Hà Mạnh Hùng

Hội viên
  • Số nội dung

    514
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Hà Mạnh Hùng

  1. Sanathana Sai Sanjeevini Sanjeevini là một phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc xuất sứ từ Ấn độ. Đây là một phương pháp khác thường vì hết sức đơn giản trong vận dụng nhưng hiệu quả được những người tin dùng đánh giá là cực kỳ mạnh. Có thể xếp loại Sanjeevini vào những phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng. Tùy theo góc độ lý thuyết và cách nhìn trường phái người ta có thể xếp Sanjeevini vào các ngành y năng lượng (energy medicine), y cộng hưởng sinh học (bioresonance medicine), dao động liệu pháp (vibration medicine), cảm xạ liệu pháp (radionics) hoặc liệu pháp tinh thần. Để tránh tranh cãi lý luận về bản chất vật lý của phương pháp không giúp ích gì cho người bệnh, tôi dựa trên những tư liệu tìm được và những thử nghiệm cá nhân trình bầy tóm tắt tất cả những gì cần thiết và đủ dùng cho người muốn vận dụng phương pháp Sanjeevini chữa bệnh cho mình, cho người thân của mình, cho những người cần giúp đỡ dù là điều trị tại chỗ hay chữa bệnh từ xa (như trong phương pháp radionics). Phương pháp Sanjeevini sử dụng những thẻ đã được nạp sẵn năng lượng. Thoáng trông, thẻ chỉ là những tấm bìa trên có hình tròn đường kính từ khoảng 5 cm trở lên xung quanh có chín cánh hoa sen. Trong vòng tròn có code là những vạch hướng tâm đặc trưng cho bệnh được chữa khỏi bằng chính thẻ ấy. Như vậy biểu tượng trên thẻ rất đơn giản, đơn giản một cách đáng ngạc nhiên nhất là với những người quen với các lá bùa thường thấy ở Việt Nam. Đừng xem thường biểu tượng đơn giản trên thẻ, vì những thẻ Sanjeevini là vật mang tâm nguyện xin chữa bệnh (một bệnh tật nào đó). Tâm nguyện này dẫn đến sự tích lũy một năng lượng điều trị rất lớn trong thẻ. Khi người muốn chữa bệnh tập trung tinh thần vào một thẻ nhất định và phát biểu tâm nguyện của mình, năng lượng chữa bệnh trong thẻ đó sẽ được giải phóng. Chỉ trong một thời gian tối thiểu là 15 giây Năng lượng điều trị được giải phóng đó sẽ được chuyển tiếp vào một phương tiện trung gian như chén nước, cái kẹo, viên đường... Người bệnh uống nước, ăn kẹo hay viên đường đó để nhận lấy năng lượng điều trị cho căn bệnh của mình. Năng lượng điều trị cũng có thể được nạp vào hình ảnh hay một mảnh giấy có đủ số liệu nhân thân của một người vắng mặt để thực hiện chữa bệnh từ xa. (Đến đây, người Việt Nam chúng ta sẽ nhận ra những nét song song với các phương pháp chữa bệnh dân gian truyền thống hoặc như cách chữa của cụ Trương Cần, một lương y có tiếng những năm 70 mươi tại Hà Nội.) Từ những đặc điểm nói trên Người Ấn độ định nghĩa Sanjeevini: - là một món quà của Tự nhiên Vĩ đại - là những năng lực điều trị có dạng sóng tế vi - là một hệ thống điều trị có tính tâm linh - là những tâm nguyện được thể hiện bằng biểu tượng - là một phương pháp cực kỳ đơn giản và mãnh liệt thức tỉnh các sinh lực tự phục hồi tiềm tàng trong mỗi người và tác động cả trong khi thức tỉnh, trong mơ và trong khi ngủ say trên cả ba bình diện cơ thể: bình diện sinh học, bình diện tinh thần và bình diện tâm hồn. Thần Hanuman, biểu tượng của hệ thống điều trị Sanathana Sai Sanjeevini Một trong những thánh thư của người Ấn là bộ sách đồ sộ Ramayana nói về thượng thần Rama. Trong sách có nói đến cuộc chiến đấu cuối cùng của Rama với các thế lực đen tối của hung thần Ravana; trong trận này người em của Rama là Laxmana đã tử trận. Để Laxmana hồi sinh, Thần Hanuman trong hình dạng một hầu vương đã nhận lệnh đến mờ sáng hôm sau phải tìm được một cây thuốc có tên là Mrutsanjeevi. Theo truyền thuyết, cây thuốc này mọc trên một ngọn đồi gần núi Kailash năm sâu trong dãy Himalaya. Sách kể rằng thần Hanuman đã bay đến ngọn đồi nói trên nhưng không nhận dạng được cây thuốc nên – để cho chắc chắn – thần đã cắp nách cả đồi lẫn núi mà bay về gặp thượng thần Rama. Khi tới nơi, hương thơm (hoặc sóng dao động đặc trưng) của cây thuốc Mrutsanjeevi đã phút chốc làm hồi sinh không những Laxmana mà tất cả chiến sĩ tử trận trên cánh đồng Lanca. Vì thế thần Hanuman với sự tận tụy phục vụ người bị nạn và năng lượng cứu chữa vĩ đại của cây thuốc Mrutsanjeevi được đưa vào làm biểu tượng của hệ thống điều trị Sanathana Sai Sanjeevini. Nhận thức nói trên cần thiết để người sử dụng phương pháp Sanjeevini thoát khỏi những vướng mắc về hệ thống tín ngưỡng mà tiếp nhận Sanjeevini theo nhãn quan của mình. Sự hình thành hệ thống điều trị Sanjeevini Sự ra đời của phương pháp Sanjeevini gắn liền với cuộc đời của Bà Poonam Nagpal, một phụ nữ Ấn sinh năm 1950 . Sau khi tốt nghiệp đại học về thương mại bà Poonam làm việc với tư cách một nhân viên trong ngành ngân hàng, sau đó bà cùng chồng là Vinod chuyển sang Dubai và phụ trách phòng tín dụng của một ngân hàng đa quốc gia. Năm 1980 bà sinh đứa con đầu. Mới 7 ngày sau khi sinh đứa trẻ đã xuýt chết vì nhận một liều thuốc liệu pháp đối chứng. Từ đó bà Poonam đã thề sẽ không bao giờ mù quáng tin vào một thầy thuốc và tự nhận trách nhiệm lo lắng chăm sóc sức khoẻ cho tất cả thành viên gia đình mình. Bà đã học các phương pháp chữa bệnh phi chính thống như Liệu pháp đồng căn (homoeopathy), các phương pháp điều trị cổ Ayurveda, cách dùng các muối khoáng theo bác sĩ Schuessler... và vận dụng ngay vào việc chữa bệnh cho những người xung quanh. Năm 1985 là một bước ngoặt đột xuất trong cuộc đời bà Poonam. Từ nhiều năm nay người Ấn sùng bái một người được xem là hậu thân của thánh Sai Baba và cũng mang tên như vậy: Sathya Sai Baba. Thánh nhân này được người khắp nơi trên thế giới ngưỡng mộ. Người ta kinh ngạc thấy ông lấy trong không khí ra một chiếc nhẫn vàng để trao tặng cho một khách xin diện kiến ... Sri Sathya Sai Baba đã liên hệ tinh thần với Poonam và giải thích cho Bà hiểu rằng chính Tự nhiên Vĩ đại đã điều trị con người còn bà Poonam chỉ là phương tiện. Bà tin lời Sai Baba đã nói „Phục vụ con người chính là phục vụ Đấng Tối cao.“ và hành sử theo đúng tinh thần đó. Năm 1993 trong giấc ngủ bà Poonam nhận được thông điệp của Sai Baba bảo bà trở về Ấn độ vì ở đó sẽ có nhiều việc chờ đợi bà. Thế là cả gia đình Poonam lục tục về Ấn không hề biết có gì chờ đợi. Đầu tiên họ về Latur để săn sóc những người bị nạn động đất. Từ năm 1994 Poonam và chồng bà thuyết trình nhiều buổi miễn phí về các phương pháp chữa bệnh truyền thống và các cơ sở của phương pháp trị liệu đồng căn. Đây chính là những phương pháp an toàn, hợp với tự nhiên và với túi tiền những người ngèo khó. Hồi ấy, để thực hiện liệu pháp đồng căn người ta sử dụng các thiết bị Cảm ứng trị liệu (Radionics). Những thiết bị kỹ thuật điện và điện tử này (thực ra chẳng liên quan lắm đến kỹ thuật, những ai tìm hiểu sâu về Radionics sẽ nhận ra điều này) giá rất đắt và sử dụng cũng không đơn giản (Các hệ thống máy radionics sản xuất tại Anh, Đức, Thụy sĩ, Mỹ... hiện bán trên thị trường có giá từ vài ngàn đến vài chục ngàn USD). Hơn nữa, muốn vào các khu ổ chuột để chữa bệnh cho người cũng cần có một mảnh bằng cho phép hành nghề thầy thuốc, đó là một điều kiện không phải tình nguyện viên nào cũng đáp ứng được dù tình nhân ái của họ cao đến đâu đi nữa. Trước những khó khăn này bà Poonam cầu nguyện xin một giải pháp. Trong lúc ngủ bà đã lại nhận được thông điệp hãy chấm dứt việc điều trị bằng liệu pháp đồng căn và liệu pháp Cộng hưởng sinh học. Bà được thông điệp xây dựng một hệ thống điều trị mới hoàn toàn dựa trên cơ sở tâm nguyện. Phương pháp điều trị phải thực sự đơn giản khiến bất cứ người bình thường nào cũng có thể vận dụng vào chữa bệnh cho người và cho mình. Muốn đạt được mục tiêu như vậy việc sử dụng những thẻ điều trị được coi là cơ bản của phương pháp điều trị. Tất cả các thẻ Sanjeevini đều có một biểu tượng cơ bản thiêng liêng nhưng quen thuộc với nhiều nước Á châu là hình hoa sen có chín cánh. Tùy theo bộ phận cơ thể và loại bệnh trên thẻ sẽ có các vạch Code tương ứng. Bà Poonam được hướng dẫn cầu nguyện để năng lượng của Tự nhiên (theo cách gọi của người không tín ngưỡng hoặc có thể gọi theo tên Thượng đế của tôn giáo người có tín ngưỡng) được thu nhập và tích lũy trong biểu tượng của từng thẻ. Năng lượng điều trị sẽ ở lại mãi mãi trong những biểu tượng này dù đó là chỉ là những hình được sao chụp lại. Theo con đường nói trên bà Poonam và những người kế tục đã hoàn thành 246 thẻ Sanjeevinis, trong đó 60 thẻ dành cho các thành phần cơ thể và 186 thẻ cho các chứng bệnh. Với những thẻ này và kết hợp chúng với nhau một người bình thường có thể thực hiện nhanh chóng các bước điều trị một bệnh tật nhất định trên một bộ phận cơ thể nhất định. Cách đơn giản nhất là hãy để một cốc nước lên thẻ tương ứng với bệnh tật và tập trung tinh thần vào một lời tâm nguyện xin được chữa khỏi bệnh. Tại sao ta phải có một lời tâm nguyện hoặc cầu nguyện. Ít nhất khi phát ngôn một lời tâm nguyện ta đã thể hiện sự quyết tâm không chút lưỡng lự khắc phục bệnh tật và niềm tin (trong một chừng mực nào đó) sẽ khắc phục được bệnh tật. Mặt khác trong lúc phát ngôn lời nguyện ngay cả người thường sao nhãng cũng đã tập trung tinh thần ở một mức độ nhất định. Vậy mà sự tập trung tinh thần có ý nghĩa quyết định đối với thành bại mọi sự nghiệp của con người, chẳng lẽ lại không thể có tác động quyết định đối với phát huy sinh lực phục hồi cơ thể. Có nhất thiết phát ngôn lời tâm nguyện không? Chắc là có. Khi phát ngôn dù nói nhỏ chỉ tai ta nghe thấy ta cũng phải chăm chú lắng nghe tăng mức tập trung tư tưởng. Hơn nữa lời nói cũng là một hành động có tác động và di ảnh của nó (Ở Thụy sĩ đã tiến hành những thí nghiệm chứng tỏ những lời cầu nguyện từ xa cũng có ảnh hưởng lên