VinhL
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
473 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by VinhL
-
Chào bạn khampha, Theo VinhL nghỉ thì số 0 chính là Thái Cực, sau đó có số 1. 0 và 1 thành lưỡng nghi vậy. Số 0 bao cả âm và dương vậy vì –0 = 0, +0 = 0. 0/1 = 0, mà 1/0 thì infinite là tất cả tức nó không có gì cả, mà củng có tất cả. Như thế mới gọi là Thái Cực trong Dịch nhỉ:-))) Đã là Thái Cực thì bao gồm tất cả, nên không thể định tính ngủ hành cho nó được!!! Sau đó thì ta có Thiên 1 sinh Thủy, Địa 6 thành chi. Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 thành chi Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 thành chi Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 thành chi Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 thành chi Và vậy là ta có Hà Đồ, 1-6 Thủy, 2-7 Hỏa, 3-8 Mộc, 4-9 Kim, 5-10 Thổ. Thân Mến
-
Chào bạn Fujisu, Cảm nghỉ của VinhL thì khác, tất cả các học thuật đều phải được sửa đổi và bổ sung thì mới có thể đạt tới một cấp bậc cao hơn. Không vật gì, học thuật gì mà tự sinh đã hoàn mỷ cả, tất cả điều phải biến, sửa, thay đổi, mới được phát triển nâng cấp, và đó cũng là đạo lý của cái gọi là Dịch:-) Nếu chỉ vì cái “đừng tưởng ....” mà không tìm tòi, thí nghiệm, thực hành để bổ sung cho một học thuật nào đó, thì học thuật đó sẻ từ từ mà suy thối, cho dù là Tử Bình, hay Tử Vi đều không ngoại lệ. Cho nên vấn đề theo tiết khí để an Mạng, cũng là một vấn đề nên được nghiên cứu. Hình như chưa thấy ai nghiên cứu sâu vào vấn đề này. Thật ra theo lịch pháp thì tháng âm lịch không chỉ phụ thuộc vào mặt trăng mà cũng phụ thuộc vào tiết khí để tính nhuận. Âm lịch không phải là lịch mặt trăng thuần túy, mà là căn cứ vào mặt trăng và mặt trời. Nếu chỉ căn cứ vào mặt trăng thì chắc chắn sẻ mất đi sự phù hợp với thời tiết. Nếu chỉ căn cứ theo mặt trời, thì sẻ mất đi cái phù hợp với trăng rầm 15, 16 mỗi tháng. Trong Lý Học Đông Phương, mặt trời và mặt trăng là 2 yếu tố Âm Dương quan trọng nên không thể thiếu trong lịch pháp. Đó chính là cái chổ huyền diệu của Âm Lịch, biết rằng để có được 2 yêu tố Âm Dương (mặt trăng và mặt trời) mà phải đành chịu cái gọi là không mấy gọn gàng của cách lấy nhuận. Lấy cái không được gọn gàn để mà có thể có hai yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất trên trái đất thì việc hoàn toàn hợp lý và nên làm. Tử Vi lấy tháng và giờ để tính cung an Mạng, lấy can chi của tháng cung Mạng để mà lập cục, tháng âm lịch thì phụ thuộc vào cả 2 yếu tố mặt trăng và mặt trời, cho nên nói Tử Vi chỉ căn cứ sự tuần hoàn của mặt trăng không thì không chính xác vậy. Tử Bình lấy Ngũ Hành của Can Chi làm gốc, Tử Vi lấy tinh tú thiên thể làm gốc, mỗi môn có ưu điểm và nhược điểm, nhưng lại không tương phản nhau nên hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau. Nếu được kết hợp bổ sung cho nhau thì độ chính xác của việc suy đoán số mạng sẻ cao hơn. Thân mến
-
Chào bạn Fujisu, Xin cho hỏi quyển “Nguyên Không Pháp Giám” mà bạn nói có bản tiếng Việt không? Nếu không có bản tiếng việt xin cho biết tựa tiếng Hán là gì. Thành thật cám ơn
-
Nguồn: http://dantri.com.vn/Sukien/phongsu/Diem-mat-cac-thay-lang-chua-benh-quai-go/2008/6/236234.vip Thứ Ba, 10/06/2008 - 11:20 AM "Cậu Phú" đang dẫm đạp lên người bệnh nhân để... chữa bệnh.</SPAN> Một điểm chung đặc biệt của các “thần y tự phong” là phản khoa học và bất chấp tính mạng người bệnh để kiếm tiền. Các “thầy” chữa bệnh bằng những phương “thuốc” kỳ quái, độc chiêu mà có tìm đỏ mắt cũng không thấy trong y văn thế giới... >> Chữa bách bệnh bằng… hoa hồng và rượu trắng? >> Tiêm dung dịch thuốc Nam tự chế: Một kiểu chữa bệnh rùng mình! </SPAN> Thầy lang “băng dính điện” Thầy lang rởm có cách ăn mặc và nói chuyện như diễn viên hài này mới “nổi” vài năm nay nhưng không kém các bậc “tiền bối” về trình độ lừa đảo và “chém” tiền của bệnh nhân. Tên đầy đủ của ông là Chử Văn Lượng, thường gọi là ông lang Lượng, ở thôn Chử Xá, xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Hỏi sao người Hưng Yên cũng biết ông tường tận, ông cười ha hả: “Đấy, chữa bệnh bằng cái tâm, cái tài nó khác. Tiếng lành đồn xa mà”. Đúng là cái “tài” chữa bệnh của ông có một không hai. Chỉ với một dúm lá đã được giã nát trộn với một thìa nhỏ thứ bột không rõ nguồn gốc, ông lang Lượng đã có trong tay bài thuốc gia truyền chữa bách bệnh. Ông đắp “thuốc” vào chỗ người bệnh kêu đau và dán chằng chịt bên ngoài bằng... băng dính cách điện. Ông lang Lượng đã hành nghề như thế nhiều năm nay dù “chuyên môn chính” của ông từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ là... làm ruộng. Ông bảo ông chữa khỏi toàn những ca bệnh viện trả về. Theo ông thì các loại thuốc Tây, dao mổ, máy siêu âm nên cho vào... bảo tàng hết. Ông luôn mồm quảng cáo là mình chỉ làm phúc, còn người bệnh thì tùy tâm, nhưng theo quan sát của chúng tôi, mỗi người bệnh sau khi đến khám đều “tùy tâm” từ 50.000 - 100.000 đồng; trung bình mỗi ngày, ông điều trị cho từ 30 - 50 người. Dẫm đạp lên người bệnh nhân để... chữa bệnh Phạm Thị Phú, SN 1972, trú tại phường Mỏ Chè, thị xã Sông Công, Thái Nguyên chỉ bằng nước lã mà điều trị… bách bệnh. Dù bệnh nhân trẻ hay già, gầy hay béo, trẻ con hay người lớn, “cậu” (Phú tự xưng là cậu) đều có chung một bài: dội nước lã lên lưng, bụng, đầu mặt; sau đó đứng lên lưng bệnh nhân, lấy chân day bụng, day mặt cho người bệnh. “Cậu” bảo chỉ cần điều trị như thế là bệnh gì cũng khỏi, từ ung thư, nhiễm HIV/AIDS đến người nằm liệt giường liệt chiếu. Hàng trăm bệnh nhân đổ về nhà “cậu”, chầu chực xếp hàng từ nửa đêm gà gáy để được “cậu” dẫm đạp lên người. Đã có trường hợp bệnh nhân ngất ở nhà “cậu Phú”, phải đi cấp cứu tại bệnh viện. Căn phòng “cậu” dùng chữa bệnh bày biện la liệt những đồ vật không thể gọi tên, theo “cậu” đó là những thứ dùng để hỗ trợ phép thuật cho quá trình chữa bệnh theo kiểu: Đông y + cúng vái. Căn phòng la liệt bệnh nhân hồi trước là nơi “cậu” bán nước mắm. Ngoài ra, “cậu” còn cho bệnh nhân uống một thứ nước không mùi không vị, đã được… làm phép, có khả năng chữa khỏi bách bệnh (!). Chữa bệnh bằng nọc ong - đau đâu châm đấy Nọc ong dùng để chữa bệnh là một trong những thông tin đã được kiểm chứng và ghi nhận trong y văn thế giới. Nhưng dùng nọc ong để chữa những bệnh gì, liều lượng nọc sử dụng là bao nhiêu và phương pháp chữa như thế nào lại là cả một quá trình đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình thực hiện và đặc biệt là tay nghề của người thầy thuốc. Nếu không, nguy cơ tử vong cho người bệnh sẽ rất dễ xảy ra vì nọc ong rất độc. Vậy mà lương y Đặng Minh ở phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội lại tự quảng cáo rằng mình dùng nọc ong chữa được tới... 30 loại bệnh, trong đó có cả ung thư, nhiễm HIV, phòng virut H5N1. Ông bảo sau khi ông triển khai rộng rãi phương pháp chữa bệnh này, các bệnh viện sẽ vắng như chùa Bà Đanh. Sau một hồi quảng cáo, ông ra chiếc bàn đặt ở ngoài sân, mang vào một cái túi lưới trong có khá nhiều ong đang bò lổm ngổm. “Nào, chích thôi, sáng cô kêu mất ngủ đau đầu, tối nay chỉ chích 2 con thôi, cô sẽ về ngủ cho đến sáng”. Ông mở túi, dùng cái panh bắt ra 1 con ong. Khiếp quá, tôi vội hỏi để tìm cách tránh: “Cháu đau đầu thì châm ở đâu?”. Ông bảo: “Có thế mà cũng hỏi, đau đâu thì châm đấy!”. Tôi cố vớt vát chỉ vào cô bạn đồng nghiệp đi cùng: “Thế em cháu nó đau dạ dày và thận yếu thì châm vào đâu?”. Lương y gắt: “Châm quanh khu vực đấy”. Chữa bệnh bằng rượu ngâm thịt gà sống băm nhỏ “Chỉ sau từ 5 đến 7 tuần đắp lá cây, mắt bị cận thị sẽ... sáng như bình thường”. Thông tin trên khiến nhiều ông bố, bà mẹ đã lặn lội đưa con về xóm 7, thôn Phú Xuyên (Phú Châu, Ba Vì, Hà Tây) để nhờ thày lang Lưu chạy chữa. “Thầy” còn tuyên bố có thể chữa khỏi nhiều loại bệnh khác như sỏi thận, viêm khớp, thoái hoá cột sống... bằng đắp lá cây và uống rượu ngâm với thịt gà sống băm nhỏ! Chúng tôi đã được chứng kiến những bài thuốc kinh hoàng của “thầy”: Sau khi khám cận thị bằng... mắt thường, “thầy” sai người nhà đem đến một bọc lá to, hướng dẫn: Giã nhỏ các loại lá với muối (tên các loại lá được thầy giữ kín vì là... bí truyền), bọc vào miếng vải xô, đắp lên mắt ngày 2 lần. Trong khi đắp phải chớp mắt cho nước lá chảy vào mắt, nếu thấy xót, đỏ mắt hay ra nhiều dử thì là thuốc đang... có tác dụng tốt. Còn chữa cho một bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm, “thầy” bảo: “Đau cột sống chứ có gì đâu, đau là do cột sống thiếu cái “long-đen””. Đơn thuốc, ngoài các loại lá vừa đắp vào lưng, vừa sắc uống còn có thêm một vị thuốc kinh hồn là uống rượu ngâm với thịt gà sống băm nhỏ. “Đại bịp thần y” và đường dây cò mồi, lừa đảo bệnh nhân Vị “thần y” có tài như “Bồ tát giáng thế”, có danh xưng mỹ miều là “Thần y Nam Hải” nhưng tên tục là Tạ Đức Hải, ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, vốn là một “ung nhọt” nhức nhối của chính quyền và ngành y tế Hà Tây từ nhiều năm nay. Cơ sở khám chữa bệnh trái phép của “thầy” đã bị kiểm tra, đình chỉ hàng chục lần nhưng “thầy” vẫn tác oai tác quái. Một số cán bộ Trạm y tế xã Sài Sơn khẳng định, người dân trong xã không có bất kỳ một ai tới chữa bệnh ở nhà ông Tạ Đức Hải, tất cả người bệnh đều là dân tứ xứ. Được biết chính con gái ông cũng đang