văn nhân
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
23 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by văn nhân
-
xin phép được chen vào ... Bạn Minh Xuân thân , ở Việt nam Chu công được thờ cùng với đức Khổng tử trong các văn miếu còn có đền thờ riêng hay không thì tôi không rõ . thân .
-
Võ tắc Thiên nữ hoàng duy nhất của lịch sử Trung hoa , bà đã đọat nhôi nhà Đường và kiến lập triều đại Chu hay Châu sử thường gọi là nhà Võ Châu , triều đại Võ Châu đã khẳng định sự tiếp nối quốc thống nhà Châu cổ đại bằng việc tuyên xưng Châu văn vương là tổ 40 đời của Tắc thiên hoàng đế . Đặc biệt Võ tắc thiên có những tôn hiệu mà bản thân văn nhân tôi 'không hiểu nổi' xin nêu lên nhờ các bạn trong diễn đàn chỉ dẫn ... Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (金轮圣神皇帝) Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金轮圣神皇帝) Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝) thân ái .Văn Nhân.
-
Hoàn toàn nhất trí với bạn minh Xuân , theo tôi thì : Luân ở đây chỉ cái bánh xe luân hồi trong triết lý đạo Phật ý chỉ sự chuyển kiếp hay chuyển thế . Tôi đưa ra lời dịch táo bạo xin các bạn góp ý : 'Từ thị' chính là chữ viết 'đúng' của Tây thi , như vậy toàn tôn hiệu : § Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝) có nghĩa là : Tây thi gái nước Việt xưa chuyển kiếp thánh thần hoàng đế .
-
Lang thang và chu cha . Trong ngôn ngữ Việt có 2 từ láy rất hay dùng , những từ này mang nặng phong cách dân dã chứng tỏ là nó thuộc về đại chúng , đã ngấm trong máu nên người ‘đời’ dùng nhiều hơn là ...xuất hiện trong văn chương khoa bảng. Là những từ nằm trong lòng phát ra ‘cửa miệng’ chẳng cần suy nghĩ lựa lời chi cả nhưng lại ít ai biết căn nguyên của nó ; quen rồi cứ ‘xài’ không cần biết nó ở đâu ra và tại sao lại dùng như thế ; sách vở chưa hề có lời giải thích ..., Tự điển tiếng Việt cũng vậy không có dòng nào đề cập đến vấn đề này . 2 từ quen mà lạ này là: ‘lang thang ‘ và ‘chu cha’ hay ‘châu cha’ . 1 - Lang thang . Lang thang là đi hết chỗ này đến chỗ khác 1 cách bất định không có chủ đích rõ rệt , lạ là ở chỗ lang và thang trong tiếng Việt không mang ý nào liên quan đến sự đi lại cả . Từ lang nghĩa thông thường là : - Thày thuốc đông y . : thầy lang , ông lang , lang băm , lang vườn ... - 1 loại đồ ăn thức uống : khoai lang . - Người đứng đầu 1cộng đồng nhỏ cỡ làng ; từ này còn thấy trong vài dân tộc ít người như Thái và Mường. Từ thang : - Vật dụng để trèo lên cao ; bắc thang lên hỏi ông Trời ... - Gói thuốc trong đông y : thang thuốc . Vậy mà khi dùng lang đi liền với thang thành ‘lang thang’ lại chỉ sự di chuyển không mục đích rõ rệt ...thế mới lạ . Thực ra đây là từ láy có gốc rễ ở 1 sự kiện trong lịch sử Trung hoa xa xưa : Nhà Thương là triều đại dời đô nhiều nhất trong lịch sử Trung hoa , trong khoảng 300-400 năm đã 5 lần thay đổi kinh đô , ta biết mỗi lần dời đô như thế là cả 1 sự kiện trọng đại , xây dựng được 1kinh thành thì hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc và sức lực , kinh đô nào để cho xứng tầm cũng phải nguy nga tráng lệ chứ đâu có như cái nhà bếp cỏn con của đám dân đen , có khi phải đến vài chục năm mới có thể hoàn tất chứ nào chỉ ngày một ngày hai vậy mà ở chưa nóng ...mông vua quan nhà Thương đã bắt dân chúng xây kinh đô mới ...thực biết bao cơ cực cho kẻ làm dân ....chính vì thế sự việc này mới hằn sâu trong tâm trí mọi người để trở thành 1 điển cố lịch sử không thể quên cứ thế truyền mãi cho đến tận ngày nay để trong ngôn ngữ ‘bình dân’ Việt nam có từ láy... ‘lang Thang’ . Lang là thủ lãnh là vương là vua , Thang chỉ nhà Thương vua sáng lập là Thành Thang , lang Thang nghĩa là vua nhà Thương , chính vì 5 lần dời đô mà trở thành từ láy mang ý nghĩa như ngày nay . Sự giải thích này xem ra có lý ...nhưng kẹt một điều là vua nhà Thương là vua cổ của Trung hoa thì có liên quan gì đến dân chúng Việt mà sự cố ‘lang thang’ được khắc ghi trong tâm trí truyền lưu hơn 3000 năm đến tận ngày nay .??? Mời các bạn đọc Sử thuyết họ Hùng để thấy những điều trái khoáy thực ra không trái khoáy chút nào ,những chuyện tưởng như... kỳ quái mà thực ra lại rất chân xác ... 2 - Chu cha hay Châu cha. Khi gặp điều gì gây ngạc nhiên sửng sốt người ta buột miệng kêu ‘chu cha’ hay ‘châu cha ơi’..., gọi là buột miệng vì lời nói bật ra từ vô thức không nghĩ suy chi cả , người xứ Quảng phát âm thành ‘chu choa’ , người nam trung bộ là ‘chu che’ nhưng tất cả là cùng 1 ý , đặc biệt người Quảng hay kéo thêm cái đuôi thành ra ‘chu choa chèng đéc ơi’. ‘Chèng đéc’ là biến âm từ ‘Trời đất’ mà ra , còn ‘chu cha’ thì rõ ràng gọi người cha hay bố có tên là Chu , vậy hóa ra CHU là tên bố chung của mọi người Việt sao?. Trong sử Việt chẳng đã có vì vua được dân xưng tụng là ‘Bố cái đại vương’ đấy sao , đấng minh quân quên mình vì nước vì dân được dân mến mộ coi như cha mẹ vừa thể hiện sự kính trọng vừa là sự biết ơn xâu sắc trong tâm tình người Việt với đạo lí : uống nước nhớ nguồn ăn qủa nhớ kẻ trồng cây, khi nước ta đã trở thành ‘văn hiến chi bang’ thì đời đời không quên người đã mang đến ánh sáng văn minh ấy , Dịch lý là nền tảng văn minh Á đông , Chu văn vương là người có công đầu trong việc tác tạo Dịch học , trong tứ thánh của Dịch học thì Phục Hy là nhân vật thần thoại , Văn vương là con người thực công lao đứng đầu rồi mới đến Chu công và Khổng tử , không ai có thể tự hào hơn người Việt vì lịch sử còn ghi rõ tổ quốc của họ là đất nước của VĂN LANG tức nước của vua Văn , hàng ngàn năm trước công nguyên khi Hán tộc chưa hề đến đây thì trong kinh Dịch đã nói đến trống đồng và trên trống đồng cũng thể hiện Dịch học ,đây là bằng chứng vật thể đã không thể chối cãi về sự liên hệ giữa nước Văn lang và Chu văn vương nay lại thêm thói quen của người Việt mọi chi tộc luôn mở miệng gọi ‘Chu cha’ hay ‘Châu cha ơi là’ là điểm nhấn văn hoá phi vật thể bổ sung thêm chắc chắn và làm cho sự liên quan này trở nên không thể chối bỏ . Đã đến lúc lịch sử Việt nam ,Trung hoa và Hán tộc phải viết lại . Những thông tin lịch sử tồn tại trong dân gian tuy có vẻ giản đơn mong manh nhưng thực ra lại rất chắc chắn vì không ai có thể cạo sửa ‘bia miệng’ nên một khi đã tìm ra thì những thông tin này hầu như không thể bác bỏ , vua Tàu Càn long có thể cạo sửa toàn bộ sử sách Trung hoa nhưng không thể nào sửa được cụm từ ‘Lục lâm thảo khấu’ trong dân gian , đã là bia miệng thì chỉ có nước giết hết người Bách Việt mới phi tang được cái gốc cướp rừng cướp núi của đám quân Lục lâm , đám quân đã giúp lập nên hãn quốc đầu tiên ở Thiểm tây và ‘Lục lâm thảo khấu’ bỗng lột xác đổi đời... thành Hãn quân của đế quốc Hán kẻ đã đạp Trung hoa dưới móng ngựa có đến 500-600 năm . Các bạn nghĩ thử coi nếu Lục lâm quân là những anh hùng giúp kiến lập 1triều đại huy hoàng của Trung hoa thì trong dân chúng Trung hoa làm sao có cụm từ ‘giặc cỏ Lục lâm’ vừa vạch mặt chỉ tên là giặc lại vừa khinh bỉ là cỏ rác ... Trong ngôn ngữ bình dân Việt nam đã tìm thấy Dấu tích 4 triều đại của cổ sử Trung hoa: Lang Thang là các vua triều thương hay Thang . Lang Văn xếp ngược theo cấu trúc Hán văn là Văn lang vua tổ của triều Chu. Lang sói chỉ vị vua bạo ngược hàng nhất trong lịch sử là Tần thủy hoàng . Lang Bang là Lưu Bang Hiếu cao vua kiến lập Triều Tây Hán ( ???) Và độc đáo hơn hết là những ông Hãn gốc tộc Liêu họ Lưu lập quốc xưng là Hán ở phương trời ‘mờ – tối – đen’ được sử dân gian Việt gọi bằng mỹ danh ... Lưu manh ( manh ═ mù) , Lưu manh nghĩa là gì thì chắc không cần gỉai thích... Chỉ 1 từ kép này thôi đã chỉ rõ : Hán là Hán Hoa là Hoa , mập mờ đánh lận con đen...nhập Hán và Hoa làm một là ‘lưu manh’ .
-
Thưa Bạn Bách Việt 18 và các bạn . Riêng về Hung nô thì tôi đã cố gắng tìm hiểu nhiều ...nhưng càng đọc càng rối ...không dám xác quyết điều gì . Đúng như bạn viết ...Có những thông tin cho ta thấy họ cũng thuộc dòng Thát - Mông nhưng bên cạnh còn nhiều thông tin khiến ta nghĩ có thể họ là người da trắng ở trung á ...như : - Bản thân từ 'Hung' trong tiếng Việt có nghĩa là màu nâu đỏ rất có thể là nước da trắng mà nắng gió nhiều thì thành nâu đỏ . - người Hung nô theo văn hoá Thổ nhĩ kỳ chứ không phải cùng dòng văn hoá với Mông cổ như thế có thể họ cùng giống với người Thổ da trắng - có thuyết cho Hung nô là tổ tiên của người Hungary da trắng hiện nay . - Hung nô được người Mông cổ gọi là dân 'sắc mục ' , người có con ngươi không đen thì chắc không phải thuộc chủng Mongloid Cổ sử Trung hoa còn chép chuyện kỳ cục ...là Hung nô bị đồng hoá biến thành người Khiết đan - Hán (nước Hán của Lưu Uyên )...không biết biến cách nào mà giống này có thể biến thành giống khác được ... bó tay ...
-
Trung hoa Ngũ hành ...sử. Trích Sử ký chương Tần thủy hoàng bản kỷ : ....”Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức”.... Những dòng trên cho thấy người Tần đã dùng dịch học để thể hiện các đặc tính của triều đại mình , 5 đức họ nói đến chính là Ngũ hành được vận dụng vào nhiều lãnh vực : - hành Thủy , phương nước tức phương đối lập với hành hỏa phương lửa ở Xích đạo . - màu đen đối với màu đỏ . - mùa đông đối mùa Hạ . - số 6 và 7 là 2 số đối trong Hà thư (đồ) theo trục bắc –nam , số 8 - 9 là trục đông –tây. Trong phần trích trên duy có thông tin nhà Chu đức Hỏa là sai với ngũ hành sở dĩ có sự lầm lẫn này vì âm ‘Chu’ cũng nghĩa là màu đỏ như vậy là thuộc hành ‘Hỏa’ , chính xác phải gọi là nhà Châu nghĩa là sáng như trong châu - ngọc vậy , nhà Châu ở phương tây , ông Cơ xương là Tây bá hầu ; tây biến âm của tư - tứ cũng nghĩa là sáng láng , nhiều thông tin lịch sử khác liên quan tới phương tây đều hàm ý sự sáng như Hạo , Chiêu , Bạch, bạc .v.v.. Sở dĩ vậy vì trong ngũ sắc thì phương tây là màu Trắng . Rất có thể là 3 triều đại đầu của vương quốc Trung hoa không hề xưng danh , bản thân triều đại nào cũng chỉ xưng là ‘vua’ mà thôi ; các danh xưng Hạ Thương Chu là do những nhà viết sử đặt ra vì không định danh thì làm sao phân biệt và kết nối thành lịch sử . Vua tổ nhà Hạ gọi là ông vũ hay đại vũ . Vua khai sáng nhà Thương xưng là võ vương . Vua lập nên nhà Chu lại cũng là vũ vương . Vũ - võ chỉ là 1 và ‘vũ’ chính là ký âm từ ‘vua’ của Việt ngữ , việc thêm chữ vương nghĩa là vua vào sau chữ vũ cũng là vua chỉ ra : sử gia đã không xử lý chính xác các thông tin tư liệu , bản thân chẳng hiểu nghĩa từ ‘vũ’ là gì nên đã biến 1 danh từ chung chỉ thủ lãnh thành tên riêng của thủ lãnh ...; phải chăng đây là sự cố như bao sự cố dở khóc dở cười khác xảy ra khi chuyển thông tin từ kiểu chữ ‘đại triện’ sang kiểu chữ ‘tiểu triện’ ở thời Tần ? Trong Lịch sử Trung hoa Không phải chỉ riêng nhà Tần được biểu hiện bằng những tính chất của Ngũ hành mà toàn thể lịch sử cổ đại đều như thế , tên gọi của cả 3 triều đại Hạ Thương Chu đều là những thuộc tính của ngũ hành : Tóm lược những đặc tính của ngũ hành thể hiện trong các lãnh vực : Trước hết xin lưu ý là hành Kim và Thổ đã bị người Tàu hoán đổi vị trí , chi tiết xin đọc Dịch học họ Hùng nhưng để dễ dàng tiếp nhận cho người đọc ở đây vẫn dùng hệ ngũ hành đang biết : - hành Thổ (Dịch học Tàu ) : Trung tâm , không mùa , màu vàng , quân thiên , số Hà thư là 5-10 . - hành Mộc : Phương đông , mùa xuân ,màu xanh , thanh thiên , số Hà thư :3 – 8 . - hành Hỏa : Phương nam ngày nay (xích đạo ) ,mùa hạ , màu đỏ , Viêm thiên ,số Hà thư : 2-7 . - hành Kim ( Dịch học Tàu ): Phương Tây , mùa thu , màu trắng , Hạo thiên , số Hà Thư : 4 – 9 . - hành thủy : Phương bắc ngày nay , mùa đông , màu đen , Huyền thiên , số Hà Thư : 1 – 6 . Nhà Tần thuộc hành thủy đã qúa rõ vì Sử ký đã chép đầy đủ những thuộc tính như màu đen , mùa đông số chủ đạo là số 6 ...ngoài ra dựa vào Ngũ hành do bản thân tên gọi các triều đại còn có thể đễ dàng nhận ra: - Nhà Hạ thuộc hành Hoả : mùa hạ , hướng Xích đạo nhiệt đới , màu đỏ hay Đào Hồng , ,Viêm thiên , số HT: 2 - 7. Thần bản mệnh là Hoả thần Chúc Dung .v.v... - Nhà Thương hành Mộc : màu xanh hay thanh - thương , muà xuân , phương đông , , Thanh thiên , số HT : 3 – 8 . - Nhà Châu (sáng) hành Kim (DH Tàu) : màu trắng - sáng , Hạo thiên ( vùng trời sáng), mùa thu , phương tây ( tư- tứ : sáng ), số HT 4 – 9 . Sử gia thời cổ Trung hoa đã dựa vào Nền tảng ngũ hành , căn cứ vào chính vị trí địa lý miền đất trung tâm của triều đại đó mà tạo ra tên gọi các triều đại ...nên chỉ với thông tin : nhà Tần đức thủy màu đen cũng đã đủ để khẳng định thời tiên Tần lãnh thổ Trung hoa không thể nào nằm ở bắc Hoàng hà được . Các vùng của mặt phẳng phân theo Ngũ hành : Lưu ý : Lãnh thổ Trung hoa nằm trọn ở bắc bán cầu . Vẽ theo quy tắc bản đồ hiện nay Ứng dụng nguyên tắc ‘mặt phẳng ngũ hành ‘ vào thực địa Trung hoa : Nước Cao dịch sang Hán văn là Sùng là tên nước vua Thành Thang tổ nhà Thương phong cho con thứ của mình , chính vì điều này mà người Canh còn có tên là người Keo ... ; chùa Keo ở Hà nội có tên chữ là Sùng Nghiêm .( xin được bàn chi tiết ở 1 bài khác )Ngoài những thông tin mang tính cơ bản trên còn rất nhiều thông tin khác hỗ trợ cho luận thuyết lịch sử ‘ngũ hành ‘ này tiêu biểu như : - thủ đô thứ 3 của nhà Hạ là Dương thành..., Dương thành nay còn sờ sờ ở Quảng châu sao không thấy nhà sử học nào để ý tới ???, đất Cối kê quay ra Nam hải nơi thờ Hạ vũ cũng vẫn còn đứng đó sao không ai đến vùng núi này tìm bản văn mà Tần thủy hoàng đã khắc ?. - Tư liệu lịch sử nói rõ Vùng Giang tây xưa là lãnh thổ của Từ quốc , ‘Từ’ chỉ là tên dịch sang Hán văn chữ ‘Thương’ của Việt ngữ mà thôi nên chính xác nước ở đây là Thương quốc nước ở phía đông ...ấm ớ ‘từ’ biến thành ‘tây’ như trong giang tây thì chỉ có trời mới hiểu ... - Qúy châu âm Hán Việt phát âm đúng ‘tiếng Tàu’ là Cùi Chu hay Kỳ Chu...đó là tên chính xác của đất tổ nhà Chu , dòng Châu giang vẫn lượn lờ bấy lâu không đủ làm bằng chứng cho sự tồn tại của ‘Trung hoa’ thời nhà Chu hay sao ? - Tứ xuyên , Thục xuyên hay Xuyên thục và Tần xuyên chỉ là 1đất , tứ thục tần – tốn chỉ có nghĩa là phía tây , xuyên là sông chỉ phương nam ,đất tây nam này nơi vua Chu phong cho họ Đinh là cố tổ của Tần thủy hoàng ...., liên quan đến vua Chu và nhà Tần nhiều tư liệu nói đến việc vua Chu ban cho tần vương 1 chiếc trống đồng...hỏi vua Chu nếu ở Thiểm tây thì làm gì có trống đồng mà ban với tặng ? Tóm lại còn rất rất nhiều thông tin liên quan đến “Tứ đại ” Trung hoa nếu đem so chiếu với Ngũ hành thì không còn cách nào khác là ....bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ lịch sử từ thượng cổ tới ngày nay . Trước đây người viết bài này đã có lúc nghĩ .... phải viết lại 1 lịch sử khác cho Trung hoa nhưng nay ...thấy không cần như thế mà điều cần là phài ‘hiểu’ lại , hiểu cho đúng những gì đã có sẵn trong sách sử là đủ ./.
