa đời quen
Đợi làm chi Chức Nữ với Ngưu Lang
Bờ Ô Thước đêm sầu không thấy nữa!
Cơn sóng bạc vẫy mưa về vội vã
Bến giang đầu trắng xóa một trời không
Không chia xa nên chẳng hẹn tương phùng
Chưa sum họp nên nệ gì ly cách!
Thu buồn lắm – cả một trời thu khóc
Đâu vì ai, bởi thu chẳng riêng ai
Những oan hồn khi đã tỉnh cơn say
Thành bọt sóng, thành mưa sầu trăm ngả…
Đêm về tựa khóc bên bờ trần thế
Mộng giả chân – tàn cuộc có rồi không!
Anh ngày lên giữa trời nước mênh mông
Chờ hóa kiếp hồn hoang thành bọt sóng …
Còn lại một mùa thu hoài vô vọng
Đâu vì ai, bởi thu chẳng riêng ai
Luật tuần hoàn nhân thế trả rồi vay
Buồn cúi mặt – tàn thu còn sót lệ!!
21/08/2001
(Nhân đọc đến đoạn chữa bệnh bằng nhân điện, mình có hỏi cô Lan về vấn đề trược khí, mình post nội dung mail lên đây để các bạn tu học có tư liệu tham khảo thêm nhé.
-----------------------------------------------------------
Nội dung Tutam hỏi:
Con đang đọc lại từng phần HMLK 2 khi post lên diễn đàn TGVH, đang đọc đến đoạn cô dùng nhân điện cấp cứu cho cậu T bên phòng công chứng ở trong bệnh viện. Con sực nhớ đến buổi chiều con ngồi niệm Phật xong thấy trược xuống thắt lưng nên thấy mỏi ở khu vực đó. Niệm Phật xong con ngồi thiền và quán tưởng ánh sáng vàng tràn đầy năng lượng từ bề trên chiếu xuống và làm sạch hào quang thể vía khu vực lưng bị mỏi, thế rồi cảm giác mỏi cũng hết. Còn trường hợp nữa cũng liên quan đến việc chữa bệnh ở thể vía là hồi trước con được tiếp xúc với các vị bề trên bên Tứ phủ về làm việc qua một ghế là một cô bé còn khá trẻ, cô đó thì ko biết chữa bệnh nhân điện nhưng thường các ngài tá về để giải quyết các bệnh tà giống như cô. Đợt đó thì sau khi cùng cô Chín bên Tứ phủ đọc kinh Địa Mẫu xong thì lưng con cũng đau nhừ ở thắt lưng, thế là cô ấy chỉ đặt tay lên lưng con để rút trược ra thì hết đau liền.
Con muốn hỏi cô thế này, thông thường trược mà khu trú ở khu vực nào trên cơ thể thì nó có màu gì trong thể vía? Cái nữa là khi các vị bên Tứ phủ lấy trược ra thường "búng" ngón tay đưa trược ra khỏi cửa vào không khí. Còn khi con thiền thì trược đó lấy ra khỏi cơ thể thì nó có nhiễm vào người khác không?
Nội dung cô Lan trả lời:
Con đọc lại "Bài Tham luận về Linh hồn" của cô viết đó - sẽ thấy :
Trược khí ( Hay âm khí ) là khí của tà âm, có màu đen y như khói đen.
Khi trược khí xuất ra , những người có đôi mắt của Tâm Linh sẽ thấy
luồng khí màu đen thoát ra ngoài theo tay kéo hoặc thoát ra từ trên
giữa đỉnh đầu ( Huyệt Bách hội )...nhiều hay ít - lâu hay mau , còn
hay hết - với đôi mắt của thể Vía sẽ thấy được !
Trược khí thoát ra thì chưa tiêu ngay , còn lẫn quẫn quanh phòng ,
nơi ta ngồi... Nếu có ai đó đang có tà âm trong người hoặc đang bệnh (
Lúc nầy dương khí bị yếu - không bảo vệ được thể xác ) thì trược lại
thâm nhập , làm mạnh thêm phần âm trong người, làm cho bệnh trở nặng
và khó chữa hơn ( Âm thịnh - dương suy là vậy ! ).
Người Thầy chữa khi rút trược khí ra thường phải đẩy ra khỏi phòng,
hoặc là đẩy xuống chân người bệnh . Lúc đó , phải để cho bệnh nhân đi
chân không, đặt chân tiếp đất - để âm khí trở về với âm ( Là mặt đất
dưới chân ) ! Nói chung là cũng không sao , nếu trong phòng lúc đó mọi
người đều khỏe mạnh thì trược khí tự nhiên tiêu mất !
Nói thêm một chút : Khí có màu vàng là khí của Các Đấng ở Cung Trời
( Các Phật Ông cũng có hào quang màu vàng )... Màu thiên thanh là khí
của nhà Phật
( Các Chư vị Bồ Tát đi hóa độ chúng sanh ) - Màu đỏ là của các Chư vị
Thần - Màu đen là của Thiên Ma ( Cũng là màu của âm phần )...)
51. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (08)
Tính tôi hiền, tế nhị lại cả nể – vì vậy lắm khi gặp chuyện “giở khóc giở cười”, giờ nghĩ lại vẫn còn cay đắng…
* Chuyện mười năm:
Mười năm trước có một ông Giáo sư Anh Ngữ quen với tôi! Nguyên ông là người đạo Tin Lành, lúc nào gặp cũng khuyên tôi theo Đạo. Tôi bảo: “Đạo nào cũng tốt cả, nhưng Đạo Phật là gốc nhà không bỏ được!”
Hôm ấy là ngày rằm tháng bảy năm 1997, buổi chiều sau giờ làm việc ông KL lên nhà tôi chơi, ông chỉ tay vào bàn thờ, ảnh của Phật Bà Quán Âm nói: “Phật Bà mà linh, hiện ra cho anh thấy mặt, anh cải đạo theo Đạo Phật liền…”
Ngồi chơi đến tám giờ đêm, ông KL ra về, cách nay mười mấy năm – con đường Cách Mạng Tháng Tám còn vắng vẻ, ban đêm ít người qua lại lắm, không đông đúc, nhiều xe cộ như bây giờ …
Qua khỏi đoạn đường ở cầu Tham Lương, ông KL có cảm giác chiếc xe chở nặng sau lưng! Quay đầu lại – ông KL kinh hoảng khi thấy Phật Bà Quán Âm (bằng xương bằng thịt) đang ngồi trên xe. Ông la lên: “Ai đó ? Sao ngồi trên xe tôi – xuống mau!” Người ngồi sau lưng nói: “Ta là Quán Âm Bồ Tát đây, chở ta về nhà ngươi đi – Ta muốn nói chuyện”
Ông KL sợ quá – siết tay ga hết cỡ, vốn người thận trọng – ông nhìn đồng hồ: tám mươi rồi chín mươi, một trăm, một trăm lẻ năm cây số/giờ! Phật Bà Quán Âm vỗ vai ông : “Cẩn thận con – kẻo xảy ra tai nạn!”
Phóng điên cuồng tới đường Au Cơ, quẹo cua vào một khoảng có nhiều bóng tối, ông KL thắng xe lại, hai tay bụm lên mặt cầu xin đức Chúa Trời cứu nạn, bỏ tay ra Phật Bà Quan Âm biến mất …
Trên đây là nguyên văn lời kể của ông KL, sáng hôm sau, khi kể lại mọi chuyện với tôi qua điện thoại – ông bảo: “Em cầu xin Phật Bà – nói anh yêu em thực lòng, đừng hại anh mà tội nghiệp!” … Rồi ông KL biến mất!
Bảy năm sau, mua đất cất nhà ở gần chỗ tôi, ông KL lại … theo tiếp!
Phần tôi – chỉ xem KL như một người anh, một người bạn vậy thôi! Khi đến nhà, hai anh em nói đủ thứ chuyện “trên trời dưới đất”!... Cũng thân nhau lắm – tôi có thể ngồi gọt từng thứ trái, bổ ra hai anh em ăn, hoặc làm ly nước quả đưa mời, nhưng tuyệt đối không có tình ý gì với ông ấy!
Đến một ngày – chịu hết nổi sự theo đuổi của KL … Tôi thắp hương, quỳ dưới chân Mẹ xin Điển trợ xoay chuyển cho tôi để tôi “dứt được gánh nợ” nầy! Tiếng Mẹ Diêu Trì: “Được rồi”! Để đó cho ta!”
Hai hôm sau, ông KL lên nhà tôi chơi vào khoảng xế chiều, ngồi đến bốn giờ – tự dưng mắt trái của tôi giật ba cái! Biết có chuyện chẳng lành sắp tới, tôi giục ông KL ra về, đứng lên tiễn khách … Bỗng nhiên – như có “ma nhập”, KL nhào tới ôm cứng lấy tôi, đè nghiến xuống ghế ở giữa phòng khách… Vùng ra được, tôi đứng lên chạy đi, ông ta chạy theo ôm níu lại! Điên tiết, tôi tát cho hai tát tai rồi đuổi thẳng: “Nói cho ông biết – tôi không phải là con cái để dành cho một con đực. Có muốn thì đi chỗ khác mà tìm … Cút ra khỏi nhà tôi ngay lập tức! Căn nhà này từ nay khóa kín cửa trước mặt ông rồi!”
Mãi gần hai năm sau, ông KL vẫn còn lân la đủ cách … đến nhà, bị tôi đóng sầm cửa ngay trước mặt, ông lại dùng điện thoại kêu van.
Vẫn chưa đủ dứt nghiệp chướng, ông nhờ bạn bè lên tiếp cận, nói nầy nọ đủ kiểu, đủ điều…
Bình tâm nghĩ lại, tôi biết đó là do bàn tay Mẹ xoay chuyển đấy thôi! Một người danh dự như ông ấy, lẽ nào làm một điều ô danh giữa phòng khách trong căn nhà kề bên đường – lúc cửa đang mở rộng?
* Sau nầy – qua mọi chuyện, tôi mới biết là, một người có ba hoặc bốn phần hồn: Khi còn sống ta có linh hồn hiện kiếp, thêm Linh căn hoặc Âm căn. Đến lúc chết, Linh hồn vĩnh cửu mới ra mặt!
1/ Linh hồn hiện kiếp: giống ta, là ta … cũng già đi theo thời gian và có quan điểm độc lập so với lý trí – Linh hồn và lý trí tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra hành động, ứng xử – đạo Phật gọi là “Nghiệp duyên”!
2/ Linh hồn vĩnh cửu: Hết một kiếp trần, khi con người chết đi, linh hồn hiện kiếp rời thân xác! Quanh quẩn ở cõi người trong cảnh sống cũ hoặc thụ lãnh ngục hình ở cõi Địa Ngục, lúc nầy linh hồn vĩnh cửu mới xuất hiện, nhập vào linh hồn hiện kiếp, thọ lãnh tất cả những gì tạo tác và mang nó đi đầu thai vào kiếp lai sinh. Lúc này hồn hiện kiếp triệt tiêu!
Lại bắt đầu và mở ra một vòng luân hồi mới với những nhân quả tồn tại và mới phát sinh …
Chỉ linh hồn nào được về ngôi Cửu Huyền mới còn được tồn tại – Do những tội phước tạo tác trong hiện kiếp mà những phần âm Cửu Huyền cũng mang nhiều dạng thể khác nhau: Ma quỷ, yêu tinh, Thần, Tiên, Thánh ..vv..vv..
Ai có phúc, được sanh vào Tộc họ có Cửu Huyền biết tu nhân, tích đức được hưởng phước báo tổ tông – Ai vô phúc sinh vào nhà có Tộc họ mang nhiều ác nghiệp như ngạ quỷ, yêu tinh – có Tổ nghiệp làm thầy: Thầy Pháp, Thầy Cúng, Thầy Bùa… vì tộc họ nào có Tổ nghiệp mà hiện kiếp không có người thọ ấn, hành theo nghiệp Tổ, con cháu bị “hành nghiệp” dữ lắm! Cửu Huyền có âm nghiệp nặng nề cũng phá quấy, trù dập con cháu đủ điều – nói theo ông bà ta xưa “Khó mà ngoi đầu lên được!”
3/Linh căn và Âm căn: có mấy lý do khi một phần Linh căn nhập thế, đầu thai làm người trần:
* Tình nguyện đi Hành Đạo độ đời:
Là những phần Linh căn có Đạo quả, Phẩm vị cao như: Trạng Ong Trạng Bà, Trạng Cô, Trạng Cậu, các Thánh Mẹ Thánh Bà, Thiên Tướng, các vị Thần, Tiên, Đồng nam Đồng nữ. Bên nhà Phật có các vị Phật, các vị Bồ Tát và Thánh: Thánh Nữ, Thánh Nam trung, Thánh Nam cao, các vị La Hán, Hộ pháp, các Đồng Nam Đồng Nữ …vv..vv…
Những vị nầy tình nguyện xuống độ trần, nhập xác làm người cõi thế trong trọn một kiếp trần hoặc chỉ trong một giai đoạn nào đó rồi rời đi….
Ngoài ra, còn có các vị là “Tinh chủ” (Có nghĩa là Vì sao chủ quản), xuống trần mang thân xác trần thế, học hỏi tiếp thu, sinh ra và lớn lên như mọi người, để rồi đến thời gian đã định thì tạo ra những phát minh, sáng chế để lại cho đời sau, dìu dắt nhân loại trên bước đường tiến hóa – Người trần chúng ta gọi đó là Thiên tài, Bác học hay Thần Đồng!
* Âm căn: Là phần nhánh khởi ra từ nhánh chính là Linh căn. Các Linh căn khi xuống trần hành đạo độ đời, có khi bị lôi kéo, quyến rũ vào con đường xấu – tạo ra nghiệp dữ, hết kiếp không được trở về, phải đầu thai sang kiếp khác – bao giờ trả hết nghiệp mới thôi … Âm căn là phần nghiệp báo của Linh căn, luôn phẫn uất, sân si, oán hận vì tiếc nhớ những quả vị của cõi trên! … Âm căn đáng sợ hơn Âm vong – vì Âm căn có phép thuật do dày công tu luyện mà thành! Cũng vì vậy, Âm căn chính là loại ác độc, hại người không nương tay, vì cậy thế vào tài phép của mình.
Linh căn thì “lủi thủi” đi theo Âm căn, không thể hành động hay can thiệp gì, chỉ biết cúi đầu chịu đựng sự quậy phá của âm căn! Tuy nhiên – nếu tỉnh táo, Linh căn có thể tác động gián tiếp vào xác trần, xoay chuyển cho xác trần biết lo tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, biết thi ân bố đức để không tạo thêm nghiệp ác và tiêu trừ nghiệp cũ – đến khi tiêu hết nghiệp, phần Âm căn mới được đoạn tận, Linh căn mới được trở về cõi trên!
* Loại đi Tu Tập:
Là những Linh căn xuống trần để rèn luyện, học tập, tăng thêm hiểu biết để được nâng cao quả vị!
Đây thường là những Linh căn cấp nhỏ hoặc trung, cũng giống như lớp trẻ còn phải vào trường lớp, đi học, đi thi để được lên lớp cao hơn - Sau nầy, khi học đã đủ, có bằng cấp cao sẽ được đi làm việc, tạo thêm lộc phúc cho mình …
* Loại có tội bị lưu đày:
Những Linh căn ở cõi trên có tội, bị đày xuống thế – Tùy theo tội nhiều hoặc ít mà nghiệp chướng dày mỏng khác nhau! Chịu xuống làm người trần thế trong một thời gian nào đó rồi thôi, được trở về với điều kiện không tạo thêm nghiệp mới.
Khổ sở nhất là loại này, vì phải làm thân người hoạn nạn, khốn đốn triền miên…tội nặng còn có nhân dạng bất toàn, bị người đời rẻ khinh.
Cũng từ đây – Linh căn dễ ngã vào đường dữ do phẫn hận, sân si để rồi tạo ra thêm một nhánh âm căn – lưu đày kiếp này sang kiếp khác, chẳng biết đến bao giờ mới được trở về …
Âm căn cũng như “tế bào dị dạng”, một nhánh mọc ra từ gốc là Linh căn, như một bướu độc, ung thư – vẫn là của “chính chủ” nhưng lại là phần xấu nhất: ác độc, hung hăng, kiêu căng ngạo mạn vì có nhiều quyền phép nên thích phá khuấy hại người – Âm căn là sự khốn đốn triền miên của Linh căn …
* Phần bản thân tôi, tôi khám phá ra mình có hai phần hồn: Linh căn và linh hồn vĩnh cửu, hồn hiệp kiếp tôi chưa thấy bao giờ, hình như nó không hiện diện!