sóng não một người.). Chẳng phải là ngay trong đời thường một câu nói cũng có thể gây động trời đó sao! Một lời cầu nguyện nghiêm trang nhất định có tác dụng mạnh hơn một cầu nguyện chỉ trong ý nghĩ. Lời tâm nguyện đó có thể được phát biểu tùy tâm và tùy tín ngưỡng, thí dụ như: - Người bệnh là ...... có bệnh ....... cầu xin ý định của Tạo hóa được thực hiện! - Phật tử/Giáo đồ ...............có bệnh ............. cầu xin được như ý định của Đấng tối cao. Tại sao không xin chữa lành bệnh mà chỉ xin được chứng ý định của Tự nhiên. Phần dưới sẽ có giải thích điều này. Trong các trang web về Sanjeevini người ta dành nhiều lời ca ngợi tác dụng của phương pháp này như „kỳ diệu“, „đáng kinh ngạc“, „tác động tức thời“ vv. Chỉ cần sao chụp lại những thẻ Sanjeevini mỗi người có thể tiến hành chữa bệnh nhanh chóng cho mình hoặc cho người khác vào tất cả các thời điểm cần thiết ở bất cứ nơi nào. Các thẻ Sanjeevini có thể được xem như một tủ thuốc gia đình lưu động, vì ngoài ra ta chỉ cần thêm vài cái lọ chất dẻo, ve thủy tinh nhỏ trong đựng một chút đường hoặc cát sạch là cùng... Bà Poona đã mất ngày 4. tháng 10 năm 1999 tại Delhi, thủ đô nước Cộng hoà Ấn độ. Chúng ta cảm ơn bà đã giầu lòng hy sinh cho những người khốn khổ và do đó đã được chọn làm người truyền đạt hệ thống điều trị Sanjeevini. Gia đình của bà vẫn tiếp tục sự nghiệp phát triển phương pháp điều trị này và giữ quan hệ với những người vận dụng phương pháp Sanjeevini trên toàn thế giới. ----Poonam Nagpal------------------------------SAI BABA------------- Sự hình thành các thẻ Sanathana Sai Sanjeevini Các thẻ Sanjeevini đã được hình thành bằng phương pháp như trong lĩnh vực cảm xạ. Là người có tín ngưỡng chân thành Bà Poonam Nagpal đã chân thành cầu nguyện Đấng Tối Cao xin được chỉ dẫn để tìm ra những biểu tượng đặc trưng cho năng lượng phục hồi của vũ trụ. Bà cầu xin Thượng đế ban cho năng lượng thiêng liêng Sanathana: • là nguồn của các năng lượng tái tạo đã biết và chưa biết trong tự nhiên. • là năng lượng chữa lành một bệnh nhất định, phục hồi một bộ phận thân thể nhất định trên tất cả các bình diện của tồn tại. • là năng lượng chữa lành tất cả những nguyên nhân, triệu chứng, ảnh hưởng thể hiện ra trên từng bộ phận cơ thể dưới dạng bệnh tật. Một thân thể suy nhược vì bệnh tật có thể ảnh hưởng vượt ra ngoài phạm vi thể xác như về mặt tài chính nên lời cầu nguyện của bà Poonam cũng bao gồm cả các ảnh hưởng loại này. Lời cầu nguyện của bà Poonam còn mở rộng ra hơn nữa. Tinh thần chính của phương pháp Sanjeevini là sự tin tưởng ở sức mạnh vĩnh hằng của Tự nhiên, tức là bệnh tật sẽ được chữa lành đến mức được phép, phù hợp với những quy luật sâu xa của Tự nhiên mà người theo đạo gọi là Ý chỉ của Thượng đế. Vì thế khi cầu nguyện người ta xin được chứng nghiệm ý định của Thượng đế và không xin lành bệnh (Ta biết rằng bệnh tật không nhất thiết là một sự trả giá cho Nghiệp mà đôi khi là một trải nghiệm cần thiết để phát triển cá nhân.). Bà Poonam đã cầu nguyện khi lập các thẻ Sanjeevini với tinh thần như vậy và người theo phương pháp này phải hiểu rõ điều đó khi thực hiện các thủ tục chữa bệnh cho mình hay cho người. Những thành phần của hệ thống trị liệu Sanjeevini: Hệ thống trị liệu Sanjeevini bao gồm nhiều lĩnh vực liên quan như dinh dưỡng, thực phẩm,... Trong phạm vi hạn chế của bài giới thiệu này chỉ có thể đi sâu trình bầy cách dùng các thẻ Sanjeevini vào việc chữa bệnh. A.) Các loại Thẻ Sanjeevini 1. Thẻ các bộ phận cơ thể (BPS) Có tất cả 60 thẻ DB liên quan đến 60 bộ phận của cơ thể như tay, chân, tim, phổi, hệ miễn dịch, vv. Khi bệnh ở phần thân thể nào ta phải chọn thẻ tương ứng phần cơ thể đó. 2. Thẻ các chứng bệnh (DB) Có tất cả 186 thẻ DB cho 186 chứng bệnh khác nhau, như bệnh đường tiêu hóa, bệnh ung thư vv. Khi tiến hành điều trị thí dụ bệnh đau khớp gối chân chẳng hạn, trước hết ta chọn một đối tượng trung gian để nạp năng lượng chữa bệnh vào đó thí dụ chọn một cốc nước trà hay một quả cam. Sau đó ta tìm thẻ BPS của chân và đặt đối tượng trung gian lên giữa biểu tượng của thẻ rồi tập trung tinh thần đọc lời tâm nguyện tùy theo quan niệm của từng người. Sau 15 giây ta đã có thể lấy đối tượng ra khỏi thẻ BPS. Nếu còn đau cả ở khớp cổ chân, ta nên tiếp tục đặt đối tượng lên thẻ BPS tương ứng. Tiếp theo đó, ta chọn thẻ bệnh DB cho chứng đau khớp nói chung và đau khớp gối hoặc thêm cả thẻ bệnh thấp khớp chẳng hạn rồi lần lượt đặt đối tượng thu năng lượng lên các thẻ này, mỗi lần trên 15 giây kèm theo việc tập trung tinh thần đọc lời tâm nguyện. Cuối cùng người bệnh có thể uống cốc nước hoặc ăn quả cam đó để nhận năng lượng trị liệu vào cơ thể của mình. Tuy thời gian nạp năng lượng trên mỗi thẻ chỉ cần trên 15 giây, khi chữa một bệnh còn phải chọn thêm các thẻ tổ hợp cần thiết khác như về máu huyết, tinh thần vv. nên cũng tốn nhiều thời gian tập trung tinh thần. Mặt khác năng lượng được đối tượng thu nạp không bao giờ mất hoặc hao hụt nên để tránh việc lặp lại các bước nạp năng lượng nói trên cho mỗi lần điều trị cách tốt nhất là dùng đối tượng đã nạp năng lượng làm mẫu để truyền năng lượng nhiều lần cho các đối tượng tiêu thụ. Để làm việc này ta có thẻ Sao và Chuyển tiếp Năng lượng (SCN). Thẻ SCN có hai vòng tròn, vòng trái được quy định đặt mẫu hoặc bản gốc và trên vòng đặt bản sao ta có thể đặt một cốc nước hay một thực phẩm khác. Thủ tục thực hiện là tâm nguyện xin chuyển tiếp năng lượng được hoàn hảo. Sau 15 giây, quá trình chuyển giao năng lượng kết thúc. Để tránh cốc nước hay bản sao trước đó đã có một năng lượng nhiễu ban đầu, ta hãy đặt cốc nước này lên thẻ Trung hòa (neutralize) trong 15 giây, sau đó mới tiến hành chuyển tiếp năng lượng. Như đã nói, năng lượng bản mẫu không bao giờ hao hụt, nên người ta có thể nạp sẵn năng lượng chữa một số bệnh thông thường vào những lọ chất dẻo nhỏ chứa đường, cát hay vật liệu thích hợp để mang theo mình khi đi xa. Khi cần điều trị bệnh chỉ cần thực hiện chuyển tiếp năng lượng vào đối tượng thích hợp. Điều trị từ xa: Khi cần điều trị từ xa cho một người (hoặc một sinh vật nào đó như một con chó chẳng hạn), ta đặt bản Gốc tương ứng lên vòng tròn dành cho nó trên thẻ Sao SCN và để vào vòng nhận năng lượng chuyển tiếp một bức ảnh của đối tượng cần điều trị. Cũng có thể ghi đầy đủ các số liệu nhân thân của đối tượng lên một mảnh giấy thay thế cho bức ảnh. Điều cần ghi nhớ là kích thước đối tượng dùng làm bản sao có thể to vượt ra khỏi vòng tròn quy định. Mặt khác ta cũng có thể phóng đại kích thước Thẻ SCN. Dù đối tượng này to thế nào đi nữa thời gian chuyển tiếp năng lượng tối thiểu cần thiết vẫn là 15 giây. Khả năng này cho ta cung cấp những lượng dược liệu lớn cho số đông người cần trị liệu một chứng bệnh hoặc cho việc phục hồi một vườn cây. Cách dùng Thẻ Trung hòa: Thẻ Trung hòa còn được dùng để trung tính hoá các thực phẩm, đồ uống, dược liệu khiến chúng mất tính độc hại. Khi làm việc này ta phải tập trung tinh thần và phát nguyện rõ ý định trung hòa tất cả các giao động âm tính trong đối tượng. Người ta có thể đặt cả một túi các thực phẩm mới mua ngoài chợ về lên thẻ để phát nguyện xin trung hòa độc tính. Thẻ cuối cùng là Thẻ Toàn thể Thẻ này được dùng để nạp năng lượng tốt cho toàn (cơ) thể sau khi đã thực hiện bước trung hòa. Lời tâm nguyện là xin được nạp năng lượng mới cho toàn cơ thể. B.) Các tổ hợp thẻ Khi chữa một bệnh ở một vùng thân thể không thể chỉ dùng một thẻ BPS cho vùng thân thể đó và một thẻ bệnh tật DS tương ứng. Ta nên dùng các tổ hợp thẻ là những thẻ cần vận dụng kết hợp với nhau cho một loại bệnh tật nào đó (Thẻ sao chụp lại cũng có đầy đủ tác dụng.). Quý vị có thể lấy xuống (download) và in ra các thẻ BPS cũng như DS và các tổ hợp thẻ để sử dụng từ các nguồn pdf dưới đây trong www.saisanjeevini.org: 60 Thẻ Sanjeevini bộ phận cơ thể (BPS=Body Part Sanjeevini): 186 Thẻ Sanjeevini chứng bệnh (DS=Disease Sanjeevini): Ngoài ra còn có những tổ hợp thẻ dành cho việc chữa từng nhóm bệnh nhất định. Các tổ hợp thẻ chỉ có tác dụng giúp ta không mất thì giờ suy nghĩ tìm chọn các thẻ thích hợp cho một căn bệnh. Muốn có tài liệu đầy đủ hơn, người biết tiếng Anh cần tham khảo trang web của Hội Sanjeevini Ấn độ là www.saisanjeevini.org. Có thể download các thẻ từ trang web gốc này để in hoặc photokopie thành nhiều phiên bản sử dụng. Hội Sanjeevini có địa chỉ: Sai Sanjeevini Foundation C4 - 4100 Vasant Kunj New Delhi 110070 India Tel: 91-11- 26132389 mob: 9868117238 Email: saisanjeevini@rediffmail.com Hội đã biên soạn một cuốn hướng dẫn vận dụng phương pháp Sanjeevini dày khoảng 300 trang. Có thể download cuốn này từ trang web có địa chỉ đã nói trên. Bài viết này là bản tóm tắt có đối chiếu dựa trên cơ sở cuốn sách của hội Sanjeevini. Tại hội nghị Sanjeevini từ ngày 30.09. đến ngày 01.10.2006 tại Saalfelden/Maria Alm ông Vinod Nagpal chồng bà Poonam đã gửi đến qua e-mail bốn Thẻ Sanjeevinis mới là Prema, Satya, Dharma và Honesty. Cần ghi nhớ là phương pháp trị liệu Sanjeevini không phụ thuộc vào một tôn giáo nào, nên người vận dụng có thể tùy ý tập trung tinh thần và tâm nguyện theo quan điểm tín ngưỡng của riêng mình. Trịnh Phong phỏng dịch và biên tập
