Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. Bói Dịch Bát quái có tám quẻ là 1: KHÔN – 2: CHẤN – 3: KHẢM – 4: ĐOÀI – 5: CẤN – 6: LY – 7: TỐN – 8: CÀN Tương ứng với các ý nghĩa (như theo cổ thư) là: Địa – Lôi- Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong – Thiên. (Tức: Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Những từ chỉ tên của mỗi quẻ trong Bát Quái là những cái tên của Việt ngữ, Hán tự chỉ là mượn chữ có âm na ná để phiên âm mà thôi (gọi là giả tá) chứ bản thân chữ bằng Hán tự không biểu ý gì ra với cái nghĩa của âm tiết nói lên tên quẻ cả. Ví dụ 1: CẤN 艮 , Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “sơn 山” trong Hán ngữ cả; “Cấn” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Núi”, trong cái nôi khái niệm: Núi=Non=Hòn=Cồn=Cấn=San=Sơn. Ví dụ 2: LY 离, Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “hỏa 火” trong Hán ngữ cả, mà “ly 离” lại có nghĩa là “rời” trong Hán ngữ; “Ly” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Lửa”, trong cái nôi khái niệm: Tá=Lả=Lửa=Ly. V.v. và v.v. (những ý nghĩa như cổ thư ghi trên chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Khái niệm Âm Dương là có xuất xứ từ khái niệm của người Việt. Khái niệm này trong toán học là số học nhị phân ( số 0 tương đương Âm, số 1 tương đương Dương). Người xưa xếp chồng hai quẻ của Bát Quái lại với nhau thì thành ra một quẻ Dịch, nên tên gọi mỗi quẻ Dịch đó là bằng tên của hai quái chồng lên nhau ( ví dụ lấy quái Khôn chồng lên quái Khôn thì thành một quẻ Dịch có tên là “Khôn Khôn” hay gọi là “Thuần Khôn”). Như vậy mỗi quẻ Dịch có 6 hàng vạch, gọi là 6 hào, đếm thứ tự từ dưới lên trên. Sáu hào này chính là 6 giá trị của ba “bit” thông tin (mỗi “bít” thông tin có hai giá trị xác suất, hoặc là 0 hoặc là 1). Ba “bit” thông tin thì sẽ cho ra được 64 “tổ hợp thông tin” hay gọi là 64 “thông điệp”. Bởi vậy mà mỗi quẻ Dịch gồm 6 hào là có chứa đựng một thông điệp nhất định. Sự thay đổi giá trị của mỗi hào (đang giá trị 0 đổi thành giá trị 1, hay đang giá trị 1 đổi thành giá trị 0) của một quẻ Dịch cụ thể, sẽ làm thay đổi nội dung của “thông điệp” tức nội dung, đồng thời cả tên gọi của chính quẻ Dịch đó. Nội dung cụ thể mỗi thông điệp ấy là gì thì thật là muôn hình vạn trạng, tùy theo nó được vận dụng ứng với cảnh cụ thể nào. Bởi vậy người xưa mới vận dụng tư duy để mà “bói”, “bốc”, “đoán”, “giải”, “suy”, “diễn” v.v. Theo hào, thì đếm hào từ dưới lên trên, còn theo số học nhị phân thì hào chính là giá trị của bit, và đếm từ phải sang trái như thứ tự giá trị bít khi đưa vào bộ ghi của máy tính. Để dễ nhớ tên của quẻ Dịch như cổ thư đã đặt tên, thì xếp lại thứ tự các quẻ Dịch như thứ tự đếm hệ số nhị phân ba bít từ 0 đến 63 là được 64 thông điệp( tức từ 0 0 0 0 0 0 tương ứng quẻ KHÔN KHÔN, đến 1 1 1 1 1 1 tương ứng quẻ CÀN CÀN). Nội dung của mỗi quẻ Dịch (theo cổ thư đã “giải”, mà trường hợp lấy riêng chỉ ứng với “sức khỏe” và ứng với “hành vi” thôi – là hai vế của câu “bát” sau tên quẻ là câu “lục”) thì sẽ có nội dung thuộc tên từng quẻ Dịch là như dưới đây: KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN”: ( 0 0 0 0 0 0 ) Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may. CHẤN KHÔN - “LÔI ĐỊA Phục” đây: ( 0 0 0 0 0 1 ) Tai qua nạn khỏi; dịp này hồi sinh. KHẢM KHÔN - quẻ “ĐỊA THỦY Sư”: Đề phòng tai nạn; kiện thì thua thâm ĐOÀI KHÔN - quẻ “ĐỊA TRẠCH Lâm”: Đẻ xong săn sóc; huề đồng dưới trên. CẤN KHÔN - quẻ “ĐỊA SƠN Khiêm”: Coi chừng sinh dục; nhún nhường thì vui. LY KHÔN - “ĐỊA HỎA Minh Di”: Coi chừng nguy hiểm, chờ thì mới an. TỐN KHÔN - quẻ “ĐỊA PHONG Thăng”: Đề phòng bệnh dịch; dụng bằng tài hơn. CÀN KHÔN - quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” : Bệnh nhẹ chẳng đáng; khiêm nhường tiến hay. KHÔN CHẤN – “LÔI ĐỊA Dự” đây: Bình yên mạnh khỏe, việc ngày ngày thông. CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ mong: Sức khỏe đều ổn; tranh giành vươn lên. KHẢM CHẤN: - “LÔI THỦY Giải” tuyên: Bình yên vô sự; lo phiền hết thôi. ĐOÀI CHẤN - “Qui Muội TRẠCH LÔI”: Bệnh tái rồi khỏi; lôi thôi đàn bà. CẤN CHẤN - “LÔI SƠN Tiểu Qua”: Lơ chăm bệnh kéo; dễ lòa vì ham LY CHẤN - quẻ “LÔI HỎA Phong”: Bệnh nhẹ kéo mãi; nghiêm làm thành công. TỐN CHẤN - quẻ “LÔI PHONG Hằng”: Coi chừng huyết áp; hãy đừng đổi thêm. CÀN CHẤN - “Địa Tráng LÔI THIÊN”: Coi chừng tim mạch; thuận liền chớ kiêu. KHÔN KHẢM - “THỦY ĐỊA Tỷ” nêu: Ngừa da viêm nhiễm; chọn điều chung tay. CHẤN KHẢM - “THỦY LÔI Truân” đây: Hỏa hoạn, mất ngủ; chờ ngày qua nan. KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI KHẢM - “THỦY TRẠCH Tiết” đi: Thận và tiêu hóa; chậm khi mắc lầy. CẤN KHẢM - “SƠN THỦY Kiển” đây: Coi chừng bệnh nặng; bị vây, Nam về. LY KHẢM - “THỦY HỎA Ký Tề”: Đề phòng sinh lý; cũ thì giữ nguyên. TỐN KHẢM - “THỦY PHONG Tỉnh” tuyên: Bệnh cũ tái phát; coi chừng bại vong. CÀN KHẢM - “THIÊN THỦY Nhu” mong: Coi chừng bài tiết; chờ hòng thời cơ. KHÔN ĐOÀI - “TRẠCH ĐỊA Tùy” dò: Dồi dào sức khỏe; bàn cho công thành. CHẤN ĐOÀI - “LÔI TRẠCH Tùy” thanh: Thận trọng nội tạng; vui hành động lên. KHẢM ĐOÀI - “TRẠCH THỦY Khốn” khuyên: Cẩn thận ăn uống; giữ niềm mê say. ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI”: Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. CẤN ĐOÀI - quẻ “TRẠCH SƠN Hàm”: Coi chừng mệt mỏi; nhà làm ấm êm. LY ĐOÀI - “TRẠCH HỎA Cách” răn: Coi chừng bệnh cũ; dài ngày đổi ra. TỐN ĐOÀI - “PHONG TRẠCH Đại Qua”: Coi chừng suy nhược; vững mà đơn côi. CÀN ĐOÀI - “THIÊN TRẠCH Quải” lời: Bệnh tình lặt vặt; kiêu thời lâm nguy. KHÔN CẤN - “SƠN ĐỊA Bác” đi: Có bệnh tình dục; đến thì thoái suy. CHẤN CẤN – quẻ “SƠN LÔI Di”: Bệnh do ăn uống; khó vì nuôi ăn. KHẢM CẤN – quẻ “SƠN THỦY Mông”: Ưu phiền lo lắng; hãy nâng tầm nhìn. ĐOÀI CẤN - “SƠN TRẠCH Tổn” tuyên: Hao tổn thể lực; được đền mai sau. CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu: Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. LY CẤN - “SƠN HỎA Bí” dò: Coi chừng nóng sốt; thiệt do mê ngoài. TỐN CẤN - “SƠN PHONG Cổ” lời: Coi chừng phẫu thuật; ngã rồi xông lên. CÀN CẤN - “Đại Súc THIÊN SƠN”: Coi chừng