Hồn vĩnh cửu của tôi là cô gái độ chừng hai lăm tuổi, tóc thề bỏ xõa hoặc cột lại sau lưng, dài đến ngang eo (y hệt như khuôn mặt và nhân dáng của tôi thời hai lăm tuổi). Chỉ có điều cách biệt là gương mặt ấy có vẻ trưởng thành, già dặn và chín chắn hơn so với ngày xưa, nỗi đau đớn và muộn phiền hằn dấu …
Linh hồn hiền lành nhu thuận, ngây thơ, cả tin và khờ khạo! Vì vậy – tôi cứ mãi khốn đốn vì sự ngây thơ và cả tin của mình trong đời. Linh hồn thần phục “Điển Ông” vô điều kiện, như một con chiên ngoan đạo với Đấng cứu thế quyền năng.
Linh hồn vĩnh cửu của tôi hành động và ứng xử độc lập, không liên quan gì đến lý trí cũng như quan niệm và suy nghĩ, cảm nhận của xác trần – hồn cứ như là một con người khác trong tôi!
Có lần – đang giữa mùa hè nắng đến nung người, trời không có tí gió nào … Tôi ngồi trong quầy báo nhìn lên ngọn cây bã đậu bên kia đường – gió đang đi qua ở đó, những chiếc lá bay bay … vụt một cái! Tôi thấy linh hồn mình vọt lên đứng đó, trên ngọn cây cao – Gió thổi tóc bay lồng lộng!
Linh hồn của tôi không thấy già đi, đến phút nầy – khi xác trần bắt đầu già nua, tăng cân ra, da mặt không còn vẻ tươi trẻ ngày nào và mái tóc đã vương vài sợi bạc – Linh hồn của tôi vẫn cứ thế, cứ như một cô gái thanh tân với mái tóc thề buộc lại sau lưng … Sờ lên đầu mình mái tóc uốn ngắn củn cởn với những nếp nhăn hằn sâu trên vầng trán … Tuổi thanh xuân lặng lẽ qua đi trong gió bụi đường trần, trong dạn dày sương tuyết …
Suốt ngần ấy tháng năm – tôi cũng như linh hồn của mình vẫn không nguôi một niềm tin: rồi sẽ có một ngày đời mình hết khổ, sẽ tới lúc được nhẹ nhàng thân xác! Điều duy nhất mà tôi khao khát là “không còn phải chịu đòn thế cho tha nhân” nữa – Lúc đó … chắc trần gian nầy đẹp lắm, với tôi!
Sức đã mòn, lực kiệt mất rồi mà ngày bình an chưa tới. Những “trận đau thế” vẫn cứ kéo dài, dai dẳng và nghiệt ngã, tôi cứ như một tên tội đồ đeo gông, lần bước một mình giữa đêm tối mịt mùng…
* Đến một ngày linh hồn của tôi không còn chịu đựng được nữa – nó bị “điên”! Thường xuyên lên cơn cuồng loạn … Có lúc tôi đang ngồi đọc sách, cố né tránh cơn đau âm ỉ trong người, bỗng dưng nghe đâu đó từ bên trong dội lên một cơn nức nở vô căn cớ! Trụ thần nhìn lại, tôi thấy linh hồn mình đang nằm trên nệm lăn lộn gào khóc, đầu bù tóc rối y như một người điên … “Điển Ông” bước tới đỡ linh hồn dậy, nó chòi đạp dữ – không nghe!
Tôi ra dấu bảo Điển Ông rời đi, bước tới bên cạnh, tôi đỡ linh hồn ngồi dậy, lạ một điều là với tôi nó ngoan ngoãn lắm! Tôi bảo: “Nghe tôi nào – tôi đỡ ngồi dậy, để tôi cột tóc lại cho nha. Tóc tai rũ rượi vầy xấu lắm!” … Rồi tôi nhẩn nha nói: “xác trần tôi mới thê thảm chứ cô thì có làm sao đâu! Hết kiếp rồi cô lại rời đi, lướt gió nương mây nhẹ nhàng thanh thản – còn tôi xác trần đớn đau trọn kiếp, chết đi lại về mục rã cùng cát bụi đó thôi … Cô phải bình tâm để tôi còn chút thanh trong mà an ủi, cô gục xuống như vầy tôi biết nương tựa vào đâu?”
Linh hồn lúc ấy ngồi ngoan cho tôi cột tóc và nghe tôi nói, nghe vừa dứt câu linh hồn biến đâu mất tiêu – chỉ còn một xác trần tôi ngồi đó mà … khóc!
Lạ một điều: Tôi chưa bao giờ nghe linh hồn của mình lên tiếng nói, suốt từ bấy đến giờ – Nó thoắt hiện rồi biến đi trong thoáng chốc, không theo ý muốn của tôi. Ngồi nói lan man một hồi, tôi mới biết: ra mình đang nói với … bức tường câm!
Dạo gần đây – Linh hồn của tôi vẫn thường xuyên xuất hiện đột xuất và lên cơn như vậy. Có lúc thấy đứng áp mặt vào tường – vừa cười đó đã rũ rượi khóc rồi! Khi lại múa may quay cuồng trong một vũ điệu hoang dại và bi thảm.
Quả thật – Linh hồn tôi nó “bị điên” mất rồi!
Nhân đây, tôi chép tặng các bạn mấy bài thơ tôi làm trong những giai đoạn “xuống dốc” của Linh hồn và thể xác – Mời bạn đọc nhé!
ĐAU
Thầm lặng ta chờ – đáy mộ sâu
Nỗi đau trần thế buốt ngang đầu
Thịt da muôn kiếp còn day dứt
Vay trả báo đền nợ biển dâu!
Đợi mãi mà sao đêm chẳng qua
Trời ơi – bóng tối cứ dài ra
Chăn chiếu như trăm ngàn dao nhọn
Thần ác bên rèm đón giấc xa …
Ta gọi, hồn ta chẳng trở về
Xác trần đau mãi đến u mê
Dẫu có chối từ trong muôn một
Biết trốn nơi nào – hận tái tê!
Mạch sống dường như cạn mất rồi
Sao còn nấn ná mãi – đời ơi!
Oan nghiệt nào gieo mà xác tạm
Cứ mãi đau vùi... lệ chẳng vơi!!
VÔ THƯỜNG VÀ BẤT TỬ
Sự bất tử vẫn nghìn năm tồn tại
Mặc tháng ngày, mặc dâu bể rồi qua
Người khép mắt – nghìn sau còn thiền định
Kẻ tráo trưng suốt kiếp trải phong ba!
Mây vẫn bay, gió nổi và sương sa
Lá vàng rụng – mùa tiếp mùa thay lá
Sinh rồi tử, tử sinh... và cứ thế!
Chu kỳ đời đâu làm động hồn thiêng
Hãy cho tôi một chút xíu vô tình
Trong tượng đá bao ngàn năm trầm mặc
Một chút xíu thờ ơ trong ánh mắt
Như nói nhiều – mà như chẳng nói chi!
Nhân thế ơi! Các người cứ cười đi
Dẫu cuộc sống phù du như sương khói
Dẫu hạnh phúc vấp ngã và lầm lỗi
Dẫu trái tim đầy giông bão, xót xa!
Tượng đá vẫn ngồi … thời gian trôi qua
Người tìm đến chiêm ngưỡng và suy ngẫm
Bao công thức truy tầm và tưởng tượng
Người vẫn người – tượng đá vẫn thờ ơ!...
ĐÊM TRẦN
Nhớ xưa kia hạnh phúc non thanh dạo
Thương trăng nầy ngơ ngác chốn trùng mê
Khói trần dương che khuất nẻo đi về
Mượn ảo giác chẳng hề thấy chốn!
Cúi nhìn đất … Hoa rơi dài ngọn sóng
Ngẩng trông trời – cõi đi gió về mây
Phúc dường bao, mà họa có ai hay
Đêm Linh tử nhìn trời sa ngấn lệ!
Góp bào ảnh xây đền đài tráng lệ
Gieo huyễn hư nên lớp lớp phù đồ
Người ngủ mê, cỏ dại lấp đôi bờ
Nẻo sau trước mịt mờ không thấy nữa...
Ai lang thang giữa một trời biển gió
Ai ngậm ngùi trông khói tỏa trùng vây
Cuộc phù trầm chỉ vị đắng men cay
Đôi mắt đỏ những đêm dài đất khách!!
NGUYÊN – BỊ
Tôi không muốn ngồi vào ghế Bị cáo
Để nghe đọc bản cáo trạng đời mình
Không muốn nghe lời Luật sư biện hộ
(Bởi khi cần nương tựa vào ai
người ta đã thiếu một phần lẽ phải)
Trong phiên tòa tối cao của Công lý
Tôi phải là Nguyên cáo – luôn luôn!
Và lắm người là Bị cáo, ồ! không
Đừng lo lắng – Cũng không cần biện hộ…
Đừng viện dẫn vào điều nầy lẽ nọ
Đừng đưa trái tim ra làm lá chắn cuộc đời
Đừng: Hãy vì – Đừng: cố gắng – Chớ: lương tri! …
Ôi! lẽ phải với lương tri vốn ngủ yên từ bấy
Nếu tôi được cầm cán – cân – Công – lý
Tôi sẽ mở ngục hình tha thứ tội nhân
Những kẻ vì luân hồi quả báo phân thân
Tội tiền kiếp, hiện sinh còn mang nặng!
Nhưng trời ạ – tôi chỉ là Nhân chứng
Nhân chứng lặng câm của vở kịch đời
Và có thể người ta còn nhân danh Công lý
Một lúc nào đưa tôi vào ghế tội nhân
Bản cáo trạng lê thê với lắm tội danh
Đau đớn quá – nếu một mai … Người ạ!
Hãy thông cảm dùm tôi, đời nhiều hư giả
(Chẳng nên chìa đôi bàn tay cảm thông)
Đừng lại gần tôi hơn nữa – đừng, không!
Tôi sợ lắm – nếu một mai phải làm Bị cáo!
NÓI VỚI HỒN
Mai tôi sẽ bay lên (Nếu có ngày mai)
Khi cuộc sống ở nơi nầy chấm dứt
Linh hồn nhẹ khi hồn rời khỏi xác
Bay – bay – bay... vào vũ trụ bao la!
Người cột đá vào linh hồn tội nghiệp
Nặng quá chừng, hồn sa xuống âm cung
Tôi chắp cánh cho linh hồn chuyển tiếp
Nhẹ hồn ơi! Hồn mặc sức chơi rông …
Đừng khờ dại chọn nơi nào bến đỗ
Dây xích thằng sẽ níu giữ hồn hoang
Bay, bay mãi … trên cao nhìn xuống nhé!
Tội gì chôn thân Địa ngục – Thiên đàng
Đừng để tai nghe những lời cám dỗ
Thiên đàng nhiệm màu và cõi Trên vui
Kẻo lầm lẫn không thể nào cải sửa
Hồn có một thân bị giữ mất rồi!
Hãy lang thang khắp nơi mà nhìn xuống
Đèn hoa muôn màu chớ vội mê say
Cái hạnh phúc trong sắc màu lấp lánh
Chỉ là mơ, ảo ảnh của phút giây!
Bay - bay - bay, một mình trong vũ trụ
Vũ trụ vô cùng chỉ một mình thôi
Ta làm chủ – và ta làm tớ
Ta yêu ta... ta yêu quá mất rồi!
TỪ DẠO ĐÓ
Từ dạo đó ta mang hồn vô tội
Đi lang thang trên khắp cả địa cầu
Đợi – kiếm tìm và thổn thức canh thâu …
Từ dạo đó ta làm thân du tử,
Bên vườn đời mục ruỗng những sân si
Manh áo khoác như một lời tự thú
Phận lưu đày – chờ bão tố thiên di!
Từ dạo ấy ta làm tên quân thí
Xây đền đài cho Giáo lý Huyền Môn
Giọt lệ mặn rỏ trên dòng nhật ký
Ngày bôi đen … rền rĩ khúc chiêu hồn!
Từ dạo đó con thuyền không bến đỗ
Trôi dạt hoài nơi góc bể phù vân
Cánh buồm nát càng tả tơi mỗi độ
Hồn u uyên cùng sỏi đá song hành …
Từ dạo đó lạc loài thân viễn cố
Hồn tha ma, chờ nội cỏ đầm sương
Trong hoang vu của thành quách thê lương
Bầy quạ đói hàng hàng rên rĩ khóc!
Chờ rút rỉa thịt da người tục khách
Trót giam thân vào nơi chốn loạn trường
Đợi… Một ngày thanh thản áo trần buông!
KHÚC CHIÊU HỒN
Người không có cả một thời quá khứ
Người không còn chỉ một chút tương lai
Cơn lốc cuộc đời lạnh lùng vây phủ
Tiếng gọi tha nhân nặng gánh lưu đày!
Hoa vẫn nở miệt mài bên hiên vắng
Đỏ, tím, vàng... ong bướm lại lần sang
Khung cửa khép, gió đi về thầm lặng
Tóc còn xanh – rồi tóc ấy võ vàng...
Câu réo gọi, lời than van thống thiết
Tiếng phôn reo nhức nhối đến bàng hoàng
Nguồn An cứu mượn vay cạn trút
Một góc đời người ngã gục, hoang mang!
Vẫn xa lắc bến bình yên cõi tạm
Khát khao tìm cành trắng đóa Vô ưu
Đêm Linh tử vọng trời cao – đòi đoạn
Hồn lang thang, lạc lõng chốn sa mù …
Người kêu cứu – và ta đợi cứu!
Người gọi ta, ta biết đợi chờ ai?
Cơn gió cả tận trời Linh Thứu
Dạo qua đời, Đạo thế nào khai?
Đã cùng tận niềm đau thể xác
Vẫn chưa thôi đày đọa linh hồn
Người ngẩng mặt nhìn trời khao khát
Gọi hồn ơi - Hồn bỏ xác bay lên!!
GỌI TRỜI
Trời ơi ngó xuống mà coi
Thảm chi thảm lắm, bắt tôi chịu hoài
An Trời tôi nắm trong tay
Cứu người – “An” cứu - đọa đày thân tôi!
Trời ơi ngó xuống mà coi
Tôi đau đớn vậy sao trời chẳng thương?
Trần ai sầu thảm tai ương
Trùng trùng sóng lệ, chẳng đường trở lui…
Trên cao nhìn xuống ông cười
Vẫy tay một cái, độ người trần gian!
Thân tôi làm mướn không công
Cứu người trời đánh, hỏi ông tội gì
Tội ngoan cố – tội bướng lì?
Tội hành sai việc, tội đi sai đường?
Trời rằng: “Chúng nó vô lương
Bỏ đi chẳng cứu, tội vương đến mình
Phép Trời cứu kẻ hiền minh!...”
Thưa rằng: “Oán ngập Thiên đình bấy nay!
Luật trời vay trả – trả vay
Vay từ tiền kiếp, trả hoài một thân
Sao không làm phúc ban ân
Cứu người một phút, khuyến nhân một đời
“Giơ cao đánh sẽ” cho rồi
Làu làu phép trọng, ơn trời bao dung
“Con sâu cái kiến” hàm ân
Nguyền xin cải hối tu thân từ rày...
Lạy trời lượng cả công dầy
Quay lưng ngoảnh mặt thế nầy đành sao!
Tôi vì sanh chúng lao đao
Bỏ không nỡ bỏ, trời cao chẳng màng!
“Mi làm mi chịu, đừng than…
Mười roi chúng nợ đánh quàng sang mi!”
Ông trời – ông thử xuống đây
Thế trần lầy lội đêm ngày chẳng vơi
Ông mà đứng được, thời tôi
Nguyện xin kiếp kiếp luân hồi chẳng sai!
... Ngày mai hết một kiếp người
Tôi đây nhất quyết lên trời mà than
Các người áo mão xênh xang
Làm mưa làm gió – sai oan kể gì!
Trần ai khổ nạn sầu bi
Tai ngơ mắt lấp, sá gì Hóa Công?!
1 giờ sáng ngày 16/10/2009
VỌNG CẦU
Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn
Một mình – nương cậy vào ai?!
Con thuyền NOÊ cũng đắm
Còn trơ một vọng hải đài
Ta nghe linh hồn than khóc
Âm vang rờn rợn thịt da
Tê điếng giữa làn môi nhạt
Ôi trời – máu chảy thành hoa!!
Ngọn lửa Âm cung bừng cháy
Mạch nguồn Chân lý ra tro
Cả một lũ ma vô đạo
Nghênh ngang khoác lác giở trò …
Nẩy lên – cán cân công lý!!
Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn
Linh Tử làm tên quân thí
Dấn thân vào chốn loạn trường...
Gục đầu dưới bao sức mạnh
Đọa đày, chẳng một cứu sinh
Ngẩng trông đất trời vô vọng
Xin đừng giày xéo lòng tin!!
