Liêm Pha

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    190
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Liêm Pha

  1. Những người đã thực hành huyền môn trong Thông Thiên Học nói: - Một khi linh hồn đã phát triển từ cây cỏ, thú, đến loài người, thì nó không thể trở lại giai đoạn mà nó đã tiến hóa. Nhưng họ lại cho biết, khi một người chết mà trong họ còn chất chứa quá nhiều dục vọng nhưng thiếu sức mạnh của ý thức để kiểm chế nó, thì họ sẽ bị nhập vào một con vật nào đó để tìm kiếm sự thỏa mãn. - Họ cũng nói không có cảnh địa ngục hay thiên đàng, tất cả sự phân biệt đó chỉ là trạng thái của tâm. - Con người có hai lần sinh ra, một lần được sinh ra từ cơ thể người mẹ, lần kia là sinh ra từ cái chết của mình. Khi thể xác đến hồi lụi tàn, linh hồn thoát ra khỏi đó, thì nó được sinh ra. Vì vậy, chữ "sinh" trong Phật giáo nói đến sự kiện này.
  2. Đức Phật nói đến luân hồi thì chứng tỏ có linh hồn rồi mừ!!! http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/eyelash.gif
  3. Mấy cái hạt li ti màu trắng đó là hạt vật chất ở cõi vô hình. Còn linh hồn thì nó có đốm sáng lớn hơn. Như tớ đã nói ở trên, nếu bạn có sự kết nối với Chân sư thì trong giai đoạn này bạn sẽ trải qua một sự kiện nữa. Đó là, các vị ấy xuất hiện bên cạnh trực tiếp truyền năng lượng và khai mở các huyệt đạo trên người bạn. Cảm giác để bạn nhận biết là lúc nào cũng có luồng điện rất mạnh trên đầu bạn, những lúc bạn ít có sự hoạt động thì cảm nhận càng mạnh hơn, và bạn sẽ trải qua cơn đau đầu dữ dội. Cơn đau đầu này không giống như triệu chứng của một cơn bệnh thông thường của thể xác, mà nó như đầu bạn bị một sợi xiết chặt lại và có luồng điện chạy trong đó. Hoặc có sự đau buốt một phần nào đó trên đầu, hai bên thái dương, phía sau đầu. Cơn đau này sẽ hết khi các huyệt đạo trên đầu của bạn được thông. Bạn không cần phải làm gì và lo sợ cả, nếu rãnh rổi hãy ngồi yên (đừng thiền) để các vị ấy khai mở giúp bạn. Các vị này sẽ chẳng bao giờ nói với bạn họ đang làm gì với bạn, họ làm việc trong im lặng và làm trong lúc có cơ hội cần thiết, bạn có trốn tránh cũng không được. Nếu bạn tiến sâu hơn trong giai đoạn này, bạn sẽ biết mình được thay phiên trực tiếp chăm sóc bởi những vị có đạo hạnh cao hơn. Kết thúc giai đoạn này bạn đã an toàn, bạn nhận được chút ít sự tĩnh lặng, và đặt một chân mình trên đường đạo. Khi ngủ bạn xuất hồn và đôi lúc bạn thăng lên các cõi cao hơn, bạn sẽ nhận được sự sung sướng tột độ, cảm giác này tồn tại cả ngày mới hết. Bạn tự do bay nhảy, cảm thấy mình rất nhẹ nhàng, và không muốn mang lấy cái thể xác nặng nề hiện tại nữa. Bạn kiểm tra thần nhãn của mình bằng cách nhắm mắt lại, nhìn về phía trước, nếu thấy có một khoản sáng thì đích thị bạn đã được mở con mắt thứ ba. Bạn có thể qua blog của tớ, tớ sẽ mở chế độ private để trao đổi: dobatnhi.wordpress.com (Xin lỗi Quản trị cái này mình không phải quảng cáo, nếu cần xin hãy xóa nó sau khi anh bạn này lấy được địa chỉ blog này)
  4. Tiếp theo nữa là trong giai đoạn này bạn phải nhận ra đâu là sự mê tín, đâu là huyền môn thật sự. Khi bạn đi trên con đường đạo và có sự kết nối với Chân sư, trong giai đoạn này, những nguyện vọng chính đáng của bạn sẽ được đáp ứng một cách rất thần kỳ. Ví dụ: bạn cần một khoảng chi phí để bạn có điều kiện và tâm trí để tu tập, thì gần như chắc chắn lần lượt các mong muốn đó sẽ đến với bạn. Nhưng nên nhớ, không nên quá đà, và chớ thất vọng nếu mong muốn tham lam của bạn không xảy ra. Khi đến giai đoạn này một vài sự kỳ lạ sẽ xảy ra với bạn, ví dụ như thấy người chết, thấy thần thánh...Vì thế cần nhớ rằng, không có một vị Phật nào rãnh rang để tìm đến bạn truyền đạt sự kiện này nọ. Bên kia cõi vô hình, những linh hồn người chết rất dễ dàng trang trí cho nó bất kỳ hình dáng của ai mà nó muốn (kiểu như Tôn Ngộ Không biến hóa vậy đó), những người tu ở cấp bậc thấp sẽ không có cách nào nhận ra nó. Khi bạn định trí kha khá, bạn sẽ tàm tạm nhận ra nhờ sự rung động của nó truyền đến bạn; không biết tả nó như thế nào, nhưng nó thường rất khó chịu với bạn. Lúc trước tôi tu tập, khi trí lực còn yếu, thì hay có một linh hồn theo quấy phá. Nó biến ra người này người kia, có khi ra cả đồ vật nữa...có lúc nó còn ngụy trang bằng khăn che mặt. Khi tôi ngủ nó đè và hay dắt thể vía tôi đi ra mấy cái nhà hoang để đánh, không đau đớn gì đâu nhưng sợ lắm, sợ nó hại mình chết, nhưng cuối cùng không sao. Khi bạn thu hoạch được một số kết quả sẽ dẫn bạn đến cái tâm kiêu mạng, bạn lầm tưởng mình là một nhân vật đặc biệt nào đó, bạn sẽ ra đời cứu nhân độ thế. Suy nghĩ này sẽ làm bạn trì trệ trong việc tiến xa hơn, cần phải chấm dứt nó. Việc tương lai sẽ xảy đến với bạn như thế nào, với trình độ hiện tại, bạn không thể biết được và Chân sư dĩ nhiên không bao giờ nói với bạn điều này cả. Đừng lầm lẫn. Trong giai đoạn thấp này, mục tiêu của ta là xây dựng bồ đề tâm để chuyển sang một mức độ cao hơn. Khi bạn hoàn tất dựng cho mình một nền tảng bồ đề tâm cần thiết, tức thì bạn sẽ có huyền năng. Tôi khẳng định với bạn, ngoài việc bạn được mở con mắt thứ ba bạn sẽ không có một khả năng huyền bí nào hết, mọi thứ bạn cho là huyền năng chỉ là sự tưởng tượng của bạn, mà sự tưởng tượng này thường rất tai hại. Sự tiến bộ của bạn được kiểm chứng bằng cách: Loại bỏ dần những đức tính xấu, bỏ được hành vi bạo hành, bỏ được giận dữ, bỏ được đau khổ, bỏ được phần nào sự tham lam. Ngoài ra, sự tỉnh thức trong giấc ngủ của bạn cũng là một thước đo. Bạn sẽ nhớ rõ về giấc mơ của mình, bạn biết mình chu du trong giấc mộng, tham gia các hoạt động ở đó (thường là với người đã chết). Trong giấc mơ tôi hay thấy mình đi học, đôi khi cả đi thi nữa, lớp học này rất đông; mà tôi học tệ lắm, bị phạt tiền hoài. Thường thì bạn không nhận biết rõ ràng, do trong tư thế ngủ của bạn là nhắm mắt, bạn xuất hồn một cách bị động nên qua cõi vô hình bạn cũng nhắm mắt không nhìn rõ sự việc. Cách để nhận biết rõ là khi ngủ bạn quán tưởng một hoa sen trên đĩnh đầu, khi xuất hồn bạn sẽ nhận rõ phần nào, chỉ phần nào thôi. Sự định trí phải liên tục và cần phải tập trung cao độ. Bạn nên mua quyển hướng dẫn vẽ và trang trí họa tiết bán ngoài hiệu sách. Bạn nhìn vào mấy cái hình này và vẽ nó trong không gian, vẽ cả màu sắc. Khi nào bạn nhìn một lần mà vẽ được một cái hình phức tạp thì bạn kha khá rồi đó. Hồi trước tôi học Tiếng Hoa, tôi vừa học vừa luyện bằng cách vẽ chữ Tàu trong không trung, tiện lợi đôi đường. Chúc bạn mau tiến xa trên con đường đạo!
  5. (Những dòng tôi viết dưới đây nếu ai tin hoặc cảm thấy nó quá mê tín thì tùy - xin đừng cười chê) Hiện nay ở VN có một số người cho là luân xa của mình tự nhiên mở (kể cả tôi lúc đầu cũng vậy), nhưng thực tế khi đã tiến sâu hơn trên con đường thiền định, thì bạn sẽ nhân thức được một thực tế hoàn toàn khác. Đó là, những người được tự động mở luân xa hiện nay, ở kiếp trước của họ từng là một thiền nhân, và có sự liên hệ với các bậc Đạo sư nào đó. Và sang kiếp này họ tiếp tục đi trên con đường đạo mà mình đã chọn trước, đến khi sự giác ngộ đạt đến điểm chính mùi thì họ sẽ đi theo ngã rẽ của mình. Có điều là họ sẽ không vào chùa chiền, hay tìm tới rừng núi ẩn tu, mà sống giữa thế giới đông đúc này để tìm sự giác ngộ tâm linh. Như đã nói, những người này không cần tìm đến minh sư nào của thế gian (nghĩa là bằng xương bằng thịt). Chính các bạn trong thời điểm hiện tại đã có sự kết nối với Chân sư rồi, một sự kết nối đến các Chân sư vô hình. Nếu bạn nào đã từng được tự động mở luân xa, thì hãy kiểm tra bằng cách này để xem lời tôi nói có đúng hay không. Thứ nhất. Khi bạn thiền, hoặc khi ngủ nếu bạn thấy trên đầu mình có chòm ánh sáng rất sáng (màu trắng), thì đây là dấu hiệu chứng tỏ sự kết nối của Chân sư với bạn. Chòm sáng này là con mắt (chỉ một con) của Chân sư đặt ra để theo sát bạn, đề phòng trường hợp rủi ro xảy đến với bạn và có sự hướng dẫn cần thiết nhất. Sự hướng dẫn này bạn rất khó nhận ra, thường thì, lúc đầu bạn cho nó là suy nghĩ của mình, lựa chọn của mình. Nhưng không, sự thật đó là sự hướng dẫn của Chơn sư. Thứ hai. Đôi lúc bạn cảm thấy hình như mình có hai con người rất rõ rệt. Một con người có suy nghĩ vô cùng thánh thiện, từ bi, bác ái, và sáng suốt. Một con người khác là sự trì trệ, u mê, tham lam, lười biếng... Thì con người thánh thiện kia chính là suy nghĩ của Chân sư kết nối đến bạn. Sự kết nối này dường như in hẳn vào trong đầu bạn, trở thành đầu óc của bạn, trở thành suy nghĩ của bạn. Nhiều khi bạn lại tự khen mình, tại sao ta lại chính trực và thánh thiện đến vậy. Chính xác thì đó không phải là con người bạn, nó là suy nghĩ của Chân sư. Ông ta đặt suy nghĩ của mình vào bạn, và suy nghĩ của bạn vào ông ta. Nhưng hiếm khi bạn có sự hướng dẫn trực tiếp nào đó, mà bạn phải tự mày mò tìm đường đi cho mình, đến lúc cần thiết bạn sẽ có ý tưởng gợi mở vấn đề. Bạn có thể tận dụng điều kiện này để so sánh và nhận ra tính xấu của mình. Ví dụ: bạn suy nghĩ đến kẻ gét mình, trong đầu bạn gợi lên những thù hằng và muốn oánh anh ta. Thì bạn sẽ nhận tín hiệu từ Chân sư đánh giá kiểu như, tình thương giữa con người với nhau là cái thang để dẫn dắt ta leo cao hơn trên con đường đạo, ta hành xử như vậy là vô cùng bậy bạ. Cái suy nghĩ rất trái ngược với con người của bạn trước đây, bởi vậy, tôi mới nói đó là sự hướng dẫn của Chân sư. Sự hướng dẫn này sẽ kết thúc khi bạn hoàn thành xong việc kiểm soát tâm của mình, nghĩa là khi bạn thực sự nắm được nó. Ví dụ: bỗng nhiên trong người bạn dậy lên cảm xúc ham muốn tình dục, nếu một người bình thường thì tâm trí anh ta sẽ bám theo nó, anh ta khát khao trong việc quan hệ xác thịt; nếu không tìm thấy đối tượng, anh ta sẽ tái tạo lại hình ảnh đó qua những lần giao hợp trước đây và anh ta tự giày vò mình trong sự tưởng tượng đó; và sự đòi hỏi này chỉ thỏa mãn khi anh ta phóng tinh ra ngoài. Nếu bạn thực sự kiểm soát được tâm mình, thì bạn sẽ nhận biết khi nào nhu cầu tình dục bắt đầu gợi lên trong đầu mình, và việc bạn chấm dứt nó sẽ rất dễ dàng. Cũng cần phải nói thêm, sang giai đoạn này, tuy không bắt buột phải tuyệt dục. Nhưng bạn cũng cần phải nhận rõ để chuẩn bị tâm lý, đó là, bạn sẽ giảm rõ rệt (đến 70%) sự hưng phấn tình dục khi giao hợp. Chỉ giảm sự hưng phấn thôi, chứ cái mong muốn nhu cầu đó vẫn còn, và bạn sẽ chiến đấu tiếp trong giai đoạn tới. Hiện nay ở VN có hai người đã tiến xa trên con đường thiền, họ đã tiến vào đại định và xuất thần (tất nhiên là không phải tôi). Nếu bạn dần dần kiểm soát được tâm, thì sẽ biết họ đến thăng viếng bạn. Họ hay nhắn nhủ tôi phải cố gắn để tham dự một cuộc thi hay đến một cái mốc nào đó.