-
trong bài Tứ tạng - Tứ linh . ...phần 3 Quy - quay ... trích đoạn ...: Thái âm là vị trí Âm tiêu đến cùng cực là số không và bắt đầu đi lên chính sự quay đầu của khí âm bắt đầu cho chu trình Âm Dương tiêu trưởng mới khiến cổ nhân chọn con Quy làm đại biểu cho tượng Thái âm , chỉ có tên Quy là từ phát âm gần với Quay nhất không có con vật nào gần hơn nữa . .. 2 chữ Thái Âm xin sửa là Thái Dương ... thành thật xin lỗi ban chủ nhiệm Diễn đàn và bạn đọc . nqn
-
...ở những dòng cuối chữ Einstin xin sửa là Einstein . thành thực xin lỗi bạn đọc . nqn
-
Điều mới biết về người Tiên ty và Khiết đan Tiên ty là tộc người chiếm lãnh vùng đông bắc trung quốc ngày nay , họ bắt đầu có tên tuổi trong lịch sử Trung quốc từ năm : 269 khi Vũ Tuyên Đế Mộ Dung Hối được vua Tây Tấn phong là Liêu đông quận công từ đó họ Mộ Dung coi như làm chủ vùng đông bắc Trung quốc nhưng mãi tới năm 337 họ mới chính thức lập quốc . Tiền Yên là nhà nước đầu tiên của người Tiên Ty do Mộ Dung Hoảng thành lập năm 337, diệt vong năm 370. Tôn thất quan lại nhà Tiền Yên nối nhau lập nên các nước : Hậu Yên, Nam Yên, Bắc Yên , Tây Yên tới năm 410 thì các nước Yên của nhà Mộ Dung diệt vong khi kết thúc tời ‘ngũ Hồ loạn Hoa... Người Trung Quốc họ Mộ Dung nổi tiếng - Các vua nước Tiền Yên (337-370) bắt đầu từ Mộ Dung Hoàng - Các vua nước Hậu Yên (383-407) bắt đầu từ Mộ Dung Thùy - Các vua nước Tây Yên (384-394) bắt đầu từ Mộ Dung Hoằng - Các vua nước Nam Yên (398-410) bắt đầu từ Mộ Dung Đức Nước Yên của người Tiên ty chìm vào bóng tối hơn 500 năm mãi cho tới năm 1115 thì họ Hoàng nhan kiến lập nước Kim . Nước Kim tồn tại từ 1115 đến 1234, là vương triều của người Nữ Chân, đây cũng là tổ tiên của những người Mãn Châu đã lập ra triều đại nhà Thanh khoảng 500 năm sau. Năm 1113 A Cốt Đả (1068 – 1123) được bầu làm đại bối lặc (tù trưởng các bộ lạc , phải chăng bối lặc chỉ là chữ viết sai của ‘bố lạc’ là cha là thủ lãnh của bộ lạc ?). Năm 1114 ông lãnh đạo 2500 người Nữ Chân tại Lưu Thủy nổi dậy chống lại nhà Liêu. Đội kỵ binh này chiếm Ninh giang châu (Cát Lâm) và đánh bại 7 ngàn quân Liêu tại trận Chuhedian vào tháng 11. Sau những thắng lợi liên tiếp tháng 1 năm 1115 A Cốt Đả đã thành lập nước Kim tại miền bắc Mãn Châu. Acuta tuyên bố lên ngôi vua Kim, đóng đô ở Hội ninh phủ (Hắc Long Giang). Quốc gia này đã lần lượt xâm lấn và cuối cùng đã tiêu diệt vương triều nhà Liêu của người Khất Đan (Khiết Đan) vào năm 1125 (liên minh cùng nhà Tống để diệt Liêu) là những người đã thống trị khu vực Mãn Châu và biên giới phía bắc Trung Quốc trong vài thế kỷ trước . Vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 lực lượng nhà Kim đã chiếm Khai Phong, thủ đô của triều đại Bắc Tống, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Tống Khâm Tông và cha của ông là vua Tống Huy Tông, là người đã từ bỏ ngôi báu do sợ hãi lực lượng nhà Kim. Sau khi Khai Phong thất thủ, lực lượng nhà Tống dưới sự lãnh đạo của nhà Nam Tống kế tiếp vẫn tiếp tục chiến đấu với nhà Kim trong hơn mười năm tiếp theo, cuối cùng đã dẫn đến ký kết hiệp ước hòa bình năm 1141, và cắt toàn bộ miền bắc Trung Quốc cho nhà Kim năm 1142 để đổi lấy hòa bình . Nước Kim tồn tại đến năm 1234 thời Mạt đế Hoàn Nhan Thừa lân thì bị Mông cổ diệt . Người Tiên ty lại nhẫn nhục trong phận tôi đòi gần 500 năm , mãi tới năm 1616 họ mới quật khởi khi dòng họ Ái tân giác la lập nên nước Hậu Kim , đến năm 1636 thì đổi quốc hiệu thành Mãn Thanh , nhà nước của người Tiên Ty này đã tái chiếm Bắc Kinh từ tay nhà Minh năm 1644 ( Bắc kinh đã có thời là Yên kinh phải chăng là thủ đô của nước Yên – họ Mộ dung tiên tổ của họ Ái tân giác la ? ) và tồn tại mãi tới năm 1912 mới chấm dứt địa vị thống trị trên lục địa Trung hoa , cuộc cách mạng Tân hợi đã biến Trung hoa trở thành 1 dân quốc ý là quốc gia của mọi người chứ không là ‘của riêng’ ông vua bà chúa nào , chính xác hơn là chính biến 1911 đã cho ra đời hợp chủng quốc của chung cả những người thống trị và đám cựu nô lệ trên lãnh thổ đế chế Mãn thanh cũ . Trong các bài viết về văn minh và Dịch học họ HÙNG đã nhiều lần nói đến chuyện Bắc – Nam đã lộn ngược nay lại thêm bằng chứng nữa : Yên là biến âm của ôn việt ngữ là ấm chỉ vùng nóng bức , chính danh thì hướng Xích đạo phải là hướng Bức trong thế đối nghịch Bắc – nam , nóng bức - lạnh kăm , Bắc chỉ là biến âm của ‘bức’ mà thôi...nhưng cũng từ Dịch học mà hình thành quan niệm hướng màu đỏ hành hoả ở miền xích đạo là hướng của văn minh , ngược lại hướng màu đen hành thủy là tăm tối man dã nên ông vua bà chuá nào cũng nhận mình là văn minh đứng trên người khác thế nên về địa lý mình ở chốn nào thì chốn đấy đổi thành hướng bắc bất chấp nghịch lý ...vùng ‘ôn –ấm’ mà vua quan thiết triều run lập cập như ngồi trong ngăn đá tủ lạnh vậy ... Với quốc hiệu là Yên của người Tiên ty thì xem ra bắc nam đã lộn ngược từ thời nhà Tấn hèn chi mà ngũ man bị biến thành ngũ Hồ loạn Hoa... Khi nhìn tiên thiên bát quái đồ bằng nhãn quan khoa học thì đấy chính là trục toạ đồ không thời gian 4 chiều : Quẻ Đoài trấn phía bắc , Cấn phía nam . Đoài là cái hồ , cấn là núi tiếng Khơme là Bnâm , núi tiếng Việt còn gọi là non ; như thế Hồ phải ở hướng Xích đạo quẻ Đoài và Bnâm hay non cũng là nam đã lộn ngược thành hướng bắc ngày nay. Với Dịch học thì hướng hành thủy màu đen có những đặc tính : đen tối mờ lạnh nhỏ thấp.v.v. Đen cũng là mun ; - mun →man →mãn →mỉn (minh-tối) – mông - Mờ - lu. - Căm ( rét ) - Kim Dựa vào cái nền Dịch học mà xét thì Xem ra Yên là tên do người Tiên ty tự xưng còn lại những Mông Mãn Lu Kim là tên người Trung hoa gọi những tộc người ở về phía Nam ( xưa theo Dịch học ngược với ngày nay ) của họ . Bản thân từ Tiên ty cũng chỉ nghĩa là phương nam theo Dịch học ; tiên là đầu tiên hay nguyên thủy , ty là thấp cả 2 đều là tính chất của phương hành thủy –màu đen . Nước Mãn thanh có nghĩa là nước ở phía Đông – Nam , Mãn là biến âm của Mỉn nghĩa là tối chỉ hướng Nam , Thanh là màu xanh chỉ phía đông theo dịch học , đạo quân khổng lồ của đế quốc Nhật thời thế chiến 2 đóng ở Mãn châu gọi là đạo quân Quan đông cũng nghĩa như thế ; quan là nom là nhìn biến âm thành Nam , đông là phía đông...nhiều sách vở biến ‘quan – đông’ thành ‘quang đông’ chẳng còn nghĩa ngọn gì cả . Họ của Hoàng tộc Mãn thanh là Ái tân giác la mới nghe cứ tưởng là tiếng Mãn ký âm Hán tự thực ra đó là 1trận đồ chữ nghĩa do những sử gia Hán tộc giăng ra để làm đảo điên mọi sự như vậy mới có thể dễ bề ‘lộng gỉa thành chân’ ...mà không bị phát hiến . - Ái tân thiết là Yên. - Giác la thiết là gia ,tiếng Việt là ‘nhà’ như nhà Lý , nhà Trần v.v.. Ái tân giác la chỉ nghĩa là ‘nhà Yên’ mà thôi , sử gia Trung quốc thời xưa không phân biệt quốc và gia như sử gia Việt , trong Hán sử thì quốc cũng là gia nhà Đường cũng là nước Đường , nhà Yên cũng là nước Yên ...; Ái tân giác la – Yên gia cho thấy có sự truyền dòng nối kết xuyên suốt từ thời nước Yên nhà Mộ dung tới họ Ái tân giác la nước Mãn thanh của người Tiên ty.. Cũng dùng phép phiên thiết mới vỡ lẽ ...thì ra làm gì có họ Mộ Dung . Mộ Dung thiết là Mung hay Mun chính là gốc của từ Mông mãn ngày nay . Nối kết họ Mộ Dung trước và họ Ái tân giác la sau là họ Hoàng nhan của hoàng đế nước Kim hay kăm . Khi nghe tên các vua ... Hoàn nhan Hợp lạt , Hoàn nhan Thịnh . Hoàn nhan Ung v.v.người ta cứ tưởng có 1 họ gọi là Hoàn nhan ....đến nay mới biết : Hoàn nhan thiết là Han –hãn nghĩa là vương là chúa trong ngôn ngữ người Nam man...Hoàn nhan Hợp lạt chính xác là Hãn Hợp lạt hay khan Hợp lạt , là vua là chúa tên là Hợp lạt chứ làm gì có họ Hoàn nhan . Chính vì cái họ Hoàn nhan - hãn này mà Mông cổ sau khi chiếm trọn Trung hoa đã chia người phía bắc tức dân nước Kim cũ là người Hán và dân phía nam của nhà Tống là dân Nam ...hỏi 1 câu đơn giản vậy Kim là Trung hoa hay Tống là Trung hoa ? .... đứa trẻ con người Hoa cũng trả lời ngay được người Tống mới là Trung hoa..., Việc sử gia Hán tộc thay các ‘từ’ bằng ‘phiên thiết’ Hán văn đã tạo ra Sự nhiễu loạn thông tin ghê gớm khiến người đời sau khó mà biết được lịch sử Trung hoa thực ... Nhà Liêu 907-1125, đôi khi còn được biết đến như là Vương quốc hay Đế chế của người Khiết Đan gốc Mông Cổ, do dòng họ Da Luật thành lập trong những năm cuối của nhà Đường . Nhà Liêu bị nhà Kim thôn tính năm 1125. Tuy nhiên, con cháu của nhà Liêu do Da Luật Đại Thạch dẫn đầu đã chạy về phía tây để thành lập nhà Tây Liêu 1125-1220, còn được gọi là hãn quốc Kara-Khiết Đan, nhà nước này tồn tại cho đến khi kỵ binh Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tràn xuống. Kara trong tiếng Anh là Cathay có nghĩa là "Trung Quốc" và đều bắt nguồn từ tên gọi của dân tộc này , người Việt gọi người Khiết Đan là ‘Tàu cây’do : Ca thay thiết là cây . Phiên thiết Hán văn còn tạo ra nhiều chuyện độc đáo lắm như : Khan ký âm Latinh từ thủ lãnh trong ngôn ngữ bắc phương nói chung , Khan được phiên thiết thành : Khiết đan và Khả hãn . Như vậy Khiết đan không phải chỉ là tộc danh của riêng người nước Liêu mà còn là của người Hán người Mông cổ và Hung nô nói chung vì tất cả họ đều gọi thủ lãnh là Khan. Marco Polo là 1 đại quan của Mông cổ lần đầu tiên viết trong cuốn du ký của mình giới thiệu phương Đông với thế giới phương Tây đã chỉ biết tới nước Khiết đan không hề biết có nước gọi là Trung hoa . Tới tận ngày nay, các nước nói tiếng Slave vẫn gọi Trung Quốc là Khiết Đan (Kitan hay Kitai) như thế thì trong lịch sử Trung hoa làm quái gì có triều Nguyên của người Mông cổ ??? Ngộ nghĩnh nhất là họ ‘Da luật’ của các vua Liêu quốc như Gia luật A bảo cơ , Da luật Đức quang .v.v. .... Khiết đan – Liêu đánh Tống quốc ngật ngừ , người Trung hoa căm ghét gọi họ là ‘giặc’ ; giặc A bảo cơ , giặc Đức quang .v.v. ; nhưng cái ‘hồ lô’ phiên thiết Hán văn hô biến ‘giặc’...thành ‘Da luật’...như thế chỉ có thánh may ra mới biết thực sự những gì diễn ra trên đất Trung quốc thời đó . Xét tới đây thì rõ ràng Hoa là Hoa và Hán là Hán làm gì có thứ lịch sử chung của cả Hoa và Hán...Viết sử kiểu này đúng là sử ‘thập cẩm’ cũng như món lẩu thập cẩm của dân nhậu vậy, nếu gọi là sử “đầu Ngô mình Sở” thì vẫn còn chưa đúng lắm vì Ngô và Sở cùng dòng giống nam Mongoloid ,... phải gọi sử Trung quốc hiện nay là lịch sử ‘đầu rồng mình ngựa’ mới thật chính xác , rõ ràng 2 dòng 2 giống khác hẳn nhau mà xào nấu biến thành ‘một’ tức là ...sử gia Hán tộc đã đẻ ra thứ luận lý ‘tương đối’ cực kỳ hiện đại :... đen cũng là trắng và trắng cũng là đen...trắng đen là một ...Hán –Hoa 1 nhà . Tương đối kiểu này thì thông thái như Einstin cha đẻ thuyết tương đối ...thật cũng phải chào thua gọi họ là đại ca...huống hồ gì người thường mắt thịt ; hèn chi “đầu rồng mình ngựa” ...biết bao nhiêu năm rồi mà có ai nói gì đâu ???
-
Xin trao đổi với anh Thiên sứ vài điều : Trong phần ý kiến của giáo sư Trần quốc Vượng ...tôi chỉ trích dùng đoạn : Cun_ Khun nghĩa là thủ lãnh ...ngoài ra xin miễn ý kiến . Thiên Sứ : Anh Văn Nhân cho tôi xin hỏi: Nếu nhà Châu được chứng minh là thuộc Việt tộc thì thời kỳ lịch sử đó của Trung Quốc thuộc thời đại nào? Bản thân từ ‘Trung quốc’ đã tạo ra 1 ma trận lịch sử , dựa vào nội hàm tôi xác định có 3 Trung quốc như sau : - Trung quốc là quốc gia của cộng đồng Hán -Hoa như ngày nay thì mới chỉ lập quốc 1911 trong cách mạng tân hợi. - Trung quốc của Hán tộc chủng Mongoloid như đa số người đang hiểu thì tương đương thời nhà Châu ...không có nhà nước nào cả , lúc này con cháu các Hãn còn còn đang ở thời kỳ du thủ du thực miệt mài chăn ngựa trên thảo nguyên Hoa bắc . - Trung quốc của người Bách Việt chủng Nam mongoloid ....là nhà Châu như đã viết . Thiên Sứ : Phương Nam sắc đỏ, điều này thì tất cả mọi người tìm hiểu về Lý học đều biết! Anh có nhầm lẫn không? Trong những bài về Dịch học và cả khi viết về sử tôi đã đưa ra nhiều thông tin chứng minh rằng hướng Bắc – nam xưa đã bị lộn ngược , dựa vào ngũ sắc thì màu đen là phương bắc ngày nay , ngược lại màu đỏ chỉ hướng xích đạo , màu đen chỉ thời kỳ còn man dã , màu đỏ tượng trưng cho văn minh , tư liệu lịch sử – văn minh Trung hoa rất nhất qúan trong chỉ định : Nam man – Bắc địch hay Xích địch . - Nam man đã chỉ ra : Phía nam man dã tối tăm tượng trưng bởi màu đen là ý trong câu tôi đã viết , - Bắc địch cũng là Xích địch cho ta : Bắc ═ Xích là hướng xích đạo ,màu đỏ ,nơi nóng bức . xin nhấn mạnh phương nam và bắc tôi dùng là phương hướng cổ xưa dựa trên ngũ hành ngày nay đã lộn ngược , đỏ thành phương Nam , đen thành phương Bắc ( như vậy phải gọi là Bắc man...) Thiên Sứ : Tại sao ông Cơ Xương lại thành bà Âu Cơ được? Trích Thần thoại ‘trăm trứng’ : ....Lạc Long Quân nói: - Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên. Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.... ...... Truyện lạc long quân – Âu cơ đẻ ra trăm trứng phản ánh của sự thực lịch sử: 2 cộng đồng Tây âu và Lạc Việt hay Âu Việt và Lạc Việt kết hợp để tạo thành cộng đồng Âu- Lạc thống nhất . 2 cộng đồng được đại diện bởi 2.thủ lãnh . Âu cơ là thủ lãnh Âu Việt và Lạc long quân Sùng lãm là vua Lạc Việt . Địa bàn của Lạc Việt là Giao Chỉ còn Âu Việt là Quảng Tây , Giao Chỉ nghĩa là ‘chỗ giữa’ nơi trời đất bốn phương giao hội , Quảng tây tên xưa là đất Lâm ...đây là cái sai cố ý ; là đất Lam hay Nam không có đất Lâm , Nam là phía nam Giao chỉ ...kinh Thư rút gọn thành cõi Nam Giao .. -Thực sự : Âu cơ vua cộng đồng Âu Việt ở đất Lâm hay Nam nay là Qủang Tây -Giải tự : Âu biến âm của Ô việt ngữ là màu đen , Cơ biến âm của Cả nghĩa là thủ lãnh . Âu cơ nghĩa là thủ lãnh hay vua phía nam phương màu đen khớp đúng hoàn toàn với thực tế đất Lam hay Nam tức Quảng Tây . Nam ở đây là so chiếu với đất Giao Chỉ . Đất Phong Châu với vua Văn lang trong truyện Âu cơ - Lạc long quân trùng hợp lạ kỳ với ...đất Phong của nhà Châu và vua Văn vương , tôi đã chứng minh từ ‘Lang’ đồng nghĩa với ‘vương’ . Sử Trung hoa viết Ông Cơ xương đã chiếm nước Sùng hợp nhất với đất cũ lập thành nước Châu , tôi cho là nước ‘Sùng’ nói ở đây chính là nước của Sùng Lãm như thế Âu cơ là Cơ xương thủ lãnh đât Lam hay phía Nam nước Sùng . Nước Châu trong sử Trung hoa chính là nước Thục của sử Việt nam , cả Châu và Thục đều có nghĩa là phía Tây , truyền thuyết nước Nam cương của người Tày nói vua nước Nam cương ở lưu vực Tả –Hữu giang là 2 nhánh của Châu giang thuộc Quảng tây và nam Qúy châu là Thục Chế ..., thực ra không có ai tên là Chế , Chế là chữ viết sai của Chúa , Thục chế chính xác là chúa nước Thục ...thông tin này giúp xác định địa bàn gốc nhà Thục là Quảng tây – qúy châu. Qúy Châu còn gọi là Cùi Chu hay Kỳ Chu lại là đất gốc tổ của nhà Châu Trung hoa , tư liệu lịch sử Trung hoa viết : Qúy Châu là thuộc đất Tây âu lạc Việt xưa . Liên kết thông tin lịch sử trong 4 mảng tư liệu : - Chuyện Tiên – Rồng trăm trứng . - Lịch sử nhà Châu trung hoa . - Lịch sử nhà Thục Việt nam . - Hùng Triều ngọc phả . Tôi đưa ra nhận định : Bà Âu cơ , ông Cơ xương - Chu văn vương , Thục An Dương vương , Lang Liêu , ông Cổ Thục và Hùng Chiêu vương –Quốc tiên lang chỉ là 1 nhân vật . Một nhân vật được phản ánh dưới nhiều góc cạnh , nhiều vị trí khác nhau . Văn lang chỉ là quốc hiệu nước ta thời Hùng vương thứ 12 : Hùng Chiêu vương – Quốc tiên lang không phải là quốc hiệu đầu tiên của thời lập quốc . Trước nước Văn lang khoảng 2000 năm ; Hùng Vũ vương Hiền đức lang là đời Hùng vương thứ 5 ; quốc tổ của người Việt ngày nay đã lập ra nước HỌ HÙNG Hán văn viết là HỮU HÙNG quốc, Vũ chỉ là ký âm hán văn của Vua trong tiếng Việt . Dĩ nhiên Đây chưa phải là kết luận chung cuộc mà còn nằm ở dạng sử thuyết , cứ từ từ xử lý những thông tin liên quan , công việc đang tiến tới ...; tôi không hề ngại chữ ‘khiên cưỡng’ vì khi không còn khiên cưỡng tức là việc đã xong ...., sử thuyết đã thành lịch sử rồi .