25/03/2009
52. CÁ VƯỢT VŨ MÔN
* Có lần, trong ngày cúng rằm – Điển Ông đã nói với các chị em Nhân Điện nhóm của tôi: “Mấy mươi năm qua – chúng ta tôi luyện cô Lan đây như người thợ rèn luyện thanh kiếm thép: nung, dập xong đem ngâm giữa dòng suối lạnh mùa đông … Lại rèn dũa, lại nung, lại dập… Nhiều lần như vậy, nhiều năm tháng như vậy mới ra một thanh kiếm quý – Là cô Lan ngày nay đó”
Tôi nghe lời ấy – vừa tủi thân vừa đau đớn không nguôi … Tôi được lựa chọn để rèn dập nên thanh kiếm quý bất kể tôi có đồng ý hay không, có vui hay buồn, hài lòng hay bất mãn, đau đớn hay nhẹ nhàng, có muốn hay không đi nữa thì định mệnh vẫn cứ đi đúng trình tự của nó…
Tôi chỉ là một đấu bột, Thượng Đế là người thợ làm bánh – chiếc bánh thành hình như thế nào tùy theo ý muốn của người chế tác! “Thêm mắm dặm muối” hoặc cho thêm cay đắng, ngọt bùi, nặn thành hình tròn méo, bầu dục hay lục giác tùy tay người thợ – tôi đâu có quyền lựa chọn một nhân dáng khác – Tất cả mọi sự cố gắng xoay chuyển, đổi thay đều vô vọng … Những trận đòn “đau thế” như một lập trình có sẵn – cứ tuần tự đến rồi đi, vừa mới “ngơi” một tí, đã lại thêm người mới, nạn mới và “đòn đau thế” mới … Tôi như con chim bị nhốt trong lồng, con cá giữa nơm – có vùng vẫy đến đâu cũng chẳng thoát được nào!
* Có lần trong căn nhà mới thuê (Tháng 8/2008) bước vào w.c – Vía tôi thấy một âm vong treo cổ trên xà nhà, đầu tóc gục xuống rũ rượi! Sợ quá, tôi trụ thần trục vong … Lát sau, nhìn lại thấy vẫn còn nguyên, trục lại thêm lần nữa … vẫn còn!
Nghi ngờ, Vía tôi thấy mình cầm cây gậy vô, chọc thử vào cái xác, nó đung đưa tòn teng dưới đầu dây – thì ra chỉ là hình nộm: nó nhẹ bâng, bề ngoài trông y hệt con thú nhồi bông, có dạng người – Nổi điên, tôi cắt dây, vứt xuống đất đập cho một thôi một hồi … cái xác lem luốc tả tơi!
Chiều hôm sau, vào w.c – tôi vẫn thấy cái xác gớm ghiếc tả tơi ở đó … Suy nghĩ một lúc, tôi vứt cái xác ra ngoài sân – nơi có đống rác đang đốt! Cái xác người nhồi bông cháy lên được một phần, bất chợt trời đổ mưa, lửa tắt! Cái xác lúc nầy trông còn “kinh khủng” hơn với nửa bên người cháy xém … Vía tôi thấy mình lấy tấm tole lớn đang để dựa vào bức tường úp lên cái xác – thế là từ đó không còn thấy nó nữa!!
“Lộng giả thành chơn” là vậy … Biết giả, sao lòng vẫn cứ tin! Hay: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức – diệt phục như thị??”
* Có lần, đang nằm “lơ mơ” sắp ngủ – tôi thấy mình đi lạc giữa rừng sâu, lúc đó nắng chiều sắp tắt! Vía bảo: “Phải tìm lối ra ngay lập tức, đêm tối mà lạc giữa rừng thì chết mất!”
Đang dấn bước, chợt thấy trước mặt rừng cây chấm dứt, hiện ra một dốc đứng, phía dưới là thung lũng – có con đường mòn thoai thoải … Vừa lúc đó, tôi nghe trong đầu vọng lên tiếng cười của Ông : “À! Thì ra ông “chơi xỏ” mình đây mà, nào – thì chơi!”. Suy tính một giây, tôi lướt theo dốc đứng xuống con đường phía dưới … Vừa tới con đường, chưa kịp hoàn hồn – tôi đã thấy hai chiếc xe tải từ xa sầm sầm chạy tới – Con đường độc đạo nhỏ xíu, biết trốn vào đâu bây giờ! Ngay lập tức, tôi hóa phép ra hàng rào chặn ngang đường, làm cho hai xe tới đó gặp rào chắn phải rẽ sang đường khác …
Rồi tôi đi lang thang tìm lối về không thấy, trông xa xa phía trước có một xí nghiệp bỏ hoang với cửa rào bên ngoài chỉ khép hờ – Vừa đẩy cửa bước vào, tôi nghĩ ngay: “Xí nghiệp bỏ hoang giữa rừng chắc toàn ma với quỷ, và đủ thứ kinh khủng khác – không thể ở đây được!” … Lùi trở ra, tôi lại nghe thấy Ông cười một tiếng: mặt trời biến mất, chỉ còn bóng tối trước mặt – Tôi điên người thoắt một cái thấy mình nhảy lên giường nhập xác, cuộc phiêu lưu chấm dứt và tôi thắng!...
Vậy đó – Những đợt như thế này là ông đang “rèn thanh kiếm thép” và tôi là thanh kiếm ấy! Ông luyện cho tôi cách để ứng phó với mọi tình huống – Khi hành xử, tôi biết linh động nhạy bén để thủ thắng! Ông cũng như các Đấng không bao giờ ra mặt để giúp tôi, tôi phải tự mình “vắt kiệt óc” tìm phương cách để “giải quyết tình huống” sao cho hợp lý, hợp tình, phù hợp đạo lý làm người và Phật pháp!
Tất cả những cuộc phiêu lưu nầy, tôi thấy rõ mồn một bằng thể Vía của mình, cảm nhận lo sợ – kinh hoảng y như sự kiện thật đang xảy ra trước mắt, tim đập thình thịch trong ngực… Cuộc phiêu lưu chấm dứt vẫn chưa thấy hoàn hồn! Lúc đó, tôi phải dùng lý trí của xác trần để “thay đổi cục diện” trong lúc hoàn toàn tỉnh thức, y như một người “chơi game trực tuyến” vậy!
Đến lúc tôi thấy mình “thúc thủ” bèn dừng cuộc chơi, nhảy phóc lên giường… nhập xác!!
Tôi được rèn luyện như vậy đó – các bạn thấy, có phải rằng: “thương cho roi cho vọt” hay không ?!
* Từ ngày con trai tôi mất đã gần bốn năm, chưa lúc nào lòng tôi nguôi thương nhớ … Bữa ăn nào cũng kêu, cũng gọi về – Đêm nằm nhớ con lệ đầm ướt gối!
Hôm ấy, khi gọi con về ăn cơm, tôi thấy con đứng đó trần truồng, cái mặt nhâng nhâng như đối đầu, thách thức! Tôi hỏi thì cháu nói: “Con thích như vậy đó, Mẹ!” Đánh con không đành, tôi bỏ lên nhà trên, không nhìn nó nữa! Từ hôm ấy trở đi, thằng nhỏ vẫn về ăn cơm với bộ dạng ấy – Tôi giận, tôi ghét con, không thèm nói với nó tiếng nào! Con về ăn cơm là tôi bỏ lên nhà trên và từ ấy … tôi quên, không khóc vì con nữa!
Nghĩ lại, tôi biết là do Bề Trên làm ra vậy để tôi nguôi không còn khóc thương con … “Thuốc đắng đã tật” phải không các bạn!
* Có một chuyện, tôi kể ra ai nghe cũng lắc đầu: “ Hết ý kiến!”
Tôi nuôi một người tù ( tội phạm kinh tế) suốt hai năm rưỡi trời, từ khi chưa biết mặt mũi ra sao!
Có một người quen cho địa chỉ của tôi để G.V.Kh (tên người tù ấy) gửi thư về cho tôi xin sách báo cũ – Từ đó, cứ mỗi tháng tôi gởi lên một thùng hàng … trong ấy có hầu hết các thứ cần thiết cho một con người: thuốc men, mì gói, đường sữa, quần áo, mùng mền, lương khô … phải nói là trăm thứ! Cuộc sống trong tù (ở trại Xuyên Mộc) khó khăn và thiếu thốn muôn bề, G.V.Kh viết thư về xin tiền hoài: một triệu, năm trăm, hai ba trăm là chuyện thường … Nghe xin tới đâu, tôi vay mượn gởi cho tới đấy! Mặc dầu lúc ấy tôi vừa mới thôi chồng, nuôi ba đứa con nhỏ, nợ nần giăng mắc tứ phương ….
Mẹ Quán Âm nói: “tên G.V.Kh đó là một phần Linh căn bị đọa, con giúp cho hắn đi! Xem như làm chuyện “Phật sự” – Khi nào hắn mãn hạn tù, coi như Phật sự của con chấm dứt!
Thế là tôi “cắm đầu cắm cổ” nuôi tù, lo lắng và chăm chút y như một người vợ có chồng đi tù vậy – Lòng dặn lòng: “ngày nào ông ấy mãn hạn cũng là ngày mình hết nghiệp”
Một điều nghiệt ngã nữa: Thường xuyên chỉ vì một lý do rất nhỏ, anh ta viết thư về mắng tôi đến “vuốt mặt không kịp” – ví dụ: “Em gửi đồ cho anh mà giống như bố thí cho một thằng ăn mày ăn xin đầu đường xó chợ vậy! Gửi thuốc tây mà không có một dòng về công thức thuốc, biết làm sao mà sử dụng!” … Vậy đó – mỗi lần như vậy tôi lại giận, thề không gửi đồ cho anh ta nữa! Phật Bà lại về bảo: “Ta muốn con cố gắng giúp cho người tù ấy – Bước thử thách trên đường Đạo của con đó!”. Thế là tôi lại tiếp tục … Cứ nghĩ tới cảnh một tháng qua không nhận được “tiếp tế”, người tù ấy (và cả phòng giam) sẽ thiếu thốn và đáng thương lắm, thế là tôi lại còng lưng vay tiền góp hàng tháng mua đồ gửi lên trại!
Đến một ngày – không còn chịu đựng nỗi những lời chì chiết vô cớ, tôi viết thư lên trại bảo mình chuyển nhà về quê ở, thế là thoát nghiệp – sau hai năm rưỡi tròn!
Phật Bà hôm ấy về bảo tôi có mỗi một câu: “Con mới học được có một nửa chữ “Nhẫn”!
Người ở tù đã mãn hạn, có lên nhà tôi thăm một lần rồi thôi – như không hề quen biết! Phần tôi cũng quên không nhớ mình đã từng biết một người như thế trong đời …
* Điển Ông bảo tôi viết lại hồi ký hai mươi ba năm qua, để lưu lại và truyền cho mọi người cùng đọc, xem như một bước “Hoằng Pháp” – Tôi nằn nì xin Ông cho tôi nghỉ chữa bệnh – nghỉ hẳn! Xem như “về hưu” sớm – Có vậy mới tĩnh tâm mà viết, bận suốt ngày thì làm được gì!
Mẹ Quán Âm và Mẹ Diêu Trì không cho, phần Điển Ông thì bảo: Mẹ nói gì cứ im nghe đừng cãi – Để rồi ông thu xếp cho tôi, ông hứa!
Thực vậy! Từ ngày bắt đầu cầm bút viết, bệnh nhân vãn dần, mỗi ngày còn chỉ độ mươi người, đa số là chữa qua điện thoại, không làm mất nhiều thời gian của tôi nữa…
Mỗi khi viết – Ông nhập thần vào tâm thức tôi để giúp tôi nhớ lại những tình tiết của những vụ việc đã qua (Hai mươi năm rồi còn gì) Lúc ấy đầu tôi căng lên như sắp vỡ, chóng mặt như người đang say sóng, viết xong buông bút – mãi còn nghe bần thần khó chịu trong người!
Bệnh nhân không có, tôi phải chịu hành kiểu khác: ba ngón tay cầm bút ( nhất là ngón cái) cứ đau thắt từng cơn, phù nề và căng cứng, cảm giác vừa đau vừa tức thực là khó chịu!
Đôi vai và cột sống cũng đau liên tục … tôi cứ ngồi đấy lì lợm, bậm môi mà viết – viết xong phải dựa tường mới đứng lên được, bước đi “cà nhắc” vì đau cứng khớp … Cực hình nầy nào có thua gì “chịu đau thế” cho người khác!
Dạo đó – tôi mơ một giấc mơ “Điển ứng” như sau: Tôi thấy có hai người một Nam một Nữ từ Mỹ về, thuê tôi viết một tập tài liệu gì đó để trình lên cấp trên! Tôi vừa viết vừa làm giúp các việc lặt vặt trong nhà, vì nhà ấy neo đơn, chỉ có hai ông bà lão chừng độ tám mươi.
Hôm ấy viết xong, người Nam chuẩn bị đem tập tài liệu ấy đi nộp trình lên trên, ông chỉ mặc một chiếc áo cũ kỹ – Tôi ngăn lại, lấy bộ đồ veston cho ông mặc! Xong mọi việc, tôi ra về – ngang qua phòng khách thấy ông cụ chủ nhà, ông gọi tôi lại móc túi cho một tờ năm trăm ngàn mới nguyên – nói: “Ông cho con, về để dành mà chi dụng!” Tôi không chịu, bảo: “con đã nhận tiền công rồi, con không lấy nữa đâu” … Cụ Bà bước ra, đứng sau lưng bóp vai ông, bảo: “Ông cho thì cứ nhận cho ông vui, đừng trả lại ông buồn!” Tôi cảm ơn, đút tờ tiền vào túi, về nhà lấy ra – tờ tiền ấy hóa ra một túi đầy tiền …
Tỉnh dậy – tôi nghiệm ra từ giấc mơ: Hai người nam nữ là con từ Mỹ về – chắc Ngài Thích Ca và Quán Thế Âm Bồ Tát! Ông Bà Cụ là Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì, tài liệu giải trình chắc chắn là Huyền Môn Lược Ký rồi!
Đem thắc mắc của mình ra hỏi ông: “Địa Mẫu và nhà Phật, ai lớn hơn?” Ông bảo: “Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì lớn hơn. Không nghe Kinh Phật gọi “Cung trời Đạo Lợi, cung trời Đâu Suất” đó sao! Cõi Phật ở trong cõi trời, Cha Trời Mẹ Đất hóa sanh ra con người, con người có tu mới thành Phật”
Hèn nào xưa nay nghe Ông luôn gọi: “Mẹ Diêu Trì” bằng sự cung kính! Đó là nói với tôi – Khi Mẹ về, ông gọi: “Bà Diêu Trì” và xưng là “ta”!
Trên cho nghỉ chữa bệnh một thời gian, để viết Huyền Môn Lược Ký – lạ một điều là ngày nào tôi viết, ngày ấy không có bệnh nhân! Hôm nào tôi không viết, người bệnh lại kéo tới – Rõ ràng việc bệnh nhân có hay không, nhiều hay ít là do bề Trên sắp xếp! Sau khi hoàn tất tập một, tôi tự nhủ: “Nghỉ một thời gian “xả hơi” đã rồi lại viết tiếp”
Thế là bệnh nhân lại kéo đến, tôi lại bị đòn y như cũ … Cho rằng Ông gạt tôi và không giữ lời hứa của mình, tôi nhất định không đưa Huyền Môn Lược Ký đi trình để xin cấp Giấy phép xuất bản và tôi dọa với ông: “Nếu không cho tôi nghỉ chữa bệnh tôi sẽ đốt bỏ Huyền Môn Lược Ký! Ông chẳng nói chẳng rằng – May là bản thảo sách đang ở trong tay một người bạn, nếu không thì tôi đã đốt mất rồi! Mẹ Diêu Trì về thúc hối nhiều lần, tôi vẫn bướng bỉnh không nghe!
Thực tế – tôi sợ Mẹ lắm, đâu dám cãi lời. Nhưng tôi nghĩ: “Nếu không dựa vào dịp nầy, chắc vĩnh cửu mình không trốn nghiệp được – Sách xuất bản ra, người ta kéo tới càng nhiều hơn … chắc chết! Thôi thì nhất định “án binh bất động” tới cùng, rồi Mẹ cũng chuyển ý thôi!”
Tôi còn nằn nì “ra điều kiện” với Mẹ Quán Thế Âm: “xin Mẹ cho con bán nhà, mua một căn nhà khác nhỏ hơn để dư ra ít tiền mà sống! Rồi con sẽ về ở sau bốn vòng tường đến mãn đời, không bước ra ngoài xã hội nữa! …” Điều gì xảy ra, các bạn biết không! – Tôi bị một trận đòn thê thảm nhất trong vòng hai mươi ba năm nay, đưa tất cả bao nhiêu công khó dìm xuống bùn nhơ! Trong vòng chín tháng ( từ tháng giêng/2009 đến hết tháng 9) – Tôi kể lần lượt từng đợt một cho các bạn nghe nhé!