bị bệnh phong. Đường dây “cò mồi” của ông vào tận các bệnh viện, giới thiệu, rủ rê hàng chục bệnh nhân, thậm chí còn “tốt bụng” thuê xe đưa bệnh nhân về tận nhà “thầy” Hải chữa bệnh. “Bác sĩ 4 không” giữa lòng Hà Nội Không giấy phép hành nghề, không hề được đào tạo về y dược, không biển hiệu và bán thuốc không cần phải khám bệnh, “thầy” Nguyễn Tiến Điển vẫn ung dung kiếm tiền tại một phòng mạch ngay tại phố Lê Thái Tổ, Hà Nội. Cách chữa bệnh của thầy cũng vô cùng độc đáo: không cần phải chạm tay vào người bệnh hay cần bất cứ một thiết bị y tế nào, chỉ cần bệnh nhân tự khai bệnh là “thầy” bốc thuốc. Vừa bốc thuốc, thầy vừa dọa bệnh nhân đến “hồn xiêu phách lạc”, đại loại như: “Cô bị huyết áp thấp, nó ăn lên não gây đau đầu, mất ngủ. Không chữa ngay sẽ ăn vào xương sống, thoái hóa cổ rồi vào cả tim nữa. Bệnh này sẽ di truyền sang cả cho con cháu mai sau”. Thuốc là những gói bột màu đậm nhạt khác nhau do “thầy” tự chế, không một dòng nhãn mác ghi thành phần hay hạn sử dụng. Đơn thuốc được xé từ một quyển vở học trò, nham nhở và nhàu nhĩ. BS. Trần Xuân Kiếm, Trạm trưởng trạm y tế phường Hàng Trống cho biết, nhận được thông tin phản ánh từ người dân, phường đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra tại nhà “thầy”. Ban đầu “thầy” chối đây đẩy mình không hề bốc thuốc, chữa bệnh tại nhà vì thời điểm kiểm tra không có bệnh nhân. Nhưng sau đó “thầy” lại nhận rằng có bài thuốc gia truyền trị bệnh gút, đau xương khớp và chỉ chữa loanh quanh cho bạn bè, bà con thân thích, không lấy tiền. Ông Nguyễn Tiến Điển đã phải ký vào bản cam kết hứa không tiếp tục việc hành nghề khám chữa bệnh trái phép. Bắt 2 “lang băm” chữa bệnh khiến bệnh nhân tử vong Công an tỉnh Khánh Hòa vừa bắt 2 “lang băm” Đồng Thị Ngọc (SN 1965, Ninh Thuận) và Quảng Thị Dưng (SN 1970, Ninh Thuận) dùng phương pháp chữa bệnh: lấy dao khía vào chân tay, không cho bệnh nhân ăn, khiến bệnh nhân tử vong.Trước đó, thấy cháu Ngô Thị Ngọc Trang (Nha Trang) có biểu hiện tâm thần, ngày 24/5 và 2/6, mẹ ruột cháu đã đưa 2 “thầy lang” Ngọc và Dưng về chữa bệnh cho con. Tại đây, Ngọc và Dưng đã chữa bệnh bằng hình thức cúng bái, dùng dao khía vào chân, tay cháu Trang và yêu cầu gia đình không cho cháu Trang ăn mà chỉ cho uống nước. Đến 13 giờ 20 phút ngày 2/6, cháu Trang bị tử vong do kiệt sức. Theo Nhóm PV Thời sự Sức khỏe & Đời sống
-
Chào chú Vo Truoc, Cái “nghĩ” ở đây là có căn cứ đàng hoàng, bỡi chú chưa đọc nhiều sách Lý Học Đông Phương nên cho đó là không logic. Xin trích Hiệp Kỷ Biện Phương Thư trang 55 Thái Ung “Độc đoán” nói: “Can – Cán (Thân) vậy, tên nó có mười ấy là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. Chi là cành nhánh. Tên nó có mười hai ấy là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi” “Lể ký - Nguyệt lệnh”: “Tháng Xuân, nhật (can) của nó là Giáp Ất Tháng Hạ, Nhật (Can) của nó là Bính Đinh. Trung ương thổ, nhật (can) của nó là Mậu Kỷ, Tháng Thu, nhật (can) của nó là Cánh Tân, Tháng Đông, nhật (can) của nó là Nhâm Quý” Trích Tý Ngọ Lưu Chú Sách Thuyết-văn viết : Giáp giải là: Dương khí tháng xuân ở phương Đông đang làm cho vật mọc mầm, khởi động, tượng trưng cho đầu người. Hình âm nghĩa đại tự điển giải: Giáp có nghĩa là da cây bị nứt ra. Quẻ Giải của kinh Dịch viết: Bách quả thảo mộc giai giáp trạch: Trăm loại trái, thảo mộc đang nứt da, mọc rệ Trịnh Huyền chú: “gọi bì là giáp, gọi rễ là trạch.” Trương Trọng Cảnh tác giả của Thương Hàn Luận và Kim Quỹ Yếu Lược nói: “Ôi! Ngũ vận gồm Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Lục khí gồm Phong Hỏa Thử Thấp Táo Hàn. Thiên can dùng để tính vận, Địa chi dùng để tính khí. Thiên can gồm có 10, phối hợp thành “Ngũ Vận”. Địa chi gồm 12, đối xung lại thành “Lục Khí”. Thiên khí bắt đầu từ Giáp, Địa khí bắt đầu từ Tý. Nguyễn Đình Chiểu viết: Dẫn rằng mười chữ Thiên Can Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai Anh em, một gái một trai, Âm Dương chia khác, lầu đài năm phương. Qua các dẫn chứng trên, chứng tỏ cái không logic của VinhL này cũng là có căn cứ lắm. Thưa chú Vo Truoc, vấn đều dùng Giáp khỡi đầu chỉ có vậy thôi, tại sao nó lại phải có nguyên do nào khác. Nếu nói Giáp khỡi đầu là sai, không logic, thế thì Đông Y mấy ngàn năm nay lại vẫn được ứng dụng. Hệ thống Can Chi vẫn được coi là những nguyên lý căn bản của Đông Y. Cùng với sự khởi đầu bằng Giáp là sự khởi đầu của một năm Âm Lịch là Dần, tiết Lập Xuân, như vậy theo lý luận của chú thì phải bắt đầu ở Tý, như vậy hệ thống Lịch âm cũng không có logic, vô căng cứ? Cho nên VinhL nói “lý do Thiên Can khỡi từ Giáp cũng chính là lý do tại sao tháng giêng khỡi ở Dần Mộc” Vấn đề các sao vận hành thuận nghịch trong Độn Giáp, VinhL đã giải thích, nếu chú thấy không hợp lý, thì hy vọng tự chú tìm tòi nghiên cứu và tìm ra một nguyên lý thích hợp hơn (và từ đây VinhL xin miễn bàn về Kỳ Môn) Còn vấn đề tại sao tháng giêng ỡ Dần, thì Thầy (Thiên Sứ) đã có giải thích. Thân Mến
-
Thưa Thầy, VinhL tìm được cuốn hướng dẫn cho máy màu vàng CD V-715 ở link này: http://www.radmeters4u.com/manual.htm Nếu không phải cái này thì xin Thầy có thể cho VinhL biết hiệu và số model để VinhL tìm thử. Link sau đây có nhiều kiểu mày và giá cả từ rẻ đến mắc. http://www.geigercounters.com/index.htm Kính Mến
-
Chào chị Phuong2t, VinhL đang nghiên cứu về số mệnh và tai nạn, nên thông tin này vô cùng bổ ích. Thành thật cám ơn chị Phuong2t.
-
Chào chị phuong2t, Không biết chị Phuong2t có thể cho VinhL xin thêm thông tin về chú em bị tai nạn được không ạ? Như là ngày giờ sinh, và ngày giờ bị tai nạn. VinhL muốn nghiên cứu về cái tai nạn đã xãy ra. Nếu chị ngại thì cứ coi như VinhL chưa hỏi nhé. Chân thành cảm ơn chị.
-
Chào chú Vo Truoc, Theo VinhL nghỉ, lý do Thiên Can khỡi từ Giáp cũng chính là lý do tại sao tháng giêng khỡi ở Dần Mộc. Trong Kỳ Môn, Khảm là quẻ Khảm của Hậu Thiên (Văn Vương : chắc nên sửa tên thành Hậu Thiên Lạc Thư), độ số Lạc Thư là 1, là tiết Đông Chí nhất dương sinh. Từ Đông chí đến Mang Chủng là Dương (là thời Dương trưỡng mà Âm suy), từ Hạ Chí đến Đại Tuyết là Âm (là thời Âm tăng trưởng mà Dương suy). Nếu vòng hoàng đạo được chia hai bằng trục Đông chí và Hạ Chí, thì đường vận hành của Trái Đất đối nhau. Khỡi điểm từ Đông Chí đi đến Hạ Chí thì từ trái sang phải, từ Hạ Chí đi đến điểm Đông Chí thì đi từ phải sang trái (hoặc ngược lại, từ phải sang trái, và từ trái sang phải tùy theo điểm gốc ở đâu) Đấy là sự suy luận của VinhL. Xin chú Vo Truoc gom tất cả các bài rời rạc trong các mục vào mục Học Thuyết ADNH để tiện cho việc đọc và nghiên cứu vấn đề. Vì lâu lắm rồi mục đó chưa được cập nhật. Cám ơn chú Vo Truoc nhiều.
-
Chào các bạn, Trong mục “Lạc Thư Xuất Từ Tiên Thiên Bát Quái và Hà Đồ (Giả Thuyết)”, VinhL đã nêu ra đường Lường Thiên Xích trong Tiên Thiên Bát Quái, và độ số của Lạc Thư là dùng số của Hà Đồ, phân phối 9 cung theo đường Lường Thiên Xích. Mục “Quy luật Tượng của Trùng Quái và Cách Tính Nhanh” đã có nói qua 2 phương pháp lấy tượng của trùng quái, tìm thế ứng, tìm 8 sao (biến) của Bát Trạch Phong Thủy. Trong mục này VinhL xin trình bày những khám phá của mình về Nguyên Lý của 8 biến trong Bát Trạch và phương pháp tính nhanh thứ 3, để lấy tượng, thế ứng của trùng quái, và các biến Họa Hại, Thiên Y, Diên Niên (Phúc Đức), Ngủ Quỷ, Sinh Khí, Phục Vị, Lục Sát (Du Hồn), và Tuyệt Mạng (Quy Hồn). Trong tất cả các sách về phong thủy, cả sách Hán lẫn sách Việt, hình như chưa sách nào lý giải được thích hợp cái nguyên lý tại sao bốn biến (sao) Họa Hại, Ngủ Quỷ, Lục Sát, Tuyệt Mạng là xấu, Thiên Y, Diên Niên, Sinh Khí, Phục Vị là tốt. Tại sao lại chia Đông Tứ Trạch, Tây Tứ Trạch? Nguyên Lý của tốt xấu của các biến hoặc sao trong Bát Trạch Phong Thủy, chính là do sự phối hợp của Tiên Thiên Bát Quái và độ số Lạc Thư. Theo sự nghiên cứu của VinhL thì độ số của Lạc Thư chính là số của Hà Đồ. Vì vậy ngũ hành sinh thành của các số Lạc Thư cũng là từ Hà Đồ. Hai trục Khảm Ly, Chấn Tốn của Tiên Thiên Bát Quái chính là nhóm Đông Tứ Trạch. Hai trục Kiền Khôn, Cấn Đoài của Tiên Thiên Bát Quái chính là nhóm Tây Tứ Trạch. Nguyên do chia ra 2 nhóm là do sự kết hợp của các đơn quái theo số của Hà Đồ và trục của Tiên Thiên Bát Quái. Căn cứ vào sự phối hợp của các đơn quái để được 4 sao Thiên Y, Diên Niên, Sinh Khí và Phục Vị, thì 2 đơn quái kết hợp phải thuộc cùng nhóm của 2 trục Khảm Ly, Chấn Tốn, hoặc cùng nhóm của 2 trục Kiền Khôn, Cấn Đoài. Nếu đơn quái của nhóm này kết hợp với nhóm kia thì lúc nào củng rơi vào 4 biến xấu, Họa Hại, Ngủ Quỷ, Lục Sát, và Tuyệt Mạng. Vì hai trục Khảm Ly, Chấn Tốn, có độ số Lạc Thư 8-3, 2-7, tức Mộc và Hỏa của Hà Đồ. Trong Hà Đồ Mộc là Đông cho nên gọi là Đông Tứ Trạch. Hai trục Kiền Khôn, Cấn Ly, có độ số Lạc Thư là 4-9,1-6, tức Kim và Thủy của Hà Đồ. Trong Hà Đồ Kim là Tây cho nên gọi là Tây Tứ Trạch vậy. Tóm lại: Trục Đông (Tứ Trạch): 4 quẻ đơn của 2 trục Khảm Ly, Chấn Tốn Trục Tây (Tứ Trạch): 4 quẻ đơn của 2 trục Càn Khôn, Cấn Đoài 2 vòng Kiền Tốn Cấn Ly, Khôn Chấn Đoài Khảm là thứ tự kết hợp của các đơn quái theo thứ tự của Tượng (đã nói qua trong mục “Quy luật Tượng của Trùng Quái và Cách Tính Nhanh”. Ngủ hành của Hà Đồ theo các sách là xuất từ: Thiên 1 Sinh Thủy, Địa 6 Thành Chi Địa 2 Sinh Hỏa, Thiên 7 Thành Chi Thiên 3 Sinh Mộc, Địa 