-
Côn Minh và Côn Lôn . Ngọc phả nhà Châu vắn tắt : - Đức Vương tổ . - Đức Công Lưu . - Thái vương tức Cổ công Đản phủ người đã đưa dân nhà Châu đến định cư ở Kỳ sơn . - Vương Qúy thủ lãnh dân Châu thời Thương Ân . - Cơ Xương tức Tây bá Hầu của nhà Thương Ân , là người dựng nên nước Châu , sau được phong là Châu văn vương của triều đại Châu . - Cơ Phát tức Châu Vũ vương vua khai sáng triều đại Châu của Thiên hạ . Bài viết này điểm qua 1 số thông tin về lãnh thổ trung tâm nhà Châu . Ông Cơ Xương đã kiến lập nước Bá Thục tức nước của Tây bá hầu nhà Thương Ân , Thục nghĩa là phía mặt trời lặn tức phương tây , Cơ xương mở rộng bờ cõi về phía tây bằng việc đánh chiếm nước Mật tu , mật tu là từ Việt chính xác phải đọc là ‘ Mặt tây’ chỉ quốc gia ở phía tây nước Bá thục , đây là đất của người Bạch nay gọi là tập đoàn Bách Bộc , bạch là màu trắng là sắc chỉ phía tây trong ngũ sắc , sau Cơ xương chiếm thêm nước SÙNG hợp nhất tất cả thành nước Châu , truyền thuyết Việt mô tả việc kiến lập nước nhà Châu 1 cách thi vị và mang tính nhân văn sâu sắc hơn ; ông Cơ Xương được gọi là bà Âu Cơ hay Ô cơ , ô là màu đen sắc của phương Nam trong ngũ sắc , Cơ vừa là họ của Hoàng đế (đế Hoàng) vừa nghĩa là thủ lãnh , Âu Cơ nghĩa là thủ lãnh hay vua phía nam mà thôi ,chuyện bà Ô Cơ kết duyên cùng Sùng Lãm chỉ sự thống nhất 2 nước Tây âu và Lạc Việt thành ra nước ÂU _ LẠC mà sau này khi ông Cơ Xương được phong là Văn vương hay Văn Lang thì Âu –Lạc còn gọi với tên khác là Văn lang tức nước của Văn vương . Từ Lang trong Việt ngữ chỉ thủ lãnh cộng đồng người nho nhỏ cỡ làng bản của dân tộc ít người phía bắc ... dù là nhỏ nhưng cũng hàm ý là thủ lãnh ; đặc biệt trong Hùng triều ngọc phả trừ 2 vị Hùng vương đầu còn đậm chất thần thoại , 16 vị Hùng vương còn lại cùng lúc cũng là 16 vị lang ....với chứng cớ này đủ để kết luận : Lang trong tiếng Việt cổ đồng nghĩa với từ Vương đang dùng ngày nay. Con của CƠ Xương là Cơ Phát hiệu là Ninh vương đã diệt Trụ vương nhà Thương Ân lên ngôi thiên tử lập nên triều đại Châu , Ninh vương trở thành Châu Vũ vương nghĩa là vua khai sáng triều đại Châu , Châu vũ vương chính là đứa con cả của Rồng - tiên trăm trứng lên ngôi Hùng vương đóng đô ở Phong châu theo truyền thuyết Lịch sử Việt . Đất Phong là nơi Cơ Xương định đô nước Âu lạc hay Văn lang , Kinh Thư viết rõ kinh đô ấy gọi là Lạc ấp , Lạc ấp là viết tắt của đại ấp Lạc nghĩa là thủ đô đất Lạc tương tự như có học giả đã chỉ ra không hề có sách cổ nào viết ở Trung hoa có ‘Thương ấp’ chỉ có ‘Đại ấp Thương’ mà thôi , Lạc ở đây đích thị chỉ đất nòi Lạc Việt . Sau khi lên ngôi Châu vũ vương đã dời đô từ đất Phong về đất Cảo hay Kiểu thủ đô mới gọi là Kiểu kinh thực ra Cảo hay Kiểu chỉ là biến âm của CỬU là số 9 con số chỉ phương tây trong Hà thư , Cửu kinh trong ngôn ngữ ngày nay là Tây đô còn Cảo với Kiểu thì ....chẳng ra nghĩa ngọn gì . Châu vũ vương mất bọn qúy tộc triều Thương Ân cũ hợp cùng với rợ Hoài Di – Từ nhung nổi loạn chống lại nhà Châu , ông Châu công phải 3 năm đông chinh mới dẹp yên , Châu công trên nền kinh đô Lạc ấp cũ xây dựng kinh thành mới của nhà Châu gọi là Đông đô và đem đám quý tộc Thương Ân nổi loạn về định cư ở đấy . Đại ấp Lạc với ý nghĩa là trung tâm quyền lực của tộc Lạc Việt chính là thành Cổ loa kinh đô thời An Dương vương nhà Thục trong cổ sử Việt , Cổ Loa chỉ là biến âm của Cả Lỗ , Cả lỗ hay Cao lỗ chỉ ông Châu công người được Vũ vương phong làm vương nước Lỗ cũng là người đã xây dựng nên thành ấy và trấn ngự ở đấy lo việc giáo hóa đám quý tộc nhà Thương ân cũ cho đến cuối đời , đây là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam được vua Thục An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ 3 ( ? )trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc , nay thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội. Qua các giai đoạn lịch sử được ghi chép trong nhiều sử liệu khác nhau , Cổ Loa có rất nhiều tên: Loa thành (thành ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành , còn gọi là thành Cổ lũy như trong câu thơ của tiến sĩ Phạm sư Mạnh : .....Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy . Quốc Tây cự chấn tráng Chân Đăng .... Trong những tên này ta lưu ý tên thành Côn Lôn . Côn lôn nhiều bậc ‘nho chùm’ giải tự ...sở dĩ gọi là thành ‘côn lôn’ vì thành ấy cao tít tận mây xanh ....y chang kiểu ...Giao chỉ là 2 ngón chân chạm vào nhau ...thực không thể chịu nổi ...kiểu giải tự trần truồng như thế ....vậy mà có khối người tin và lập đi lập lại mới lạ . Cửu kinh nay là nơi nào ? Sử thuyết họ Hùng cho chính là thành phố Côn Minh ở Vân nam ngày nay . Cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã giải thích rằng “Vua Hùng” là phiên âm của một từ Việt cổ: Vua -> Bua -> Bô -> Pô = (bố); Hùng -> Khun = Cun = Thủ lĩnh. Vua Hùng = Bố của các thủ lĩnh = Thủ lĩnh tối cao. Khun – Cun nghĩa là thủ lãnh thực là gợi ý sáng giá . Cun và Khun không gì khác hơn là Càn – Khôn của Dịch học , quẻ Càn có tượng là cha Khôn là mẹ ; người Việt đã chẳng từng gọi vua là “Bố Cái đại vương” đấy hay sao ( Phùng Hưng ) ? . vậy hóa ra dân thiểu số ở đất Việt đã biết đến Dịch học từ hồi nảo hồi nào ...đâu phải chờ đến khi thày Tàu sang khai hoá văn minh như đám mặt trơ tán bóng đã viết trong sách sử .. Côn minh là Kiểu kinh tức Tây đô . Cổ loa hay Đông đô là Côn Lôn ...gợi cho ta điều gì ? - Côn là ký âm Hán tự sai đi của ‘Cun’ nghĩa là thủ lãnh . - Minh chỉ là sự tam sao thất bổn của ‘ Ninh’ chỉ phương tây không đổi theo Dịch học và đó cũng chính là Ninh trong danh hiệu Ninh vương của ông Cơ Phát trước khi lên ngôi thiên tử . ‘Côn Minh’ chính xác là ‘Cun Ninh’ , thành Cun Ninh hoàn toàn tương thông với ý nghĩa ngày nay là ‘Tây đô’ hay kinh đô phía tây . - Lôn là ký âm sai của Long nghĩa là con rồng ; Run →lun →lôn hoặc Rung →lung→long nghĩa là động chỉ phương đông theo dịch học , thành ‘Cun Rung’ biến thành ‘Côn Lôn’ theo phép ghi chép của người Hán ; đây là lối hành văn cổ ngày nay có thể hiểu là Kinh đô phía đông hay Đông đô . Khi đọc câu : “Qúy châu bản Tây Âu - Lạc Việt chi địa” thì người đọc chỉ hiểu là lãnh thổ nước Âu-Lạc xưa bao gồm cả Qúy châu ngày nay , chiều hướng suy nghĩ thiên về thông tin lãnh thổ – địa lí ; trái lại khi đọc là “Cùi Chu hay Kỳ Chu bản tây Âu Lạc Việt chi địa” thì dòng thông tin bật dậy trong não bộ là những thông tin về lịch sử , đoạn văn đã chỉ ra sự liên quan giữa nhà Châu Trung hoa và nước Âu –Lạc trong lịch sử Việt nam , Sự liên quan qúa rõ không thể phủ định vì Kỳ chu là đất gốc của nhà Châu Trung hoa , lại còn thêm thông tin ...cha của Văn vương là Vương Qúy , vương Qúy viết với cú pháp Việt ngữ nghĩa đích xác là vương vùng Qúy châu hay Kỳ Chu , điều này củng cố chắc chắn thêm cho nhận định : nước Châu , nước Âu Lạc hay Văn lang chỉ là một ... Sự khẳng định về mối liên quan giữa nhà Châu và Âu - Lạc giờ còn chắc chắn hơn nữa khi có thông tin về 2 kinh đô Tây và Đông trên đất Âu Lạc này : - Kinh đô phía tây nhà Châu là Côn minh tỉnh Vân nam . - Kinh đô phía đông là Côn lôn tức thành Cổ loa của người Việt thời Thục An dương vương nay thuộc địa phận Hà nội . Rất có thể tên ‘Vân nam’ cũng chỉ là sự tam sao thất bổn của ‘Văn lang’ mà thôi chứ không lẽ cả đám vua quan nhà Hán lại mắc lỗi cú pháp qúa ấu trĩ …Vân nam là phía nam của mây...; mây trôi lang thang khắp nơi thì phía nam của mây là chốn nào không ai đọc thông viết thạo mà lại dùng chữ kỳ cục như vậy . Đây không phải là lỗi cá biệt mà những nhà chép sử Trung quốc sai có hệ thống , đổi nghĩa tráo chữ có công thức rõ ràng như : - Từ nam nghĩa là phương nam hướng nam luôn bị đổi thành Lâm . - Từ Lang nghĩa là Vương - quân thủ lãnh bị đối thành Nam , hướng nam phương nam . Đất Quảng Tây xưa là đất Nam giao hay nam giao-chỉ gọi tắt là đất Nam cũng đọc là Lam....cái tên mang ‘tính lịch sử’ chép trong kinh Thư này không thể để được biết đâu có kẻ man man nhận ra ...thì đám ‘Chệt nho’ lòi mặt chuột , Linh hồn các Khan –Hãn không lẽ phải trở về nơi đồ cúng gồm toàn thịt ngựa và Sữa ngựa chán phèo ...Xét vì lẽ ấy đất này từ nay đổi thành Uất lâm hay lâm ấp ; tuyệt đối không được viết là Lam ấp hay ấp nam như vốn có lúc xưa...... ‘Văn lang’ phải đổi thành ‘Vân nam’ cho chắc ăn bất kể có kẻ bảo vua quan ta dốt chữ ...., thà mang tiếng dốt còn hơn lỡ có kẻ nhìn ra đất Văn lang là đất nhà Châu thì công trình ngàn năm từ thời Mã viện thu và nấu chảy trống đồng đúc ngưạ cho đến Càn long thu đốt bản đồ cạo sửa sách vở ...phút chốc trở nên công cốc ....hệ qủa của Việc này thật kinh khủng ngoài sức chịu đựng ...là nòi giống LU –LƯU lại trở về với dòng LU ( mờ ) không thể nào hoá thân thành LA ( lửa ) VĂN MINH được . ... ngoài Văn lang – Vân nam còn nhiều điều khác như Hải lang hay lang Hải tức triều Hùng Hoa vương – Hải lang biến thành .... Hải nam –nam Hải tên cũ của Quảng đông ?; hay như thời Mông Cổ chia dân Trung hoa thành ...người Hãn – người Lang tức dân gọi vua là Hãn ở bắc Trung quốc , gọi vua là Lang ở Nam trung quốc bị đám ‘cạo sử gia’ thô bỉ ...biến thành Người Hán và người Nam , việc này khiến mọi thông tin như những móc xích nối với qúa khứ lịch sử dòng giống Hùng Việt bị chặt đứt ; Người Lang biến thành người Nam làm dân Hoa nam bỗng ‘tự nhiên’ trở thành đám thất tộc ...mình vẫn sống trong nhà mình nhưng trên bàn thờ tổ tiên ...không hề thấy bài vị ; chỉ thấy khắp nơi trong nhà toàn tượng người ...ngựa ...với ngựa người ... thời gian dài riết rồi nhập tâm thành thực tin rằng quê hương ....xưa là nơi đã thuần hóa loài ngựa chân lùn ...thực đau khổ biết giường nào cho vong hồn các Lang - các Cun ....những người đã dùng mồ hôi và cả máu mình tạo ra vùng lãnh Nam và Giang Nam vậy mà nay đám con cháu mê muội lại coi chính tổ tiên mình là ... giặc ....tệ hơn nữa hàng ngày hàng giờ từ bờ nam Trường giang chúng vẫn thành kính thắp nhang hướng về Hoàng hà tưởng nhớ công lao các Hãn ...; ....mau mau tỉnh lại đi người ơi ....không các cụ nổi giận ...vặn cho mắt nhìn thấy .... mông lúc ấy kêu trời cũng không thấu ...tội ấy thì trời cũng không thương và đất không thể tha .
-
Tứ Tạng – tứ Linh. Dịch học người Tàu chuyển ngữ tứ Tạng thành tứ tượng . Dịch học họ Hùng đã chỉ ra Luật sóng đôi hay lưỡng lập; tức khi đã có 1 lưỡng nghi thì đồng thời cũng có 1 lưỡng nghi sóng đôi với nó: 4 Tạng = 2 (2 ngôi) Hán Tự : Tứ Tượng = 2 (Lưỡng Nghi) 1 lưỡng nghi là: Thái âm – Thái dương 1 lưỡng nghi là: Thiếu âm – Thiếu dương Đồ hình 4 dạng hay Tạng Về căn bản tứ tượng là biểu hiện 4 trạng thái của sự vật trong 1 chu trình tuần hoàn . Quan niệm của dịch học họ Hùng ngược với Dịch học Tàu : - Dương là những gì hữu hình , vì hữu hình nên hữu hạn được tượng trưng bởi vạch đứt – chấm đen , ngoài ra Dương cũng là sự cô đọng vật chất nghĩa là mật độ đậm đặc hơn , vật thể có trọng lượng nặng hơn , trong thang nhiệt độ là lạnh . - Âm là những gì vô hình , như năng lượng vô hình nhưng vẫn tồn tại Dịch học tượng trưng bằng vạch liền – chấm trắng , Âm cũng là vật chất phát tán nên nhẹ , về nhiệt là sức nóng .v.v. 1 đơn vị của Tứ tượng được xác định bởi liều lượng và chiều vận đông của 2 thứ khí cơ bản là âm và dương : - Thái Âm là thuần âm ,là vị trí khí âm đến đỉnh và bắt đầu đảo chiều vận động đi xuống hay giảm bớt , Dịch học gọi là âm tiêu và dĩ nhiên hễ âm tiêu thì dương trưởng . - Thái Dương tương tự như thái âm nhưng ở tình trạng và chiều vận động ngược lại , Đây là vị trí khí âm đảo chiều bắt đầu đi lên , đặc biệt Thái dương được coi là nơi tiếp nối của 2 chu kỳ trước và sau . - Thiếu âm về liều lượng thì khí âm nhiều hơn nhưng đang tiêu ,khí Dương đang trưởng . - Thiếu Dương ngược lại với Thiếu Âm con số tuyệt đối là Dương nhưng Âm đang trưởng và Dương đang tiêu. Khái niệm Tứ tượng vận dụng vào chu kỳ sống của con người và vạn vật là : - Thiếu Dương là : ban sáng , mùa xuân khí trời mát mẻ , cây cối đâm chồi nảy lộc , mọi sinh vật hăng hái sống động . - Thái Âm là : ban trưa , mùa hè , trời nóng nực vì mặt trời ở thiên đỉnh nên nguồn bức xạ tuôn xuống mặt đất mạnh mẽ nhất . - Thiếu Âm là : ban chiều , mùa thu khí trời dịu , cây rụng lá là lúc vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi . - Thái Dương là : ban đêm, mùa đông , trời lạnh gía đây là lúc giao thời kết thúc chu kỳ trước và bắt đầu chu kỳ sau . Thời thái cổ khi ngôn ngữ còn chưa phức tạp tổ tiên người Việt đã đánh dấu và đặt tên Tứ tượng bằng 4 từ mà vết tích còn có thể nhận ra ở ngày nay : - Thiếu dương ban sáng mùa xuân là: rung tức động , sống động . - Thái Âm ban trưa muà hè là : phồng nghĩa là trương nở lớn ra ở đây chỉ khí âm tức sức nóng đến cực đại . - Thiếu Âm ban chiều mùa thu là : lì tức ù lì không hoạt động . - Thái Dương ban đêm mùa đông là : quay nghĩa là trở đầu đảo chiều Âm Dương tiêu trưởng để bắt đầu 1 chu kỳ mới . Xuất phát từ Dịch học 4 từ Việt ngữ của 1 vòng Âm Dương tuần hoàn trở thành Tứ linh trong văn minh Trung hoa . 1- Từ Rung - Long Rung là động biến âm ra rồng trong tiếng Việt ngày nay .. Rung ký âm Hán tự là Lung , phát âm Hán Việt là Long . Điểu thú văn lấy con rồng làm dấu hiệu chỉ tượng Thiếu Dương ,phương Đông , mùa Xuân . Dịch học quan niệm phương đông là phương động cũng nghĩa là sống động , là phương của quẻ Chấn hay Thìn , Chấn là động và Thìn cũng là Rồng , 2 – Từ Phồng – Phụng . Phồng có những biến âm như Phùng như trong phùng mang trợn má ..., Phỏng chỉ chỗ phồng lên do bỏng nhiệt . Trong Điểu thú văn Phồng – phùng biến thành Phụng tức chim Phụng hoàng hay Phượng hoàng là thần điểu tượng trưng cho Thái Âm . Mặt trời ở trên cao được tượng trưng bởi loài chim thần , Phụng hoàng là chủ bầu trời chính là dấu hiệu vật thể tiên khởi của ký hiệu để rồi dần dần sau cùng biến thành ký tự hay chữ viết ngày nay . 3 – Từ Lì – Ly . Động từ Lì chỉ sự bất động là đồng âm của từ Lửa , Hoa ngữ là Hoả , thần thú biểu tượng cho Thiếu Âm , phương tây mùa Thu thần thú biểu tượng là con LY – LỶ - LỬA , nguyên thủy là con ly – lửa , Hoa ngữ là Hỏa biến âm thành Hổ , Cả Việt và Hoa đều gọi là Hổ , Hổ là Hoả , hoả là lửa –lỉ – ly chỉ là một . Tại sao Ly còn gọi là con Lân hay Kỳ Lân ? Theo Phép phiên thiết Hán văn : Lân tri = Ly Người Hoa làm rớt mất âm ‘Tri’ để chỉ còn lại ‘Lân’ thế là con lửa hay Ly biến thành con Lân 1 thần thú thoát thai từ con vật thật là loài Hổ , người Hán đang cố gắng làm chuyện ....nhập nhèm biến Hổ thành sư tử khi mà dân Trung hoa ở nam Dương tử bé tới lớn có lẽ chỉ thấy con sư tử ở sở thú mà thôi . Lân còn gọi là Kỳ lân có học ‘gỉa’ cố ý phịa ra ...Lân là con cái Kỳ là con đực như thế Kỳ Lân là 1cặp chứ không phải 1con thú ....thực ra Kỳ Lân cũng là Kỳ Ly , Ly –lửa ở đây cho ta thông tin về con Hổ loài thú được người LA coi như thần bản mệnh của dân tộc mình , hiện nay người dân ở chung quanh Côn Minh Vân nam vẫn rất kính trọng loài thú này , người La sách vở Tàu viết thành Liêu hay Liêu tử tên khoa học thường dùng là người Kadai , từ Kỳ chỉ đất Kỳ hay đầy đủ là Kỳ Chu – Cùi Chu cách đọc khác của Qúy châu ở miền tây nam Trung hoa , Kỳ chu nơi có Kỳ sơn cũng chính là tên đất gốc tổ của nhà Chu Trung hoa .Chỉ là tên 1 con thú mà người xưa đã ký thác cả tên đất và tên tộc người vào đấy hỏi không là thần sao được . 3 – Từ Quay – quy . Nhiều đền thờ ở Việt nam vẫn dành vị trí trang trọng cho tượng chim Hạc đứng trên lưng Rùa tượng trưng cho trời và đất - âm và dương , con Rùa loài sinh vật rất tầm thường luôn sống ở sát mặt đất sao lại được coi trọng xếp vào hàng tứ linh ? Trong văn minh sử Trung hoa thì con rùa có vị trí rất đặc biệt ; từ đời nhà Thương chữ đã được khắc trên mai và yếm rùa , mang chữ trên người con Rùa đã trở thành công cụ truyền bá văn minh , một nhiệm vụ hết sức cao cả không con vật nào có được vinh dự như thế . Thái âm là vị trí Âm tiêu đến cùng cực là số không và bắt đầu đi lên chính sự quay đầu của khí âm bắt đầu cho chu trình Âm Dương tiêu trưởng mới khiến cổ nhân chọn con Quy làm đại biểu cho tượng Thái âm , chỉ có tên Quy là từ phát âm gần với Quay nhất không có con vật nào gần hơn nữa . Trong văn minh Việt Tứ linh chỉ là 4 chữ của Điểu thú văn mà thôi . Tứ Linh : Long –Ly - Quy - Phụng là biểu tượng sáng chói của nền văn minh Trung hoa , nó bàng bạc ở mọi nơi mọi chỗ trong đời sống từ đền thờ miếu mạo cho tới cái thiệp cưới ...điều không thể ngờ ; khó có ai dám nghĩ là : Long – Ly- Quy – Phụng thực ra chỉ là biến âm của những từ Việt chính gốc : rung –lì – quay – phồng ...những từ này xem ra ...rất tầm thường nhưng cái vỏ tầm thường dân giả Việt nam ấy bên trong lại chứa cái vô cùng vĩ đại là Tứ tượng của Dịch học , cái học uyên thâm tới nỗi bậc thánh nhân như Khổng tử mà phải than sao không sống lâu hơn để tìm hiểu suy gẫm thêm nữa . Từ điều kì lạ mới biết này ta kết luận sao đây về nền văn minh Trung Hoa ???