  2. Một số tổ hợp SANJEEVINI thông dụng (SSC) Dưới đây là chi tiết một số tổ hợp SANJEEVINI thông dụng (SSC) mà có thể được sử dụng để chữa khỏi đa số bệnh thông thường. Xin đọc hết những sự kết hợp này thật kỹ- nhiều bệnh được đề cập dưới mỗi tiêu đề chính. Đây là bảng tham khảo chính của các bạn. Tổ hợp Sanjeevini có thể được sử dụng như thuốc phòng bệnh và có thể rất có ích khi có những bệnh dịch như Bệnh cúm, Bệnh tả, Bệnh phát ban Gà, Bệnh sởi, Bệnh sốt rét vân vân. Những tổ hợp đó cũng là thuốc phòng bệnh và điều trị. Chú ý: những tổ hợp dẫn xuất (sub) được liệt kê ở dưới đây được mô tả bên trong các Tổ hợp Cơ bản. Tổ hợp Cơ bản là cơ sở cho những tổ hợp dẫn xuất và cũng được sử dụng như cơ sở cho MỌI bệnh liên quan- những tổ hợp này có thể được thay đổi theo những yêu cầu của các bạn, có thể thêm các thẻ Sanjeevinis khác khi cần thiết SSC 1- Shakti Shanti Sarva (Sức mạnh Tối cao và Bình yên), bao gồm cả Giận dữ, Lo lắng, Buồn chán/Trầm cảm, Thực thể (Entities), Sợ hãi, Kích động, Phân vân, Ám ảnh, Phẫn uất, Bệnh tâm thần phân liệt, Mất ngủ, Căng thẳng, Bạo lực SSC 2 - Dị ứng, bao gồm cả Sốt Hay (Hayfever), Chứng mề đay, Bệnh hen Dị ứng SSC 3 - Thiếu máu các loại SSC 4 - Bệnh về lưng, bao gồm cả Viêm đốt sống, Đau đĩa đệm thần kinh hông, Chứng đau lưng, Cứng khớp vai. SSC 5 - Đái dầm SSC 6 - Chảy máu hay xuất huyết, bao gồm cả Chảy máu mũi (máu cam), Chảy máu Tử cung, Chảy máu Tuyến tiền liệt, Vết thương hở SSC 7 - Bị cắn hay côn trùng đốt SSC 8 - Huyết áp cao SSC 9 - Huyết áp thấp SSC 10 - Chức năng não bộ, bao gồm cả Chậm tâm thần, Chậm phát triển, Tự ái, Hội chứng Đao, Bệnh động kinh, Bệnh Parkinsons, bệnh xơ cứng rải rác, Cải thiện trí nhớ, Chứng loạn trí, Căng thẳng trong kỳ thi, Hôn mê SSC 11 - Bỏng SSC 12 - Thận và bài tiết, bao gồm cả Viêm ống tiết niệu, Suy thận, Sỏi thận (hay sỏi ống tiết niệu) SSC 13 – Cảm cúm và xoang SSC 14 – Táo bón, bao gồm cả bệnh Trĩ SSC 15 – Đái tháo đường các loại SSC 16 – Bệnh đường tiêu hóa, SSC 17 – Bệnh tai, bao gồm cả Điếc, Ù tai, Mủ trong tai SSC 18 – Cấp cứu SSC 19 – Mắt, bao gồm cả Bệnh viêm kết mạc, Suy giảm thị lực, Quáng gà, Loạn thị, Đục thủy tinh thể, Lẹo mí mắt, Bệnh tăng nhãn áp, Mù do tổn thương, Lác mắt, Chảy nước mắt, Khô mắt SSC 20 – Bệnh phụ nữ, bao gồm cả Bệnh bạch đái, Bệnh tuổi dậy thì, Bệnh thời kỳ mãn kinh, Rối loạn kinh nguyệt, Mang thai, Sinh đẻ, Dọa sảy, Xơ hóa, U, U nang tử cung, Vô sinh, Căng thẳng trước kinh nguyệt SSC 21 – Sốt, bao gồm cả Bệnh sốt rét, Bệnh phát ban, Bệnh thương hàn, Sốt gà, Bệnh sởi, Quai bị, Viêm amiđan, Bệnh bạch hầu, Sán chỉ, Bệnh ban đỏ, Viêm màng não SCC 22 – Bệnh tuyến, bao gồm cả AIDS, Ung thư, u bướu SSC 23 – Bệnh tóc, bao gồm cả Chấy, Gầu SSC 24 – Đau đầu, bao gồm cả chứng đau nửa đầu SSC 25 – Bệnh tim, bao gồm cả Đau thắt, Xơ cứng động mạch, Vữa xơ động mạch, Hồi hộp, Hở van tim SSC 26 – Chấn thương ngoài SSC 27 – Bệnh gan, bao gồm cả Bệnh vàng da (bao gồm mọi kiểu bệnh viêm gan), Sỏi mật, Bệnh xơ gan SSC 28 – Bệnh phổi và ngực, gồm cả Bệnh viêm phế quản, Ho, Viêm phổi, Bệnh lao, Lao sơ nhiễm (bắt đầu của Bệnh lao), Bệnh hen, Viêm phổi dịch, Thiếu ôxy trong máu SSC 29 – Bệnh nam giới, gồm cả Bệnh tuổi dậy thì, Tuyến tiền liệt, Tràn dịch tinh mạc, Vô sinh SSC 30 – Liệt, gồm cả Liệt não, Viêm tủy xám SSC 31 – Mủ và chảy dịch, gồm cả Mụn bọc, Áp xe, Hở khe, Rò SSC 32 – Thấp khớp, phong thấp và Gút SSC 33 – Bệnh ngoài da, gồm cả Bệnh vảy nến, Bệnh chàm, Nấm ( Bao gồm bệnh nấm da, Nấm ngứa Dhobi, Hăm), Chứng mề đay (dạng hầm và dạng tổ ong), Chứng lang ben, lang trắng, Mụn giộp ecpet, Bệnh zona, Đơn hình Bệnh mụn rộp, Bệnh ghẻ SSC 34 – Say nắng SSC 35 – Bệnh răng lợi, gồm cả Bệnh sâu răng, trẻ mọc răng, Bệnh sưng nướu và chảy máu chân răng SSC 36 – Bệnh tuyến giáp, gồm cả Bướu giáp đơn, Tăng năng tuyến giáp, Thiểu năng tuyến giáp SSC 37 – Viêm amiđan và các bệnh về họng, gồm cả Ho khan và viêm amiđan có mủ SSC 38 – Viêm loét, gồm cả viêm loét bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, hay các chỗ khác vì vết thương cũ hay ung thư SSC 39 – Nôn mửa SSC 40 – Nghiện các loại, gồm cả Nghiện rượu bia cồn và các chất liên quan, nghiện Cà phê và có liên quan, nghiện thuốc lá, nicôtin và có liên quan, nghiện ma túy, thuốc và các dạng có liên quan SSC 41 – Biếng ăn SSC 42 – Viêm ruột thừa SSC 43 – Bệnh lậu SSC 44 – Thoát vị SSC 45 – Mất kiềm chế, gồm cả mất kiềm chế đại tiểu tiện, mất kiềm chế sinh dục, mất kiềm chế ham muốn các loại SSC 46 – Bệnh phong SSC 47 – Suy nhược SSC 48 – Rối loạn cơ SSC 49 – Béo phì SSC 50 - Polip SSC 51 – Nhiễm trùng máu SSC 52 – Giang mai SSC 53 – Phù nề SSC 54 – Ho gà SSC 55 – Vắc xin giải độc SSC 56 – Rối loạn xương, gồm cả Gãy xương, Loãng xương, Nhiễm flo, Bệnh sưng đốt, Tăng trưởng xương, Gai xương SSC 57 – Trẻ hóa đất canh tác SSC 58 – Chim và động vật, gồm cả nhiễm bét & bọ chét, Chó cắn bậy, Bệnh lở ghẻ (của gia súc do ve họ Sarcoptidae đốt), PFBD (bệnh mỏ chim và lông chim) Chúng tôi gợi ý rằng bạn giữ một số hay tất cả hay ít nhất là những tổ hợp thường sử dụng nhất của SSC sau đây để sẵn sàng sử dụng dưới dạng VIÊN MẪU đựng trong những lọ nhỏ. Những mẫu có thể nhanh chóng được nhân lên khi cần để phát cho bệnh nhân. Cách thức làm điều này được mô tả dưới phần "Nhân bản từ tổ hợp mẫu SSC" Lưu giữ mẫu Điều quan trọng là cần sắp xếp để tìm kiếm dễ dàng những lọ chứa mẫu. Đơn giản nhất là sử dụng túi nilon (loại khóa zip kín miệng), bỏ vài mẫu trong mỗi gói. Gói số 1 chứa các tổ hợp từ 1 đến 10, gói số 2 chứa các tổ hợp từ 11 đến 20, và cứ thế Một cách chuyên nghiệp hơn là cất giữ những mẫu trong hộp bìa cứng hay hộp nhựa chia ô phân loại. Dịch từ: http://www.saisanjeevini.org/
  3. GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG Hàng năm cứ vào ngày mồng mười tháng ba Aâm lịch nhân dân cả nước nô nức kéo về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai mở nước Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi vào tâm thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Việt. Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một đời sống tâm linh siêu vượt. Người Việt cổ đã sớm nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra lẽ sống của cả một đời người nên không chỉ tin vào thần thánh mà còn tin vào chính con người. Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ cúng thần linh giúp cho cuộc sống còn thờ cả nhân thần là những người khi còn sống đã giúp dân giúp nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt người Việt có truyền thống thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi dưỡng mình thành người. Ngay cả ông Trời, đối với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên tôn thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa tưới xuống đất để hạt giống nảy mầm, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu đến “Trời ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn nhân cách hoá ông trời thân thương từ chân trời, lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc thang lên hỏi ông trời .. chứ không thần thánh hoá kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng Thượng đế toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát trên thượng giới và cả ở dưới trần gian nữa. Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold Cadìere đã nhận định về tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt Nam như sau:“Với người Việt, Trời không phải là một vị thần, ít nhất là trong quan niệm dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng đế tế trời một cách trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời hàng ngày bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm trời thấm sâu vào tâm tư người Việt và được biểu lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách minh nhiên đến nỗi ta không thể thấy rằng ý niệm trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong khi phương Tây với nền văn minh hết duy thần, duy linh, duy tâm, duy lý rồi duy vật. Nền văn minh vật chất thái quá khiến con người cảm thấy bất an nên thường đặt ra những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ đi về đâu? Chính những câu hỏi xa vời không bao giờ giải đáp được nên con người trở nên vô thần hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách vô thường. Với niềm tin đơn giản chân chất của người Việt cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ không phải do một thần linh nào từ trên trời. Chính vì thế phải biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình nên người. Bổn phận con người là phải hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra. Huyền thoại Rồng Tiên với Bố Lạc mẹ Aâu của Việt tộc, chúng ta cùng một bào thai mẹ Aâu, trăm họ cũng cùng từ một gốc Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả. Trên thế giới duy nhất chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng bào” nên đối với tha nhân chúng ta cũng dùng tình thân mà đối xử, mới gọi nhau là bà con cô bác như trong một nhà vậy. Khi sống phải biết tri ân thờ cúng ông bà cha mẹ để mai này khi ta có chết đi thì cũng về với ông bà cha mẹ mà thôi. Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh sâu thẳm, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả mà không một dân tộc nào có được. Từ ý thức tôn thờ Quốc tổ Hùng Vương và các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá đến ông bà tiên tổ đã tập đại thành ý thức cao độ về lòng yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ nhân thần và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu, đó chính là bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và cũng là đạo lý làm người của Việt tộc. Truyền thống cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn thấm đậm trong lòng dân tộc với bao thăng trầm biến đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay và mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc với tất cả lòng hãnh diện tự hào Việt Nam. Tự xa xưa, tiền nhân ta đã chọn ngay mồng mười tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là ngày của mẹ Tiên vì giỗ quốc mẫu Aâu Cơ vào ngày mồng 5 tháng 5 hàng năm.