kiệt sức; chờ tiềm năng lên. KHÔN LY - “HỎA ĐỊA Tấn” khuyên: Thận trọng bệnh nhẹ; trí hiền sục sôi. CHẤN LY - “Phệ Hạp HỎA LÔI”: Thần kinh bảo trọng; kịp thời xử đi. KHẢM LY - “THỦY HỎA Vị Tề”: Bệnh dần dần khỏi; lại về tương lai. ĐOÀI LY - “HỎA TRẠCH Khuê” nài: Bệnh dài khó chịu; trở xoay bất đồng. CẤN LY - “SƠN HỎA Lữ” mong: Bệnh tình nghiêm trọng; vẫn trong tạm thời. LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Sức khỏe suy sụp; gặp thời vận may. TỐN LY - “Đỉnh HỎA PHONG” này: Thận trọng nóng lạnh; sức nay đang tràn. CÀN LY - “Đại Hữu HỎA THIÊN”: Gặp bệnh chữa gấp; rộng liền thành công. KHÔN TỐN - “PHONG ĐỊA Quán” mong: Coi chừng tai nạn; khoan dung thi hành. CHẤN TỐN - quẻ “Ích LÔI PHONG”: Bệnh kéo dai dẳng; thiện hành thành công. KHẢM TỐN - “PHONG THỦY Hoán” mong: Phòng ngừa nội bệnh; khó khăn rút dù. ĐOÀI TỐN - “PHONG TRẠCH Trung Phu”: Bệnh nhẹ thành nặng; êm ru trong ngoài. CẤN TỐN - “PHONG SƠN Tiệm” nài: Chậm chữa nguy hiểm; dẻo dai mà làm. LY TỐN - “PHONG HỎA Gia Nhân”: Mệt mỏi bất lực; dưới trên thuận hòa. TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra: Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền CÀN TỐN - “Tiểu Súc PHONG THIÊN”: Tránh làm quá sức; giữ kiên chờ thời. KHÔN CÀN - “THIÊN ĐỊA Bĩ” nài: Tim mạch, bài tiết; tắc thời, im hơi. CHẤN CÀN - “Vô Vọng THIÊN LÔI”: Bất ngờ, mất ngủ; loạn thời, hãy im. KHẢM CÀN - “THIÊN THỦY Tụng” tuyên: Phong thấp cảm lạnh; coi chừng chấp tranh ĐOÀI CÀN - “THIÊN TRẠCH Lý” xưng: Hô hấp, tình dục; hợp tình thực thi. CẤN CÀN - “THIÊN SƠN Độn” thì: Sức khỏe xuống dốc; trốn đi thì lành. LY CÀN - “THIÊN HỎA Đồng Nhân”: Coi chừng viêm nhiễm; đồng tâm thì thành. TỐN CÀN - quẻ “Cấu THIÊN PHONG”: Đề phòng táo bón; nhỏ thành xé to. CÀN CÀN - “Thuần CÀN” quẻ ra: Thần kinh căng thẳng; dương, Ta và Trời. Tuy nhiên những ý nghĩa Địa - Lôi - Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong - Thiên tương ứng Bát Quái như cổ thư ghi trên, chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời. Ví dụ, khi xét về tương tác nhân sự trong một Doanh Nghiệp thì tôi có thể dùng các đại diện khác: CÀN = Chủ DN, KHÔN = Công đoàn, TỐN = tư, CHẤN = Bảo vệ, CẤN = Tài vụ, KHẢM = Y tá, ĐOÀI = Cấp dưỡng, LY = Công nhân. Và thấy nội dung của quẻ tương ứng với chức năng của thành phần nhân sự cụ thể trong DN, cũng tương tự như nội dung của quẻ mà cổ thư đã giải ở trên: CÀN CÀN – “Thuần CÀN” quẻ ra Thần kinh căng thẳng; Dương, Ta với Trời: Ông Chủ lo lắng mọi thời Đêm nằm nghĩ việc, đi chơi vẫn làm Như Cá trong Nước thì ham Cá càng nhiều Nước càng tham hóa Rồng. KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN” Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may: Công đoàn chính tổ chức này Luôn tìm đồng thuận, Luật đây an toàn CÀN-KHÔN: Ông Chủ-Công đoàn Dương-Âm mà hợp, chu toàn mọi niên: CÀN KHÔN- quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” Xung đột chẳng đáng; Khiêm nhường tiến chung. TỐN TỐN – Vật tư đảm đang Mua, bán giữ tín, người hiền giúp cho: TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền. CHẤN CHẤN – Bảo vệ sẵn sàng Sức khỏe thật tốt, tranh giành cứu nguy: CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ suy: Sức khỏe đều ổn; tranh vì vươn lên. CẤN CẤN - Tài vụ giữ im Đau đầu tài chính, sáng tìm tương lai: CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. KHẢM KHẢM - Y tá phải lo Chăm sóc sức khỏe, giữ cho an toàn: KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI ĐOÀI - Cấp dưỡng chi ly Nuôi quân, tránh độc, sức thì hơn ai: ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI” Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. LY LY- đông đảo Công Nhân Nhiệt tình ngọn lửa, làm hăng hàng ngày: LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Đừng làm quá sức; gặp thời vận may Công nhân LY giỏi, hăng say Doanh nghiệp phát đạt, ngày ngày tiến lên.
  2. Số phận chữ Khoa Đẩu Cổ Văn, theo nghĩa hẹp là thư tịch cổ viết bằng chữ Khoa Đẩu, như những bản gốc của “Lục Thư” viết trên thẻ tre tàng trong vách nhà ở của Khổng Tử. [Có thể hiểu là bút tích của Khổng Tử cũng có thể là viết bằng chữ Khoa Đẩu, nhưng viết trên giấy là do thời đại, do Khổng Tử đã tổng kết tư tưởng của Lục Thư của người xưa mà soạn lại thành “Lục Thư” làm sách dạy cho môn sinh, như chính Khổng Tử từng thừa nhận. Những bản gốc ấy đương nhiên là không còn, kể cả trong lưu trữ. Còn “Lục Thư” viết bằng Lệ Thư, Tống Thư, Khải Thư v.v. là về sau, còn rất phong phú trong lưu trữ, là do miêu duệ Khổng Tử hoặc đệ tử của Khổng Tử soạn lại, đương nhiên là có thêm thắt nhiều “tư tưởng xét lại đương đại”. Di sản ấy gọi là Hán Nho, Khổng Giáo ]. Tương truyền Cổ Văn phổ biến rộng khắp từ thời Hạ, Thương, Chu , đến thời Chu vẫn còn là “thượng tại thông hành” cho đến thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Nó chỉ bị cấm tuyệt sử dụng từ thời Tần Thủy Hoàng. Nhưng trong dân gian vẫn còn sót lại nhiều thư tịch Cổ Văn và số người đọc hiểu trong dân và quan lại địa phương vẫn còn đông. Điều này được phản ánh rõ trong đoạn dưới đây trong sách “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận giữa thời Đông Tấn mạt - Đông Hán sơ: 到了周宣王的太史籀整理出大篆十五篇,籀文同古文有了差异。(不过古文尚在通行,)一直到(春秋末年)孔子写「六经」,左丘明着《左传》都还在使用古文;古文的形体、意义仍为学者们所通晓。再往后(到了战国),诸侯们依靠暴力施政,不服从周天子;他们憎恶礼乐妨害自己,都抛弃典籍(各行其是)。中国分为七雄并峙,田亩的丈量方法相异,车子的规格尺码不同,法令制度各有一套,衣服帽子各有规定,说起话来方音分歧,写起字来相互乖异。 秦始皇初灭六国,丞相李斯就奏请统一制度,废除那些不与秦国文字相合的字。(李斯等人负贾规范文字,)李斯写了《仓颉篇》,中车府令赵高写了《爰历篇》,太史令胡毋敬写了《博学篇》,(它们)都取用史籀大篆的字体,有些字还很作了一些简化和改动,这种字体就是人们所说的「小篆」。这个时候,秦始皇焚烧《经书》,除灭古籍,征发吏卒,大兴戍卫、徭役,官府衙狱事务繁多,于是产生了隶书,以使书写趋向简易,古文字体便从此止绝了。 从这个时候起,秦代的书法有八种体势,第一叫大篆,第二叫小篆,第三叫刻符,第四叫虫书,第五叫摹即,第六叫署书,第七叫殳书,第八叫隶书。汉朝建国以后有草书。 汉朝的法令规定,学童十七岁以后开始应考,能够背诵、读写九千个汉字的人,才能做书史小吏;进一步是用书法「八体」考试他们。通过郡试之后,上移给中央太史令再行考试,成绩最优的人,被用为枢秘处的秘书。官吏的公文、奏章,文字写得不正确,「尚书史」就检举、弹劾他们。如今条令虽在,却停止了考核,文字之工不讲习,士人不通汉字之学很久了。 汉宣帝时,征召到一位能够读识古文字《仓颉篇》的人,宣帝派张敞跟着那人学习。(在这以后)凉州的地方官杜业,沛地人爰礼,讲学大夫秦近,也能读识古文字。汉平帝时,征召爰礼等一百多人,要他们在未央官讲说文字,尊奉爰礼做「小学元士」,黄门侍郎杨雄采集大家的解说着了《训纂篇》。《训纂篇》总括了《仓颉篇》以来的十四部字书,计五千三百四十字,典籍所用的字,大都收入该书了。 到了王莽执政摄行王事的时候,他要大司空甄丰等人检校书籍,以标榜自己尽力于制礼作乐之事。这期间对古文字很有一些改动。