Liêm Pha

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    190
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Liêm Pha

  1. Đọc chuyện này nhớ đến chuyện hạt giống cổ 3.000 năm của VN. Đề nghị mấy chú CH Séc học tập ngay bác Việt Nam.
  2. Tất nhiên là được: thôi miên là một ví dụ. Những người theo lý học phương đông họ phải tuân thủ một điều, họ không được phép làm trái luật thiên nhiên; nếu không, họ là sẽ người sẽ gánh hậu quả.
  3. Chắc là đoạn này, phải không chú VULONG: “Các nhà khoa học trong thí nghiệm vật lý lượng tử đã thừa nhận rằng ý thức con người tác động được đến các hạt proton. Mà cơn bão, mưa hay nắng cũng là cấu trúc của những hạt proton nên suy luận ra ý thức con người có thể tác động đến các hiện tượng thời tiết này. Đó chính là nguyên lý lý thuyết tôi khẳng định mình có thể quyết định mưa hay không. Tất nhiên vẫn có thể xảy ra xác suất đúng hay khả năng sai. Nhưng tôi tin vào khả năng của mình qua nhiều lần dự báo thành công trước đó”, ông Tuấn Anh nói. Theo cháu thì có mấy vấn đề như sau: - 1. Báo chí chỉ trích dẫn lời của bác Thiên Sứ nhưng không có lời giải thích để minh tường. Trong toàn bộ cuộc đàm luận mà anh báo chỉ trích đoạn đầu, đoạn giữa hay đoạn cuối; nhưng lại không tóm tắt hết cái ý của buổi nói chuyện này, thì chỉ tổ gây hại cho người nói. Cán bộ nhà ta gọi điều này là xuyên tạc. Như vậy, một là anh báo nhà ta nghiệp vụ kém. Hai là, anh ta cố tình tung tin giật gân để câu khách. - 2. Mọi người đã không có sự hiểu biết đầy đủ về tâm linh. Tâm linh là tâm linh. Nói về tâm linh mà đem khoa học ra đối chiếu thì chẳng ra cái gì; và tâm linh cũng chẳng phải mấy trò mê tín cúng bái, như chuyện giật ấn ở đền Trần. Chính sự ít hiểu biết về tâm linh, nên người ta đem cái nhận thức sai này xem xét câu chuyện của bác Thiên Sứ, và dẫn đến bình loạn như đã xảy ra. -3. Chuyện bác Thiên Sức đề nghị 7 tỷ 150 triệu, hay không (0) đồng hoặc nói về tinh thần tác động lên vật chất cũng là một cách đặt vấn đề gây chú ý, nhằm thu hút người quan tâm. Mọi bình loạn đều vui vẽ, phải không chú VULONG. Cứ đợi đến ngày giờ đó thì ắt sẽ rõ. Nếu mọi chuyện đúng như dự đoán của bác Thiên Sứ, thì sau ngày 7/10/2010 thì sẽ có nhiều cái kinh thiên động địa hơn bây giờ nhiều. Lúc ấy mọi sự chú ý sẽ dồn vào bác Thiên Sứ, rất nhiều loại người sẽ bám theo bác ấy, kể cả những thế lực đen nhất. Họ tìm cách tác động lên bác ấy, tìm mọi cách khống chế hoặc chạy trốn tương lai: thao túng thị trường chứng khoán, làm sập tiệm mấy công ty sổ xố, hay là thanh toán các đối thủ tiềm tàng của họ.... Và cũng nhờ sự kiện này, hy vọng người dân sẽ ý thức về tâm linh, bớt sa đọa vào vật chất.
  4. Tuyên bố, "Trong ít nhất 7 ngày lễ hội chính trời nắng đẹp, không mưa vào ban ngày, thời tiết mát mẻ" của bác Thiên Sứ, dẫn đến mấy ngộ nhận như sau: - Bác Thiên Sứ có khả năng phóng năng lượng phá tan mây, ngăn mưa. Mấy cha nhà báo viết bài hướng người đọc theo cách hiểu này, nên bà con làm rùm beng, dẫn tới chuyện cãi cọ năng lượng (ngoại cảm) này nọ. Ở VN ta chẳng mấy người hiểu nhiều về năng lượng sinh học (năng lượng thu qua thiền), nên pha chế trong đó lý luận kiểu pha học, rồi dẫn đến lầm tưởng. Nên nhiều người nhận mình có công năng đặc dzị, như cái ông Nhiên gì đó. - Bác Thiên Sứ có khả năng phù thủy, nghĩa là thông với các tinh linh ngũ hành như thần gió, thủy thần... và được các vị thần này giúp ngăn mưa. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/eyelash.gif - Bác Thiên Sức dùng LV dự đoán và biết được mấy ngày đó không có mưa. Cái này dễ hiểu hơn. Có khi Bác Thiên Sứ phát triển đến thể thứ tư, Thể Trí đấy ạ. Khi con người phát triển đến thể này, sẽ kết nối (cảm nhiểm) được các thông tin ở cõi này. Ở đây chứa vô số thông tin về vũ trụ, về con người...của quá khứ vị lai. Nên bác bói linh ứng hơn những người khác. Cái mà côn trùng hay loài thú cảm nhận được thiên tai, là do chúng kết nối được nguồn thông tin này. Không phải chúng phát triển đến Thể Trí, mà chúng có cấu tạo cơ thể khác nên dễ cảm nhiễm hơn đến nguồn thông tin này. Đa phần những người phát triển được các khả năng này, họ ý thức được công việc mình làm. Và ít khi để ý đến vật chất đất chú VULONG ạh.
  5. Mưa cũng là vật chất, khả năng ý chí điều khiển được là hiển nhiên. Chỉ có điều là tinh thần của người điều khiển mạnh tới cỡ nào thôi.
  6. Không gian đa chiều, hay là con đường vào cõi âm. Hàng ngày, tôi và bạn cùng nhìn ngắm ánh sáng mặt trời ló dạng từ đằng đông, những tia nắng vàng đỏ xuyên qua từng tầng mây, sưởi ấm và lo toan cuộc sống của muôn loài. Ai mà không yêu dòng sông nước trong xanh thong thả rong chơi, nâng niu từng đàn tôm cá vào lòng, cất tiếng hát ầu ơ, dưỡng dục thành hình. Bên kia bờ, dăm ba chòm cây phơi mình trong nắng sớm, sau buổi tắm sương với vòi sen của đất trời. Vậy là, điều tồn tại xung quanh ta, trước mắt ta, được khoa học gọi là không gian ba chiều. Nhưng, liệu ngoài những thứ ta đụng chạm, ta nâng niu hàng ngày kia ra; còn có chiều không gian thứ tư, hay thứ năm nào nữa hay không? Vì sao, trong giấc mơ, đôi khi tôi lại thấy mình đi lạc vào nơi không thấy tồn tại trên cõi trần này. Đấy là, tôi hả hê trong ngôi nhà dát vàng óng ánh, hay bay lơ lững trong không gian với cảm giác sung sướng thanh thảng tột cùng. Nhưng khi tỉnh giấc, tôi mường tượng mình vừa trải nghiệm qua một điều gì, chứ chẳng phải mơ. Có phải chăng, với tôi thực và mơ đã trộn lẫn vào nhau rồi? Nhưng lạ lùng thay, những cuộc lên đồng, gọi hồn người chết, tìm mộ liệt sĩ, xãy ra rầm rộ ở đất nước ta, trong thời gian vừa qua, lại không phải là một cơn mê sảng. Thực tại hiện hình kia, vội vã gây nhiều tranh cãi ở khắp nơi. Loại bỏ những lý lẽ bác bỏ cho rằng, thầy đồng giở trò bịp đằng sau tấm màn huyền bí; hay đấy là cơn điên loạn của trào mê tín dị đoan còn tồn tại từ thời con người “ăn lông ở lổ”. Nhưng vậy ai đủ khả năng bác bỏ sự tồn tại linh hồn người sau khi chết, khi mà niềm tin đó đã tồn tại từ lâu lắm với những người theo duy linh thuyết, hay Phật giáo. Linh hồn tồn tại. Nhưng họ sống ở đâu, thiên đàng hay địa ngục. Thiên đàng, phải chăng được xây dựng trong những tầng mây màu sắc, trên bầu trời thăm thẳm kia? Hay là vương ra tận ngoài không gian vũ trụ xa tít, trên một hành tinh trôi nổi bồng bền trong Thái dương hệ mông mênh, mà chẳng có họng kính viễn vọng tối tân nào có một giây cơ hội nhìn thấy nó. Và địa ngục, liệu có phải cư ngụ dưới lòng đất ngầm sâu thẳm tối tăm, có khi, vào tận bên trong lõi địa cầu đang sôi sùng sục, nơi chưa một mũi khoan nào của con người xuyên tới được. Hay là nó ở Becmuda, cánh cửa vào âm ti, vùng cấm địa đã nuốt chửng rất nhiều thuyền bè, phi cơ, của con người trên thế giới. Như vậy, thực sự tồn tại một chiều không gian khác ngoài những chiều không gian hiện tại. Giới khoa học đang xét lại, và cũng bắt đầu nghiên cứu và tiến đến nhìn nhận điều này. Bà Lisa Randall trong quá trình thí nghiệm về hạt cơ bản, bất ngờ phát hiện thấy có những hạt bổng dưng hô biến. Bà liền đưa giả thuyết: “Tôi cho rằng trên Trái đất có tồn tại không gian chiều thứ 5. Nếu giả thiết này là đúng thì thực ra các không gian khác không ở xa chúng ta, thậm chí có thể nói chúng ở cách ta trong gang tấc. Chỉ có điều chúng ẩn giấu rất khéo cho nên ta không nhìn thấy mà thôi.” [1] Các thuyết lý thuyết vật lý hiện đại, như thuyết String, cho rằng. Ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nanomét), không gian sẽ bị "cuộn" lại trong các chiều khác (có thể là chiều thứ 4, thứ 5 hoặc nhiều hơn). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. Vì thế, nếu người ta xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng, có chiều không gian thứ 4. [2] Tại Đại học Duke và Rutgers, các nhà khoa học cùng hợp sức phát triển một mô hình toán học, mà họ cho rằng sẽ giúp các nhà thiên văn học thử nghiệm định luật hấp dẫn trong không gian 5 chiều đo, để đối chiếu với Thuyết tương đối tổng quát của của Anh-xtanh. Lý thuyết này cho rằng, vũ trụ hiện tại là một màng (braneworld) nằm trong một vũ trụ lớn hơn, giống như một sợi tảo mỏng nổi trên đại dương. Vũ trụ màng có 5 chiều: 4 chiều không gian, 1 chiều thời gian; so với 3 chiều không gian, 1 chiều thời gian của Thuyết tương đối tổng quát. Họ còn nói, “nó sẽ làm đảo lộn các lý thuyết hiện tại. Nó sẽ xác nhận rằng còn có một chiều thứ 4 của không gian, và nó sẽ tạo ra một sự thay đổi về triết học trong hiểu biết của chúng ta về thế giới tự nhiên”. [3] Hội Thông Thiên Học thông qua việc tập hợp các tài liệu tôn giáo cổ xưa và thực hành khoa yoga, đã cho rằng, trong không gian tồn tại ít nhất 7 chiều đo. Cõi Trung giới có 4 chiều đo, cõi Trí tuệ có 5 chiều đo và cõi Bồ đề có 6 chiều đo [4]. Mỗi cõi này được cấu tạo bằng những vật chất khác nhau, cho nên, người ở cõi dưới không thể thấy được vật chất ở các cõi cao hơn. Các chiều đo này tồn tại cùng một nơi, nghĩa là có 7 chiều đo ở trong một không gian. Sự khác nhau “là do tầm nhận thức hạn hẹp” của con người với sự vật, và “thời gian thực ra không phải là chiều đo thứ tư” [4] như Thuyết tương đối tổng quát trình bày. “Việc nghiên cứu về chiều đo thứ tư dường như đưa thẳng ta tới Thần Bí Học” [4], cho nên thật khó có hi vọng con người với nền khoa học hiện tại, mà tìm kiếm được đường vào không gian thứ 4. Chỉ có “vứt bỏ bản ngã”, “đặt căn cứ và bắt rễ nơi tình thương, có thể cùng với chư thánh hiểu được thế nào là chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và chiều cao” [5]. Nói theo Duy linh thuyết của nhân gian, cõi âm, tức là chiều không gian thứ 4 mà khoa học đang tìm kiếm. Cõi này Thông Thiên Học gọi là Trung giới. Và con người chúng ta, dầu còn sống hay đã chết, đều đã bước đi trên đó ít nhiều. Người chết chuyển hẳn sang cõi đó, và người sống thì phiêu bồng bên ấy trong giấc ngủ - mà ta thường gọi là mộng mị hay giấc mơ [6]. ------ [1] khoahoc.com.vn/cau-chuyen/17886_Giao-su-Nguoi-dep-va-Khong-gian-chieu-thu-5.aspx [2] Chứng minh chiều không gian thứ tư bằng thực nghiệm? - vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2002/11/3B9C21CF/ [3] diendan.vietgiaitri.com/lofiversion/index.php?t29941.html [4] Chương 15: Chiều đo thứ 4. Quyển Thể vía (A.E.Powel) – Bản dịch: Chơn Như -thongthienhoc.com/baivo%20chieu%20do%20thu%20tu.htm [5] Thư gửi tín hữu Ephesians iii, 17-18 [6] Thể vía. Quyển Chơn nhơn và các hạ thể (Annie Besant). Bản dịch: Chơn Như (thongthienhoc.com)
  7. * Đào tạo thể trí: Tư tưởng (ý nghĩ) của chúng ta hoạt động theo quy luật, đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Một kẻ luôn suy nghĩ đến giết người, thì ngay lập tức tâm thức (tư tưởng/ ý nghĩ) của y sẽ thu hút các tư tưởng xấu (hạt thô trược) từ cõi trung giới. Các tư tưởng xấu này chuyển dần vào trong, đẩy các tư tưởng tốt đẹp ra bên ngoài, và đến lúc ý nghĩ của y cấu tạo hoàn toàn bằng các hạt thô trược, thì lúc đó hành vi giết người của y sẽ xảy ra. Vì “Ðặc tính rung động của tâm thức là luôn luôn sa thải chất cũ rồi đem chất mới thay vào để rèn luyện thể trí. Vì thế, mỗi hành động hay ý niệm vừa phát khởi đều gây nên hậu quả; như khi xưa chúng ta có những hành vi hay tư tưởng lành dữ thế nào thì ngày nay những hành vi hay tư tưởng đó đáp ứng lại cho chúng ta y như thế.” [1] Để rèn luyện trí não, đọc sách không phải là cách hay. Đọc nhiều sách mà không tiêu hóa được kiến thức, thì không những không mở mang được trí não, mà còn làm trí não suy giảm thêm. Đọc sách phải từ tốn, nghĩa là ta phải đọc từng đoạn, rồi dừng lại suy nghĩ và nhận xét hay phản bác tư tưởng của tác giả, hoặc thêm vào các ý kiến của ta. Đó là cách để rèn luyện trí não: đọc 5 phút, và tốn 10 phút suy nghĩ. * Truyền tư tưởng trong không gian: Hãy tưởng tượng, trong thế giới hiện đại ngày nay, chúng ta liên lạc với người thân bằng nhiều cách như: điện thoại, internet…nhưng với điều kiện, anh ta cũng phải có phương tiện tương ứng. Vậy, nếu hắn ở chốn rừng sâu núi thẳm nào đó, thì chúng ta sẽ mất liên lạc hoàn toàn và hẵn là phải đoạn tuyệt tin tức dài lâu. Nhưng với nội lực tư tưởng mạnh mẽ của mình, ta sẽ truyền tư tưởng của ta tới y. Và từ bên kia đầu dây tư tưởng, ắt hẳn y sẽ ngạc nhiên, vì hình như y vừa có ấn tượng lờ mờ về một thông điệp về ta. “Có hai phương pháp chuyển di tư tưởng: một là phương pháp vật thể, hai là phương pháp tâm linh. Phương pháp vật thể do trí và não, còn phương pháp tâm linh chỉ do tâm trí mà thôi.” [2] Quy trình hoạt động cho quá trình này là: Bằng cách tập trung tư tưởng, ta sẽ lập trình những thông tin cần gửi đến y. Tư tưởng này được đông đặc trong thể trí, nó chuyển dần đến thể vía, và tạo thành làn sóng chất dĩ thái phát ra bên cõi trung giới. Làn sóng này di chuyển trong cõi âm, tìm đến bộ não người nhận tin. “Bộ não sau này tiếp thu sự rung động rồi truyền qua thể vía, kế đến thể trí.” [2] + Phương pháp di chuyển tư tưởng thứ 1: Phía trước và dưới bộ não con người, có một hạch nhỏ bằng trái tùng, gọi là tùng quả tuyến. Tùng quả tuyến là một bộ phận phát triển chậm hơn hết trong cơ thể con người. Nếu tập trung suy nghĩ về một việc gì, tùng quả tuyến sẽ sinh ra một luồng từ điện rất yếu ớt làm ta có cảm giác như có kiến bò. Nếu người nào suy tưởng mạnh mẽ, đủ khả năng phát ra một luồng từ điện mạnh thì có thể truyền tư tưởng mình đi đến một nơi khác rất rõ ràng. Sự rung động trong dĩ thái của hạch quả tùng tạo thành làn sóng ở chất dĩ thái chung quanh như làn sóng ánh sáng nhưng rất nhỏ và tốc độ mau hơn. Làn sóng ấy lan tràn khắp nơi làm cho dĩ thái này rung động, rồi truyền qua dĩ thái khác, và như thế mãi cho tới khi gặp được dĩ thái của tùng quả tuyến trong bộ não khác. Từ đó, nó chuyển sang qua thể vía, rồi đến thể trí, và tiếp tục đều đều chuyển đến tâm thức. Nếu hạch quả tùng thứ hai không tạo lại được làn sóng rung động mà nó đã tiếp nhận, thì tư tưởng sẽ phân tán, không sanh ra được một ấn tượng nào cả, cũng như ánh sáng không làm cho người mù trông thấy sáng. [2] + Phương pháp di chuyển tư tưởng thứ 2: Để di chuyển tư tưởng, người ta tự tạo ở cõi trí một hình tư tưởng, nhưng không truyền sang bộ não, mà trực tiếp truyền cho một người tư tưởng khác ở cõi trí. Kẻ thực hành được điều này tất nhiên phải giàu nghị lực, tư tưởng mạnh mẽ và cao siêu hơn những kẻ dùng trí não chuyển di tư tưởng. Bởi vì người dùng phương pháp này phải tỉnh thức ở cõi trí mới hành động được. [2] ---------------- [1] Rèn luyện và nâng cao thể trí. Quyền năng tư tưởng. [2] Di chuyển tư tưởng. Quyền năng tư tưởng. Cám ơn bác! Để tui kiểm tra lại, và dẫn nguồn.