(10) Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là núi cả, núi cao nhất 175 mét trong quần thể 100 ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng triều Ngọc phả, Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì, Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang với thời Chu Linh Vương đời Đông Chu. Theo học giả Trần Quốc Vượng thì “Việt Trì và vùng xung quanh Vĩnh Phú là đỉnh cao nhất của tam giác châu sông Hồng. Sông Hồng là tên gọi muộn màng ở cuối thế kỷ thứ XIX do màu nước của sông này. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nó là Tây Đạo, cái tên chữ “Hán Việt” này là sự phiên âm từ một tên Tày cổ:“Nậm Tao” mà tên Việt hiện nay còn giữ được ở Việt Trì là sông Thao. Tam giác châu sông Hồng được giới hạn bởi dải núi Tam Đảo ở rìa Đông Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây Nam. Nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ cận địa lý học thì đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch Hạc ngoảnh mặt hướng biển hậu chấm xa là dải Hoàng Liên Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long” là dải Tam Đảo với dưới chân nó là sông Cà Lồ. Tay “Hổ” là dãy Tản Viên với dưới chân nó là sông Tích, sông Đáy. Trước mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ nhân” trên đôi bờ nhị thuỷ với các đầm lớn trũng lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên, ao Vua, suối Hai Sơn Tây … Thế đất đó bảo đảm một viễn cảnh phát triển ngàn năm, hơn bốn ngàn năn nếu tính từ người Việt cổ Phùng Nguyên đến ngày nay. Bao quanh điểm Việt Trì là những núi đồi lô nhô như bát cơm mà tư duy vũ trụ luận dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu về đất tổ”. Đền Hùng gồâm Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Lăng vua Hùng. Từ dưới đi lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám mái, hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm đao và chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225 bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây mẹ Aâu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành trăm người con trai. Bước thêm 168 bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi Nghĩa Lĩnh, theo tương truyền thì đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để cúng tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng thường hội các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước. Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở gian giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương Tổ miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải treo một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Nam, gian bên trái treo bức “Hùng Vương Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của vua Hùng. Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền Thượng. Đền Thượng có 4 nếp nhà:Nhà chuông trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên vòm cung cửa chính ra vào được trang trí phù điêu hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức hoành phi 4 chữ “ Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Việt. Trong nhà Đại bái có câu đối bất hủ : Thác thuỷ khai cơ, Tứ cố sơn hà qui bản tịch .. Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn ..!” Mở lối đắp nền bốn hướng non sông về một mối Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con ..” Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ hình vuông có khắc 4 chữ:“Hùng Vương tứ phúc”. Đặc biệt có treo một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh” nghĩa là cuộc sống của nhân dân là điều quyết định đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ thời vua Hùng đã lấy dân làm gốc:“Tất cả vì dân, do dân và của nhân dân” còn giá trị mãi đến muôn đời. Bên phải đền Thượng là cột đá thề của An Dương Vương, bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối vuông, trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh chóp đắp hình rồng uốn lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm : Hùng Vương Lăng. Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân Quốc Tổ Hùng Vương : “ Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà, non nước vẫn quay về đất Tổ … Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông ..!” Hàng năm vào ngày mồng tám tháng ba là ngày lễ hội Hùng Vương được xem như Quốc lễ của cả một dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với đủ nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ “Tam sinh” gồm nguyên một con heo, một con bò và một con dê. Bánh chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu được cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ đặc biệt là chiếc trống đồng độc đáo của Việt tộc. Sau phần tế lễ là phần lễ hội với “cuộc rước bánh dày bánh chưng và rước cỗ chay”, “Rước voi” và cuối cùng là lễ “Rước kiệu bay” truyền thống của dân gian các làng xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu riêng của làng mình từ các làng do vị bô lão dẫn đầu rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở xưa tay cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu dưới chân đền chờ cử hành tế lễ tạo nên một rừng người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô nức dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi tiếng chiêng tiếng trống khai lễ thì không khí trang nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau phần tế lễ rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự thưởng ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống của các đội thuyền Rồng của các làng trong hồ Đá Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp tuồng chèo, những cây đu tiên, những trò chơi dân gian như đánh cờ người, trò “tung còn” giữa thanh niên thiếu nữ ngày xuân, những phường “hát Xoan” của các nơi về tụ hội tổ chức hát Xoan với những làn điệu dân ca truyền thống mỗi độ xuân về. Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ chức lễ tết hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ hội đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ hội đền Hùng chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội dân tộc trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Lễ hội đền Hùng không đơn thuần là cuộc chơi xuân với những hội hè đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng Vương, người truyền thừa sự sống và khai mở đất nước Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày nay, có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ và có một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng bào, là anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra : “ Bọc điều trăm họ thai chung, Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam” ĐỀN THỜ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên 1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao lại năm Hoàng Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền Trung tức Hùng Vương Tổ miếu được xây vào thế kỷ XIV, bị quân Minh phá huỷ vào thế kỷ XV. Đến thời Lê (1427-1573) đền được xây dựng lại theo bố cục hình chữ nhất cùng với Gác chuông và Thiền Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế. Đền Thượng cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Đến thế kỷ XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng. Năm 1823, vua Minh Mạng cho xây dựng Miễu “Lịch đại Đế vương” ngay tại kinh thành Huế. Nhà vua đã bà bạc kỹ lưỡng với bộ Lễ để đưa các nhân vật lịch sử vào thờ trong miếu. Bản tâu trình của bộ Lễ lên vua Minh Mạng như sau: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân thực là thuỷ tổ của nước Việt ta. Thế thì từ ngoại kỷ trở về trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà thờ. Từ nhà Đinh về sau thì giềng mối mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thái Tổ thừa vận lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời. Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần Nhân Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần khôi phục xã tắc. Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi, công nghiệp rạng rỡ vang rền … đều nên liệt vào miếu thờ”. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) ra sắc chỉ sửa chữa lại đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh và cho khắc 2 bia đá dựng tại khu đền thờ. Năm Duy Tân thứ sáu (1912) cho trùng tu cung trong điên ngoài qui thứ như ngày nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922) lại cho sửa sang thêm Lăng mộ và trùng tu đền Giếng thờ 2 công chúa Tiên Dung con vua Hùng thứ 3 lấy Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa, con vua Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn Tinh (Thánh Tản Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho trùng tu và mở rộng thêm diện tích đền và cho dựng bia đá ngày 10 tháng 3 năm Canh Thìn do Bùi Ngọc Hoàn soạn ngày 15-4-1940 nội dung như sau:“Đền vua Hùng là nơi thờ các vua họ Hồng Bàng trong lịch sử tối cổ của nước Việt ta”. Thời xưa, hàng năm tổ chức quốc lễ vào mùa Thu nhưng đền đời vua Khải Định năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc xin bộ Lễ lấy ngày mồng 10 tháng 3 Aâm lịch hàng năm làm Quốc lễ, trước ngày giỗ vua Hùng thứ 18 một ngày.(11) ( Trích trong Huyền TÍCH VIỆT của Phạm Trần Anh sẽ xuất bản vào tháng 4/2008). * Theo cách tính ngày tháng Việt Lịch của dân tộc, thì tháng 3 là tháng Thìn, và đếm từ Tý trong 12 con giáp, thì ngày 10 là ngày Dậu. Theo 12 địa chi, Dậu là gà, thuộc loài chim, và chim là biểu hiệu của Tiên. Cũng vậy, địa chi Thìn đã mang nghĩa là Rồng nên tiền nhân đã chọn ngày 10 tháng 3 là ngày Tiên, tháng Rồng. Ngày 10 tháng 3 được Tổ Tiên chọn chính là để giúp con cháu dễ dàng nhận thức về nguồn gốc dân tộc của mình: Con Rồng cháu Tiên. Nguồn: www.anviettoancau.net Hà Hùng giới thiệu