  6. Cái này hay đây. :D
  7. Chào hoangthanhland! Trước đây tôi thiền và đã có hiện tượng như trên, xin chia sẽ với bạn vài kinh nghiệm: - Có phải bạn ngồi thiền tĩnh lặng trong khoảng thời gian trên 20 phút thì bị hiện tượng điện giật mạnh? Nếu đúng thì đây là hiện tượng năng lượng đã tích tụ đầy các luân xa, do bạn đã thu qua thiền. Nó đánh dấu bạn bước sang một mức mới trong thiền định, đó là: - Bạn sẽ được mở con mắt thứ 3 (hay thần nhãn). Nếu bạn thấy được các đốm sáng li ti ngoài trời khi trời nắng, thì nhiều khả năng thần nhãn của bạn đã được mở. Khi thần nhãn mở nó sẽ đi qua các tiến trình: thấy các thực thể vô hình thông qua các đốm sáng (lớn hoặc nhỏ), thấy các thực thể vô hình thông qua các đốm sáng kèm bóng đen (linh hồn người chết), thấy các thực thể vô hình hoàn rõ nét. - Đến giai đoạn này bạn cần chuẩn bị tinh thần để chấp nhận rằng có sự tồn tại của linh hồn người chết, sự sợ hãi sẽ làm chậm sự tiến bộ của bạn. - Sang giai đoạn này tâm của bạn sẽ bị tấn công dồn dập bởi những cảm xúc mà bạn đã dồn nén từ trước đến nay. Các suy nghĩ (gọi tạm là suy nghĩ chứ không phải là suy nghĩ) lạ lùng và đôi khi rất đê hèn liên tục xuất hiện trong đầu bạn. Bạn bình tĩnh và đừng đuổi theo nó, đó không phải là suy nghĩ của bạn, bạn không cần lo âu vì nó, cũng chẳng có linh hồn nào bám theo mớm cho bạn những điều đó. Nó chỉ là những rắc rối nhỏ, hãy để nó cứ khởi lên và sẽ dần chấm dứt. - Sang giai đoạn này bạn cần phải đoạn tuyệt hoàn toàn việc ăn thịt cá, hãy chuẩn bị cho mình các thực phẩm chay cần thiết. Việc nuôi dưỡng cơ thể bằng các thực phẩm tinh khiết là điều kiện bắt buộc khi bạn tiến đến bước này. Nếu bạn chưa chuẩn bị để thích ứng thì cần giảm mực độ tập luyện lại, nếu không rắc rối sẽ xảy ra. Bạn không cần lo lắng đến sức khỏe khi ăn chay, khi bạn thu được các dòng khí thì cảm giác thèm ăn của bạn giảm đi rất nhiều, sức khỏe cũng luôn được đảm bảo, các bệnh lặt vặt không thể có cơ hội chạm vào cơ thể bạn. - Nếu bạn đã chuẩn bị đầy đủ thì việc thiền tiếp theo của bạn là: Dừng việc thiền im lặng. Và chuyển sang việc định trí (nghĩa là làm tăng sức mạnh tin thần) - ở Mật Tông gọi là quán Mạn-đà-la. + Quán tưởng một vị Phật (nên là Di Lặc hoặc Thích Ca). Bạn vẽ hình dáng các vị này trong không gian (thấy trên tượng hoặc hình ra sao vẽ lại như vậy), vẽ thân hình, vẽ mắt, vẽ gương mặt từ bi....miễn sao đầy đủ chi tiết thì thôi. Chú ý, không vẽ một vị thần nào bằng cách nhìn trên Mạn-đà-la của Mật tông; bởi vì, các thiền nhân Mật-tông có câu thần chú xóa các hình nhân mà mình đã tạo sau khi thiền xong; còn bạn hay tôi không biết nó thì không nên làm như vậy. Việc quán tưởng này sẽ tạo ra hình nhân có sự sống bên kia cõi vô hình, thí dụ: bạn quán tượng một người nào đó cầm quạt đang quạt, thì nó sẽ quạt theo sự xếp đặt của bạn. Hơn nữa khi thiền bạn sẽ tạo ra tính cách của nó, ví dụ: bạn vẽ một hình nhân trong cõi vô hình với suy nghĩ sân hận thì nó sẽ có tính cách sân hận, và sau đó nó sẽ truyền lại cho bạn gấp đôi năng lượng sân hận mà bạn tạo nên nó. Còn bạn quán tưởng hai vị phật trên, các năng lượng này đến với các vị đó, và được các vị này hóa giải. + Quán tưởng một bông hoa với hình dáng rõ ràng trong không gian ba chiều. Thí dụ, bạn quán bông hoa hồng, bạn tưởng tượng hình dáng nó như thế nào, độ dày mõng của bông hoa ra sao, màu sắc của nó như thế nào. Cách quán này là an toàn nhất, nhưng ít tiến bộ hơn quán các vị Phật. + Quán tưởng một tính cách. Đến đây bạn sẽ tăng thêm thiện tính của mình và loại dần các tính xấu (việc loại tính xấu tính sau). Lúc này bạn phải biết cách nắm cảm xúc và tái tạo cảm xúc của mình. Và bạn chỉ quán hai tính từ bi và tính tự tại (hay là hư không). * Quán từ bi (hay tình thương): Khi bạn thấy một cảnh bất hạnh của người khác trên báo hoặc tivi (các mảnh đời bất hạnh) làm bạn có cảm xúc thương xót. Bạn hãy chú ý đến cảm xúc này và tái tạo lại nó trong lúc thiền. * Quán tính tự tại (hay là hư không): Bạn hãy tưởng tượng mọi vật xung quanh mình chả có gì đáng giá, tiền bạc cũng chẳng là gì, khi chết rồi cũng chẳng mang theo được. Lúc này bạn nắm được tính tự tại và quán nó trong lúc thiền. -> Khi quan tưởng đức tính, nếu một cảm xúc bất lợi nào dậy lên (sân hận hay dục lạc) bạn nên dứt nó ngay, hoặc chấm dứt việc thiền, nếu không bạn sẽ làm tăng các cảm xúc này. (còn nữa - để mai gõ tiếp) :D
  8. Giết hổ bằng súng àh. Mới đọc tiêu đề cứ tưởng oánh bằng tay :D
  9. Mời các bác bình luận về Hoàng Thái Tử Kim Jong Un, con vua Bắc Triều Tiên. Kim Jong Un được cho là người sáng giá nhất trong ba người con của Kim Jong Il, mới đây được phong hàm Đại tướng và được chỉ định là người lãnh đạo kế thừa Đảng Lao Động Triều Tiên. "Con vua thì lại làm vua con sãi ở chùa đi quét lá đa bao giờ nỗi trận can qua con vua ra chùa cũng quét lá đa..." Nhìn người này có thần khí của loại người ăn trên ngồi trước. Nét mặt có sự gian xảo, thủ đoạn và tinh vi. Theo tớ thì tướng này phát không lâu, do tai nhỏ, mắt nhỏ và trông có vẽ kém linh hoạt. :D
  10. Dưới đây là bản dịch mới quyển Secret Doctrine - của Hội Thông Thiên Học. Bản dịch này có sự tham khảo, đối chiếu, trích dẫn từ bản dịch cùng tác phẩm, đã có tên tiếng Việt là Giáo Lý Bí Nhiệm, tác giả Nguyễn Văn Lợi. LỜI NÓI ĐẦU Tác giả - người tổng hợp thì đúng hơn – cảm thấy cần thiết phải gửi lời xin lỗi đến độc giả, vì sự chậm trễ kéo dài trong việc xuất bản tác phẩm này. Một phần do bệnh tật thường xuyên và cũng do những dự tính lớn lao về vấn đề muốn bàn luận. Ngay cả khi hai tập sách này hoàn tất, không hẳn là công việc đã xong xuôi, bởi vì tác giả nói chưa đủ nhiều về tâm linh huyền bí. Khi mà một khối lượng lớn các tài liệu bí truyền đã được chuẩn bị, đó là lịch sử các thuyết huyền bí trong cuộc sống của các cao-đồ (Adepts) thuộc giống dân Aryan, và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống của chúng ta trong mấy nghìn năm nay. Nếu hai tập sách này được chào đón nồng nhiệt, thì chúng tôi sẽ gắng sức hoàn thành các tập tiếp theo. Tập thứ ba, hay thứ tư đã chờ sẵn lên khuôn. Ban đầu, sau khi xuất bản tác phẩm Nữ-thần-Isis-lộ-diện (Isis Unveiled), chúng tôi định soạn quyển Giáo lý bí truyền (Secret Doctrine) với ý đồ hiệu đính nó. Dần dần trong quá trình biên soạn, chúng tôi cảm thấy rằng cần phải có một phương pháp trình bày khác giúp độc giả dễ dàng tiếp cận các vấn đề đã nói tới trong quyển Nữ-thần-Isis-lộ-diện và tuyển tập về nội môn bí giáo. Vì vậy, tác phẩm này sẽ có khoảng 20 trang được trích từ những tập sách mà chúng tôi đã xuất bản trước đây. Tác giả cảm thấy đã phụ lòng mong mỏi của quý độc giả, các nhà phê bình về phong cách văn chương thể hiện trong sách này. Bởi vì tác giả là người ngoại quốc, nên tiếng Anh không được hoàn hảo cho lắm. Tác giả quyết định sử dụng Anh ngữ vì nó là ngôn ngữ phổ thông, thuận tiện cho việc truyền đạt những chân lý cổ xưa ra cộng đồng thế giới, mà đó lại là nhiệm vụ hàng đầu mà tác giả được giao phó. Những chân lý được trình bày dưới đây không mang ý nghĩa như một lời mặc khải; và tác giả cũng chẳng nhận mình là kẻ tiết lộ thiên cơ đầu tiên trong lịch sử. Đó là vì những điều được viết trong tác phẩm này, đã hiện diện từ lâu trong hàng ngàn quyển thánh thư, rải rác ở các tôn giáo khắp từ Á sang Âu. Nó ẩn mình dưới lối viết bằng chữ tượng hình hay biểu tượng, cho nên người đời chưa ai cố công vén lên bức màng ẩn tàng nhiều điều lý thú ấy. Nay, chúng tôi cố gắng thu thập những giáo lý lâu đời nhất, kết hợp chúng lại với nhau và trình bày theo hiểu biết của mình, sao cho mạch lạc nhất. Lợi thế duy nhất mà người viết đã có, là nhận được sự truyền dạy trực tiếp từ các bậc huynh trưởng của mình, chỉ một vài chi tiết là do công tác giả tự tìm tòi nghiên cứu. Việc công bố những kiến thức trong tập sách này, cũng hầu mong trả lại cho môn huyền bí những giá trị chân chính đã thất truyền; vì trong nhiều năm qua, những người theo đuổi nó do đã quá say mê, mà mù quáng tạo nên các suy luận hoang đường mê tín. Những cũng không cần thiết phải giải thích rằng, tác phẩm này không phải là toàn bộ các giáo lý bí truyền đang tồn tại, nó chỉ là một mảnh nhỏ, một vài nguyên lý cơ bản được rút ra. Và điều đặc biệt, chúng tôi đã chú trọng đến những dữ kiện mà có một số tác giả đã cố tình bóp méo và xuyên tạc. Nhưng có lẽ chúng tôi cũng nên nói rõ ràng rằng, những giáo lý rời rạc trong tập sách này, không thuộc về một tôn giáo duy nhất nào. Mà đó là tập hợp những tôn giáo đã tồn tại trên trái đất này, của cả người Hindu, người Zoroastrian, hay người Chaldea… Giáo lý bí truyền là cội nguồn, là tinh hoa của tất cả tôn giáo từ Ai Cập, Hồi, Kitô hay Phật giáo. Nó là căn bản, là khởi đầu, làm nền tảng cho sự phát triển của các tôn giáo lớn, mà chúng ta nhìn thấy hiện nay. Có lẽ là sau khi xem xong quyển sách này, độc giả cho rằng người viết quả là giàu trí tưởng tượng, bởi vì nó giống như các câu truyện cổ tích xa xưa không hề tồn tại. Hầu như chưa có ai từng nghe nói về Thiền-định-chân-kinh (Book of Dzyan) lần nào đâu? Do đó, tác giả sẵn sàng chịu trách nhiệm về những phát biểu có trong tác phẩm này, thậm chí phải đối mặt với chỉ trích cho rằng mình đã “phát minh” ra nó. Tác giả ý thức được, nhiều người sẽ nhìn nhận nó như là sự hoang đường không đáng tin cậy. Nhưng với lý luận có gắn kết hợp lý và nhất quán, tác giả tin rằng tập sách này đáng được xem là một Sáng-thế-ký (Genesis) mới, đủ tự tin xếp ngang hàng với các “giả thuyết” khoa học đình đám hiện nay. Hơn nữa, người ta sẽ xem xét đến nó, không vì nó được chống lưng bởi một tôn giáo nào; mà điều cốt yếu là những lý luận này bám vào quy luật thiên nhiên, kiểu “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”. Như vậy, mục tiêu ấy là: - Cho thấy rằng thiên nhiên không phải là “sự tập hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử”. - Gán cho con người vị trí đúng đắn trong sơ đồ của vũ trụ. - Phục hồi các chân lý cổ xưa - nền tảng của mọi tôn giáo ngày nay. Và mức độ nào đó, sẽ khám phá sự thống nhất giáo lý về một mối. - Chứng tỏ rằng có những điều ẩn tàng trong thiên nhiên chưa bao giờ được nền văn hiện tại tiếp cận. Nếu mong mỏi trên được hoàn thành, thì với tác giả không có gì vui vẽ bằng. Những dòng chữ dưới đây hầu để phụng sự nhân loại, và có lẽ phải đợi đến tương lai, hậu thế mới hiểu hết tấm lòng người viết. Còn hiện tại ư, tác giả vẫn quyết tâm chống lại miệng đời, và quen luôn với việc vu bị khống hàng ngày. H.P.B. London, October, 1888.