-
đoạn ...Thái trọng qúy xin sửa là ...mạnh trọng qúy . thành thực xin lỗi bạn đọc . Văn nhân
-
Xét lại vụ án Hoàng đế ... Sử sách Trung hoa ngày nay đều cho rằng : có năm vị vua thái cổ được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế: - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. Thần nông còn được biết dưới tên là Viêm đế làm vua năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên. Hoàng đế nghĩa là Đế màu vàng , màu vàng là sắc ở trung tâm trong ngũ sắc lên ngôi năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên . Dã sử Trung hoa viết Hoàng đế và Viêm đế có quan hệ thân tộc , vùng đất cạnh lãnh thổ 2 vị có Xuy vưu thủ lãnh của bộ tộc Cửu lê rất hung dữ , xuy vưu toan lấn đất của bộ tộc Viêm đế , Viêm đế cầu cứu Hoàng đế , Hoàng đế đã huy động nhiều bộ lạc theo mình mở trận huyết chiến diệt Xuy vưu , một thời gian sau Hoàng đế chiếm luôn đất đai của Viêm đế thống nhất các bộ tộc lập nên đất nước và dân tộc Trung hoa , diễn biến lịch sử này lướt qua thì có vẻ hợp lý vì Thần nông trị vì chỉ 40 năm thì bị Hoàng đế thay thế ... Chính vì những thông tin lịch sử này mà nhiều tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) lưu truyền ở Việt nam cho Hoàng đế là tên : trò phản thày tôi thí chúa đã chiếm đất diệt tộc người Việt khi làm ...đảo chánh kết thúc triều Đại Thần nông Viêm đế , sở dĩ vậy là vì truyền thuyết lịch sử Việt nhận Thần nông là cao tổ của dòng tộc mình , đế MINH ông tổ dòng giống Việt được ghi là cháu 3 đời của Viêm đế . Có thực như thế không ? Truyền thuyết trong dân gian cần phải được soi rọi cặn kẽ , xem sét 1 cách tỉnh táo vì có thể ở thời điểm mà câu chuyện được thêu dệt không có những thông tin chính xác thậm chí sai lạc rồi với nhận định chủ quan ...(đó là chưa kể đến dã tâm của kẻ thù) người ta đã dựng nên những chuyện tưởng là đúng nhưng thực ra hoàn toàn sai … rồi cứ như thế với sự cả tin truyền lan mãi trong không gian và thời gian gây ra hậu qủa tai hai lớn lao không lường nổi , những tình tiết liên quan giữa Viêm đế thần Nông với Hoàng đế và đế Minh là 1 thí dụ điển hình cho sự cả tin nguy hại này : Xin hỏi 1 điều : Cứ theo dã sử và những điều đang lưu truyền thì : Người Trung hoa nhận mình là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ tức là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế trong khi đó đế Minh tổ của người Việt lại là cháu những 3 đời của Viêm đế ...nên nếu qủa đúng như thế thì hoá ra .... về vai vế tộc Việt là thuộc hàng chút chít của người Hoa à ? Điều kỳ quái này người Việt có thể chấp nhận được hay không ? Soi rọi cặn kẽ 1 chút , cẩn thận tỉnh táo 1 chút : Nhìn vào đồ hình Cửu thiên : Ta nhận ra : chính Cửu thiên của Dịch học là cái nền tạo ra Ngũ đế Trung hoa : Phục hy tương ứng với Thanh thiên . Viêm đế tương ứng với Viêm thiên . Thiếu Hạo tương ứng với Hạo thiên. Xuyên húc tương ứng với Huyền thiên . Hoàng đế tương ứng với Quân thiên . Phục hy người Việt gọi là đế Thần , thần là biến âm của Thìn là con rồng chỉ phương đông , màu xanh , muà Xuân . Sự liên quan :Viêm đế –Viêm thiên , Thiếu hạo –Hạo thiên đã qúa rõ . Xuyên là sông tượng của phương nam theo dịch học , ‘húc’ là biến âm của ‘hắc’ đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên nghĩa là màu đen hay u tối . Hoàng là sắc vàng chỉ trung tâm ngũ sắc tương hợp hoàn toàn với Quân thiên là vùng trời ở giữa . Sở từ viết về ngũ đế cũng đưa ra điều tương tự coi 5 đế là những vua cai quản 4 phương và trung tâm nhưng phương hướng đảo ngược tất cả : Thiếu Hạo (đông) Xuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lã thị xuân thu do Lã bất vi soạn đưa ra 1 bảng chỉ dẫn rõ ràng về sự tương ứng giữa các sự vật xét theo dịch lý , thông tin trong sách có độ tin cậy rất cao vì Lã bất Vi đã cho treo ở chợ và hứa thưởng ...vàng cho bất kỳ ai chỉ ra được 1 chữ sai . Phục Hy , muà xuân-phương đông-màu xanh-số 8 Hà thư –Mộc thần . Thần Nông ; mùa hạ-phương nóng xích đạo –màu đỏ – số 2 hà thư-Hỏa thần Thiếu hạo ;mùa thu – phương tây –màu trắng – số 4 Hà thư- Kim thần . Xuyên húc ; mùa đông – phương đông – màu đen – số 6 Hà thư-thủy thần . Lã thị xuân thu không nói tới Hoàng đế , nhưng căn cứ vào những Dịch tượng thì Hoàng đế có thể biểu thị : Hoàng đế (hoàng –màu vàng) ; mùa : không mùa , phương : trung tâm – màu vàng – số 5 Hà thư – thổ thần . Đối chiếu với cửu thiên thì sự chỉ định của sách Lã thị xuân thu là hoàn toàn tương hợp và kỳ lạ hơn nữa những điều này còn hoàn toàn khớp đúng với truyền thuyết lịch sử Việt . Thanh thiên ; Phục hy - thái Cao – đế Thần . Viêm thiên ; Viêm đế - Thần Nông- Viêm đế còn gọi là đế Khôi .( ? ). Hạo thiên ;Thiếu hạo – thái Khang . Huyền thiên ; Xuyên húc –thái Tiết – Tiên đế . Quân thiên ; Hoàng đế – thái Công – đế Minh . Tại sao tương ứng với 5 thiên thì 4 đế có danh hiệu là Thái nghĩa là thủy tổ ...riêng Viêm đế thì vẫn chỉ là Đế ?, đây là sự khập khiễng và sai lầm rất rõ ; dựa trên Cửu thiên thì vị đế tương ứng với Viêm thiên phải là ‘Thái Viêm - thần Nông’ chứ dứt khoát trong Tam hoàng - Ngũ đế không có ‘Viêm đế’ như những sách Tàu và Ta đã chép . Lầm lẫn Thái Viêm - thần Nông tỉ tổ của người Việt với Viêm đế là anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế (cả 2 là con của Hùng quốc quân - Thiếu Điển) là 1 sai lầm lớn lao tệ hại vô cùng khiến cổ sử Việt quay 180 ₫ trở thành đầu mối cho những sai lầm chồng chất về sau . Không cần uyên bác thông thái gì cũng có thể thấy : -Xét về Lịch đại : Kết cấu 5 đế trong lịch sử Trung hoa mang tính lịch đại chứ không phài đồng đại , đế muà xuân , đế mùa Hạ , đế muà thu .v.v. rõ ràng chỉ các triều đại tuần tự kế tiếp nhau trong thời gian nên truyền thuyết mới viết Thần nông là con của Phục hy tức có ý nói thời Thần Nông thị kế tiếp Phục hy thị . Căn cứ vào biểu ngũ đế theo lã thị Xuân thu đã được dịch học kiểm chứng trên thì Hoàng đế không thể nào là kỷ kế tiếp Thần Nông được , kỷ của đế mùa Hạ qua rồi buộc phải đến Thu đế , rồi Đông đế kế tiếp chứ không có chỗ cho Hoàng đế chen vào vì vậy không thể có chuyện triều Hoàng đế thay thế Thần nông như sách Tàu viết ...làm nền cho ai đó thêu dệt nên chuyện Hoàng đế phản chủ thí chúa ... -Xét các bước Tiến hoá : Thời Hoàng đế thủy tổ Hoa tộc tồn tại cách nay khoảng 5000 năm là điều không phải bàn nữa , đây là niên đại mọi người mặc nhiên công nhận ; như thế Viêm đế cũng tồn tại trong quãng thời gian này nhưng xét Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt , câu ‘Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc’ đã chỉ rõ điều này mà Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào hơn 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ ; xét ra khoảng lệch 5000 năm giữa 2 thời Viêm đế- Hoàng đế và Thần nông thực trưng ra ở đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định : nhân vật Viêm đế đã bị Hoàng đế diệt trong sử Trung hoa không phải là Thần nông cao tổ của người Việt , danh hiệu của Thần nông phải là ‘Thái Viêm’ nghĩa là Thủy tổ tộc người sống ở vùng nhiệt đới –xích đạo , vua Thần nông cũng là nhà phát minh vĩ đại bậc nhất khi đem lại của ăn cho loài người . Sử thuyết họ HÙNG đã chỉ ra : Theo truyền thuyết thời cổ đại nước của người Việt có tới 3 vị đế mang danh hiệu có chữ Viêm (viêm chỉ sức nóng , ngọn lửa) : 1-Thủy tổ Thái Viêm –thần Nông - Hùng Hiển vương . 2-Viêm đế là thủ lãnh của tộc người đã hoà nhập với bộ tộc của Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc tức Trung hoa thời xưa . 3-Viêm lang – Hùng Hy vương tức đế Nghi con cả của đế Minh anh cùng cha khác mẹ với Lộc tục trong huyền sử Việt cũng chính là đế Nghiêu của cổ sử Trung hoa. Xét như vậy không thể có vụ án Hiên viên Hoàng đế diệt quốc chiếm dân của vua Thần Nông như đã chép trong 1 số thần tích thần phả Việt , truyền nhân dòng Việt phải tỉnh táo cẩn trọng phân biệt thực hư khi nhìn nhận qúa khứ dân tộc mình . Hữu HÙNG quốc hay nước của người họ HÙNG ghi chép rõ ràng trong cổ sử Trung hoa là 1 bằng chứng sáng gía giúp ‘hiện thực hóa’ truyền thuyết 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt , sự kết hợp hoàn chỉnh Hùng vương là vua của Hùng quốc loại trừ hẳn hàng chữ mập mờ vớ vẩn mà nhiều người đã viện dẫn để xác định thời điểm lập quốc của người Việt ‘ ....vào đời Trang vương nhà Chu ...có người dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc chung quanh tự xưng là Hùng vương ....’, Sử thuyết họ HÙNG đã trưng bằng chứng chỉ ra Hùng vương là tổ của cả dòng Bách Việt chứ không phải là tổ riêng của người Lạc Việt và Bách Việt chính là Trung hoa xưa , hàng ngàn năm rồi kể từ khi Mã Viện thu Trống đồng đúc ngựa là mọi chuyện đã lộn ngược ...kẻ cướp biến thành chủ nhân , bao nhiêu điều trái khoáy đã phơi bày mà cả thiên hạ không nhận ra ...kẻ chuyên đi ngựa lại phát minh ra thuyền bè ....chắc dùng để chạy ...trên đồng cỏ hay sa mạc ...Kẻ chưa hề biết đến bờ ruộng nước mà lại tạo ra được chữ ‘Điền’ thì đúng là ‘siêu tưởng’ ...cỡi voi trên bờ Hoàng hà thì đúng là ‘siêu thực’ chỉ có trong chuyện thần tiên ....không ở bên bờ biển Đông thì làm sao có thể tạo ra được quẻ chấn sấm sét và quẻ Tốn gió bão trong kinh Dịch ? làm gì có Rồng lượn trên ngọn cỏ ? hình tượng rồng không thể nào thoát ra khỏi sấm chớp gío bão nơi biển đông được vậy mà... ...đặc biệt hơn nữa đến cả chuyện ông Bàn cổ thủy tổ người Trung hoa cũng phải đi mượn của người phương nam ( chuyện Bàn Hồ của người Dao ) cốt chuyện hoàn toàn là ý rút ra từ vũ trụ luận của Dịch học ...chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để xem sét lại những thông tin về quê hương của kinh dịch và địa bàn gốc tổ Trung hoa xưa . Trong cái lớn là cả chiều dài lịch sử Việt người viết bài này mong 1 điều nhỏ : xin mọi người bình tâm suy gẫm xét lại vụ án Hoàng đế –Thần Nông tránh sự cả tin vô cùng nguy hại như hiện nay .
-
xin trao đổi tiếp : so chiếu với ngũ hành thì nhận thấy : quân thiên ở trung tâm màu vàng hành thổ (dịch học cũ) còn lại 8 thiên dựa vào từ ngữ xếp thành 4 cặp tương ứng với 4 màu cuả 4 hành 4 phương : - Chu thiên hay Châu thiên và Hạo thiên màu trắng phía tây hành kim (dịch học cũ); cả châu và hạo đều có nghĩa là sáng láng . - U thiên và Huyền thiên ứng với màu đen hành thủy phương nam . U và huyền nghĩa là đen tối . - Biến thiên và Thanh thiên chỉ phương đông màu xanh hành mộc ; biến là động thanh là màu xanh là 2 tính chất của phương đông mặt trời mọc . - Dương thiên và Viêm thiên ứng với phương bắc màu đỏ và hành hỏa là hướng xích đạo ngược với hiện nay
-
chào bạn .Chu - U - Dương - Biến là 4 vùng trời trong cửu thiên , theo tôi Chu và U nghĩa là cha và mẹ tiểng Việt, so chiếu với Hậu thiên bát quái thì Chu và U thiên trùng với vị trí 2 quẻ Kiền và Khôn . còn Dương thiên và Biến thiên thì .... đang ...suy nghĩ chưa dám khẳng định .
-
-
Xin nói thêm về từ ‘lang bang’. Người ta thường nói ‘lang bang’ hay kéo dài thêm thành ‘lang ba , lang bang’ có nghĩa là đi đó đi đây khắp nơi khắp chốn , sở dĩ như vậy là cụm từ này có gốc từ ‘bôn ba’ mà ra , bôn ba cũng là đi khắp đó đây nhưng khác ‘lang thang’ ở chỗ đi có mục đích rõ rệt , bôn ba còn hàm ý gian nan vất vả , khi nói nhà cách mạng bôn ba nơi hải ngoại thì ngoài ý vượt ngàn dặm đường còn ẩn chứa ý ca tụng sự hy sinh chịu đựng vượt qua gian khổ hiểm nguy để cứu dân cứu nước . Ông Lưu Bang từ khi khởi nghĩa ở núi Muang Đang và được dân chúng cử làm thủ lãnh nơi huyện Bái là bắt đầu cuộc ‘bôn ba’ ..., dân đất Phong quê nhà lại không theo ông để đến nỗi phải bỏ xứ mà đi ...đầu quân làm tướng dưới trướng Sở Hoài vương ở vùng Trường giang , bao năm đánh đông dẹp bắc với chiến công lẫy lừng là cầm quân chiếm kinh đô Hàm dương của Tần nhưng khi nhà Tần đổ do sự hiềm khích thù hằn Hạng vũ đã đày ông đến miền hãm địa là tây bắc Trung hoa ( miền đất có kinh đô của 2 nhà Chu ???), sau đó nổ ra cuộc Hán Sở tranh hùng ...lại chinh chiến từ bắc xuống nam , khi lên ngôi Hoàng đế Trung hoa rồi cũng không yên ...đánh Hung nô bị vây hãm suýt bỏ mạng ở vùng núi non Sơn tây, trong nước cũng không yên lành gì lại phải tiếp tục ‘bôn ba’ hành quân đánh Trần Hy phản loạn ....nói chung cho đến khi nhắm mắt suôi tay cuộc đời của Lưu Bang là cà 1chuỗi ngày ‘bôn ba’ vất vả . Chính từ cuộc đời của Lưu Bang mà có từ kép ‘bôn ba’. Lưu bang còn có tên là Qúy , thực ra đây không phải là tên riêng mà theo phong tục Trung hoa con trai cả gọi là thái , thứ hai gọi là trọng và thứ ba gọi là qúy , tên gọi qúy cũng giống như cách gọi ‘ thằng ba anh ba’ ở Việt nam vậy thôi . Lang là từ Việt cổ đồng nghĩa với vương với vua ngày nay , lang Ba - lang Bang nghĩa gốc chỉ là ... ông vua tên là Ba ,ông vua tên là Bang nhưng chính Cuộc đời chinh chiến khắp nơi của ‘ông Ba –Lưu bang’ đã tạo ra từ kép ‘bôn - ba’ làm nền cho cụm từ ‘lang Ba - lang Bang’ trong tiếng Việt nghĩa là đi khắp đó đây . Lưu Bang hay ông Qúy (thứ ba) sau khi lên ngôi hoàng đế Trung hoa gọi là Hiếu cao ; ‘cạo sử gia’ người Hán biến Hiếu cao thành Hán cao tổ...nghĩa là ông tổ đã tạo dựng nên Hãn quốc ; lạ là ở chỗ cả tên và tên ‘thường gọi’ trong nhà là Bang và Ba lại ‘nằm vùng’ trong dân gian Việt không biết từ thuở nào với cụm từ ‘lang Ba- lang Bang’ ? Một sự trùng hợp không hiểu nổi ... nếu lấy từ kép ‘bôn ba’ làm nền thì diễn giải ra phải là ‘lang Ba - lang Bôn’ mới đúng sao lại là ‘lang Ba - lang Bang’??? Chính việc đổi ‘Bôn’ thành ‘Bang’ này là sự kiện chứng thêm phần chắc chắn cho Sử thuyết họ Hùng khi cho Lưu Bang trong sử Trung hoa chính là Lý Bôn trong sử Việt , 2 dòng sử cùng viết về 1thời kỳ lịch sử huy hoàng của người Bách Việt , vua quan người Hán đã dùng thủ thuật ‘đổi nghĩa tráo chữ’ biến triều Hùng trịnh vương Hưng đức lang thành ‘nhà’ tây Hán ; Hưng đế thành Hán đế để tháp nối lịch sử Tây hãn quốc vào lịch sử họ HÙNG tiền nhân của người bách Việt ...tất cả những việc này là thủ đoạn lừa bịp vô cùng thâm hiểm để triệt tiêu hoàn toàn sức phản kháng của người Trung hoa-Bách Việt trước sự chiếm đóng và cai trị của giặc Hán phương bắc . Triều ‘Tây hán’ của Lưu Bang và triều ‘đại Đường’ là 2 triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử trung hoa , điều lý thú là 2 triều đại cách nhau ngàn năm định đô cùng trên một vùng đất ; sử Trung hoa viết rõ ràng : nhà Đường xây kinh đô trên nền thành cổ có tên là thành ĐẠI HƯNG ; tại sao không gọi là thành đại Hán ???...đế đô của Hưng đức lang hay Hưng đế gọi là thành đại Hưng đấy là quy luật ngôn ngữ ....; tên thành đại Hưng này đã chỉ ra điều hết sức quan trọng của lịch sử Trung hoa : Trung hoa không hề có triều đại nào gọi là Hán cả ; chỉ có thời kỳ Trung hoa bị nước Hãn hay Hán quốc của Hán tộc xâm chiếm và cai trị mà thôi . Chính sách diệt quốc diệt tộc bằng thủ đoạn ‘diệt văn hoá’ từ thời Quan vũ –Mã viện đã được bố con ông cháu Khang hy – Càn long tái dụng hết sức thành công đến độ ....ngày nay bản thân người Trung hoa đã bị tẩy não nên ‘vui vẻ’ nhận mình thuộc Hán tộc ....thực đau xót biết bao cho Hoàng đế , Nghiêu –Thuấn – Vũ .... hồn các vị chắc hơn thiêu hơn đốt khi nhìn lũ hậu nhân mãi vẫn không mở được mắt ra ; mãi còn gọi giặc là cha không biết đến bao giờ ...???