8 Thành Chi Địa 4 Sinh Kim, Thiên 9 Thành Chi Thiên 5 Sinh Thổ, Địa 10 Thành Chi Theo trên ta có đặc tính của các số của Hà Đồ như sau 1: Số Sinh Dương Thủy 6: Số Thành Âm Thủy 2: Số Sinh Âm Hỏa 7: Số Thành Dương Hỏa 3: Số Sinh Dương Mộc 8: Số Thành Âm Mộc 4: Số Sinh Âm Kim 9: Số Thành Dương Kim 5: Số Sinh Dương Thổ 10: Số Thành Âm Thổ 1,3,5,7,9 là số Lẻ, là Dương, 2,4,6,8,10 là số Chẳn, là Âm 1-6 là số hành Thủy, 2-7 là số hành Hỏa, 3-8 là số hành Mộc, 4-9 là số hành Kim, 5-10 là số hành Thổ Khi đem số Lạc Thư nạp vào Tiên Thiên Bát Quái, khởi 1 tại Chánh Bắc Khôn ta có Càn : 9, Số Thành Dương Kim Đoài : 4, Số Sinh Âm Kim Ly : 3, Số Sinh Dương Mộc Chấn : 8, Số Thành Âm Mộc Tốn : 2, Số Sinh Âm Hỏa Khảm : 7, Số Thành Dương Hỏa Cấn : 6 (10), Số Thành Âm Thủy, Số Thành Âm Thổ 10 ký gửi tại Cấn Khôn : 1 (5), Số Sinh Dương Thủy, Số Sinh Dương Thổ 5 ký gửi tại Khôn Xin xem hình dưới đây Dựa vào các đặc tính trên của số và đơn quái, nguyên lý của 8 sao (biến) của Bát Trạch; Họa Hại, Thiên Y, Diên Niên, Sinh Khí, Phục Vị, Lục Sát, Tuyệt Mạng, được giải thích như sau: 1) Họa Hại, Biến 1, Tượng 1, Thế Sơ Ứng Tứ (Xin xem hình phía trên) a) Càn biến Tốn, Tốn biến Kiền: Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2 Số Sinh Âm 2 Hỏa Khắc Số Thành Dương 9 Kim b) Đoài biến Khảm, Khảm biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Khảm Tiên Thiên số Lạc Thư 7 Số Thành Dương 7 Hỏa Khắc Số Sinh Âm 4 Kim c) Ly biến Cấn, Cấn biến Ly Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10, Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3. Cung Cấn có 6 và 10, 6 Thủy sinh 3 Mộc, nhưng 3 Mộc lại khắc 10 Thổ cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Sinh Dương 3 Mộc Khắc Số Thành Âm 10 Thổ d) Chấn biến Khôn, Khôn biến Chấn Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8, Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư 1 và 5. Cung Khôn có 1 và 5, 1 Thủy sinh 8 Mộc, nhưng 8 Mộc lại khắc 5 Thổ cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Thành Âm 8 Mộc Khắc Số Sinh Dương 5 Thổ Tóm lại 4 cặp biến Họa Hại đều bị ngủ hành tương khắc theo quy tắc sau: => Số Sinh Khắc Số Thành, Số Thành Khắc Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau. 2) Thiên Y, Biến 2, Tượng 2, Thế Nhị Ứng Ngủ a) Càn biến Cấn, Cấn biến Càn Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10, Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9 Cung Cấn có 6 và 10, 9 Kim sinh 6 Thủy, 10 Thổ sinh 9 Kim, đều là Sinh. Số Thành Dương 9 Kim Sinh Số Thành Âm 6 Thủy Số Thành Âm 10 Thổ Sinh Số Thành Dương 9 Kim b) Đoài biến Khôn, Khôn biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5 Cung Khôn có 1 và 5, 4 Kim sinh 1 Thủy, 5 Thổ sinh 4 Kim, đều là Sinh. Số Sinh Âm 4 Kim Sinh Số Sinh Dương 1 Thủy Số Sinh Dương 5 Thổ Sinh Số Sinh Âm 4 Kim c) Ly biến Tốn, Tốn biến Ly Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3, Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2 Số Sinh Dương 3 Mộc Sinh Số Sinh Âm 2 Hỏa d) Chấn biến Khảm, Khảm biến Chấn Số Thành Âm 8 Mộc Sinh Số Thành Dương 7 Hỏa Tóm lại 4 cặp biến Thiên Y đều được ngủ hành sinh, theo quy tắc sau: => Số Sinh Sinh Số Sinh, Số Thành Sinh Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau 3) Diên Niên, Biến 3, Tượng 3, Thế Tam Ứng Lục a) Càn biến Khôn, Khôn biến Càn Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5, Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9 Cung Khôn có 1 và 5, 9 Kim sinh 1 Thủy, 5 Thổ sinh 9 Kim, đều là Sinh. Số Thành Dương 9 Kim Sinh Số Sinh Dương 1 Thủy Số Sinh Dương 5 Thổ Sinh Số Thành Dương 9 Kim b) Đoài biến Cấn, Cấn biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10 Cung Cấn có 6 và 10, 4 Kim sinh 6 Thủh, 10 Thổ sinh 4 Kim, đều là Sinh. Số Sinh Âm 4 Kim, Sinh Số Thành Âm 6 Thủy Số Thành Âm 10 Thổ, Sinh Số Sinh Âm 4 Kim c) Ly biến Khảm, Khảm biến Ly Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3, Khảm Tiên Thiên số Lạc Thư là 7 Số Sinh Dương 3 Mộc Sinh Số thành Dương 7 Hỏa d) Chấn biến Tốn, Tốn biến Chấn Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8, Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2 Số Thành Âm 8 Mộc Sinh Số Sinh Âm 2 Hỏa Tóm lại 4 cặp biến Diên Niên đều được ngủ hành tương sinh theo quy tắc: => Số Sinh Sinh Số Thành, Số Thành Sinh Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. 4) Ngủ Quỷ, Biến 4, Tượng 4, Thế Tứ Ứng Sơ a) Càn biến Chấn, Chấn biến Càn Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8 Số Thành Dương 9 Kim Khắc Số Thành Âm 8 Mộc b) Đoài biến Ly, Ly biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3 Số Sinh Dương 3 Hỏa Khắc Số Sinh Âm 4 Kim c) Tốn biến Khôn, Khôn biến Tốn Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2, Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5. Cung Khôn có 1 và 5, 5 Thổ sinh 2 Hỏa, nhưng 1 Thủy lại khắc 2 Hỏa cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Sinh Dương 1 Thủy Khắc Số Sinh Âm 2 Hỏa d) Khảm biến Cấn, Cấn biến Khảm Khảm Tiên Thiên số Lạc Thư là 7, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10. Cung Cấn có 6 và 10, 10 Thổ sinh 7 Hỏa, nhưng 6 Thủy khắc 7 Hỏa cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Thành Âm 6 Thủy Khắc Số Thành Dương 7 Hỏa Tóm lại 4 cặp biến Ngủ Quỷ đều là bị ngủ hành tương khắc, theo quy tắc: => Số Sinh Khắc Số Sinh, Số Thành Khắc Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau 5) Sinh Khí, Biến 5, Tượng 5, Thế Ngũ Ứng Nhị a) Càn biến Đoài, Đoài biến Càn Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4 Số Sinh Âm 4 Kim Cùng Hành Với Số Thành Dương 9 Kim b) Ly biến Chấn, Chấn biến Ly Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3, Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8 Số Sinh Dương 3 Mộc Cùng Hành Với Số Thành Âm 8 Mộc c) Tốn biến Khảm, Khảm biến Tốn Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2, Khảm Tiên Thiên số Lạc Thư là7 Số Sinh Âm 2 Hỏa Cùng Hành Với Số Thành Dương 7 Hỏa d) Khôn biến Cấn, Cấn biến Khôn Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10 Số Sinh Dương 1 Thủy Cùng Hành Với Số Thành Âm 6 Thủy Số Sinh Dương 5 Thổ Cùng Hành Với Số Thành Âm 10 Thổ Tóm lại 4 cặp biến Sinh Khí đều là biến cùng Hành, theo quy tắc: => Số Sinh Số Thành Cùng Hành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau. 6) Phục Vị, Biến 6, Tượng 6, Thế Lục Ứng Tam 8 quẻ biến Phục Vị là biến trở về quẻ gốc, hoặc là không biến, cho nên số và hành đều giống nhau. Tóm lại 4 cặp biến Phục Vị đều biến cùng số cùng Hành (hoặc không biến) theo quy tắc: => Số Giống Nhau, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Củng Giống Nhau. 7) Lục Sát, Biến 7, Tượng 7, Thế Tứ Ưng Sơ a) Càn biến Khảm, Khảm biến Càn Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Khảm Tiên Thiên Số Lạc Thư là 7 Số Thành Dương 7 Hỏa Khắc Số Thành Dương 9 Kim b) Đoài biến Tốn, Tốn biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư 2 Số Sinh Âm 2 Hỏa Khắc Số Sinh Âm 4 Kim c) Ly biến Khôn, Khôn biến Ly Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3, Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5. Cung Khôn có 1 và 5, 1 Thủy sinh 3 Mộc, nhưng 3 Mộc khắc 5 Thổ, cho nên lấy khắc mà luận ta có Số Sinh Dương 3 Mộc Khắc Số Sinh Dương 5 Thổ d) Chấn biến Cấn, Cấn biến Chấn Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư 6 và 10 Cung Cấn có 6 và 10, 6 Thủy sinh 8 Mộc, nhưng 8 Mộc khắc 10 Thổ, cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Thành Âm 8 Mộc Khắc Số Thành Âm 10 Thổ Tóm lại 4 cặp biến Lục Sát đều bị Ngũ Hành tương khắc theo quy tắc: => Số Sinh Khắc Số Sinh, Số Thành Khắc Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. 8) Tuyệt Mạng, Biến 8, Tượng 8, Thế Tam Ứng Lục a) Càn biến Ly, Ly biến Càn Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Ly Tiên Thiên số Lạc Thư là 3 Số Thành Dương 9 Kim Khắc Số Sinh Dương 3 Mộc b) Đoài biến Chấn, Chấn biến Đoài Đoài Tiên Thiên số Lạc Thư là 4, Chấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 8 Số Sinh Âm 4 Kim Khắc Số Thành Âm 8 Mộc c) Tốn biến Cấn, Cấn biến Tốn Tốn Tiên Thiên số Lạc Thư là 2, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 và 10 Cung Cấn có 6 và 10, 2 Hỏa sinh 10 Thổ, nhưng 6 Thủy khắc 2 Hỏa, cho nên lấy khắc mà luận ta có Số Thành Âm 6 Thủy Khắc Số Sinh Âm 2 Hỏa d) Khảm biến Khôn, Khôn biến Khảm Khảm Tiên Thiên số Lạc Thư là 7, Khôn Tiên Thiên số Lạc Thư là 1 và 5. Cung Khôn có 1 và 5, 7 Hỏa sinh 5 Thổ, nhưng 1 Thủy khắc 7 Hỏa cho nên dùng khắc mà luận ta có Số Sinh Dương 1 Thủy Khắc Số Thành Dương 7 Hỏa Tóm lại 4 cặp biến Tuyệt Mạng đều bị Ngũ Hành tương khắc theo quy tắc: => Số Sinh Khắc Số Thành, Số Thành Khắc Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. Tất cả 8 sao hay biến trong Bát Trạch Phong Thủy đã được giải thích rất hợp lý theo Số Hà Đồ, Thứ Tự của Lạc Thư nạp vào Tiên Thiên Bát Quái. Tổng Kết lại ta có các quy tắc sau Họa Hại, Biến 1, Tượng 1, Thế Sơ Ứng Tứ => Số Sinh Khắc Số Thành, Số Thành Khắc Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau. Thiên Y, Biến 2, Tượng 2, Thế Nhị Ứng Ngủ => Số Sinh Sinh Số Sinh, Số Thành Sinh Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau Diên Niên, Biến 3, Tượng 3, Thế Tam Ứng Lục => Số Sinh Sinh Số