  11. Trong thế kỷ vừa qua, tại Calcutta, những người Bà-la-môn có vẽ gian xảo khi lừa gạt Đại tá Wilford và Sir William Jones, nhưng những người này phải nhận kết quả như thế âu cũng do chính hành vi của họ. Theo sự thổ lộ của Sir William Jones (xem Asiat Res.., Vol I, trang 272), thì Đại tá Wilford quan niệm, các vị thần Brahma, Vishnu và Mahesa của người Bà-la-môn không khác gì Thượng-đế-ba-ngôi của Thiên chúa giáo. Điều này khiến những người Bà-la-môn này đã làm giả các bảng kinh cổ và đưa cho ông Wilford, họ chép các đoạn kinh cũ Purana bằng ngôn ngữ Bắc Phạn cổ trên những lá buôn, và xào nấu nội dung theo cách hiểu của ông Wilford về các vị thần của họ. Đó là một bài học hay, và cảnh tỉnh các học giả nghiên cứu Đông Phương học, cũng như đã làm một vài người hổ thẹn. Nhưng nó đã làm cho kết quả nghiên cứu đi đến chiều hướng lầm lạc khá nhiều. Sự ham muốn nồng nhiệt đầy dục vọng kiểu như Đại tá Wilford đã tạo nên thị trường giả kinh sách cổ, đáp ứng nhu cầu của phái đoàn truyền giáo. Hay là đây là việc làm đầy toan tính của họ với mục đích xuyên tạc rằng, kinh Purana nói về Đức Krishna có được nhờ đạo văn Kinh Thánh Do Thái. Nhưng sau đó, các giáo sư Đại học Oxford trong bài luận “Khoa học và tôn giáo”, có nói đến câu chuyện kinh giả nổi tiếng và việc này đã làm ông Đại tá Wilford buồn phiền. Cần phải chấp nhận rằng những người nghiên cứu lịch sử chân chính không thể can thiệp để làm thay đổi lịch sử. Cho dù nếu đi theo chiều hướng kết luận của ông Wilford, để thấy kinh Tân Ước và Cựu Ước không hề vay mượn từ kinh sách Bà-la-môn và Phật giáo; thì không thể suy ra là kinh Do Thái chưa hề vay mượn kinh Chaldea, chính Eusebius đã cắt xén những cuốn kinh của người Chaldea. Đối với người Chaldea, chắc chắn người thầy đầu tiên của họ là người Bà-la-môn. Các công trình nghiên cứu của ông Rawlinson cho thấy có sự ảnh hưởng không nhỏ của kinh Vệ Đà trong truyện thần thoại Babylon. Và từ lâu Đại tá Vans Kennedy cũng chứng minh, Babylonia từng là đất của người Bà-la-môn, vì có sự ảnh hưởng của nền giáo dục Ấn với Phạn ngữ. Nhưng tất cả những bằng chứng như vậy đã phải lung lay với thuyết của giáo sư Max Muller. Nó là những gì mà mọi người đã biết. Các qui tắc về ngữ âm trở thành dung môi chứng minh có sự liên kết “bà con họ hàng” giữa các vị thần linh trên thế giới. Đức mẹ của thần Mercury (Budha, Đức Thot- Hermes) là Maia; mẹ của Đức Phật (Gautama) là Maya; mẹ của Chúa Jesus cũng là Maya (vì Mary là Mare, nghĩa là biển cả, ảo tưởng lớn)… Nhưng theo “quy tắc về luật phát âm” của nhà ngữ học Bopp thì chẳng thể có bất cứ sự liên quan nào về cách phát âm như trên. Với nỗ lực nhằm kết nối nhiều sự kiện đã xảy ra thành trang lịch sử mới chưa từng được ghi nhận, đó là một việc làm táo bạo, nhưng táo bạo đến mức mà phủ nhận những chi tiết không ăn khớp với kết luận của họ, thì nó trở nên liều lĩnh quá mức. Trong khi người ta ngàng càng khám phá ra nền nghệ thuật, chữ viết và sự hiểu biết khoa học đã tồn tại từ xa xưa, nhưng cũng không thể ngăn cản họ ghi nhận những dân tộc này vốn là man rợ. Những vết tích về nền văn minh lớn thời tiền sử, từng tồn tại ngay vùng Trung Á vẫn còn tìm thấy rải rác. Dù chỉ với chút ít bằng chứng, cũng không thể phủ nhận sự tồn tại nền văn minh đó. Và liệu với một nền văn minh như vậy, làm gì có chuyện không có chữ viết, không có văn học, hay văn hóa? Sự đứt đoạn về sử liệu là do có những nước từng bị tiêu diệt trong quá khứ. Toàn thể vùng cao nguyên Tây Tạng được vây quanh những bức tường núi liên tục, từ thượng lưu dòng sông Khuan-Khe xuống đến đồi Kara-Korum, đã là nhân chứng cho nền văn minh suốt năm nghìn năm, và nơi đây chứ nhiều bí mật lạ kỳ để kể cho nhân loại. Miền Đông và Miền Trung của vùng này – Nan-Schayn và Altyne Taga – xưa kia có nhiều thành phố lớn cỡ Babylon. Một thời kỳ địa chất biến động đã đi qua nơi đây, những vụ sụt lở cát đã chôn vùi vài thành phố, sau đó vùng đất này biến thành sa mạc khô cằn rộng lớn, có tâm tính từ lưu vực sông Tarim. Du khách đa phần mới đặt chân đến vùng đất này, nếu vượt qua những đồi cát sẽ tìm thấy những vùng cao nguyên có nước, sự sống đang tồn tại và phát triển ở đó. Những nơi như thế này, chưa có một người Âu Châu nào từng đi tới. Vài nơi trong số các ốc đảo đó, ngay cả các cư dân bản địa cũng không cách nào xâm nhập được. Nơi đây thường xuyên có những trận bão cát có thể “xé nát sa mạc và quét sạch những gì trên đường chúng đi qua”; vì vậy các thư viện được đào sâu dưới lòng đất và lối vào là các ốc đảo, trong điều kiện như vậy các kinh sách luôn được lưu giữ an toàn, kể cả các cuộc chiến tranh đã từng cào nát vùng này. “Người ta không nhìn thấy một hồ nước, một bụi cây, một ngôi nhà nào, và chung quanh là những dãi núi tạo nên địa hình lồi lõm, dựng lên xung quanh bãi xa mạc nóng boảng và khô khan…” Nhưng cũng không cần khuyến khích độc giả tiến sâu vào bãi sa mạc mênh mông này, chỉ cần đi tới vài nơi có người sinh sống, rồi ta cũng sẽ tìm ra dấu tích nền văn minh cổ còn sót lại ở đây. Như ốc đảo Tchertchen, nằm khoảng 4.000 feet trên mực nước của sông Tchertchen-D'arya, được bao quanh bởi tàn tích đổ nát của một đô thị xa xưa. Dân cư ở đây vào khoảng 3.000 người, nhưng lại thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, trong đó có những chủng tộc mà các nhà nhân chủng học chưa hề biết đến và không biết phân loại họ vào đâu. Các cư dân này tượng trưng cho tàn tích của chừng 100 giống dân, của 100 nước không còn tồn tại nữa, ngay chính cả những người này họ cũng không biết tổ tiên mình là ai. Một vài bộ tộc thì nói, tổ tiên của họ là những người đầu tiên được cai trị bởi những vị thần (genii) vĩ đại của sa mạc. Điều này có thể được gọi là mê tín hay vô minh, tuy nhiên theo quan điểm của Giáo lý bí truyền, câu trả lời có thể tìm thấy trong truyền thuyết về thời kỳ sơ khai. Duy nhất chỉ có bộ lạc Khoorassan cho rằng mình có nguồn gốc từ vùng Afghanistan (ngày nay), và có trước cả thời Alexander, họ tin vào điều này nhờ dựa vào những câu truyện thần thoại mà bộ tộc còn lưu giữ. Đại tá Prjevalsky, một người Nga, đã tìm thấy những di tích đổ nát của hai thành phố cổ khá gần với ốc đảo Tchertchen; theo truyền thuyết địa phương, một thành phố bị phá hủy cách đây khoảng 3.000 năm, bởi những người anh hùng khổng lồ; còn thành phố kia bị người Mông Cổ tàn phá vào thế kỷ thứ X. “Các cuộc biến động địa chất và thiên tai xảy ra ở đây như chuồi cát hay bão cát, đã làm đô thị này trồi lên những cổ vật kỳ lạ từ dưới lòng đất. Các loại đồ sành sứ, đồ dùng nhà bếp bị vỡ, và cả những bộ xương người. Những người bản xứ còn tìm thấy những đồng tiền bằng kim loại bạc hoặc đồng, những thỏi bạc được nấu chảy, và cả các kim loại quý như kim cương và ngọc thạch. Nhưng đáng chú ý nhất là những mảnh kính vỡ, các cái quan tài bằng loại gỗ không hề bị hư mục, bên trong là xác ướp được giữ gìn rất tốt… Những xác ướp đàn ông thường rất cao lớn, cường tráng, với mái tóc dài dợn sóng. Người ta còn tìm thấy một hầm mộ có 12 xác chết đang ngồi trong đó. Trong một lần khác họ còn tìm được một xác chết của một thiếu nữ. Người này được chôn cất trong tình trạng đôi mắt được bịt bằng những cái đĩa hình tròn bằng vàng, và một cái kiềng vàng gắn chặt hai bên hàm, chạy dài từ dưới cằm lên tận đỉnh đầu. Trên người xác chết là bộ y phục đan bằng len chật ních, những ngôi sao bằng vàng đính trên ngực, còn đôi bàn chân thì không mang gì cả” (Bài diễn thuyết của N.M.Prjevalsky). Về điều này Prjevalsky còn tiết lộ thêm, dọc theo cuộc hành trình sông Tchertchen, ông còn nghe những truyền thuyết nói rằng ở đây có khoảng 23 thành phối bị chôn vùi đã vài nghìn năm. Ở vùng Kerya, các cư dân của họ cũng có cùng câu chuyện như vậy. Những vết tích của nền văn minh, và những truyền thuyết được lưu truyền trong cộng đồng, cho chúng ta thêm quyền tin tưởng vào một giả thuyết khác, giả thuyết của những người có đạo đức và học thức. Đó là, người ta đã khai quật được các thư viện dưới lòng sa mạc, một số lượng lớn các kinh sách đã tìm thấy và dĩ nhiên hiện giờ chúng đang cất dấu ở nơi an toàn. Tóm lại, Giáo lý bí truyền là triết lý của một tôn giáo duy nhất được phổ biến khắp nơi trong thế giới cổ đại thời tiền sử. Các bằng chứng về sự khuếch tán này, như các tài liệu về lịch sử của nó mà chúng ta đang có vinh hạnh tiếp cận, còn một nguồn khác lớn hơn đang nằm khắp nơi dưới lòng đất, và giáo lý của các vị Chân sư đang được bảo quản trong các tàng thư ở các giáo phái. Các thuyết trên sẽ đáng tin cậy thêm nếu những giả thuyết sau đây được các học giả nghiên cứu kỷ càng: Đó là câu chuyện hàng nghìn mảnh da thuộc dùng để ghi sách, đã được cứu thoát khỏi thư viện Alexandria trước khi nó kịp bốc cháy. Hay hàng nghìn quyển kinh chữ Phạn đã biến mất dưới triều đại vua Akbar; còn Trung Quốc hay Nhật Bản thì có truyền thuyết phổ thông nói rằng, hàng nghìn quyển luận kinh cổ từ lâu đã không còn trong tay kẻ phàm phu; sự biến mất của nền văn học minh triết huyền bí của thành Babylon. Hay Sự đánh mất chìa khóa để giải mã chữ tượng hình của người Ai Cập, kinh Veda của người Hindu, kinh viết về giáo lý của Đức Phật. Các nhà huyền môn khẳng định rằng, tất cả các tài liệu hiên nay vẫn còn phải được bảo vệ, tránh sự cướp đoạt và hủy hoại của người da trắng. Đâu đó, vào thời kỳ sáng sủa hơn trong tương lai, những tài liệu này rồi sẽ trở về với loài người, như lời Đại Đức Dayanand Sarasvati từng nói. Hiện nay, những tài liệu này tạm “thất truyền” đối với đa số người, bởi lòng ích kỷ và dục vọng sẽ là mối nguy cho nhân loại, nếu họ có nó trong tay. Chỉ vài người có linh hồn tiến hóa cao mới nhận được ân huệ này, nhưng không ai trong số họ được tiết lộ nó ra ngoài, nếu chưa được phép. Những đệ tử huyền môn sơ cấp thường hay nêu thắc mắc, chúng tôi hiểu được nhu cầu phải bảo vệ những bí mật quan trọng của tôn giáo, thế nhưng liệu có nguy hiểm nào khi chúng tôi muốn tiếp cận về triết học, đơn cử như là biết được sự tiến hóa của những dãy hành tinh. Sự nguy hiểm là như thế này: Ví dụ như học thuyết về chuỗi bảy hành tinh, bảy chủng tộc, và bảy luân xa của con người. Vì mỗi luân xa liên quan đến một cõi, trong một cõi thì luân xa này có những huyền năng thần bí phi thường. Bất kỳ sự tiết lộ nào cũng dẫn đến manh mối, để người ta tìm mọi cách nghiên cứu hay thực nó, nhằm đạt đến những cảnh giới cao hơn. Nếu đó là một kẻ phi đạo đức, hắn sẽ gây tội ác với nhân loại, nhất là đối với người phương Tây ưa chuộng vật chất và vô minh. Đúng là những giáo lý này được che dấu, nhưng kiến thức cơ bản và sự tồn tại thực sự của nó không bao giờ bị các vị Đạo sư giữ riêng mình, các vị luôn khuyến khích đệ tử tuân thủ giới luật, và thực hành để đạt đến sự toàn thiện. Nó đã từng được tiết lộ từ giai đọa này sang giai đoạn khác trong quá khứ, và ở cả thời điểm hiện tại nữa. Đó là các vị Chân sư như Đức Pythagoras, Plato, những môn đồ của phải tân Plato, hay tôn giáo của người Nazarenes. Hơn nữa, có một sự kiện nổi tiếng xảy ra ở Nga mà tác giả cũng được biết đến. Một vị giáo sĩ giúp việc trong Tòa đại sứ Nga cho biết, trong thư viện Hoàng gia St Petersburg đã ghi, có một nhà thần bí học người Nga đã tìm cách đi Tây Tạng, vượt qua rặng núi Ural để tầm sư học đạo trong những ngày mà người Âu Châu chưa biết gì về vùng Trung Á này. Tới thời điểm hiện nay, đã có những hội như Freemasonry và Secret về thần bí học mọc lên tự do ở Nga. Điều này chứng tỏ, có nhiều người Nga đã đến Tây Á tìm đạo và có người trở về với kiến thức thần bí phong phú, nhiều hơn những gì mà dân các nước Châu Âu khác biết đến. Có nhiều trường hợp mà tác giả có thể kể ra tên tuổi, nhưng e rằng sự vội vàng của mình sẽ làm phiền lụy đến thân nhân các vị được điểm đạo đã qua đời. Để kiểm chứng điều này, độc giả nên đến các thư viện ở Nga và tìm hiểu lịch sử của hội Freemasonry, nó sẽ xác tín điều tác giả nói. Nhiều độc giả thường đặt cùng một câu hỏi, liệu Thông Thiên Học có phải là một tôn giáo mới không? Tuyệt nhiên không, chúng tôi không phải là sáng lập viên hay tín đồ của một tôn giáo mới nào cả và giáo lý Thông Thiên Học cũng chẳng phải là giáo lý mới. Một vài giáo lý mà chúng tôi đưa ra không phải mới được công bố lần đầu, mà nó đã được đức Ragon thuyết giảng nhiều lần ở Âu Châu. Nhiều học giả có chung nhận đình là, chưa bao giờ có một nhà sáng lập tôn giáo đích thực nào, dù là người Aryan, người Semit hay là người Turanian. Những vị được coi là giáo chủ của các tôn giáo này, họ chỉ là người truyền bá, họ có cách thuyết pháp thu hút tín đồ; những giáo lý mà họ nói, nó có từ khi có nhân loại. Như vậy, trong buổi bình minh của loài người, chân lý này đã được các vị Đạo sư truyền khẩu và gìn giữ trong các Thánh điện, chỉ có các bậc cao đồ dùng thần nhãn mới nhìn thấy nó. Sau này, các giáo lý này được phân ra và được mã hóa cho mỗi vùng đất khác nhau. Như Legge nhận định, Đức Khổng Tử dứt khoát là một nhà truyền pháp, chứ ông không phải là người sáng tạo. Chính Đức Khổng Tử đã nói, “Tôi chỉ là người truyền đạt, chứ tôi không lập ra điều gì mới cả. Tôi tin tưởng ở người xưa và vì vậy, tôi kính mến họ”. Tác giả cũng kính mến họ, cho nên tác giả tin tưởng vào các vị thánh nhân này và những lời minh triết của các ngài. Và hiện giờ tác giả cũng làm cái nhiệm vụ tương tự như thế, nghĩa là ở vị trí của người truyền đạt. Còn những ai bác bỏ điều này, thì tác giả cũng chấp nhận ý kiến của họ, vì cả hai có quan điểm khác nhau. Nhưng theo phong cách của nhà nghiên cứu, họ phải bác bỏ dựa trên những luận điểm mang tính phản biện, chứ không phải là kiểu công kích ác ý. Những điều được nói đến trong quyển sách này được tập hợp từ các giáo lý truyền khẩu và các kinh sách cổ. Phần mở đầu là những đoạn Thánh kinh của một dân tộc mà chưa có nhà nhân chủng học nào biết tới, nó sử dụng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ và không được khoa học chấp nhận, ngôn ngữ điện từ. Nhưng cũng phải mất nhiều thế kỷ nữa những bí mật này mới hoàn toàn mở với đa số nhân loại, còn trong hiện tại và thời gian tới, từng chút ít vấn đề nhỏ sẽ được tiết lộ. (Hết phần mở đầu)