那时有六种字体,第一叫古文,这种文字出自孔子住宅墙壁中收藏的一批古籍;第二叫奇字,它也是古文,不过字体又同古文有别:第三叫篆书,也就是小篆:第四叫左书,即秦朝的隶书,是秦始皇使下杜人程邈创制的;第五叫缪篆,是用在玺符印鉴上的文字;第六叫鸟虫书,是写在旗幡等物上的。 Đến đời Chu Tuyên Vương, thái sử chỉnh lý ra 15 thiên Đại Triện, chữ Triện Văn có khác biệt so với chữ Cổ Văn, song Cổ Văn vẫn tồn tại lưu hành nhiều (thượng tại thông hành), một mạch đến tận thời Xuân Thu, những sách Lục Kinh của Khổng Tử soạn, sách Tả Truyện đều vẫn sử dụng Cổ Văn, các học giả đều vẫn thông hiểu hình thể và ý nghĩa của Cổ Văn. Sau đó đến thời Chiến Quốc, các chư hầu dùng bạo lực để giành quyền, không phục tùng Chu Thiên Tử, họ không trọng Lễ, Nhạc, vứt bỏ hết điển tịch, tự làm theo ý mình, hình thành thất hùng cát cứ, chế độ pháp lệnh khác nhau, đơn vị đo đạc ruộng đất khác nhau, qui cách xe cộ khác nhau, y phục mũ mão khác nhau, nói năng phương âm khác nhau, viết chữ cũng khác nhau. Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, sai Lý Tư thống nhất chế độ, phế trừ những chữ không tương hợp với chữ của Tần Quốc, tổ “qui phạm văn tự” dưới sự điều hành của Lý Tư đã sử dụng thể chữ Đại Triện, nhiều chữ còn được giản hóa và sửa đổi, nên người ta gọi là Tiểu Triện, để viết ra các cuốn “Thương Hiệt Thiên”, “Ái Lịch Thiên”, “Bác Học Thiên”. Lúc này Tần Thủy Hoàng lệnh đốt hết “Kinh Thư”, diệt trừ cổ tịch, thế là sản sinh Lệ Thư, viết cách giản dị hơn, từ đó thể chữ Cổ Văn hoàn toàn bị cấm tuyệt. Từ đó trở đi, cách viết ở đời Tần có tám cách. Cách thứ nhất gọi là Đại Triện, cách thứ hai gọi là Tiểu Triện, cách thứ ba gọi là Khắc Phù, cách thứ tư gọi là Trùng Thư, cách thứ năm gọi là Bổng Tức, cách thứ sáu gọi là Ký Thư, cách thứ bảy gọi là Thù Thư, cách thứ tám gọi là Lệ Thư. Từ nhà Hán kiến quốc về sau thì có thêm Thảo Thư. Thời Hán Tuyên Đế cho mời những người đọc hiểu Cổ Văn đến, rồi cử Trương Thường theo họ mà học thứ chữ Cổ Văn. Lúc này ở Lương Châu các quan địa phương cũng nhiều người đọc hiểu Cổ Văn. Thời Hán Bình Đế, cho mời Ái Lễ cùng hơn trăm người đọc hiểu Cổ Văn từ Bái Địa, Lương Châu, đến Vị Ương Cung giảng thuyết văn tự, Ái Lễ tuân lệnh làm ra cuốn “Tiểu Học Nguyên Sĩ”, còn Dương Hùng Thái giảng thuyết “Huấn Triện Thiên”. “Huấn Triện Thiên” đã tổng gom 14 bộ sách chữ, kể từ thời có “Thương Hiệt Thiên”, thống kê gồm 5340 chữ, chữ mà điển tịch từng dùng hầu hết đều thâu nhập trong cuốn sách này. Đến thời Vương Mãng chấp chính nhiếp hành vương sự, ông ta cho người kiểm hiệu thư tịch, chú ý đặc biệt các sách về Lễ, Nhạc. Thời kỳ này có một số khởi động lại, rất đáng kể, đối với chữ Cổ Văn. Thời này có 6 loại thể chữ; loại thứ nhất gọi là Cổ Văn, loại văn tự này phát hiện ra từ một loạt cổ tịch tàng trong vách tường nhà ở của Khổng Tử (đã khẳng định là toàn chữ Khoa Đẩu viết trên thẻ tre); loại thứ hai gọi là Kỳ Tự, nó cũng là Cổ Văn, nhưng thể chữ có khác với Cổ Văn; loại thứ ba gọi là Triện Thư, cũng tức là Tiểu Triện; loại thứ tư gọi là Tả Thư tức Lệ Thư của nhà Tần, là thứ chữ mà Tần Thủy Hoàng sai Trình Mạo sáng chế ra; loại thứ năm gọi là Mậu Triện, là văn tự dùng in trên bùa; loại thứ sáu gọi là Trùng Thư, là thể chữ để viết trên các thứ đại loại như cờ phướn.
  3. “Thương Hiệt Thiên” là tên gọi chung cho cuốn sách được thư sư thời Hán Sơ gộp từ ba thiên là “Thương Hiệt”, “Ái Lịch” và “Bác Học”, tất cả là 55 chương, cứ 60 chữ làm thành một chương. Đây là trước tác của nhóm Lý Tư thời Tần, dùng để dạy chữ cho học sinh. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất văn tự thì cuốn sách này là cuốn mẫu mực của chữ Tiểu Triện. Trong lịch sử, thời Chiến Quốc có 7 nước phân lập, văn tự khác nhau. Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, thống nhất vào một Tần Quốc, nghe thỉnh cầu của Lý Tư, là văn tự nên hợp một theo Tần. Lúc này nước Tần đã sử dụng Triện Văn 籀文được 500 năm rồi, nét viết rất phức tạp, trong quá trình sử dụng cũng theo khuynh hướng giản hóa dần. Nhóm của Lý Tư khi viết “Thương Hiệt Thiên” là dùng Sử Triện Đại Triện 史籀大篆đồng thời có giản lược nét, từ đó mà định hình ra chữ Tiểu Triện小篆. “Thương Hiệt Thiên” lưu hành một mạch từ thời Hán Sơ đến thời Đông Hán, sau được bảo tồn trong “Tam Thương”, từ thời Đường về sau , mới hoàn toàn biến mất. Thế kỷ 20 các địa phương khảo cổ phát hiện được rất nhiều sách ghi trên thẻ tre, trong đó có cả “Thương Hiệt Thiên”, cuốn sớm nhất cách đời Tần không quá 50 năm, đó đã là cuốn của đời Hán rồi, chữ viết là Lệ Thư chứ không phải là Tiểu Triện nữa. Có một thẻ trên đó viết 40 chữ: “仓颉作书,以教后嗣。幼子承昭,谨慎敬戒。勉力风诵,昼夜勿置。苟辑成史,计会辨治。超等轶群,出元别异”: “Thương Hiệt tác thư, dĩ giáo hậu tự. Ấu tử thừa chiêu, cẩn thận kính giới. Miễn lực phong tụng, Trú dạ vật trí. Cẩu tập thành sử, kế hội biện trị. Siêu đẳng dật quần, xuất nguyên biệt dị”. Đây chính là một phần trong chương đầu của cuốn “Thương Hiệt”, câu “Ấu tử thừa chiêu” chỉ Hồ Hợi đời hai kế vị, sự việc này phát sinh vào năm Thủy Hoàng thứ 37 (năm 210 BC), Lý Tư viết sách phải là trước đó, đây có thể là do Triệu Cao (người được phân công viết phần “Ái Lịch Thiên” trong cuốn sách “Thương Hiệt Thiên”) và những người khác sửa đổi. Lại cũng có thẻ có viết: “Ái Lịch thứ, kế tục tiền đồ…”. Đây là mấy câu mở đầu của “Ái Lịch”. Từ những tư liệu này thì thấy rằng cách viết rất nén nội dung, nén nghĩa, cứ bốn chữ một câu, hai câu một vần, tương tự như tính chất của cuốn khác là cuốn “Cấp Tựu Thiên”. Nguyên gốc cuốn “Thương Hiệt Thiên” viết đời Tần bằng chữ Tiểu Triện có thể coi là Tổ của chữ, nhưng đã thất truyền từ rất sớm. Những phát hiện linh tinh của khảo cổ chỉ là thẻ tre đời Hán, do thư sư viết lại bằng Lệ Thư, mà số lượng khai quật được lại không đầy đủ và chữ bị mòn mất cũng nhiều. Cuốn “Thương Hiệt Thiên” khảo cổ được, coi là phong phú nhất, cũng chỉ có được 124 thẻ mòn sờn, nội dung bao gồm lộn xộn của ba thiên “Thương Hiệt”, “Ái Lịch”, “ Bác Học”, sự ăn mòn nghiêm trọng, chỉ còn sót lại 541 chữ, 36 thẻ là có viết câu văn bốn chữ, có gieo vần, 200 câu không còn đủ chữ trọn câu (theo “Thương Hiệt Thiên” đời Hán là phải đủ 825 câu). Câu văn trong sách ( dù là đời Hán chép lại) cũng thấy cố bảo tồn nguyên mạo đời Tần, viết tránh tên húy của Tần Vương.