-
Sử ký : Hán và Hoa. Trung hoa nổi tiếng với Vạn lý trường thành , tuy gọi chung 1tên nhưng thực ra nó được xây dựng ở nhiều thời khác nhau chủ yếu là thời Tần và thời Minh , dưới đây là : Vạn lý trường thành thời Tần Sử ký viết khi Tần thủy hoàng lên ngôi thì : ...Đất đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc (15), phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu đông . Thông tin trong Sử ký xác định biên giới phía Nam và Bắc đế quốc Tần là qúa rõ ràng, miền ‘bắc hộ’ ở đâu ta đã biết còn nghĩa của câu “phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới” cũng rõ nghĩa không thể bẻ cong bẻ quẹo được . Cũng Sử ký viết : “Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương ( Lục dương – Lạc dương ?), lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ. Ở phía tây bắc, đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn,. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện. Cấm không được thờ (20). Sao sáng (21) xuất hiện ở phương tây.” Nhìn vào hình trên căn cứ vào vị trí của Hoàng hà và trường thành thì vùng đất Mông Điềm vượt Hà chiếm được và lập các huyện mới chỉ có thể là Hà bắc –Sơn tây ngày nay, đây là vùng đất cổ Sử Trung quốc gọi là Hà nam nghĩa là phía nam Hoàng hà , cũng gọi là Hà sáo , sáo là biến âm của xíu nghĩa là nước cũng chỉ phương nam theo Dịch học ; điều này thực là ngược ngạo không hiểu nổi vì ai cũng biết ...vùng Sơn tây –Hà bắc rõ ràng là ở bờ bắc Hoàng hà ? , đây không phải là 1 sự lầm lẫn vì lịch sử Trung hoa về sau còn nhiều lần nói đến việc Hung nô xâm lấn đến vùng đất Hà nam ( không phải tỉnh Hà nam ngày nay ) này ...không lẽ phương bắc –nam nay đã lộn ngược ? giới sử học Trung quốc còn có ý kiến kỳ cục hơn khi cho Hà sáo là vùng bắc thiểm tây là đất Mông cổ ngày nay ...thưa các vị ; các ông đã quên mất vạn lý trường thành là biên giới giữa đất của Trung hoa và Hung nô ....không lẽ nhà Tần khi xây trường thành đã đem vùng Hà Sáo bỏ ra ngoài ...biếu không cho Hung nô ? ở bắc tỉnh Thiểm tây thì Hoàng hà chạy sát chân Trường thành nên không thể có đất Hà sáo nằm phía nam trường thành bắc Hoàng hà được . Nhìn kỹ hình trên còn có nhiều thông tin khác ...khó chấp nhận như : phía đông của vùng đất giữa Hoàng hà và Trường thành gọi là Liêu đông ...mà quy luật chung hễ có Liêu đông ắt phải có Liêu trung và Liêu tây...tóm lại cả vùng này là đất Liêu hay đất của người Liêu - nước Liêu...?, phải chăng là nơi mà Sử thuyết họ Hùng gọi đích danh là nước Quan - Liêu tức Nam Liêu ; cũng là nơi mà Quan vũ ( Hán sử gọi là Hán quang vũ đế ) lập Đông hãn quốc ..., vì muốn .. lập lờ đánh lận con đen các sử gia Hán tộc đã tạo ra cả một mặt trận ‘chữ nghĩa’; quan là dịch từ nhìn –nom của tiếng Việt cũng chính là chỉ phương nam , vũ là ký âm từ ‘vua’ , quan vũ nghĩa là vua đất phía nam Trung hoa ; khi biến quan thành quang rõ ràng họ đã cố ý thủ tiêu nguồn gốc của vua nước Đông Hán ...lập lờ biến thành vua nhà Đông hán nước Trung hoa ; cũng chính từ ‘ quan-nom’ này đã tạo ra ‘quan phương - sóc phương’ nghĩa là phương nam và phương bắc , sóc nguyên thủy là biến âm của từ xích –màu đỏ , sất –số 7 chỉ hướng xích đạo theo Dịch lý...về sau lộn ngược lộn suôi thế nào...cả quan và sóc đều là phương bắc ngày nay ... thế mới kỳ . Với Từ ‘Liêu’ còn nhiều thông tin lịch sử khác ...; Liêu nguyên thủy là từ LU tiếng Việt nghĩa là ‘mờ’ phản nghĩa với ‘tỏ’ , mờ –tối - đen – lạnh ...là những dịch tượng chỉ phương nam hay phương của nước - hành thủy mang ý nghĩa khoa học chứ không coi khinh ai cả . -Lu→Liêu→người Liêu - nước Liêu. Liêu→họ Lưu của hoàng tộc Hán quốc như Lưu Huyền , Lưu Tú... Liêu –Khiết đan - Hán chỉ là những tên gọi khác của 1tộc người ; Liêu cũng là Khiết đan thì ai có đọc sử Trung quốc đều biết ...thời Trung đại họ lập nên 1 quốc gia mà ba hồi gọi là khiết đan , bốn hồi gọi là Liêu ...năm hồi lại gọi là Khiết đan ... Sự liên quan Khiết đan – Hán nhận ra được nhờ sự phiên thiết Hán văn . Thành cát tư Hãn phương tây ký âm La tinh là Genges Khan , khan và Hãn nghĩa là vua trong ngôn ngữ Mongoloid . -khiết đan thiết là khan. -khả hãn thiết là khan . Hán văn đơn âm hóa thành Hãn ,. Hãn nghĩa là vua ; nước của hãn là Hãn quốc , quân của hãn là Hãn quân - hãn →hán ; khi khả hãn Lưu Tú chiếm cả thiên hạ thì bỗng chốc ...Trung hoa biến thành Hán quốc .... Tóm lại trừ mỏm đất nhỏ cực bắc tỉnh Hà nam ngày nay biên giới Trung hoa thời tiên Tần không vượt qúa về phía bắc Hoàng hà , miền này là đất của giống Khiết đan – Liêu – Hán sau này là nơi Lưu Tú dựng Đông hãn quốc và cũng chính là đất gốc của nước Liêu hay Đại Liêu làm chủ cả vùng đất mênh mông bắc Hoàng hà thời trung đại , các tộc mông cổ – Mãn kim đều là chư hầu của họ . Hoa và Hán là 2 giống người khác hẳn nhau , về mặt nhân chủng :1là người tiểu chủng Mongoloid ; 1thuộc tiểu chủng nam Mongoloid , văn hóa văn minh cũng khác hẳn nhau , địa vực sinh trú thời cổ xưa khi hình thành dòng tộc cách nhau đến gần vạn dặm ...vậy mà dưới sự phù phép của các tay phù thủy chăn ngựa bỗng chốc Hoa và Hán biến thành một ...thật là ...thần kỳ . Xin hỏi các vị có ai được sinh ra 2 lần không mà các vị nói Trung hoa có tới 2 cái nôi..., 1là Hoàng hà 2 là Trường giang ? đấy chỉ là sự che đạy vụng về để chữa cháy khi khoa học ngày càng tiến bộ đã phơi bày sự thật về các tộc người trên đất Trung quốc ngày nay . Ta trở lại với Sử ký : “...Tháng mười năm thứ 37 (211 trước công nguyên) ngày quý sửu, Thủy Hoàng đi chơi, Tả thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Tháng 11, đi đến Vân Mộng, tế vua Thuấn ở núi Cửu Nghi, đi thuyền qua sông Trường Giang xem Tích Kha vược qua bãi ngoài biển, qua Đan Dương ñến Tiền đường, đi đến Chiết Giang gặp lúc sóng to nên đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, qua sông ở nơi dòng sông hẹp, lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần ...” Tư liệu lịch sử khác chép : Đế Thuấn : 2233-2184 trước CN Theo truyền thuyết, “....vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử...”. Đầm Vân mộng – sông Tương nằm trên đất Hồ nam ngày nay là địa bàn sinh trú của Bách Việt từ hồi nảo hồi nào, đây là đất của người Nam Môngoloid mà vào thời đó thì người Hán chưa hề đặt chân tới nên đế Thuấn không thể nào là người Hán được , sử Tàu cũng công nhận đế Thuấn là người Đông Di...hệ qủa của điều này là đế Nghi bố vợ của đế Thuấn cũng không thể nào là người Hán được vì Hoàng hà và Trường giang còn hoàn toàn cách biệt . Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ vũ tổ của nhà Hạ , sử Hán viết Hạ vũ hội chư hầu ở Cối kê và sau này ông cũng được con cháu dành riêng mảnh đất ấy để thờ phụng , Cối kê thuộc Triết giang ngày nay cũng là đất của Bách Việt chủng Nam mongoloid , Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí cũng viết vua đại Vũ là người Việt...như vậy ‘chủng tính’ của vua VŨ đã qúa rõ khỏi phải bàn nữa , căn cứ vào đoạn văn : “lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần” thì Cối kê nơi thờ vua Vũ không phải là Cối kê ở Triết giang ngày nay vì nơi này quay ra biển đông Trung hoa không có chỗ nào của đất ấy nhìn ra Nam hải cả ... Từ Thần thoại thủy tổ Bàn cổ là của dân MAN phương nam đến vua Nghiêu vua Thuấn và cả Đại vũ đều đã xác định là người nam Mongoloid tức Bách Việt về sau như thế đã đủ thông tin để khẳng định Trung hoa không phải là của người Hán mà là của người Bách Việt hơn nữa còn có các thông tin bổ chứng khác : - Cả 30 vua nhà Thương và Thương Ân đều được gọi tên theo ‘thập can’ mà cả 10 phần tử của thập can đều là từ Việt hay Nôm ( Dịch học họ Hùng ) cho nên các vua nhà Thương chắc là người Bách Việt ; không thể nói khác được . - Chính Hán sử cũng nhìn nhận nhà Chu là Tây Di tức không phải là Hán . Kết luận : lịch sử và nền văn minh Trung hoa là của tộc người nào đã qúa rõ : từ Thủy tổ Bàn cổ đến Đường-Ngu lưỡng thánh và cả tam đại Hạ -Thương – Chu đều là người nam Mongoloid tổ của dòng Bách Việt thì Hán tộc -Hoàng hà đâu có dính giáng gì với Trung hoa hay chính xác phải gọi là ‘Thiên hạ’, người viết bài này không dám gọi ngược chính Hán mới là Man-Di vì nền văn minh Hoàng hà là nền văn minh hình thành rất sớm và không kém phần rực rỡ , đó mới là văn minh Hán tộc hoàn toàn không liên quan đến Lịch sử và văn minh Trung hoa . Đã đến lúc Người Hán nên nghiêm túc viết lại lịch sử của dân tộc mình đừng mãi ... “mập mờ đánh lận con đen” tháp nối vào lịch sử Trung hoa làm chi cho mang tiếng mang tăm ....với đời và tệ hại hơn nữa là khiến con cháu dòng Hán không biết đích xác về tổ tông của mình ; hàng ngày hàng năm cúng ai vái ai cầu khẩn cùng ai ? *Ghi chú : Hình sử dụng trong bài lấy từ internet. Tứ Di. Đồ Hình ngũ sắc và tứ phương . Người Hán nhận mình là Trung hoa nghĩa là họ tự cho mình là dân tộc trung tâm và văn minh nhất thiên hạ còn lại các dân tộc khác ở bốn phương thường gọi là tứ di , Di nguyên thủy là biến âm từ chữ nhì hay nhị có nghĩa nôm na là dân hạng hai so với dân trung quốc là dân hạng nhất . Tứ Di là : - nam Man . - bắc Địch . - đông Di . - tây Nhung. Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc : - phía nam là nước Quang .( chính xác phải là nước Quan ) - phía bắc là nước Thao. - phía đông là nước Từ. - Phía tây là nước Chu. Lần lượt ta điểm mặt tứ Di ở 4 phương xem họ là ai . 1 - Nam Man : Theo Ngũ sắc của nền văn minh Dịch lý thì : phương Bắc hiện nay màu đen , tiếng Việt có từ mun đồng nghĩa với đen , bản thân từ mun là 1 sắc màu không nhằm khinh khi miệt thị ai nhưng Hán tộc đã dùng nó chửi người khác là ...kém văn minh khi biến mun→man . Nhiều tộc người phía bắc Trung quốc hiện nay được các đấng con trời gán cho chữ Man : Man →mông hay Mông cổ . Man→Mãn hay Mãn thanh . Man→Mỉn chỉ nhà Minh (minh nghĩa là tối) . Ngoài hệ màu những Dịch tượng khác chỉ phương nam cũng được vận dụng : Lu là mờ ngược với tỏ biến thành Liêu chỉ người Liêu . Lu biến thể thành họ Lưu của vua chúa Hán tộc . Kăm nghĩa là lạnh –rét (rét kăm kăm ) biến âm thành Kim chỉ người Kim nước Kim . So chiếu với màu của tứ phương theo Dịch học thì có ‘nam Man’ hay ‘nam mun’ nghĩa là phương nam màu đen điều này ngược hẳn với phương hướng hiện nay , theo phương hướng hiện nay phải gọi là bắc man ... Nước Quang là thuộc quốc phương nam phải sửa thành nước Quan thì mới thấy được tên các phụ quốc nhà Thương cũng chính là tên gọi 4 phương , quan là chuyển ngữ từ ‘nhìn-nom’ trong tiếng Việt cũng là chỉ phương nam . - nom→nôm→nam .( chữ Nôm ; còn biến thành Nồm như gió Nồm tức gió nam) 2 - Bắc Địch . Lục tìm trong sử Tàu thì chỉ có duy nhất rợ Xích Địch ngoài ra không thấy rợ Địch nào khác . Xích là màu đỏ khớp đúng với màu đỏ của ngũ sắc Dịch học chỉ hướng xích đạo ; có điều lạ vì nó ...ngược với thực tại , hướng xích đạo ngày nay là hướng nam nhưng sách tàu lại viết là ...bắc Địch . Xích Địch ═ bắc Địch > hướng màu đỏ là hướng bắc hoàn toàn đúng với Dịch học nhưng lại ngược với phương hướng hiện nay...hướng Xích đạo là hướng nam . Thuộc quốc phía bắc nhà Thương là nước Thao , Thao là biến âm của thiêu - đốt , hướng Xích đạo là hướng nóng thuộc hành Hỏa - qủe Ly - màu đỏ nên quốc gia ở đấy gọi là nước Thiêu – đốt , truyền thuyết lịch sử Việt gọi là Hồng bang ,Xích địch có thể là tên người nhà Thương gọi dân nhà Hạ là triều đại mà họ đã đánh đổ trước đây, đất trung tâm nhà Hạ cũng chính là nơi lập quốc của Triệu Đà hay Triệu Tha , Đà và Tha là Viết sai chính xác là Đào và Thao hay Thiêu , Triệu là biến âm của Chậu ngôn ngữ Thái –Lào , Chủ - Chúa trong tiếng Việt nam . Xét ý nghĩa chứa trong tên 2 rợ ‘nam man –bắc địch hay Xích địch ’ so chiếu với phương hướng hiện nay có thể khẳng định : hướng nam - bắc xưa đã bị lộn ngược . 3 - Tây Nhung. Nhà Chu đánh đổ nhà Thương nhưng không tận diệt , con vua Trụ được phong tước hầu và cho cai quản vùng kinh đô cũ nhưng phải chịu sự giám sát của 3 tông thất nhà Chu gọi là Tam giám ...thật bất ngờ Tam giám nhà Chu lại âm mưu cùng quý tộc cũ nhà Thương và đám rợ là Hoài Di –Từ Nhung nổi loạn chống lại nhà Chu..., sử viết Chu công phải đông chinh 3 năm mới dẹp yên . Thuộc quốc phía đông của nhà Thương cũng có tên là nước Từ . Theo Dịch học thì phương đông quẻ Khảm là phương của tình cảm , sự thương yêu giữa người và người đối phản với phương tây là phương của quẻ Ly chỉ lý lẽ , thương yêu trong tiếng Việt dịch sang Hán ngữ là từ ái . Phương đông trong Hán sử trở thành phương ...Từ ; nước ở phương ấy gọi là Từ quốc , rợ ở phương đông gọi là Từ nhung , việc đông chinh của Chu công đánh rợ Hoài di Từ nhung đã chỉ ra điều đó cụ thể hơn nữa còn cho thấy rợ Từ nhung là ở vùng sông Hoài nằm ở phía đông lãnh thổ Trung hoa . Người Tàu đã ...chữ tác biến ra chữ tộ...; từ→tây , rợ Từ nhung ở phương đông hóa thành tây nhung ...thì chỉ có trời mới hiểu .... Thời Tần gọi người bắc Hoàng hà là người Nhung ,Sử thuyết họ Hùng gọi họ là Quan –Liêu hay Nam Liêu , chính họ sau này thành dân của hoàng đế Quan vũ nước Đông hãn hay đông Hán ,ngoài Nam Liêu còn 2 chi khác là đông Liêu ở Sơn đông chính là rợ Từ nhung trong tứ di và tây Liêu bị Hung nô đuổi chạy tuốt về hồ Thanh hải ở phía tây trung quốc . Khi nói thuộc quốc phía đông là nước Từ cũng y như nói...thuộc quốc phía đông của nhà Thương là nước ‘phía đông’...đúng là chữ với nghĩa ...thực qúa sáng mà trở nên tối ... 4 - Đông di. Khi đã xác định Từ Nhung chính là đông Nhung thì đông Di buộc phải đổi là tây Di . Có sự Trùng khớp khá lý thú khi biết thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu hay Châu , chính thuộc quốc Chu sau này đã diệt nhà Thương kiến lập triều đại Chu của Trung hoa , lý thú là ở chỗ người Hán gọi họ là rợ Tây Di , đúng y với tên gọi cộng đồng người mà thời trung - cận đại cũng vẫn gọi là Tây Di - Tây nam Di hay tên khác là Di –Lão ở Qúi châu và Vân nam . Thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu , rợ phía tây trung quốc là Tây Di ; liên kết 2 thông tin ta được điều rất quan trọng : Thành phần chính của Dân nước Chu thời còn là thuộc quốc của nhà Thương là người Di hay Di lão cũng gọi là người La , sách Tàu gọi là Liêu tử ngày nay là người Kadai . Rợ tây bắc Trung quốc là Hung nô và Đột quyết . Phía tây là Chi và Khương . Tây nam là người Di hay Di lão , ngật Lão cũng là Khuất Lão-khuất Liêu. Xét qua những thông tin trên thì Địa bàn gốc của nhà Chu không thể nào là Thiểm tây được và nhà Chu cũng không thể nào có gốc Hung nô như 1số nhà nghiên cứu Trung quốc đã nêu ra . Theo những nghiên cứu gần đây thì người Di là tộc người cố cựu của vùng Quí châu Vân nam , họ đã có mặt ở đấy ít ra cũng hơn ngàn năm trước công nguyên . Văn vương là TÂY bá , nước phía tây là nước CHU , rợ phía tây là tây DI...liên kết chuỗi thông tin này rồi Căn cứ vào địa bàn sinh trú của người Di đối chiếu với những thông tin trong cổ sử Trung hoa và Việt nam có thể kết luận : Đất gốc của nhà Chu là Quí châu Trung quốc sau họ cường thịnh lên mở rộng lãnh thổ phía tây sang Vân nam ( cổ sử gọi là nước ‘Mật Tu’ là biến âm của ‘mặt TÂY’ trong tiếng Việt ) và phía nam đến miền bắc - bắc Trung Việt ngày nay ( Sử Trung hoa chép là nước Sùng ) ; miền đất rộng lớn này chính là lãnh thổ nước Văn Lang : bắc giáp Động đình hồ ,nam giáp nước Hồ tôn , tây đến Ba thục và đông giáp Nam hải trong truyền thuyết lịch sử Việt , vùng này sau trở thành đất Trung hoa ( nghĩa là trung tâm văn minh) của thiên hạ khi Chu Vũ vương lên ngôi Thiên tử kiến lập triều đại Chu ngàn năm , có thể nói không ngoa .... văn hoá văn minh Trung hoa rạng ngời như ngày nay chính là công của nhà Chu ( tứ thư - ngũ kinh linh hồn của văn minh Trung hoa ra đời ở thời này ). Thông tin trong bài này là sự kiện chứng cho những điều đã viết trong Sử thuyết ho Hùng : - Kiến lập triều Chu là Thục Phán sử Tàu gọi là Cơ Phát . - vua Tổ của nhà Chu là ông Cơ Xương tức Văn vương tiếng Việt là Văn lang( Lang ═ vương ═ thủ lãnh-vua) nên nước của Văn vương còn được gọi là nước VĂN LANG kinh đô ở Phong châu hay đất Phong , đất Phong thời nhà Thương Ân thuộc nước SÙNG ( sùng ═ cao) do các Sùng hầu cai quản trước sau có 5 đời chúa truyền thuyết dân gian Việt gọi là Ngũ vị tôn ông : Sùng Nghiêm - Sùng Tôn – Sùng Hoà –Sùng Quyền –Sùng Cầm hay Lãm , vị Sùng hầu sau cùng theo sử Việt là Sùng Lãm nhưng theo sử Trung hoa là Sùng hầu Hổ . - Trống đồng là Vật thể văn hóa tiêu biểu cho văn minh nhà Chu , nơi phát hiện trống xưa nhất và nhiều nhất cùng với những thông tin về Dịch lý chứa trong hoa văn trên mặt Trống đồng đã chỉ ra điều ấy ( Văn vương là 1 trong tứ thánh đã làm nên Dịch học ) Kết : Khi nói nhà CHU rạng rỡ cũng chính là nói : VĂN LANG huy hoàng ; vầng hào quang ấy dù có lúc tạm khuất nhưng chắc chắn không bao giờ tắt .