  12. 5 Và giờ chúng ta tiếp tục khảo sát đến phần kinh sách của người Ấn Âu (Aryan), các kinh Phệ Đà (Veda). Các nhà Đông Phương học đều biết, kinh Veda bao gồm 8 bộ, trong đó các bộ đáng chú ý là: Rig-veda, Sama-veda, Yajur-veda, Atharva-veda, và Brahmanas. Riêng bộ quan trọng nhất là Rig-Veda chỉ chứa “khoảng 10.580 câu thơ, hoặc 1.028 bài thánh ca”. Còn kinh Brahmanas có nhiều bản luận và chú giải nhất, nhưng dù vậy, cho đến ngày nay không phải ai cũng hiểu được nó một cách chính xác. Vì để hiểu đúng những câu thánh ca nguyên thủy nhất, cần phải có chìa khóa, nhưng tiếc rằng các nhà Đông Phương học của chúng ta chưa tìm ra được nó. Còn Phật giáo thì sao? Trong thời gian qua các học giả viết gì về giáo lý Phật giáo? Họ có đầy đủ các bản kinh sách này không? Chắc chắn là không. Mặc dù người ta đã biết, có tới 325 quyển kinh Kanjur và Tanjur, chúng cân nặng tổng cộng từ 4-5 cân Anh; nhưng họ lại không biết gì về Lạt-ma-giáo (Lamaism). Hay kinh Saddharma-alankara có 29.368.000 chữ (nếu không kể lời bình và chú giải), nhiều hơn 5 đến 6 lần quyển Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo (Bible). Chỉ với hai tập kinh Kanjur và Tanjur, trong quá trình dịch “các dịch giả thay vì trình bày nguyên bản, nhưng lại xen vào những lời bình của họ nhằm biện minh cho trường phái của mình” (Buddhism in Tibet – E.Schlagintweit), làm cho độc giả không được tiếp cận vấn đề cốt lõi của nó. Hơn nữa, theo truyền thuyết được lưu truyền ở Nam và Bắc Tông cho biết, giáo điều thiêng liêng của Phật giáo nguyên thủy có 80.000 hay 84.000 bài kinh ngắn, nhưng hầu hết đã không tìm thấy và chỉ còn lại khoảng 6.000 bài - như hiện nay. Theo cách hiểu của người Châu Âu như thế là thất truyền, còn đối với các tông đồ Bà-la-môn hay Phật giáo thì không ai kết luận có chuyện đó. Theo mức độ tín ngưỡng của những tín đồ Phật giáo, những dòng viết về Thích Ca, hay Chánh Pháp (Good Law) luôn được họ tôn sùng, và đáng lẽ ra các kinh sách này phải được giữ gìn cẩn mật mới đúng. Thế nhưng việc để mất gần 76.000 bài kinh ngắn như thế quả thật là kỳ lạ. Tuy nhiên, khi điểm lại tiến trình lịch sử Phật giáo, ta thấy trong thời điểm bị đàn áp tín ngưỡng tại Ấn Độ bởi người Hồi Giáo (Vua Al-Mahdi; triều đại Abbasad; 775-785) và phải tiến hành cuộc di cư ra khỏi vùng đất phát tích này, chắc là họ đã đánh mất một phần kinh sách. Nhưng cũng cần phải nói rõ, trước đó các vị La-hán đã bắt đầu cuộc truyền đạo vào khoảng năm 300 TCN [1]. Sau đó, các cao đồ khác đã đến các vùng đất Trung Quốc (hiện nay) vào khoảng năm 61 (Reverend T. Edkins, “Chinese Buddhism.”) để truyền bá tín ngưỡng ra bên ngoài vùng Kashmir và Hy-mã-lạp-sơn. Vì vậy, với các học giả Phương Đông, họ không bao giờ nhìn nhận với người Phương Tây, có chuyện kinh Phật bị thất truyền. Bởi họ tự hào có đủ khả năng để gìn giữ gìn pho kinh thiêng liêng nhất của mình, những người nước ngoài “vô cùng cao siêu” không đời nào tiếp cận được, với lý do đơn giản, cần phải cách ly các giáo lý thượng thừa của họ để tránh bị lợi dụng và bêu rếu. Từ dữ kiện lấy được từ các nhà Đông Phương học, tác giả nhận thấy: (a) Các học giả nghiên cứu về tôn giáo cổ thực sự có rất ít dữ liệu để đưa ra kết luận chính xác vấn đề, sau cùng họ đánh giá kết quả theo chiều hướng có lợi cho tín ngưỡng của mình. (:D Việc thiếu hụt tư liệu đó không thể ngăn cản họ độc đoán hóa (dogmatising) tín điều. --- [1] Một tu viện Phật giáo được dựng lên tại núi Kailas vào năm 137 TCN, và Tướng Cunningham nói rằng còn lâu hơn nữa. Lassen, (“Ind. Althersumkunde” Vol. II, p. 1,072). 6 Người ta nghĩ rằng, nhờ vào các tài liệu về Thần hệ và bí pháp của người Ai Cập – được viết trong các kinh văn cổ - thì các nghi lễ và tín điều của các vị vua (Pharaonic) Ai Cập sẽ được hiểu rõ; ở mức độ nào đó, ít ra chúng cũng dễ hiểu hơn các triết lý cao siêu, hay thuyết phím thần của Ấn Độ [1]. Thế nhưng, giữa sưu tầm và tiến trình giải mã là hai công việc hoàn toàn khác nhau. Trên đất nước Ai Cập ngày nay, dọc theo dòng sông Nile và cả phần đất liền, người ta đang tiến hành rầm rộ các cuộc khai quật khảo cổ, các di tích mới liên tục được tìm thấy, nhiều điều mới mẽ bắt đầu lộ diện. Sự kiện này chứng tỏ nơi đây đã từng có một lịch sử hùng hồn, đến nỗi các nhà khảo cổ học ở Viện Đại hoc Oxford cũng phải thốt lên: “Ngoài các Kim tự tháp mà chúng ta trông thấy kia, còn có những tàn tích sót lại từ đền thờ và mê cung. Những bức tường nguyên vẹn được chạm khắc chữ tượng hình và hình vẽ lạ lùng về các nam nữ thần. Trên các cuộn giấy cói không hề bị thời gian tàn phá, là những bản kinh rời rạc còn rõ nét. Mặc dù với các cổ vật thu được, chúng ta có thể giải mã được phần nào bí mật của dân tộc này, song động lực nào để người Ai Cập tôn sùng lễ nghi đến như thế, vấn đề này chắc còn lâu chúng ta mới hiểu hết.” Ở đây, sự kiện này một lần nữa gợi tiếp cho ta vấn đề cần suy nghĩ, các văn bản chữ tượng hình đã tìm thấy, nhưng chìa khóa giải mã thì mất tăm. Thật vậy, các nhà khảo cổ có vẽ đã biết quá ít về những lễ nghi tang lễ của người Ai Cập và dấu hiệu bên ngoài để nhận biết sự khác nhau giữa đàn ông đàn bà qua xác ướp, đôi khi các nhầm lẫn này rất ngô nghê. Trong thời gian cách đây khoảng một hoặc hai năm, sai lầm kiểu này đã xãy ra tại Boulaq (Cairo). Trong lần nghiên cứu về một xác ướp vừa khai quật được, các nhà khảo cổ nhận xét đó là xác của một người đàn bà, vợ của một vị Pharaon tầm thường. Tuy nhiên, sau đó nhờ việc đọc được một chữ ghi trên lá bùa đeo cổ của xác chết, người ta mới vỡ lẽ, đó chính là xác của Sesotris, một vị Đại Đế của Ai Cập. Tuy nhiên, phải thấy rằng “có điểm chung giữa ngôn ngữ và tôn giáo” của các dân tộc từng tồn tại trên địa cầu này. Đó là, từng có một tôn giáo chung của người Ấn Âu (Aryan) trước khi có sư ly khai của chủng tộc này, từng có chung một tôn giáo của người Semite (Tây Á hiện nay) trước khi họ tách rời nhau ra, hay sự phân chia của người Turanian (Ba Tư) trước khi có sự phân ly của người Trung Quốc và các bộ tộc khác thuộc lớp người Turanian. Do chỉ tìm được “ba trung tâm tôn giáo cổ” và “ba trung tâm ngôn ngữ cổ”, nhưng lại hoàn toàn không biết gì về nguồn gốc nguyên thủy của nó, các vị này (ở Viện Đại hoc Oxford) cũng không ngần ngại tuyên bố: “chúng ta đã tìm được một cơ sở nền tảng lịch sử thực sự, và đây là tiền đề cho các cuộc thảo luận khoa học bàn về các tôn giáo chính trên thế giới”. Nhưng “cuộc thảo luận” của các nhà khoa học không hề gia tăng thêm giá trị cho “cơ sở nền tảng lịch sử”, khi mà với sự khan hiếm các dữ liệu trong tay, cho dù là các nhà nghiên cứu lỗi lạc đi nữa, không ai có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận của riêng mình. Dù sao thì các nhà nghiên cứu này đã chứng minh rất khoa học, và làm đa số người thỏa mãn. Họ cho rằng, theo Định luật phát âm của Grimm, thì Đức Odin (một vị thần Bắc Âu cổ) và Đức Phật là hai người khác nhau. Và sau đó họ lại tuôn một mạch, Đức Odin được tôn sùng như một vị thần tối cao trong một thời gian dài, còn trước cả thời đại kinh Veda và kinh Homer (Hy Lạp cổ). Về điều này thì họ không ban cho “nền tảng lịch sử” chút giá trị nào, mà ngược lại còn bắt nó phục vụ cho “kết luận” của mình. Cho dù phương pháp đó nó tỏ ra vẽ khoa học, nhưng chất lượng thì xa rời thực tế. Những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề niên đại của kinh Veda của các nhà nghiên cứu lỗi lạc như Martin Haug, Max Muller, là chứng cớ để ta nói rằng các nghiên cứu này không làm lợi ích cho “nền tảng lịch sử”. Loại “bằng chứng bên trong” này thay vì làm ngọn hải đăng dẫn dắt cái trí đến chổ sáng, nhưng rốt cuộc thì chỉ là ngọn đèn lồng kéo tụt người ta vào nơi mờ ảo. Và cũng không có sự cải tiến mới lạ nào trong cách lý luận của những người nghiên cứu thần thoại qua kinh sách, để có thển giảm bớt chút ít sự sai lầm. Khi họ yêu cầu phải có “những bản kinh rời rạc được cho là tiết lộ về tổ tiên loài người”, được bảo quản trong trong các ngôi đền ở Hy-lạp và Italy, vì đây là những gì các bậc được điểm đạo Đông Phương công bố cho công chúng biết. Tuy nhiên, một vị Đại Đức người Tích Lan quả quyết với tác giả, mọi người điều hiểu rằng các kinh ngắn quan trọng thuộc giáo điều thiêng liêng của Phật giáo được tàng trữ ở nhiều nơi, tại những vùng đất mà người châu Âu không thể tiếp cận. Với Bà-la-môn giáo, cố Đại Đức Dayanand Sarasvati cũng cho biết, các kinh sách quan trọng của họ không thể nào để rơi vào tay người ngoài. Khi nghe tin giáo sư Max Muller tuyên bố với thính giả của mình trong bài diễn thuyết rằng, “chả có bao nhiêu người ủng hộ cái lý thuyết, có sự ẩn tàng của lực lượng siêu nhiên đứng phía sau loài người”, thì nhiều nhà hiền triết đã phì cười. Một trong các vị Bà-la-môn này nói, “Nếu ông Moksh Mooller – người nói phát âm – là một người Bà-la-môn, và đến gặp tôi, tôi có thể đưa ông ấy đến hang động Gupta (một hang động bí mật) gần Okhee Math, ở dãy Himalaya. Ở đây chẳng cần lâu, ông ta sẽ tìm ra rằng những gì mà các Kalapani (Ấn Kiều) mang từ Ấn sang Âu Châu chỉ là những mảnh nhỏ so với pho kinh sách đồ sộ của chúng tôi. Đấy chỉ là những tiết lộ đầu tiên và sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, và tất nhiên là các Mlechchhas (người nước ngoài ở Ấn) phải chờ đợi”. Khi được hỏi thêm về sự kiện tiết lộ kinh sách này, thì ông không nói thêm điều gì nữa. Cuộc nói chuyện này xảy ra tại Meerut (Ấn Độ) vào năm 1880. (còn tiếp)