  4. Lỗi & Phải. Không phải lỗi tại tôi. Đây là chuyện có thật, xảy ra tại tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ. Tại một nhà thương nọ, các bác sĩ đã giải phẫu một người đàn ông bị bệnh mập phì, gắn vào một cái vòng thắt bao tử để giúp ông bớt ăn nhiều. Sau cuộc giải phẫu vài ngày và bắt đầu lại sức, ông đứng dậy đi lang thang trong hành lang của nhà thương để tìm nhà bếp. Khi thấy được nhà bếp thì ông đi thẳng tới cái tủ lạnh to tướng, mở ra và ăn ngấu nghiến tất cả đồ ăn để trong đó. Vì ăn quá mức nên cái vòng thắt bao tử của ông téc ra, làm chảy máu nội thương. Thế là bác sĩ phải mổ lại lần thứ nhì cứu ông thoát chết. Nhưng ai ngờ sau đó ông quay ngược lại kiện nhà thương và bác sĩ. Ông nói: "Tôi bị mổ lần thứ nhì không phải lỗi tại tôi mà là lỗi của nhà thương và bác sĩ đã không biết khóa cái tủ lạnh lại". Khi nghe câu chuyện trên chắc bạn sẽ tức cười vì quá vô lý. Người đàn ông mập phì kia đã không biết lỗi mình tham ăn thì chớ, nay lại quay sang đổ lỗi cho người khác. Nhưng nếu nhìn kỹ một chút thì đa số chúng ta cũng thường mắc phải lỗi tương tự. Mỗi khi gặp đau khổ, phải chăng chúng ta hay nói:" Tôi buồn là vì ông A mắng chửi tôi; hoặc tôi khổ là tại bà B giựt tài sản của tôi v.v..."? Ông A có mắng chửi tôi hay không, đó là vấn đề của ông A, vì tôi không thể làm chủ ý nghĩ và lời nói của ông ấy. Nhưng tôi có buồn giận hay không, đó là vấn đề của tôi, vì tôi có thể làm chủ tâm ý và tình cảm của mình. Nếu tôi buồn vì bị ông A mắng chửi, đó tức là tôi đã vô tình cho phép ông ấy điều khiển tình cảm của tôi. Nói cách khác, tôi là một người nộm để cho người khác giựt dây. Khi bị người mắng thì tôi buồn, được người khen thì tôi vui. Như vậy sự vui, buồn của tôi hoàn toàn tùy thuộc vào kẻ khác. Nếu bà B giựt tài sản của tôi một cách bất lương thì điều mà tôi có thể làm là nhờ luật pháp can thiệp, và không cần phải "buồn khổ". "Buồn khổ" là một cảm xúc thừa và vô ích (hay vô minh). Nếu tôi buồn khổ, tức là tôi đã dại dột cho phép bà B hại tôi tới hai lần, một lần về tài sản, và một lần về tinh thần. Tóm lại, người khác có thể làm bất cứ chuyện gì đối với ta, đó là việc của họ, vì họ đang tạo nghiệp. Chuyện quan trọng là phản ứng của ta đối với hành động của họ. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào ta, và ta là người chịu trách nhiệm về ý nghĩ, tình cảm của mình. Đừng đổ lỗi cho kẻ khác. Nhìn lỗi người Có một nhóm thuyền chài gồm năm sáu chiếc cùng ra khơi đánh cá. Chẳng may xế chiều, mây đen ở đâu bất ngờ kéo đến che phủ bầu trời, bão tố, sấm sét nổi lên ầm ầm, các thuyền đều chao đảo, và rồi có thuyền bị gẫy buồm, có thuyền bị thủng lỗ, có thuyền bị gẫy bánh lái, v.v... không có thuyền nào còn nguyên vẹn. Trên mỗi thuyền, ai nấy đều hoảng hốt lo cứu chữa thuyền của mình. Duy có một thuyền cũng bị gẫy buồm, thủng lỗ, nước tràn vào sắp chìm mà anh chủ tàu không để ý lấp lỗ, tát nước mà cứ đứng trên khoang tàu nhìn sang thuyền kẻ khác la ó, chỉ trỏ bảo họ phải làm thế này thế nọ. Vì mải say mê chỉ bảo người khác mà không lo cứu thuyền mình nên thuyền của anh chìm trước tiên. Tất cả chúng ta đều là những người đang lênh đênh trên biển khổ sinh tử luân hồi, bị gió nghiệp thổi, bị bão phiền não làm thất điên bát đảo. Người nào ý thức được sự nguy hiểm thì lo tu hành, tu tâm sửa tánh của mình để chuyển nghiệp và phiền não. Nhưng cũng có người thay vì lo tu tâm sửa tánh của mình thì lại đi tu sửa người khác, thích để ý bắt lỗi, dòm ngó kẻ khác, chẳng khác gì anh chủ tàu chết chìm trên. Khoai tây Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi nhựa và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng, mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết tên người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa. Chúng tôi thích thú viết tên những người không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một lúc sau, chiếc túi nào của chúng tôi... cũng đã căng nặng, dầy khoai tây. Thậm chí có người một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo. Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang theo bên mình túi khoai tây đó bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì mang vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi với bạn bè cũng phải đem theo. Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh. Tình trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước. Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai tây ấy đi và cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng. Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói: "Các em thấy không, lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm cho chúng ta thật nặng nề và khổ sở! Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh nặng khó chịu ấy mãi trong lòng. Lòng vị tha, sự cảm thông với những lỗi lầm của người khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng mọi người, mà đó còn là món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng cho bản thân mình". Thế mới biết trong cuộc sống có những điều không nên giữ trong lòng. Thích Trí Siêu