  4. Bánh trôi và những bí ẩn văn hóa Theo quốc lộ 32, hướng Hà Nội - Sơn Tây, đến Km 26 rẽ phải đi chừng 7km là đến đền Hát Môn (xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ). Nơi đây gần 2.000 năm trước, Hai Bà Trưng đã lập đàn thề khởi nghĩa: "Một xin rửa sạch nước thù Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng Ba khỏi oan ức lòng chồng Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này". Hàng năm, nhân dân làng Hát Môn tổ chức ba ngày lễ hội lớn để thờ cúng nhị vị vua bà. Đó là các ngày: Mùng bốn tháng Chín, hai tư tháng Chạp và mùng sáu tháng Ba. Trong ba lễ hội trên thì lễ hội ngày mùng sáu tháng Ba được tổ chức long trọng nhất bởi đây là ngày giỗ của Hai Bà. Vào ngày lễ hội này, toàn thể nhân dân làng Hát Môn cùng làm bánh trôi để dâng cúng, tưởng nhớ Hai Bà. Tuy nhiên, không phải bánh nào cũng được mang vào hậu cung để lễ. Theo phong tục, bánh để lễ tại bản đền phải là bánh do các cụ trong Ban lễ hội đảm nhiệm và công việc làm bánh trôi để cúng các vua bà diễn ra khá cầu kỳ, cẩn trọng và qua nhiều công đoạn khác nhau. Để chuẩn bị cho lễ hội thì trước lễ hội độ một tháng, các bô lão trong làng họp lại và bầu ra 10 cụ có gia đình khỏe mạnh, sống hòa thuận, có đầy đủ con trai, con gái, cháu trai, cháu gái, không tang chế và có kinh nghiệm làm bánh vào Ban tu lễ. Ban tu lễ cùng với cụ Tiên chỉ, chủ tế có trách nhiệm làm bánh để thay mặt cho toàn thể dân làng dâng cúng Hai Bà Trưng. Người ta bảo, nếu năm nào Ban tu lễ làm tốt thì Hai Bà đẹp lòng sẽ phù hộ cho toàn thể dân làng được nhân khang, vật thịnh. Ngược lại, năm nào Ban tu lễ làm không chu đáo sẽ bị các vua bà quở trách, chê phạt và người bị đầu tiên là Ban tu lễ. Cùng với việc chọn Ban tu lễ để làm bánh thì các bô lão phải chọn ra một gia đình cũng phải khỏe mạnh, sống hòa thuận, có đầy đủ con trai, con gái, cháu trai, cháu gái, không tang chế để Ban tu lễ đến làm bánh dâng cúng Hai Bà. Gia đình nào được chọn thì trước ngày lễ khoảng một tháng phải sửa sang nhà cửa, rửa chum, rửa vại phơi kỹ ngoài nắng để đựng nước sạch. Nước sạch này được lấy từ cái giếng sạch nhất trong làng về lọc qua vải rồi đổ vào chum để dùng rửa bánh trước khi dâng bánh cúng lễ. Nước này là nước chí thành. Theo các cụ kể thì trước kia chum nước chí thành được che bằng lá cờ đại, nay thì được thay bằng phông, bạt. Trong ngày làm bánh thì bàn thờ gia tiên của gia chủ được chuyển sang gian bên để nhường chỗ cho quan giám trai (quan khâm sai đại thần) về ngự, giám sát quá trình làm bánh cúng. Để làm được bánh trôi cúng, các cụ trong Ban tu lễ phải chuẩn bị từ khâu chọn gạo. Gạo làm bánh phải là gạo nếp cái hoa vàng do hàng giáp lo, nay thì Ban tu lễ phải đi tìm mua. Gạo nếp phải đều hạt và được nhặt sạch sẽ, không lẫn gạo tẻ, không bị đầu ruồi hay gãy tấm. Chiều ngày mùng bốn, chủ tế làm lễ ở đền để báo cáo Hai Bà Trưng và xin phép rước ngài giám trai cùng toàn bộ đồ lễ, bát hương... về nhà làm bánh. Sau khi lễ xin phép xong thì một đoàn cờ lọng cùng đồ tế lễ rước từ đền về trong tiếng nhạc rộn ràng của phường bát âm. Sang ngày mùng năm, các cụ trong Ban tu lễ bắt đầu làm bánh cúng. Công việc đầu tiên là đổ gạo ra chậu, đãi sạch rồi tãi ra cho ráo nước, sau đó gạo lại được ngâm ủ cho rích nước, khoảng ba tiếng sau thì đem đổ vào cối đá để giã. Gạo giã được phân làm ba loại để riêng: Gạo giã lượt 1, lượt 2 gọi là vỏ gạo (loại 1); gạo giã lượt 3, lượt 4 (loại 2); gạo giã lượt 5 (loại 3). Sau khi giã xong, Ban tu lễ phân thành hai loại. Gạo giã lượt 3, lượt 4 là ngon nhất nên được dùng để làm bánh dâng cúng Hai Bà, gạo giã lượt 1, lượt 2 và lượt 5 dùng làm bánh dâng cúng các quan. Số gạo giã thành bột đó lại tiếp tục được ủ lại để hôm sau, ngày mùng sáu thì bắt đầu đem ra làm bánh. Sáng ngày mùng sáu, vào lúc 1 giờ sáng, các loại bột trên được đem ra rảy nước cho đến đủ độ rồi cho vào cối giã cho đến khi mềm, mịn, dẻo thì bắt ra mâm để nặn thành bánh. Các cụ nặn bột đã luyện thành từng viên bánh tròn to như quả mận và lần lượt trải đều ra mâm. Khi bánh đã nặn xong, cụ chủ tế từ từ thả bánh vào nồi luộc. Cụ thận trọng đưa thanh tre cật dài khoảng 1m, hai đầu buộc chặt với nhau tạo thành hình giọt nước để khoắng nhẹ cho bánh khỏi dính vào nhau. Khi luộc bánh, lửa phải đều và không được to quá. Các cụ luộc bánh cho tới khi bánh nổi thì dùng vợt vớt ra thau nước lã, sau đó vớt cho vào bát, mỗi bát khoảng 12, 13 viên. Riêng hai bát dâng lên Hai Bà và quan giám trai để 17, 18 viên. Bánh được xếp xung quanh bát, giữa để rỗng khoảng bằng trôn chén. Chỗ rỗng này để ban tu lễ rót nước mật vào khi dâng cúng. Nước mật gồm có mật, hồi, quế, thảo quả đem đun và lọc qua vải. Xung quanh miệng bát, các cụ dùng chiếc lạt giang buộc phần nửa chiếc bánh nhô lên khỏi miệng bát để phần này chờm ra như những cánh hoa sen. Khi hành lễ, các cụ dùng 17 bát, trong đó có hai bát 17, 18 viên (một để cúng Hai Bà, một cúng quan giám trai). Bánh trôi để hành lễ này thực chất là bánh chay - bánh không nhân, còn bánh trôi ở nhà dân thì vẫn có nhân bằng đường đỏ. Điều đặc biệt trong lễ hội này là dân làng không được ăn bánh trôi trước ngày mùng sáu, trước khi dâng bánh cúng Hai Bà. Tục làm bánh trôi ra đời và gắn liền với những ngày cuối đời của Hai Bà Trưng. Truyền thuyết kể lại rằng: Ngày mùng sáu tháng Ba năm Quý Mão (năm 42) khi Hai Bà Trưng chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc thì có một bà lão hàng quán nghèo xin gặp và dâng hai đĩa bánh trôi để tỏ lòng thành kính. Hai Bà Trưng đã vui vẻ nhận và ăn những đĩa bánh trôi của bà lão hàng quán một cách ngon lành trước lúc xung trận. Ngày nay, dưới ánh sáng của phương pháp nghiên cứu liên ngành có thể bước đầu giải mã phong tục làm bánh trôi của dân làng Hát Môn như sau: Thứ nhất: Phong tục làm bánh trôi trong lễ hội ở Hát Môn là ánh xạ của các nghi lễ nông nghiệp vào trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân làm lúa nước. Những viên bánh trôi, sản phẩm của lúa gạo trong lễ hội đền Hát Môn, là tín ngưỡng thờ lúa, đề cao hạt lúa, gửi gắm những ước mơ về nhân khang vật thịnh, phong đăng hòa cốc. Đây là lớp nghĩa nguyên thủy trong các lớp nghĩa. Thứ hai: Tục làm bánh trôi được khúc xạ, tích hợp vào các loại hình tín ngưỡng khác. Đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ cúng các vị anh hùng dân tộc. Xét trên khía cạnh này thì phong tục làm bánh trôi để dâng cúng hai đức vua bà đã thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Đó là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", luôn luôn ghi nhớ và biết ơn người có công với tổ quốc, nhân dân. Thứ ba: Xét trên phương diện phong tục học thì phong tục làm bánh trôi ở Hát Môn đã phản ánh, lý giải nguồn gốc của viên bánh trôi Việt Nam, phản ánh sự đa dạng, phong phú của văn hóa vùng miền và góp phần khẳng định tính bản địa của phong tục làm bánh trôi ở Việt Nam. Thứ tư: Sự tích bánh trôi không chỉ kể về nguồn gốc của bánh trôi mà còn phản ánh thái độ, tình cảm của nhân dân về cái chết của Hai Bà. Thực tế thì Hai Bà Trưng đã anh dũng hi sinh nhưng nhân dân không muốn đón nhận tin buồn ấy nên đã thần kì hóa cái chết bằng cách cho Hai Bà bay về trời giống như Thánh Gióng. Gần hai nghìn năm đã đi qua nhưng phong tục làm bánh trôi và lễ hội đền Hát Môn vẫn có một sức sống kỳ lạ. Làm nên sức sống dẻo dai, bền bỉ này là do sự đan xen, tích hợp của các lớp tín ngưỡng và các vỉa trầm tích văn hóa quy tụ vào những nhân vật lịch sử của dân tộc Việt Nam - Hai Bà Trưng. Phan Ngọc Anh Nguồn: http://www.baohatay.com.vn/intrang.asp?id=90921 Hà Hùng giới thiệu
  5. Đúng là loạn cào cào thật. Hôm qua HH với bà xã hỏi nhau là cái EURO2008 tổ chức ở đâu, hóa ra là chẳng ai biết cả :lol:
  6. Bạn vào đây chọn múi giờ Hà nội (GMT+7) là sẽ thấy giờ đúng ngay thôi mà http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...rCP&CODE=04
  7. Đây là thông tin ghi trên wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BFt_H...0n_th%E1%BB%B1c
  8. Sau khi xem lại các dữ liệu thiên văn, lịch và tiết khí, Hà Hùng thấy rằng lịch Việt cổ (kiến Tí) phù hợp với lịch thiên văn hiện đại hơn là lịch kiến Dần lưu lại trong cổ thư chữ Hán.Lịch kiến Tí tháng đầu năm luôn chứa tiết Đông Chí (ngày 21/22 tháng 12 dương lịch), là một đầu của quỹ đạo trái đất xung quanh mặt trời. Ngày 5/5 cách ngày đầu năm 182 ngày, tức là đúng nửa năm. Lần trước tôi tính trung bình 365,24 chia cho 2 được 182,62 ngày cho nửa năm chỉ là tính tương đối. Nếu xét kỹ vận động của trái đất quanh mặt trời thì thời gian từ tiết Đông Chí đến tiết Hạ Chí ngắn hơn một chút, chừng 181,75 ngày, nghĩa là 181.75-177.18=4.57 ngày, mới đúng vào giờ Ngọ ngày 5/5 (nếu là hơn 5 ngày thì sẽ phải tính vào ngày 6/5, cái này lần trước HH tính nhầm). Như vậy có thể nhận định người Việt cổ đã biết tính rất chính xác hai điểm mốc rất quan trọng trong tính lịch là tiết Đông Chí (Solstice December) và Hạ Chí (Solstice June) và điều chỉnh Âm lịch của mình cho phù hợp với tiết khí. Nếu tôi nhớ không nhầm thì lịch Việt cổ không có tháng nhuận trong năm như cách tính Âm dương lịch hiện nay, tháng nhuận nếu có luôn là tháng Hợi. Cái này nhờ bạn Vân Khôi xác nhận giúp. @Vân Khôi: mình sẽ tiếp tục tìm hiểu ảnh hưởng của việc thay đổi cách tích lịch đến các phương pháp dự báo lý học đông phương dựa trên cơ sở âm lịch. Rất mong được bạn giúp đỡ. Hà Mạnh Hùng
  9. Mong mọi người cân nhắc khi viết bài, tránh dùng những từ ngữ thiếu tôn trọng. Bạn Tầm nhìn mới cần thời gian để bình tĩnh lại.