  13. 4 Kể từ khi thư viện Alexandria (Ai Cập) bị phá hủy, đã có nhiều nổ lực của thành viên hội Brotherhoods bỏ ra để tìm kiếm các kinh sách còn sót lại. Họ từng tuyên bố rằng, có lần đã tìm thấy tất cả những quyển sách bị tiêu hủy, ngoại trừ ba bản sao của một trong quyển thánh kinh này đã được gìn giữ an toàn ở những nơi khác. Một trong những nơi đó là Ấn Độ, bản quý giá cuối cùng được giấu kín trong triều đại của hoàng đế Akbar (1556-1562). Họ khẳng định, một trong những kinh sách đó được chép ra mà không hoàn toàn dùng ẩn ngữ hay ký tự tượng hình nào cả. Ban đầu nó được mã hóa để tránh những cặp mắt tò mò, những kẻ không phận sự, kể cả các nhà cổ tự học thông minh nhất. Đến thời Hoàng đế Akbar thì nó được hủy bỏ và chép lại bằng Phạn ngữ, nhưng vài vị cận thần cuồng tín của đức vua không ưa thói tò mò tọc mạch đầy tội lỗi của ngài đối với các quyển kinh của kẻ ngoại đạo. Vì vậy, họ đã giúp những người Bà-la-môn che giấu bản thảo này; như ông Badaoni còn công khai bài tỏ sự ghê tởm với đức vua, vì ngài đã tỏ ra quá say mê ngoại giáo. [1] Còn có giả thuyết cho rằng, những đạo viện (lamasaries) giàu có khi xây dựng nơi để ẩn tu (gonpa), hay thánh điện (lakhang) trên các ngọn núi, họ không quên đào những địa đạo sâu thẳm bên trong lòng đất hay tận dụng các thạch động chằng chịt làm thư viện. Chính ở những địa điểm như vậy, chẳng hạn như ở miền Tây Tsaydam, trong những con đường hiểm trở của đèo Kuen-lun (Tây Tạng), các kinh sách được lưu giữ một cách an toàn. Dọc theo triền núi Altyn-Tagh (Tây Tạng) – nơi chưa có người châu Âu nào đi tới – có vài ngôi nhà ẩn trong hẻm núi sâu, chính xác là một thôn. Ở đó có một ngôi chùa nghèo và vị Lạt-ma già ẩn tu. Những du khách từng đi chiêm bái về kể rằng: bên trong ngôi chùa đó, dưới những căn hầm ở lòng đất có chứa nhiều kinh sách, nhiều đến nổi mà theo họ ước lượng ngay cả Viện bảo tàng Anh Quốc còn không đủ chổ chứa. Những giả thuyết này dễ làm cho người ta cười cợt và ngờ vực. Nhưng trước khi độc giả nào định bài bác nó, thì xin hãy ngừng lại và theo dõi tiếp các sự kiện đình đám về khảo cứu tôn giáo trong thời gian gần đây. Bắt đầu là các cuộc khảo sát quy mô lớn của những nhà Đông Phương học, cho đến những công trình khảo cứu của các học giả ngôn ngữ học; họ đều thống nhất kết luận rằng: một số lượng lớn các kinh sách hiện nay được xác nhận là có nguồn gốc cổ xưa, nhưng trong quá trình khảo cứu người ta cho biết, không còn tìm thấy dấu vết của bản gốc. Nếu đây là các loại sách bình thường thì có lẽ chẳng ai màn tới, và nó sẽ bị phủ lớp bụi thời gian cho đến khi không còn đọng lại chút gì trong trí óc con người. Nhưng khốn thay, nó lại là chìa khóa để hiểu đúng các tác phẩm còn tồn tại đến bây giờ. Bởi vì, những sách còn lại này chỉ là những trích đoạn rơi rớt và được người đời sau chắp vá. Cho nên phần lớn người đọc chẳng hiểu nó nói đến điều gì nếu không có lời bình kèm theo; đến ngay cả các học giả, mỗi người lại có một cách lý luận khác nhau, chẳng ai chịu ai. Một ví dụ rõ ràng trong trường hợp nan giải này là các kinh sách của Lão Tử (Lao-tse). Tương truyền đương thời ngài đã viết đến 930 quyển kinh về Đạo Đức và Tôn giáo, 70 quyển về cách luyện pháp thuật, tổng cộng là khoảng một nghìn quyển. Nhưng kinh điển nhất vẫn là Đạo đức kinh (Tao-te-ching) – như một “Thánh kinh của Lão Giáo” (cách nói của Stanislas Julien), quyển này chỉ có khoảng 5.000 chữ, chiếm chưa tới 12 trang giấy. Nhưng giáo sư Max Muller nhận thấy rằng “nó thật khó hiểu nếu không có lời bình kèm theo, đến nỗi mà ông Julien khi có ý định dịch tác phẩm này phải tham khảo ý kiến hơn 60 nhà nghiên cứu” (Le livre de la Voie et de la Vertu -1842), trong đó bản luận cổ nhất xuất hiện vào khoảng năm 163 – TCN. Nếu tính từ thời điểm Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh (thế kỷ thứ 6 TCN) cho đến sự xuất hiện bản luận cổ nhất (năm 163 – TCN), thì đã hơn 4,5 thế kỷ. Trong ngần ấy thời gian là quá đủ để người ta giấu bớt giáo lý của ông, ngoại trừ các cao đồ được điểm đạo. Một vài người Nhật đã từng là môn đồ thông thái của Lão Tử, và họ còn lưu giữ trong tay các học thuyết bí truyền của Lão giáo, họ cười nhạo các học giả Trung Quốc và Phương Tây đã ngây thơ tin vào các văn bản hiện tại. Theo họ, đó chỉ là phần công truyền, những bài luận nhằm mục đích che đậy, còn lời bàn thật sự từ lâu đã biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục. Bây giờ chúng ta điểm lại các kinh văn cổ của người Do Thái (Semite), người Chaldean (vùng Irad hiện nay), nếu chúng không được Thánh kinh Moise (Mosaic Bible) ghi lại thì ngày nay chúng ta chẳng có gì để tìm kiếm. Và khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ có đôi dòng về lịch sử tôn giáo của thành Babylon, chu kỳ quan sát thiên văn kỳ lạ của các Pháp sư (magi) người Chaldean, hay chút ít tư liệu về nền văn học huyền bí của họ. Vì thực tế thì số kinh sách đó chỉ còn rời rạc vài đoạn, mà nghe nói là được bộ luận của tu sĩ Berosus (người Chaldean) trích dẫn. Tuy nhiên, tác phẩm này gần như vô giá trị, cho dù có dùng để dò tìm manh mối về nguồn gốc số kinh sách đã thất truyền. Bởi vì, nó đã qua bàn tay của Giám mục Caesarea – người tự cho mình quyền kiểm soát và in ấn các bản kinh của các tôn giáo khác – và chắc chắn rằng, cho đến ngày nay bút tích của ông ta vẫn còn đó. Vậy thì, bộ luận nói về tôn giáo vĩ đại ở Babylon đã có từ đâu? Tu sĩ Berosus (mục sư của đền thờ Belus) viết bộ luận này bằng tiếng Hy-lạp và dâng nó cho Alexander Đại đế. Trong tác phẩm này, ông Berosus trích một số đoạn trong quyển kinh nói về Chiêm-tinh-học, quyển kinh này được bảo quản trong đền thờ Belus trong một thời kỳ đến 200.000 năm, nhưng hiện giờ đã thất lạc. Vào thế kỷ thứ I – TCN, Alexander Polyhistor (học giả Hy Lạp, sống ở Rome) đã trích lục nhiều đoạn trong bản kinh này, nhưng cũng bị mất. Sau đó đến Giám mục Eusebius (270-340) – Palestine – đã dùng những đoạn trích này để viết cuốn niên sử (Chronicon) của mình. Nhưng ông Eusebius với vai trò là người tuyên truyền cho tôn giáo mới, cảm thấy các điểm tương đồng cùng bản sắc giữa kinh sách của người Do Thái và người Chaldea, là điều nguy hiểm cho Kinh Thánh Do Thái. Và dĩ nhiên kinh sách của người Chaldea đã bị hô biến. Bằng cách sử dụng giản đồ Manetho (sử gia Ai Cập – khoảng 250 TCN), nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn thấu sự thật bên trong. Nhà khảo cổ Bunsen tố cáo Eusebius là kẻ cắt xén lịch sử vô cùng nhẩn tâm; còn Socrates thì nói, ông ta là gã thợ rèn lịch sử tạo bạo và liều lĩnh. Vì vậy, ngoài những bản kinh sót lại đầy mơ hồ như trên, tất cả các kinh văn khác của người Chaldea đã hoàn toàn biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục, y như số phận Châu Atlantis bị tàn phá không còn chút dấu vết nào. Sau này, một vài sự kiện lịch sử được khôi phục, người ta còn hiểu biết thêm về những vị Thiên thần sa đọa (Fallen Angels) được nhân cách hóa như là Bel và Dragon. ------ [1] Badaoni viết trong quyển Muntakhab at Tawarikh: “Hoàng Đế của chúng ta thích thú với tôn giáo của những kẻ ngoại đạo, những loại tà phái này nhiều vô số kể và kinh sách của thì không tài nào đếm hết được… Bọn họ (những kẻ Sramana và Bà-la-môn) vượt qua người khác nhờ đã học được các bộ luận về đạo đức, về khoa vật lý và tôn giáo, có sự hiểu biết về tương lai, quyền lực tinh thần, cách hoàn thiện con người. Họ chứng minh được bằng chứng cớ và dựa trên lý luận, đến nỗi chân lý của họ vững như bàn thạch. (Ain i Akbari, translated by Dr. Blochmann, p. 104, note.)
  14. (tiếp theo) Thời gian và trí tưởng tượng của con người đã làm những triết lý này biến đổi, nó bắt đầu đánh mất sự thuần khiết khi theo chân các vị La-hán trên đường truyền đạo. Chắc hẵn khi được đưa vào Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay Miến Điện (Burmah), các bậc Thánh nhân này đã tùy vào căn cơ của các vị đạo đồ, ở mỗi vùng đất khác nhau mà có sự chắt lọc cần thiết. Vì vậy, làm thế nào mà tìm thấy được triết lý tinh khiết ban đầu, khi mà nền tảng “Phật giáo bí truyền” đã được canh tân trong một gương mặt tôn giáo hoàn toàn mới. Đó là các trường phái Phật giáo có mặt ở Trung Quốc, hay các nước Phật giáo khác; kể cả khá nhiều trường phái ở Tây Tạng, nơi được các vị Lạt-ma (Lamas) chưa hề được điểm đạo và các nhà cải cách Mông Cổ sáng lập. Vì vậy, người đọc cần ghi nhớ sự khác biệt rất quan trong giữa Phật giáo chính thống – tức là các giáo lý công truyền của Đức Phật, và Phật giáo bí truyền. Tuy nhiên, giáo lý bí truyền của Đức Thích Ca không khác với giáo lý của những đạo sĩ Bà-la-môn được điểm đạo cùng thời với ngài. Đức Phật là cư dân của chủng tộc Ấn-Âu (Aryan), một người Hindu chính tông, một giai cấp vương tộc (Kshatrya), và đệ tử của những vị được “sinh ra hai lần trong đời” (những người Bà-la-môn được điểm đạo) hoặc Dvijas (những người đặc biệt được hưởng quyền ưu đãi của Bà-la-môn). Do đó, giáo lý của ngài không thể khác với giáo lý của họ, vì toàn bộ cuộc cải cách để hình thành Phật giáo chỉ cốt đưa ra bên ngoài một phần các giáo lý chỉ dành cho các vị Bà-la-môn được điểm đạo và những nhà tu hành khổ hạnh. Vì phải giữ lời hứa, nên Đức Phật không thể dạy tất cả những gì đã đã được truyền đạt, mặc dù triết lý của ngài được dày công xây dựng trên nền tảng thực hành khoa huyền bí. Ngài chỉ đưa ra thế gian phần xác, còn phần hồn tinh túy ngài giữ lại và truyền cho các môn đồ ưu tú. Trong các học giả Đông Phương, nhiều người Trung Quốc đã từng nghe nói tới “tâm pháp” (Soul Doctrine), nhưng không ai hiểu được tầm quang trọng của nó. Các giáo lý này được giữ gìn vô cùng cẩn mật, bên trong những thánh đường vắng lặng và hiểm trở. Sự bí mật này cùng với nguyện vọng tìm đến Niết Bàn (Nirvana) đã kích thích sự tò mò của những học giả nghiên cứu về nó, thế nhưng họ không tìm được đáp số của bài toán học búa này, và giải quyết nhanh gọn nó bằng cách tuyên bố: Niết Bàn có nghĩa là “sự hủy diệt tuyệt đối”. Vào cuối thế kỷ XIX này, một trào lưu văn học mới xuất hiện trên thế giới, đó là những bài báo về các cuộc khảo cứu tôn giáo được khoát dưới lớp áo khoa học, của những nhà ngữ học Bắc Phạn, những nhà Đông Phương học nói chung. Họ nói về Ấn Độ Giáo, Ai Cập giáo, và các tôn giáo cổ xưa khác bằng cách suy đoán mơ hồ qua những câu chuyện thần thoại; khiến cho người đời chỉ tin tưởng vào cái thô thiển bên ngoài mà đánh mất bản chất tốt đẹp bên trong. Các tác phẩm này được chú ý nhờ sự suy đoán tài tình, phô trương lòng tôn sùng tính dục và biểu tượng dương vật hơn là vì học thuật chân chính. Đây có lẽ là lý do thực sự, tại sao một vài phát thảo về chân lý căn bản của giáo lý bí truyền cổ xưa được phép truyền ra công chúng, sau hàng nghìn năm dài nằm trong im lặng. Tôi nói “một vài chân lý”, một cách thận trọng, bởi vì còn hàng trăm điều thâm sâu nhất cần phải được giữ lại, nó không thể truyền đạt trong thời điểm hiện nay, khi mà phong trào cuồng tín cực đoan (Sadducees) đang phát triển mạnh. Nhưng vài điều được đưa ra như thế là tốt lắm rồi, còn hơn phải chịu im lặng hoàn toàn, nhất là với các chân lý thật sự quan trọng. Thế giới ngày nay, trong cơn điên cuồng chạy về phía vật chất, nơi mà con người nhầm lẫn rằng, đó chính là mục đích cao nhất của mình. Nhưng mọi rắc rối đã xảy ra, khi nó trở thành đấu trường, một thung lũng thật sự cho sự bất hòa và xung đột triền miên cho Thánh-linh (phần hồn) của chúng ta. Những thế hệ sau này, cứ thế, ngày càng tê liệt và suy nhược. Vì thế “những kẻ mất đức tín và trụy lạc” – cách nói của Greeley - không ưa gì sự hồi sinh những chân lý trong quá khứ, mà chỉ có một số ít môn sinh mới được tiếp cận. Cho dù đó là mười năm trước đây, khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản, hay là trong thời điểm tác phẩm này ra đời, với nhiệm cố gắng giải thích vài điều bí truyền đã được phổ biến. Một trong những sự phản đối quan trọng nhất, là thiếu tin tưởng vào nguồn gốc của những đoạn Thánh-kinh (Stanzas) được trích dẫn trong quyển sách này. Dù rằng, phần lớn các đoạn trích đó được lấy từ các tác phẩm Bắc Phạn, Trung Quốc và Mông Cổ; một vài nhà nghiên cứu Đông Phương học cũng biết những quyển kinh này, nhưng nó hoàn toàn không tồn tại ở các thư viện châu Âu. Như cuốn “Thiền định chân kinh” (Book of Dzyan), thì không một nhà nghiên cứu nào biết đến, thậm chí chẳng bao giờ nghe nghe nói tới cái tên này. Tất nhiên, đấy là sự thiệt thòi cho ai muốn nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhưng đối với các môn đồ bí giáo thì nó chẳng có mấy ý nghĩa. Một vài giáo lý của quyển sách này đã được rút ra, nằm rải rác trong hàng trăm nghìn bản thảo tiếng Phạn; nhưng đáng tiếc rằng nó bị bóp méo bởi cách diễn giải tầm phào. Do đó, độc giả có cơ hội xác minh và kiểm chứng từ các đoạn văn có nguồn gốc ở trên. Một vài giáo lý khác từ trước đến nay đều được khẩu truyền, nó hiện diện trong nền văn học thánh điện của những người Bà-la-môn, Trung Quốc và Tây Tạng. Cho dù có nhận được những lời chỉ trích ác tâm đi nữa, tác giả vẫn chắc chắn rằng. Những môn sinh của một số trường phái bí truyền, ở bên kia sườn núi Hy-mã-lạp-sơn, nhưng nơi đào tạo đệ tử có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, thậm chí ở cả Syria, cũng như bên Nam Mỹ. Những nơi này cũng có sở hữu các bộ kinh sách thiêng liêng về triết lý bí truyền. Bởi vì, kinh sách này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, có khi trình bày bằng ngôn ngữ tượng hình, bảng chữ cái Cadmus và ngôn ngữ điển từ của thần linh (Devanagari). (còn tiếp)