  5. Chữ Khoa Đẩu có từ trước thời Tiên Tần ? Đọc dưới đây đoạn văn của Hứa Thận viết trong cuốn sách “Thuyết Văn Giải Tự”, in năm 100, cách nay gần 2000 năm: 鲁恭王拆毁孔子住宅,(无意中)得到了《礼记》、《尚书》、 《春秋》、《论语》、《孝经》等古文典籍。(古文典籍)还有北平侯张仓所献的《左传》。一些郡县、诸侯国也往往从地下发掘出前代的宝鼎和器物。它们的铭文 就是前代的古文。(这些古文字资料)彼此多相似,虽说不能再现远古文字的全貌,但是先秦古文字的情况却能知道大概了。世人无知,极力否定、诋毁古文,认为 古文是好奇的人故意改变现行文字的写法,假托出自孔子住宅牆壁,伪造出来的不能知晓的文字;(认为古文)是诡变正字,搅乱常规;(认为拥护古文的人)是想 借它炫耀于世。   很有一些儒生(喜欢凭着臆断)争着抢着解说文字和《经》义。他们把秦朝才有的隶书当做仓颉时代的文字,说什麽「文字是父子相传的,那裡会改变 昵」?他们竟然瞎说:「马字头作一人字是长。」「人握十是。」「虫字是屈写中字的一竖。」掌刑官解说法令,竟至于凭着拆析字形来臆断刑律,比如「苛人受 钱」(原义是禁止恐吓人犯,索取贿赂,「苛」是「诃」的假借字,可是)有人说,「苛」字(上为「止」,下为「句」),意思是「止句」。类似上文的例子多得 不胜枚举,(这些解说)都同孔壁中出土的古文字形不合,同史籀大篆的字体相违。粗俗浅薄的人,欣赏自己习见的东酉,对于少见的事物则格格不入,(他们)没 见过宏通的学问,不知道汉字的规律、法则,把古文典籍看成异端,把无稽之谈当做真理,把自己知道的东西看得神妙至极。(他们)探究圣人着述的深意,又看到 《仓颉篇》中有「幼子承诏」一句,便说《仓颉篇》是黄帝时代写的,说那句话寓有黄帝仙去,让幼子承嗣的深意。他们迷误不通,能不违背事理吗? 《尚书》记载,舜帝说;「我想看看古人绘製的图像。」这话表明舜帝制订制度,必按旧典行事,而不穿凿附会。孔子说:「我还能看到史书存疑的地 方。」又说:「(这种「存疑精神」)现在的人没有了啊!」(「存疑」)不是作者自己不懂就不闻不间,(而是担心)人若凭着自己的猜想去解释古史古事,那就 会弄得是非没有定准;巧言诡辩将给世上的学习、研究者造成疑团、困扰。文字是经史百家之书的根基,是推行王道的首要条件,前人用它记述自己的经验传示给后 人,后人依靠它认识古代的历史。孔子说「本立而道生」,这是因为(确立了根本)能使人懂得世上最深奥的道理,而不会再受困扰。 现在我叙列篆文,参照古文、 籀文,博採诸家之说,做到出言无论大小,都确凿有证,在考稽的基础上撰写出自己的说解。我想用这部书总编万物,剖辨谬误,使学习的人了悟(文字的本原), 通达文字的妙意。我採用分立部首、以部首系联字头的办法编排文字,使它们不相错杂。万事万物都能从本书裡见到,没有哪一样不涉及、不记载的。遇到读者不易 明瞭的事物,我就援用可资说明的东西比喻它。书中提到孟喜的《易经》,孔安国的《尚书》,毛亨的《诗经》以及《周礼》《左传》《论语》《孝经》等,都指古文版本。遇到我不知道的事物,就告缺不论。…… Lỗ Cống Vương dỡ bỏ phá hủy nhà ở của Khổng Tử, (trong vô ý) lấy được các điển tịch “Lễ Ký”, “Thượng Thư”, “Xuân Thu”, “Luận Ngữ”, “Hiếu Kinh” viết bằng cổ văn. (Điển tịch cổ văn) còn có “Tả Truyện” của Bắc Bình Hầu Trương Thương hiến tặng. Một số quận huyện, chư hầu quốc, cũng từ xưa đến giờ khai quật được từ dưới đất lên nào là bảo đỉnh, nào là các khí vật của đời trước. Minh văn của những khí vật đó đều là cổ văn thời xưa. (Những tư liệu chữ cổ văn này) đa phần giống nhau, tuy rằng không thể tái hiện được toàn mạo của văn tự viễn cổ, nhưng có thể biết được đại khái tình hình văn tự cổ của thời Tiên Tần. Người đời đương thời không biết, cực lực phủ định, thị hủy cổ văn, cho rằng cổ văn là do người hiếu kỳ nào đó cố ý viết bằng cách cải biến văn tự hiện hành, bịa ra chuyện lấy được cổ văn từ trong vách tường nhà ở của Khổng Tử, ngụy tạo ra thứ văn tự không thể hiểu nổi; (cho rằng cổ văn) là ngụy biến chính tự, quấy lộn thường qui; ( cho rằng những người ủng hộ cổ văn) là muốn mượn nó để huyền diệu với đời.Có rất nhiều Nho sinh đương thời ( thích dựa vào ức đoán) đua nhau giải thuyết nghĩa của văn tự và “Kinh”. Họ dùng Lệ thư, là thứ chữ chỉ mới có thời nhà Tần, coi là văn tự của thời đại Thương Hiệt, nói, nào là “văn tự là cái phụ tử tương truyền, đâu có cải biến được” ?...Họ trơ trẽn giải thích nhiều câu chữ của cổ văn rất lố bịch, hoàn toàn sai, nhiều đến nỗi không thể kể ra đây hết. được. Một ví dụ, câu “「苛人受 钱」” [ “ngừa người thụ tiền” - LM ] (nguyên nghĩa là “cấm chỉ hù dọa nhân phạm, mánh lấy hối lộ”, chữ 「苛」là giả tá của chữ 「诃」nguyên nghĩa, vậy mà họ giải thích là chữ 「苛」có bên trên là chữ “chỉ 止”, bên dưới là chữ “câu 句”, nghĩa của nó là “chỉ câu 止 句”- nghĩa là “dừng câu nói” - LM”) [ Ở đây Hứa Thận dùng chữ “nhân phạm 人 犯” là “người phạm tội” chứ không gọi là “phạm nhân”. Giả tá là mượn chữ có âm na ná , trường hợp ở đây là chữ 「苛」để phiên âm cho chữ 「诃」nguyên nghĩa. Chữ 「诃」này là một chữ Nho của người Việt, đọc là “Ngừa”, do lướt hai chữ Ngôn 讠và Khừa 可 thành chữ 「诃」, QT lướt: Ngôn Khừa = Ngừa ].((Những cách giải thuyết của họ) đều không phù hợp với hình chữ cổ văn khai quật được trong vách tường nhà ở của Khổng Tử, đều trái với thể chữ Sử Triện, Đại Triện. Người thô tục, nông cạn, hăm hở thưởng lãm đồ vật mình thấy, không nhập tâm được với những sự vật hiếm thấy, (bọn họ) chưa từng thấy học vấn hoằng thông, không biết qui luật, phép tắc của Hán tự, coi điển tịch cổ văn là dị đoan, đem những đàm luận không có căn cứ coi là chân lý, tự coi những cái mình biết là thần diệu cực kỳ. (Bọn họ) tham khảo nghiên cứu thâm ý của thánh nhân nói, lại xem đến trong “Thương Hiệt Thiên” có một câu “Ấu tử thừa chiêu”, thế là bèn reo lên rằng “Thương Hiệt Thiên” là được viết ra vào thời đại Hoàng Đế, reo lên rằng câu ấy ngụ thâm ý là khi Hoàng Đế qui tiên dặn ấu tử thừa tự. Họ mù mờ, sai lầm, không thông, sao tránh khỏi quay lưng với sự thật lịch sử ? “Thượng Thư” ghi rõ, Thuấn Đế nói: “Tôi muốn xem xem cái đồ tượng mà cổ nhân đã vẽ chế ra”. Câu này biểu minh rằng Thuấn Đế định chế ra cái chế độ là dựa theo điển tịch cũ mà hành sự, chứ không phải chui xuống huyệt mà gặp.Khổng Tử nói: “Tôi còn có thể xem đến những chỗ còn nghi ngờ trong sử thư”. Lại nói: “(tinh thần nghi ngờ này) người bây giờ không có à nha ! ”. (Còn nghi) không phải là tự tác giả không hiểu thì không nghe, không hỏi, (mà là lo lắng), người nếu mà chỉ dựa vào đoán tưởng của mình để giải thích cổ sử, cổ sự, thì sẽ làm cho không định chuẩn được thị hay phi; xảo ngôn, biện luận, chỉ là sẽ làm cho những người học tập, nghiên cứu trên thế giới đâm nghi ngờ, bị trói buộc, bị nhiễu loạn. Văn tự là cơ sở của sách của bách gia đã kinh qua lịch sử, là điều kiện cốt yếu đầu tiên thúc đẩy thi hành vương đạo, người xưa dùng văn tự để ghi kể kinh nghiệm của mình truyền lại cho hậu thế, người sau theo đó mà nhận thức được lịch sử cổ đại. Khổng Tử nói: “Bổn lập nhi đạo sinh”. Đó là vì (xác lập được cái căn bản rồi) có thể khiến người ta hiểu