  10. Nếu ai dựa vào thông tin dự đoán ở đây để cá độ bóng đá thì nhất định thua. Điều đó không có nghĩa là phương pháp dự đoán sai hay người dự đoán kém. Mà vấn đề ở đây là sự tương tác trong cảm ứng. Giải thích thì hơi dài dòng một chút, nhưng đại ý thế này: nếu dự đoán đưa ra mà có thể dẫn đến sự biến đổi đáng kể trong tương quan liên đới thì cảm ứng dự đoán sẽ thiếu chính xác. Mọi người có thể để ý các dự đoán của bác Thiên Sứ đưa ra có độ chính xác cao nhưng không làm thay đổi được diễn biến hay ảnh hưởng của sự việc. Các lời sấm trạng hay lời tiên đoán của các nhà tiên tri nổi tiếng cũng đều tương tự, khi đọc có vẻ rất khó hiểu, đến khi sự việc xảy ra mọi người mới vỡ ra ý nghĩa. Tôi có nghe kể về một người có khả năng dự đoán kết quả bóng đá hết sức chính xác. Nhưng khi tiến hành dự đoán ông yêu cầu những người biết kết quả dự đoán không được công bố rộng rãi và cũng không được sử dụng kết quả dự đoán của ông để kiếm lời bất chính. Ông đã thử chứng minh khả năng dự đoán bóng đá của mình bằng cách đoán trước kết quả của cả chục trận đấu bóng đá liên tiếp, chính xác tới cả tỉ số. Vậy nên mọi người hãy coi việc dự đoán bóng đá ở đây hay dự đoán chứng khoán,... sẽ chỉ là đoán cho vui thôi, không dùng để đánh bạc làm giàu được đâu. Lúc nào rảnh tôi sẽ thử dự đoán, nhưng tôi sẽ không công bố kết quả rộng rãi mà sẽ mã hóa nội dung dự đoán, sau khi có kết quả mới công bố chìa khóa để đọc nội dung, hy vọng như vậy kết quả dự đoán sẽ chính xác hơn. Chúc mọi người chung vui dự đoán bóng đá bằng Lạc Việt Độn Toán
  11. Cái này không phải mình viết, ở cuối bài đã ghi rõ nguồn sưu tầm rồi mà. Có nhiều điểm trong đó mình cũng không thống nhất với tác giả, nhưng sưu tầm thì vẫn cứ để nguyên. Năm nay ngày 5/5 gần với tiết Mang chủng, nóng và oi
  12. Gà mẹ có trước quả trứng, quả trứng có trước gà con, đâu có gì phải tranh luận.
  13. Bạn đọc kỹ Kinh Dịch, thuộc Dịch, vậy xin hỏi "mẹ tròn con vuông", "trời tròn đất vuông" là gì? Nếu tôi nói "mẹ con vuông tròn" hay "mẹ vuông con tròn" thì sao? Cơ sở của Dịch là âm-dương, vậy bạn hãy giải thích trên cơ sở âm dương nhé. Vạn vật xoay vần nhưng vẫn có trật tự của nó. Ngày là khái niệm mang tính tương đối, chỉ khoảng thời gian tự quay đủ một vòng của trái đất, cho nên ngày mới bắt đầu lúc nào là do quy ước. Có dân tộc người ta tính ngày mới bắt đầu từ khi thấy ánh mặt trời. Có nơi tính ngày mới từ lúc mặt trời lặn. Người phương đông xưa tính ngày khởi từ giờ Tí, chẳng có gì sai cả. Ngày đêm luân phiên nối tiếp nhau, không thể nói ngày trước hay đêm trước để phân định âm dương. Phân định âm dương đâu phải chỉ dựa vào thời gian. Người ta thường phân định ngày dương đêm âm không phải vì ngày trước đêm sau mà do ngày là khoảng thời gian chịu tác động trực tiếp của mặt trời thuộc dương. Dùng thuận tự trước sau để phân âm dương chỉ áp dụng với các sự vật được sinh ra và phát triển có tính thuận tự nhưng không mang bản chất thời gian.
  14. Không biết Dr. đây là Bác sĩ hay là Tiến sĩ nữa, chẳng phân tích tại sao lại có tác dụng chữa bệnh. Thực ra mọi cách chữa bệnh đều có thể có kết quả, chỉ cần có lòng tin thì uống mỗi ngày một ly nước trắng cũng có thể khỏi bệnh. Nhưng mà đã là liệu pháp y học thì cũng nên có luận giải chút chứ nhỉ?
  15. Tết mồng Năm tháng Năm Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Tết Đoan Dương, Tết Nửa Năm. Đoan là mở đầu; Ngọ là giữa trưa, là lúc khí dương đang thịnh... Xét về địa bàn thì Ngọ ở vào phương Nam, mà cung Ngọ thuộc dương và tháng 5 cũng là tháng Ngọ, do vậy tháng 5 Âm lịch là tháng khí dương tràn ngập. Người ta còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết Trùng Ngũ hay Đoan Ngũ (ngày 5/5). Do vậy mà các ngày mồng 1, 2, 3, 4 tháng 5 Âm lịch được gọi Đoan nhất, Đoan nhị, Đoan tam, Đoan tứ. Ngày 5/5 Âm lịch khí dương tràn ngập, nên rất nóng bức, thời tiết mùa Hạ oi bức, các bệnh dịch hay phát sinh, do vậy các đền miếu thường cúng vào mùa Hè trừ ôn dịch, còn dân gian thì ngày 5/5 đi hái lá thuốc về để dành dùng dần. Họ còn lấy xương bồ thái thành từng lát đem ngâm rượu, để uống trừ ôn dịch trong năm, do vậy dân gian còn gọi tiết Xương bồ hoặc Thiên trung (giờ Ngọ ngày 5/5). Có nhà còn dùng lá ngải phơi khô, tán nhỏ trộn với bột thương truật, xương bồ, quế chi, xuyên khung, bạch chỉ đem rắc mọi nơi trong nhà để trừ dịch, uế tạp. Có người nhân ngày 5/5 Âm lịch chế bài thuốc "Bồ đề hoàn" để dùng trong năm. Bài thuốc này ít công phạt, các chứng cảm mạo phong hàn, sốt rét ngã nước, đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa đều dùng đuợc. Bà con Hoa kiều ở Việt Nam, hoặc một số bà con ở thành thị có sự giao lưu với người Hoa am hiểu "Cổ học tinh hoa", còn gắn Tết Đoan Ngọ với kỷ niệm Khuất Nguyên cùng với Lưu Thần, Nguyễn Triệu (đều là người Trung Hoa). Những câu chuyện lý thú này lại liên quan đến một số tình tiết trong lệ tục ngày Tết, do vậy cũng cần hiểu lai lịch để suy ngẫm. Sự tích Khuất Nguyên Khuất Nguyên làm quan Tả đồ nước Sở, dưới triều vua Hoài Vương đời Thất quốc (307 - 246 trước CN). Ông là người chính trực nên bị bọn nịnh thần sàm tấu. Những ý kiến ông tâu trình đều muốn hưng thịnh cho đất nước Trung Hoa hồi bấy giờ lại bị vua Sở bác bỏ. Có lần Sở Hoài Vương sang Tần, ông can ngăn không được đến nỗi Hoài Vương bị chết ở đất Tần. Tương Vương kế nghiệp cũng bị bọn gian thần thao túng, bác bỏ những ý trung chính của ông, lại còn bắt ông đi đày. Trước những nhiễu nhương đáng buồn đó, Khuất Nguyên làm bài thơ Hoài Sa rồi buộc đá vào người trầm mình tự tử tại sông Mịch La vào ngày 5/5 Âm lịch. Tương Vương nghe tin mới hối hận, sức cho dân làm cỗ cúng và đem cỗ sẻ xuống sông để ông hưởng. Đêm đến ông báo mộng cho vua, rằng nếu ném cỗ xuống sông thì phải bọc lá bên ngoài và buộc bằng chỉ ngũ sắc, cá tôm mới không ăn được. Từ lời báo mộng đó, nhà vua ban lệnh cho dân. Do vậy mà hàng năm vào ngày 5/5 có lệ cúng Khuất Nguyên để tưởng nhớ vị đại thần trung chính, lại gói cỗ bằng lá, buộc chỉ ngũ sắc thả xuống sông cho ông hưởng. Trên sông Mịch La, người nước Sở đã mở hội đua thuyền (ý như muốn vớt xác Khuất Nguyên), làm cỗ cúng ông tỏ lòng thương tiếc. Và chỉ ngũ sắc sau này trở thành thứ "bùa tui bùa túi" treo cho trẻ em trong Tết 5/5... Chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu Đời nhà Hán có hai người là Lưu Thần và Nguyễn Triệu, làm nghề thuốc sinh nhai, lại thân thiết như anh em. Nhân ngày Tết Đoan Dương hai người rủ nhau vào núi hái thuốc và tình cờ gặp hai tiên nữ, nên duyên vợ chồng không tính đến chuyện hái thuốc nữa. Nửa năm sau, tuy sống cùng vợ tiên với cảnh quan tuyệt đẹp ở tiên giới, nhưng Lưu Thần - Nguyễn Triệu nhớ nhà da diết nên đòi về làng cũ. Hai tiên nữ ngăn cản mãi không được, đành tiễn chân hai người về làng. Nhưng khi về đến làng cũ thì mọi cảnh đều thay đổi. Vì nửa năm ở cõi tiên bằng mấy trăm năm tại cõi trần. Hai người bèn tìm lại cõi tiên nhưng không thấy nữa, nên rủ nhau vào rừng không thấy trở về... Câu chuyện tình của hai chàng Lưu - Nguyễn đã trở thành thiên tình sử, thành đề tài ngâm vịnh của các thi nhân. Còn dân gian thì lấy việc hái thuốc tiết Đoan Dương gặp may của hai người để tìm một điều