* Nguyên cháu KH (Người đã kể trong Huyền Môn Lược Ký I) mồ côi Mẹ, theo tôi từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi đến giờ! Tôi rầy dạy từng lời ăn tiếng nói – Sau lấy chồng khác đạo, lại là gia đình trí thức, nhà cậu V không ai bằng lòng cô Kh (vì không còn cha mẹ, lại xuất thân từ gia đình quê nghèo, ít học)! Vì vậy, mặc dù được chồng thương yêu, chăm sóc nhưng bản tính của người chồng gia trưởng độc đoán – Gia đình bên chồng lại khó, cô Kh lấy chồng mười năm, đã nhiều lần không chịu đựng nổi đòi ly hôn ….
Tôi hết lòng can gián, khuyên nhủ – Kh xem tôi như người Mẹ nuôi – nghe lời tôi khuyên lại trở về sống tiếp cùng chồng!
Phần tôi – đã dùng hết tâm huyết của mình để hỗ trợ, xoay chuyển giúp hai vợ chồng vượt qua hoạn nạn, để mỗi ngày một ổn định hơn …
Hai vợ chồng Kh hiện nay đầy đủ, khấm khá và hạnh phúc – Rồi cô Kh theo tôi học Nhân Điện phát sinh lòng mộ Đạo, đêm về hay đọc Kinh, ngày Vía lại ăn chay … Mâu thuẫn phát sinh từ đó!
Do bị dồn nén cảm xúc, bị stress và suy nhược thần kinh, sau một lần vợ chồng cãi nhau rất dữ dội, độ chừng một tháng thì cô Kh bị “bệnh tâm thần” – đưa đi bệnh viện chữa không có tác dụng gì, lại đem về … Những ngày ấy, tôi thật khổ! Chồng cô Kh gọi điện suốt ngày cho tôi, trời nắng giữa trưa bất kể, tôi đạp xe ba cây số tới nhà – vừa chữa bệnh vừa an ủi, tôi về cô Kh lại “lên cơn” tiếp!
Tôi nhờ anh Ch (Huynh trưởng Nhân Điện) đến hỗ trợ, nghe Mẹ cậu V nói sao không biết, anh Ch triệt bàn thờ Phật Bà của Kh! Phần tôi, tôi nói với cậu V (chồng Kh): “Kh nó bị suy nhược thần kinh – từ nhỏ cứ đi nằm bệnh viện hoài! Nếu vợ chồng muốn sống hạnh phúc với nhau thì cậu đừng dồn ép, tra tấn tinh thần nó kiểu như vậy nữa. Nó có bề nào, ra trước tòa tôi sẽ khai hết mọi chuyện thì cậu sẽ bị câu lưu vì tội “bạo hành phụ nữ” đó!”
Câu nói của tôi đã hại chính mình, gia đình cậu V sợ quá – ra sức đổ tội cho tôi! Họ cho người trong nhà đi rêu rao khắp vùng dưới chợ Hiệp Thành lên đến nhà tôi trên nầy, bảo : “Cô Lan làm thầy bùa thầy ngải, bỏ ngải cho Kh mê, lấy hết tiền của trong nhà đem cho – còn đưa ngải cho Kh về bỏ cho mẹ chồng và chị chồng để lấy tiền đem cho cô Lan nữa”
Trong khi Kh đang lên cơn tâm thần, bỏ nhà đi lang thang thì họ đến khu nhà tôi ở … Cậu V bồng con nhỏ đi rêu rao khắp nơi, với luận điệu mà họ đã dựng lên! Ngày nào cũng có hai, ba người tới vây cửa nhà tôi, hăm rằng hễ thấy Kh tới đây họ sẽ la lên, cho cả xóm tới trông thấy và làm nhục tôi! Cậu V tới cửa nhà tôi đứng chặn ngay giữa cửa, mặt đầy “sát khí” … Hai mẹ con tôi chui trốn trong nhà, không dám lên tiếng nói …
Cô Kh trong cơn tâm thần, tận cùng tâm thức vẫn thấy chỉ có cô là nơi chốn hướng về để mong được ủi an, che chở – lại tìm đến nhà tôi, tôi khóa kín cửa rào, cô cháu kẻ trong người ngoài khóc ngất! … Một thời gian sau, cô Kh tỉnh dần, đưa đơn ra tòa ly hôn với chồng! Chồng cô Kh dụ đưa vợ ra tận Long Thành Bà Rịa chuộc bùa, Tòa vừa ký đơn cho ly hôn xong, cô Kh nghe lời chồng xóa quyết định ly hôn!
Mọi việc xảy ra và kết thúc trong vòng ba tháng, tôi bị “tra tấn tinh thần” suốt ba tháng, chín mươi ngày … xem như “ô danh xủ tiết” một đời – hai mươi ba năm hành Đạo, nghiệp quả lãnh thế nầy đây!
Về sau mọi chuyện cũng nguôi khuây, tôi “cấm cửa” cháu Kh không cho tới nhà nữa, và từ ấy có thói quen khóa kín cửa rào, không ai dễ dàng bước vào nhà tôi như trước!
Nghe đâu cô Kh kể là chồng đưa đi rất xa để chuộc bùa, ông thầy lấy roi dâu đánh đau lắm. Tội nghiệp! Ai bảo không chịu theo Đạo chồng. Không cam phận sống một đời sống bình thường như bao người khác …
Đời vốn nghịch thường như vậy: người ta đổ tội cho tôi là bỏ ngải, là dùng tà phép … Để rồi người ta đưa vợ đi chuộc bùa, chuộc phép! Người ta có thể hại tôi đến “thất điên bát đảo” quên mất bao nhiêu năm tháng đã qua, mỗi chút trắc trở khó khăn hoạn nạn đều đến cầu cứu ở cô Lan, và chính từ tấm lòng của cô Lan mà họ được như ngày hôm nay … Có trời biết điều gì sẽ xảy ra nếu hai vợ chồng Kh còn ở trong căn nhà cũ, căn nhà mà hoạn nạn và xui rủi như cơm bữa ấy … Và liệu có một lúc nào đó, quay nhìn lại đời mình, cậu V có một chút ân hận vì đã “trả nghĩa” cho tôi như vậy không nhỉ!
* Một buổi chiều nọ, cô Tiến ở kế bên sang nhà tôi, hai chị em đứng ở cửa rào nói chuyện một chút, xong vào nhà, độ chừng mười phút sau trở ra tôi phát hiện một con cóc chết thật to nằm ngay giữa cổng rào, nơi hai chị em vừa đứng nói chuyện tức thì … xem xét lại, tôi thấy con cóc đã chết từ lâu, đang trương phình lên, như có ai đó vừa lén mang đến đặt ở đấy, nơi hai chị em tôi đứng nói chuyện suốt mười phút mà không thấy!
Tự nhiên trong tôi dâng lên một cảm giác lo sợ, bất an … Kể từ hôm ấy trở đi, chuyện xui rủi như cơm bữa, mỗi ngày qua đều có chuyện bất thường nào đó làm tôi khóc đến hai ba lần – đa số đều là chuyện thị phi, “lộng giả thành chân”. Suốt hai tháng trời đều như vậy … Mỗi ngày!! Tôi vốn không mê tín, vậy mà mỗi khi nhớ đến chuyện ấy, còn thấy rùng mình kinh sợ!
* Sau chuyện cô Kh, sau những tháng ngày khóc hết nước mắt: Khóc cả ngày, khóc cả đêm! Bề Trên quay lưng - im lặng, Điển Ông cũng chẳng thèm lên tiếng … chẳng ai cứu được tôi, chẳng ai để tâm xem tôi đang phải chịu đựng những gì, đòn trừng phạt cứ giáng xuống!!
Làm sao để rửa được nỗi oan nầy? Suy nghĩ mãi, tôi chấp nhận chuyển Huyền Môn Lược Ký tới Trung tâm Phát triển tiềm năng con người Hà Nội: “Chỉ có sự công nhận của Cơ quan chức trách nhà nước mới cứu được sự ô danh của mình” Tôi nghĩ thế!
Về sau – Điển Ông bảo tôi bị đòn nặng nề như vậy là do cãi lời bề Trên, không chịu ra mắt Huyền Môn Lược Ký … Quyển sách vẫn đi đúng con đường của nó, cho dù tôi không muốn. Còn tôi - những nhơ bợn trong đời biết trút vào đâu?!
* Chị M.H (là học viên Nhân Điện). Chồng chị trước là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 28.
Ngày xưa anh bị thương ngay cột sống, giờ bị đau nhức tê bại đoạn thắt lưng trở xuống, liên tục phải điều trị bệnh viện 175 – bác sĩ Cự giới thiệu anh vào tôi, chữa cũng chỉ là đỡ giấc vậy thôi, không hết hẳn được …
Lần đầu tiên tới nhà, tôi đã thấy anh bị vây bởi rất nhiều vong hồn chiến sĩ (quân Cách Mạng) – Hỏi thì họ bảo: “Chúng tôi là lính của ông ấy”. Tôi hỏi anh: “ngày trước anh làm nghề gì” Đáp: “Giám đốc công ty Cao su” – “Trước nữa” anh đáp: “Tiểu đoàn trưởng” - : “Hèn nào thấy vây chung quanh anh nhiều lính, họ khai là lính của anh”.
Anh T nói: “Tôi có giết hại ai đâu mà theo phá tôi” – Điển nhập về, giải thích: “cho dù anh không trực tiếp giết người, nhưng chính anh là người ký lệnh hành quân, lính ra trận bị chết anh là người chịu trách nhiệm! Họ chết trận đa số là chết oan, nên giờ họ theo níu anh – Khi anh còn khỏe mạnh họ không làm gì được, đến lúc anh đau bệnh, họ theo phá làm cho anh đau đớn nhiều hơn.”
Sau một thời gian – đau bệnh vẫn cứ tăng rồi giảm, anh T không tới tôi nữa – bảo: “cô Lan người không thấy, thấy ma không hà!”
Chị M.H – vợ của anh thì rất tin, đã theo học Nhân Điện … Hiện nay chị đã học đến lớp 19, người mộ Đạo, phát triển tâm linh cao, thường xuyên đi Chùa, trì niệm và chay tịnh!
Những người học Nhân Điện – một thời gian sau ( độ từ khoảng lớp 11, 12 trở đi) dần dần đều trở nên trẻ trung, xinh đẹp hơn, da dẻ mịn màng hồng hào ra … Năng lượng vũ trụ chuyển luân trong toàn cơ thể là tố chất dưỡng nuôi, chuyển hóa làm cho ta ăn ít hơn mà vẫn khỏe mạnh, không thiếu dưỡng chất!
Chị MH – từ một người đàn bà lầm lụi, buồn rầu và khổ sở, ăn mặc tạm bợ tùy tiện (vì vất vả nuôi chồng thường xuyên đau bệnh) trở nên một phụ nữ hồng hào, xinh đẹp, trẻ hẳn ra … Thích quá, chị bắt đầu chỉnh chu lại quần áo, trang phục – Ra người phụ nữ trung niên “hấp dẫn”!
Người chồng đau bệnh bắt đầu “nổi cơn ghen” nghi vợ mình ra ngoài có tình riêng nên mới yêu đời và tươi trẻ thế kia! Nghe ai xui không biết ông mời “bà Thầy” nào đó tới nhà án bùa chú, xem quẻ và phán bảo linh tinh đủ chuyện …
Rồi ông tuyên bố: “Cô Lan mai mối cho bà, bây giờ bà có nhân tình ở xã Thới Tam Thôn, mua đất và cất nhà ở đó. Bà nói cho cô Lan biết, tôi sẽ làm đơn kiện cổ, cổ ra tòa mà đối chất với tôi”.
Chị MH sợ quá, bảo tôi: “Cô đừng điện ra nhà chị nữa, rủi mà gặp ông ấy, ông chửi cô bất tử thì tội lắm”.
Giờ – Chị em muốn thăm hỏi nhau, tôi phải nhờ người điện trước cho đến lúc gặp chị thì mới dám lên tiếng… Thêm một cú “đá giò lái” đau ơi là đau! Làm tôi mất ăn mất ngủ hết bao ngày.
* Cô T (học viên Nhân Điện) nhà ở kề bên tôi, (Người đã kể ở tập I) Ngày trước ốm yếu, xanh xao … Từ ngày học Nhân Điện đến nay trở nên tròn trịa, hồng hào xinh đẹp! Cô T cũng phát sinh tâm Đạo, thích đi Chùa, niệm Phật nghe Kinh và ăn chay các ngày lễ, Vía Phật …
T chữa bệnh tốt lắm, vào xí nghiệp (nơi cô làm việc) T chữa bệnh cho nhiều người – Tiếng đồn lan tới tai chồng cô, lúc đó đang làm Trưởng ca ở đấy! Người chồng về nhà cấm không cho T chữa bệnh nữa, dẹp cả đầu máy không cho nghe Kinh pháp … Từ đó sinh lòng ác cảm với tôi! Cô T thì để cho “vẹn cả đôi đường” – khi chồng đi làm mới dám sang nhà tôi, đi Chùa, đọc Kinh hay chữa bệnh cũng phải dấu chồng!
Đến một ngày ( Tháng 4/2009) cháu Minh (Học viên Nhân Điện) lên nhà mách với tôi: chồng cô T về dưới Hiệp Thành (nơi mẹ và các em tôi đang ở) vẽ chuyện nói cô T qua nhà của tôi để “tò tí” với Minh ( nguyên văn lời kể). Cô T nghe vậy ức quá về hỏi lại chồng! Người chồng làm lớn chuyện, nửa đêm chửi đổng miệt thị tôi vang cả xóm … Xong lại về dưới Hiệp Thành đòi hỏi đối chứng nầy nọ lung tung, rồi lân la phân trần với hàng xóm láng giềng … Câu chuyện kéo dài độ ba bốn ngày – Dẫn đến sự tuyệt giao giữa tôi và chồng cô T, hai người ở sát vách nhà nhau!
Thì ra cậu V (chồng cô Kh) đã đưa số điện thoại, nhờ cậu T báo cho biết nếu thấy Kh lên nhà tôi! Cậu T bảo: Cô Kh vì nghe lời tôi mà bị tôi bỏ ngải đến tâm thần, ly dị chồng – Cậu T sợ cô T theo tôi rồi cũng bị điên như vậy!
Qua hai vụ việc liên tục xảy ra, tôi bị mẹ và các em lên án thậm tệ – Dẫn đến chỗ tôi sinh ra phẫn uất, từ mẹ và cô em gái kế của mình …
Chuyện qua đã lâu rồi, giờ viết lại vẫn còn nghe như muối xát kim châm - rõ là “lòng đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi oan này ai thấu, buồn hận lấy gì đong! Chỉ vì không tuân theo ý muốn của bề Trên, tôi bị đòn đau đến vậy!
Vẫn còn một chuyện nữa, tôi xin phép kể nốt cho trọn kiếp trần ai … mấy việc kéo dài ra, dàn trải trong suốt chín tháng trời ròng rã – từng ngày từng giờ vắt kiệt lực, dìm tôi xuống tận đáy của sự lo sợ, bất an, đớn đau và tủi nhục.
Tôi là kẻ cô thế giữa cuộc đời này – không lấy một điểm tựa, chẳng có ai che chở dìu đỡ … Bước xiêu ngã một mình, giông tố loạn cuồng chẳng biết tránh vào đâu. Nhút nhát, rụt rè đến nỗi lúc nửa đêm, trong căn nhà vắng – chỉ một tiếng động khẽ ngoài sân cũng nghe như tim ngừng đập – Một con gián, con thạch sùng hay chú chuột nhắt chạy qua cũng “hồn phi phách tán” mất rồi!
Vậy mà bề Trên giao cho một trách nhiệm trọng đại đến thế … Kể cũng lạ! Cây “Thượng phương bảo kiếm” vào tay một con cừu đội lốt cọp suốt mấy mươi năm chưa chán … Cái gánh nặng quá sức ấy choàng lên vai, khiến tôi cứ rùn xuống, chịu đựng, như một kẻ bị lưu đày suốt kiếp – chẳng biết bao giờ mới mãn hạn!
* Cô H ( là học viên Nhân Điện) – Suốt ba năm từ lúc bắt đầu dạy cho H học cách chữa bệnh và khai mở Luân xa – Tôi vẫn có một nỗi lo lắng mơ hồ, mãi chẳng nguôi khuây …
Biết trong cô còn nhiều tà khí, thầy chỉ cho cô H lên đến lớp mười lăm rồi thôi – vài lần tôi và H xin, thầy cứ dần dà, chưa chuẩn!