được đạo lý thâm sâu nhất trên đời này, để mà sẽ không bị trói buộc, không bị nhiễu loạn. Nay tôi liệt kê Triện văn, tham chiếu cổ văn, ứng dụng rộng rãi nhiều thuyết của chư gia, làm đến mức xuất ngôn vô luận to nhỏ, đều đào sâu xác thực có chứng cứ, trên cơ sở khảo kê, soạn viết ra thuyết giải của chính mình. Tôi muốn dùng bộ sách này tổng biên vạn vật, mổ xẻ, phản biện những luận cứ sai lầm, khiến người học tập ngộ được (bản nguyên của văn tự), thông đạt diệu ý của văn tự. Tôi ứng dụng phân lập bộ thủ, dùng biện pháp đầu chữ liên hệ bộ thủ để xếp đặt văn tự, khiến chúng không sai tạp lẫn nhau. Vạn vật vạn sự đều có thể xem thấy trong sách này, không có cái gì là không đề cập đến, không ghi ra. Gặp phải sự vật mà độc giả không rõ, tôi mượn vật tỷ dụ nó để thuyết minh. Trong sách đề cập đến “Dịch Kinh” của Mạnh Hỷ, “Thượng Thư” của Khổng An Quốc, “Thi Kinh” của Mao Hanh cùng các sách “Chu Lễ”, “Tả Truyện”, “Luận Ngữ”, “Hiếu Kinh”, đều là những bản viết bằng cổ văn. Gặp phải sự vật mà tôi không biết thì tôi cáo khuyết, không luận đến… [ Trong đoạn văn trên Hứa Thận có viết: “Một số quận huyện, chư hầu quốc, cũng từ xưa đến giờ khai quật được từ dưới đất lên nào là bảo đỉnh, nào là các khí vật của đời trước. Minh văn của những khí vật đó đều là cổ văn thời xưa. (Những tư liệu chữ cổ văn này) đa phần giống nhau, tuy rằng không thể tái hiện được toàn mạo của văn tự viễn cổ, nhưng có thể biết được đại khái tình hình văn tự cổ của thời Tiên Tần”. Le lói thấy được nền văn hóa chung trên địa bàn rộng lớn Đông Phương thời Tiên Tần. Bảo đỉnh thì chắc chắn là di vật của thời đồ đồng. Cư dân nông nghiệp ĐỊNH (1) cư thành từng làng, làng có ĐÌNH (2) để thờ thần thành hoàng của làng, đồ thờ trang trọng là cái ĐỈNH (3), tất nhiên là có chữ viết từ xưa nữa mới có thể ĐÍNH (4) được văn tế cũng như hương ước của làng và luật của quốc gia. Có luật của quốc gia tất phải có tuyên ngôn ĐĨNH (5) ĐẠC của Vua Hùng trước bàn dân thiên hạ. Mỗi công dân của quốc gia (đã đến tuổi thành niên, tức đã được gọi là Đàn Ông hoặc Đàn Bà) gọi là một ĐINH (6). Đủ sáu thanh điệu của tiếng Việt từ thời Kinh Dương Vương rồi nha. Xã hội dân sự ấy bình đẳng quyền công dân - lướt: “Đàn ông Kinh” = Đinh, “Đàn bà Kinh” = Đinh. Đó là giải thích đúng nhất từ nguyên của danh từ “Đinh”. Lướt cả câu: “Bắt buộc phải cầm súng để giữ nước khi đã là Đinh” = “Bắt…Đinh” = Binh. Lướt cụm từ: “Làm Binh” = Lính (nếu không thì đã làm quan). Nên mới có từ đôi Binh Lính để chỉ nhiều quân. Tìm từ nguyên của tiếng Việt, chính xác nhất là từ cái “bia miệng” Việt ]
  6. Khổng Bích Cổ Văn Thượng Thư (cuốn “Thượng Thư” bằng Cổ Văn trong vách tường nhà ở của Khổng Tử) – Số phận của “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu viết trên thẻ tre thời cổ đại. Nguồn: mạng [hudong.com/wiki/kongbiguwenshangshu] 中国 汉景帝时在孔子故宅壁中发现用古代蝌斗(蝌蚪)文写的《尚书》,比汉文帝时伏生所传、隶书书写的《今文尚书》多16篇,故称《古文尚书》。相传孔子后人畏秦法峻急,藏《尚书》、《孝经》及《论语》等 于孔子故宅壁中。汉景帝子鲁共王刘馀,拆孔子旧居以扩建宫殿,于墙壁中发现许多书简,全用科斗文书写,有《尚书》及《论语》等儒家经典,称古文经,亦称壁 经。汉武帝末年在朝廷任博士的孔子十二世孙孔安国加以整理,与伏生所传今文经校对合并为58篇、46卷。魏晋时惟秘府有之,至永嘉之乱时佚失。晋元帝时豫 章内史梅赜奏上一部孔安国作传的《古文尚书》,比伏生所传的多25篇。此书流传颇久,到宋代吴棫、朱熹等对它有过怀疑,明代梅鷟竟直斥其伪。清代阎若璩作 《古文尚书疏证》、惠栋作《古文尚书考》,一一揭示其为伪书的证据。丁宽作《尚书余论》,进而论证其为曹魏王肃的伪造。 Thời Hán Cảnh Đế của TQ, trong vách tường nhà ở của Khổng Tử có phát hiện được cuốn sách “Thượng Thư” viết bằng chữ Khoa Đẩu cổ đại, so với cuốn “Kim Văn Thượng Thư” viết bằng chữ Lệ Thư thời Hán Văn Đế do Phục Sinh truyền, thì thấy cuốn “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu nhiều hơn 16 thiên, đương thời gọi cuốn “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu cổ đại phát hiện trong vách nhà Khổng Tử là “Cổ Văn Thượng Thư”. Tương truyền, hậu nhân của Khổng Tử sợ phép Tần thúc gấp, nên đem dấu “Thượng Thư”, “Hiếu Kinh”, “Luận Ngữ” v.v. vào trong vách tường nhà ở. Con trai của Hán Cảnh Đế là Lỗ Cung Vương Lưu Dư khi dỡ bỏ nhà cũ của Khổng Tử để mở rộng cung điện, phát hiện được rất nhiều sách bằng thẻ tre dấu trong vách tường, toàn dùng chữ Khoa Đẩu viết thành, có “Thượng Thư” đến “Luận Ngữ” v.v. đều là kinh điển Nho gia, xưng là Cổ Văn Kinh, cách gọi khác là Bích Kinh ( tức Kinh tìm thấy trong vách Tường). Đến thời Hán Vũ Đế mạt niên, cháu đời thứ 12 của Khổng Tử là Khổng An Quốc nhậm chức Bác Sĩ (tiến sĩ) trong triều, chỉnh lý thêm và hiệu đối với cuốn viết bằng Lệ Thư mà Phục Sinh truyền lại, lồng ghép thành 58 thiên, 46 quyển. Thời Ngụy Tấn sách này có trong phủ coi là sách mật, đến thời Vĩnh Gia Chi Loạn thì mất mất. Thời Tấn Nguyên Đế, Mai Trách 梅 赜 là quan nội sử ở Dự Chương tâu lên một bộ “Cổ Văn Thượng Thư” do Khổng An Quốc làm và truyền lại, so với cuốn của Phục Sinh truyền lại thì nhiều hơn 25 thiên. Sách này lưu truyền khá lâu, đến đời Tống thì các vị như Ngô Vực 吴 棫, Chu Hy 朱 熹 v.v. có hoài nghi đối với cuốn sách này, đời Minh thì ông Mai Tộc 梅 鷟 thằng thắn phê phán tính ngụy tạo của cuốn sách đó, đời Thanh thì ông Diêm Nhược Cừ 阎 若 璩 làm cuốn “Cổ Văn Thượng Thư Thư Chứng”, ông Huệ Đống 惠 栋 làm cuốn “Cổ Văn Thượng Thư Khảo”, cuốn nào cũng vạch rõ có chứng cứ tính ngụy tạo của cuốn sách trên. Ông Đinh Khoan 丁 宽 làm cuốn ”Thượng Thư Dư Luận” tiến thêm một bước luận chứng rằng sách ấy là sự ngụy tạo của Tào Ngụy Vương Túc 曹 魏 王 肃.