may nào đó cho sức khỏe, cho cuộc sống con người trong việc hái thuốc tiết Đoan Dương. Nghi thức cúng lễ và tập tục ngày Đoan Ngọ Tết Đoan Ngọ đã trở thành Tết truyền thống. Nhà nhà, làng làng đều sửa lễ cúng ông bà Tổ Tiên, cúng Thần Thánh, cúng các vị Tổ Sư của nghề. Đặc biệt đây là Tết chú ý đến việc bảo vệ sức khỏe, ngăn ngừa sâu bọ (vi trùng) làm giảm sức khỏe của con người. Đó là việc giết sâu bọ, bằng cách ăn rượu nếp làm cho sâu bọ trong người bị say, ăn các trái cây như mận như xoài... là bồi thêm đòn cho sâu bọ chết. Người ta còn mài thần sa, chu sa cho trẻ uống để chống sự phản ứng trong cơ thể. - Tắm nước lá mùi: Là tập tục mà các làng quê thường có. Người ta đun lá mùi, lá tía tô, kinh giới, lá sả, lá tre vào chung một nồi, rồi mọi người già trẻ thay nhau múc tắm. Mùa nóng lại tắm nước nóng có lá thơm, mồ hôi toát ra, cảm giác khoan khoái dễ chịu, thơm tho làm cho con người phấn chấn và có lẽ cũng trị được cảm mạo, bởi nước lá mùi là vị thuốc nam. - Hái thuốc mồng Năm: Cây cỏ quanh ta có nhiều thứ trở thành vị thuốc chữa bệnh. Nhưng nếu các loại thảo mộc ấy được hái vào ngày mồng 5 tháng 5 Âm lịch, lại đúng vào giờ Ngọ thì tính dược càng được tăng lên, chữa các bệnh cảm mạo, nhức đầu đau xương... sẽ nhanh khỏi hơn. Do vậy dân gian thường hái ngải cứu, đinh lăng, tía tô, kinh giới... đem phơi khô cất đi, khi nào lâm bệnh thì sắc uống. - Treo cây ngải cứu trừ tà ma: Người ta còn lấy cây ngải cứu buộc gom thành nắm, treo ở đầu nhà, trước cửa để trừ tà ma. Thực tế thì hương thơm lá ngải sẽ giúp con người dễ chịu, khoan khoái. Lại có thể giảm bớt nhức đầu, đầy bụng nên khi lấy lá mồng Năm, mọi người không thể quên lấy lá ngải cứu. Giết sâu bọ, hái thuốc mồng Năm, tắm nước lá mùi, treo lá ngải trừ tà trong Tết Đoan Ngọ, nhằm làm cho con người, nhất là thế hệ trẻ, khoẻ mạnh để duy trì nòi giống, truyền thống của cha ông. - Tục đeo "bùa tui bùa túi": Người ta còn phòng xa những bất trắc do ma quỷ, rắn rết làm nguy hại đến tính mạng nên Tết mồng 5 tháng 5 còn có tục đeo "bùa tui bùa túi". Đây là thứ bùa ngũ sắc để đeo vào vòng cổ cho trẻ em. Người ta dùng vải và chỉ ngũ sắc để may, để buộc thành các túm bùa. Một túm hạt mùi, một túm hồng hoàng rồi một số quả như khế, ớt, mãng cầu... được buộc gộp thành bùa treo vào cổ trẻ em. Phải chăng hạt mùi kỵ gió, hồng hoàng kỵ rắn rết, còn các quả để giết sâu bọ, chỉ ngũ sắc là màu sắc của vũ trụ - kim, mộc, thủy, hoả, thổ - thường dùng để trừ ma quái, hy vọng sẽ đảm bảo cho thế hệ trẻ được khoẻ mạnh, tồn tại và phát triển. - Tục nhuộm móng tay, móng chân: Tết mồng 5 tháng 5 còn có tục nhuộm móng tay móng chân cho trẻ. Họ hái lá về giã nhỏ, lấy lá vông đùm từng nhúm rồi buộc vào móng tay, móng chân. Riêng ngón "thần chỉ" là ngón tay trỏ thì không buộc. Sáng dậy, mở các đầu ngón tay ra sẽ thấy các móng tay móng chân đỏ tươi, đẹp mắt. Ngoài mỹ thuật, tục này còn ẩn dụng ý trừ ma tà lôi kéo làm hại con người. - Tục khảo cây lấy quả: Phải chăng từ yêu cầu lấy quả giết sâu bọ, nên người ta đã khảo cây lấy quả. Dân gian quan niệm cây cũng có linh hồn nên những cây "chây luời" không chịu ra quả phải bị khảo. Một người trèo lên cây, một người cầm dao đứng dưới gốc. Người đứng dưới gốc hỏi tại sao cây chậm ra quả và dọa sẽ chặt bỏ. Người trên cây van xin được tha sẽ ra quả và hứa ra thật nhiều quả. Thường thì mỗi dịp này các cành rườm rà được phát bớt và mùa tới cây sẽ ra quả. Việc này khó giải thích, nhưng biết đâu qua việc làm cỏ, phát bớt cành lại kích thích sự ra quả cho cây? Đây còn là dịp Tết có những thứ quả, hạt đầu mùa, mà con cháu không thể quên việc cúng dâng Tổ Tiên. Một quả dưa hấu, một quả mít, một chùm nhãn, đĩa mận, cân đậu, đĩa xôi đầu mùa... đều được đưa lên bàn thờ cẩn tấu Gia Thần, Gia Tiên. Và đây cũng là những sản phẩm để đi lễ gia đình ông bà nhạc tương lai, đi Tết các thầy học, thầy lang, thầy dạy nghề tỏ lòng đền ơn đáp nghĩa. Dân gian còn có lệ nhân ngày 5/5 Âm lịch bày tỏ với nhau tình bằng hữu, xóm giềng mật thiết. Tết Đoan Ngọ giữa mùa dương thịnh, nóng bức nhưng các tục lệ cũng thật dào dạt tình người. Phải chăng cái tình cảm êm thấm này vừa biểu hiện sự nhu, tính âm, khiến cho Âm - Dương giao hòa, tình người gắn bó đã làm tăng thêm ý nghĩa nhân văn cho ngày Tết cổ truyền của dân tộc. (Sưu tầm từ http://blog.360.yahoo.com/blog-mRuF7bA5b7Q...?cq=1&p=40)
  16. Xin lạm bàn thêm một chút về ý nghĩa Tết Đoan Ngọ Đoan có nghĩa là đầu mối, là khởi điểm, là một. Ngọ là tháng 5. Đoan Ngọ là khởi đầu của tháng Ngọ. Tết Đoan Ngọ cũng còn được gọi là Tết Đoan Ngũ, cũng có nghĩa là khởi đầu tháng 5. Có người sẽ bĩu môi mà chê tôi đã không biết lại lắm chuyện, vậy Đoan Ngọ phải là mồng 1 tháng 5 chứ? Xin thưa hồi sau sẽ rõ. Tết Đoan Ngọ còn có tên là Tết nửa năm. Tất nhiên người ta sẽ vặn ngay, nửa năm phải là mồng 1 tháng 7 chứ? Tết Đoan Ngọ còn có tên là Tết Đoan Dương, sách Hán nói là ngày này khí Dương cực thịnh nên gọi vậy. Tôi xin hỏi lại tại sao không gọi là Thái Dương mà lại gọi là Đoan Dương ? Mọi người đều biết rằng 1 năm có khoảng 365,25 ngày, nửa năm là 182,62 ngày. Mỗi tháng có trung bình 29,53 ngày, 6 tháng ứng với 177,18 ngày, nghĩa là còn thiếu khoảng 5 ngày rưỡi nữa mới đủ nửa năm. Mà theo lịch Việt cổ thì tháng đầu tiên bắt đầu bằng tháng Một (ngày nay gọi là tháng 11) hay tháng Tí, cho nên giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5 (Ngọ) mới là khởi đầu của nửa cuối của năm, thế cho nên tên gọi Đoan Ngọ, Đoan Ngũ, Nửa năm đều có nguồn gốc Việt cả. Tháng Ngọ là tháng thứ 7, trên Hà đồ nằm ở cung Ly Hỏa, ở thấp nhất của nửa dưới Hà đồ thuộc âm. Xét trên Hà đồ thì giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng Ngọ là điểm cực âm. Cực âm thì dương khởi, vậy nên gọi là tết Đoan Dương, một cái tên Việt. Cũng vì lẽ này mà ngày Tết Đoan Dương được lấy làm ngày giỗ Mẫu Tổ Âu Cơ (cực âm) Về thiên văn học (cái này nhờ bạn nào giỏi thiên văn kiểm chứng), ngày này được cho là ngày mà đuôi của chòm sao Đại Hùng tinh (Gấu lớn, Great Bear) trực chỉ về phương Nam. Như vậy có thể nói rằng ngày Tết Đoan Ngọ là ngày Tết thuần Việt dưới góc nhìn âm dương ngũ hành và Hà đồ, chẳng có liên quan gì đến Khuất Nguyên hay Lưu-Nguyễn cả. Hà Mạnh Hùng
  17. Hôm nay đúng ngày 5/5 mình nhìn thấy chú thằn lằn vẫn vô tư lượn trên bờ tường nhà mình như mọi khi. Thỉnh thoảng vẫn thấy chú ấy, lúc thì trên tường, lúc thì bụi cây,...
  18. "Trời tròn đất vuông" cũng là ý nghĩa trời có trước - đất có sau, trời là dương - đất là âm. Và tất nhiên trong thế cân bằng thì âm dương hòa hợp.Bạn nói ngoài tròn trong vuông là ý nghĩa bao bọc, đấy là thói quen của bạn. Trong hình học tôi vẫn có thể vẽ hình tròn bên trong hình vuông, và hình vuông vẫn bao bọc hình tròn.
  19. Không biết bạn chưa hiểu hay cố tình không hiểu. Một ví dụ hay được chú Thiên Sứ dẫn chứng: quẻ Càn (Kiền) có ý nghĩa là trời, là cha, là cái đầu,... Vậy theo bạn trời = cha = đầu = ... ??? Chú Thiên Sứ chỉ ra giữa cái có trước và cái có sau thì cái có trước là Dương, có sau là Âm. Giữa cái trừu tượng và cái hiện hữu thì cái trừu tượng là Dương, cái hiện hữu là Âm. Bạn quy cái có trước = Dương = cái trừu tượng thì thật là...