-
Võng Đào mẹ ru . Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt nam có bài ca dao vẻn vẹn 4 câu 22 chữ có nghĩa : Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên.Đây là tuyệt phẩm thơ ca gợi tả cảnh người mẹ nằm võng bế và ru con ngủ trong đêm trăng thanh gió mát , tình mẹ thương con như trời như bể tràn lấp trong khung cảnh thiên nhiên êm ả đầy hương thơm ngọt ngào ;cả 2 đã kết quyện với nhau tạo thành cái nôi hạnh phúc tuyệt vời cho buổi đầu đời của trẻ thơ Việt . Trong 4 câu thơ thì câu : bống bồng bông bống bồng bông là tiếng ru ...là sự ghép nhạc vào lời ru của mẹ quay quanh chữ bồng đồng nghĩa với bế ...đấy cũng là cung điệu trầm bổng của quê hương , còn lại 3 câu là cô đọng đến hết mực thông tin về lịch sử và quê hương dòng giống Việt . Ý bài ca dao tuyệt tác trên chỉ có thể thấu hiểu dưới ánh sáng dịch học . Dưới đây là đồ hình Hà thư ( dịch học Tàu gọi là Hà đồ ) được vẽ với số đếm thay cho những nút thắt nguyên thủy và đặt nằm ngang theo chiều xích đạo và cực Bắc hiện nay ( cực Nam xưa theo dịch học) . Ta thấy cặp số 2/7 nằm về hướng Xích đạo và cặp 1/6 ở hướng đối nghịch . Vì hướng bắc - nam xưa đã bị đảo ngược nên trong bài sẽ dùng ‘Giang’ và ‘hồ’ là 1 cặp đối theo dịch lý để thay thế , Hồ hình tròn giang hay sông nét thẳng , hồ nước tụ giang nước chảy , Giang – hồ tạo thành 1 trục tương đương trục bắc –nam của địa lý ngày nay, trục này được xác định trên Hà thư bằng số 1 và số 2 . Trong 12 tháng của Việt nam thì tháng giêng là tháng đầu kế đến là tháng hai , tháng giêng cũng là tháng 1 ta có giêng là từ đồng nghĩa với 1. - Số 1 cũng là Giêng , giêng →giang (sông) →giăng (trăng) - Số 2 hai → hà - hồ – hạ – hè Trục (1 – 2 )→ (giang – hồ , sông – bể ). Hồ ở hướng xích đạo và giang ở hướng bắc cực ( nay ). Đọc câu : Gió Động đình mẹ ru con ngủ . Có thể nói ngay không chút ngần ngại : mẹ ở đây là Long mẫu , Long mẫu khi chưa kết duyên cùng Kinh dương vương gọi là Long nữ con gái Động đình quân tức vua vùng Động đình hồ , Long mẫu chính là tổ mẫu dòng Hùng Việt hay Bách Việt ; vì chỉ Long mẫu mới có thể nằm ru con Hồng cháu Lạc ở Động đình hồ đúng như truyền thuyết lịch sử . Khi áp thực địa Việt nam và Hoa nam vào đồ hình Hà thư thì nhận ra ngay Động đình hồ là Biển đông chính là hướng ‘hồ’ vì theo trục : “1 - 2 , giang – hồ” ta đã có Giang ở phía đối nghịch , Giang là tên gọi khác của Trường giang , Động đình hồ và Trường giang cấu thành trục giang – hồ của địa lý Trung hoa và cũng chính trục ‘giang – hồ’ này đã phủ nhận việc ấn định Động đình hồ là đầm Vân mộng xưa vì nếu ‘hồ’ ở đấy thì ‘giang’ ở nơi nào ?, không thể nào là Hoàng hà được vì Hoàng hà còn có tên riêng là HÀ , không lẽ đất Trung hoa có Trục phương hướng ... “hồ – hà” vừa vô nghĩa vừa vô lý . Rất có thể đầm Vân mộng xưa nay gọi là hồ nam , nghĩa là cái hồ nằm ở phía nam (xưa theo dịch lý) của Giao châu tức là vùng Trung tâm và vùng đất có cái hồ ấy được đặt tên là tỉnh Hồ nam (cấu trúc Việt ngữ ) , tương tự ở hạ lưu Trường giang có 1 hồ rất lớn tên là Pò Dương nghĩa là cái hồ lớn ở phía đông ( Giao châu ? ) Tới đây đã xác định được hướng ‘hồ’ của lãnh thổ Bách Việt là Biển đông , câu tiếp theo là : ‘Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh’ cũng giúp xác định phần lãnh thổ hướng ‘giang’ là sông Tiền Đường , con sông chảy qua ranh giới 2 tỉnh An huy và Giang tây rồi vào tỉnh Triết giang Trung quốc ngày nay , Chiết giang cũng là tên gọi khác của sông Tiền Đường . Trăng hay giăng và giang tất cả chỉ là biến âm của từ ‘giêng-1’ chỉ phía Nam xưa của Hà thư (nay đảo là bắc) . Khi so chiếu những thông tin địa lý trong bài ca dao trên với trục ‘giang – hồ’ thì xác định được lãnh thổ Bách Việt : bắc (xưa) là Động đình hồ hay biển đông , nam (xưa ) là sông Tiền đường hay Chiết giang . Thực tuyệt vời khi chỉ với thông tin mang trong bài ca dao ngắn ngủi này đã đủ để xác định lãnh thổ của người Hùng Việt hay bách Việt là gồm toàn bộ phía nam ( nay )Trường giang cho tới đất Việt nam ngày nay . Vùng Chiết giang là lãnh thổ nước Việt xưa , nơi thờ vua Hạ vũ tức Hùng Việt vương –Tuấn lang trong sử thuyết họ HÙNG cũng là nơi các học giả Trung hoa cho là phát tích văn hoá Việt và Trên vùng lãnh thổ bao la ấy câu : ‘võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên’ chỉ ra tên gọi tổ quốc thiêng liêng của người Việt là ‘HỒNG BANG ’; hồng là màu đỏ đồng nghĩa với đào , bang đồng nghĩa với ‘quốc’ với ‘nước’ nếu viết sai thành ‘Hồng bàng’ là mất hết ý nghĩa . Bài ca dao 22 chữ là 1 tuyệt phẩm thơ ca vì chỉ với 3 câu thơ ngắn gọn đã gói trọn những thông tin ngàn năm của nước Việt : Cái Võng mẹ nằm ru con là cùng hình tượng với chiếc nôi mà ngày nay hay dùng để chỉ quê hương , võng Đào đồng nghĩa với Hồng bang quốc hiệu đầu tiên của vương quốc Việt . Truyền thuyết lịch sử Việt và cổ sử Trung hoa nhìn dưới ánh sáng dịch lý có sự đồng nhất hoàn toàn : Hồng bang - Đất Đào – nhà Hạ –Hùng Hoa (Hoả) vương – Hải lang tất cả đều chỉ những tố chất của ‘mặt trời’ ; hướng xích đạo –quẻ ly tức lửa – màu đỏ , vùng Hồ - hải hay biển cả , những dịch tượng này về phương diện địa lý là chỉ vùng nhiệt đới –xích đạo còn trong quan niệm triết học dùng chỉ sự văn minh sáng sủa ngược với chốn man dã tối tăm . Sổ 1 = Giêng →Trăng - giăng –giang cộng với 5 canh –tiền Đường (Thường ) tất cả là dịch tượng chỉ phương Nam của dịch học (ngược với phương hiện nay) , Sông Đường hay Thường cộng với tên nước Việt gợi cho ta danh hiệu nước Việt Thường trong truyền thuyết lịch sử . Hồng bang ở hướng ‘hồ’ hợp với Việt Thường hướng ‘giang’ thật là trọn vẹn 1 đất nước không thể nào cô đọng giản lược câu chữ hơn được nữa , tuyệt vời hơn khi chỉ với 3 chữ ‘gió Đông đình’ đã chỉ rõ cả 1 thời gian dài lịch sử kết tạo cô đúc nên dòng giống Việt : - Gió chỉ đức Tản viên hay Tốn lang-Tốn vương ; quẻ Tốn là tượng của phong – gió ; trong phả hệ 18 đời Hùng vương là Hùng Việt vương – Tuấn lang tổ các vương triều Việt , Chữ Phong còn liên quan tới Phong châu quốc đô thời Hùng vương dựng nước . - Động Đình hồ là quê của của Long nữ là tổ mẫu của dòng giống Việt . Sự kết hôn lập thành gia đình trong truyền thuyết lịch sử Việt luôn là sự phản ánh việc hoà nhập 2 dòng tộc, từ 2 thành phần khác biệt đã hoà huyết và đúc kết văn hoá tạo thành 1 cộng đồng dân tộc thống nhất trong thực tế lịch sử , cộng đồng Bách Việt đã ra đời từ hôn nhân lịch sử giữa vị Kinh dương vương tức vương cai trị phương nam cuối cùng thời lập quốc là Hùng Việt vương Tuấn lang với con gái của Động đình quân vua vùng biển đông . Lạc long quân nghĩa là vua chung của cả 2 thành phần Lạc và Long , danh xưng của vương quốc là Hồng bang , lãnh thổ trung tâm gọi là đất Đào nay là đất Việt và Quảng đông – Quảng tây ., những thông tin lịch sử này được ghi chép trong cổ sử Trung hoa với nhân danh địa danh khác :...Hạ vũ lấy vợ là Đồ sơn thị sinh ra ông Khải , Khải lập nên vương triều đầu tiên của Trung hoa là triều Đại Hạ , ông Hạ Vũ được tôn là tổ nhà Hạ và đất Cối Kê được dành riêng để thờ cúng , thực ra vũ chỉ là ký âm Hán ngữ của từ Vua trong tiếng Việt , Hạ vũ nghĩa là vua Hạ chính là Hùng Việt vương trong lịch sử Việt nam vì thế nhà nước lập ở Cối kê mang tên là nước ‘Việt’ . Võng Đào trong bài ca dao này khi liên kết với truyền thuyết Hồng bàng thị giúp khẳng định Lãnh thổ nước Việt gồm :Giao châu tức đất Việt ngày nay là đất gốc của dòng giống Hùng và Quảng đông Quảng tây là phần đất mở rộng về sau ( từ quảng nghĩa là mở rộng ra) , đất Đào là đất trung tâm của vương quốc họ HÙNG thời Hùng Hoa vương - Hải lang , Hoa sử gọi là nhà Hạ , Hải nam hay Nam hải chỉ là biến âm của Hải lang hay lang Hải tức Hải vương mà thôi . Đất Đào cũng là lãnh thổ nước Nam Việt , triệu Đà chỉ là chữ viết sai của triệu Đào nghĩa là vua đất Đào chứ không có ai họ Triệu tên Đà cả . Hiện nay trong giới sử học Việt nam , còn không ít người cho nước Việt xa xưa chỉ tồn tại trên phần đất bắc và bắc trung phần ngày nay , 3 câu thơ trong bài ca dao bất hủ này đã loại bỏ hoàn toàn ý nghĩ sai lầm đó , vì làm sao giải thích được các điạ danh ....tiền Đường , Động đình cũng như những chữ ... võng Đào .v.v lại có mặt trong bài ca dao mang nặng tình tự dân tộc này : ‘Gió Động Đình mẹ ru con ngủ trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh bống bồng bông, bống bồng bông võng Đào mẹ bế con rồng cháu tiên. Bài : -Nôm na là cha mách qué . -Hướng nhìn mới về cuộc nam tiến . -Thời Hùng vương dựng nước . Xin đọc ở Diễn đàn lý học Đông phương phần thử bút .
-
Điều cần nói .. Trích vài hàng Việt nam sử lược của Trần trọng Kim .... ...Nhân dịp Thái-tông nhường ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ... Thực kỳ lạ ...Mông cổ đã là chủ Trung nguyên ...tại sao còn bắt ‘An Nam ’ cống nho sĩ , thầy thuốc , thầy toán số .v.v. .? Việc này chỉ ra ....vua Mông cổ biết rất rõ cái gốc của văn minh Trung hoa nằm ở đâu . Thật trớ trêu vì không phải chỉ người ngoài mà chính người Việt cũng không mấy ai biết điều ấy nên vẫn ...‘nặng bên ngoại nhẹ bên nội’ thường xem những gì ‘sưu tầm’ được ở bên Tàu là quan trọng là đáng tin hơn những gì tìm thấy trong nước ; thậm chí chẳng ai thèm để ý đến những gì ghi chép trong thần tích thần phả nói riêng và nói chung là hết thảy những gì tìm kiếm được trong dân gian ..., nếu có người nêu ra vấn đề gì đó ...thì các nhà ‘ngâm cứu’danh gía cũng chỉ lướt qua như cơn gió thoảng mà thôi , có khi còn tra vặn lại ...như quan án xử tội nhân vậy , nguy hại biết mấy khi không phải chỉ giới có ‘máu mặt’ mà dân gian cũng thế , ‘bác sĩ Trung y’ thì trọng vọng còn ‘thày lang’ nhà ta thì chẳng mấy ai nể ...thậm chí còn khinh khỉnh coi thường châm chích bằng từ ‘ lang vườn’ do chẩn đoán và bốc thuốc không có vẻ gì là... khoa học (?) ;tương sinh tương khắc vớ vẩn mà là cơ sở để chẩn và trị bệnh sao ?. - ‘nhà Nho’ngày nay xem ra vẫn còn giữ được chút ‘danh gía’nhưng lại coi như đó là cái bóng của văn minh Trung hoa ...có ai nghĩ đến Việt Nho và nền văn minh Việt đâu . Thể tạng người Việt tương đối nhỏ mà ngàn năm qua chúng ta mấy khi được yên ...vậy cha ông ta làm sao giữ được nước trước đám giặc thù hung bạo dữ dằn như hổ báo nếu không có 1 nền võ học cực kỳ tinh diệu cương mãnh bên cạnh tinh thần yêu nước và chí quật cường ; xin hỏi hiện nay có 1 cơ quan hay bộ phận nào đó của nhà nước đứng ra thu thập và hệ thống hoá nghiên cứu 1 cách có bài có bản để bảo tồn và phát huy tinh hoa võ thuật Việt nam ? Tâm lý ... ‘học trò’ của Tàu ăn sâu trong đầu óc đã khiến nhiều người tự xếp vào hàng dưới không dám trèo cao tranh hơn với thày là điều vô cùng nguy hại cho tương lai dân tộc , làm sao có thể chấn dân - hưng quốc với bộ não bẹp dí như thế ? Người Việt ơi ; hãy xem việc vua Mông cổ bắt chúng ta phải cống các bậc anh tài trong khi họ đã là chủ Trung nguyên ‘người tài như sao trên trời’ thì mới đánh gía đúng tài trí của cha ông mình , nếu không xếp kèo trên ...thì ít nhất cũng chẳng kém gì ai , đã đến lúc phải lượng giá lại những gì ta đang có ; tự cân nhắc lại tầm vóc của chính mình , nhiều người với nhiều công trình nghiên cứu đang chứng tỏ cái gốc Dịch học nằm trên giải đất này như thế chắc chắn đỉnh cao của Nho Y Lý Số và võ thuật cũng đang chứa giữ ở đây , quan trọng là có biết cách khơi đào để nước từ nguồn mạch chảy ra hay không , việc này không 1 cá nhân hay 1 nhóm người nào có thể làm được mà phải xem là quốc sách , toàn dân tham gia mọi người hành động thì mới có cơ may thành công ., Tương lai ra sao được quyết định từ ngày hôm nay .