  7. Di chỉ Hà Mẫu Độ [ http://baike.baidu.com/view/1395.htm ] Hà Mẫu Độ nằm ở thị trấn Dư Diêu tỉnh Triết Giang TQ, cách tp cảng Ninh Ba 25 km. Nguồn gốc cái tên Dư Diêu thì có nhiều phán đoán: - “Phong thổ ký 风土记” ghi : “舜后支庶所封之地,舜姓姚,故云余姚 Thuấn hậu chi thứ sở phong chi địa, Thuấn tính Diêu, cố vân Dư Diêu”- là đất phong cho chi thứ của Thuấn, Thuấn họ Diêu nên nơi ây gọi là Dư Diêu. - “Việt tuyệt thư 越绝书” ghi: Thiếu Khang nhà Hạ phong cho thiếu tử Vô Dư đất Cối Kê để thờ phụng Vũ, ấp ấy là Diêu nên viết Dư Diêu. - “Sơn Hải kinh 山海经” ghi: Ấp có Câu Dư sơn, lại có Diêu giang phía nam nên gọi là Dư Diêu. - “Quận huyện dịch danh 郡县释名” thời Minh ghi: Huyện lệ Cối Kê, ở phía tây núi Dư Diêu, phía đông sông có họ Diêu, nên viết là Dư Diêu. - Còn có người chủ trương, địa danh Dư Diêu là một cái địa Việt ngữ 越语, nghĩa của nó là Đá Sáng Đời Tần đặt là Dư Diêu huyện (có thuyết nói là đời Hán) thuộc Cối Kê quận. Đông Hán, Kiến An thứ 5 (năm 200) bắt đầu xây huyện thành, là một trong cổ huyện thành của Triết Đông. “Thái hòa hoàn vũ ký” ghi: Đầu thời Đường thì Dư Diêu bao gồm cả Minh Châu và Thượng Ngu, là “Việt châu cự trấn 越州巨镇”, đến Vũ Đức năm 4 (năm 621) thì thăng lên là Diêu Châu. Thời Tống gọi là Vọng Huyện, nổi tiếng là “Đông Nam Tối Danh Ấp”. Thời Nguyên, Nguyên Trinh năm đầu (năm 1295) đổi là Dư Diêu Châu. Thời Minh, Hồng Vũ năm 2 (năm 1369) lại hạ cấp xuống thành Dư Diêu Huyện. Nay là một trấn trong 8 trấn của tp Ninh Ba tỉnh Triết Giang. [ Hà Mẫu Độ nằm ở đoạn qua sông Diêu Giang. Âm Ngô Việt gọi là Hói Mụ Đò, tức chỗ để đò qua Sông Mẹ (Hói Mụ), do vậy mà có tên chữ Hà Mẫu Độ 河姆渡. Còn ý kiến cho rằng địa danh Dư Diêu là từ Việt ngữ 越语, có nghĩa là Đá Sáng, cũng có lý, chính xác là Đá Chiếu, trong tiếng Việt có từ ghép Chiếu Sáng và Cháy Sáng, chứng tỏ từ Cháy=Chiếu=Diệu=Diêu nghĩa là “sáng” là xuất hiện trước từ Sáng, nên mới có ghép hợp logic trước sau là Cháy Sáng, Chiếu Sáng. Đá=Dã=Dư, cái cối Đá thì dùng để Dã, dã nhiều thì mới có Dư Dả gạo. Cối Kê (nay là Hàng Châu) là kinh đô của nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ] Di chỉ Hà Mẫu Độ phát hiện năm 1073, tổng diện tích 5 vạn mét vuông, chồng ép 4 tầng vản hóa., qua trắc định tầng sâu nhất có niên đại cách nay 7000 năm. Qua hai lần khai quật năm 1973 và 1977 tìm thấy khí cụ, công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, đồ trang sức chất liệu bằng xương, gốm, ngọc, gỗ; di vật lúa, cấu kiện nhà sàn, di hài động vật , tất cả gần 7000 di vật, phản ánh cảnh tượng phồn vinh của thời kỳ xã hội thị tộc mẫu hệ nguyên thủy. Đây là bằng chứng bằng vật thật cực kỳ quí báu cho nghiên cứu nông nghiệp, kiến trúc, nghề dệt, nghệ thuật của văn minh Phương Đông. Văn vật của di chỉ Hà Mẫu Độ đã nhiều lần đưa đi triển lãm gây chấn động toàn thế giới. Hà Mẫu Độ là di chỉ văn minh thời đá mới. Tổng diện tích di chỉ 4 vạn mét vuông, sâu dày 4 mét chồng ép 4 tầng văn hóa, trong đó tầng thứ tư sâu nhất là cách nay 7000 năm là thới đá mới, được phát hiện là sớm nhất trên đất TQ. Tầng thứ tư, thứ ba đều có di vật thực vật, di hài động vật, cấu kiện nhà sàn và hàng nghìn di vật khí cụ bằng gốm, xương, đá, gỗ. Văn hóa thời đại đá mới khu vực hạ du Trường Giang được phát hiện đầu tiên ở di chỉ Hà Mẫu Độ 河姆渡 thuộc thành phố Dư Diêu 余姚 tỉnh Triết Giang 浙江, năm 1976 được đặt tên là Văn Hóa Đá Mới Hà Mẫu Độ. Chủ yếu phân bố ở Ninh Ba 宁波 bờ nam vịnh Hàng Châu, đồng bằng Thiệu Hưng 绍兴, đến đảo Châu Sơn 舟山 phía ngoài biển, theo giám định phóng xạ xác định niên đại là 6000 năm trước công nguyên. Phát hiện Hà Mẫu Độ chứng minh rằng khắp lưu vực Trường Giang từng tồn tại một nền văn hóa đá mới rực rỡ thời cổ xưa. Qua hai lần khai quật 1973-1974 và 1977-1978, đến năm 1982 quốc hội TQ công bố Hà Mẫu Độ là khu bảo tồn trọng điểm cấp nhà nước. Di chỉ Hà Mẫu Độ nằm ở thôn Kim Ngô Miếu thị trấn Hà Mẫu Độ (nguyên xưa là thôn Lãng Thự Kiều, làng La Giang). Mùa hè năm 1973 khi nông dân xây dựng công trình tiêu úng đã tình cờ phát hiện ra di chỉ này, diện tích 4 ha, có 4 tầng văn hóa. Theo giám định C14 của Đại Học Bắc Kinh thì tầng văn hóa thứ tư cách nay 7000-6500 năm, tầng văn hóa thứ ba cách nay 6500-6000 năm, tầng văn hóa thứ hai cách nay 6000-5500 năm, tầng văn hóa thứ nhất cách nay 5500-5000 năm. Trong hai lần khai quật năm 1973 và 1977 đã khai quật một diện tích 2360 mét vuông, đào được hơn 6700 cổ vật gồm công cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt, cổ vật nghệ thuật, lượng rất lớn di tích hạt lúa, di hài thú săn và gia súc, hạt trái cây, cấu kiện nhà ở và số ít đồ mộ táng. Những tư liệu này vô cùng quí báu cho nghiên cứu diễn biến cổ địa lý, cổ khí hậu, cổ thủy văn. Di vật văn hóa tầng hai và tầng một ở Hà Mẫu Độ tương tự như di vật tầng dưới của di chỉ Khâu Thành ở Hồ Châu 湖州邱城 và của di chỉ Mã Gia Tân ở ngoại ô Thiệu Hưng. Văn vật tầng ba và bốn ở Hà Mẫu Độ cho thấy canh tác nông nghiệp đã khá phát triển, đã có nhà sàn dùng kỹ thuật ghép mộng,thể hiện đời sống sản xuất và sinh hoạt nơi đây là tiên tiến nhất TQ đương thời, mà giới học thuật trong và ngoài nước khuyến cáo nên nhanh chóng công bố trên thế giới. Hội thảo lần đầu tiên về di chỉ này họp tháng 4-1976 tại Hàng Châu gồm 60 học giả và đại biểu từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiểm Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, An Huy, Triết Giang, huyện Dư Diêu, làng La Giang đã thống nhất nhận định việc phát hiện di chỉ Hà Mẫu Độ cho thấy 7000 năm trước ở lưu vực Trường Giang đã từng tồn tại một nền văn hóa nguyên thủy rực rỡ, là phát tích của văn minh Trung Hoa cùng với phát tích khác là nền văn hóa lưu vực Hoàng Hà, hội thảo này đã đặt tên cho di chỉ này là Văn Hóa Hà Mẫu Độ. Đến nay ở Triết Giang đã phát hiện được tới 47 di chỉ loại hình văn hóa Hà Mẫu Độ, phân bố ở khu vực ven biển phía nam sông Tiền Đường 钱塘江và ở quần đảo Châu Sơn 舟山群岛, trong số đó tập trung dày đặc nhất là ở đồng bằng Diêu Giang 姚江平原 có tới 25 địa điểm. Đất đai vùng Hà Mẫu Độ phì nhiêu, khí hậu nóng ẩm, thích hợp cây lúa nước, dân cư nuôi heo, chó, gia cầm, dùng thuyền và nhiều loại công cụ đánh cá. Khi dựng nhà sàn dùng kỹ thuật ghép mộng để cố định xà ngang, có ván ghép mộng. Đặc sắc nhất của văn hóa Hà Mẫu Độ là: canh tác lúa nước, dựng nhà sàn, dệt bằng khung cửi, có phương tiện giao thông thủy. Viện bảo tàng Hà Mẫu Độ xây dựng xong tháng 5 năm 1993 chiếm diện tích 60 mẫu tại bắc núi Tứ Minh, cách tp Dư Diêu 24 km, cách tp Ninh Ba 25 km. Nhà chưng bày văn vật nằm ở cạnh tây di chỉ, rộng 1,6 ha, chủ thể kiến trúc rộng 3200 mét vuông, tạo hình phong cách nhà sàn nằm dài như số 7 tượng trưng mẫu nhà sàn của 7000 năm trước. Cấu kiện nhà sàn là văn vật có số lượng lớn nhất ở di chỉ Hà Mẫu Độ, dày đặc nhất là ở tầng văn hóa thứ tư (cách nay 7000-6500 năm), trong đó có nhà sàn dài tới hơn 23 mét rộng 6,4 mét, dưới mái hiên còn có hành lang rộng 1,3 mét. Bên trong nhà dài này chia thành nhiều gian nhỏ phân cách, như vậy là nhà cho một đại gia đình cư ngụ. Thanh lý vật liệu lại thì gồm cọc gỗ, ván sàn, cột gỗ, xà, đấu gỗ vuông,nhiều cấu kiện có mống và mộng, khoảng vài trăm cấu kiện, chứng tỏ dựng theo kỹ thuật ghép mộng,nền đắp cao hơn mặt đất rồi mới dựng cột, gác xà, mái dốc chữ V úp, quây vách bằng vỏ cây hoặc chiếu đan lóng đôi bằng thân cỏ lau. Kiểu nhà sàn này ngày nay còn thấy ở nông thôn vùng Tây Nam TQ và ở các nước ĐNÁ, là những vùng nóng ẩm mưa nhiều, kiểu nhà này chiếm nhiều vật liệu gỗ và phức tạp hơn nhiều so với kiểu nhà nửa huyệt chìm dưới lòng đất của cư dân