  15. LỜI GIỚI THIỆU Kể từ khi các tác phẩm của Thông Thiên Học xuất hiện ở Anh, người ta quen gọi giáo lý Thông Thiên Học là “Phật giáo bí truyền”. Tình trạng này có vẽ giống như câu thành ngữ mà ta từng quen thuộc, “lỗi lầm thì lăng xuống vực, còn chân lý phải lết lên đồi” (“Error runs down an inclined plane, while Truth has to laboriously climb its way up hill”). Những lời minh triết của người xưa thường tỏ ra vô cùng hữu lý. Tâm trí con người thật khó mà thoát vòng định kiến, cho nên khi tìm hiểu một vấn đề mới mẻ nào, người ta hay lấy kiến thức mình có được rồi đem ra so sánh. Điều này dẫn đến hai lỗi lầm phổ biến với cách hiểu Thông Thiên Học. Một là, giới hạn Thông Thiên Học vào Phật giáo. Hai là, lẫn lộn những điều Đức Phật đã giảng với ý kiến được nêu ra trong quyển “Phật giáo bí truyền” của ông Sinnett. Đây có lẽ là sai lầm trầm trọng nhất. Nó tạo điều kiện cho những kẻ thiếu hiểu biết có luận điệu công kích chúng ta, điển hình là một học giả có tiếng tăm về ngôn ngữ Pali tuyên bố rằng, nó “không phải bí truyền, và chẳng xứng đáng là đứa con của Phật giáo”. Nhưng sự thật là, những chân lý được viết trong tác phẩm của ông Sinnett, kể từ thời điểm được công bố, nó đã không còn là bí truyền gì nữa. Cũng giống như những giáo lý của Đức Phật, bây giờ có nhiều kinh sách được viết ra để giải thích, thì nó không thể gọi là bí mật. Còn quyển “Phật giáo bí truyền” thì đơn giản là nó trình bày những vấn đề mà nhiều học giả chưa nói tới. Dù vậy, không hẳn là toàn bộ những bí ẩn từ Phương Đông, chỉ cần vài trăm trang giấy kia mà bao quát hết. Có những chủ đề lớn lao hơn đang nằm đằng sau bức màn huyền bí, nếu không được cho phép, không một vị Chơn sư nào có quyền tiết lộ nó – cho dù ông ta muốn. Vì chân lý không để dành cho những kẻ ngờ ngệch nhạo báng và ngờ vực. Có thể nói quyển “Phật giáo bí truyền” (Esoteric Buddh-ism) là một tác phẩm kinh điển, nhưng với cái tên này nó đã rước vào mình nhiều lời phê phán. Sự thật đã chứng minh, người đời luôn có thói quen đánh giá mọi việc qua bề ngoài, mà chẳng thèm liếc mắt xem ý nghĩa của chúng là gì. Hiểu lầm này trầm trọng đến mức ngay cả những Hội viên Thông Thiên Học cũng bị vạ lây. Đầu tiên là những người Bà-la-môn và những người khác tổ chức biểu tình, phản đối cách đặt tựa đề như vậy. Thật lòng mà nói, mặc dù đây là cuốn sách hay, nhưng cách tác giả dùng phương pháp ghép âm hai chữ “Budh” và “ism” để đặt tên tác phẩm, đã làm người ta hiểu sai và phẩn nộ. Trách nhiệm này, trước hết thuộc về những Hội viên Thông Thiên Học Ấn Độ, chúng ta đã đem chủ đề này ra trước công luận, nhưng lại thiếu sót không chỉ ra sự khác biệt từ ngữ giữa “Buddhism” và “Buddh-ism”. “Buddhism” - là hệ thống giáo lý đạo đức do Đức Phật (Gautama) thuyết giảng, và tiền tố “Buddh” được lấy từ danh hiệu của Ngài, Phật (Buddha) – Đấng Giác Ngộ. Còn “Buddh-ism” hình thành từ chữ “Budh” – sự hiểu biết, và “Vidya” – sự tri thức; các từ ngữ trên có nguồn gốc Bắc Phạn (Sanskrit). Những sai sót này đã được nhìn nhận và cải chính. Chúng ta thay vì dùng từ “Buddhism”, nên đổi thành “Budhism”, cũng cần đọc đầy đủ là “Buddhaism”, và gọi tín đồ của nó là “Buddhaists”. Lời giải thích này hoàn toàn cần thiết trong thời điểm mọi công việc chỉ mới được bắt đầu. Các Tôn giáo Minh triết là di sản kế thừa của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, mặc dù trong quyển “Phật giáo bí truyền” có nêu: “Hai năm trước đây (tức năm 1983), tôi cũng như bao người Âu Châu sống ở đất nước này, không biết chút gì về khoa huyền môn…”. Sự thờ ơ, thiếu kiến thức đã dẫn đến sự hiểu lầm không đáng có. Những điều tiết lộ trong quyển “Phật giáo bí truyền” không có gì lạ lùng với tác giả, do nhiều năm trước đó (1880) tác giả đã nhận nhiệm vụ từ các Chơn sư, công bố một phần Minh triết bí truyền đến đại chúng. Hai người Châu Âu đầu tiên được lựa chọn, đó là ông Sinnett (tác giả cuốn “Phật giáo bí truyền”), và Đại tá H.S.Olcott – đồng nghiệp của tôi sau này. Ông Sinnett đã thuyết giảng triết lý này nhiều nơi tại Mỹ, trước cả khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản. Còn ông H.S.Olcott thì lần lượt nhận sự giáo huấn trực tiếp ba vị Đạo sư: một người Hungary, một người Ai Cập và một người Hindu. Hiện tại còn có nhiều người nữa biết đến những giáo lý này, nhưng vì họ không được phép công khai, nên chẳng có lời nào luận bàn về nó. Còn Đại tá Olcott hay ông Sinnett, vì được lệnh, những người này đã dùng nhiều phương pháp để phổ biến chúng đến mọi người. Từ ngữ “Adi” – nghĩa là “Đấng-duy-nhất”, “Đấng-đầu-tiên”; “Budha” - nghĩa là “Minh-triết-tối-cao”, “Minh-triết-tuyệt-đối”. Các từ này đã được Đức Aryasanga sử dụng trong bộ luận bí mật của mình và ngày nay các Phật tử thần bí Bắc tông đều dùng đến. Nó là một thuật ngữ tiếng Phạn, do những người Aryan (Ấn Âu) dùng để xưng danh vị Thượng đế của mình. Từ này được sử dụng trước cả từ “Brahma”, vốn chưa hề xuất hiện trong kinh Veda và những quyển cổ kinh. Và "Adi-Bhuta" được Fitzedward Hall dịch là “nguyên sinh của vạn vật”. Có lẽ vào một thời điểm rất xa xưa, trước tiên danh từ này được dùng phổ biến trong nhân gian, sau đó nó được nhân cách hóa trở thành tôn danh, và chỉ đặc biệt dùng cho những vị có tình bác ái rộng lớn, trí tuệ minh triết cao siêu. "Bodha” có nghĩa là “sở hữu trí tuệ thiên phú bẩm sinh”; còn Buddhi là “tiếp thu tri thức bằng nổ lực và công đức cá nhân”. Trong khi “Buddhi” là các kênh quang năng (cognizing) dùng để thu thập kiến thức nhằm đạt đến Chân ngã (Ego), đi tới nhận biết thiện và ác, đi tới linh hồn tối thượng, đi tới hiện thể của Atma. Khi “trực giác” (Buddhi) hấp thụ ngã thức (Ego-tism) của chúng ta, ngã thức bị hủy diệt, cùng với tất cả rối loạn (Vikaras) của nó. Đức Quán Thế Âm (Avaloki Teshvara) trở thành biểu hiện của chúng ta, Niết Bàn (Nirvana) hay Giải Thoát (Mukti) sẽ đạt tới. Nirvana hoặc Mukti, nghĩa là thoát khỏi ảo ảnh của thế giới này (Maya). “Bodhi” cũng là một trạng thái đạt tới sự xuất thần (Trance) đại định (Samadhi), của một người đạt tới đỉnh cao trí tuệ tâm linh. Quả là thiếu khôn ngoan và mù quáng, nếu người nào đó tỏ ra bài Phật giáo và phủ nhận luôn “Giáo lý bí truyền” (mà nó cũng là giáo lý của những người Bà-la-môn) trong thời điểm này, chỉ vì cái tựa đề gợi lên cho họ quan niệm phiếm thần. Nhưng họ đâu biết rằng, trong thời đại vật chất hỗn độn này, chỉ có triết lý bí truyền mới chống đỡ được các cuộc tấn công liên tục làm con người suy sụp tâm thần, khủng hoảng tâm linh trầm trọng. Những triết gia chân chính, các môn đồ của khoa minh triết bí truyền, hầu như đã không còn phàm ngã, không còn niềm tin vào giáo điều và phân biệt riêng rẽ tôn giáo nào. Giáo lý bí truyền dung hợp mọi tôn giáo, lột trần những lớp võ được con người tô vẽ, và trả lại cội nguồn của chính của nó. Nó chứng tỏ sự cần thiết của một Thượng Đế tuyệt đối trong tự nhiên. Nó phủ nhận Thượng Đế không khác nào phủ nhận Mặt Trời. Triết lý bí truyền không bao giờ chối bỏ thượng đế trong tự nhiên, và Thượng Đế trên cương vị là Thực thể tuyệt đối và trừu tượng. Nó chỉ không chấp nhận bất kỳ vị thần thánh nào của cái gọi là tôn giáo độc thần, các vị thần được tạo ra bởi con người theo tưởng tượng của mình. Những hình họa đó dù đẹp đến đâu, cũng chỉ là bức biếm họa báng bổ thần linh không hơn không kém. Hơn nữa, các tài liệu mà chúng tôi có trong tay, chúng được sưu tập từ các giáo lý bí truyền khắp nơi trên thế giới, và nó còn có trước cả loài người chúng ta nữa kia. Và dĩ nhiên huyền môn Phật giáo chiếm số lượng lớn nhất trong công trình này. Ví dụ như những đoạn bí ẩn trong Thánh Kinh “Dan” [1], “Ja-na” (Dhyan) đều thuộc giáo lý siêu hình của Đức Phật… Nhà cải cách Hindu giáo (Đức Phật) chỉ nói đến minh triết tôn giáo, khía cạnh đạo đức con người, trong các bài thuyết giảng công truyền. Còn những điều “không nhận thấy và vô hình”, những bí ẩn của trái đất, của vũ trụ ngài chỉ giảng cho một số môn đồ chọn lọc, các vị La-hán (Arhats). Các vị La-hán này được ngài diểm đạo ở hang động động Saptaparna (Thất Diệp) gần núi trên núi Baibhar. Động này ở thành Rajagriha (Vương-xá), thủ đô cổ xưa của Vương quốc Mogadha (Ma-kiệt-đề) và cũng là động Cheta của Đức Fa-hian (Pháp-hiển), mà một vài nhà khảo cổ đã đưa ra giả thuyết. (còn tiếp)
  16. Qua vụ Đường tới thành thăng long này mới thấy dân mình có tư tưởng chống Tàu dữ quá. Cái này có phải được gọi là "tinh thân dân tộc"? Cháu nghĩ là chưa đến mức độ gọi là "tinh thần dân tộc". Nhìn dân Tàu họ làm ầm ĩ vụ tàu cá của họ bị Nhật bắt, mới thấy chủ nghĩa dân tộc của họ ghê gớm đến mức nào. Người Nhật còn nói, họ đã tỏ ra hèn yếu trước TQ. Dân mình không thích Tàu nhưng quanh năm lại toàn sử dụng hàng Tàu, năm nào cũng nhập siêu. Khối thứ Việt Nam ta làm được, nhưng vẫn cứ nhập về mà bán, như tăm tre, đũa tre...chẳng hạn. Yêu nước là phải dùng hàng Việt loại hàng Tàu mới phải. Đường tới thành thăng long cũng giống như những vụ nhập tâm tre thôi. Đối với họ, miễn sao có $$$ là được; chả cần quan tâm gì đến hoa hồng hoa héo đâu. và dư luận chả là cái đinh gì.
  17. Giấc mơ là do con người khi ngủ xuất vía qua bên cõi âm, và hoạt động bên đó. Một số xuất hiện do ban ngày ta suy nghĩ sâu điều gì, khi qua bên đó suy nghĩ của ta tiếp diễn. Vì bên đó là cõi tư tưởng nên ta nhớ hay nghĩ đến điều gì, lập tứ cái đó được đáp ứng ngay trước mắt ta (nghĩ gì có nấy). Những cái này chỉ là tư tưởng (ảo ảnh) không phải thật, vì nó chỉ xảy ra do tư tưởng. Một số xuất hiện do ta qua bên đó, và tiếp xúc với những người bên cõi âm này (bao gồm người chết và người đang ngủ khác). Cái này cũng là tư tưởng, không ảnh hưởng đến người sống mấy Một số ít giấc mơ có tính dự đoán, nhưng hầu như xác suất xảy ra rất nhỏ. Một số người có ấn tượng rất rõ về giấc mơ có một số điều kiện: - Họ sống thiên về tâm linh - Những người tập thiền hoặc luyện yoga. Ấn tượng về giấc mơ không phải là điều xấu, không cần phải sợ làm gì. Bạn cứ tĩnh tâm.
  18. Hi.hi...Ông KHANH này chắc cũng siu cỡ mấy ông tìm thấy mấy hạt lúa 3.000 năm tuổi ở Thành Dền. Mới liếc mắt là biết nó bi nhiêu tuổi...he...he; đúng là còn hoang tưởng hơn ông cái cha Nhiêu ấy chứ.
  19. BÍ ẨN CON NGƯỜI THEO HUYỀN MÔN (Tổng hợp theo tài liệu của Hội Thông Thiên Học) MỞ ĐẦU Liệu có phải nền khoa học kỷ thuật nhân loại trên địa cầu đã đi đến giai đoạn chạm trần, sau khi đã có hàng loạt thành tựu vượt bậc kể từ năm 1953 [1], năm bắt đầu cho cuộc bùng nổ cách mạng kỷ thuật. Và cho đến nay, vẫn những ý tưởng ban đầu đó không ngừng được cải tiến, nâng cấp như máy tính, điện thoại, tia x… mà ít khi có một ý tưởng mới mẻ mang tính táo bạo nào được đề xuất. Dầu cho đó là chiếc máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới [2], mang nhiều kỳ vọng, hòng khám phá sâu hơn những bí ẩn của hạt nhân nguyên tử. Nhưng thực tế là, càng ngày con người nhận ra rằng, ngay cả bản thân mình, họ cũng chẳng hiểu biết gì hết. Cuộc chiến với căn bệnh HIV, H5N1… đã qua hàng thập kỷ mà vẫn còn dai dẵn. Nguy hiểm hơn, những mầm mống bệnh xa xưa còn tồn tại trong bầu không khí hàng trăm năm, đang biến đổi gen, kháng kháng sinh... Chực chờ gây ra đại họa dịch bệnh toàn cầu, giết người hàng loạt; y như viễn cảnh mà con người hay tưởng tượng qua phim ảnh. Tuy thế, lẫn lộn trong những đáp số cực kỳ chính xác của học, lại có những kết quả ngẫu nhiên, mà khoa học không hề lý giải được. Như có người tự hết bệnh AIDS [3], người không ngủ vẫn khỏe [4], người không ăn vẫn sống [5]… Liệu đó có thể là sự biến đổi gen, hay rối loạn chức năng nào đó của cơ thể, như các nhà khoa học cố biện bạch mà không có lời giải thích thỏa đáng. Ngạc nhiên thay, những điều xem chừng kỳ lạ dưới mắt khoa học kia, đối với khoa yoga Ấn Độ lại chẳng có gì khó hiểu. Nhưng, lạ lùng là lời giải thích của khoa huyền môn chẵng được mấy người đời tin cậy, có khi còn hứng chịu phỉ báng và chê bai. Bởi, điều đó tỏ vẻ đi quá xa, cái đa số nhân loại hiểu biết hàng ngày; dầu hơi giống như bài học Copecnic và Galileo mới đây, tiếc là đã không còn ai còn nhớ rõ. Khó khăn đó không làm nản lòng những người yêu thích chủ nghĩa duy tâm, tin vào thượng đế, vào huyền môn, muốn truyền bá yoga đến với mọi người. Công việc bắt đầu từ khi Hội Thông Thiên Học được thành lập vào năm 1875, cho đến nay yoga Ấn Độ đã được du nhập rất nhiều vào các nước trên thế giới. Từ đó các cuộc nghiên cứu, ứng dụng yoga cho phục hồi sức khỏe, chống stress, chữa bệnh… có nhiều kết quả khả quan, nên yoga dầm dần được chấp nhận. Nhưng kết quả của yoga đâu chỉ dừng ở đó. Yoga mang đến cho mọi người chìa khóa mở cánh cửa huyền môn ẩn tàng bên trong mỗi con người chúng ta, và điều được mong đợi nhiều nhất, nó mang đến một thế giới hòa bình, tràn đầy yêu thương giữa người và người, giữa người và chúng sinh.