Thành, Số Thành Sinh Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. Ngủ Quỷ, Biến 4, Tượng 4, Thế Tứ Ứng Sơ => Số Sinh Khắc Số Sinh, Số Thành Khắc Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau Sinh Khí, Biến 5, Tượng 5, Thế Ngũ Ứng Nhị => Số Sinh Số Thành Cùng Hành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Khác Nhau. Phục Vị, Biến 6, Tượng 6, Thế Lục Ứng Tam => Số Giống Nhau, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Củng Giống Nhau. Lục Sát, Biến 7, Tượng 7, Thế Tứ Ưng Sơ => Số Sinh Khắc Số Sinh, Số Thành Khắc Số Thành, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. Tuyệt Mạng, Biến 8, Tượng 8, Thế Tam Ứng Lục => Số Sinh Khắc Số Thành, Số Thành Khắc Số Sinh, Âm Dương (Chẳn Lẻ) Của Số Giống Nhau. Nay ta có thể sắp xếp các quy tắc trên để lập ra phương pháp lấy Tượng, Thế Ứng, và 8 sao của Bát Trạch một cách dễ dàng. Để tiện việc lập công thức, xin giải nghĩa các dấu hiệu sau: <>: khác nhau = : giống nhau Chẳn Lẻ, Chẳn là Âm, Lẻ là Dương Ta chia 2 nhóm tốt xấu theo như sau: Nhóm Khắc: tức Hà Đồ ngũ hành của 2 số Lạc Thư trong Tiên Thiên đơn quái khắc nhau thì ta có Biến 1, Số Chẳn Lẻ <>, Số Sinh Thành <>, Họa Hại Biến 4, Số Chẳn Lẻ <>, Số Sinh Thành =, Ngũ Quỷ Biến 7, Số Chẳn Lẻ =, Số Sinh Thành =, Lục Sát Biến 8, Số Chẳn Lẻ =, Số Sinh Thành <>, Tuyệt Mạng Nhóm Sinh: tức Hà Đồ ngũ hành của 2 số Lạc Thư trong Tiên Thiên đơn quái sinh nhau thì ta có Biến 2, Số Chẳn Lẻ <>, Số Sinh Thành =, Thiên Y Biến 3, Số Chẳn Lẻ =, Số Sinh Thành <>, Diên Niên Biến 5, Số Cùng Hành, Sinh Khí Biến 6, Số =, Phục Vị Nay đơn giản công thức trên thì ta có quy luật như sau: So sánh hành của 2 số, nếu giống số là Phục Vị, nếu cùng hành là Sinh Khí Nếu không thuôc nhóm trên thì lấy 2 số trừ cho nhau (số lớn trừ nhỏ) Hành của 2 số Khắc Nhau: Nếu được hiệu số là lẻ thì chỉ có thể là Họa Hại, hoặc Ngũ Quỷ, nếu là số lẻ nhỏ nhất, 1, thì là Ngũ Quỷ, các số lẻ khác là Họa Hại. Nếu được hiệu số là chẳn thì chỉ có thể là Lục Sát, hoặc Tuyệt Mạng, nếu là số chẳn nhỏ nhất 2, thì là Lục Sát, các số chẳn khác là Tuyệt Mạng. Hành của 2 số Sinh Nhau: Nếu được hiệu số là lẻ thì là Thiên Y, nếu là chẳn thì là Diên Niên. Tổng Kết Lại Phương Pháp thứ 3 của VinhL như sau: A) Thứ Tự Biến và Tượng Họa Hại, Biến 1, Tượng 1, Thế Sơ Ứng Tứ Thiên Y, Biến 2, Tượng 2, Thế Nhị Ứng Ngũ Diên Niên, Biến 3, Tượng 3, Thế Tam Ứng Lục Ngũ Quỷ, Biến 4, Tượng 4, Thế Tứ Ứng sơ Sinh Khí, Biến 5, Tượng 5, Thế Ngũ Ứng Nhị Phục Vị, Biến 6, Tượng 6, Thế Lục Ứng Tam Lục Sát, Biến 7, Tượng 7, Thế Tứ Ứng Sơ Tuyệt Mạng, Biến 8, Tượng 8, Thế Tam Ứng Lục B) Xem ngũ hành của số sinh khắc, sau đó lấy số lớn trừ cho số nhỏ, số được là hiệu số, chiếu theo các trường hợp sau mà biết được là biến thứ mấy: 2 Số Khắc: ..... Hiệu số lẻ: Hiệu số lẻ nhỏ nhất (tức là 1) thì là Ngũ Quỷ, các hiệu số lẻ khác là Họa Hại. ..... Hiệu số chẳn: Hiệu số chẳn nhỏ nhất (tức là 2) thì là Lục Sát, các hiệu số chẳn khác là Tuyệt Mạng 2 Số Sinh: ..... Hiệu số lẻ: Thiên Y ..... Hiệu số chẳn: Diên Niên 2 Số cùng hành Sinh Khí 2 Số giống nhau Phục Vị Chú Ý: khi xem ngũ hàn sinh khắc của số, nên nhớ là Khôn có 1 Thủy và 5 Thổ, Cấn có 6 Thủy và 10 Thổ, phải xét cả 2 số của Khôn hoặc Cấn. C) Khi đã biết là biến thứ mấy, tức tượng thứ mấy thì theo quy tắc lấy tượng như sau để lấy tượng cho trùng quái. Tượng 1, Tượng 2, Tượng 3 dùng quái đơn ngoại làm tượng cho trùng quái Tượng 4, Tượng 5, Tượng 7 dùng quái đối của quái nội làm tượng cho trùng quái Tượng 6 là Bát Thuần, dùng quái gốc làm tượng của trùng quái Tượng 8 dùng quái đơn nội làm tượng cho trùng quái Thí dụ: Càn và Cấn Càn Tiên Thiên số Lạc Thư là 9, Cấn Tiên Thiên số Lạc Thư là 6 va 10, 9 là Kim, 6 là Thủy, 10 là Thổ, vậy 9 Kim sinh 6 Thủy, 10 Thổ sinh 9 Kim, toàn là sinh không khắc. Vậy ta lấy 9 – 6 = 3, hoặc 10 – 9 = 1 tức hiệu số là lẻ. 2 Số Sinh, Hiệu số lẻ tức là Thiên Y, tượng 2, Thế Nhị Ứng Ngũ. Tượng 2 dùng quái đơn ngoại làm tượng của trùng quái. Vì vậy nếu Càn ngoại, Cấn nội, tức Thiên Sơn Độn, tượng là Kiền 2, còn nếu Cấn ngọai Càn nội tức Sơn Thiên Đại Súc, tượng sẻ là Cấn 2. Thí dụ: Khảm và Đoài Khảm số 7, Đoài 4, 7 Hỏa Khắc 4 Kim, 7 – 4 = 3, 2 Số Khắc, Hiệu số lẻ là Họa Hại (Ngũ Quỷ hiệu số là 1, các hiệu số lẻ khác là Họa Hại), tức tượng 1, lấy đơn quái ngoại làm tượng của trùng quái. Nếu Khảm ngoại, Đoài nội, Thủy Trạch Tiết tượng Khảm 1, nếu Đoài ngoại, Khảm nội, Trạch Thủy Khổn tượng Đoài 1. Thí dụ: Tốn và Cấn Tốn 2, Cấn 6 và 10, 2 là Hỏa, 6 là Thũy, 10 là Thổ, lấy khắc tức 6 Thủy khắc 2 Hỏa, 6 – 2=4 2 Số Khắc, Hiệu số chẳn là Tuyệt Mạng (hiệu số 2 là Lục Sát, các hiệu số chẳn khác là Tuyệt Mạng), Tuyệt Mạng tức tượng 8, lấy quái đơn nội làm tượng. Nếu Tốn ngoại, Cấn nội, Phong Sơn Tiệm tượng Cấn 8, nếu Cấn ngoại, Tốn nội, Sơn Phong Cổ tượng Tốn 8. Thân Mến
-
Chào chú Vo Truoc, Xin hõi nguyên lý từ đâu bát quái của chú lại theo thứ tự Kiền Khảm Chấn Cấn? VinhL đọc lại mục "Cơ sở học thuyết ADNH" thì không thấy có gì là nghịch lý trong thứ tự Kiền Khảm Cấn Chấn, nên không hiểu tại sao lại phải theo thứ tự Kiềm Khảm Chấn Cấn. Xin chú vui lòng giãi thích. Thân Mến
-
Chào Huynh Công Minh. Xin giới thiệu quyễn sách tiếng Anh “The Holographic Universe” của tác gỉa Michael Talbot, trong đó có nói về những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trí nhớ về quá khứ, những lý thuyết mới trong tâm lý học và những phát kiến mới về vũ trụ.
-
Chào các bạn Từ lâu VinhL củng có cảm nghỉ là Hậu Thiên Bát Quái không phải là do ngài Chu Văn Vương sáng tạo, vì đường Lường Thiên Xích chính là cái mấu chốt quan trọng của Hậu Thiên Bát Quái, cũng dễ dàng thành lập từ Tiên Thiên Bát Quái (đi theo thứ thự của hai nhóm quái dương Kiền Chấn Khảm Cấn, âm Khôn Tốn Ly Đoài, trong Huyền Không, hai nhóm này kết hợp mà có phụ mẫu, tam ban quái). Cổ nhân đã có thể nghỉ ra Tiên Thiên Bát Quái, thì việc Hậu Thiên Bát Quái không thể nào phải đợi tới gần 1500 năm sau mới được thành lập. (Thần Nông Viêm Đế: 2737BC – 2698BC, Văn Vương: 1099BC – 1050BC). Xin trích một đoạn trong quyển “Thẩm Thị Huyền Không Học, Phong Thủy trong bối cảnh kiến trúc hiện đại” của Thẩm Trúc Nhưng do Nguyễn Anh Vũ dịch, trang 317, 318: Tăng Liêm Tuyền hỏi: - Trong bàn dùng cả hai loại Liên Sơn và Quy Tàng, không biết có đúng không? Đáp rằng: - Dụng của Dịch là ở hậu thiên, mấu chốt là thay đỗi hai vị trí Nhị Bát. Nói thay đổi hai vị trí Nhị Bát tức nói từ Ly tới Kiền là Cửu Nhị Thất Lục, Khảm tới Tốn là Nhất Bát Tam Tứ; rồi thay đổi vị trí thành từ Ly tới Kiền là Cửu Bát Thất Lục, Khảm tới Tốn là Nhất Nhị Tam Tứ, sự thần diệu của nó khó mà đo lường hết được. Các học gỉa thường nói Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch, là ba loại Dịch khác nhau. Nhưng theo tôi thì chỉ có một loại Dịch. Liên Sơn lấy Cấn làm đầu, Quy Tàng lấy Khôn làm đầu, suy ngẫm cho tường tận thì chẳng qua cũng chỉ là Nhị Bát thay đổi vị trí rồi phát sinh ra một loại biến hóa mà thôi. La Bí Lộ trong “Viêm Đế Kỷ” viết rằng “Vạn vật khởi đầu, vạn vật chung cuộc, đều thịnh ở Cấn, Cấn là quẻ ở đông bắc. Cho nên lấy Cấn mà bắt đầu, vì vậy gọi là Liên Sơn Dịch vậy, cũng gọi là Liên Sơn thị. Cấn ở đông bắc là phương vị hậu thiên, tức thời Viêm Đế đã có hậu thiên bát quái rồi. Cổ nhân nói tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái cùng xuất hiện một thời kỳ, như vậy có thể biết hậu thiên bát quái không phải bắt đầu từ Văn Vương, mà Liên Sơn cũng không phải là Dịch của nhà Hạ, mà là do Nhị Bát thay đổi vị trí dẫn tới tình trạng như vậy mà thôi”. Thời Tống, phàm trong dân gian có sách nói về Âm Dương Ngũ Hành đều phải nạp vào phủ quan, không được giữ làm của riêng. Thiết tưởng thời kỳ họ La có lưu truyền thuyết như vậy củng chẳng phải là ngụy tạo, ngày nay nói Liên Sơn, , Quy Tàng đã thất truyền, nên rốt cuộc không phân biệt được chân hay ngụỵ Vì vậy, thật ra những trình bày trong bàn có thể nói là do bọn người vô tri vọng tác mà thôi. Thân Mến
-