  8. SỨC MẠNH TIN THẦN HAY QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG Huyền năng (hay pháp thuật) của môn yoga có thể gói gọn bằng bốn chữ: “sức mạnh tinh thần”. Người nào tu luyện được tinh thần mạnh mẽ và trong sáng, thì lẽ tất nhiên anh ta sẽ thu hoạch được huyền năng. Kết quả này dựa trên sự hiểu biết về cơ thể con người, nhưng ở mức độ mà khoa học chưa khám phá được. Nó giống như trước khi Karl Landsteiner phát hiện ra nhóm máu A, B, O, thì chẳng ai biết gì về chúng. Điều chúng ta gọi là khoa học hiện nay chẳng qua là những phát biểu mà người khác lập đi lập lại hằng ngày, năm này qua năm tháng, thế kỷ này sang thể kỷ khác. Ta nghe mãi thành quen, rồi chấp nhận nó như một chân lý, nhưng thật ra “chân lý chỉ là phản ánh giới hạn của cái trí” – Krishnamurti - và nó sẽ còn thay đổi khi cái trí được nới rộng trong một tương lai nào đó. Bây giờ nói về cõi vô hình, về chổ được người đời gọi nôm na là huyền bí. Nơi mà chúng ta sẽ làm quen với các hạt tinh vi nhất, lạ lùng nhất mà khoa học hiện tại chưa hề biết tới. Chỉ với những hạt này, bằng sức mạnh tinh thần con người này sẽ làm cô đặc chúng lại, và hô biến thành bất cứ món đồ dùng nào mà ta muốn. Biến nước thành đá mà không cần tủ lạnh, lấy hoa sen từ trong không khí, luyện đá thành vàng, và đôi khi cả chuyện dời sông lắp bể. Với mức độ tinh thần khác nhau, những đồ vật này sẽ tồn tại bên kia cõi trung giới và dần dần chúng hiện ra ngay trên cõi trần này. Chúng ta tưởng tượng xem, một phần mềm hoạt động được trên máy tính là nhờ lập trình viên viết chương trình hoạch định cho nó. Thì với sức mạnh tinh thần, ở cõi vô hình người ta cũng tạo được những hình nhân. Định dạng cho nó tính cách, hình thành cho nó khả năng, và mục tiêu hoạt động sẵn sàng. Một gã phù thủy thực hiện bùa phép hại người, thì y cũng sẽ tạo ra những hình nhân kiểu đó. Những hình nhân này nghe lệnh của y, tìm đến nạn nhân và liên tục quấy rối anh ta bên kia cõi vô hình. Tên hình nhân bám theo nạn nhân, và làm công việc được giao cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ mới trở về. Đến lúc này, tay phù thủy dùng thần chú để hủy hình nhân, nếu không kẻ bị hại tiếp theo sẽ là y. Khoa Mật tông Tây Tạng cũng luyện tinh thần bằng cách quán tưởng các vị thần được vẽ trên các Mạn-đà-la, nhưng là với tính cách từ bi. Sau đó, những vị thần được vẽ bên cõi vô hình này quay lại truyền năng lực từ bi cho người tạo ra nó. Trong quyển “Giáo lý bí truyền” có chương viết về những tay phù thủy ở châu Atlantis. Bọn tà giáo này ôm mộng lật đổ quyền lực của vị vua đương nhiệm, nên đã tạo ra một đạo quân với hình dạng chiến binh. Bằng khả năng tà thuật, các chiến binh này xuất hiện đàng hoàng bên cõi vật chất, và người đời đương nhiên trông thấy chúng. Đạo quân này đã đánh bại các binh sĩ của vị vua đương nhiệm, và tiến đến kinh thành, hòng biến cả châu Atlantis thành một vương quốc tà giáo. Tuy nhiên, dã tâm của bọn chúng đã bị hũy hoại bởi các vị Thánh từ cõi Bồ đề. Các vị này đã dùng chú, phá tan hoàn toàn đội quân hình nhân này, và bắt những kẻ tà giáo phải chịu khuất phục. Sức mạnh tinh thần có nhiều ích lợi, nhưng cũng thật tai hại cho nhân loại, nếu để kẻ tà tâm xấu xa nào đó chiếm được nó. Chính vì vậy, khoa yoga xưa nay luôn phải bí truyền và môn này chỉ được trao cho những người có tâm hồn thanh khiết. Ai có sức mạnh tinh thần, họ đều phải ý thức sự nguy hại, để nghĩ đến những điều hữu ích. Vì lẽ đó, khi các vị Bồ tát khi đạt đạo, chư vị luôn có những đại nguyện lớn vì ích lợi chúng sinh. Bằng sức mạnh của mình, các vị muốn ban rải tình thương cho đại chúng; chứ không như một số người hiểu nhầm, chư vị này chỉ cần những nguyện xuông như thế mà được phong thành Phật, thành Bồ tát.
  9. NHỮNG CƯ DÂN ĐÃ BƯỚC ĐI TRÊN ĐỊA CẦU Hành tinh chúng ta đã đi đến cuộc tịnh hóa lần thứ 4, và trong 4 lần tịnh hóa này chúng ta đã có 4 giống dân khác nhau [1]. Trong mỗi lần tịnh hóa, do hành tinh được cấu tạo bằng cõi khác nhau (cõi vật chất, trung giới…) nên hình dáng con người cũng thay đổi. Ví dụ: Hiện nay trái đất có vật chất, thì thể xác con người cấu tạo bằng vật chất; trước kia trái đất cấu tạo bằng thể trung giới, thì con người cấu tạo bằng chất trung giới [2]. * Ở lần tịnh hóa lần thứ 1: Thân thể của giống dân này làm bất chất thanh khí từ thể phách của cư dân ở dãi Nguyệt tinh (những hành tinh chết do ở thời kỳ cuối của cuộc tịnh hóa), nên họ không có hình dáng rõ rệt và chưa phát triển các quan. [2] * Ở lần tịnh hóa lần thứ 2: Thân thể của giống dân thứ 2 bắt đầu cấu tạo thô hơn giống dân thứ 1, bắt đầu phát triển hai giác quan nghe và rung động thân thể. Con người lúc này chưa phân ra đực cái, cá thể lưỡng tính, tự sinh sản bằng cách phân chia như tế bào. [2] * Ở lần tịnh hóa thứ 3: Được chia ra làm 3 thời kỳ - Thời kỳ 1: Con người đã có cơ thể vật chất, chưa phân biệt đực cái, thân thể có cả hai bộ phận sinh dục. - Thời kỳ 2: Con người lần đầu tiên được sinh ra từ trứng, trứng này được phân chia từ thân thể một cá thể bố mẹ. Bộ phận sinh dục bắt đầu phát triển không đồng đều. Đến giống chính thứ 4, thời kỳ tịnh hóa thứ 2, thì con người đã hình thành nam nữ, nhưng vẫn sinh ra từ trứng. - Thời kỳ 3: Giống dân thời kỳ này vẫn sinh ra từ trứng, nhưng trứng bắt đầu thụ thai từ cơ thể mẹ. Đến giống dân thứ 7, thì con người được sinh ra từ tử cung người mẹ. Trong thời kỳ thứ 3 này, con người chung sống đồng thời với loại thú Mégalosaure và Ptérodactyle. Cho nên dân cư Lémuriens có hình thù cao lớn, oai nghi, sức lực mạnh mẽ vô cùng mới chống cự nổi với những loài thú dữ kể trên đây. Họ có sắc da đỏ, song có nhiều màu từ đỏ nâu cho tới xám xanh. Có ba con mắt, hai con mắt hai bên (tai), một con ở chính giữa ẩn vào trong, gọi hạch trán hay là tùng quả tuyến (glande pinéale). Họ chỉ có thể phát ra vài âm thanh như loài thú hiện nay, người ta gọi giống một con mắt nầy là giống Cyclopes. Được dẫn dắt bởi các vị thánh từ dãy Nguyệt tinh, dân Cyclopes đã xây được nhiều thành trì rộng lớn, cất được những đạo viện hùng vĩ, bằng những hòn đá khổng lồ. Ví dụ, những hòn đá Pierres branlantes ở (Pegasus, Hy Lạp) , họ dùng để liên lạc với các vị thần. - Ở lần tịnh hóa thứ 4: Chúng ta đang ở lần tịnh hóa thứ 4, cuộc tuần hoàn thứ 4, và giống dân thứ 5. + Giống thứ 1: Là giống Rmoahal chăn nuôi súc vật di cư dưới quyền của các vị Thánh Đế. + Giống thứ 2: Giống Tlavatli nhờ Tiên Thánh dắt dẫn, nên rất văn minh song ưa chuộng hòa bình. + Giống thứ 3: Giống Toltec (Atlantis). Giống này có hình dáng vạm vỡ, cao trung bình đến 8m, thịt da cứng hơn đá, cơ thể có thể tự lành vết thương (giống thạch sùng có thể mọc lại đuôi). Họ cực kỳ văn minh, và tiến bộ cả về văn chương, khoa học, mỹ thuật… Họ biết chế tạo máy bay, tàu vũ trụ và dùng năng lượng gọi là Vrill, được trích lọc từ chất dĩ thái (éther). Ngoài ra họ phát triển cực thịnh về nông nghiệp, chăn nuôi, luyện kim (chế nguyên liệu khác thành vàng). Trong chiến tranh họ dùng các loại bom giết người hàng loạt, tương tự vũ khí nguyên tử hiện nay. Về sau do họ ỷ vào trí tuệ của mình, đánh đuổi các vị tiên thánh từ dãy Nguyệt tinh, nên bị giáng một trận đại hồng thủy, và bị diệt vong hoàn toàn. + Giống thứ 4: Giống Turanien hung bạo và ưa chiến tranh, nhưng văn minh. + Giống thứ 5: Bao gồm các nhánh sau Giống phụ: Sémites, tổ tiên giống Do Thái hiện nay. Giống phụ: Aryens, tổ tiên người da trắng hiện nay. Giống phụ: Akkadiens ưa phiêu lưu, di cư qua miền duyên hải Địa Trung Hải sinh ra dân Pélasges, Etrusques, Carthaginois và Scythes. Giống phụ: Giống Mông Cổ ở Bắc Á châu sinh ra người Trung Hoa ở trung nguyên (không phải người Trung Hoa ở dựa mé biển). Người Ma lai, người Tây Tạng, người Hung Gia Lợi, người Phanh noa (Finnois), người Ết ki mô (Esquimaux) và người Nhựt Bản là một nhánh của giống Mông Cổ. Và một số giống phụ khác… [1] Bí quyết Thông Thiên Học [2] Đạo lý thuyết minh