  20. BẢY CUNG VÀ BẢY VỊ THÁNH CỦA ĐỊA CẦU Thông Thiên Học nói rằng, Trái Đất được cai quản bởi những vị thánh trong một tổ chức có tên gọi là Quần-tiên-hội. Các vị này chăm sóc sự tiến hóa của nhân loại, tổ chức các giống dân, định hình các quốc gia… Thứ bậc các vị được sắp xếp dựa trên số lần điểm đạo, và được phân công làm việc trong 7 cung khác nhau. - 9 lần: Đức Ngọc Đế , đứng đầu Quần-tiên-hội. - 8 lần: + Gồm 3 vị độc giác phật: Sanandana, Sanaka, Sanatana. + Các vị phật đạo đức: Trong cuộc tuần hoàn thứ 4 này, địa cầu sẽ có tổng cộng 7 vị phật, đáp ứng cho 7 giống dân ra đời. Hiện chúng ta đi đã ở cuối cuộc tuần hoàn thứ 5 (giống dân thứ 5), và đã có 4 vị: Đức Padmatara, Đức Siki, Đức Kasyapa, Đức Thích Ca và chào đón vị thứ 5 là Đức Di Lặc. (có một vài tài liệu dịch là chúng ta đang ở cuộc tịnh hóa lần thứ 4, và là giống dân thứ 4???) - 7 lần: + Đức Bàn Cổ (Manou) + Đức Bồ Tát (Bodhisatva) + Đức Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan) - 6 lần: Gọi là các vị đế quân, các vị này là trưởng giáo mỗi cung. - 5 lần: Là các vị chơn tiên. - 4 lần: Các vị La hán (Arhat). - 3 lần: Các vị A-Na-Hàm (Anagamin). - 2 lần: Các vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin). - 1 lần: Các vị Tu Đà Hườn (Sotapanna). * Cung thứ 1: Về chính trị - Sức khỏe: Người ở cung thứ nhất rứt tinh lực của trời đất để chữa bệnh. - Đặc tính: Người ở cung thứ nhất đạt được mục đích nhờ nghị lực mạnh mẽ của mình, chứ không cần phải dùng phương tiện nào. - Đức tính nổi trội: Mãnh lực. - Người cai quản Đức Morya. Đức Đế Quân Morya đứng đầu cung thứ nhất. Tiền kiếp Ngài là một vị vua nước Radiputana ( Bắc Ấn Độ). Ngài có một bộ râu đen rẽ ra làm hai, tóc màu nâu, lỏng thỏng hai bên vai, đôi mắt đen và sắc sảo đầy vẻ oai hùng. Ngài cao sáu thước. Ngài nói năng gọn gàng nghiêm trang và vắn tắt, khiến ai cũng phải phục tùng và vâng lời tức khắc. Ngài là tượng trưng cho sự uy lực vô cùng mãnh liệt và sức mạnh tinh thần. Đức Morya sẽ kế vị Đức Bàn cổ Vaivasvata để làm Đức Bàn cổ cho giống dân chánh thứ 6; giống dân này sẽ sinh ra trong 700 năm nữa. Hiện giờ còn giữ xác phàm ở xứ Tây Tạng. Ngài tạo lập các quốc gia, rèn đúc những bậc anh hùng, chí sĩ, khuyến khích các nhà lãnh đạo lập nên nền chánh quốc cho hợp thời thế duy tân. Ngài hướng dẫn loài người. Trong bao nhiêu thế kỉ, ngài nuôi dưỡng những đực tính của một giống dân và đợi đúng thời kì, ngài giúp chúng nó nảy nở trong giống dân phụ. Các vị vua chúa, các quan thủ truởng các nhà ngoại giao, các quân nhân đều thuộc về Cung thứ nhất. * Cung thứ 2: Về tôn giáo - Sức khỏe: Biết rõ căn bản của tật bệnh và biết cách dùng ý chí để đoạt thành mục đích. - Đặc tính: Bác ái và minh triết Người thuộc về cung thứ nhì cũng dùng nghị lực vậy, nhưng nhờ sự minh triết nên biết trước rất rõ ràng những phương pháp tốt đẹp hơn hết để đạt thành ý nguyện. - Đức tính nổi trội: Minh triết. - Người cai quản: Đức Kouthoumi Đức Đế Quân Koot-Hoomi (hay là Đức Kout-Thoumi) cai quản cung thứ hai. Tiền kiếp Ngài là Đức Pythagore. Ngài đầu thai lần cuối lấy xác người Bà-la-môn ở xứ Cachemire. Mặc dù đã đắc quả làm một vị Đế Quân (trên Thần Tiên 1 bậc). Ngài vẫn giữ xác phàm lại cõi trần nơi triền núi Himalaya. Xác ngài vẫn như thế mãi không già, tuổi Ngài độ 45, mặt Ngài sáng rở như phần đông người Anh-Cát-Lợi. Tướng mạo hiền từ và đức hạnh. Đôi mắt Ngài màu xanh chứa chan tình Bác-ái và sự Phúc-Lạc. Gương mặt của Ngài khó tả cho ra đúng: vì đường nét nó thay đổi liền liền, nhất là lúc ngài nở nụ cười. Sống mũi truyệt đẹp như chạm, và đôi mắt to, màu trong xanh lạ thường. Trong nhiều tiền kiếp: khi Ngài làm vị Mục sư ở Ai Cập lên Sarthou, khi làm đại Mục sư tại đền thờ Agade ở Asie Mineure. Nơi đây, sau một cuộc binh đao, khói lửa, Ngài bị giết, nhưng Ngài lập tức nhập vào xác của người chài lưới Hy Lạp, đang trầm mình tự tử, rồi Ngài qua xứ Ba Tư giúp đỡ Đức Zoroasire trong việc lập Hoả Giáo. Kế đó Ngài là Mục sư tại đền thờ Jupiter ở La Mã. Sau cùng, Ngài là vị Đại Đức Nagarjuna bên Phật Giáo. Ngày sau, Đức Koot Hoomi sẽ kế vị Đức Di Lặc Bồ Tát, cầm cây Pháp lịnh chưởng giáo thế gian. Ngài chăm nom nền Đạo Đức. Những người thuộc về Cung Ngài đều là những vị có lòng Bác ái, lo dìu dắt sinh linh voà đường Đạo hạnh như các vị tu sĩ, hoà thưưọng, linh mục, mấy vị hiền triết, chơn sư,v. * Cung thứ 3: Về thiên văn - Sức khỏe: Người thuộc về cung thứ ba thì chọn lúc nào điển lực của hành tinh thuận lợi mới cho uống thuốc hoặc làm thuốc. - Đặc tính: Sự thích nghi và khoa thiên văn. Người thuộc về cung thứ ba, thì dùng mãnh lực của cõi thượng giới và cố chọn lựa kỹ lưỡng ngày giờ nào tốt (nghĩa là để ý đến khoa thiên văn) có ảnh hưởng thuận tiện cho mục đích của mình. - Đức tính nổi trội: Thích nghi và nhã nhặn. - Người cai quản: Đức Vénitien. Vị chưởng quản cung này là Đức Đế quân Venitien. Ngài sanh tại thành Venise thuộc nước Italie. Có lẽ Ngài là đẹp hơn hết trong Quần Tiên Hội. Mạnh dạn và to lớn. Ngài có một hàm râu dợn sóng, một mớ tóc phất phới. Đôi mắt trong xanh, tuyệt đẹp. Ngài coi về Khoa Thiên văn là một môn học nghiên cứu về năm, tháng, ngày, giờ nào thuận tiện để rút thần lực thiêng liêng của vũ trụ, hầu giúp đỡ nhân loại hơn là tránh những điều khó khăn xảy đến. Những người thuộc về Cung thứ 3, thì có biệt tài thích hợp. Nhờ vậy mà họ hiểu người, mà có hiểu mới có thể giúp đắc lực được. Biểu hiện của họ là: “Mỗi người, mỗi chuyện”, họ luôn luôn hành động một cách khéo léo: họ có tài ngoại giao cũng thích ứng mau lẹ với mọi hoàn cảnh. Họ ưa học Thiên văn, địa lý và Bói toán (khoa bói toán). * Cung thứ 4: Về mỹ thuật - Sức khỏe: Người thuộc về cung thứ tư: lại công dụng phương pháp ngoại khoa (thuộc về thế chất) như đấm bóp, chà (mát xa), cạo gió, v.v… - Đặc tính: Sự điều hòa và thẩm mỹ. Người thuộc về cung thứ tư, thì dùng mãnh lực của cõi hồng trần tức là mãnh lực của tinh khí (khí - éther). - Đức tính nổi trội: Đẹp đẽ và điều hòa. - Người cai quản: Đức Sérapis. Vị chưởng quản cung thứ tư là đức đế quân Serapis, Ngài sinh tại Hy Lạp tuy rằng công nghiệp của Ngài đều lập ở xứ Ai Cập. Ngài lớn người, tóc vàng nhạt. Ngài như một thầy tu tịnh giới. Tính tình hiền lành và thanh nhã. Ngài hơi giống như Đức Hồng y Newman. Bưổi sơ khai của Hội Thông thiên học, chúng ta thường nghe nói đến Ngài tam giáo hoá ông Olcott trong khi sư phụ của ông là Đức Morya bận việc. Các đấng Tiên trưởng thường đổi học trò để dạy. Người thuộc cung này thì thích sự điều hoà và đẹp đẽ. Họ phải ở chỗ hoà khí mới thuận tiện cho sự tiến hoá của họ. Đời họ là đời mỹ thuật. Mấy vị tài tử, mấy nhà hoạ sĩ, mỹ nghệ đều thuộc cung thứ Tư. * Cung thứ 5: Về khoa học - Sức khỏe: Người thuộc về cung thứ năm lại ưa dùng thuốc luôn. - Đặc tính: Sự chính xác của khoa học Người thuộc về cung thứ năm, thì dùng mãnh lực của cõi trung giới, tức là làm ánh sáng, gọi là thanh khí quang tuyến. - Đức tính nổi trội: Sự chính xác. - Người cai quản: là Đức Đế quân Hilarion. Vị chưởng quản cung này là Đức Đế quân Hilarion. Ngài là người nước Hy Lạp. Sống mũi hơi cong quấp, trán thấp và rộng. Ngài cũng đẹp lộng lẫy và dường như còn trẻ. Ngài có cái tính đúng đắn của khoa học. Ngài lão thông những khoa bí truyền. Thuở xưa Ngài là nhà hiền triết Jamblique của trường Ecole Neo platonicienne rất giỏi về khoa thi phú văn chương. Ngài đem thần lực giúp bà Mabel collín viết quyển la Lamiere sur le Sentier và L’ldylle du Lotus Blanc. Theo và Annie Besant thì lời Ngài rất thanh nhã và thi vị. Ngài giúp các vị thông thái rất nhiều, Ngài làm cho họ thấy khoa học một cách đúng đắn, không sai một ly nào. Chẳng những Đức Hilarion chi dụng khoa học mà thôi, Ngài còn áp dụng thần lực của vũ trụ ẩn trong con người nữa. Ngài biết rằng : tình cảm và tư tưởng của con người đều có tiếng dội trong vũ trụ: nếu một người vui vẻ và an lạc ở giữa đám đông, thì mọi người nơi đây sẽ được nhờ lây, và lại các vị thần tiên sẽ phò trợ để tăng thêm hạnh phúc. Nhưng người tiến hoá về cung này có biệt tài quan sát mọi việc một cách đúng đắn lạ lùng. Họ là những nhà bác học, những vị chuyên môn về khoa học * Cung thứ 6: Về tín ngưỡng - Sức khỏe: Người thuộc về cung thứ sáu lại trị bệnh bằng đức tin. - Đặc tính: Sự tín ngưỡng và tôn thờ. Người thuộc về cung thứ sáu, thì dùng mãnh lực của đức tin đối với đấng thiêng liêng và lòng mộ đạo của mình để đạt ý nguyện. - Đức tính nổi trội: Lòng sùng đạo. - Người cai quản: Đức Jesus Vị chưởng quản cung thứ sáu là đức Jesus. Ngài sinh tại Palestine và lập nên Cơ-đốc Giáo. Trước kia Ngài là Apollonices de Tyane, sau đó là Sri Ramanujacharya cải cách tôn giáo ở miền Nam Ấn Độ. Những người thuộc về cung thứ 6, thì ưa thờ cúng, có lòng mộ đạo dồi dào. Nếu họ tiến hoá cao, thì họ là những nhà thần bí học của tất cả các tôn giáo. * Cung thứ 7: Về huyền bí học và khoa phù thủy - Sức khỏe: Người thuộc về cung thứ bảy thì dùng thần chú và dùng cầu đảo thánh thần để nhờ giúp sức. - Đặc tính: Sự thờ cúng có lễ nghi và phù thủy. Người thuộc về cung thứ bảy: thì dùng những câu thần chú và nhờ sự giúp đỡ của các vị ấy. - Đức tính nổi trội: Sự tín ngưỡng thần quyền. - Người cai quản: Đức đế quân Comte de Saint Germain. Vị chưởng quản cung này là đức đế quân Comte de Saint Germain mà ta gọi là Đức Thầy Rakoczi. Tiền kiếp của Ngài thuộc về cua chúa. Về thế kỉ thứ 17, thì Ngài đầu thai lấy tên là Francis Bacon và Lord Verulam. Hồi thế kỉ thứ 16 thì Ngài là thầy tu Robertus; và ở thế kỉ thứ 15, ngài là Hungadi. Ngài cũng là Christian Rosencreuz lúc thế kỉ 14; và lúc thế kỉ 13, ngài là Roger Bacon tức là Adepta Hongrois của khoa thần bí. Ngài là nhà Triết học Proclus của phái Tân-Bờ-La-Tông và Saint Alban(vị tuần giáo) ở nước Anh hồi thế kỉ thứ 4. Đức Saint Germain có vẻ huy hoàng của một nhà vua hồi thế kỉ thứ 18 và cốt cách của một vị võ tướng. Tướng mạo vương giả và hiền lành của Ngài thuần phục tất cả nhân tâm. Đôi mắt to lớn và nâu sậm của ngài đầy vẻ từ bi, bác ái. Sắc mặt ngài trắng nhạt, với mái tóc màu sậm hơi ngắn, rẽ ngay chính giữa đầu và chải từ trán ra sau ót. Ngài thường ngự trong một cái đền đại ở nước Hung-gia-lợi là gia sản của tổ phụ để lại, cách đây nhiều thế kỉ. Trong lúc Ngài hành lễ, thì thường mặc y phục nhiều màu sắc và mang nhiều nữ trang quý giá và tốt đẹp vô cùng. Ngài có một bộ đồ dệt bằng chỉ vàng, trước kia chỉ thuộc về Hoàng đế La Mã. Trên choàng lại có ghim một cái kẹp nhân hột xoàng, hình ngôi sao 7 nhánh. Có khi ngài mặc áo màu tím thật đẹp. Công việc của Đức Sain Germain là làm theo lễ giáo của Thần quyền và thần bí, vì ngài coi về khoa Pháp môn và Phù Thuỷ. Ngài thường sai khiến các vị Thần tiên, và những vị Chúa tể của những nghi lễ và cúng kiến. Ngài lo về sự văn siêu hình. Ngài cũng lo lắng về chính trị quốc tế và sự khai hoá các quốc gia trên thế giới. Nguồn: thongthienhoc.com
  21. Như đã trình bày, Thông Thiên Học quan niệm: Địa Cầu của chúng ta đã đi đến lần tịnh hóa lần thứ tư, cuộc tuần hoàn lần thứ 4, giống dân thứ 5 và đang chuẩn bị chuyển vận cho giống dân thứ 6 ra đời. Qua tìm hiểu nền Lý Học Đông Phương, tôi tìm thấy nó cũng có quan niệm tương tự về sự tịnh hóa của địa cầu: * Sự phân chia chu kỳ được tính như sau: - 129.600 năm là một Nguyên (12 hội) – có tài liệu là 10.800 năm. - 129.600 tháng là một Hội (30 vận) - 129.600 ngày là một Vận (12 thế) - 129.600 giờ là một Thế Kỷ (30 năm) * Quá trình tịnh hóa đã xảy ra trong quá khứ: - Tịnh hóa lần thứ 1: + Vào hội Tuất trời đất tối tăm mờ mịt. + Sang đến hội Hợi tất cả còn hỗn độn, chưa phân chia. - Tịnh hóa lần thứ 2: + Trải năm nghìn bốn trăm năm (5.400), hội Hợi sắp hết quay lại từ đầu, chuyển sang hội Tý, mới dần dần tách biệt. + Sang hội Tý, trời đất bắt đầu có rễ, Âm Dương giao hoà thành gốc của vạn vật. + Trải 5.400 năm, đúng giữa hội Tý, những thứ nhẹ trong bay lên thành Trời, tạo ra Nhật Nguyệt Tinh Thần tức là Tứ Tượng. Cho nên nói Trời mở ở Tý. - Tịnh hóa lần thứ 3: + Trải qua 5.400 năm, hội Tý sắp hết, dần sang hội Sửu, đất dần dần ngưng kết. + Lại trải qua 5.400 năm, đúng giữa hội Sửu, những thứ nặng đục ngưng xuống tạo ra Nước, Lửa, Núi, Đá, Đất gọi là Ngũ hình, cho nên nói Đất (Khôn) mở ở Sửu. + Lúc này giao hoà Âm Dương mà sinh ra Bát quái: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài. + Tịnh hóa lần thứ 4: Lại qua 5.400 năm, đúng vào hội Dần, sinh Người, sinh Thú, sinh Chim, gọi là Tam Tài. Cho nên nói Người sinh ra ở Dần. Khi đó thế gian có 4 châu lớn là Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lư châu.” Như vậy, có sự tương đồng trong diễn giải cách vận hành địa cầu, giữa kiến thức huyền môn của Thông Thiên Học và nền minh triết Phương Đông cổ xưa. Có khác chăng là cách đặt tên và phân chia chu kỳ. (Do chỉ sưu tập tài liệu chưa tìm hiểu kỷ về lý học Phương Đông, nếu sai sót mong các bác bổ sung)
  22. Khi Khoa học chưa giải thích được vi mô tất cả mọi hiện tượng xảy ra trên thực tiễn thì để bảo tồn bản thân, gia đình, dân tôc trường tồn cùng thời gian trước tự nhiên thì bắt buộc phải tổng hợp lý luận từ thực tiễn phần kết quả còn kiểm tra thực nghiệm thì tính sau chờ các ngành khoa học khác của thế giới phát triển. Lý luận kiểu mấy ông thông thiên học này thì người Việt Nam có đầy, có hằn môt ông trời để táo quân đi chầu vào dịp tết.Các vấn đề khoa học tự nhiên thực nghiệm chưa làm tròn trách nhiệm thì các nhà khoa học xã hội cố gắng mà tổng kết tránh đi cái sấu nhất kẻo người ta tổng kết kỹ hơn nên người ta cho vài đồng rồi súi bảy cho bản thân và gia đình và có khi cả một dân tộc tan tành. Khoa học nói đơn giản là sự tổng kết các dữ kiện liên quan đến đối tượng nghiên cứu và đưa ra kết luận. Và kết luận này chắc chắn sẽ thay đổi khi con người có phương pháp và phương tiện nghiên cứu tiến bộ hơn; hoặc là tìm kiếm được dữ kiện mới về đối tượng nghiên cứu, khi trong những lần nghiên cứu trước nó chưa biểu lộ hết thuộc tính của mình. Vì vậy, thành tựu của khoa học phụ thuộc vào: - Thời gian nghiên cứu đối tượng. - Phương pháp và phương tiện nghiên cứu. - Dữ kiện về đối tượng. Kết quả nghiên cứu luôn tỷ lệ thuận vào các điều kiện trên. Khoa học huyền bí vẫn là huyền bí vì: thiếu phương tiện và phương pháp nghiên cứu đúng; mẫu đối tượng nghiên cứu không rộng... cho nên người ta thiếu tin tưởng vào nó và cho rằng đó là điều mê tín dị đoan. Phần đông nhân loại tin vào Thuyết tiến hóa của Drawin, thuyết ấy có thể tóm gọn như sau: Thế giới hữu cơ được hình thành từ vật chất vô cơ, các chất vô cơ ngẫu nhiên kết hợp với nhau thành các hợp chất hoá học mới rồi đến phân tử hữu cơ có chứa 4 nguyên tố C,H,O,N – phân tử protêin đầu tiên. Và quá trình này diễn ra trong cả tỉ năm. Nhưng thuyết này mâu thuẩn không kém gì kết luận của Dy linh thuyết: Tất cả mọi thứ trên đời đều do chúa trời tạo ra.