Chào các bạn, Chú Đại Bi ở Việt Nam đa số đều dịch lại từ các bản tiếng Hán, và cách đọc chú tiếng Hán thì đa số là đọc bằng cách đánh vần từng mẫu tự của tiếng phạn, vì vậy mà chú rất là khó nhớ. Nay VinhL xin phiên âm thẳng tiếng Việt vào bản tiếng Phạn để các giúp các bạn muốn học thuộc lòng chú Đại Bi được dễ dàng hơn, và phát âm chính xác hơn. Namo ratna-trayāya Nam-mô rát-nha trà-dá-dà Namo āriyā-valokite-śvarāya Nam-mô A-ri-dà va-lô-ki-tê sờva-ra-dà Bodhi-sattvāya Maha-sattvāya Mahā-kārunikāya Bô-đi sattơ-va-dà Ma-ha-sattơ-va-dà Ma-ha khà-rún-ni-khá-dà Om sarva rabhaye sudhanadasya Ôm Sarơ-va ráp-bơ-dê su-đa-na-đa-si-à Namo skritva imam Nam-mô sơkit-va i-mầm āryā-valokite-śvara ramdhava a-ri-da va-lô-ki-tê sờva-ra ram-đa-và Namo narakindi hrih Mahā-vadha-svā-me Nam-mô na-ra-khín-đì hờri-hờ Ma-ha va-đa-sờva-mề Sarva-arthato-śubham ajeyam Sarơ-va a-rờ-thá-tô su-bờham à-chế-dàm Sarva-sata Namo-vasat Namo-vāka mavitāto Sarơ-va sa-tha Nam-mô va-sat Nam-mô-vá-khà ma-vi-thá-tồ Tadyathā Tha-đì-da-thà Om avaloki-lokate-karate-e-hrih Mahā-bodhisattva Ôm a-va-lô-ki lô-khá-tê kha-rá-tê ê hờri-hờ Ma-ha bồ-đi-sattơ-và Sarva sarva Sarơ-va sarơ-va Mala mala Má-là Má-là Mahi Mahi ridayam Mà-hi Mà-hi ri-đa-dàm Kuru kuru karmam Ku-ru ku-ru karờ-mầm Dhuru dhuru Đu-ru Đu-ru vijayate Mahā-vijayati vi-chày-dá-tề Ma-ha vi-chày-dá-tì Dhara dhara dhrini Đa-rà đa-rà đờ-ri-ni śvarāya cala cala sơvá-ra-dà chá-là chá-là Mama vimala muktele Ma-mà vi-má-là mựckhờ-tê-lề Ehi ehi śina śina Ê-hi ê-hi si-na si-na ārsam prasari a-rờ-sàm pờra-sá-rì viśva viśvam prasaya vi-sờva vi-sơvàm pờra-sá-dà Hulu hulu mara Hu-lu hu-lu má-rà Hulu hulu hrih Hu-lu hu-lu hờri-hờ Sara sara Siri siri Suru suru Sa-rà sa-rà Si-rì si-rì Su-rù su-rù Bodhiya Bodhiya Bodhaya Bodhaya Bô-đi-da Bô-đi-dà Bô-đá-da Bô-đá-dà Maitreya narakindi dhrish-nina bhayamana svāhā Mai-tờ-ray-dà na-ra-khín-đì đờ-ri-sơ-ni-nà bờha-dá-ma-nà sờva-ha Siddhāya svāhā Sích-đa-dà sờva-ha Maha siddhāya svāhā Ma-ha sích-đa-dà sờva-ha Siddha-yoge-śvaraya svāhā Sích-đa dô-chề sờva-ra-dà sờva-ha Narakindi svāhā Na-ra-khín-đì sờva-ha Māranara svāhā Ma-ra-ná-rà sờva-ha śira simha-mukhāya svāhā si-ra sim-hà mựckha-dà sờva-ha Sarva mahā-asiddhaya svāhā Sarờ-và ma-ha a-sích-đa-da sờva-ha Cakra-asiddhāya svāhā Chá-khờra a-sích-đa-dà sờva-ha Padma-kastāya svāhā Pác-ma kasờ-thá-dà sờva-ha Narakindi-vagalāya svaha Na-ra-khín-đì va-gà-lay-dà sờva-ha Mavari-śankharāya svāhā Má-va-rì san-kha-ra-dà sờva-ha Namo ratna-trāyāya Nam-mô rát-nha chà-dá-dà Namo āryā-valokite-śvaraya svāhā Nam-mô a-rờ-dà va-lô-ki-tê sơva-ra-dà sờva-ha Om Sidhyantu mantra padāya svāhā Ôm Sí-đờ-dán-thù mán-tờra pách-đa-dà sờva-ha. Thân Mến
-
Nếu người vợ vì bản thân mình thì có thể không về, ở lại nhà nhân tình. Nhưng cô ta lại phải về vì sợ chồng mình biết, mà một khi ông chồng biết thì hai người sẻ chia tay, tức trong thâm tâm cô ta vẫn còn hình bóng người chồng. Cô ta tự biết mình đa tình, nên đã đòi xin đi theo chồng. Nay xét ra hai điều trên thì thấy cô ta vẫn còn quý cái Nghĩa vợ chồng mà cuối cùng phải gánh lấy cái hậu quả thê thảm. Cho nên VinhL nghĩ cô ta chết vì cái nghỉa Vợ Chồng thì cũng đáng quý. Thử hỏi từ cổ đến kim cái bản tính đa tình có mấy ai có thể tự chủ? Nếu phân tích xâu hơn thì trong hạnh phúc của vợ chồng, chữ tình chữ dục phải đi đôi, chỉ có tình mà không dục thì sẻ dẫn đến chuyện ngoại tình. Có dục mà không có tình, thì làm sao ở với nhau lâu dài vì vậy sớm muộn thì phải chia ly. Có lẻ cô vợ đã không được thỏa mãn về cái dục nên dẫn đến chuyện ngoại tình. Cái chữ dục trong chuyện vợ chồng là bổn phận của hai bên, thương nhau mà mong được thõa mãn cho nhau. Nay một bên đã không được sự thõa mãn của cái dục thì tức là một bên đã sơ sót trong bổn phận của mình. Như thế thì cũng không thể đổ lỗi hết lên người vợ được. Cho nên người chồng phải chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của người vợ. Nhưng so sánh với sự phản bội của thằng nhân tình thì cái lỗi của người chồng còn có thể thông cảm. Thằng nhân tình chỉ vì cái thú của dục mà không hề có chữ tình, và chữ nghĩa, thử hỏi con người tồi như vậy có nên được tha thứ không? Thế nên thủ phạm duy nhất, chỉ là thằng nhân tình KN đó thôi!!! :-)
-
Chào chú Gia Nhân, các bạn, Cám ơn chú đã chỉ điểm. Sẳn đây VinhL xin viết ra khám phá của mình về quy luật tượng của các trùng quái. Dựa vào quy luật này, VinhL có lập ra phương pháp để tính tượng bằng cách bấm trên tay và cách biến hào. Theo cuốn “Moving with Change” của tác giả Rowena Pattee, có nói qua phương pháp biến dịch the “Golden Hexagram” tức phương pháp quy nạp 2 hào thành 1 hào, tức trong một trùng quái chia ba là Thiên Địa Nhân, mỗi địa vị 2 hào quy nạp thành một theo như sau : --- --- biến thành --- - - - - biến thành - - --- - - biến thành -o- - - --- biến thành -x- Theo phương pháp này thì tất cả 64 quáy đều có thể quy nạp lại thành quái gốc đơn, quái gốc đơn này có 3 hào tượng trưng cho Thiên Địa Nhân, mỗi hào có bốn giá trị tượng trung cho tứ tượng ---, - -, -o-, -x-. Tức một ra hai, hai ra ba, và ba là Thiên Địa Nhân tam tài. Để tiện cho việc đăng tãi VinhL xin viết --- thành |, - - thành :, -o- thành o, và -x- thành x. o thì biến thành |:, và x thì biến thành :|. VinhL dùng phương pháp biến dịch này để lấy tám quẻ bát quái theo như sau | | ..................................... o || .................................... |: || .......... o| ..................... |: .......... o: ||| ......... |:| ..................... ||: ......... |:: Càn ..... Ly ................... Tốn ..... Cấn : : ..................................... x :: .................................... :| :: .......... x: ..................... :| .......... x| ::: ......... :|: ..................... ::| ......... :|| Khôn .... Khảm .............. Chấn ... Đoài Khi so sánh 8 trùng quái được sắp xếp vào các tượng thì VinhL thấy 8 quái đơn được chia thành 2 nhóm. Nhóm Càn là Càn Tốn Cấn Ly, Nhóm Khôn là Khôn Chấn Đoài Khảm. Trong mỗi nhóm các quái đều kết hợp theo chiều thuận hoặc nghịch. Trong nhóm Càn thì quái đơn dương kết hợp theo chiều thuận, quái âm thì kết hợp theo chiều nghịch (kim đồng hồ). Trong nhóm Khôn thì quái đơn âm kết hợp theo chiều thuận, quái dương kết hợp theo chiều nghịch. Ta có nhóm Càn thì Càn thuận, Tốn nghịch, Cấn thuận, Ly nghịch, nhóm Khôn thì Khôn thuận, Chấn nghịch, Đoài thuận, Khảm nghịch, theo như hình vẻ như sau: Dựa trên phân tích sự kết hợp của các đơn quái trong 2 nhóm Càn Khôn này để lập tượng cho các trùng quái, VinhL đúc kết quy luật như sau: Bất cử trùng quái nào, chọn một trong hai đơn quái, dùng đơn quái ngoại, hay đơn quái nội củng được, gọi quái đơn đó là đơn gốc, sau đó tra xét xem quá đơn đó nằm trong nhóm nào, và thuộc cung thuận hay nghịch, Tượng 1: kết hợp quái đơn gốc với quái tới trong nhóm theo chiều thuận hay nghịch đã định. Tượng 2: kết hợp quái đơn gốc với quái tiếp tục trong vòng của nhóm theo chiều thuận hay nghịch đã định Tượng 3: kết hợp quái đơn gốc với quái đơn đối (trong Tiên Thiên Bát Quái), chú ý là quái đơn đối không còn trong nhóm củ nửa, tức là sự kết hợp đã nhảy sang vòng của nhóm thứ hai. Tượng 4: kết hợp quái gốc với quái đơn tới trong nhóm thứ hai vẫn theo chiều đã định. Tượng 5: kết hợp quái gốc với quái đơn tới trong nhóm thứ hai theo chiều đã định. Tượng 6: là bát thuần của quẻ đơn gốc Tượng 7: kết hợp quái đơn gốc với quái cuối của nhóm thứ hai. Tượng 8: kết hợp quái đơn gốc với quái cuối của nhóm một. Quái cuối của nhóm một là quái đối của quái cuối nhóm hai. Bất luận dùng quái đơn nội hay quái đơn ngoại để làm gốc; Tượng 1, Tượng 2, Tượng 3 dùng quái đơn ngoại làm tượng cho trùng quái Tượng 4, Tượng 5, Tượng 7 dùng quái đối của quái nội làm tượng cho trùng quái Tượng 6 là Bát Thuần, dùng quái gốc làm tượng của trùng quái Tượng 8 dùng quái đơn nội làm tượng cho trùng quái Thí dụ: quẻ :|: ||| Thủy Thiên Nhu Lấy quẻ đơn ngoại, :|: Khảm để làm gốc để tìm tượng. Quẻ Khảm là trong nhóm Khôn (Khôn, Chấn, Đoài Khảm), cung đi nghịch (cho nên quẻ đơn tới trong nhóm theo chiều nghịch sau Khảm là Đoài, xin xem hình trên) Ta có các tượng như sau: Tượng 1, :|: :|| , Khảm ngoại phối Đoài nội, là Tượng Khảm 1 Tượng 2, :|: ::| , Khảm ngoại phối Chấn nội, là Tượng Khảm 2 Tượng 3, :|: |:| , Khảm ngoại phối quẻ đối là Ly làm nội, Tượng Khảm 3, quẻ Ly thuộc về nhóm Càn, nên các quẻ phối hợp tới sẻ nhảy sang nhóm Càn. Tượng 4, :|: |:: , Khảm ngoại phối Cấn nội, là Tượng Đoài 4. Chú ý vì tượng 3 là phối quẻ Ly, quẻ tới sau Ly theo chiều nghịch là Cấn trong nhóm Càn. Quẻ đối của Cấn là Đoài nên lấy tượng là Đoài vậy. Tượng 5, :|: ||: , Khảm ngoại phối Tốn nội, là Tượng Chấn 5. Tượng 6, :|: :|: , Bát Thuần Khảm là tượng Khảm 6 Tượng 7, :|: ||| , Khảm ngoại phối Càn nội, là Tượng Khôn 7 Tượng 8, :|: :::, Khảm ngoại phối Khôn nội là Tượng Khôn 8. Chú ý quẻ đơn nội Khôn đối với quẻ Kiền nội của Tượng 7. Vậy quẻ Thủy Thiên Nhu là Tượng là Khôn 7, là Lục Sát, hào Tứ ứng Sơ. Thí dụ: quẻ ||| :|: , Thiên Thủy Tụng, nhưng nay lấy quẻ đơn Nội làm gốc. Tượng 1, :|| :|:, Khảm nội phối Đoài ngoại, là Tượng Đoài 1 Tượng 2, ::| :|:, Khảm nội phối Chấn ngoại là Tượng Chấn 2 Tượng 3, |:| :|:, Khảm nội phối quẻ đối là ngoại Ly, Tượng Ly 3 Tượng 4, |:: :|:, Khảm nội phối Cấn ngoại là Tượng Ly 4 Tượng 5, ||: :|:, Khảm nội phối Tốn ngoại là Tượng Ly 5 Tượng 6, :|: :|:, Bát Thuần Tượng Khảm 6 Tượng 7, ||| :|:, Khảm nội phối Càn ngoại là Tượng Ly 7 Tượng 8, ::: :|:, Khảm nội phối Khôn ngoại là Tượng Khảm 8 Vậy quẻ Thiên Thủy Tụng Tượng là Ly 7 Các bạn nên nhớ Công Thức là Tượng 1, Tượng 2, Tượng 3 dùng quái đơn ngoại làm tượng cho trùng quái Tượng 4, Tượng 5, Tượng 7 dùng quái đối của quái nội làm tượng cho trùng quái Tượng 6 là Bát Thuần, dùng quái gốc làm tượng của trùng quái Tượng 8 dùng quái đơn nội làm tượng cho trùng quái Theo phương pháp này, thì có thể bấm trên bàn tay để tìm tượng quẻ, lấy hào Thế Ứng, tính 8 biến của Bát Trạch phong thủy. Sau đinh xin viết tiếp về phương pháp tìm tượng bằng cách biến hào. Phương pháp biến hào như sau (dùng quẻ đơn Càn là thí dụ): ||| , quẻ gốc Biến 1, ||: , hào sơ, Tượng 1, Họa Hại Biến 2, |:: , hào 2, Tượng 2, Thiên Y Biến 3, ::: , hào 3, Tượng 3, Diên Niên. (biến thành quẻ đơn đối) Biến 4, ::| , biến lại hào sơ, Ngủ Quỷ (ở đây không giống như cách biến của sách Tàu) Biến 5, :|| , biến lại hào 2, Sinh Khí Biến 6, ||| , biến lại hào 3, Phục Vị (các biến hào này hợp lý hơn cách của các sách Tàu và Việt hiện nay, vì biến thứ 6 là phục vị là bát thuần nên các quẻ bát thuần đều là tượng 6. Theo cách biến hào của các sách Tàu và Việt thì biến 6 không phải là Phục Vị, mà là biến 8 mới Phục Vị) Biến 7, :|:, biến hào sơ và tam, Tượng 7, Lục Sát Biến 8, |:|, biến cả 3 hào, Tượng 8, Tuyệt Mạng. (Chú ý là khi biến 3 hào sẻ trở thành quẻ đơn đối). Bạn có thể dùng quẻ đơn nội hay quẻ đơn ngoại làm quẻ đơn gốc để biến, nhưng quy luật lấy tượng vẫn như trên là Tượng 1, Tượng 2, Tượng 3 dùng quái đơn ngoại làm tượng cho trùng quái Tượng 4, Tượng 5, Tượng 7 dùng quái đối của quái nội làm tượng cho trùng quái Tượng 6 là Bát Thuần, dùng quái gốc làm tượng của trùng quái Tượng 8 dùng quái đơn nội làm tượng cho trùng quái Thân Mến