  10. THÔNG THIÊN HỌC QUAN NIỆM VỀ VŨ TRỤ Thông Thiên Học cho rằng: - Thái dương hệ của chúng ta gồm 7 hành tinh có sự sống. - Một hành tinh có 7 lần tịnh hóa - Một cuộc tịnh hóa có 7 lần tuần hoàn - Một lần tuần hoàn có 7 bầu hành tinh: (1) cõi tâm linh, (2) cõi trực giác (cõi bồ đề), (3) cõi thượng trí, (4) cõi hạ trí, (5) cõi trung giới, (6) cõi hồng trần, (7) dãy nguyệt tinh. - Một bầu hành tinh có 7 giống dân sinh ra. - Một giống dân có 7 giống dân phụ hợp thành. - Một giống dân phụ có 7 giống dân chi tiết hợp thành. * Hành tinh trong thái dương hệ có sự sống: Có tất cả mười hành tinh trong Thái dương hệ, nhưng chỉ có 7 hành tinh có vật chất: 1- Hệ tiếng hóa của một hành tinh chưa nhận ra, gọi là Hỏa vương tinh. Hành tinh này đã tiến đến cuộc tịnh hóa lần thứ 3, và chỉ có một bầu vật chất thấy được. 2- Sao Kim tinh. Đang ở cuộc tịnh hóa lần thứ 5, chỉ có một bầu vật chất thấy được. 3- Sao Hỏa tinh, Thủy tinh và Trái đất, có 3 bầu vật chất và đang ở cuộc tịnh hóa lần thứ 4. 4- Sao Mộc tinh, sao Thổ tinh, sao Thiên vương tinh. Các sao này đang ở cuộc tịnh hóa lần thứ 3. 5- Sao Thủy vương tinh, và hai sao bên ngoài quỹ đạo của Thủy vương tinh. Sao này đang ở vào cuộc tịnh hóa lần thứ 4, và có 3 bầu vật chất như trái đất. Một hành tinh tiến đến chu kỳ cuối cùng của cuộc tịnh hóa, ta gọi chúng là Nguyệt Tinh. * Chu kỳ của một cuộc tuần hoàn: Mỗi lần tuần hoàn của một hành tinh thì sinh ra một bầu hành tinh, chúng có thứ tự lần lượt là: (1) cõi tâm linh, (2) cõi trực giác (cõi bồ đề), (3) cõi thượng trí, (4) cõi hạ trí, (5) cõi trung giới, (6) cõi hồng trần, và (7) dãy nguyệt tinh. Chu kỳ tiến hóa này diễn ra từ cao đến thấp, đến hết chu kỳ lại tiến từ thấp đến cao. Ví dụ: Trái đất của chúng ta đang ở lần tịnh hóa thứ 4, cuộc tuần hoàn thứ 4, bầu hành tinh thứ 4. (HT: Bầu hành tinh; TL: Cõi tâm linh; BĐ: Cõi bồ đề; TT: Cõi thượng trí; HT: Cõi hạ trí; TG: Trung giới; VC: Cõi vật chất; CT: Cõi hồng trần) Hành tinh HT1 HT2 HT3 HT4 HT5 HT6 HT7 Tuần hoàn 1 TL BĐ TT HT TT BĐ TL Tuần hoàn 2 BĐ TT HT TG HT TT BĐ Tuần hoàn 3 TT HT TG TG TG HT TT Tuần hoàn 4 HT TG VC VC VC TG HT Tuần hoàn 5 TT HT TG CT TG HT TT Tuần hoàn 6 BĐ TT HT TG HT TT BĐ Tuần hoàn 7 TL BĐ TT HT TT BĐ TL * Chu kỳ sinh tiến hóa: Theo Thông Thiên Học thì, quá trình tiến hóa của một con người hiện nay như sau: - Tiến hóa lần thứ 1: là khoáng sản. - Tiến hóa lần thứ 2: là thảo mộc. - Tiến hóa lần thứ 3: là cầm thú. - Tiến hóa lần thứ 4: làm người như hiện nay. Và điều ngạc nhiên là, chúng ta không phải tuần tự tiến hóa như thế trên trái đất này, mà là chúng ta luân phiên tiến hóa lần lượt qua các dãy hành tinh. - Dãy hành tinh thứ 1 (Trái đất): Làm khoáng sản mức 1. - Dãy hành tinh thứ 2 : Làm khoán sản mức 2. - Dãy hành tinh thứ 3 (dãy Nguyệt tinh – những hành tinh chết) : Làm khoán sản mức 3. - Dãy hành tinh thứ 4: Làm khoán sản mức 4. - Dãy hành tinh thứ 5: Làm loài thảo mộc. - Dãy hành tinh thứ 6: Làm cầm thú. - Dãy hành tinh thứ 7: Làm người. Dãy hành tinh ở đây không có ý nghĩa chỉ một hành tinh cụ thể nào, ngoài dãy thứ 1 và dãy thứ 3; vì mỗi hành tinh có chu kỳ tiến hóa khác nhau, cuộc tuần hoàn khác nhau, bầu hành tinh khác nhau nên tên hành tinh không thể là cố định (xem phần: Hành tinh trong thái dương hệ có sự sống). Ví dụ: Hiện nay làn sóng sinh hoạt của Thái dương hệ đang tập trung vào Địa cầu, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là hai hành tinh Thủy tinh và Hỏa tinh, không có sự sống. Người ta cũng nhận thấy ở đây có con người, cầm thú, thảo mộc. Trên mỗi hành tinh mức độ tiến hóa sẽ không đồng đều, những người tiến hóa trước nghỉ ngơi trên cõi trí, đợi những người tiến hóa sau . Đến cuối chu kỳ của mỗi cuộc tịnh hóa trên một hành tinh nào đó, tất cả sẽ được nhảy từ dãy hành tinh này sang dãy hành tinh khác, với một kiếp sống khác. * Con người đã được sinh ra như thế nào? Như vậy, trong quá khứ những người tiến hóa nhất ở dãy Nguyệt tinh (những hành tinh chết) đã xuống trái đất trong cuộc tịnh hóa lần thứ 1, và đã tạo ra các hình thể vật chất đầu tiên ở địa cầu. Kế đến, những con thú tiến hóa nhất trong loài thú Nguyệt tinh đầu thai vào những hình thể được lập sẵn này. Đến cuộc tịnh hóa lần thứ 2 của trái đất, những người-thú ít tiến hóa nhất trong loài người ở dãi Nguyệt tinh, đầu thai làm những người dìu dắt cư dân địa cầu. Trong khi đó, những con thú tiến hóa nhất ở dãi Nguyệt tinh đầu thai làm đa số nhân loại. Trong cuộc tịnh hóa lần thứ 3, một phần lớn thú ở dãi Nguyệt tinh tiếp tục chuyển kiếp thú thành kiếp người, trong đa số nhân loại chúng ta. Bên cạnh đó, những hạng người thứ nhì của người Nguyệt tinh đến đầu thai đến dẫn dắt nhân loại. Đến cuộc tịnh hóa lần thứ 4, tức là cuộc tịnh hóa hiện nay, hạng nhân loại thứ nhất ở dãi Nguyệt tinh lan tràn trên chúng ta. Đó là những người tiến hóa nhất và tốt nhất ở Nguyệt tinh nhưng chưa đạt mục đích cuối cùng trên đường đạo. Họ đã thành Chơn tiên Thánh thiện và đã rời địa cầu. Một số khác, ít tiến hóa hơn, nhưng cũng đã đắc chơn tiên, tương đối gần chúng ta hơn, nghĩa là chừng vài nghìn năm. Đó là các vị chơn tiên hiện nay. Ngoài cuộc tiến hóa tâm linh hay là cuộc tiến hóa của linh hồn con người, thì cuộc tiến hóa của thể xác cũng đồng thời xãy ra. Trong cuộc tịnh hóa lần thứ 1, những hình thể được tạo ra ban đầu của con người hoàn toàn bằng chất dĩ thái. Chúng giống như các cụm mây trôi nổi trong không gian, không có hình dạng rõ rệt. Đến cuộc tịnh hóa lần thứ 2, chúng mới là vật chất hữu hình nhưng cũng không có hình dáng rõ nét, rất nhẹ và có thể bay lang thang khắp nơi. Và chỉ đến cuộc tịnh hóa thứ 4 này, các hình thể ấy mới có một vài điểm giống con người hiện nay. Con người ở thời kỳ sơ khai đều lưỡng tính (bán nam bán nữ), sự phân chia đực cái chỉ xảy ra ở giữa cuộc tịnh hóa thứ 3. Từ đó các hình thể con người tuần tự tiến hóa, lần lần được tinh luyện và cứng cáp hơn trước. Chúng đứng thẳng, không bò như kỳ đầu và lần lần tự phân biệt với hình thể các con thú. Có một ngoại lệ lạ lùng trên đường tiến hóa đáng được nêu ra. Vào cuộc cuộc tịnh hóa lần thứ 4 (tại địa cầu), sẽ là cơ hội cuối cùng cho cho những loài thú chuyển kiếp. Vì vậy, một cố gắng lớn được đem ra thử, một kế hoạch đặc biệt được dựng lên để tạo một dịp may chót cho chúng. Đó là tạo điều kiện cho những con thú chậm trễ ở cuộc tuần hoàn lần thứ 3, chúng được tạo cơ hội làm người, và tự nhiên không thể đạt liền mức tiến hóa cao được. Dù sao, khi đến dãy hành tinh tương lai, chúng có sẵn một chút kinh nghiệm về trường hợp này. * Những người anh em của cư dân địa cầu: Cuộc tiến hóa của Địa cầu chúng ta có được sự khích lệ mạnh mẽ từ người anh em Kim tinh. Hành tinh này đang ở vào cuộc tịnh hóa lần thứ 5, và cuộc tuần hoàn thứ 7, cho nên dân cư trên đó đã tiến rất xa chúng ta. Và đúng vào thời kỳ xáo trộn của Địa cầu, thời điểm sinh ra các giống dân thứ 4, các đấng Chơn tiên ở Kim tinh được chuyển đến địa cầu chúng ta để dẫn dắt nhân loại. Các vị ấy được gọi là Hỏa Đức Tinh Quân hoặc là Hoàng tử của Sương-mù-lửa. Các vị đó có ảnh hưởng rất to lớn đối với sự tiến hóa của chúng ta. Nếu theo sự tiến hóa thông thường, thì hiện nay nhân loại mới phát triển được các tiến bộ về năng khiếu cảm xúc, nhưng chúng ta đã đi vượt quá chương trình đã định. Phần nhiều các vị ấy cũng chỉ ở với chúng ta trong thời kỳ khủng hoảng của địa cầu hiện nay mà thôi, sau khi hoàn thành nhiệm vụ các vị ấy sẽ từ biệt chúng ta. Sự tiến hóa của chúng ta bao gồm hình thể và tinh thần. Trong giai đoạn tiếp theo, con người sinh ra ngày càng đẹp hơn, trí tuệ minh triết và bác ái hơn. Trong sự tiến hóa này, những linh hồn ấu trĩ sẽ không còn theo kịp, họ bị bắt buộc phải tách ra và đợi đến cuộc tiến hóa lần sau. Người ta ước lượng có khoảng hai phần năm nhân loại sẽ rơi vào tình trạng ấy. Ba phần năm nhân loại còn lại sẽ tiếp tục tiến mau đến số phận huy hoàng đang chờ họ.