  23. PHÙ THỦY LÀM MƯA Trích chương 2. HỒI KÝ H.S.OLCOTT Bản Dịch: Nguyễn Hữu Kiệt Nguồn: www.thongthienhoc.com Trước đây tôi có nói về Sigor B. , một nghệ sĩ người Ý có phép thuật thần thông, đã có lần đến viếng bà HPB tại New York. Một buổi tối mùa thu, năm 1875, ngay sau khi thành lập Hội Thông Thiên Học tôi đã chứng kiến hiện tượng lạ lùng của y làm mưa bằng cách sai khiến những tinh linh trong không gian. Đó là một đêm trăng tròn, bầu trời xanh biếc không có một cụm mây che. Y gọi bà HPB và tôi ra ngoài bao lơn và dặn tôi hãy bình tĩnh và hoàn toàn im lặng, dù việc gì xảy ra. Kế đó, y lấy trong túi áo và đưa về phía mặt trăng một tờ giấy cứng độ bằng khuôn khổ tập vở học trò, trên một mặt giấy có vẽ bằng màu nước một số hình vuông vức trong mỗi ô vuông có một con số dị kỳ, nhưng y không cho tôi cầm lấy hoặc xem xét. Tôi đứng gần bên ở sau lưng y, và có thể cảm thấy thân mình y cứng đơ dường như trong một cơn tập trung ý chí mãnh liệt. Độ một lát, y chỉ vào mặt trăng và chúng tôi thấy những luồng mây đen từ vành trăng tuôn ra và bay về phía chân trời. Tôi bất giác thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, nhưng nhà phù thủy nắm chặt tay tôi với một bàn tay cứng như sắt và ra hiệu cho tôi hãy im lặng. Luồng mây đen bay ra mỗi lúc càng mau, và kéo ra càng dài. Nó lan dần thành hình rẽ quạt, và trong chốc lát, những đám mây đen khác xuất hiện trên nền trời rải rác mỗi chỗ một ít, rồi hợp thành khối và di chuyển rất mau. Nền trời đã trở nên u ám vì mây đen bao phủ, mặt trăng biến mất dạng, và một cơn mưa rơi xuống khiến chúng tôi phải lui vào nhà. Không có sấm sét, cũng không có gió, mà chỉ có một cơn mưa rào được tạo nên trong vòng một khắc đồng hồ bởi con người kỳ bí ấy. Khi chúng tôi đến gần ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy gương mặt nhà phù thủy biểu lộ những nét rắn rỏi cương nghị như sắt thép và hai hàm răng nghiến chặt, giống như sắc thái mà người ta nhìn thấy trên gương mặt của những binh sĩ tác chiến ngoài mặt trận. Quả thật vậy, y vừa mới chiến đấu và chinh phục những đạo binh tinh linh ngũ hành, một kỳ công nó đòi hỏi sự tận dụng tất cả mọi nghị lực trong con người. Signor B. không ở lại với chúng tôi lâu, mà hối hả cáo từ ra về, và vì đêm đã khuya, nên tôi cũng lui về phòng riêng vài phút sau đó. Nền đá trên đường lộ đã trơn ướt vì mưa, không khí lạnh và ẩm. Tôi vừa vào phòng ngồi hút thuốc thì nghe tiếng chuông reo, và khi ra mở cửa trước, tôi thấy Signor B. đứng trên ngưỡng cửa, gương mặt tái xanh và một phần đã kiệt sức. Y xin lỗi vì đã làm phiền rộn tôi và xin một ly nước uống. Tôi mời y bước vào nhà, sau khi y đã uống nước và ngồi nghỉ một lát , chúng tôi mới nói chuyện về những vấn đề huyền học và câu chuyện kéo dài trong một lúc khá lâu. Tôi nhận thấy y sẵn sàng thảo luận về các vấn đề văn chương, nghệ thuật hay khoa học, nhưng lại vô cùng dè dặt khi nói về khoa Huyền Môn và kinh nghiệm cá nhân của y trong việc phát triển tâm linh. Tuy nhiên, y giải thích rằng tất cả những giống tinh linh ngũ hành đều có thể chịu sự kiểm chế của con người khi y đã phát triển được những tiềm năng thiên phú của mình. Chừng đó, ý chí của y sẽ trở nên một sức mạnh vô địch làm cho tất cả những giống sinh vật thấp kém hơn gồm cả các loại tinh linh ngũ hành, đều phải chịu khuất phục.
  24. Lý thuyết của cha NHIÊU này nghe có vẽ giống lý thuyết của Hội Thông Thiên Học. Tuy nhiên nếu truyền được ý nghĩ trong không gian như ông ta nói, thì chắc phải tu thiền nhiều năm. Tâm tính con người là một vấn đề nan giải từ xưa đến nay, bởi vì họ lưu trữ nhiều nghiệp lực trong vô số kiếp và luôn hành động theo giác quan. Mọi vấn đề đều từ tâm mà ra, không tu tâm thì mọi vấn đề xã hội vô phương giải quyết. Giáo lý của Đức Phật đã, đang và sẽ là một lý thuyết giải quyết tốt nhất mọi ngóc ngách vấn đề trong hành động của con người. Riêng tôi tin rằng không có lý thuyết nào thay thế được. Tóm lại, đúng là cha này khùng ghê. Chưa biết vấn đề ra sao, mà đòi tiền, mà lại tiền đô nửa chứ. Chắc chả nghĩ rằng, ngoài thằng chả ra không ai biết giáo lý Thông Thiên Học.
  25. NGÀY PHÁT XÉT CUỐI CÙNG VÀ HÀNH TRÌNH CỦA NÓ Chưa bao giờ chúng ta nghe nhiều tin đồn về ngày tận thế như hiện nay: đó là thời điểm con người sẽ tan rã trong biển nước mênh mông, khi băng ở hai cực bất thần tan chảy trong đêm. Chỉ sau vài giờ, đất liền trở thành đái đại dương, mọi thứ đột nhiên bị nhận chìm trong nước. Chẳng ai kịp có cơ hội vớ lấy được một cái phao nào và tất cả cùng níu chân nhau mà chết. Hay vào lúc con người say sưa chìm trong giấc ngủ, một thiên thạch to lớn có đường kính bằng ½ trái đất, bất ngờ đổi hướng bay, từ vũ trụ giáng xuống địa cầu với vận tốc bằng đường bay của ánh sáng. Ầm. Cú vam chạm xuyên vào tận bên trong lớp lõi địa cầu, làm kích hoạt các dòng nham thạch đã ngủ yên dưới lòng đất. Hàng triệu núi lửa đồng loạt thức dậy hoạt động phun nham thạch, tro bụi bao kín trời địa cầu. Ánh sáng mặt trời không thể xuyên thủng lớp mây này, nhiệt độ trái đất nhanh chóng giảm xuống, các đại dương liền đóng băng. Địa cầu rồi lại rơi vào kỷ nguyên băng hà như trước đó, mọi sự sống chấm dứt. Con người lớp thì ra tro, lớp thì được ướp đá, đợi đến sự sống đời sau tìm thấy, moi lên và khảo cổ. Kinh dị hơn, những ma vương và tập đoàn tà giáo từ thời cổ đại Ai Cập đồng loạt xuống đầu thai trong thời điểm hiện nay. Chúng sẽ len lõi vào vị trí lãnh đạo trong một số quốc gia, tìm cách khơi gợi lên những tục lệ của các phù thủy Ai Cập cổ xưa như: cúng tế người sống; tử hình bằng ném đá, phanh thây; ăn thịt, uống máu người sống… Chúng hung hăng tìm cách kích động chiến tranh, tiêu diệt từng nước và mơ ước thống trị thế giới, xây dựng một vương quốc tà giáo lớn nhất từ trước đến nay. Những con người thánh thiện và đạo đức sẽ bị chúng giết chết, cư dân tà giáo còn lại là những kẻ mặt người dạ thú. Nền văn minh con người cũng sẽ chấm dứt. Những lời đồn thổi thì cho rằng tất cả loài người sẽ tuyệt diệt, hoặc sáng sủa hơn là còn sống nhưng không còn là người nữa. Lời dự đoán về sự kiện này luôn có kèm theo thời gian, tuy nhiên chúng lại luôn được dời từ thời điểm này sang thời điểm khác. Có khi nó được cho là vào ngày bắt đầu của cuộc Thế chiến thứ 2, nhưng sau đó lại được cho rằng ấy là ngày cuối cùng của thế kỷ 20, hoặc mới mẽ hơn là vào lúc chấm dứt lịch của người Maya bên Nam Mỹ… Những lời đồn đại kia có lẽ xuất phát từ các kinh sách của những tôn giáo và cả những lời sấm truyền ở nhân gian. Thiên chúa giáo thì nói đấy là ngày phán xét cuối cùng, Phật giáo thì nói đó là thời kỳ mạt pháp và chuẩn bị cho sự kiện lâm phàm của đức Di Lặc… Tuy có vẽ nói về ngày tận thế , nhưng chưa ai tìm thấy lời nhận định rõ ràng về thời điểm xảy ra sự kiện đó. Trong lối viết truyền đạt lại cho đời sau, họ đã dùng ẩn dụ, ẩn ngữ hoặc sử dụng một loại lịch cổ xưa nào đó đã thất truyền, mà hiện nay không có sự quy đổi rõ ràng tương ứng với tây lịch hay âm lịch… Trong ngày tận thế này, phần lớn nhân loại thiếu đạo đức sẽ phải trả giá cho những hành vi của họ, nhưng thành phần thánh thiện nhất sẽ được cứu xét và chuyển sang một đời sống mới trên một địa cầu tràn đầy yêu thương và hòa bình. Hội Thông Thiên Học thông qua việc sưu tầm các kinh sách cổ xưa, cũng có nhận định về sự chuyển biến địa cầu và sự tồn tại còn lại của con người có đạo đức. Thông Thiên Học cho rằng, địa cầu có 7 chu kỳ tịnh hóa, và trong 7 chu kỳ này có những chu kỳ nhỏ hơn, trong đó sẽ liên tục có sự thay đổi các giống dân. Hiện tại, loài người đã là giống dân thứ 5, của kỳ tịnh hóa thứ 4. Hiện tại và trong tương lai, giống dân thứ 6 sẽ thay thế giống dân hiện tại. [1] Giống dân thứ 6, là giống dân phát triển đến thể thứ 4 (Thể Trí), họ là những linh hồn đầy bác ái và minh triết. Quá trình thay đổi này ban đầu diễn ra thầm lặng, và đợi khi giống dân này đông đúc thì có sự kiện lớn xảy ra, đó là chiến tranh và thiên tai đồng loạt hiện diện ở địa cầu, hậu quả là phần lớn giống dân thứ 5 sẽ bị tiêu diệt. Các tài liệu không xác định thời điểm xảy ra sự kiện chính vào lúc nào, nhưng bà H. P. BLAVATSKY cho rằng giống dân mới thứ 6 đã được bắt đầu từ Mỹ Châu, đặc biệt là nước Mỹ - họ sẽ là một nhánh trong những nhánh của giống dân thứ 6. Nước Mỹ hiện nay là một quốc gia đa chủng tộc, những cư dân ở đây không còn là những người Châu Âu từ ngày mới đến mà họ đã là những con người có nhiều dòng máu pha trộn. [1] Quá trình này được nhận biết qua sự kiện, nhiều linh hồn thấp kém sẽ được lựa chọn đầu thai đến các quốc gia nào đó. Họ là những con người kém hiểu về tâm linh, tham lam vô độ, đầy hung hăng và hiếu chiến. Những người này sẽ khơi dậy chiến tranh, và kéo theo họ cũng bị tuyệt diệt. [2] Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, trái đất trở thành một đế chế với các liêng bang. Các vương quốc này sẽ được lãnh đạo bởi các vị hiền triết, loài người sẽ trải qua một thời kỳ dài sống trong hòa bình. [3] ----------- [1] Giống dân mới thứ sáu. Giáo lý bí truyền (H.P.Blavatsky – Bản dịch: Nguyễn Thị Hai). Thongthienhoc.com [2] Bí quyết thông thiên học (H.P.Blavatsky – Bản dịch: Nguyễn Thị Hai). Thongthienhoc.com [3] Giáo lý bí truyền (H.P.Blavatsky – Bản dịch: Nguyễn Thị Hai). Thongthienhoc.com