Một ngày – nhà tôi nấu cơm cúng rằm, chị em tụ nhau về … H đứng bếp nấu món ăn xong, chiều ấy mọi người về cả, tôi mới hay bếp gas bị hư – mua bếp gas mới mất bốn trăm ngàn!
Lần nữa – H lên nhà nhận Điện (mỗi tuần vào ngày chủ nhật, chị em Nhân Điện nhánh của chúng tôi tập trung ở nhà tôi để nhận Điện thầy) – trong đó có năm anh chị từ phía của câu lạc bộ Tiềm năng Sài gòn lên học! Các anh chị mới vào lớp sau, tài liệu theo cấp lớp của tôi lưu lạc đâu mất tìm mãi không ra …
Tôi điện cho A Ch (Huynh trưởng) hỏi! A. Ch bảo H có, bảo H đưa cho mượn – Đang lúc bấn lên tôi trách: “con đó! trong lúc cô chạy tìm mãi không ra, con có tài liệu mà không cho cô mượn” – Cô H phân trần một hồi … xảy đến việc cô Hà (học viên Nhân Điện) cầm điện thoại di động của tôi mở ra xem, cô H ngồi đối diện ngước nhìn … tự dưng cô Hà phát hiện ra thẻ nhớ của điện thoại bị xóa trắng, mất tất cả – không còn một dữ liệu nào!
Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi bị “tà đánh” – nằm nghỉ trưa độ hơn nửa tiếng, tôi ngồi dậy đã thấy cả người nhừ nhẫn, đầu đau như búa bổ … Đứng lên soi gương chải tóc, tự dưng sau lưng nghe “rầm” một tiếng lớn, chiếc quạt máy đang quay bị gãy cánh quạt, văng tứ tung! Nhìn lại, tôi thấy lạ – vì cánh quạt không bị sút ra, hai vòng nhựa xiết bên trong và bên ngoài hãy còn nguyên, cánh quạt tôi mới mua chưa đầy hai tháng bị gãy nát làm ba miếng, văng tứ tung trong nhà …
Lát sau, tôi đang cầm chiếc bình hoa trong tay, nghe có ai đó hất vào tay một cái, bình hoa rơi vỡ tan tành!
Tối đêm đó – tôi bị dị ứng, khắp cả người nổi lên từng dề màu đỏ hồng, nổi gồ lên khỏi da, ngứa dữ. Khi bề mặt của da bị dị ứng gần hết thì tôi bị bế tim phổi và khó thở. Bị suốt ba ngày, ba đêm như vậy – thuốc uống vào chẳng có tác dụng gì … Đến chiều ngày thứ ba, tôi sinh nghi, thắp hương trên bàn thờ Phật để xin Điển trên về hỏi cho ra lẽ!
Ngay lúc đó, Cô T chạy sang nói : “Em bị tà đánh hai ngày nay, xin Điển bắt ra mười ba Binh Gia… Em bắt họ dẫn về nhà Chủ, họ đưa đi loanh quanh một hồi vào một căn nhà nhỏ nằm sau một khoảng đất rộng. Em xin cho gặp Chủ thì thấy .. Chị H – sao lạ quá, chị hỏi lại Điển xem sao, em đâu có làm gì cho H ghét, sao H lại đánh em!”
Tôi điều tra lại, phần tôi bị đánh cũng do cô H … Có lẽ ức vì bị tôi rầy H giữa tập thể nên mới cho binh phép đánh tôi! Còn cô T? Hôm chủ nhật ấy cô T không có mặt, tại sao bị đánh? Suy nghĩ lại, tôi vỡ lẽ: “À! Bởi vì cô T là người học lớp cao nhất trong tất cả chị em!”
Sang ngày hôm sau, cháu Minh lại chạy sang tôi: “Cô xem dùm con coi có phải bị tà đánh hay không mà bị đau nhừ hai ngày nay rồi” – Tôi hết xin Điển về ứng báo, lại sử dụng quả lắc Nhân Điện, kết quả cũng đều báo là Minh bị cô H cho binh đánh! Sau khi giải binh, cô T và cháu Minh hết ngay, còn tôi sau ba ngày bị dị ứng dồn dập rồi cũng hết!
Nhớ câu nói người xưa: “Đạo cao một tấc, tà cao một trượng” – Tôi bắt đầu rùng mình, lo sợ. Cô H vốn là học trò của mình, ra vào nhà như người thân … H mà dùng tà phép thư ếm thì mình chết mất. Lại nhớ ngày xưa thỉnh thoảng có đọc truyện “kiếm hiệp” – nghe kể những người là “phản đồ”, quay lại hại chết chính sư phụ của mình … Người thầy chết oan vì tin lầm kẻ dữ!
Ngặt nỗi chuyện tà phép là chuyện không thể “thực mục sở thị” – Cô H bề ngoài vẫn ngoan ngoãn, thơn thớt nói cười… Lấy gì bắt tội được cổ!
Ngay hôm sau – cô Lan (học viên Nhân Điện) kể với tôi một chuyện: “Chị H điện lên em, hỏi số điện thoại của cô NT, còn dặn là đừng nói lại cho cô Lan biết! H kể: “Cô Lan xuống chợ Hiệp Thành nói xấu tôi – nói là tôi đi theo năn nỉ cô Năm để xin tiền và cô Năm cho tôi năm triệu! Chồng tôi nghe vậy về đánh tôi … Tôi muốn điện cho cô NT để hỏi cho ra lẽ”
Lan nghe nói thấy chuyện quan trọng, không dám dấu, phải nói với tôi để tôi tìm cách xử lý.
Tôi nghe qua cũng ngẩn ngơ – vì mình chưa hề biết hay nghe chuyện nầy bao giờ … Sau này xâu chuỗi lại các sự việc, tôi mới biết lúc ấy H đang tìm số điện thoại của những chị em Nhân Điện học lớp cao để đưa tà phép đánh. Chiều ấy cô Lan không trúng đòn, không bị gì là do tôi vừa xin phép Thầy Tổ và các Đấng “khóa Luân xa” của cô H!
Khi điều tra sự việc, biết do chính tay H đưa tà phép đánh tôi, cô T và cháu Minh. Để đề phòng – tôi đã xin phép “khóa Luân xa” của H lại… Đây cũng chỉ là phương cách tạm thời – vì cô H rất cao tay, trên H còn có Thầy tổ, Nghiệp tổ, có Âm căn nữa!
Buổi trưa tôi vừa khóa luân xa, chiều tối H điện thoại cho Lan đưa phép đánh – vì vậy mà Lan không bị “trúng đòn” … Hai ngày liên tiếp, tôi vẫn bị đánh “nhừ tử” – ngạc nhiên quá, chẳng lẽ mình điều tra sai, kết tội oan cho H? Luân xa đã bị khóa, bàn tay phép bị phá luôn rồi, H không thể đánh mình được nữa – Thế thì ai? Cả cô T cũng bị y như tôi!
Tôi xin Điển cho kiểm tra lại, mời ra một ông Đạo sĩ mặc áo chùng oai vệ, ra vẻ một bậc lão ông “đạo cao đức trọng”. Ông xác nhận đã đánh tôi, vì tội hiếp đáp đệ tử của ông là cô H … Tôi kiên nhẫn trình bày với ông mọi chuyện và kết: “Nếu ngài có một người đệ tử mà mình đã hết lòng truyền dạy không công, giờ trở lại hại mình như vậy – Ngài sẽ xử trí thế nào, thưa Ngài!”. Lão ông ấy không nói gì, đứng dậy ra đi. Tôi gọi lại: “Ông đi đâu vậy, thưa ông”, đáp: “Tôi về trừng phạt con H” – :“Ông giải phép giúp dùm chị em chúng tôi với”. Ông quay lại, phẩy tay một cái - tôi và cô T hết đau ngay tức thì!
Phải công nhận là tà phép đáng sợ thật. Chị em chúng tôi chưa từng đưa phép đánh ai bao giờ, nếu có chắc cũng không làm được vậy.
Hôm sau nữa – tôi điện gọi cô H lên nhà, nhờ T sang làm chứng. Khi tôi hỏi, H kể chuyện vòng vo – một câu chuyện ai nghe qua cũng cho là vô lý. H kể: “Chồng con vào một quán nào đó ở chợ Hiệp Thành uống cà phê, gặp một người thanh niên lạ mặt tới nói: “Anh có phúc trúng số độc đắc rồi. Vợ anh vừa xin được của bà tỷ phú (Người lên nhà cô Lan chữa bệnh) năm triệu – Chồng con nghe vậy về nhà đánh mắng con”. Tôi hỏi: “Người nói là ai?” – Đáp: “Người không quen biết”. Hỏi: “Họ làm sao biết chuyện?” Hương lại kể: “Sáng hôm sau con ra chợ bán rau, ông ấy lại tới chỉ mặt con mà bảo: “Cô không biết giữ sĩ diện của mình, đi xin tiền người khác. Vợ tôi lên nhà cô Lan chữa bệnh (mà cô Lan chữa đâu có hết – Giờ tôi đưa vợ đi nằm bệnh viện rồi). Chính cô Lan kể với vợ chồng tôi là cô năn nỉ xin tiền bà tỷ phú, bà ấy cho cô năm triệu”.
Trước mặt H tôi điện cho mời chồng cô lên đối chứng, chồng H chối bảo là mình không có nói như vậy, và xin lỗi tôi …
H nói: “Mấy hôm nay con bị bế luân xa, thiền không nhận được điện, con đang buồn nên cũng không nhờ cô khai thông lại cho con”. Nghe H nói, tôi mới biết mình đã khóa luân xa được rồi, nhờ vậy mà H không đánh được Lan và chị NT.
Thấy cũng cần cho cô bé kiêu ngạo nầy một bài học, tôi nói: “Con là học trò của cô, con không thể ngồi ngang hàng với cô. Cô là cô của con, cô cũng không xuống ngồi ngang với con, có phải không? Thế mà con đã bao lần nói những điều sai oan cho cô – Điển báo cho cô biết tất! Nhưng cô vẫn tha thứ cho con, mong con biết “cải tà quy chính”, cô đã hết lòng khuyên con rồi, giờ đến chuyện này – những điều đơm đặt cô không hề biết mà con cũng gán được cho cô là sao? Thôi từ nay cứ ở nhà mà luyện Điện, đừng lên đây nữa …”
Sau khi H về, tôi vào giường nằm nghỉ trưa hơn nửa giờ, thức dậy phát hiện ra ở hai bên bắp vế chân nổi lên từng dề như bệnh zonar (giời leo) – nóng, đỏ và rát. Chữa liên tục mỗi ngày ba lần, cầm cự bệnh không tăng nhưng vẫn không chịu hết – tôi sanh nghi, nhờ cô T qua xin Điển hỏi, thì ra bị cô H bỏ ngải.
Chúng tôi không chủ quan khi xét việc, vấn đề nào quan trọng tôi nhờ hai hoặc ba chị em tự xin Điển về hỏi, xong đối chứng lại lấy kết quả chung.
Là người hành xử, nghi ngờ oan hoặc xét sai việc dẫn đến xử oan, tội nầy không phải nhỏ. Chuyện Cô H, tôi đã nhờ ba, bốn chị em – kết quả đều chính xác như nhau!
Một tháng sau, H mang lên một túi trái cây cúng Phật ngày rằm và xin lỗi tôi. Tôi cũng không chấp nhặt gì, ngồi nói chuyện cùng H gần một giờ, khi vào nghỉ trưa một lúc thức dậy – tôi thấy những vết zona ở hai bên bắp chân lại mưng lên như cũ. (Vốn đã hết từ lâu, không còn chứng tích). Không còn nghi ngờ gì, tôi đành điện cho H nói thẳng: “Con đừng lên nhà cô nữa. Con lên cô bị tà đánh hoài cô chết mất. Cô còn nhiều chuyện phải làm, đau đớn vầy cô sẽ không làm được gì, tội cho bao người bệnh còn đang chờ cô kia”… Có thế – Tôi mới thoát được H!
Những chuyện thị phi kéo dài trong suốt chín tháng tròn, liên tục mỗi ngày … Chín tháng nỗi đau dài tưởng chừng bằng cả một đời người!
Rồi dâu bể cũng qua – Sóng lặng bể yên, mặt trời hồng rạng tỏ. Còn lại nỗi đau của cát, bị gót chân đời vùi dập tận lòng sâu. ..
Huyền Môn Lược Ký được công nhận! Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác (Chủ nhiệm bộ môn Cận Tâm Lý – Trung tâm phát triển Tiềm năng con người Hà Nội) điện vào cho Câu lạc bộ tiềm năng Hồ Chí Minh, nhờ anh Nguyễn Tư ( là phó chủ nhiệm phụ trách ở phía Nam) liên hệ tiếp xúc với tôi …
+ Anh Tư đưa người của trung tâm Tiềm năng Hà Nội vào “thực nghiệm”.
+ Anh Tư giới thiệu nhiều người đến nhà tôi, kết quả đáng khích lệ!
+ Ngày Ông Nguyễn Chu Phác gọi tôi ra Hà Nội họp Đại Hội Tiềm Năng của cả nước, tôi … trốn!
+ Ngày 20 tháng 9/2009 Hội thảo Khoa Học về Tâm Linh toàn nước, tổ chức tại hội trường Viện Bảo Tàng Quân Khu 7, Tôi đã được vinh hạnh nhận giấy mời do Giám Đốc Đào Vọng Đức và Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác ký.
+ Bài Tham Luận của tôi được Trung tâm đánh giá là một trong bốn bài “có chất lượng” trong buổi hội thảo.
+ Tôi được câu lạc bộ Tiềm năng Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị quay phim – nhưng tôi cũng … trốn.
+ Ông Chu Phác bảo: Huyền Môn Lược Ký nên để sang năm 2010, có điều kiện mới xuất bản được. Nghị quyết 27 của Đại hội Đảng trong năm 2009 không được xuất bản các loại sách về tâm linh …
Đại khái là như vậy! “Cá vượt vũ môn” hóa …cá - Tôi trốn biệt, đâu dám chường mặt ra đám đông.
Mấy chục năm trời làm ngọn cỏ vô danh nay cho dẫu “thấm nhuần ơn mưa móc” – vẫn chẳng thể hóa thành đại thụ … càng muốn lặn sâu, trốn kỹ hơn vì sợ … trúng phải gió độc của Tà môn!
Úp mở một tí cho câu chuyện thêm phần hứng thú, tôi sẽ trình với các bạn đọc bài Tham luận tại buổi Hội thảo Khoa Học ngày 20/09 ở …. “tập 3 Huyền Môn Lược Ký!”
53. THỰC HÀNH CỤ THỂ (13)
Chị NT ( Người tôi đã kể vào tập I), duyên lành xui tôi gặp chị, cũng là duyên lành khi chị gặp tôi … Chị bắt đầu hướng theo Chánh pháp, đi vào đường Đạo từ đó!
Mới tròn một năm mà chuyện kể về chị đã dài bằng một bản trường ca… Ngày đầu tiên chị đến nhà tôi – Mẹ Diêu Trì đã về nói chuyện Đạo, chuyện đời cho chị nghe, và cũng gần như ngay lập tức chị Giác ngộ! Nhớ lời Mẹ nói: “Phần hành nào đưa về cửa ấy.” Chị NT cũng đã vài lần đặt lòng tin vào đâu đó, sau thấy chưa mãn nguyện lại rời bỏ ra đi – cho đến một ngày …
Tôi xin Điển soi căn, tìm ra phần Linh căn của chị là một Thánh nữ cao – Đệ tử ruột của Mẹ Lê Sơn. Hèn nào từ ấy về sau, mọi hoạn nạn của chị đều có bàn tay Mẹ chuyển dời …
Hôm đó, khi phần Linh căn của chị về, tôi nhìn thấy, biết ngay là bị đọa trần. Khi tôi hỏi lý do, Mẹ Diêu Trì quay lưng, giở áo cô ấy cho tôi xem: những vết roi chồng chéo, đan xen thành sẹo: sẹo lớn, sẹo nhỏ, phần thịt như một mảnh đất bị cày xới loang lỗ, trông thấy mà “nát ruột”.
Mẹ nói là chị không có tội, nhưng vì bị chồng đánh đập dã man, chị sinh lòng phẫn hận, nên cứ đọa trần hoài…
Mẹ Diêu Trì thương chị lắm! Trong suốt sáu năm về ở chỗ tôi, chỉ có hai người được Mẹ đích thân tìm về không đợi cầu kiến là ông H.A (đứa con trần xác của Mẹ) và chị NT - Người đệ tử bất hạnh của Mẹ Lê Sơn!