  11. ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT MỞ ĐẦU Với chúng ta, cái chết quả thật đáng sợ. Chết là hết, mọi thứ sở hữu của ta trên cõi đời sẽ tiêu tan theo mây khói: tiền bạc, nhà cửa, người thân… thậm chí ngay đến cái nút áo cũng chẵng được mang theo nửa kìa. Nhưng điều gây hoan mang nhất cho ta, ta phải làm gì, ta sẽ đến đâu sau khi chết? Âm ti địa phủ: ta phải vào cửa ngục nào, liệu có bị tra tấn bằng roi vọt, bị nhúng vào dầu đang sôi…hay là được lên thiên đàn hội ngộ cùng đức Chúa Trời. Với cái chết, mỗi tôn giáo điều có cách lý giải khác nhau. Thông Thiên Học thì cho rằng, “cái chết là người bạn chứ không phải kẻ thù”, “là một sự cố hoàn toàn tự nhiên trong quá trình sinh hoạt của ta”, “là một bước cần thiết trong cuộc tiến hóa”. Thế thì, ai cũng phải chết, không ai có thể trường tồn mãi mãi (trừ những bậc đạo sư); và điều đó làm cho ta có đủ can đảm chấp nhận cái chết, xem xét nó, ý thức được nó. HÀNH TRANG CỦA TA KHI VỀ BÊN KIA CÕI CHẾT Cái chết không mang chúng ta đi đâu quá xa, như địa ngục dưới lòng đất sâu thẳm tối tăm, hay thiên đường cao chót vót trên bầu trời xanh lơ mà chúng ta nhìn thấy hằng ngày. Cái chết đưa chúng ta đến một cõi giới khác, ngay tại nơi chúng ta vừa trút hơi thở cuối cùng, nhưng cõi giới này chỉ chứa đựng vật chất tinh vi, tinh vi đến nỗi mắt thường không nhìn thấy được. Vì vậy, hoàn toàn không có sự chia cách nào với người thân của ta, có chăng họ đánh mất khả năng nhìn thấy ta, dù ta đang ở ngay bên cạnh họ. Bên kia cõi chết, hành trang mang theo của ta dĩ nhiên là những trí năng, phẩm tính, quyền năng; “của điều mà chính con người đã tạo ra, đã nói năng và suy nghĩ mà ta có được” khi còn sống. Nghĩa là, ta càng ý thức về cái chết càng nhiều bao nhiêu, thì hành trang ấy sẽ giúp ta tránh được nhiều phiền toái, thậm chí cả những đau khổ cùng cực, mà ta gặp phải. QUÁ TRÌNH CỦA CÁI CHẾT Sự chết xảy ra khi sợi dây từ điện nối giữa thể xác và thể vía bị đứt, và thể vía được chuyển sang hoạt động ở cõi trung giới. Khi qua đó, nó sẽ được sắp xếp lại; và tùy theo những nghiệp quả của y đã tạo ra, thể vía đó sẽ được cấu tạo bằng chất dĩ thái thô trược hay tinh vi. Cõi trung giới, nơi hoạt động của thể vía, bao gồm 7 cảnh khác nhau. Các cảnh này có mức rung động từ thô trược đến tinh tế, một thể vía thù hằn và đầy dục lạc sẽ không thể nào tiến lên cảnh cao hơn; ngược lại một thể vía cao thượng sẽ đi qua các cảnh thấp này mà không dừng lại ở đấy. Thể vía sống ở cảnh thấp chỉ có thể tiến lên cảnh cao hơn, nếu chất dĩ thái cấu tạo thể vía của y được biến đổi. Bởi vì khi ta còn sống, các rung động yêu thương, thù ghét… được sử dụng để kích động các phần nặng nề của thể xác. Bây giờ không còn thể xác, tất cả sức mạnh của rung động đều tập trung vào thể vía. Như vậy, nếu con người không quen chế ngự chúng và nếu y không thỏa mãn chúng thì trong đời sống ở cõi trung giới của y sẽ kéo dài và đau khổ nhiều. Điều này rất dễ dàng đối với những người hiểu biết, nhưng lại khó khăn cho những ai chỉ muốn bám riết vào những thói quên khi còn sống ở cõi trần. Bên kia cõi trung giới, nếu thể vía có những ham muốn thấp hèn, thì y sẽ lập tức hút các hạt dĩ thái thô trượt vào thể vía của y, khiến thể vía càng thêm nặng nề. Y sẽ bị giam trong lớp võ này, và nó sẽ kéo y xuống cõi thấp hơn, cõi của loài ma Kāmaloka, và cam chịu những phiền toái của chốn bất hảo này. Nhưng nếu y ý thức và biết rũ bỏ những ham muốn nguy hiểm này, lập tức y sẽ hút được các chất dĩ thái tinh tế, và dĩ nhiên y sẽ thăng lên cảnh cao hơn. Cứ thế, người chết loại bỏ dần những ý thức xấu xa và từ bước tiến lên mỗi cảnh cao hơn, cho đến khi những ý thức xấu xa này chỉ còn ở dạng tiềm tàng, đây là lúc y bắt đầu thăng lên cõi cao hơn, cõi thượng giới. Ngay lúc này, người chết loại bỏ thể vía lại cõi trung giới, y như quá trình loại bỏ thể xác. Tuy nhiên thể vía không hoàn toàn ta rã ngay, mà sự kiện này diễn ra một thời gian hạn định. Đối với những người có chứa nhiều dục vọng, thể trí của y gắn chặt với thể vía, vì thế y phải mất nhiều quyết tâm để loại bỏ nó. Sau khi tách rời thể trí khỏi thể vía, một phần sinh lực và trí tuệ của thể trí bị nhốt trong thể vía. Vì vậy, thể vía này còn giữ ít nhiều sự sống và còn lưu giữ một phần ký ức trước kia của người sống, nó có thể nói về minh giống như người chết. Những cái võ này, đôi khi bị các tinh linh quỉ quái xâm chiếm làm nơi trú ngụ, nó sẽ tham gia vào các buổi cầu cơ, lên đồng. DÂN CƯ CÕI TRUNG GIỚI Ở cõi trung giới, vía của những người chung một quốc gia và chung một quyền lợi trần gian đều tụ họp thành nhóm như ở hạ giới chúng ta. Thí dụ người mộ đạo nhiệt thành đã tự tạo một cõi trời riêng không tụ họp với những người khác đạo; vì những người này có ý tưởng hạnh phúc thiên đàng không hạp với y. Tuyệt nhiên không có gì cản trở sự đi đi lại lại của một người Thiên chúa giáo ở cảnh trời của người Bà la môn hay Hồi giáo. Nhưng ít khi họ làm như vậy, vì quyền lợi và sự lôi cuốn đều thuộc về tôn giáo riêng của họ; nơi đó họ gặp những bạn bè cùng chia xẻ tín ngưỡng của họ. Ðừng bao giờ tin rằng những cảnh trời cấu tạo như thế là thật; đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Với những thiền nhân, sau khi chết mà không để cho thể vía tự tổ chức lại theo bản năng tự nhiên thì có thể tự do di chuyển trong cõi vía và đi đến bất cứ nơi nào tùy ý ở cõi ấy. Y sẽ thấy toàn diện các điều y quan sát khác hẳn mà đã từng thấy trước đây, y thấy dân cưu cõi vía không mấy đông đảo. Vì cõi vía rộng rãi thênh thang hơn mặt đất nhiều. Cư dân thể vía không chỉ là những người đã chết, mà còn có thể vía của những người đang ngủ, các tinh linh ngũ hành, các thiên thần. Các tinh linh ngũ hành này dân gian gọi là tiên, quỉ lùn, thổ địa, yêu quái, thần. Chúng được cấu tạo bằng chất dĩ thái hồng trần, ở ngay ranh giới của tầm mắt thịt thông thường. Chúng tránh xa thói hám lợi của người trần nên thường sống ở miền quê hẻo lánh, trong kẹt núi, rừng hoang… Những tinh linh này thường hay thay hình đổi dạng, chúng thường thích lấy hình người nhưng thu nhỏ lại. Những vị này có tính tình hồn nhiên như trẻ con, tuy nhiên cũng có những vị tiến hóa cao bằng người. Thường người ta chia chúng ra thành bốn hạng: thần đất, thần nước, thần gió và thần lửa. Nhưng chỉ có thần gió mới sống ở cõi vía. Một loài lớn khác cũng có mặt ở cõi vía, đó là các Thiên thần (devas). Sự tiến hóa của loài này cao hơn người, tương đương với mức tiến hóa của những người tốt. Vậy thì, nhân loại không phải là cư dân duy nhất sống trên trái đất này. Bên cạnh chúng ta còn có những loài khác, mặc dù phải bắt buộc phải trải qua một trình độ tiến hóa tương đương với trình độ tiến hóa của nhân loại. Ở trên con đường này còn có sự tiến hóa rộng lớn hơn, mà ta gọi là các thiên thần, tuy nhiên mức độ tiến hóa của chúng ta ngày nay chưa có cơ hội tiếp xúc cùng với các cư dân này. THẤY GÌ Ở CÕI TRỜI Sau khi thoát khỏi cõi trung giới, người chết tiến vào cõi trời, cõi phúc lạc, nơi được nhiều tôn giáo mô tả trong các kinh sách của mình. “Ki Tô giáo và Hồi giáo bảo rằng nó là phần thưởng mà Thượng Đế ban cho những kẻ nào đã làm vừa lòng ngài”, và các tôn giáo khác cho rằng nó là kết quả dành cho những ai có việc làm cao đẹp ở thế gian này. “Trong các thánh thư của Phật giáo và Ấn Độ giáo bạn ắt thấy có những bài tường thuật đao to búa lớn về những khu vườn bạt ngàn trong đó cấy cối đều bằng vàng hoặc bạc, còn trái cây thuộc đủ loại ngọc quí”, còn “Do Thái giáo không quen thuộc với những điều như thế, nhưng y ở trong một đô thị to lớn và tráng lệ - có lẽ là Alexandria”. Nhưng Thông Thiên Học quan niệm rằng, “cõi trời không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái tâm thức”, nó ở ngay tại nơi đây, kề bên cái không