-
Sử thuyết họ HÙNG-những điều mới biết . Để dẫn chứng cho những dòng sử sắp viết Xin trích 1 phần bài viết về phiên thiết chữ Hán của tác gỉa Nhạn nam Phi .. Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn. - ........ - Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. - -“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前. - -“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前. - Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm. Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt ( phát âm hán việt ? ) để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng. Thí dụ : chữ “Hạ夏”. –Hồ nhã thiết . -Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ” -Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”. Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam. ................. Hết phần trích . Chữ NHO mà người Hán phải phiên thiết mới đọc được thực là lạ ...ngộ nghĩnh hơn là phải phát âm theo giọng đọc của Bách Việt mới chính xác . Điều này tưởng nhỏ nhưng thực sự không nhỏ chút nào ...vì chính nó giúp xác định Trung hoa xưa là người Bách Việt ở Hoa nam , văn minh Trung hoa là văn minh Việt người Hán Hoàng hà chỉ ‘ăn theo’mà thôi ,nhưng về sau họ chiếm đoạt luôn biến người Việt thành kẻ ăn nhờ ở đậu như thiên hạ đang tưởng . Người Hán không chỉ phiên thiết để đọc chữ Nho mà họ đã ứng dụng tạo từ để dịch những từ nước ngoài mà bản thân Hán văn không có chữ đây là điều mới . Vận dụng phép phiên thiết bỗng hiểu ra nhiều điều bất ngờ và thú vị : Nước India ngày nay được cổ thư Trung hoa gọi là nước ‘Đại Thực’ chính xác phải đọc là đại THỤC biến âm của từ Thụt tiếng Việt , bên đông là Dâng nghĩa là mặt trời lên Hoa ngữ là dương , bên tây mặt trời thụt xuống biến âm hoa ngữ là thiệp. Từ Thục phiên thiết Hán văn là : -Thiên Trúc thiết là Thúc đọc thành Thục . -Thận độc thiết là Thộc cũng đọc thành Thục . Tên nước Thiên trúc - Thận độc ...cả về nghĩa và thanh đều không liên quan gì đến india .... Thì ra người Trung hoa gọi nước India là nước lớn phía tây ....chỉ đơn giản thế thôi . Sau 1 chút dành cho ngôn ngữ học mời bạn đọc cùng xem Bản đồ Đại Việt nam trước thời Pháp thuộc . Bản đồ trên chỉ ra : Toàn bộ Miền Trung và hạ Lào nằm trên cao nguyên AN NAM , tất cả nằm trong lãnh thổ Đại Việt nam , tên quản hạt hành chánh các vùng là Trấn Ninh , Trấn Tĩnh ,Trấn Định ; trong các từ này :Trấn là đơn vị hành chánh , Ninh- Tĩnh - Định lấy nghĩa từ Dịch học là không thay đổi quẻ Ly chỉ phương tây ngược với Đông là động ., Trấn Ninh trấn Tĩnh trấn Định đều có nghĩa là trấn hay vùng lãnh thổ phía tây . Cực nam của cao nguyên An nam là tỉnh Champassak của Lào ngày nay , bằng vào tên gọi có thể đoán định trước đây nơi này là vùng đất của người Cham , thuộc lãnh thổ nước Champa . Tóm lại khi chia lại lãnh thổ 3 nước Đông dương Thực dân pháp đã cắt 1 phần lãnh thổ rất lớn phía tây Việt nam chuyển sang lãnh thổ Lào , với người Pháp đây là chuyện ‘lấy của làng làm ơn cho ông Xã...’ vô thưởng vô phạt đâu cũng là thuộc địa của Pháp ...nhưng việc này lại là tội ác vô cùng lớn đối với người Việt vì khi xoá bỏ chế độ thực dân trên bán đảo Đông dương các nước trên thế giới đã lấy bản đồ phân chia địa giới dùng cho mục đích quản lý hành chánh nội bộ Của nhà cầm quyền mà thực dân Pháp tự ý tự quyền phân chia không hề dựa trên nền tảng lịch sử để áp đặt cương giới lãnh thổ thực sự được quốc tế công nhận cho 3 nước Việt - Miên -Lào độc lập . Đây là 1 bất công lớn lao người Việt phải gánh chịu khi bước vào thế giới văn minh hiện đại , lãnh thổ mất trắng tính ra ít nhất cũng trên 100.000 km2 , cũng may vì sự vận động khách quan của lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến 1 cộng đồng Đông nam Á , khi ấy lãnh thổ của các nước thành viên không còn là ‘của riêng ai’ , ai cũng là người Đông nam Á đất nào cũng là đất Đông nam Á cả nên người Việt kiên trì theo lời chỉ bảo của Dịch học ... “ bỏ cái nhỏ để được cái lớn ” , hành sử như thế không tạo can qua mà anh hồn tiền nhân những người đã lấy thịt xương chất thành cao nguyên An nam để lại cho con cháu cũng không phải tủi hổ . Giờ thì chẳng cần cổ thư Trung hoa , chỉ cần nhìn vào bản đồ cũng biết được quốc gia của người Việt trước đây là nước Lạc hay quốc gia Lạc . Nhiều nhà khoa học đã kiến giải : Lạc biến âm ngày nay là nước , lạc →nác →nước . , nước là yếu tố vật chất nền tảng tạo thành mọi sinh vật , nhưng với dịch học thì không dừng lại ở đấy mà nước chính là dịch tượng chỉ phương NAM , từ quốc hiệu “Lạc-Nước” 1 danh từ riêng về sau trong Việt ngữ Nước biến thành danh từ chung đồng nghĩa với từ bang , quốc trong Hoa ngữ . Nước Lạc đồng nghĩa với NAM BANG đã được nói đến trong những câu đối ở đền HÙNG là nhà nước của người Lạc Việt 1 chi của Bách Việt ; dòng tộc làm chủ miền đất phía nam sông Dương tử và Đông nam á từ thời thái cổ . - Bản đồ Đại nam trên chỉ ra : địa danh Lạc biên và Cam môn cạnh nhau đã xác định ranh giới nam Lạc và bắc Cam là Hoành sơn hay đèo Ngang , Cam môn nghĩa là cửa vào nước Cam xác định lãnh thổ nước Cam phía bắc bắt đầu từ chỗ này kéo dài về phía nam tới Cam ranh , Cam ranh chỉ nghĩa là ranh giới nước Cam ta có thể khẳng định nghĩa ấy vì cạnh Cam ranh là Phan rang , chữ rang là chữ viết sai đúng ra phải viết là Phan ranh cũng như chữ Cam ranh trước đây có tư liệu viết là Cam rang . Dựa trên thông tin chứa trong bản đồ tiền Pháp thuộc trên ta xác định : nước Việt nam ngày nay hình thành trên cái nền của 3 nước Lạc –Cam - Phan cũ và mất đi phần lãnh thổ rộng lớn ở phía tây bắc Việt . Một số điều mới biết : 1 / nước Lạc . - Nước Lạc ngoài phần lãnh thổ phía tây mới mất thời hậu thực dân trước đó cả 1 vùng rộng lớn ở phía bắc đã bị giặc Tàu cưỡng chiếm khi vua quan nhà Mạc ‘mãi quốc cầu vinh’, lãnh thổ phía bắc Đại Việt trước đây lên tới tận miền nam Quảng Tây và tây Quảng Đông ....xa hơn nữa thời Đại Việt - Đại Hưng ( người Tàu cố tình gây nhiễu đã biến đại Hưng ra Đại Hán )cả Quảng đông và Quảng tây đều là đất Việt với tên gọi Việt đông và Việt tây. Cổ sử nước Việt có 1 điều hoàn toàn mới và rất lớn : Tùy thư -Liệt truyện -Lâm Ấp Tổ tiên của Lâm Ấp, nhân có loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ cuối thời Hán, con của Công tào trong huyện là Khu Liên giết Huyện lệnh, tự hiệu làm Vương. Không có con, cháu ngoại của mình là Phạm Hùng nối tiếp lập, chết, con là Dật lập. Người Nhật Nam là Phạm Văn nhân loạn làm phó của Dật, rồi dạy xây cung điện, làm khí giới. Dật rất tín nhiệm, sai Văn cầm binh, rất được lòng dân chúng. Văn nhân đó tra hỏi con em của Dật, người thì chạy người thì trốn. Đến lúc Dật chết, nước không có người nối nghiệp, Văn tự lập làm Vương . Đọc đoạn sử trên ta không thể hiểu khác là khởi nghĩa Hai bà Trưng xảy ra vào cuối thời Đông Hán , đồng thời hay ngay trước thời điểm Khu liên giết huyện lệnh Tượng lâm và xưng vương . Khu Liên trong sử sách là tên gọi của quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, ngoài ra còn có các tên gọi khác như: Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa) năm 192 ...như thế Mã viện không thể hành quân dẹp “loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ” chiếm đất việt trong thời gian năm 39-42 như Việt sử và Hán sử đã chép . Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; Nhiều ‘thư’ khác của trung hoa cũng cho Nam việt là Bách Việt ....phải chăng 9 quận Hiếu vũ đế chia đất Nam Việt như sử hiện nay chính là 9 phần đất của cả khối Bách Việt , nếu cho đấy là 9 quận của Nam việt thì sẽ lộ ra sự vô lý ở chỗ ...đảo Hải nam bao lớn , thời đó có được bao nhiêu dân mà chứa cả 2 quận Chu nhai và Đạm nhĩ của Trung hoa ? , cách đây chục năm , Hải nam vẫn chỉ là 1 huyện đảo của tỉnh Quảng đông mà thôi . Người Tàu với mưu đồ thoán đoạt lịch sử và văn minh Bách Việt đã tạo ra 1 mớ bòng bong các thông tin lịch sử thật giả lẫn lộn quấn chặt chồng chéo lên nhau cơ hồ không thể gỡ ra được . Dựa trên những thông tin mang trong chính tên các quận ta có thể xác lập Bản đồ 9 quận Trung hoa trên đất Hoa nam thời Hiếu vũ đế (Tây Hán ). - Giao chỉ là đất Lạc Việt xưa nay . - Lâm Ấp cũng là Uất lâm nay còn dấu là thành phố Uất lâm tỉnh Quảng tây . . - Cửu Chân thực ra là Cửu châu chỉ đất phía tây đồng nghĩa với Qúy châu . - Nhật nam là Nhất nam , nhất số 1 là dịch tượng chỉ nước cũng là chỉ phương nam không phải Nhật nam nghĩa là phía nam xích đạo . - Thương ngô là đất chính của nhà Thương cũng là nước Ngô thời Chiến quốc . - Hợp phố chỉ là biến đổi của Hợp phì thủ phủ của tỉnh An huy . - Hải nam hay Nam hải xưa nay vẫn là đất Quảng đông . - Chu nhai là Phúc Kiến ngày nay , vì sách xưa chép Chu nhai là đảo lớn sau này Đường triều đặt bộ tư lệnh hạm đội biển nam của Trung quốc . (sử Trung hoa cho Chu nhai là Đảo Hải nam ?). - Đạm nhĩ là tên Quận sau cùng nên đặt vào đất chưa có tên . Chính cổ thư Trung hoa đã xác nhận sự ấn định trên khi chép : Phù nam cách Lâm ấp 3000 lý , cách Nhật nam 7000 lý tức khảng gần 1500 km và 3500 km . Người Hán đã cố ý ép 9 quận của cả vùng đất Bách Việt rộng lớn dồn vào thành 9 quận đất Nam Việt của Triệu Đà ; Cửu châu biến thành Cửu chân , Uất lâm hay Lâm uất thành Lâm ấp , Nhất nam thành Nhật nam , Hợp phì thành Hợp phố .v.v .Cố ý gây nhiễu loạn lịch sử để không người nào còn có thể nhận ra cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng chính là khởi nghĩa Hoàng cân đã diễn ra trên toàn cõi Hoa nam , điều này cũng nghĩa là không có thời bắc thuộc lần thứ nhất như sách sử đang lưu hành , chính cuộc hành binh do Mã Viện chỉ huy mới đặt nước Việt vào vòng nô lệ . Việc thay đổi 9 châu làm nhiễu loạn lịch sử không phải là lần đầu , trước đó những người muốn ‘bẻ cong bẻ quẹo’ lịch sử đã thủ tiêu đi quận Tam xuyên của nhà Tần , thủ pháp rất đơn giản ...thay tất cả tên Tam xuyên trong sách sử địa Trung hoa sau đời Tần bằng tên Tượng quận mặc cho Ung thành thủ phủ quận Tam xuyên vẫn còn đứng đấy (nay là thành phố Nam ninh.), Tượng quận thực ở vùng Vân nam bị ‘hô biến’ thành huyện Tượng lâm nghĩa là 1 huyện ở tây Quế lâm ... Tất cả mọi sự chồng chéo đổi thay ....là do hàng chữ không thể tẩy xoá : Tần lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên...trong Sử ký Tư mã Thiên mà thôi . 2 / nước Cam . Nước Cam viết theo Phạn ngữ là Campanagara là nhà nước của người Hời cổ sử Việt gọi là Hồ tôn , Hồ và Tôn là những Dịch tượng chỉ hướng Xích đạo ; Hồ là quẻ Đoài , Tôn là can Tân của Thập can , qua Cam môn 1 quãng suôi về nam là tới thành phố Đồng Hới ...rõ ràng đây là tên tiếng Việt nhưng bản thân người Việt cũng không hiểu địa danh ấy mang ý nghĩa gì ....thưa ...nếu phát âm theo đúng giọng Bình trị thiên là Động Hời thì ra nghĩa chính xác ngay, động là đơn vị hành chánh việt nam thời xưa , Hời ở đây là người Hời sách vở Trung hoa phiên âm thành Hu hay Ho . Vua Hồ tôn hay Hồ Tân gọi là Lang Tân hay Tân lang (lang là vương) , nếu viết bằng Hán văn thì Tân lang đồng âm với tân lang nghĩa là cây cau...;vì vậy nước Cam còn được biết đến dưới tên dân gian là Chàm cau ....sách vở Tàu ghi là Tân lang tộc . - Ghi nhận : Người Việt xưa đã gọi và ghi chép 1 cách chính xác tên nước CAM trên bản đồ không dùng tên theo Hoa ngữ là Chiêm thành hay Chiêm bà. Phiên thiết Hán văn cho ta : Chiêm bà thiết là CHÀ , Chà Biến âm thành Trà còn lưu dấu trong các địa danh như Trà bồng đặc biệt là kinh đô Trà kiệu của Chiêm thành , nhiều người vẫn lầm lẫn khi cho cụm từ : ‘Chà già ấn độ’ là chỉ người nước India thực ra cụm từ này chính xác là ‘Java-Indo’ tức chỉ đảo Java nước Indonesia ngày nay , rất có thể CHÀ là tên người Việt gọi chung những người thuộc loại hình nhân chủng Nam đảo hay indonesien . Từ Chà ngoài ‘Trà’ còn có các biến âm khác như : Đà trong địa danh Đà nẵng , (chữ Đà này hán văn phiên thiết là Đồ bà ). Rất có thể Chà còn biến âm thành Sa trong địa danh Sa Huỳnh và tên 2 quần đảo Trường Sa- Hoàng sa , Huỳnh là từ thay thế cho Hoàng do kỵ húy chúa Nguyễn Hoàng , Sa hoàng là chúa hay vương của người Chà nghĩa rất rõ . Tân Đường thư viết : người Lâm ấp ưa đạo ‘phù đồ’...suy mãi mới ra : -Phù đồ thiết là Phồ Hán Việt đọc là Phật . Phật gíao đã du nhập vào Trung hoa từ đầu công nguyên , chắc trong Hoa ngữ từ Phật phải có lâu lắm rồi vậy mà sao mãi tới đời Đường còn gọi là đạo Phù đồ ... Thực Trung hoa luôn kỳ bí , khi tìm ra sự độc đáo này người viết vẫn đang tự hỏi ...tại sao ? Liên quan tới lâm ấp -Chiêm thành còn nhiều điều chưa hiểu nổi như chép trong: Chư phiên chí -Bắc Tống - Nước Chiêm Thành - Triệu Nhữ Thích chép : Chiêm Thành , phía đông đi biển đến Quảng Châu, phía tây tiếp Vân Nam , phía nam đến Chân Lạp, phía bắc đến Giao Chỉ, thông Ung Châu . Từ Tuyền Châu đến nước này theo chiều gió đi thuyền hơn hai mươi trình. Đất này đông tây 700 dặm, nam bắc 3,000 dặm. Kinh đô nước này gọi là Tân Châu, tức là tên huyện trấn.. Cứ theo sách này thì Chiêm thành có lẽ gồm cả đất Xiêm la ...? hay 2 tên là 1... Xiêm nào cũng là Xiêm ...? - Về quốc hiệu Lâm ấp trong sách vở trung hoa xin đưa ra 2 giả thuyết : - Thứ 1- Lâm ấp là chữ viết sai của LAM ÁP. Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu cho biết : vùng đất từ cửa Thần phù tới Hoành sơn tức đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh có tên là Lâm An , Lâm là chữ ký âm sai của Lam viết tắt của Thanh lam tên gọi đất Thanh hóa trước đây , An là gọi tắt của Nghệ an , Lam áp nghĩa là phần đất sát với đất Lam tên gọi tắt của vùng Thanh nghệ tĩnh , đối chiếu với bản đồ trên ta nhận ra Lam áp chính là lãnh thổ nước Cam của người Hời . - Thứ 2 - Lâm ấp thực ra là Ấp lâm . Ấp lâm thiết là ÂM đọc thành Ân –Yên chính là nước Yên thời chiến quốc . Biến cố lịch sử ở Lâm uất hay Uất lâm đem trộn lẫn với những sự kiện xảy ra ở Lâm ấp tức nước Yên thành mớ bòng bong ....nên cột đồng Mã Viện có ‘thư’ viết là ở nam Quảng Tây ‘thư’ khác lại cho là ở biên giới Giao chỉ và Cham pa ...2 nơi cách nhau bằng cả chiều dài Lạc Việt ... Xin chép lại 1 phần trong bài viết về Hùng triều thứ 15 –Hùng Định Chân lang . Sử ký của Tư Mã Thiên, truyện Tần Thủy Hoàng có đoạn nói rằng: “Thủy Hoàng… chiếm lấy đất Lục Lương, đặt làm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải”. Dưới chữ Tượng Quận có chua sáu chữ nhỏ là: “Vi Chiêu viết, kim Nhật Nam”, nghĩa là Vi Chiêu cắt nghĩa Tượng Quận đời Tần tức là Nhật Nam đời Vi Chiêu. (Sử ký; Tần Thủy Hoàng bản kỷ, q.6, tờ 3a). Như thế Tượng quận tức đất Nhật nam là miền trung Việt ngày nay cũng chính là lãnh thổ nước Cam . Nhưng : Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; dưới chữ Tượng Quận chua “đất ấy rộng xa, nay phủ Liêm, phủ Lôi, tỉnh Quảng Đông, phủ Khánh Viễn, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây và cả nước An Nam” (Ngự phê thông giám tập lãm, q.11, tờ 6b) Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây. Vậy là Tượng quận không dính gì đến Nhật nam mà ở xa về phía bắc tuốt Quảng đông Quảng tây . Kỳ quái nhất là : Cựu Đường Thư, một đàng tin Tượng Quận là Nhật Nam đời Hán, mà di tích hãy còn gần Nhật Nam tức lãnh thổ nước Cam , còn một đàng lại cho cho An Nam đô hộ phủ đời Đường thuộc về Tượng Quận như thế lại là đất Lạc Việt ...? - Thực càng đọc ...càng rối cứ như là các triều đại Trung quốc là các nước khác nhau không liên thông tiếp nối chi cả mỗi nước có sách sử riêng mà đôi khi thông tin mang trong các ‘thư’ chửi bố nhau và hoàn toàn phi lý như việc nhà Tần đánh Nam Việt năm -214 lúc đấy lấy Nam Việt ở đâu ra mà đánh ....vì mãi tới năm -207 Triệt đà mới xưng vương và đặt tên nước là Nam Việt ... ; cả 1 Tượng quận của Tần to lớn đến thế mà mãi tới tận hôm nay các sử gia Trung quốc vẫn đang đi tìm ....chưa rõ ‘nó’ nằm ở đâu thì thật là bất thường , địa lý Trung quốc mà còn thế huống hồ gì các nước ngoại biên thí dụ như Chiêm thành – Nhật nam dẫn ở trên . Sử Việt có sách cho Lâm ấp là vùng Bình Trị Thiên như thế nước Lâm ấp cắt đôi đế quốc Tàu chia tách hẳn 2 quận Cửu chân và Nhật nam .... liệu người Tàu có để cho sự việc xảy ra hay không ? hơn nữa làm sao mà miền cực nam quận Nhật nam lại ở đấy ? phải là cực bắc chứ ? Có sách lại cho Lâm ấp –Tượng lâm là vùng Bình định Phú yên của Việt nam hiện nay , điều này không có sách vở nào ghi cả ... 3 /- nước Phan . Phía nam nước Cam là nước Phan ...quốc danh chưa từng ghi nhận trong lịch sử nhưng lại được xác nhận rõ ràng trên bản đồ Việt nam bằng địa danh Phan rang tức Phan ranh tức ranh giới nước Phan .. Dùng phép Phiên thiết của người Hán thì nhận ra : Phù nam thiết đọc thành Pham . Pham biến thành Phan và Phạm ... Phan là tên nước , Phạm là họ của vua nước Phan . Có người kiến giải : Pham là phiên âm một từ gốc Khmer và Nam Đảo là PHUN, PHỎM, chỉ người đứng đầu- thủ lĩnh- vua , điều này tương tự như từ Hãn biến thành Hán ; Hãn quốc biến thành nước Hán người Hán vậy , từ Phạm nghĩa là vua rất hữu lý khi rất nhiều vua Lâm ấp-Chiêm thành và Phù nam mang danh hiệu có chữ đầu là Phạm ...; như vậy : Phạm phật nghĩa là vua tên Phật , phạm Hùng là vua tên Hùng ...v.v.. Về Sự liên hệ giữa Phù nam và Chân lạp thì nhiều sách hiện nay cho đó là 2 nước nhưng nếu phân tích dựa trên truyền thuyết bà chúa Phù nam là Liễu diệp sau khi chiến bại phải lấy Hỗn Điền và nhường ngôi cho chồng làm vua từ đó tên nước Phù nam đổi thành Chân lạp . Theo Sử Phù nam thế kỷ thứ IV có vì vua gọi là Thiên trúc Chiên đàn . Nếu dùng phép phiên thiết Hán văn thì : Chiên đàn thiết là chàn có thể đọc là chân Liễu diệp thiết là liệp - lạp . qua phiên thiết Hán văn thì cặp đôi : Chiên đàn – Liễu diệp trở thành tên nước Chân lạp . Xét như vậy thì Chân Lạp chỉ là tên khác của Phù nam trong thời kỳ ‘bị’ 1 ông vua người India cai trị mà thôi chứ không phải là 2 nước khác nhau . Ngoài 3 nước đã bàn trên , xếp vào phía nam Giao chỉ cổ thư Trung hoa còn 1 nước nữa xưa nay chưa nghe nói đến . Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc công và phương vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô đã sai người đến các nước phương Nam, Vua các nước Phù Nam , Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống. Minh đường là nước nào ? Minh đường thiết là...Mường . Tên gọi nước Mường chỉ rõ là 1 nước của giống Việt ...vậy mà xưa nay người Việt không hề biết . Phải chăng đó là nước của Đoài lang vương mà Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu viết sai thành Đào lang vương ? , phương Đoài là phương tây nước Đoài lang nghĩa là quốc gia của vua phía Tây ( lấy đất Đất giao hay đất ‘giữa’làm chuẩn ), Hoặc Cổ sử Trung hoa có nói đến 1 nước ở phía tây tên là Đốn Tốn lãnh thổ trải dài từ biên giới Thiên trúc tới Giao chỉ ? - Còn Theo sử thuyết họ Hùng thì phía tây Giao chỉ đất của thiên tử là nước Lỗ phong Chu công ? Rất có thể chỉ là những tên khác nhau của 1 nước đã được ghi chép bởi những dòng sử khác biệt . - Để có thể làm sáng tỏ những gì đã xảy ra trong quá khứ tức Lịch sử ở vùng đất đông nam Á cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian . Việc có thể làm ngay để tỏ lòng tôn kính tiền nhân là trong các văn bản sử địa người Việt từ nay chỉ dùng tên Việt ngữ đúng như cha ông ta đã làm không dùng những tên phiên thiết Hán văn nữa .