Chị như là người chị tựa nương của tôi và cũng là “gánh nợ”. Mỗi lần chị lên là có chuyện cho tôi làm, mà chị lên thường lắm...
Chị nôn nao, háo hức, vội vã để làm chuyện công đức – cứ như sợ không kịp tháng, kịp ngày. Những người và chuyện chị đưa tới đều nặng nề, khó giải. Tôi “bị đòn” mệt xỉu – Còn chị, nghe tôi bệnh là chạy lên, đem các thứ chất đầy tủ lạnh để tôi ăn cho có sức mà chịu đòn … Rồi dọn quét, rồi nấu nướng thay tôi!
* Lần nọ, chị bị đau cổ, mỏi bại hai vai – Tôi chẩn thấy do bị Cửu Huyền hành, tôi có hứa để từ từ rồi xin giải nghiệp Cửu Huyền cho chị.
Thường các âm phần họ nhạy lắm – có ai tới nhà tôi vài lần, bắt đầu giác ngộ đường Đạo là họ bám theo, ra mặt để cầu xin được cứu! Nhất là Cửu Huyền, hết phần nầy tới phần khác … Các chị em Nhân Điện khi học xong lớp 5.2, bắt đầu phát triển tâm linh – Bước đầu tiên là trả nghiệp Cửu Huyền.
Trưa hôm sau, tôi nằm nghỉ trưa – Đang nửa mê nửa tỉnh bỗng thấy trôi vào một giấc mơ lạ: tôi thấy mình giúp chị NT cải táng phần mộ ông bà Cửu tộc, đào lên chỉ thấy hai, ba bộ xương người, còn lại toàn xương heo với chó … Tôi hỏi, chị NT trả lời: “Đó là những người ngày xưa có công với ông bà, chết rồi được táng chung trong phần mộ Cửu Huyền”
Trưa – mệt quá tôi leo lên gác nhà chị nằm nghỉ, nấu cơm xong chị NT gọi tôi xuống ăn cơm. Lúc đó cả người tôi đau nhừ tử, không thể trở dậy được nữa … Cố lết tới cầu thang, tôi không dám leo xuống vì sợ sẽ té từ trên cao xuống. Chị NT lại gọi, tôi đành trả lời: “Em đau quá, không đi được nữa rồi”. Đến đó, tôi tỉnh dậy …
Vừa trở mình, tôi thấy quả thực là mình đang đau y như vậy – trên giường … Tôi biết chuyện nầy không phải nhỏ!
Chị NT lên lần nữa – tôi điều tra ra hai ông Thần Tổ nghiệp với một trăm hai mươi Binh gia hồn xiêu phách lạc đói rét lang thang tự bao đời bao kiếp rồi chẳng biết …
Hai vị Thần Tổ nghiệp xin chiêu đãi binh gia, để họ đói họ quậy phá, trong tộc Tổ phát sinh loạn động, nạn tai dồn dập, tội nghiệp cho con cháu đời sau. Thế nhưng họ nhất định không cho “Giải giáp binh gia” … Mãi đến gần một năm sau, họ mới tự nguyện cho Giải Binh – đưa hai Thần nghiệp Tổ về nhà thờ Họ.
* Chị NT dạo ấy đã học Nhân Điện đến lớp mười ba, nhưng vì cảm nhận ít, chị hay thiếu tự tin – Chuyện gì cũng chạy lên tìm tôi … Giống y cô Lan (học viên Nhân Điện) – hai người cứ như một sứ giả phần âm, các âm vong níu chị để chị đưa lên tôi xin cứu.
Có lần – chị nghe ứng báo liên tục từ khoảng luân xa ba trở xuống. Thường người học viên Nhân Điện sẽ nghe phần âm báo bằng cách khều móc nhẹ trên người hoặc co giật, đau nhói cơ bắp: từ luân xa ba trở xuống là phần âm bên ngoài – cấp thấp. Từ luân xa bốn trở lên là phần âm Cửu huyền, khi họ ứng về ta sẽ nghe đau mỏi, tê bại hoặc đau cứng phần cổ và vai – Tà cao sẽ làm ta ớn lạnh từng hồi dọc sống lưng và “nổi da gà” từng đợt trên người!
Chị NT đếm cả thảy mười ba đợt, ứng báo có mười ba phần âm – Chị bảo: “Để từ từ đừng có níu tôi nữa, để tôi nấu cơm xong sẽ kêu cô Lan giúp cho” … Thế mà họ vẫn cứ khều móc liên tục làm chị NT lo lắng, phải điện cho tôi!
Tôi cho xếp hàng mà đếm - cả thảy mười ba đứa trẻ. Chúng khai là các phần Linh căn trốn đi chơi, giờ bị Trên bắt đi đày ở “Nhà mở Hòa Bình” … Tên một cơ sở, địa điểm hoàn toàn xa lạ với chúng tôi!
Lúc đó tôi đang có khách, đành hẹn ba giờ chiều sẽ tiếp xúc với chúng sau. Lũ trẻ lại trở về khều móc chị NT liên tục … Hơn hai giờ, tôi thấy có bảy đứa trẻ chơi giỡn lăng xăng ngoài sân nhà tôi, còn lại sáu đứa vẫn gác dưới nhà chị NT, theo khều chị liên tục suốt từ sáng đến giờ.
Lũ trẻ con tuổi đều trạc bảy, tám đến mười – Đứa nào cũng mặt mũi xinh xắn khôi ngô, mặc trên người bộ bà ba trẻ con tay dài, quần ống rộng màu khói nhang hoặc màu trắng, tướng vui tươi hớn hở, thông minh và láu lỉnh, trông dễ thương hết sức!
Ba giờ chiều chị NT lên nhà – chúng tôi mua bánh trái cho chúng ăn và xin Mẹ cho đưa về núi tu tập. Mẹ Diêu Trì về mang chúng đi, chị NT cứu được mười ba phần vong trẻ thơ xiêu lạc …
Lệnh Trên rất nghiêm khắc. Làm sai phải tội đi đày, ngoan ngoãn chịu tội một thời gian rồi phần nào khôn thì đi tìm nơi ứng cứu. Bề Trên có tha thứ hay không còn do các phần có ý thức chịu đựng và không gây nên nghiệp quả mới, nếu có thì đừng hòng được cứu!
Cõi trên, cõi Địa ngục hay trần thế đều như nhau: có Luật pháp thì cũng có cách ứng cứu, lách luật – Giống như người Luật sư khéo biện hộ sẽ cứu được người bị sai oan. Có điều phải khôn khéo mà xử trí, sao cho “hợp lý hợp tình” …
* Lại một ngày nọ – Chị NT nghe các âm vong khều móc liên tục, chạy lên tôi. Điều tra ra bốn mươi tám âm vong và hai vị chúa quỷ canh nghĩa trang gần nhà chị NT!
Kế hoạch chỉnh trang đô thị xóa các nghĩa trang, di dời các phần mộ, nhưng các âm vong ở đấy thì đâu ai biết mà di dời … Họ cứ ở tại chỗ, trôi dạt đầu hè góc phố khổ sở lang thang, gá ở lén lút nhà người nầy, người nọ.
Chị NT xác nhận điều ấy đúng – vì khi chị mua đất cất nhà có gặp xương cốt người chôn đã lâu, và nghe nói vùng chị ở xưa kia có nghĩa trang – sau nhà nước lấy cốt dời đi …
Tôi hỏi: “Giờ các người muốn chuyển về đâu?”. Vị Chúa Quỷ trông coi nghĩa trang nói : “Xin cho chúng tôi chuyển về nghĩa trang Bình Dương – ở đấy đất còn rộng, các nghĩa trang ở trong thành phố nầy đều chật cả rồi”.
Chúng tôi lại xin bề Trên chuẩn cho chuyển năm mươi vong về nghĩa trang Bình Dương – Cung cấp cho họ tiền bạc và lộc thực, xong phải chuyển thần thức tới nghĩa trang Bình Dương xin phép các vị Thần đất đai và các vị Chúa Quỷ canh nghĩa trang cho chuyển năm mươi âm vong về đó – Thế là xong!
* Rồi đến âm vong người chồng cũ của chị NT. Cha của hai đứa con gái – dù ông đã có cuộc sống khác … Khi chết đi, chị NT vẫn thỉnh Linh vị về thờ tại nhà: “Cho các con được vui” (lời chị NT)
Khi mời CMT (tên người chồng cũ) về, tôi thấy có hai vong trẻ con nắm tay ông, đứa trai đứa gái! Khi biết đó là con của người vợ sau, chị NT không vui: “Tại sao anh mang con người khác vào nhà.” Ông cúi đầu: “Đó là nghiệp chướng, nó theo níu kéo đấy thôi.”
Phần âm CMT không vào nhà được, đứng ở ngoài cửa – hỏi ra thì chưa đủ lễ rước vong … Tôi bày cho chị NT về cúng xin phép Cửu huyền, ông CMT từ ấy mới được về ở trong nhà – một thời gian sau nữa Mẹ cho đưa vong hai đứa bé đi đầu thai. Từ đó, mỗi khi chị NT lên nhà tôi, hồn CMT lại về ra mặt chào hỏi, cười rất tươi, không còn buồn như trước, cũng không còn hai “gánh nợ” hai bên …
* Lại một lần chị NT lên nhà, nhờ tôi hỏi tìm âm vong một người bạn thân: một nhà Thơ – người khi còn sống có tài, đạo đức và đặc biệt là làm thơ rất hay!
Vong người ấy về – bảo mình là một Đạo sĩ xuống trần để tu tập, nhiệm vụ chưa tròn thì bị chết oan … Chị NT cũng nhận cái chết của người ấy ai cũng bảo là chết oan hoặc chết chưa đúng số!
Anh em gắn bó với nhau lắm, lần nào mời vong về, nói chuyện một chốc là ai cũng khóc (vong nhập vào tôi – tôi khóc, chị NT cũng khóc)
Về sau – chị NT đưa một người em họ, một người bạn vong niên và người cháu họ của nhà Thơ ấy (xin phép được dấu tên). Hồn nhà Thơ về nói chuyện với từng người một … Người bạn vong niên hỏi: “Thế có nhớ kỷ niệm nào về tôi không”. Vong bảo: “Tôi còn nợ anh chung rượu từ biệt trước Linh sàng”. Người bạn lớn tuổi khóc, nhận là có đổ chung rượu từ biệt trước linh sàng để tiễn người ra đi.
Chiều hôm sau – tại Hội quán Gia Định họp mặt những người bạn thơ. Có cả tôi, chị NT cùng ba người anh em bạn ngày hôm qua!
Trừ tôi ra, những người trong tiệc ấy đều là bè bạn thân tình của nhà Thơ quá cố.
Tiệc khai mạc – tôi thấy vong nhà Thơ mở cửa phòng bước vào, đứng sau lưng người bạn vong niên. Tự dưng – như hồn nhập xác – Nhà thơ lão thành ấy luôn miệng nhắc lại những kỷ niệm xưa khi người bạn còn sống … Rượu chưa uống mà say, kể lan man – thoắt cười, thoắt khóc rất lạ!
Tôi lại thấy ba tôi mở cửa bước vào. Khi còn sống, ba tôi cũng là bạn thơ của vài người trong nhóm.
Tôi ngồi đó – lơ mơ giữa cái thực và ảo, lòng nghẹn đắng. Những người thân đã chết, hồn về phảng phất bên ta, vay chút nghĩa tình xưa, tìm chút dư vị cũ… Người còn sống có hay đâu – cuộc vui cứ râm ran: cụng ly và nâng cốc, mấy ai nhớ tưởng, đoái hoài!
Tôi nói với chị NT – cả hai chị em cùng khóc, giọt lệ âm thầm rơi vào đáy ly buồn!
Đêm đó – tôi làm một bài thơ, xin chép lại đây tặng các bạn:
VỌNG ẢO
Ngọn gió thiên thu lướt vội vàng
Tiệc tàn chưa nhỉ – tiệc chưa tàn!
Rượu nồng chưa nhắp, say nào trọn
Chén đắng còn nguyên – mộng lỡ làng...
Bạn ở phương nào, ta ở đây!
Cố nhân người hỡi – trách gì ai
Âm dương cách trở, hồn như gió
Về với đêm trường... với cuộc say!
Khóe mắt nào cay buổi hợp đoàn
Trời còn mưa nữa – gió đừng sang
Lòng lạnh... biết làm sao để ấm
Chếnh choáng men cay, chếnh choáng buồn.
Rượu tiễn – sầu đưa với rã tay
Tìm trong ảo ảnh chút hồn say
Đêm này đêm nữa... đêm nào dứt
Mộng – mộng trường canh, giấc đọa đày!!
54. MUÔN DẶM ĐƯỜNG … “TU”:
Theo quan niệm của riêng mình – tôi nghĩ: Tu không hẳn là thí phát quy y, trường chay vọng đạo … Tu có nghĩa là sữa chữa, là trau dồi tâm đức cho mỗi ngày một tốt đẹp, thanh cao và tròn vẹn hơn!
Chân lý chỉ có một – nhưng con đường đi đến Chân lý thì có hàng ngàn … Quả là “Muôn dặm đường Tu”. Mạnh ai nấy dấn bước, ra đi và tìm kiếm – Đi một mình hay đi thành từng đoàn, từng nhóm. Có người “chân trần gót mỏng” chậm rãi lần bước, có người dùng dao rựa tỉa cây phát cành – Có người nhặt sỏi đá, gai góc dọn đường – Lại có người lướt nhanh bằng đôi hia bảy dặm …
Có người dấn bước vì tò mò háo hức muốn lập tức được nhìn thấy, nhận chân sự huyền nhiệm mà mọi người từng truyền tụng – nhỏ to sang tai hoặc rầm rầm rộ rộ trên các phương tiện đại chúng công khai … Có người hối hả mà dấn bước, bịt mắt che tai để không bị phân tâm, giống như chú ngựa kia bị che hàm thiếc để chỉ “thẳng một đường dông”. Có người “dóng trống, phất cờ”, với hàng loạt những giáo điều, biểu ngữ, băng rôn … những tập thể lớn mạnh như thế dễ kéo theo đàng sau nhiều kẻ hiếu kỳ – còn chuyện đi đến đâu thì … chưa biết!
Giống như người “Sơn Đông mãi võ” kia, tụ tập được đông người vây quanh mình bởi tài quảng cáo, thực chất chưa biết ra sao – có khi “tiền mất tật mang” – Lúc quay nhìn lại thì đã trót phí hoài bao nhiêu ngày tháng lạc nẻo sai đường. Đứng lại bên chiều, chân chồn gối mỏi, ngơ ngẩn nhìn mọi người ruỗi bước đi qua …
Xã hội đang thời loạn động, “thay da đổi thịt từng ngày” – Thấy người đi, ta cũng phải đi theo, người chạy ta cũng lên gân mà chạy … thậm chí ước như cánh chim bằng kia lướt gió tung mây, để nhìn xuống dưới chân mình mọi người bé như ngọn cỏ!
Theo tôi những giây phút thăng hoa, thành tựu thường kết tinh ở nơi cô tịch của tâm hồn … Người mua bán ngoài chợ kia có thể nắm trong tay rất nhiều đồng xu, nhưng không thể tạo ra chỉ một trái cà, trái ớt … Đường Đạo, đường Tu chẳng bao giờ là dễ – nhưng cũng không quá khó như bao người đã từng quan niệm.
Nhà Phật có câu: “Quay lại – Ắt thấy bờ Giác!” Chẳng là sớm, cũng đừng lo trễ muộn… Ta cứ đi – sửa xống áo cho gọn gàng để dễ dấn bước, bỏ bớt đi những hành lý nặng nề và vô ích để đỡ vướng bận. Mặc vừa đủ ấm, đừng để “phong phanh” – ăn cho đủ no, đừng quá thừa mứa, cũng đừng kham khổ. Ngủ vừa đủ giấc, ngủ nhiều sinh lú lẫn, thiếu ngủ dễ nhược thần …
Mỗi đêm – trước khi nhắm mắt, ta nằm yên kiểm điểm lại những sự việc xảy ra trong ngày – tán thán cho hành động tốt đẹp, ân hận cho lời nói còn sơ sót, lỡ lầm. Chỉ khi sự việc đã chấm dứt, ta mới đủ bình tĩnh để nhìn lại chính mình … Đừng để lương tâm ngủ quên sau những bữa cơm thừa thãi và chăn êm nệm ấm!
Nhưng cũng cần phải biết tha thứ cho chính mình những sai lầm và vấp ngã – Con người không phải là Thánh nhân, chẳng có ai trọn vẹn, không tì vết … Đừng ngồi đó mà than tiếc cho những sự việc đã rồi. Điều quan trọng là: đừng bao giờ để ngã một lần nữa vào cái hố mà ta đã ngã một lần!