khí mà ta đang hít thở. Trên cõi này ta thấy, có “sự viên mãn vô hạn của Trí tuệ Thượng Đế” dành cho những linh hồn tiếp thu, tùy theo tư cách của y, theo phương thức “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Sau khi những tư tưởng thấp hèn của thể vía, đã trở về dạng tiềm ẩn trong thời gian người chết tôi luyện ở cõi trung giới. Thì trên cõi trời này, những tư tưởng thanh cao mà y đã thể hiện ra trong đời sống trước, tạo thành chất dĩ thái tinh vi bao bọc quanh y. Chính lớp vỏ sáng chói này sẽ thu hút những chất dĩ thái thanh cao nơi cõi trời, hoài bão của người chết như thế nào, y sẽ thu hút vật chất phù hợp với nó. Ví dụ: người chết vốn là người yêu âm nhạc, tức thì y sẽ thu hút vào nơi tràn đầy âm nhạc, nơi của những nhạc sĩ tài hoa đang lưu trú. Ở đây y sẽ học hỏi các tài năng âm nhạc này, những kinh nghiệm trong quá trình này sẽ được lưu trữ trong thể trí của y; và nó sẽ được chuyển thành năng khiếu, niềm đam mê khi y chuyển tiếp làm người trong kiếp tới. Trong một chiều hướng khác, người chết có một hoài bảo lớn lao, hoài bảo này sẽ thu hút y đến nơi những chân linh tối cao phụ trách công việc đó, tại đây, y sẽ được học hỏi những kỷ năng của những thiên thần này. “Trong âm nhạc họ sẽ sử dụng mọi loại hài âm và biến điệu mà trước kia y chưa hề biết tới, trong nghệ thuật họ sẽ quen thuộc với cả ngàn loại hình mà y chưa hề quan niệm tới”. Đối với những người khác, trong đời sống cõi trần, nếu họ đặt trọn niềm tin và hay suy tưởng về một đấng giáo chủ tôn giáo hay chân sư nào đó như Phật, Chúa…thì khi thăng lên cõi trời. Y sẽ được tiếp xúc với các vị này, và được các vị trực tiếp giáo huấn. NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG BÊN KIA CÕI VÔ HÌNH Nói về sự giúp đỡ của người bên cõi vô hình, với những người đang sống thì có hai dạng. Một là, những người mà ta gọi là những người đã chết. Những người này đôi khi can thiệp vào công việc của người cõi trần, nói đôi khi, vì họ luôn ý thức được bản thân, nên họ mong muốn làm sao nhanh chóng thăng lên cảnh giới cao hơn, mà sự quyến luyến với công việc của con người là một điều có hại. Hiệu quả của sự can thiệp này, tùy theo mức độ tiến hóa của linh hồn người chết. Y tiến hóa càng cao, thì khả năng giúp người sống càng nhiều, nhưng những linh hồn này lại xa lìa cõi trần nhanh nhất. Hai là, những người còn sống, những thiền nhân tu đạo hoặc là những người bằng một phương pháp bí truyền nào đó, biết cách sử dụng thể vía của mình hoạt động một cách có ý thức bên kia cõi trung giới. Những người này tìm cách giải quyết các rắc rối của người chết, lẫn người sống gặp phải với điều kiện ràng buộc. Họ an ủi những người chết còn đang ngỡ ngàng bên cõi trung giới, hay họ mang đến một thông điệp cứu người sống thoát khỏi một tai nạn nguy hiểm đến tính mạng nào đó. Đôi khi họ được phép cứu sống một người nào đó trong những vụ tai nạn “nghìn phần chết một phần sống”.
  12. KHI NÀO THIỀN NHÂN KHÔNG CÒN TÁI SINH? * Thành quả của thể thứ 4: Khi thiền nhân hoàn thành thể thứ 4 ngay trong đời sống hiện tại của mình, thì anh ta được sinh vào bình diện của thần deva. Tuy nhiên, một người nào đó trong đời sống mà y không ý thức được rằng mình được kích hoạt đến thể thứ 4, thì y sinh vào preta, hiện thân của linh hồn ác. Bởi vì y không ý thức được khả năng của mình và gây ra nhiều tai hại. Cả deva và preta đều phải quay lại làm người. Preta phải quay lại để nhận biết khả năng của mình. Còn cõi deva, cõi hạnh phúc, hạnh phúc đến nhàm chán, do không có thêm sự phát triển nào đến với nó ở trạng thái này. Dân gian thường có những câu truyện ngụ ngôn về các thần trốn xuống hạ giới, kết hôn cùng người phàm trần. Ý nghĩa của câu chuyện này là trạng thái buồn chán của cõi thiên. * Thành quả của thể thứ 5: Thành quả của thể thứ 5 là sự giải thoát. Đến đây bản ngã của hành giả tan biến, nhị nguyên chấm dứt mặc dù cảm giác về tính chất tôi vẫn còn tồn tại. Khi hành giả đạt đến thể thứ 5, anh ta không còn phải quay lại làm người, anh ta đã chấm dứt luân hồi. Đến lúc này anh ta chết đi và được sinh ra lần thứ 2 chính trong bản thân anh ta, anh ta chết đi trong thể thứ 5, để vào thể thứ 6. Từ thể thứ 6 đi vào thể thứ 7 là cái chết. Thể thứ 7 không bao giờ đạt được trong thân thể này, vì giữa cõi thứ 6 và thứ 7 chỉ là ranh giới. BẬC ĐẠO SƯ ĐƯỢC GIÁNG THẾ NHƯ THẾ NÀO? Khi hành giả đạt đến thể thứ 5, thể không còn tái sinh, thì anh ta phải bỏ lại các thể trước của mình. Tuy nhiên, nếu muốn tái sinh làm người thì anh ta cần phải giữ lại được thể thứ 4 của mình. Vì vậy, trước khi chết anh ta cần phải có hàm muốn làm mộc bậc tái sinh (tirthankara) để phụng sự nhân loại, ham muốn này là điều kiện thúc đẩy anh ta giữ lại thể thứ 4. Vì vậy, khi một người được chuẩn bị làm tirthankara, thì sau khi chết, thể thứ 4 của anh ta được giữ gìn rất cẩn thận. Có rất nhiều linh hồn tiến hóa cao cấp tham gia vào việc giữ gìn này.
  13. BẢY THỂ VÀ BẢY LUÂN XA Vì con người có 7 thể, nên có 7 luân xa, đây là các trung tâm năng lượng được nối một cách đặt biệt đến các thể của nó. * Luân xa số 1 / luân xa thể vật lý (muladhar): Đây là luân xa đầu tiên và được nối toàn diện với thể vật lý. Nó có hai khả năng: khả năng tự nhiên là thôi thúc dục trong con người, khả năng thứ hai là việc thu năng lượng thông qua thiền, bằng việc kích hoạt hỏa xà. Vì đây là chức năng dục, nên nhiệm vụ của hành giả là phải đạt trạng thái vô dục (không thèm muốn chứ không phải kìm nén) – gọi là brahmacharya. Đây là chướng ngại đầu tiên của hành giả, nếu hành giả mê đắm vào trật tự mà tự nhiên xếp đặt, hành giả khó thoát khỏi giai đoạn thứ nhất. Hành giả đạt đến brahmacharya, khi hành giả biết được dục; nghĩa là anh biết được khi nào dục đến với anh ta, và anh không đuổi theo nó. * Luân xa số 2 / luân xa thể phách (svadhisthan): Luân xa số 2, tiềm năng tiềm năng tự nhiên của nó là: sợ hãi, căm ghét, giận dữ và bạo hành. Nhiệm vụ của hành giả là biến đổi nó thành: tình yêu, từ bi, dũng cảm, thân thiện. * Luân xa số 3 / luân xa thể vía ( manipur): Luân xa số 3, tiềm năng tiềm năng tự nhiên của nó là: hoài nghi và suy nghĩ. Nhiệm vụ của hành giả là: biến đổi hoài nghi thành tin cậy; và biến đổi suy nghĩ thành vivek. Hành giả phải loại bỏ hoài nghi, phân biệt. Nếu đạt được điều này hành giả chỉ còn lại các quyết định thuần khiết. * Luân xa số 4 / luân xa thể trí (anahat): Phẩm chất tự nhiên của luân xa này là: tưởng tượng và mơ. Nếu tưởng tượng được phát triển đầy đủ nó sẽ trở thành quyết tâm và ý chí. * Luân xa số 5 / luân xa tâm linh (vishuddhi): Đến luân xa số 5 không còn nhiều nổ lực cho thiền nhân thực hiện, cái nhị nguyên dừng tại luân xa này, bản thân nó chính là bất nhị. Tại đây, thiền nhân chỉ cần đi vào, và đã phát triển đến thể thứ 4, thì thiền nhân có nhiều khả năng bước vào thể thứ 5. Đến giai đoạn này loại bỏ hẳn trạng thái vô ý thức, nghĩa là người này không ngủ, chỉ có xác thân anh ta ngủ, nhưng mọi diễn biến của anh ta hoàn toàn tỉnh giác. Nhưng khi đạt đến thể thứ năm (atma gyan) cũng có những nguy hiểm của nó. Khi đạt đến đây, bạn biết tới bản thân mình, và nhận được phúc lạc đến mức bạn muốn dừng lại cuộc hành trình tại đây và không muốn đi thêm nữa. * Luân xa số 6 / luân xa thể vũ trụ (agya): Luân xa thứ 6 không còn tồn tại nhị nguyên. Thiền nhân đạt đến luân xa số 6, anh ta sẽ đánh mất cái tôi, anh ta đạt tới Brahman. * Luân xa số 7 / luân xa thể niết bàn (sahasrar): Đây là con đường cuối cùng. Bình diện thứ bẩy chỉ dành cho những người dũng cảm - người đã biết cuộc sống và hăm hở biết cái chết, người hăng say thám hiểm cái chết, trạng thái tuyệt diệt. Họ hăng say biết vô hiện hữu là gì, tuyệt diệt giống cái gì, vô hiện hữu là gì. Họ đã nếm trải cuộc sống; bây giờ họ muốn nếm trải cái chết.