-
Chào chú VoTruoc, chú GiaNhân, Trược hết VinhL xin thành thật xin lỗi vì sự lầm lẫn. Quả thật là ngượng vô cùng:-(( Lý do vì vừa đọc bài của chú Vo Truoc, vừa viết trả lời chú GiaNhân, vừa có công việc bận làm, nên đã đánh nhầm tên mà chính mình cũng không hay, thật là ngại quá. VinhL thành thật xin lỗi. VinhL đồng ý với chú Vo Truoc 100%. VinhL rất kính phục thầy là vì sự cương quyết và cố gắng của thầy đễ khôi phục nền Văn Hiến Lạc Việt, trong khi rất nhiều người vẫn quay mặt làm ngơ. VinhL cũng rất mến chú Vo Truoc, vì những công sức nghiên cứu và chia sẽ các kiến thức về ADNH. Kính Mến
-
Chào Thầy, chú VoTruoc, Rất cám Thầy đã bỏ công đăng các hình để mọi người có thể sử dụng. Thưa chú VoTruoc, Theo chú thì Cổ Nhân chẳng giấu gì cả, vậy xin hỏi chú có cuốn sách Tử Vi Hán Việt nào nói đến tại sao Tử Vi an theo cục, mỗi cục mỗi khác?, nếu Tử Vi là một ngôi sao trong Tử Vi Viên, làm thể nào có thể di chuyển vào cung tùy theo cục được? Và củng xin hỏi cách thức lập quẻ làm Sấm của cụ Trạng Trình là dùng quẻ Thái Ất hay quẻ Kỳ Môn, quẻ Lục Nhâm, quẻ Dịch, hay quẻ Mai Hoa, và làm sao tính cái ứng kỳ của sự việc đang đoán??? Thưa chú, còn rất nhiều, rất nhiều đều mà trong sách cổ nhân không truyền đạt, cho nên các hậu bối như VinhL, muốn học các môn của Lý Học Đông Phương đều tốn công sức nghiên cứu tự tìm tòi để mà thông đạt, thay vì cái công sức đó có thể dùng để phát huy các môn học, nay lại phải bỏ vào nghiên cứu từ đầu. Cho nên cứ lẫn quẫn trong cái vòng đen tối mò mẫn mà bò từng phân từng ly, quả thật là đáng thương cho nền Lý Học Đông Phương, cứ được chóp sáng trong khoảng khắc lại tắt lịm, cứ như thế mà mấy trăm năm, hay ngàn năm cũng vậy!!! Trong xã hội tây phương, đối với một người thích học, thích nghiên cứu tìm hiểu, thì họ có thể học hỏi được tất cả các nguyên lý, các khám phá mới nhất trong môn mà họ thích học, không ai giấu giếm gì cả, chỉ cần họ có ý trí thì sẻ đạt được. Ngược lại trong xã hội đông phương, tất cả đều tùy vào cái duyên, cái may mắn gặp được Thầy để mà học hỏi. Nhưng chưa chắc sẻ được truyền thụ tất cả. Thử hỏi hiện nay có bao nhiêu người thông đạt dịch và huyền cơ như cụ Trạng Trình xưa? Thử hỏi có bao nhiêu người biết sử dụng Kỳ Môn, Thái Ất, trên hiểu Thiên Văn, dưới rành Địa Lý, như Khổng Minh, như Trương Lương, vv... Nhưng trong xã hội tây phương, các nhà khoa học gia, vật lý, thiên văn, đếm không hết. Đó chính là cái nguyên do của sự suy thối của nền Lý Học Đông Phương. Đã hai lần cầu xin chú giải thích vấn đề 8 biến của Bát Trạch, chú đã từ chối, thì VinhL cũng cám ơn chú đã cho lời khuyến khích tự tìm lời giải. Kính Mến
-
Chào chú Gia Nhân, Cho VinhL xin rút lại hai chữ “cao siêu” vì tự nghỉ hơi quá đáng. Thật ra phương pháp thứ ba là dùng số Lạc Thư và Hà Đồ để lấy tượng vào 8 biến của Bát Trạch. Phương pháp này có liên quan đến vấn đề giải mã nguyên lý tại sao lại có 4 biến xấu Họa Hại, Ngũ Quỷ, Lục Sát, Tuyệt Mạng, và 4 biến tốt Thiên Y, Diên Niên, Sinh Khí, và Phục Vị. VinhL ngừng viết là thật tình mong chú giải nghĩa cho vấn đề này để có thêm được sự hiểu biết từ một khía cạnh khác. Theo VinhL nghỉ, phương pháp học và truyền đạt của người Đông Phương chúng ta là lấy dụng làm đầu, cho nên rất nhiều Nguyên Lý của các môn Lý Học Đông Phương ít được truyền bá hoặc bị giấu giếm, vì vậy mà đã thất truyền. Thầy truyền dạy cho trò, thì chỉ cách sử dụng, không chỉ dẫn các nguyên lý tại sao như vậy. Trò thì Thầy truyền sao học vậy, không hiểu nguyên lý tại sao cũng không giám đặt các câu hỏi, sợ phạm thượng mích lòng bậc trên. Vì vậy áp dụng thì nhiều người biết, biết nguyên lý thì ít, dần dần mà bị mai một thất truyền. Có lẻ vì vậy mà nền Văn Minh cổ, nhất là về các khoa Lý Số, đều dậm chân tại chổ, hoặc biến mất trong quá khứ, không phát triển mà còn bị thụt lùi lại. Bất cứ môn học nào, một ngành nào, muốn được phát triển, thì điều cần thiết nhất là các Nguyên Lý Căn Bản phải được truyền đạt, sau đó các khám phá mới trong môn đó phải được trao đổi để được tiếp tục nghiên cứu và phát huy. Từ sự phát huy và trao đổi các khám phá này dẫn đến nhiều khám phá mới mà môn hoặc nghành học đó mới có các bước nhảy vọt. Nhờ có Gaileo, mới có những định luật Vật Lý căn bản của Newton, nhờ có Newton mới có Hàm Số, Tích Phân, mới có các môn khoa học khác, mới có Einsten, Stephen Hawking, vv...., vì vậy mà trong vòng 300 năm, khoa học đã có thể gữi người đến Cung Trăng, có máy Vi Tính, vv.... Thế VinhL xin hỏi, Lý Học Đông Phương đã trải qua bao nhiêu ngàn năm, đã phát triễn tới đâu?? Nguyên do cái thất truyền của nên Lý Học Đông Phương cũng vì sự giấu giếm, không chịu công khai để trao đổi và cùng nhau nghiên cứu. Cho nên VinhL nghỉ rằng, để bồi dưỡng và phát huy nền Lý Học Đông Phương, thì mong các tiền bối, các bác, nếu đã nắm được nguyên lý thì xin chia sẻ đễ các hậu học tiểu bối có thể dùng cái hiểu biết, thông đạt của các tiền bối làm một bật thang để bước lên, và phát huy nền Lý Học Đông Phương của đất Việt. Trên tinh thần đó, VinhL mong chú Gia Nhân tiếp tục giải thích cái nguyên lý của Họa Hại, Ngũ Quỷ, vv..., trong Bát Trạch. Sau đó VinhL sẽ đăng lên những gì mình hiểu để tất cả cùng nghiên cứu vậy. Kính Mến
-
Chào chú Gia Nhân, Xin mời chú tiếp tục giải nghỉa. Thật ra bài phía trên VinhL đã liệt kê ra 2 cách: 1) Ghi nhớ 2 vòng Càn Tốn Cấn Ly, và Khôn Chấn Đoài Khảm trên ngón tay, lấy tượng bằng cách đi theo thứ tự các đơn quái trong vòng. 2) Dùng cách biến hào. Cách biến này VinhL thấy hợp lý hơn cách của các sách bát trạch Hán và Việt Còn thêm một cách cao siêu hơn không cần đếm, không cần biến hào, nhưng đợi khi nào chú giải thích tại sao cổ nhân đặt tên cho 8 biến là họa hại, tuyệt mệnh, vv..., thì VinhL sẻ tiếp tục. Theo cách biến của cổ nhân mà chú kiến giải thì không phù hợp với thứ tứ của các quẻ trùng trong tượng. Theo phương pháp VinhL kiến giải thì phù hợp hơn:-) Thí dụ Phương pháp của cổ nhân: Càn Biến 2 thành Ly, Tượng Thiên Hỏa Đồng Nhân không đứng thứ 2 theo thứ tự của tượng. Khảm Biến 3 thành Tốn, Thủy Phong Tỉnh, Tượng không phải tượng thứ 3 trong thứ tự của tượng Vì vậy phương pháp không được quán nhất Phương pháp VinhL: Càn biến Ly là biến 8, Thiên Hỏa Đồng Nhân là tượng đứng thứ 8 trong tượng Ly, và theo đó có thể nạp thế ứng, tượng 8, Thế Tam Ứng Lục, thuộc Tuyệt Mạng Khảm biến Tốn là biến 5, Thủy Phong Tỉnh, tượng đứng thứ năm trong tượng Chấn, cho nên Thế 5 ứng 2, thuộc Sinh Khí. Cho nên phương pháp nói trên có thể dùng để tìm 8 biến của Bát Trạch, mà còn có thể dùng để lấy tượng, nạp hào Thế và hào Ứng. Kính Mến
-
Chào các bạn, VinhL vẫn thường hay thắc mắc về xuất xứ của Lạc Thư. Đa số các sách Hán và Việt đều cho xuất xứ của Lạc Thư là từ huyền thoại con Rùa Linh hiện trên sông Lạc Thủy. Củng có thuyết cho Lạc Thư là lập theo vị trí của các nhóm sao trên trời. Huyền Thoại thi khó mà chứng minh được là có thật hay không. Còn nếu Lạc Thư do các vị trí của 9 nhóm sao trên trời mà lập ra, thì câu hỏi thứ nhất là nguyên lý gì lại chọn 9 chòm sao đó mà không chọn các chòm khác? Thứ hai, vì ảnh hưởng của vòng tuế sai, hiên nay trục trái đất đã xê dịch so với thời gian mà Lạc Thư được lập ra, và trãi qua mấy ngàn năm thì các sao trong các chòm sao của Lạc Thư củng đã di chuyển, vì vậy độ số của Lạc Thư củng có thể phải bị thay đổi. Cho nên nếu Lạc Thư căn cứ vào vị trí các nhóm sao trên trời thì nguyên lý áp dụng Lạc Thư sẻ phải luôn thay đổi theo thời gian. Đã từ lâu VinhL có ý nghỉ là Lạc Thư có thể xuất phát từ Tiên Thiên Bát Quái phối hợp Hà Đồ. Vài tháng trước, trong lúc tình cờ có khám phá ra là đường lường thiên xích của Lạc Thư hàm chứa các sự chuyển vận của thiên thể (forward motion and retrograde motion – xin xem mục Bí Ẩn của đường Lường Thiên Xích), nhưng không có cách nào lập ra được sự liên quan giữa Lạc Thư và Tiên Thiên Bát Quái cùng Hà Đồ. Mãi tới mấy ngày gần đây nay mới có thể tìm ra quy tắc của đường Lường Thiên Xích trong Tiên Thiên Bát Quái và độ số cua Hà Đồ. Chúng ta đều biết cấu kết của gia đình Càn Khôn, và 6 đứa con sắp xếp theo dương và âm quái như sau Nhóm dương quái Càn |||, Cha Chấn ::|, Trưởng Nam Khảm :|:, Trung Nam Cấn ::|, Thiến Nam Nhóm âm quái Khôn :::, Mẹ Tốn ||:, Trưởng Nử Ly |:|, Trung Nử Đoài :||, Thiếu Nử Trong Tiên Thiên Bát Quái, nếu ta lấy thứ tự như trên mà đi thì ta sẻ có đồ hình như sau: Nếu ta vẽ 2 đường nối liền Cấn Đoài, vã Kiền Khôn, thì đây chính là đường Lường Thiên Xích của Lạc Thư. Nay đã có Lường Thiên Xích, nhưng số của Tiên Thiên chỉ có Tám, không đủ để lấp vào các ô theo đường đi của Lường Thiên Xích, cho nên ta lấy các số thứ tự của Hà Đồ, khởi từ Khôn Bắc hay Kiền Nam đi theo vòng của Lường Thiên Xích thì ta sẻ có các độ số của Lạc Thư. Như thế thì đây có thể là nguyên lý xuất xứ của Lạc Thư. Đồ hình này còn có thể giải thích hợp lý các quy luật Đông Tứ Trạch, Tây Tứ Trạch, 8 cách biến quái Họa Hại, Thiên Y, Diên Niên, Ngủ Quỷ, Sinh Khí, Lục Sát, Tuyệt Mạng của Bát Trạch Phong Thủy. Thân Mến