Thôi – có lẽ tôi đã lý luận dông dài mất rồi, xin mời các bạn trở lại đề mục chính, vậy nhé!
* Anh Ch (huynh trưởng Nhân Điện), người luôn miệng trách tôi đi sai đường, lạc nẻo, không khéo ngã đường tà thành mê tín dị đoan – Người mỗi lần gặp tôi thuyết giảng hàng tràng những Kinh luận giáo điều – viện dẫn lời Phật dạy … Giỏi như một vị “Trưởng giáo” chuyên nghiệp!
Còn tôi, nói về Kinh – Luật – Luận thì vào hàng “abc”, đúng hơn là “trình độ i tờ” … Tôi cãi lý với anh: “Kinh Phật thuyết giảng cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm – từ thời buổi hồng hoang, khi con người bản chất còn thiện lương, lòng tư hữu chưa nhiều … Đến bây giờ, hoàn cảnh cũng như nhân tình đều khác xưa – vật chất càng cao, lòng tư hữu càng lớn, tham sân tội ác dẫy đầy … Đạo giáo cũng cần phải cách tân một chút cho phù hợp. Nếu không sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời, không đủ sức thuyết phục mọi người nữa. Anh có nhớ câu: “Tùy duyên mà hóa độ – Tùy cơ mà ứng biến không?”
Chê thì chê, trách thì trách - Anh Ch vẫn cứ đưa hết người nầy đến người khác tới nhà tôi để “ứng cứu” cũng như “thử nghiệm” về những khả năng của tôi – Từ đấy cũng xảy ra nhiều chuyện “giở khóc giở cười” …
* Mùng tám tết năm 2006, anh Ch đưa tới một người xưng là xác “Bà cố, Ông cố” – nhờ giải tà, cứu cô em lầm đường lạc lối … “Bà cố” tuổi trạc năm mươi lăm, người bệ vệ đến “quá khổ” - Bà hỏi tôi: “Nhà mi có tửu không?”. Tôi đem ra chai rượu gốc vừa mua về để cúng giỗ hôm qua – rót ra độ 100ml, bà bảo tôi uống. Sợ quá, tôi nói: “Con không uống được, chỉ cần nhắp môi là say “quắc cần câu” liền”. Bà lại bảo: “Uống đi, nếu mi là chánh thì uống vào sẽ không say. Nếu là tà thì mi xỉn”. Anh Ch nói: “Uống đi – đừng có đưa điện giải cồn nha!”. (Nếu đưa điện giải độ cồn, ta uống rượu vào chỉ như uống nước lã vậy thôi). Tôi nín thở, uống đại một hơi. Quả thực là không say…
Bà cố lại nói: “Trong nhà của mi có một thằng thầy tu già người Campuchia – Nó hại chết con trai lớn của mi, giờ sắp hại tới đứa con trai kế, nó còn phá nát gia đình ông Ch đây nữa”. Tôi ngạc nhiên: “Dạ thưa bà Cố – Ông Ch đây thì có liên hệ gì đến con?”.
“Bà Cố” chửi thề một tiếng: “ĐM, bữa nay tao còng đầu mày cho mầy biết tay” … Tôi đứng ngẩn ra mà nhìn: “Thì ra các Đấng cũng biết chửi thề, nói tục”.
Rồi “bà Cố” phán: “Ta bắt thằng sư già đi rồi. Từ nay mi hết bị nó hại rồi” Tôi nói: “Sao con thấy đứng kia kìa”. Đáp: “Binh của ta đó, ta cho canh gác trong nhà của mi”… Rồi “bà Cố” nói: “Nhà của ta là lò luyện Trạng – Tất cả các Trạng đều xuất thân từ nhà của ta.”
Đến trưa hôm sau, Anh Ch điện lên hỏi: “Em ra sao rồi Lan” Tôi đáp: “Bình thường”. – “Chúc mừng em nghe – Từ nay là khỏe, hết bị hành xác nữa rồi”. Tôi nói: “Bình thường là Điển Ông vẫn còn nguyên đây, mất đi đâu.” Anh Ch lên giọng cho một hơi: “Vậy là em u mê ám chướng đến hết thuốc chữa rồi”. Hai anh em cãi nhau một trận “long trời lở đất”, nghỉ chơi mất tám tháng, anh Ch lại “lò dò” lên tiếp …
Tôi hỏi Ông sao lại lặng im đứng đó, để cho người ta hoạnh họe trong nhà mình như vậy – Ông đáp: “Chẳng lẽ rồi bôi mặt đánh nhau cho nhân thế họ chê cười! Chuyện chẳng có gì quan trọng, không nên để tâm làm gì…” Vậy đó!
* Lần nữa – Anh Ch dẫn lên ba người: Hai người là thầy chữa Nhân Điện, một người phụ nữ lớn tuổi – nghe đâu có Điện thờ đâu đó dưới chợ Hiệp Thành …
Vừa nhìn tôi – một ông lên tiếng: “Tôi biết cô này thế nào rồi. Cổ là xác Hội, các phần Điển trên mượn xác về hành Đạo độ đời thôi – ví như một chiếc máy cát sét, để băng nào vô thì băng đó chạy vậy! Trường hợp thế nầy tôi chỉ gặp có một lần vào năm 1988 đến nay là lần thứ hai (2006)”.
Anh Ch rất giỏi về cảm nhận trường năng lượng, nhưng không có khả năng nhìn bằng thể Vía. Anh cho rằng người chết không có linh hồn, chỉ là một dạng năng lượng … Hôm ấy, tôi xin Điển trên ứng về cho mọi người thử nghiệm. Trước tiên tôi xin Điển Mẹ Quán Âm về – Anh Ch nói: “Phần này cao mà giỏi, trường điện dũng mãnh lắm”. Tôi lại xin Điển Bà Cửu Thiên, anh Ch cũng nhận xét y như vậy …
Sau đó – tôi xin Điển Ngài Thích Ca, anh Ch nhận xét: “Điển này yếu hơn, thanh mà nhẹ”. Với Điển của Mẹ Diêu Trì, anh Ch cũng nói như Điển của ngài Thích Ca – Tôi xác nhận là anh Ch nhận xét đúng, mặc dù khi xin Điển về tôi không báo trước là Điển của ai: Điển của Quan Âm Bồ Tát và Cửu Thiên Huyền Nữ là Điển hành xử, như một vị Quan võ – Đương nhiên là dũng mãnh! Điển của Phật Thích Ca và Mẹ Diêu Trì là Văn Điển, nhẹ và thanh là đúng …
Thấy cô Tư ngồi im mỉm cười mà không nói gì, tôi thầm khấn xin Mẹ Diêu Trì nán lại trong chốc lát – Tôi hỏi cô Tư xem có thấy ai về đó không, Cô Tư tả: “Mẹ Diêu Trì chứ ai, bà mặc áo lễ, đội một chiếc mão có những ngù vàng như hoa vạn thọ” … Tôi cũng thấy như vậy.
Tôi xin phép nhắc lại cho bạn đọc lần nữa: “Tôi chưa nói cho cô Tư và anh Ch biết là tôi xin Điển ai về” – Tôi lại xin Điển Ông ra mặt cho mọi người “trắc nghiệm” …
Điển Ông bước ra, trên môi phát một nụ cười – hai tay khua một vòng phía trước mặt như người đang “xuống tấn” luyện võ, xong rồi chắp hai tay trước ngực đứng yên.
Cô Tư nói: “Phần nầy lạ quá, không biết là ai – Mặc một cái áo thụng vá từng mụn vuông, hai tay ông ấy làm gì không biết.” Nói rồi cô Tư đưa hai tay ra làm dấu, y hệt như tôi vừa nhìn thấy ở Điển Ong - Vậy là cô Tư cũng có đôi mắt của thể Vía, nhìn được âm phần như tôi!
Buồn một nỗi con người ta thường mang tính đố kỵ … Ra khỏi nhà tôi, cô Tư nói với mọi người: “Tôi có thấy gì đâu, chỉ giả bộ nói vậy thôi”. Rồi cô khuyên anh Ch đừng tới chơi nhà tôi nữa: “Cô đó là yêu tinh, cổ sẽ nhận chìm chú Ch cùng gia đình xuống bùn cho mà coi”.
Một người có vẻ ngoài đạo cao đức trọng, lại biết nói trớ trêu như nhân thế thường tình vậy sao?
Về sau – Có người kể chuyện cùng tôi, đã vài lần thấy người phụ nữ ấy rón rén mang túi rác nhà mình vứt sang nhà hàng xóm …
* Có một thời gian – anh Ch hay đến nhà tôi cùng với một người bạn, tên Gi, khi tới lần thứ ba, ông Gi bị ai nhập vào không biết, ông ngồi đó “liếc mắt, đá lông nheo” với tôi, liếm môi và vuốt tóc như một chàng trai mới lớn, mặt mày đỏ lựng … anh Ch nói: “Chắc Linh căn ông Gi về”. Tôi cười: “Quỷ nhập thì có chứ Linh gì!”.
Ông Gi dường như cũng biết có gì bất thường ở trong mình, về nhà bảo với anh Ch: “Ông đừng chơi với cô Lan nữa. Gốc của cổ là Hồ Ly Tinh đó, chơi với cổ là tiêu đường Đạo. Ông không nhận thấy hai con mắt cổ nhìn trăm người đàn ông là mê đủ cả trăm hay sao.”
Anh Ch nghe thấy cũng “run”, kể lại với tôi, ức quá tôi bảo: “Các người có tâm tà, quỷ nhập vào lại đổ thừa cho tôi. Anh Ch, hãy chờ vài năm nữa đi rồi thử xem ai tà ai chánh …”
Hôm đó, tôi ức quá nằm khóc vùi. Mẹ Diêu Trì về nói: “Tên Gi đó nó ngã liền tức thì, ta đã ra lệnh phạt – con chờ đó mà coi”
Nguyên ông Gi có một Am tự, Miếu đường thờ cúng gì đó, nghe nói là linh thiêng lắm. Đùng một cái ông bị “trúng tà” – Giở điên giở tỉnh mất gần nữa năm sau mới tạm ổn!...
* “Tà Chánh bất phân” – sinh ra đủ kiểu nghịch thường. Mới đây, khi tôi nhờ hỗ trợ trong vụ cô Kh bị bệnh tâm thần, anh Ch đã cho lệnh xóa bàn thờ Phật Bà, bảo V (chồng cô Kh): “Trang thờ và bình bông, lư hương đem ra ngoài đường đập bỏ – tà không ở trong đó đó”.
Tôi ở nhà sau bước lên ngăn lại: “Chính anh tà thì có, gia đình bên Kh đạo Thiên Chúa, anh đã chứng tỏ cho họ thấy đạo Phật là tà đạo mất rồi. Quỷ nhập vào người, quỷ nào nhập vô bàn thờ Phật …”
Sự gì đến đã phải đến: Cô Kh tĩnh trí thấy bàn thờ Phật bị xóa – đã đâm đơn ra tòa ly hôn với chồng!
55. TẢN MẠN ĐỜI THƯỜNG
… Tôi ao ước có một ai đó đến bên mình, vực tôi đứng dậy và dìu tôi rời đi! Xa môi trường, hoàn cảnh – Nơi tôi sống và làm công việc đang làm suốt ngần ấy năm trời, gần một phần tư thế kỷ và gần nửa tháng năm tuổi sống của mình… Bởi vì bản thân tôi không có đủ năng lực để tự mình rời bỏ, ra đi!
Một vinh quang cao cả được tán thán bởi các Đấng – với tấm lòng đại độ ban tặng và ân cứu… Một ca ngợi tôn vinh như một vị Thánh tử vì Đạo, hy sinh bản thân mình – Để buông trôi đi, rồi qua mất những tháng năm đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân: hạnh phúc, tình yêu, niềm tin và hy vọng… Đến giờ – khi chỉ còn lại trước mắt những chuỗi ngày phiền muộn của tuổi già, khi thể xác rã mòn vì tật bệnh tàn phá bao năm – Tôi còn lại gì cho tôi, hay chỉ như loài hoa trắng kia chắt lọc mình để dâng cho đời nhụy hương tươi thắm. Để rồi rạng sáng ngày mai khi bình minh tràn về khắp nẻo, khi nhân loại đang tắm mình trong ánh nhật dương thì những cành hoa trắng kia lặng lẽ rơi ở một góc đời hiu quạnh…
Tôi muốn chạy trốn, muốn vượt thoát ra đi… Nhưng giá mà trái tim này ngừng đập, những nhịp đập xót xa mẫn cảm vì đời, giá mà nhân loại bớt tai ương! Những con người bình thường, bé nhỏ và vô danh trước dòng chảy nghiệt ngã và vô tình của định mệnh, và… Giá mà tôi đủ can đảm quay lưng…
ĐỘC THOẠI
Chiếc bóng ngồi bên khung cửa sổ, ngoài kia là bầu trời mênh mông…
Trời thì mở ra, khoáng đạt và khao khát hồi sinh. Chiếc bóng thì lặng câm, chịu đựng và khép kín! Một rộng rãi và hào sảng, như sẵn sàng cho đi, sẵn sàng trao tặng và ban phát… Một lại muốn co mình lại, để nhỏ bé hơn, vô danh và lọt thỏm giữa ngoại vật quanh mình!
Những ngọn gió lướt qua, dịu dàng và đằm thắm hôn từng bờ cây, ngọn cỏ. Những đóa hoa tươi vừa mới hé nhụy, trông như một minh chứng của niềm hoan lạc hiện hữu đâu đây, sẵn sàng làm đắm say bao trái tim đồng điệu. Và ánh sáng, ánh sáng rực rỡ, tràn trề như đang tuôn ra, chảy trôi, lấp lánh khắp mọi nơi. Vạn vật như được tắm mình trong nguồn diệu phúc…
Chỉ còn lại chiếc bóng lặng lẽ, mơ hồ, bất động! Như tách rời khỏi thế giới chung quanh, như đắm mình trong một vùng ảo thức nào đó, khác hẳn cái nơi mà chiếc bóng định hình. Nơi chỉ có sự im lặng trường diễn, nơi lưu cửu những vùng ký ức bất động của tâm linh – Ở sau bức màn của bóng tối miên viễn, lạ xa và cách biệt với những gì đang hiện hữu chung quanh.
Chiếc bóng như một vật thể bất động, chỉ có hơi gió nhẹ lay tấm rèm cửa ngang đầu, chỉ có những ngọn tóc tung tẩy, lang thang trên bờ vai phiền muộn…
Chờ đợi gì ư? Không! Không có cảm xúc khắc khoải, nôn nao của sự đợi chờ. Không có nỗi mong ngóng, trở trăn của từng ước ao, hoài vọng… Tất cả đã trở thành xa lạ mất rồi. Hôm qua, ngày mai… Chỉ còn lại phút giây hiện tại trống rỗng, cô đơn và câm lặng!
Có ai đó đã nói: “Ngày hôm qua không còn nữa, ngày mai thì chưa tới. Và cái phút giây mà tôi nói đây đã xa tôi mất rồi!” Vâng! Thế thì tôi còn lại gì cho tôi, còn gì cho tôi nữa không?! ...
HỒN HOA
Mùa xuân thắm sắc ngàn hoa
Sao hoa mẹ vườn nhà chẳng nở
Mùa xuân thắm sắc hoa Lan
Sao Lan mẹ chỉ xanh màu lá?
Có lẽ vườn nhà lắm gió
Hoa kia chẳng kịp ươm mầm
Có lẽ vườn nhà lắm nắng
Héo hon, tàn lụi chồi xuân!
Hoa Lan nhà người khoe sắc
Trả công vườn chủ nâng niu
Lan mẹ bao ngày ao ước
Bạc lòng chi cánh hoa yêu?!
Phải chăng đất trời cõi ấy
Chẳng dung loài hoa thanh cao
Hay tại lòng người thuở ấy
Đảo điên – Hoa chẳng nở chào!
Một giọt lệ rơi vào đất
Ngàn giọt lệ rơi vào đêm
Thương loài hoa trơ lá biếc
Nắng mưa chỉ một thân mềm…
Rồi một ngày kia bất chợt
Hồn cây theo gió về trời
Ngậm ngùi bên màu lá chết
Mẹ rằng: thôi thế là thôi!
Nắng mưa cũng rồi một kiếp
Gió vèo… lá rụng… hoa rơi!!...
... Đêm – giữa đôi bờ vũ trụ
Có một loài hoa không tên
Khởi từ cội nguồn giông bão
Nở ra ngàn cánh hoa tiên!!
Tháng 8/2009
DẤU HỎI
Nỗi đau tượng hình đôi mắt
Nỗi đau tượng hình đôi tay
Quấn siết, đọa đày không dứt
Đớn đau một giấc mơ ngày!
Bão giông chực chờ phía trước
Nghiệp đời truy đuổi sau lưng
Linh hồn về đâu - Ai biết!