  14. CÁC THỂ CỦA CHÚNG TA PHÁT TRIỂN NHƯ THẾ NÀO? Khi ta dưới 7 tuổi Khi con người bắt đầu thụ thai, sinh ra và lớn lên. Trong bảy năm đầu, thể vật lý (thể xác) một mình hình thành và phát triển, các thể khác còn đang ở trong dạng mầm. Giai đoạn mới sinh này con người giống như một con vật, không có trưởng thành trí tuệ, xúc cảm hay ham muốn. Thời kỳ 7 tuổi đến 14 tuổi Trong thời gian này thể phách phát triển. Đây là giai đoạn trưởng thành về xúc cảm của cá nhân, và dục tính phát triển. Đôi khi một số người bị mắc kẹt và trì trệ trong giai đoạn này, họ không phát triển khả năng xúc cảm, dục tính… Thời kỳ 14 tuổi đến 21 tuổi Trong thời kỳ này thể vía phát triển, khả năng lập luận, tư duy và trí tuệ con người cũng được nâng cao. Sau khi phát triển hoàn thành thể thứ hai, con người gần như được trưởng thành. Các thể tiếp theo ở dạng tiềm năng trong con người, và trong một quá trình tiến hóa dài lâu sắp tới, con người sẽ phát triển thể vía (thể thứ tư). Nghĩa là con người có khả năng thần nhãn, quan sát và làm việc bên kia cõi trung giới. Và quá trình tiến hóa này phải mất vài nghìn năm. Tuy nhiên, với phép môn yoga, người ta có thể rút ngắn gian đoạn. Trong lịch sử của nhân loại, cũng đã chứng kiến những con người đã phát triển tới thể thứ tư. Đó là những nhà ngoại cảm, những nhà phù thủy, những nhà bói toán có khả năng dự đoán khá chính xác tương lai…tuy nhiên những tiềm năng này của họ chưa phát triển toàn diện. Bất kỳ một nhà tập luyện yoga nào cũng bắt đầu với thể thứ tư này. Sau khi hoàn thành tập luyện thể thứ tư, con người cũ của hành giả sẽ chết. Y sẽ được sinh ra lần thứ hai trong kiếp này, với một con người có cá tính hoàn toàn mới. Mọi thói quen xưa cũ của y sẽ được rút bỏ, y không còn ý nghĩ và hành vi bạo lực. Và một số phép màu sẽ đến với hành giả khi y luyện tập hoàn thành thể thứ tư này. Thể thứ 5, dưới 35 tuổi Người ta sẽ phát triển tới thể thứ 5 khi 35 tuổi, nhưng đây là việc hoang đường, vì loài người hiện tại chỉ mới dừng lại ở thể thứ 4. Thể thứ 6, dưới 42 tuổi Hành giả chỉ đạt tới thể thứ 6, khi quyết tâm bỏ thể thứ 5. Thể thứ 7, dưới 49 tuổi Thể thứ 7 là thể niết bàn, thể hư không. Đây là trạng thái tối thượng của cái hư không còn lại, tất cả đều biến mất. Và đây là cảnh giới tiến hóa cao nhất của con người. Nếu nhìn nhận yoga như một môn khoa học thực thụ sẽ giúp con người tiến hóa hóa nhanh hơn nhiều lối sống trì trệ hiện nay. Và cũng từ đó, có sự phân biệt từng giai đoạn phát triển con người, mà phân bố cho việc rèn luyện các thể.
  15. 4- Thể trí: (cõi trí tuệ / Devaloka / cõi của Chư thiên): * Đặc điểm: Cõi trí tuệ (hay thể trí) bao gồm hai tập hợp: - Tập hợp thứ nhất: Gồm bốn cảnh dưới, gọi là rūpa, tức sắc giới hay là hạ trí. - Tập hợp thứ hai: Gồm ba cảnh trên, là arūpa, tức vô sắc giới hay là thượng trí. Đây là thể trường tồn của chơn ngã (chơn nhơn) kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. * Thể Hạ Trí: Thể hạ trí được cấu tạo bởi vật chất của bốn cảnh thấp thuộc Devachan. Thể hạ trí được cấu tạo bằng vật chất cực kỳ tinh vi. Nó là cái tâm chân chính của mỗi con người chúng ta lúc tỉnh táo Đối với người bình thường, khi vận dụng năng lực trí tuệ của mình, thì nó hút vật chất cõi trần và cõi trung giới để cấu tạo nên nó. Quá trình suy nghĩ được chuyển từ thể trí sang thể vía, thể vía chuyển sang thể vật lý. Việc tự độc lập suy nghĩ, tạo điều kiện cho thể trí của ta phát triển; nếu ta chỉ dừng lại bằng việc học những tư tưởng của người khác, thì con đường tiến hóa của ta chậm lại. Ngoài ra để thể trí thu hút được các vật liệu tốt, ta cần suy nghĩ đến những điều tốt đẹp; quyết từ chối không cho tư tưởng xấu neo đậu vào thể trí bạn. Điều đó, giúp bạn thu gom được vật liệu tinh khiết, đến khi chết đi và qua cõi trung giới, bạn sẽ tôi luyện nó thành năng khiếu và chuyển sang kiếp sau sử dụng. Những nhà văn, nghệ sĩ, nhà kinh tế học, nhà triết… tài giỏi là nhờ họ tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua thể trí. Một cách khác để tinh luyện thể trí, là định trí bằng phép yoga. Việc định trí giúp tư tưởng ta, trôi từ chổ này sang chổ khác, đồng thời làm giảm bớt sự hao tán năng lượng của thể trí. * Thể thượng trí: Thể thượng trí là nơi lưu giữ nghiệp quả và những kinh nghiệm mà ta thu gom được qua vô vàn những kiếp sống trước đây. Ở những con người mới tiến hóa, thể trí chỉ tích hợp những đam mê, khao khát, thỏa mãn các giác quan như ăn no, ăn ngon, vui thú trong dục lạc… Những đam mê đầy thú tính này khiến cho thể trí dính chặt với thể vía đến mức khó lòng tách ra được, cho đến lúc khi chết. Nếu trong kiếp sống của y, y từng có một tư tưởng vị tha, làm một điều tốt đẹp. Những tư tưởng đó tạo thành chất liệu, khi y thăng lên cõi cao hơn, y có cơ hội tôi luyện nó, chuẩn bị cho kiếp sống tới của y. 2- Thể tâm linh 3- Thể vũ trụ 4- Thể niết bàn hay thể vô thể Đây là cảnh giới mà Đức Thích Ca Mầu Ni đã đạt tới. Năm cõi sau này nằm ngoài tầm hiểu biết của người bình thường
  16. * Thể vía (hay người âm) hiện hình bằng cách nào: Người âm muốn hiện hình để người có mắt trần trông thấy, thì họ tổ chức lại thể vía, bằng cách hút các hạt vật chất cõi trần ở bầu không khí xung quanh. * Luyện tập thể vía khỏi bị ảnh hưởng của các giác quan: Những người có tư tưởng thanh cao, sống một đời trong sạch, sử dụng những thức ăn tinh khiết…thì thể vía của anh ta cũng được tổ chức lại một cách tinh tế. Để thể vía không bị ảnh hưởng bởi các giác quan, các nhà yoga luyện tập thể vía bằng cách định trí (khoa yoga bắt đầu luyện tập theo các thể: thể xác, thể vía, thể trí…). Khi thể trí đã định, khi ngủ anh ta có nhận biết rõ ràng bên cõi trung giới (cõi âm), anh ta có suy luận, anh ta có phán đoán… đây là cách đánh giá kết quả luyện tập của yoga, khi nào anh ta ý thức càng mạnh mẽ trong giấc mơ thì anh ta đang tiến bộ rõ trên đường đạo. Khi một người mới luyện tập yoga và lần đầu tiên làm việc với thể vía, thì anh ta cảm thấy ở trong trạng thái của một đứa trẻ mới sinh. Nghĩa là anh ta thấy được sự vật xung quanh, nhưng chân tay không hề cử động, thần kinh anh ta rất kém, không thể suy nghĩ gì được, mọi ý nghĩ lóe lên đều trôi tuột. Giống như anh ta ở trong một cái vỏ được bao bọc. Một số người mới chết, thể vía chuyển sang cõi kia, cũng có tình trạng tương tự, nghĩa là anh ta không biết mình ở đâu. Vì lẽ đó, nên một số người mới chết, không thể tìm cách trở về nhà được. * Có địa ngục bên kia cõi trung giới: Thể vía cũng có giác quan, nên các động tác như đụng chạm có thể cảm nhận được, nhưng không có xúc cảm như thể xác. Hai thể vía đụng nhau, nhưng không thể gây tai nạn, vì thể này được cấu tạo bằng chất tinh vi. Vì vậy, không có cảnh tra tấn của quỷ sứ. Đôi lúc cũng có cảnh thể vía bị nổ tung, nhưng nó nhanh chóng được nối lại như cũ. * Bên kia cõi trung giới sinh hoạt thế nào: Cõi trung giới là cõi tinh thần, nên tinh thần yếu kém sẽ sinh ra một linh hồn yếu kém. Nếu còn sống anh ta nghiện rượu, khi chết tất nhiên anh ta không dễ bỏ được thói quen này. Mất thể xác vật lý, cơn nghiện của anh ta sẽ không được thỏa mãn, anh sẽ tìm đến những nơi nhậu nhẹt để hưởng các rung động khoái lạc của kẻ bợm nhậu. Khi bợm nhậu say, mất ý thức, ma rượu tìm cách xé lớp màn bảo vệ của người sống, nhập vào thể xác bợm nhậu và hưởng khoái lạc. Việc để một người chết nhập vào người sống là việc làm tai hại, kể cả việc lên đồng, gọi hồn… Khi nhập vào người sống, các thể thô trược thể vía của người chết sẽ chuyển phần nào sang người sống. Khi người chết dâm dật, khi nhập vào người sống, y sẽ bị lây thói dâm dật của người chết kia. Đồng thời, người sống sẽ bị rút đi những chất dĩ thái cần cho sự sống. Một người lên đồng lâu ngày sẽ bị suy kiệt về sức khỏe, do y đã bị rút đi nhiều chất dĩ thái. Khi người chết là nữ, người sống là nam. Khi nhập vào, y sẽ bị lây cái tính ẻo lã đàn bà của người chết. Khi người chết là một đứa trẻ, thì sang thế giới bên kia, nó vẫn là một đứa trẻ, nó không thể lớn lên. Ở bên kia cõi âm, có những bà mẹ được đào tạo, sẽ tình nguyện chăm sóc những đứa bé này. Khi một người bị ma ám, là do y có những rung động hợp với người chết. Những con ma dâm dật sẽ tìm cách bám theo những kẻ có rung động dâm dật. Y kiên nhẫn đợi cho đến khi người sống ngủ, y sẽ tìm cách làm tình với thể vía của y. Từ thể vía này, các rung động sẽ chuyển đến thể xác. Thể xác sẽ chuyển các rung động này ra không gian, và y sẽ say mê hưởng thụ nó. Đôi khi y còn tìm cách kích dục người sống. Vì vậy, giấc mộc tình dục thường do có sự tiếp xúc bên kia cõi âm. Cõi âm là cõi tinh thần nên người ta nghĩ đến món đồ dùng gì, thì lập tức món đồ dùng đó có với y. Y muốn ở trong một tòa lâu đài bằng vàng ròng, lập tức y sẽ ở trong một tòa lâu đài bằng vàng ròng. Khác với một người luyện yoga, sức mạnh tinh thần của y có thể làm đông đặc các hạt bên cõi trung giới, và làm nó có sự sống và tồn tại lâu dài (tùy theo sức mạnh của y). Tinh thần của người chết chỉ đông đặc vật thể trong thời gian ngắn. Giống như ma xây lâu đài bằng cát, còn người luyện yoga xây lâu đài bằng đá. Bên cõi trung giới cũng có sách và dành cho những người thích nghiên cứu.
  17. 3- Thể vía tức thể dục vọng: · Đặc điểm: Có màu sắc tùy theo bản tính của con người. Người càng thánh thiện thì màu sắc sáng chói. Cấu tạo của thể vía bao gồm bảy phân trạng thái của chất trung giới. - Một hạt hình trứng. - Một hình người giống như cơ thể con người trên cõi trần. (Một người còn sống có lối sống thô trược, thì hình người này không được tổ chức rõ ràng, mà nó trông giống như đám mây). Ví dụ: Ta có một cây đèn pin (hay đèn pha) đang bật sáng. Thì thể vía HÌNH TRỨNG là cây đèn pin, điểm giới hạn cuối cùng của ánh sáng đèn pin là HÌNH NHÂN, giữa HÌNH TRỨNG và HÌNH NHÂN được nối bằng sợi dây từ điện. Do thể này thô, nên có một số máy ảnh chụp được đốm sáng và vệt sáng này của người cõi âm. HÌNH NHÂN cấu tạo bằng chất dĩ thái (giống như hạt), có độ lớn nhỏ khác nhau, tùy theo mức độ tinh vi (sạch) hay thô (uế tạp). Các hạt dĩ thái lớn bao quanh bên ngoài, các hạt nhỏ ở bên trong. Ví dụ: Ta vẽ một hình người trên một mặt phẳng là tờ giấy, thì đường nét (đường biên) bên ngoài là các hạt dĩ thái lớn, lớp tô bên trong là các hạt dĩ thái nhỏ. Tiếp theo ta dựng hình ba chiều cho hình vẽ trên, bằng cách tô các đường nét cơ thể. Thì chất liệu dựng nên hình ba chiều của cõi âm là các chất khí. Khác với chất khí cõi trần các chất khí này kết dính, nhưng không đông đặc. * Nơi sống: Cõi trung giới (cõi âm) Cấu tạo chất dĩ thái của một cơ thể bên cõi âm có hai cách nhìn. - Nếu nhìn theo góc độ chất dĩ thái, thì nó giống như một hình người có đường biên là các hạt dĩ thái lớn, bên trong được tô đầy các hạt dĩ thái tinh vi (mịn), bao quanh là lớp khí gắn kết. Hình này trong suốt. Nó giống như kiểu hình người âm bản trên phim chụp ảnh. - Góc nhìn thứ hai (hay chiều thứ 4/ hay cõi âm) thì ta sẽ có hình ảnh 3 chiều của cõi này, giống như chúng ta hiện nay. Nghĩa là mọi góc cạnh đều có hết. Hình dáng cấu tạo cơ thể của cõi trần như thế nào, màu da ra sao, tóc tai như thế nào đều thể hiện đầy đủ. Kể cả các hoạt động như bước đi, ngồi…Nếu như còn sống ta có hoạt động nào thì khi chết cũng có hoạt động tương tự. * Cách nhận biết: Chúng ta thường xuyên với thể vía, vì nó là thể tình cảm, dục vọng. Ví dụ: Khi bạn buồn khổ một cách tuyệt vọng: bị người yêu đá đít, tỏ tình mà bị cự tuyệt, người thân mất… lúc ấy bạn thấy mình tê tái, đi đứng không vững, hầu như mất hết cảm giác. Thì lúc đó bạn đang làm việc với thể vía. Thể vía bị ảnh hưởng của các giác quan. * Khi ngủ ta xuất thể vía qua cõi trung giới hay cõi âm: Khi ngủ người ta xuất thể vía qua cõi trung giới, và làm việc ở đó. Tuy nhiên với một người có thể chất thô trược thì thể vía chỉ bay quẩn quanh thể xác của anh ta vài cm. Các giấc mơ mà ta mơ là quá trình làm việc bên cõi trung giới. Tuy nhiên, đó cũng có thể là những suy tưởng của thể vía nghe được của thể trí mà hàng ngày ta suy nghĩ hàng ngày, sau đó nó được khơi dậy. Tại sao ta mơ mà không nhớ rõ mình mơ điều gì? Với một người bình thường, khi thể vía xuất qua cõi âm, thì các giác quan của thể vía chưa được mở, nên không ghi nhận được các hoạt động của ta bên đó. Với một số người mới luyện yoga, thường nói rằng, họ hay gặp các giấc mơ kỳ lạ. Đó là vì, thể vía của họ đã được tổ chức phần nào, các ghi nhận bên kia cõi trung giới ý thức được chút ít. Tuy nhiên các giác quan thể vía của anh ta cũng chưa được mở, nên anh ta có ấn tượng không rõ ràng. Một số người luyện yoga khác cũng nói rằng, đôi khi họ trông thấy được thể xác của mình. Điều này có nguyên nhân là, khi ngủ thể vía của họ hoạt động ở cõi trung giới, vì lý do nào đó, thể xác gọi thể vía quay về; nhưng hành động này không mạnh mẽ đến mức đủ để thể vía nhập vào thể xác. Lúc này anh ta bắt đầu mở đôi mắt thể vía của mình, và nhìn thấy thể xác của mình. Vì khi xuất thể vía qua cõi trung giới, các giác quan của anh ta đóng hoàn toàn. Anh ta nhận thức được là nhờ tư tưởng của thể trí.
  18. GIẢI PHẨU CON NGƯỜI THEO HUYỀN MÔN Theo tài liệu của Hội Thông Thiên Học, con người có 7 lớp vỏ bao bọc nhau, trong đó nhân là thể xác mà chúng ta nhìn thấy khi còn sống. 7 lớp theo thứ tự từ nhân ra ngoài. 1- Thể xác hay thể vật lý (physical body). Thể này bao gồm 7 lớp: - Chất đặc - Chất lỏng - Chất khí - Chất dĩ thái (bao gồm bốn đặc tính khác nhau) * Nơi sống: Cõi trần 2- Thể phách (Linga Sharīra). Thể phách bao gồm 4 lớp hất dĩ thái * Đặc điểm: Chất dĩ thái tồn tại theo bốn biến thể, biến thể tinh vi nhất bao gồm các cực vi tử hồng trần (the ultimate physical atoms). Nó là vật chất của cõi âm. Thể phách có màu tím xám. Thể phách đóng vai trò truyền dẫn sinh khí, khi người ta luyện yoga. * Nơi sống: Thể phách luôn gắn liền với thể xác. Khi người ta chết, thể xác tan rã, thể phách cũng tan rã theo (nhưng chậm hơn thể xác). Thể phách thường bay vẫn vơ quanh thể xác người chết, và vì dễ nhìn thấy nên người ta thường gặp ma cụt đầu, cụt tay…