  20. Liều lượng – Kiêng cữ „Bệnhnhân gặp được thầy thuốc là do cơ duyên giữa bệnh nhân và thầy thuốc. Thầy thuốc chữa cho bệnh nhân được lành bệnh là nhờ phúc của bệnh nhân.“ Chính cụ Hải Thượng Lãn Ông, người thầy thuốc đứng đầu ngành Đông Y Việt Nam đã nói như vậy. Bệnh nhân muốn cải tạo trạng thái sức khoẻ của mình, song song với điều trị phải thay đổi nếp sống, bỏ những thói quen xấu, những suy nghĩ tăm tối... Những người có trọng bệnh hoặc bệnh mãn tính được khuyên bỏ hẳn thức ăn gốc động vật như thịt bò, lợn, trứng ... và ngay cả các sản phẩm sữa. Họ có thể sụt vài cân trong tháng đầu nhưng sức khỏe lại được cải thiện vì bệnh tật bị đẩy lui. Về liều lượng trong điều trị không có những quy định chặt chẽ. Người bệnh có thể dùng liều lượng lớn mà không sợ công phạt. Một thí dụ về điều trị ung thư dạ dầy: Về mặt cơ thể, nên chọn các thẻ BPS 1; 2; 5; 24 Về chứng bệnh, nên chọn các thẻ DS 68; 112; 132; 134 Ngoài ra phải có thẻ Trung hòa, thẻ Phiên bản (Sao) và một chai nhỏ (ve) chất dẻo hay thủy tinh nhỏ. Trước hết bỏ một ít đường hoặc một thứ vật liệu sạch ít biến chất nào đó vào ve, đậy kín chắc chắn. - Trước hết đặt ve lên thẻ Trung hòa để khử các thuộc tính còn lại trong tối thiểu 15 giây (Tập trung tinh thần xin trung hòa vật mẫu). - Đặt lần lượt vật mẫu đã trung hòa lên các thẻ BPS rồi các thẻ DS, mỗi lần tối thiểu 15 giây. Tập trung tinh thần vào tâm nguyện mỗi lần chuyển thẻ. - Vật mẫu được dùng nạp năng lượng điều trị cho các đối tượng khác như cốc nước, bát cơm vv. Đặt ve vật mẫu lên vòng tròn bên phải của thẻ Phiên bản và đặt đối tượng cần được chuyển tiếp năng lượng điều trị lên vòng tròn bên phải và tâm nguyện xin truyền đạt năng lượng. Sau 15 giây đối tượng được nạp năng lượng đã có tính năng một dược phẩm có thể đưa vào cơ thể như qua ăn, uống. Ve vật mẫu có thể dùng nạp vô số lần và cho những người khác nhau có cùng một dạng bệnh. Sau này, ta có thể đồng thời nạp năng lượng chữa bệnh từ nhiều vật mẫu khác nhau với một thẻ Phiên bản đặc biệt. Cũng có thể nạp năng lượng vào một vật thích hợp để đeo, dán trên thân thể như một thứ bùa ngải. Trịnh Phong phỏng dịch và biên tập
  21. THẺ Sanjeevini CHỨNG BỆNH DS-1 Tính axít cao: Ợ chua, đầy hơi, chướng bụng, rối loạn tiêu hóa DS-2 Nghiện (các thứ) DS-3 Viêm họng, a mê đan DS-4 Sida (mọi thứ bệnh trạng) DS-5 Dị ứng DS-6 Thiếu máu DS-7 Đau thắt vòng ngực, Angina pectoris DS-8 Không muốn ăn, bệnh gầy DS-9 Tiêu độc, giải độc DS-10 Vôi hóa mạch máu DS-11 Hen suyễn DS-12 Bệnh Autism DS-13 Đái dầm DS-14 Côn trùng cắn đốt DS-15 Chẩy máu (các dạng) DS-16 Bị tắc hãm (các dạng) DS-17 Cao huyết áp DS-18 Huyết áp thấp DS-19 Rối loạn lượng đường trong máu DS-20 Mất thăng bằng cơ thể, rối loạn thăng bằng DS-21 Nhọt DS-22 Sức mạnh tinh thần DS-23 Viêm họng DS-24 Dịch hạch bẹn DS-25 Bỏng DS-26 Ung thư DS-27 Sâu răng DS-28 Mắt kéo màng DS-29 Thủy đậu DS-30 Sinh đẻ DS-31 Đi tả DS-32 Viêm đại tràng DS-33 Hôn mê DS-34 Táo bón DS-35 Ho khan DS-36 Ho đờm DS-37 Co giật, chuột rút DS-38 Mất nước, thân thể thiếu nước DS-39 Người già đái đường DS-40 Trẻ đái đường DS-41 Ỉa chảy,.................... DS-42 Tiêu hóa DS-43 Bạch hầu DS-44 Tiết dịch, mủ các loại DS-45 Bệnh đần DS-46 Tiết dịch vết thương và mụn nhọt DS-47 Eczema DS-48 Cấp cứu DS-49 Động kinh (mọi dạng) DS-50 Sốt, cảm cúm (mọi dạng) DS-51 Các loại sán dây DS-52 Các vết nứt rách DS-53 Chứng rò, đường rò DS-54 Fitness DS-55 Không cử động được vai, vai cứng DS-56 Chứng tăng nhãn áp DS-57 Bệnh lậu DS-58 Sổ mũi dị ứng DS-59 Nặng tai, điếc DS-60 Tim có lỗ bẩm sinh DS-61 Bục rách (ngọc hành, rốn, thoát vị bẹn) DS-62 Chứng Herpes zoster DS-63 Nấc DS-64 Tràn dịch tinh mạc DS-65 Giáp trạng quá chức năng DS-66 Giáp trạng thiểu chức năng DS-67 Mất tự chủ tiểu tiện DS-68 Nhiễm trùng DS-69 Vô sinh DS-70 Viêm DS-71 Thương tích DS-72 Vàng da (mọi dạng) DS-73 Hủi DS-74 Bệnh lang ben DS-75 Bạch đới DS-76 Chấy rận DS-77 Bệnh hệ tuyến bạch huyết ..................... DS-78 Sốt rét (các dạng) DS-79 Suy nhược, kiệt sức DS-80 Sởi (các dạng) DS-81 Bệnh chóng mặt Menière DS-82 Hội chứng tuổi mãn kinh DS-83 Kinh nguyệt và các chứng kèm theo DS-84 Thiên đầu thống DS-85 Đẻ non, sẩy thai DS-86 Bệnh xơ cứng não DS-87 Quai bị DS-88 Teo cơ DS-89 Tê bại, mất cảm giác tay chân DS-90 Phì nộn DS-91 Đau DS-92 Hồi hộp DS-93 Tê liệt DS-94 Parkinson DS-95 Trĩ DS-96 Viêm phổi DS-97 Dịch hạch phổi DS-98 Bại liệt trẻ em DS-99 U lành tính (các dạng) DS-100 Có thai DS-101 Triệu chứng nhiễm trọng bệnh DS-102 Sa dạ con DS-103 Vẩy rắn và ngứa ngáy DS-104 Tuổi dậy thì nam DS-105 Tuổi dậy thì nữ DS-106 Thiểu năng thận DS-107 Thiểu năng trí tuệ DS-108 Thiểu năng thể lực, cơ thể DS-109 Phong thấp, viêm khớp, gút DS-110 Vết sẹo DS-111 Thần kinh tọa DS-112 Nhiễm độc máu DS-113 Năng lượng thiên nhiên DS-114 Thái bình DS-115 Sốc DS-116 Viêm xoang và cảm lạnh DS-117 Tụt đệm cột sống DS-118 Khản cổ đau cổ DS-119 Nhiễu khi nói DS-120 Viêm cột sống DS-121 Mắt lác DS-122 Sỏi mật DS-123 Sỏi thận, sỏi bàng quang, đường tiết niệu DS-124 Chứng ngạt thở, thở hổn hển DS-125 Sưng tấy (mụn, nhọt bọc) DS-126 Giang mai DS-127 Chẩy nước mắt DS-128 Kiểm tra ý nghĩ DS-129 Ù tai (Tinnitus) DS-130 Viêm A mê đan DS-131 Bệnh lao DS-132 Ung, Nhọt (các dạng) DS-133 Thương hàn DS-134 Mụn nhọt các dạng DS-135 Mẩn ngứa chẩy nước DS-136 Bệnh mạch máu (tĩnh và động mạch) DS-137 Thị lực, thị sai DS-138 Nôn mửa DS-139 Mụn cơm DS-140 Phù nề DS-141 Ho gà DS-142 Giun sán, nấm DS-143 Cần an toàn che chở (hậu quả tinh thần sự cố trước kia) DS-144 Khó ngủ DS-145 Bình yên DS-146 Bệnh virus paramixo ở thú vật DS-147 Nhiễm nấm (các loại) DS-148 Bệnh Herpes simplex DS-149 Chứng xốp xương DS-150 Ghẻ lở DS-151 Nghiện rượu DS-152 Nghiện cà phê DS-153 Nghiện thuốc lá DS-154 Nghiện ma túy DS-155 Giận dữ DS-156 Nhiễm độc kim loại nặng DS-157 Giải độc chất hàn răng DS-158 Sợ hãi, lo lắng, băn khoăn DS-159 Tăng trí nhớ DS-160 Bệnh xương (mọc u) DS-161 Chứng Morbus Crohn DS-162 Chứng tóc gầu DS-163 Suy giảm trí lực DS-164 Sốt xuất huyết DS-165 Trầm cảm DS-166 Thói quen xấu, đa nhân cách DS-167 Lo sợ khi đi thi DS-168 Nhiễm độc Fluor DS-169 Tha thứ DS-170 Trẻ quá hoạt tính DS-171 Do dự DS-172 Bệnh máu trắng DS-173 Viêm màng não DS-174 Tăng hấp thụ dưỡng khí DS-175 Bệnh dịch mỏ và lông gia cầm DS-176 Phobia, dị ứng (đặc trưng hoặc không) DS-177 Nhiễm độc (các dạng) DS-178 Hội chứng tiền kinh nguyệt DS-179 Giận, Ghét DS-180 Tâm thần phân liệt DS-181 Cải tạo đất DS-182 Rối loạn tiết mồ hôi DS-183 Uốn ván DS-184 Rận rệp DS-185 Phòng tránh thiệt hại do tiêm chủng DS-186 Chứng sợ trên cao
  22. THẺ Sanjeevini BỘ PHẬN CƠ THỂ BPS-1 Vùng bụng (ruột gan thận bàng quang) BPS-2 Tuyến tiêu hóa (Miệng, thực quản, dạ dầy, đại tiểu tràng, hậu môn) BPS-3 Cánh tay, chân BPS-4 Lưng BPS-5 Máu huyết BPS-6 Tất cả phần mềm cơ thể BPS-7 Xương cốt BPS-8 Não BPS-9 Vú BPS-10 Lồng ngực BPS-11 Hệ tuấn hoàn BPS-12 Tai BPS-13 Hệ nội tiết BPS-14 Mắt BPS-15 Mặt BPS-16 Phụ khoa, nữ tính BPS-17 Túi mật BPS-18 Tuyến mồ hôi BPS-19 Lợi răng BPS-20 Tóc BPS-21 Đầu BPS-22 Tim BPS-23 Hông BPS-24 Hệ miễn dịch BPS-25 Thận và đường tiết niệu BPS-26 Đầu gối BPS-27 Chân và bàn chân BPS-28 Gan BPS-29 Hệ tuyến bạch huyết BPS-30 Nam tính BPS-31 Tinh thần, thần kinh, trí tuệ BPS-32 Miệng BPS-33 Cơ bắp BPS-34 Móng tay chân BPS-35 Gáy cổ BPS-36 Hệ thần kinh BPS-37 Mũi BPS-38 Tuyến tụy Pankreas BPS-39 Tiền liệt tuyến BPS-40 Đoạn cuối đại tràng BPS-41 Đường hô hấp BPS-42 Vai BPS-43 Các vùng xoang BPS-44 Da BPS-45 Cột sống BPS-46 Lá lách BPS-47 Răng BPS-48 Cổ họng, vòm miệng, hạnh nhân BPS-49 Tuyến giáp trạng BPS-50 Lưỡi BPS-51 Ruột thừa BPS-52 Tủy xương BPS-53 Phổi BPS-54 Toàn thân BPS-55 Nửa thân trái BPS-56 Nửa thân phải BPS-57 Ruột già BPS-58 Khớp BPS-59 Môi BPS-60 Buồng trứng
  23. Một số thí dụ về thẻ Sanjeevini: Thẻ Năng lượng Vũ trụ Thẻ An Khang Thẻ Trung hòa Thẻ Toàn (cơ) thể Thẻ trống Thẻ Phiên bản (Sao) và Chuyển tiếp Năng lượng Cách dùng thẻ trống: Có những trường hợp cần sử lý theo phương pháp Sanjeevini nhưng không tìm được Thẻ thích hợp. Lúc này ta sử dụng thẻ trống bằng cách viết vào vòng tròn trong thẻ những điều mong muốn. Thí dụ một gia đình luôn có mâu thuẫn cãi lộn. Trong vòng tròn của hoa sen ta sẽ ghi mục đích mong muốn như „Hòa hợp“, „Yêu thương“, „Giúp đỡ lẫn nhau“... còn phần tên của Thẻ ta sẽ chọn tên là „Gia đình xung khắc“ chẳng hạn. Không thể có hậu quả xấu vì điều trị sai Phương pháp trị liệu Sanjeevini đơn giản đến mức ta không thể tưởng tượng là có thể có tác dụng. Đôi khi ta băn khoăn vì không biết chọn thẻ đã đúng với bệnh hay chưa. Vì các thẻ Sanjeevini chính là những biểu tượng của tâm nguyện là ý định của Tự nhiên (hay Tạo hóa) sẽ được thực hiện nên sẽ không vì chọn nhầm thẻ mà bộ phận cơ thể khác bị ảnh hưởng xấu. Trịnh Phong phỏng dịch và biên tập
  24. Còn tới 2 năm nữa mà, nhiều thời gian để chuẩn bị. Bạn có thể kiểm tra sức khỏe sinh sản của 2 vợ chồng trước, tranh thủ bồi bổ thêm, và thời cơ chín muồi thì dùng các biện pháp hỗ trợ tích cực. Không khó lắm đâu.
  25. Về phong thủy trường hợp này có điểm giống trường hợp người điên ở Thanh Hóa, nhiều khả năng do bức xạ xấu dưới nền đất. Nhà này trước mặt bếp là giếng nước. Có tới 4 giếng nước bị lấp, nằm theo hàng dọc hướng vào nhà, ảnh hưởng không nhỏ.