-
Bách Việt ...sử vài dòng . Kinh Thư , thiên Nghiêu điển chép : ....Bèn sai ông Hy Hoà Kính theo trời cao , làm lịch làm tượng về mặt trời ,mặt trăng và các vì sao , cẩn thận truyền cho dân về mùa . Vua sai ông Hy Trọng đến đóng ở Ngung di, gọi là Dương cốc ,cẩn thận xem từ lúc mặt trời mọc , định các việc làm về mùa xuân .Xem nhật trung tinh Điểu để định tháng trọng xuân..... ....lại sai ông Hy Thúc đến đóng ở Nam Giao ( theo ông Tăng tinh Lạp phải thêm vào 3 chữ :viết Minh đô ), định các việc làm mùa hạ , kính cẩn ghi ngày Hạ chí , ngày dài , sao Hỏa khi chập tối thấy ở đỉnh đầu , lấy đó để chính thức định trọng hạ . ....sai ông Hoà Trọng đến đóng ở miền tây gọi là Muội cốc , cẩn thận xem từ lúc mặt trời lặn định các việc làm mùa thu ,. xem tiêu trung tinh Hư để định tháng trọng thu . ....Lại sai ông Hoà Thúc đến đóng ở Sóc phương , gọi là U đô , xét các việc thay đổi mùa đông xem nhật đoản tinh Mão để chính thức định tháng trọng đông . Ta thấy kinh Thư đã chỉ ra mốc giới ở 4 phương thời khởi thủy của Trung hoa là : - Miền Ngung di – Dương cốc-mùa xuân , xem lúc mặt trời mọc tức buổi sáng ở phương Đông . - Miền Nam giao –Minh đô – mùa Hạ . - Miền tây là Muội cốc phía mặt trời lặn – mùa Thu . - Miền Sóc phương –U đô – mùa Đông . Về Phía đông của thời Khởi thủy Trung hoa người ta dễ dàng nhận ra là vùng Quảng Đông Trung quốc hiện nay với các dấu tích ngôn ngữ : - Ngung di bảo lưu trong tên gọi thành Phiên Ngung là Quảng châu ngày nay . - Dương cốc còn dấu vết ở Dương thành cũng ở Quảng châu ngày nay , Dương thành này chính là kinh đô thứ 3 của nhà Hạ . Ở miền Nam giao ông Tăng tinh Lạp thêm vào bản gốc thiếu 3 chữ ....’ viết Minh đô ’ là hoàn toàn chính xác . Tại đền thờ quốc tổ Hùng vương ở Phú thọ có câu đối : Vế phải: “Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ”. Vế trái: “Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn”. Dịch nghĩa: “Sách trời đã định chính thống dựng kinh đô non sông Bách Việt đã có tổ. Núi sáng linh thiêng cố cung lập thành miếu, ba sông một dải hướng về nguồn”. (Dịch và hiệu đính: Nguyễn Hữu Mùi, Đỗ Thị Hảo - Viện nghiên cứu hán nôm). Như vậy đã đủ bằng cứ để khẳng định : - đất phía bắc Việt nam ngày nay là 1 phần của cái nôi đã thai nghén Trung hoa từ thời Nghiêu – Thuấn và Bách Việt cũng chính là Trung Hoa cổ xưa . - điều khẳng định quan trọng thứ 2 là : vua Hùng không chỉ là quốc tổ của riêng chi Lạc Việt mà là tổ tiên chung của cả khối Bách Việt tức Trung Hoa như quen gọi . Đã xác định được 2 mốc giới Dương cốc và Minh đô , 2 mốc giới còn lại là Muội cốc và U đô chắc chắn cũng chỉ nằm trong phần đất liền kề với Bắc Việt nam và Quảng đông ; có phần chắc là chúng nằm loanh quanh ở vùng Quảng tây và Vân Nam ngày nay vì cái nền khoa học kĩ thuật lúc đó không cho phép có 1 lãnh thổ quốc gia rộng lớn hơn . Thêm 1 bằng cứ nữa về lãnh thổ Trung hoa thuở ban đầu , Cổ sử Trung hoa viết : Năm 2188 TCN, vua Khải (vua lập nên nhà Hạ) mất, con là Thái Khang lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi. Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều quân từ nước Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó ông mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang. Nghe tin kinh thành thất thủ, Thái Khang vội mang quân trở về, nhưng đến bờ sông đã thấy quân Hữu Cùng đông đảo chặn đánh. Thái Khang biết không địch nổi quân Hậu Nghệ bèn bỏ chạy sang nước chư hầu. Ngoài thông tin nơi Thái Khang đi săn là đất LẠC ( sông Lạc ?) còn có những thông tin khác ; Trong kho tàng văn học cổ Trung hoa có tích Hậu Nghệ - Hằng nga .... Nguyên ở gò Đất cuối biển Đông có hang Dương. Nơi đây 10 con quạ vàng vâng lệnh Thượng Đế thay nhau ban ánh sáng cho vạn vật. Trên hang có cây Phù tang cao vút tận trời. Chín con quạ ở cành dưới, một con quạ ở cành trên. Từ ngàn xưa chỉ có một con ra khỏi biển hóa thành mặt trời, ngày ngày tháng tháng chiếu ánh sáng xuống mặt đất làm cho mưa hòa, gió thuận, vạn vật sinh hóa. Nhưng bất ngờ, một hôm bốn biển chuyển động, đất lở núi rung, cây Phù tang quay cuồng, vì 10 con quạ vàng tranh nhau xuất hiện một lượt. Thế là nắng như lửa thiêu, đốt cháy cả vạn vật. Ban đầu, người ta còn ngâm mình dưới nước, núp trong hang núi ... nhưng rồi, đầm nước, dòng suối đều hóa thành những vạc nước sôi. Đất bằng bỗng chốc lửa dậy làm cho nhân dân điêu đứng, đời người biến thành địa ngục. Trông thấy 10 con quạ vàng hoành hành dữ tợn làm cho nhà cửa tiêu tan, đồng ruộng khô cháy, Nghệ vừa hoảng kinh vừa tức giận, đem lòng thương xót sinh linh, và nghĩ đến mối liên hệ với thân mạng mình nên mang 10 mũi tên thần, giương cung 10 tạ lên quyết bắn 10 con quạ vàng cho tiêu ra tro bụi. Nhưng ánh sáng rạng chói làm cho mắt đổ hào quang, không thể nhìn lên được. Nghệ bực tức, đứng tựa góc biển chân trời không do dự bắn luôn mấy phát. Những nơi có tên của Nghệ bắn tới thì nóng cháy nguội dần, ánh sáng êm dịu. Những lông cánh sắc màu của lũ quạ đua nhau rớt xuống. Một làn không khí mát mẻ bắt đầu. Trông thấy chín con quạ chết, Nghệ lại muốn giương cung bắn nữa, nhưng Phùng Mông ngăn lại: - Thưa thầy! Nếu thầy bắn chết cả thì vũ trụ sẽ trở nên đen tối mất. Nghệ "à" một tiếng, hạ cung xuống. Bấy giờ núi sông trở lại như xưa, cây cỏ tươi tốt. Đâu đâu cũng vang dậy tiếng hò reo hoan lạc. Nhân dân ca tụng công ơn vĩ đại của Hậu Nghệ, tôn thờ Nghệ là một vị cứu tinh, trọng quý Nghệ hơn mẹ cha. Sơn hào hải vị, họ đem dâng cho Nghệ dùng. Hậu Nghệ lên làm Hoàng đế. Hang Dương nơi Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời cứu dân ở đâu ? Theo "Sơn hải kinh", trên hang Dương phía bắc nước Răng Đen có cây Phù tang to lớn sống ở dưới nước, 9 mặt trời ở cành dưới; 1 mặt trời ở cành trên. Theo sách của Hoài Nam Tử, đời vua Nghiêu, 10 mặt trời cùng mọc một lần làm cây cỏ khô héo, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời. Những chi tiết ...đất Lạc , nước răng đen , gò đất cuối biển đông ( theo kinh Thư ...phía đông của 9 châu đất nhà Hạ là Biển ) đủ để xác định lãnh thổ nhà Hạ Trung hoa phần chính là đất Việt nam ngày nay . Tới đây có thể khẳng định đất Việt Nam và vùng lân cận là cái nôi đã thai nghén người họ HÙNG hay Bách Việt cũng chính là Trung hoa theo cách gọi sai lầm hiện nay , Sự khẳng định này được kiện chứng bởi những kết qủa nghiên cứu mới nhất về gen di truyền người Bách Việt : Từ đất Bắc Đông dương nối đến Quảng đông Trung quốc là vùng hình thành và khởi phát dòng người mang gen Bách Việt sau đó đã phát tán ra 4 phương 8 hướng lên đến tận miền Hoa bắc và trở thành 1 trong những nguồn gen tạo nên người Hoa bắc , thậm chí dòng di truyền nhiễm sắc thể Y này còn len lỏi cả vào đặc điểm nhân thể người Ngũ Hồ ( chính xác phải gọi là Ngũ Man ).... Những bằng chứng trên là sự bổ chứng quan trọng cho những luận điểm trong sử thuyết họ HÙNG ; thực vậy theo chính sử Trung quốc thì Trung hoa lập quốc ở phía bắc Hoàng hà tới thời Thương thì vượt Hoàng hà , thời Chu vượt Trường giang xuống khai hóa phương nam ...liên tiếp sau đó từ trung cổ , trung đại tới cận đại dòng gen Hán tộc theo chân những tộc người chủng Mongoloid chỉ chảy 1 chiều luôn luôn từ bắc xuống nam ....như vậy cái khoảng 10% đặc điểm gen Bách Việt ( công bố của tiến sĩ Lý Huy tỷ lệ đột biến M119Hà Nam 11%, Sơn Đông 9%, Tứ Xuyên 7% ), trong cư dân nam Hoàng hà ngày nay ở đâu ra ? chưa kể sự đóng góp của người Hmông –Giao vào đặc điểm nhân thể và ngôn ngữ cũng như văn hóa nói chung ở vùng bắc Trung hoa vì tiến sĩ Lý Huy đã tùy tiện vô cớ loại người Hmông –Giao và những tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á ra khỏi dòng Bách Việt trái hẳn với cổ thư trung hoa và những chứng cớ khác của dân tộc và ngôn ngữ học ; phải chăng là vì di truyền học ngày nay đã tìm ra sự vô cùng gần gũi giữa gen di truyền của người Hoa bắc và người Hmông- Dao ? ; di truyền gen Y (Y-haplogroup O) tiêu biểu cho người H'mông-Miên (O3a3, O3a4) rất giống với O3a5 của những người sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng . Trước đây hệ ngôn ngữ Hmong –giao được xếp loại như một bộ phận của ngữ hệ Hán-Tạng, và hiện vẫn tồn tại trong một số bảng phân loại của Trung Quốc, nhưng các nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thống nhất xếp chúng thành một ngữ hệ riêng , gần đây nhiều nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Hmông – Giao là 1 nhánh của ‘đại’ ngữ hệ Nam Thái , ngữ hệ này cùng với ngữ hệ Nam á bao trùm hết miền Bách Việt xưa ở nam Trung hoa và trọn Đông nam Á ngày nay . Sử thuyết họ HÙNG cho là người Hmông-Dao cổ sử gọi là Man-Kinh là tộc người đã theo vua Bàn Canh vượt Trường giang lên phía bắc ngày nay lập nên nhà Ân Thương tức triều đại Thương thứ 2 ( ơn đồng nghĩa với nhị là số 2 trong số đếm của người Trung hoa ) qua bao biến cố lịch sử chà đi xát lại dành giật giữa 2 nhánh tộc người Mongoloid và Mongoloid phương nam người Hmông đã cộng cư và hòa huyết , giao lưu gen cũng như giao lưu hoà trộn văn hóa với rợ Ngũ Hồ ( Ngũ Man ) kết qủa tạo nên bộ mặt Hoa bắc ngày nay cả về nhân thể lẫn văn hóa văn minh . Cố giáo sư Kim Định dựa trên bộ sưu tập về gốm cổ Trung hoa đã khẳng định ....: mái nhà vùng bắc Hoàng hà chỉ bắt đầu cong lên từ thời nhà Đường , nhà Đường theo sử thuyết họ HÙNG chính xác phải gọi là là nước Việt Thường , con người và văn hóa chủ đạo là văn hóa DƯƠNG VIỆT tức nước NGÔ xưa , tương tự : nhà TÙY là nước VIỆT TỦY một triều đại của người nước SỞ xưa ; tùy –tủy - sủy - sở nghĩa là nước chỉ là trò chơi chữ nghĩa ....chữ tác đánh chữ tộ mà thôi , 3 triều đại Bắc chu của vua Vũ văn Giác và Tùy - Đường là những triều đại người Bách Việt làm chủ Trung hoa đã tạo dòng chảy ngược của gen Bách Việt tới tận vùng đông ALTAI , triều Đường là triều duy nhất của Trung hoa làm chủ miền Đông bắc Trung hoa tới tận Triều tiên ngày nay . Phát hiện của cố giáo sư Kim Định là điều vô cùng quan trọng nó đã xác định vùng Sơn tây-Hà bắc đất gốc của Đông Hán ....không phải là Trung hoa đúng như sử thuyết họ HÙNG đã nói . Đọc lại vài dòng trong lộ sử của La Bí đời Tống nói về kinh đô Lạc dương xưa : “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch ?), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ” Từ cái nền ....” đầy dãy Man-Địch” đến thời Nguyên Mông thống trị thì thành phần cư dân Trung hoa bắc –nam đã khác biệt rõ nét đến độ Mông nguyên đã phân hẳn thành 2 loại người HÁN và NAM , vài trăm năm sau...đến ngày nay thì chỉ còn sấp xỉ 10% người mang gen Bách Việt ...thực là sự thụt giảm thê thảm . ....suy gẫm cho kỹ ta mới thấm hết ý câu “nước mất nhà tan” , gia đình là sự kết hợp giữa chồng với vợ ...nhà tan là cả cánh đàn ông tiêu vong ....ngoài những anh hùng hy sinh nơi chiến trường phần còn lại phải lao nhọc khổ sai chịu mọi sự hành hạ chết dần chết mòn , đau khổ nhất là bị cách ly với gia đình với vợ ....như thế dân tộc coi như không còn sự truyền giống . Đế quốc Mãn Thanh được giới sử học cả thế giới coi là nhà cai trị hết sức khoan hoà với người Trung hoa bị trị ....( chỉ bắt người trung hoa cải tạo cách ăn cách mặc ...cạo đầu thắt bím cho giống người Mãn văn minh thôi ? ) vậy mà : Người Hmông có câu ...’chỉ sợ rừng không đủ sâu , núi không đủ cao....’ rừng thiêng nước độc ...hầu như nắm chắc nửa phần chết nhưng còn cơ may bảo toàn nòi giống vẫn hơn là chịu sự hành hạ để rồi phải tuyệt nòi, bồng bế nhau lên ở non là vì thế ...còn lại biết bao người Hoa phải tha phương cầu thực ; thực ra ....tha phương thì có còn cầu thực thì không vì thời cận kim những người thoát chạy khỏi một Trung hoa đau thương ngoài tâm lực trí lực còn buộc phải có tài lực ....không có phương tiện vật chất thì không thể vượt ngàn dặm trùng khơi được , những người ra đi đều thuộc tầng lớp trên của xã hội ...họ đâu có nghèo đến nỗi phải ...”cầu thực “, dưới móng ngựa bắc phương người Trung hoa nếu không vào rừng không vượt biên phải ở lại sống chung với quân cướp nước thì chống chọi 1 cách tiêu cực nhưng không kém phần quyết liệt trước làn sóng đồng hóa của lũ ác ôn....dứt khoát không gả con gái cho người nước ngoài điều này dần dà trở thành đặc trưng văn hoá của người Hoa , đặc biệt là người Hoa nam ... Những định luật toán học thì luôn đúng nhưng khi vận dụng những định luật đó để giải 1 bài toán cụ thể thì kết qủa có thể đúng có thể sai tương tự như thế những số liệu về phân tích di truyền học thì không sai nhưng khi vận dụng những kết qủa đó vào lĩnh vực lịch sử thì chưa chắc trúng nó tùy thuộc rất nhiều vào tính khách quan và sự trung thực của người thực hiện . Tiến sĩ Lý Huy trong bài nghiên cứu về gen người Bách việt (xin đọc bài đăng lại nguyên văn trong phần tham khảo của trang web này) đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi loại người Kinh –Mường, người bách bộc và đặc biệt là người Hmong-Dao ra khỏi cộng đồng Bách Việt dù ngay trong hình vẽ ( hình dưới) nơi phát sinh tập đoàn Bách Việt của ông ...kẻ dốt địa lý nhất cũng nhận ra phía tây là nơi cư trú của tiền nhân dân tộc Kinh và Mường....ông tiến sĩ họ Lý .... đã cố tình cắt bỏ 1 nửa người Bách Việt để có thể ép cho vừa vào khung lý thuyết ‘nhất sinh ....nhị phân ...’ do ông đẻ ra . Phần đậm ở giữa là nơi phát sinh khối Bách Việt ( ghi chú của người viết) khớp đúng với bản đồ hình thành và thiên di của những tộc người dựa trên cơ sở di truyền Khi cho Quảng đông là nơi phát sinh dòng Bách Việt sau đó mới toả ra những nơi khác ...là tác gỉa đã phạm sai lầm rất ấu trĩ ....lấy biên giới ngày nay làm ranh giới cho lịch sử ngàn vạn năm trước ....sở dĩ vậy là vì nhà ‘khoa học’ còn nặng óc ‘đại Hán’ đã không nuốt nổi sự thực ...tiền nhân người Việt cũng chính là tổ tiên người Bách Việt –Hoa nam nói chung và càng ngày người ta càng nhận rõ hơn chính người Bách Việt Hoa nam mới là chủ thể sáng tạo ra nền văn minh Trung hoa vì văn hóa văn minh Trung hoa mang trong lòng nó đầy dãy các nhân tố của 1 phương nam nóng và ẩm , sông và nước điều này khiến ta hiểu tại sao người Hoa phương nam vẫn nhận mình là ‘Thoòng dành’ tức Đường nhân hay Việt Thường nhân , Hán quốc –Hán tộc là của đám sử gia và vua quan nhà Hán-nước Hán còn ‘Thoòng Dành ’ là sự tự xưng của nhân dân ....mà nhân dân thì không bao giờ sai ... Mọi người phải cảnh giác , cẩn thận xem xét những gì mà các nhà khoa học và Sử học Trung quốc công bố kẻo ...đã lầm lại chồng thêm sai .