Lang thang giữa chốn bụi hồng.
“Ba vạn sáu ngàn…” – một kiếp
Hỏi còn có mấy lần đau
Nợ gì – chim trời cá nước
Mỗi phương một khoảng trời sầu!
U linh mấy tầng ngục thất
Nại Hà bao lớp mê phong
Âm Đài vĩnh tuyền dạ cách
Quên chăng mưa gió đường trần?!...
LOÀI LINH ĐIỂU TẬP BAY
Chiều xuống rồi anh
Hoa mười giờ đã ngủ
Pháo đài sụp đổ
Linh hồn đi hoang…
Cây đàn Ghita khóc trên ban công
Không phải tôi – cây đàn Ghita khóc!
Chỉ có bóng đêm mới làm hiện hình sự thực
Rằng tôi là một gã hề!
Những con chữ trôi đi – âm u
Cấu hình đổ gẫy
Ta sống giữa mơ hồ
Yêu đương và phụ rẫy!...
Loài Linh Điểu tập bay
Dấu sau lưng đôi cánh đầy thương tích
Loài Linh Điểu tập bay
Bay lên… về miền gió hát!
Rồi một ngày sẽ khác
Chở trái tim muộn phiền
Bầy Linh Điểu bay lên
Nguồn ân cứu vô biên...
Còn lại sau lưng vũng lầy sa mạc
Trên cánh đồng đời – vực khát!
Hạt mưa trời bao dung
Nắng sáng lên rồi em
Nỗi đau hóa thân thành sẹo
Chỉ còn lại tiếng cười trong trẻo
Ngọt ngào vũ điệu chuyển luân…
Cây đàn Ghita không còn khóc trên ban công
Rồi phai – dấu mòn trên ghế
Đâu rồi... Người nghệ sĩ lang thang
Dãy mây trên trời trắng một màu tang!!...
10/12/2009
NHÀNH HƯƠNG NGUYỆN
“Gió phương Bắc xô về phương Nam!”
“Tin Ap thấp!” – Trời chưa làm bão…
Một chút vui, chút buồn gượng gạo
Cảm ơn Trời bớt một lần giông!
Rét mướt lạnh lùng cơn mưa mùa đông
Ai trăn trở giữa lòng chăn ấm
Ai gối đất nằm sương – buốt lạnh
Bão qua rồi… Cửa nát nhà tan!!
Ta gối đầu trên Bình nguyên phương Nam
Thương đất Mẹ miền Trung – đòi loạn!
Đêm thao thức nhớ mùa ly loạn
Chinh chiến thiên tai – họa đất, nạn trời...
Một nén hương mặc niệm bao người
Nằm xuống sau những lần thảm họa
Một nén hương nguyện cầu lượng cả
Hóa Công ơi! – Rộng dạ nương đời!!
Một nén hương mở rộng lòng người
Xin cúi xuống chìa đôi tay tin cậy
Đêm phố phường xa hoa lộng lẫy
Giọt lệ nào trong tối – giữa đêm thâu!...
Bất công còn nhiều… Nào biết vì đâu
Máu đỏ da vàng ai cũng quyền được sống
Kẻ gối đất màn trời – Người chăn êm nệm ấm
Đành sao?!...
19/01/2010
NỖI ĐAU
Bạn sẽ làm gì – ngay trong phút này đây, nếu bạn đang phải chịu một sự đau đớn như tôi, ngay – phút – nầy – đây?!
Cơn đau trải dài từ chót cổ xuống thắt lưng, xuống hai đầu gối, hai kheo chân – và tận cùng ở khớp ngón chân cái. Chừng như ở đâu có xương thịt, ở đó có cái đau, chừng như máu đang ngừng lưu thông trong cơ thể… Cả một thể xác to lớn kiệt quệ, không ngừng rên rỉ, quằn quại – Mỗi bước đi là một chuyển dời đau đớn, mỗi một thời khắc sống là một đọa đày – Bạn sẽ làm gì? – Nằm lặng im trên giường, lắng nghe nỗi mệt mỏi dã dượi đang ngân lên trong từng thớ thịt, hay nhắm mắt, để rơi vào cơn mê thiếp rã rời? Tôi bây giờ đang lê từng bước trong nhà, né tránh cái đau, bậm môi lại một cách lì lợm – và lại làm việc. Những công việc trong nhà của một người nội trợ thường ngày vẫn nhẹ nhàng, nay bỗng trở nên như một cực hình đáng sợ!
Đứng lên, ngồi xuống, bước tới, quay lui… mọi day trở chuyển vận đều như có cơn đau đang xé lên từ đâu đó trong người. Lặng nghe ngóng, theo dõi… mãi rồi chẳng biết cơn đau nó khu trú ở chỗ nào, chẳng biết nó đến tự bao giờ và chừng nào thì nó sẽ ra đi! Giống như bước chân Thần Chết lặng lẽ, rón rén, dọ dẫm từng phút, từng giờ. Thế nhưng… chiếc lưỡi hái của ông dấu ở đâu rồi? Chưa đến lúc nó vung lên – Đợi đấy, hãy còn lâu!!
Linh Hồn! Nếu mi chịu buông rời thể xác nầy ra, thì chắc là nó không còn đau đớn nữa – Chúng ta điều đình với nhau được không?... Suốt dọc đời, những tháng năm “ngự trị” ở cõi tạm nầy, thể xác ta đã lặng lẽ chắp cho mi đôi cánh – Thế thì hãy bay lên đi, nấn ná chi để kéo dài hơn nữa những cơn đau vốn đã quá dài!
Mi tưởng mi là ai, mi tưởng mình đang làm gì vậy? – Muốn thử nghiệm những đọa trần cõi thế, muốn nếm trải giọt đắng cuộc đời – Hay muốn tìm kiếm một luận chứng phóng sinh? Muốn nương xác vọng Đạo hay tìm cớ hưởng lạc cầu an – Muốn dấn thân hay đang tìm nẻo quay về?!...
Hỡi Vĩnh Cửu – Mi cần bao nhiêu giả tạm để làm nguồn cội xây lâu đài, điện ngọc cho mình? – Nầy Hư Vô! Mi cần bao nhiêu được mất có không để tôn vinh ngai vị?? Hãy kéo nhau đến đây – Cái Linh Hồn phản trắc khoác áo thanh cao, tôn thờ Đấng Vĩnh Hằng, mượn xác trần bợn nhơ làm bệ phóng!
Ta với mi vốn tồn tại cùng nhau (trong chừng mực nào đó) – Ta chẳng hiểu mi sao, chỉ có mi mới không hiểu được ta! Ta cần chi thứ danh phẩm của mi, cần chi cái mà mi gọi là “Vòng – Nguyệt – Quế – của – Linh – hồn?”.
Tồn tại cùng mi, ta đã phải chịu đựng những “thành quả” mà mi vốn có, phải cười khóc, hạnh phúc và bi thương, yêu đương và thù hận. Phải nếm trải những “cảm – xúc – tưởng – tượng” siêu hình, thứ xúc cảm chỉ tồn tại ở thượng tầng tư duy, thuộc về nửa sau của nhân vật “Con – Người!”.
Đã từng có một lúc nào đó ta tôn thờ mi, như người Chủ tế ngợi ca tôn vinh thần tượng của mình trong ngày lễ Phục Sinh – Để rồi lại đến một lúc nào đó, ta ngẩn ngơ nhận ra rằng: Nếu không có mi, ta chẳng phải chịu nhiều bất hạnh đến thế!!
Xác trần thì có là gì đâu – một hạt cát giữa sa mạc trùng trùng, nơi mà đến cả Thượng Đế cũng chẳng thèm cân đong đo đếm; lẽ ra ta đã được yên thân!
Bây giờ – trong cơn đau rã rời của thể xác, mi có cảm nghĩ gì? – Một vòng Nguyệt quế, cái lọng che trên đầu hay đôi cánh sau lưng?! Một nơi chốn Thiên Đàng nào đó, nơi mà bản thân những kẻ đứng chân trên đất như ta chỉ biết trong tưởng tượng…
Ta cần gì cơ chứ?! Điều ta cần là một thân thể khỏe mạnh không tật bệnh, đớn đau, một mái che trên đầu, chiếc giường tốt ngả lưng và những bữa ăn đầy đủ – để cho những ngày tháng tồn tại của mình được nhẹ nhàng… Rồi cũng đến ngày trở về với cát bụi, ai mà chả thế!
Thế thì tại sao lại chẳng tìm cho mình một con đường quang đãng mà đi, tội chi phải bám lấy hư vinh, chờ đợi một cuộc phóng sinh – vào cõi mà ta chưa biết?...
… Mình lẫn quẩn mất rồi, mình đang nói với ai đây? Hồn bên ta như bóng với hình. Hình trách Bóng hình đau, bóng chê hình bóng lệch – Kiếp phù sinh mới nửa, mộng còn lâu!
Ngẩng lên Trời mà kêu, tiếng than chìm khuất giữa trùng trùng hư ảnh – Gió kéo mây về, che mất bóng tà dương. Thiên Đàng đâu, Địa Ngục dưới bàn chân – và giọt lệ chảy vào tim – ứ nghẹn! ...
6/11/2002
ĐÊM KHÔNG NGỦ
Đã bao nhiêu đêm rồi, tôi không ngủ được an giấc. Giấc ngủ ngắt quảng, muộn mằn…xen vào đó là những ý nghĩ – những ý nghĩ tự nhiên tới, song lại như tia chớp giữa đêm hè rạch xé mảnh trời quen, thoáng qua rồi tưởng chừng mất hút – song dường như vẫn trụ lại đâu đó, ở tận cùng sâu thẳm trong tâm…
Tôi thấy mình loay hoay, rối rắm giữa cuộc thế không cùng, chạy theo nó – bị nó làm chủ, điều hành và sai khiến. Tại sao vậy nhỉ? Thân xác của ta, ta làm chủ cơ mà! Ta cho nó ăn thì nó được ăn, cho nó được mặc thì nó được mặc – Ta quyết định được hình tướng bên ngoài, ta làm chủ được hành động – Vui buồn sướng khổ, cau có hay giận dữ, hoan hỉ hay từ ái đều do tâm quyết định, ấy là tâm làm chủ vật!
Thế nhưng ta lại vui buồn, yêu ghét vì một vài câu nói vu vơ. Khi đói lạnh thì tâm loạn trí mờ, tay chân run lẩy bẫy – Lúc giận dữ thì tâm loạn trí cuồng, khi hoan hỉ thì nhẹ nhàng sung sướng – Lúc bình yên thì thanh thản, khi hữu sự thì rối rắm, hoang mang – như thế là vật làm chủ tâm rồi vậy!
Ta vô tình lệ thuộc vào cuộc đời, bị nó trì kéo – xô ngang đẩy ngửa như chiếc lá giữa dòng, đi về đâu chẳng biết, đến nơi nào không hay… Thế là ta đã để cho ngoại vật làm chủ lấy mình – Còn ta nô lệ vào nó, bị nó vo tròn bóp méo ra sao cũng mặc!
Là ta đấy ư?! Một ta biết suy nghĩ đắn đo, biết phân biệt phải trái nên hư, biết tự răn mình ăn ngủ đúng giờ giấc để giữ gìn sức khỏe, biết suy biện cho sáng suốt, thanh tao để tôi dưỡng cái Tâm – Muốn nâng cao tâm hồn mình lên, để thoát ra ngoài cái dung tục của cuộc đời…
Thế mà một lúc nào đó để cho mình chìm đắm, đọa trầm – để bị lôi kéo theo ngoại vật giống như con ngựa kia bị gắn hàm thiếc đứng trước chiếc xe, kéo xe đi đằng sau nhưng kỳ thực đang bị chiếc xe làm chủ, bị nó đùn đẩy ra đi – mà không biết về đâu!
Sao ta không chịu làm chủ lấy thân tâm, an nhiên tĩnh tại – vượt ra ngoài lẽ thường tình, không để giả trần lôi cuốn , chẳng bị hư tâm quấy nhiễu…Ta trụ lại giữa đời, ngắm phù vân trôi qua ngoài cửa, nhìn lưu thủy cuốn xác lá xuôi dòng – Đói thì ăn, ăn đủ no – không cầu miếng ngon vật lạ. Khát thì uống, không cầu hương vị sắc màu…An uống ngủ nghĩ, suy tư và hành động đều tự nhiên nhẹ nhàng, cốt đơn giản, đừng rối rắm. Như cánh hoa ngoài sân kia – tới lúc nở thì hoa nở đâu đợi gió chờ mưa, đâu bì Xuân nán Hạ…Hoa nở rồi hoa tàn cũng là lẽ tự nhiên, việc chi phải để lòng vướng bận?
Không để cho ngoại cảnh chi phối, không để cho nội tâm dằn xé mình. An khi đói, uống khi khát – buồn ngủ thì đi ngủ. Hứng chí thì nửa đêm chỗi dậy mà làm Thơ!... Hành xử theo lẽ tự nhiên, ấy là ta làm chủ được thân tâm rồi vậy - An nhiên tự tại, lẽ nào không thoát được vô thường…
Không cần chí lớn tài cao để làm nổi đình nổi đám, không cần huênh hoang khoác lác để chọn lấy hư vinh. Mặc chiếc áo bình thường, nệ chi cửa sang hèn lai vãng. Xử sự cho khiêm cung, hòa ái thì đâu có ai ganh ghét, thị phi! Đừng muốn ngồi ghế cao thì đâu có người chực bê xuống thấp, không tranh biện thì chẳng kẻ hơn thua…Thế chẳng phải đời sống sẽ trở nên đơn giản, nhẹ nhàng – tâm tư cũng bình yên, an tịnh! Ví như người đi chân trần trên nền đất, bước nhẹ nhàng hoãn đãi không trì gấp, nặng nề thì cho dẫu đá sỏi dọc đường, có gì chọc thủng được bàn chân đang nhẹ bước!
Ay là ta làm chủ được thâm tâm, tiến tới làm chủ được ngoại cảnh rồi vậy. Há chẳng phải cuộc đời nầy đáng sống lắm ru!!...
20/02/2003
CHUYỆN ĐÀN CHIM THIÊNG
Đàn – Chim – Thiêng!
Bay qua giấc mơ về sáng
Mộng lành thoáng hiện
Tiếng ai cười trong mơ...
Đàn – Chim – Thiêng!
Lạc vào miền cổ tích
Bên lá hoa trầm tịch
Đôi cánh màu long lanh
Đàn – Chim – Thiêng!
Bay về phương nắng ấm
Bỏ lại giữa lòng đất lạnh
Vài nhánh lông muộn phiền...
Đàn – Chim – Thiêng!
Đùa mây rẽ gió
Quên giấc mơ trần thế
Đàn chim Thiêng về nhà...
Còn lại nơi đây – hôm qua
Giọt máu hồng tươi màu lửa
Mũi tên lạnh lùng xé gió
Cánh mây ngang trời vội đau!!
... Đàn – Chim – Thiêng
Đi đâu – về đâu?...
15/12/2009
THÔNG ĐIỆP TÌNH YÊU
Tấm thiếp mừng Valentine
Bay từ trời phương Bắc
Qua bao chặng dừng – thấm mệt!
Nằm in một góc trang Thơ. .
Mười – Bốn – Tháng – Hai, ngày Hội Tình Yêu
Triệu triệu đóa hồng chuyển tiếp
Mang thông điệp của Tình Yêu – Hạnh Phúc
Đi cùng khắp nhân gian... hơi ấm buổi xuân về!
Nới rộng vòng tay, vun đắp tình người
Để trái tim thêm một lần rộng mở
Để ta lại… như lần đầu bỡ ngỡ
Nói lời yêu: yêu Bạn, yêu Em!
Yêu Nàng Thơ giữa thao thức từng đêm
Yêu chiếc áo sờn vai ngày khốn khó
Yêu giọt nắng len vào khung cửa nhỏ
Yêu sợi mưa chiều gợi nhớ bâng khuâng
Yêu người hôm qua mới được làm quen
Yêu đôi mắt… từ lâu không gặp nữa
Yêu cánh gió (khi chưa làm giông bão)
Yêu trùng dương (ngày chẳng dậy phong ba)
Yêu những điều tốt đẹp có quanh ta
Yêu cú ngã… Làm thăng hoa cuộc sống
Yêu cái bắt tay đổi thù thành bạn
Yêu mọi sắc màu đậm nhạt long lanh!
... Để Tình Yêu là ngọn lửa song hành
Là hơi ấm xua tan mùa băng giá
Là tuôn chảy, hòa tan... tràn vũ trụ…
Thông điệp Tình Yêu ta gởi bạn hôm nay.
Ngày Valentine Mười Bốn – Tháng Hai!!
14/02/2010