-
Xin chúc Thầy Vạn sự như ý, sức khỏe dồi dào, sống lâu trăm tuổi, để sớm ngày khôi phục và phát huy nền Văn Hiến Lạc Việt Huyền Vĩ. VinhL
-
Chào các bạn, Thấy mục Thái Ất và Độn Giáp này nó đìu hiu quá, nên dù tài sơ học thiểu VinhL củng xin đóng góp chút chút. Cái mốc quan trong trong môn Thái Ất là năm Thượng Cổ Giáp Tý, năm mà theo Thái Ất là có thất tinh liên châu, là điểm xuất phát trung để tính tích tuế và kỷ dư. Nay VinhL xin dùng cái mốc quan trọng này để nghiên cứu cái ảnh hưởng của Tuế Sai vào tiết Xuân Phân. Khoa Thiên Văn học hiện đại dùng giao điểm của hai vòng xích đạo và hoàng đạo để làm điểm móc cho các xích kinh (Right Ascension - RA) của các sao, và điểm này củng là điểm Vernal Equinox (Xuân Phân) của thời tiết. Sự tương quan giữa vòng Zodiac của Tây phương và vòng Địa chi của Đông phương như sau: Tuất Aries 0 độ (điểm Xuân Phân – Vernal Equinox) Dậu Taurus 30 độ Thân Gemini 60 độ Mùi Cancer 90 độ Ngọ Leo 120 độ Tỵ Virgo 150 độ Thìn Libra 180 độ Mão Scorpio 210 độ Dần Sagittarius 240 độ Sữu Capricornus 270 độ Tý Aquarius 300 độ Hợi Pisces 330 độ Lập số của 12 cung địa chi là Tý 1, Sửu 2, Dần 3, Mão 4, ...., Hợi 12 Chu kỳ của vòng tuế sai theo đông phương là 25920 năm. Tức trục trái đất sẻ quay một vòng 12 cung trong 25920 năm. Vậy trong 25920/12 = 2160 năm sẻ đi một cung. Nay chúng ta dùng phương pháp của môn Thái Ất để tính các điểm Lập Xuân và so sánh với phương pháp Thiên Văn học. Phương Pháp Tính như sau: Lấy Tích Tuế của năm tính chia cho chu kỳ Tuế Sai 25920 để tìm thừa số. Sau đó lấy thừa số được chia cho 2160, cộng thêm 2 để xem mốc Xuân Phân đến cung nào. Theo đông phương thì dùng điểm Đông chí nhưng ta dùng điểm Xuân Phân cho nên phải cộng thêm 2 vì tiết Xuân Phân cách Đông chí 2 cung. Tóm lại công thức như sau: Cung = Ceiling[((10153917 + năm) mod 25920)/2160] + 2 Chúng ta sẻ tính toán các năm như sau: 1) 4713 B.C, April 29 ((10153917 – 4713) mod 25920) / 2160 = 14484/2160 = 6.71 Làm chẳn lên là 7 cộng thêm 2 là 9, cung số 9 tức cung Thân, điểm Xuân Phân ở cung Thân. Theo trình thiên văn tây phương thì: April 29, năm 4713 B.C. 18h40m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.117s ở cung Gemini – cung Thân 2) 2553 B.C., April 12 ((10153917 – 2553) mod 25920) / 2160 = 16644 / 2160 = 7.71 Làm chẳn lên là 8 cộng thêm 2 là 10, cung số 10 là cung Dậu, điểm Xuân Phân ở cung Dậu. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: April 12 năm 2553 B.C. 5h00m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.101s ở cung Taurus – cung Dậu 3) 960 B.C., March 30 ((10153917 – 960) mod 25920) / 2160 = 18237 / 2160 = 8.44 Làm chẳn lên là 9 cộng thêm 2 là 11, cung số 11 là cung Tuất, điểm Xuân Phân ở cung Tuất. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 30 năm 960 B.C. 15h30m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân, xích kinh của mặt trời là 0h00m00.055s ở cung Aries – cung Tuất. 4) 393 B.C., March 25 ((10153917 – 393) mod 25920) / 2160 = 18804 / 2160 = 8.71 Làm chẳn lên là 9 cộng thêm 2 là 11, cung số 11 là Tuất, vậy điểm Xuân Phân ở cung Tuất Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 25 năm 393 B.C. 21h07m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aries – cung Tuất 5) 206 B.C, March 25 ((10153917 – 206) mod 25920) / 2160 = 18991 / 2160 = 8.79 Làm chẳn lên là 9 cộng thâm 2 là 11, cung số 11 là Tuất, điểm Xuân Phn ở cung Tuất Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 25 năm 206 B.C. 3h41m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aries – cung Tuất 6) 960 A.D., March 15 ((10153917 + 960) mod 25920) / 2160 = 20157 / 2160 = 9.33 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, vậy điểm Xuân Phân ở cung Hợi. Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 15 năm 960 A.D. 7h15m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 7) 1279 A.D., March 13 ((10153917 + 1279) mod 25920) / 2160 = 20476 / 2160 = 9.48 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, vậy điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 13 năm 1279 A.D. 14h03m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 8) 2000 A.D., March 20 ((10153917 + 2000) mod 25920) / 2160 = 21197 / 2160 = 9.81 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 20, năm 2000 A.D. 7h37m00.00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi 9) 2008 A.D., March 20 ((10153917 + 2008) mod 25920) / 2160 = 21205 / 2160 = 9.82 Làm chẳn lên là 10, cộng thêm 2 là 12, tức cung Hợi, điểm Xuân Phân ở cung Hợi Theo trình thiên văn Tây Phương thì: March 20 năm 2008 A.D. 5h50m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Pisces – cung Hợi. 10) Nếu dùng phương pháp của Thái Ất thì năm nào điểm Xuân Phân mới chuyển sang cung Tý? Chúng dùng năm 2000 để tính, theo như trên thì thừa số của Tích Tuế chia cho chu kỳ Tuế Sai là 21197, và sau đó chia chia cho 2160 được 9 gần tới 10. Ta muốn có được kết quả là 10 khi chia cho 2160 thì thừa số phải là 21600. Vậy 21600 – 21197 = 403 năm nữa tức là năm 2000+ 403 = 2403. ((10153917 + 2403) mod 25920) / 2160 = 21600 / 2160 = 10 vừa đúng 10. Vậy năm 2404 điểm Xuân Phân sẻ chuyển đến cung Tý ((10153917 + 2404) mod 25920) / 2160 = 21601 / 2160 = 10.000462963 tứ bắt đầu đi vào cung 11 11 cộng thêm 2 là 13 tức là 1 cung Tý. Năm 2404 là năm Giáp Tý!!! Theo trình thiên văn Tây Phương thì đến năm 2598 thì điểm Xuân Phân mới đến cung Aquarius. March 20 năm 2598 6h33m00s là điểm Vernal Equinox Xuân Phân ở cung Aquarius – cung Tý, và xích kinh của mặt trời là 0h00m00.145s. 2598 – 2404 = 194 năm. Sự khác biệt là 194 năm thì khoảng 2.69 độ xích kinh. So sánh các năm đã tính ở trên thì ta thấy hoàn toàn phù hợp. Phương pháp dùng mốc của Thái Ất để tính đi sớm hơn phương pháp Thiên Văn hiện nay khoảng 194 năm, 2.69 độ xích kinh, hoặc 0.75% sai biệt.
-
Chào bạn NguyenKha, Xin trích trong quyển “Kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni”, Liên Du Dịch Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ, mau đến quả vị Phật, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh Văn một phen nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà la ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì bốn quả Sa môn không cầu tự được. Công lực thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi Thiết vi và Tu di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như những hạt bụi, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm bồ đề. Nếu chúng sanh nào, trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi, nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày, và trì tụng chú Đại Bi, tât đều được toại nguyện. .................... Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà la ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp, lại vì chúng sanh có thể dứt trừ sự khổ nạn, nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẻ thành Phật. Cho nên hành gỉa thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân bồ đề, thì sẽ được vô lượng vô biên công đức. Thân Mến
-
Chào Thầy, chú Vo Truoc, VinhL chưa nghiên cứu sâu vào vấn đề này, nhưng trong thư viện của mình có một vài tài liệu về nguyên lý này. Trong sách “Hà Đồ Trong Văn Minh Lạc Việt” của Thầy, có nêu lên vấn đề này, và đính chính theo Nguyên Lý Hà Đồ và Hậu Thiên Bát Quái Lạc Việt cho 3 quẻ Khôn, Chấn, Tốn. VinhL đánh lên những tài liệu này để chú Vo Truoc có thêm tài liệu nghiên cứu. Trích từ quyển “Địa Lý Toàn Thư” do Lê Khánh Trường và Lê Việt Anh dịch, Văn Lang xuất bản 1997. NGUYÊN NGŨ HÀNH NẠP GIÁP CHI NGHĨA Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái cùng sự tiêu diệt của 24 sơn và sự phát sáng của Bát quái, tất cả đều được nói rõ trong cuốn sách này. Trương Cửu Nghi nói: “ Ý chỉ của nạp giáp bắt nguồn từ Thái Âm; mà Thái Âm tròn đầy lại bắt nguồn từ Thái Cực; nguồn gốc của Thái Cực là Vô Cực”. Không có lời nói nào, hình tượng nào có thể diễn tả được Vô Cực. Vô Cực bao hàm hết thảy, nên mới nói Thái Cực bắt nguồn từ Vô Cực. Trong Vô Cực, khí vận động cọ sát, khí nhẹ và trong là Dương, biểu thị bằng phần trắng trong Thái Cực đồ; khí nặng và đục là Âm, biểu thị bằng phần đen trong Thái Cực đồ, đây là Lưỡng Nghi. Khí vận động cọ sát trong Dương nghi mà có được khí thuần dương, đó chính là Thái Dương ở góc Càn, Đoài phương Đông Nam của Thái Cực đồ; có được khí Âm bảy Dương ba chính là Thiếu Âm ở góc Chấn, Ly phương Đông Bắc của Thái Cực đồ. Khí vận động cọ sát trong Âm nghi sinh ra khí Thuần Âm, đây là Thái Âm ở góc Khôn, Cấn phương Tây Bắc trong Thái Cực đồ; có được khí Dương bảy Âm ba chính là Thiếu Dương ở góc Tốn, Khảm phương Tây Nam của Thái Cực đồ. Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm được gọi là Tứ Tượng. Mà đạo lý của Âm Dương là Âm Dương cùng phối hợp trong thuần dương có Âm, trong thuần Âm có Dương. Khí vận động cọ sát trong Thái Dương, mà toàn thể đều là Dương đó chính là Càn; khí có được hai dương một âm là Đoài. Khí vận động trong Thiếu Dương mà có được khí trong âm ngoài dương là chính là Ly; Khí có được một dương hai âm là Chấn. Khí vận động trong Thiếu Âm có được khí một âm hai dương là Tốn; có được khí trong dương ngoài âm là Khảm. Khí vận động trong Thái Âm mà có được hai âm một dương là Cấn; có được toàn thể là Âm, là Khôn. Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn được gọi là Bát quái. Người ta đều cho rằng ngoài Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, ngoài lưỡng nghi sinh Tứ Tượng, ngoài Tứ Tương sinh Bát Quái, mà không biết rằng Lưỡng Nghi ở trong Thái Cực, Tứ Tượng ở trong Lưỡng Nghi, Bát quái ở trong Tư Tượng, hiểu rỏ điều này thì mới có thể biết được ý nghĩa của Nạp Giáp. Ly là Nhật thể, Khãm là Nguyệt thể, 6 quái còn lại chiếu theo thứ tự nhất định mà xuất hiện trong bát quái, đều lấy Càn làm cha, Khôn làm Mẹ, Chấn là Trưởng Nam, kế thừa bản thể của Càn Cha, nhờ vào Khôn mẹ xuất hiện ở Phương Bắc, cho nên Thái Âm từ ngày 28 mỗi tháng đến ngày mùng 2 tháng sau toàn thể đen tuyền mà thành quẻ Khôn; mặt trăng ban đầu sáng có ba phần, đó là một dương vừa sinh, hào sơ lục (hào Ất Mùi) của tiêu Khôn là hình tượng của Chấn Tam là sơ cửu (hào Canh Tí, nên Khôn Ất sơn kỵ dùng ngày Canh Tí và ngày Mão). Ngày mùng 8 mặt trăng ở phương Canh nên Chấn nạp Canh mà Hợi Mùi Chấn cũng nạp tam hợp, quái này có 6 hào đó là: sơ cửu Canh Tí (phụ mẩu); lục nhị Canh Dần (huynh đệ); lục tam Canh Thìn (thê tài); cửu tứ Canh Ngọ (tử tôn); lục ngũ Canh Thân (quan quỉ), thượng lục Canh Tuất (thê tài). Lấy hào quan trong quái làm sát diệu nên quẻ Chấn kỵ Thân thủy ngày Thân, dùng nó để xem Tử, Phụ, Tài, Quan thì cũng dễ dàng luận đoán. Quẻ này tựa Mão Long, nhập thủ (Canh Hợi Mùi đồng), hướng Đoài (Tí Tị Sửu đồng) là Tam Tam Trạch Lôi Tùy. Cung Chấn thuộc Mộc, hào sơ cửu là Canh Tí (phụ mẫu); hào lục nhị là Canh Dần (huynh đệ); hào lục tam Canh Thìn (thê tài); cửu tứ là Đinh Hợi (phụ mẫu); cửu ngũ là Đinh Dậu (quan quỉ); thượng lục Đinh Mùi (thê tài). Long là nội quái, cần có Sa, đóng tại phương vị Dần Thìn; sơn phóng cần Triều sơn cao vút lại là ngoại quái, cần có Thủy đóng ở phương Hợi Dậu Mùi; Thủy cần lưu động, vì Long quản Sa nên hướng quản thủy, đây là tựu Chấn Cát Chấn. Mùng 8 là thượng huyền, mặt trăng sáng 6 phần, thế là hia dương sinh, lục nhị (hào Canh Dần) tiêu Chấn là Cửu nhị (hào Đinh Mão, nên Chấn Canh sơn và Hợi Mùi sơn kỵ dùng ngày Mão tháng Dậu, là tượng của Đoài Tam). Ngày mùng 8, trăng ở phương Đinh nên Đoài nạp Đinh mà Tị Sửu cũng nạp tam hợp với Đoài. Quẻ này có 6 hào: sơ cửu là Đinh Tỵ (quan quỉ), cửu nhị là Đinh Mão (thê tài); lục tam Đinh Sửu (phụ mẫu); cửu tứ là Đinh Hợi (tử tôn), cửu ngũ là Đinh Dậu (huynh đệ); thượng lục là Đinh Mùi (phụ mẫu), hào Quan trong quẻ là sát diệu nên Đoài kỵ Tị thủy, ngày Tỵ. Đến ngày 15 mặt trăng tròn đầy, đây là biểu hiện của Thuần Âm, lục tam (hào Đinh Sửu) của tiêu Đoài, là cửu tam (hào Giáp Thìn, vì thế Đoài, Đinh Tị, Sửu sơn kỵ ngày Giáp) đây là tượng của Càn Tam. Khi Nhật sơ bát thì Nguyệt sinh ở phương Giáp, nên Càn nạp Giáp Nhâm là Thiên Can thứ chín. Bát quái nạp Bát Can, còn lại cửu và thập, phân làm Càn và Khôn, nên Càn nạp Giáp và Nhâm; Khôn nạp Ất và Quí. La Kinh không có Tuất Tị, sở dĩ Ly nạp Tị là vì Hậu Thiên đóng ở cung Càn, phân ra Nhâm của Càn nạp trong Ly; Khảm nạp Tuất là vì Hậu Thiên đóng ở Khôn, là phân ra Quí của Khôn, nạp trong Khảm. Quẻ Càn có 6 hào: sơ cửu Giáp Tí (tử tôn); cửu nhị Giáp Dần (thê tài); Cửu tam Giáp Thìn (phụ mẫu); cửu tứ Nhâm Ngọ (quan quỉ); cửu ngũ Nhâm Thân (huynh đệ); thượng cửu Nhâm Tuất (phụ mẫu), Hào quan lấy chúng làm sát diệu trong quẻ, nên Càn (cùng Giáp) kỵ Ngọ Thủy, này Ngọ. Ba quẻ trên lấy mặt trời mọc là chuẩn, Nhật Nguyệt tròn đầy mà dưới thiếu 3 phần, đây là một Âm vừa sinh ra. Sơ cửu (hào Giáp Tí) của tiêu Càn là sơ lục (hào Tân Sửu, nên Càn Giáp sơn kỵ dùng ngày Tân và Tân Sửu), nó là tượng của Tốn Tam (đây là ý của câu: “Càn gặp Tốn thời nguyệt khuất”). Khi mặt trời (nhật) mọc thì mặt trăng (nguyệt) đóng ơ phương Tân, nên Tốn nạp Tân, quẻ này có 6 hào: Sơ lục Tân Sửu (thê tài); Cửu nhị Tân Hợi (phụ mẫu); Cửu tam Tân Dậu (quan quỉ); Lục tứ Tân Mùi (thê tài); Cửu ngũ Tân Tị (tử tôn); Thượng cửu Tân Mão (huynh đệ), hào Quan trong quái lấy đó làm sát diệu, nên Tốn (cùng Tân) kỵ Dậu Thủy, kỵ ngày Dậu. Đến ngày 23 là hạ huyền, trăng khuyết 6 phần là hai âm sinh, Cửu nhị (hào Tân Hợi) của diệt Tốn là Lục nhị (hào Bính Ngọ, nên Tốn, Tân Sơn kỵ ngày Bính và Bính Ngọ), nó là tượng của Cấn tam. Khi mặt trời mọc thì mặt trăng ở phương Bính, vì vậy Cấn nạp Bính, quẻ này có 6 hào: Sơ lục Bính Thìn (huynh đệ); Lục nhị Bính Ngọ (phụ mẫu); Cửu tam Bính Thân (tử tôn); Lục tứ Bính Tuất (huynh đệ); Lục ngũ Bính Tí (thê tài); Thượng cửu Bính Dần (quan quỉ), hào Quan trong quái lấy đó làm sát diệu, nên Cấn (cùng Bính) kỵ Dần Thủy và ngày Dần. Đến ngày 28 thì mặt trăng hoàn toàn biến mất, Cửu tam (hào Bính Thân) của tiêu Cấn là Lục Tam (hào Ất mão, nên Cấn, Bính sơn kỵ ngày Ất và Ất Mão) đây là tượng của Thuần Âm Khôn tam. Khi mặt trời mọc thì mặt trăng ở phương Ất nên Khôn nạp Ất và Quí, quẻ này có 6 hào: Sơ lục Ất Mùi (huynh đệ); Lục nhị Ất Tị (phụ mẫu); Lục tam Ất Mão (quan quỉ); Lục tứ Quí Sửu (huynh đệ); Lục ngũ Quí Hợi (thê tài); Thượng lục Quí Dậu (tử tôn); hào Quan trong quái lấy đó làm sát diệu nên Khôn, Ất kỵ Mão Thủy, ngày Mão. Sáu quẻ vừa nêu trên đều có sinh diệt, chỉ có Khảm Ly có được nhật nguyệt chính thể là không bị tiêu diệt. Trong Tiên Thiên chúng là một Đông một Tây, trong Hậu Thiên chúng là một Nam một Bắc. Lấy Tuất Tị của trung tâm Lạc Thư hình thành kinh vĩ, vì vậy hào trong Khảm Tam nạp Tuất Thổ; hào trong Ly tam nạp Tị Hỏa. Mà Địa lí phong thủy lấy Tuất nhận Cấn, Ất nhận Khôn, do đó Ly phân ra Nhâm của Càn, tam hợp với Dần Tuất mà nạp Nhâm Dần Tuất, Khảm phân làm Quí của Khôn, tam hợp với Thân Thìn mà nạp Quí Thân Thìn. Quẻ Ly có 6 hào: Sơ cửu Kỷ Mão (phụ mẫu), Lục nhị Ất Sửu (tử tôn); Cửu tam Kỷ Hợi (quan quỉ); Cửu tứ Kỷ Dậu (thê tài); Lục ngũ Ất Mùi (tử tôn); Thượng cửu Ất Tị (huynh đệ), hào Quan lấy đó làm sát diệu nên Ly (Nhâm Dần Tuất) kỵ Hợi Thủy, này Hợi. Khảm có 6 hào: Sơ lục Mậu Dần (tử tôn); Cửu nhị Mậu Thìn (quan quỷ); Lục tam Mậu Ngọ (thê tài); Lục tứ Mậu Thân (phụ mẫu); Cửu ngũ Mậu Tuất (quan quỉ); Thượng lục Mậu Tí (huynh đệ), hào Quan trong quái lấy đó làm sát diệu, nên Khảm (Quý Thân Thìn) kỵ Thìn, Mậu (Mậu Thìn, Mậu Ất). Nay lại lấy các loại Long mạch, nạp vào các quẻ để xem vận khí của tử, phụ, tài, quan, Long là nội quái, cai quản sa nên cần Sa sơn cao vút; Hướng là ngoại quái, cai quản thủy nên cần thủy đón chào. Đoạn sau đây trích từ quyển Chu Dịch với Dự Đoán Học của Thiệu Vĩ Hoa, Mạnh Hà Dịch Trong phương pháp nạp chi vì sao quẻ Càn lại nạp: tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất? Vì sao quẻ Khôn lại nạp: mùi, tỵ, mão, sửu, hợi, dậu? Người xưa khi bàn về hào đã lấy 12 hào của hai quẻ “Càn, Khôn” ứng với 12 tháng trong 1 năm. Điều này trong các sách đã nói rất rõ: cái gọi là “hào thời” là chỉ 12 hào trong hai quẻ Càn và Khôn tương đương 12 thời, lại đem 12 thời này chia làm 12 thán. Tức hào chín đầu của Càn làm “tý” là tháng 11, hào chín hai làm “dần” là tháng giêng; hào chín ba làm “thìn” là tháng 3; hào chín bốn làm “ngọ” là tháng 5; hào chín năm làm “thân” là tháng 7; hào chín trên làm “tuất” là tháng 9. Hào sáu đầu của quẻ Khôn làm “mùi” là tháng 6; hào sáu hai làm “dậu” là tháng 8; hào sáu ba làm “hợi” là tháng 10; hào sáu bốn làm “sửu” là tháng 12; hào sáu năm làm “mão” là tháng 2; hào sáu trên làm “tỵ” là tháng 4. Căn cứ nguyên tắc thời của 12 hào cho nên hào đầu cua Càn lấy là tý, rồi cách ngôi mà định hào tiếp theo; Hào đầu của quẻ Khôn bắt đầu từ Mùi, rồi cách ngôi mà định tiếp hào sau. Nhưng cách sắp xếp các hào tiếp theo hào đầu không phù hợp với cách sắp trước kia đó là vì quẻ Khôn là quẻ âm, cách sắp xếp hào đầu của nó là đi ngược lên. Đối với 6 quẻ khác: chấn, khảm, tốn, cấn, ly, đoài, thứ tự địa chi các hào của nó cũng được sắp xếp tuần tự theo một quy luật nhất định. Vì: Chấn, Khảm, Cấn là quẻ dương nên sắp xếp theo chiều thuận. Do đó hào chín đầu cua quẻ Chấn bắt đầu từ Tý, hào sáu đầu của quẻ Khảm bắt đầu từ Dần; hào sáu đầu của quẻ Cấn bắt đầu từ Thìn. Theo cách sắp xếp hào đầu của 3 quẻ ấy chính là tý, dần, thìn là cua ba hào trong quẻ Càn. Cho nên quẻ Chấn là trưởng nam, lấy hào đầu của Càn làm hào đầu của nó; quẻ Khảm là trung nam lấy hào hai của Càn làm hào đầu; Cấn là thiếu nam lấy hào ba của Càn làm hào đầu. Thứ tự sắp xếp hào đầu của 3 quẻ âm Tốn, Ly, Đoài khá phức tạp. Nó không những đi ngược của các hào thứ mà thứ tự của ngôi hào và quẻ cũng hoàn toàn ngược lại. Hào đầu của quẻ ấy thứ tự là: Đoài, Ly, Tốn. doài là thiếu nử, theo quy tắc đếm ngược của quẻ âm thì lấy hào đầu của quẻ Khôn al`m hào trên của quẻ Đoài, nên hào sáu trên của quẻ Đoài bắt đầu ở Mùi - Thổ; Ly là trung nữ lấy hào hai của Khôn làm hào sáu trên của Ly là Tỵ - Hỏa; Tốn là trưởng nữ lấy hào ba của Khôn làm hào sáu trên nên hào trên của Tốn là Mão - Mộc. Thứ tự của các hào là từ trên xuống dưới sắp xếp cách ngôi. Kính Mến