vùng lưu vực Hoàng Hà. Để dựng từng vì kèo đã lắp trên nền cho đứng lên được phải có người chỉ huy cho nhiều người cùng thao tác nhịp nhàng đồng bộ nếu không thì nó vặn vẹo gãy ngay, chứng tỏ cư dân Hà Mẫu Độ thời đó đã có kỹ năng cao như người hiện đại. [ Các nhà khảo cổ ở Hà Mẫu Độ đã phỏng cổ dựng lại bằng cây và lá một cái nhà sàn dài có mái lá dốc phủ trùm sát ngang tầm sàn nhà, thì nhìn ảnh trong mạng này thấy nó chẳng khác gì cái nhà dài “như tiếng chiêng ngân” của người Ê Đê mẫu hệ ở Tây Nguyên VN ] Công cụ dệt tìm được rất nhiều và chủng loại phong phú ở Hà Mẫu Độ mà rất hiếm thấy ở những di chỉ đá mới khác. Số lượng nhiều nhất là suốt sợi, có đến hơn 300 chiếc, chủ yếu làm bằng gốm, cũng có bằng đá hoặc gỗ, đa phần hình tròn dẹt, số ít hình thang. Các phụ kiện của khung cửi như trục, giằng , bánh răng gỗ, thoi, kim xương có lỗ luồn sợi rộng 0,1 cm cũng gần như lỗ kim thép luồn sợi ngày nay. Mái chèo gỗ phát hiện được 8 chiếc, nhỏ hơn so với mái chéo ngày nay. Có mái chèo tất có thuyền, phán đoán rằng thời đó người Hà Mẫu Độ dùng thuyền độc mộc làm công cụ kiếm sống và giao thông trên sông hồ. Khí cụ sơn có hơn 20 chiếc, như bát gỗ đựng sơn tìm được ở tầng thứ ba, chắc là dùng sơn thiên nhiên để bôi phủ đồ gỗ cho có màu bóng đẹp. Đồ mỹ nghệ nhiều nhất là đồ trang sức, đa dạng, tiêu biểu nhất là vật có khắc đôi chim hướng về mặt trời trên chất liệu ngà voi, vật này dài 16 cm, rộng 5,9 cm dầy khoảng 1 cm, hình giống cái tổ chim, khắc chìm 5 vòng tròn đồng tâm, trên vòng ngoài có hoa văn ngọn lửa, hai bên có hai con chim mắt tròn nhìn đối nhau, bố cục nghiêm cẩn, ngụ ý sâu sắc, có người đoán là nó tượng trưng mặt trời, có người cho là ngụ ý chim đẻ trứng, tượng trưng đôi sinh mạng, sùng bái sinh thực, chứng tỏ đời sống tinh thần đã khá phức tạp. Về địa chất, nhờ Đại Học Nam Kinh khảo sát, vùng này 10000 năm trước là biển dâng đến núi Tứ Minh, sau biển rút bồi lắng thành lục địa, khoan sâu 31 mét có lớp vỏ sò dầy, niên đại cách nay 8020 năm, biển rút xảy ra cách nay 7500 năm . Theo phân tích tư liệu khảo cổ thì 7000 năm trước khí hậu ở Hà Mẫu Độ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình cao hơn ngày nay 3-4 độ, lượng mưa 500 mm, tương tự như Lưỡng Quảng ngày nay. Vùng này có sông, hồ, đồng bằng, núi nên động thực vật phong phú đa dạng. Đặc biệt là thủy triều lên xuống ảnh hưởng nước sông hồ lên xuống có qui luật, khiến thuận lợi tưới tiêu của canh tác lúa nước, đồng thời là điều kiện bắt buộc ở nhà sàn. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống và khéo lợi dụng tự nhiên để cùng chung sống đã làm cho văn hóa Hà Mẫu Độ sớm phát triển phồn thịnh.
  8. TRƯNG NỮ VƯƠNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC nguonAnviettoancau HAI BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI GIẶC HÁN Từ xa xưa mãi cho đến ngày nay, hàng năm toàn dân Việt vẫn tổ chức Đại lễ kỷ niệm “Hai Bà Trưng” với tất cả sự thành kính xen lẫn niềm tự hào về hai Bà, bậc nữ lưu Việt tộc đã lưu lại trang sử oanh liệt hào hùng của dân tộc. Thế nhưng, các sách sử Việt Nam cứ trích dẫn sử Trung Quốc nên cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa biết gì hơn về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng ngoài những sách sử của Trung Quốc ghi chép lại với luận điệu của “Thiên triều Đại Hán”. Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu xem bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và nơi đã xảy ra cuộc chiến đầu tiên của Hai bà với quân xâm lược, chúng ta sẽ thấy toàn bộ vấn đề với ý nghĩa cao đẹp của sự thật lịch sử bị chôn vùi hơn 2 ngàn năm nay. Hậu Hán thư, Mã Viện truyện của Phạm Việp sử gia triều Hán viết về Hai Bà Trưng như sau:“Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhị làm phản, đánh chiếm các quận (Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ người huyện Chu Diên tên là Thi (Sách) rất hùng dũng (1). Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, Trắc oán giận mà làm phản). Người man di các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp chiếm hơn sáu mươi thành ở Lĩnh Ngoại. Trắc tự lập làm vua. Bấy giờ vua (Hán) cho Viện làm Phục Ba Tướng quân, lấy Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân Đàn Chi đánh Giao Chỉ ở phương Nam. Quân đến Hợp Phố thì bị bệnh chết. Vua chiếu cho Mã Viện kiêm thống suất binh của Chí. Viện bèn dọc theo bờ biển mà tiến, theo núi phát đường hơn nghìn dặm. Năm 18, quân đến Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém hơn nghìn đầu, giặc đầu hàng đến hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê, đánh thắng nhiều lần giặc tan chạy. Năm sau tháng giêng chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gửi đầu về Lạc Dương.(Chú: Việt chí nói rằng Trưng Trắc khởi binh, đóng đô ở huyện Mê Linh. Khi bị Mã Viện đánh chạy vào suối Kim Khê, 2 năm sau mới bắt được)”. Hán sử với luận điệu “Thiên triều” cho rằng Tô Định là tên thái thú tham lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của Hán tộc cho rằng dân Việt vẫn chịu thuộc Hán nhưng chỉ vì thái thú tham lam tàn bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ của những tên Thái Thú tham lam tàn bạo này mà thôi. Các sử gia Việt Nam, từ Ngô Sĩ Liên tới các sử gia sau này cứ sao chép rập khuôn luận điệu xuyên tạc bóp méo lịch sử của các sử gia “Đại Hán”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết: “Năm Ất Hợi, năm thứ 15 niên hiệu Kiến Vũ, thái thú Giao Chỉ là Tô Định là người tham lam bạo ngược. Trưng Nữ Vương nổi binh để đánh. Năm Canh Tý tháng 2 mùa Xuân, Ngài khổ vì Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc và thù Định giết chồng mình bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh lấy các châu trị …”. Lịch sử chứng minh rằng Bà Trưng đã lãnh đạo các Lạc Tướng cùng với nhân dân đứng lên giành độc lập dân tộc. Sau khi đánh đuổi quân Hán ra khỏi đất nước, các Lạc Hầu Lạc Tướng và toàn dân đã suy tôn Trưng Trắc lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc để tiếp nối sự nghiệp của vua Hùng. BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI QUÂN HÁN XÂM LƯỢC Sử Trung Quốc chép rằng sau khi chiếm Nam Việt, Hán triều đổi tên nước là Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô (Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An ), Châu Nhai (Đảo Hải Nam) và Đạm Nhĩ (nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam). Tuy chiếm được Nam Việt nhưng Hán Vũ Đế không dám tiến quân xuống Tây Âu Lạc vì lời khuyên của Lưu An nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của đại quân Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng quân ở Hợp Phố, chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà dâng nộp ấn tín sổ sách và một ngàn vò rượu rồi giao cho 2 viên Điền sứ tiếp tục cai trị như xưa. Hậu Hán Thư chép: “Năm 111 TDL, sau khi chiếm được Nam Viêt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ “Việt Quế Lâm Giám Cư Ông dỗ Âu Lạc thuộc Hán”. Như vậy, các quận Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá) và Nhật Nam (Nghệ An) vẫn do 2 viên Điển sứ và các Lạc Tướng cai quản chứ không do Hán triều thống trị trực tiếp. Trên thực tế, Hán triều vẫn không kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Nam Việt chứ đừng nói tới Âu Lạc. Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế cử Chu Chương làm thứ sử Giao Châu. Từ đó đến thời Đông Hán, sử sách Trung Quốc không nhắc gì đến Giao Chỉ cả. Điều này chứng tỏ rằng, nhân dân Hoa Nam đã nổi lên giành quyền tự chủ nên sử Hán không ghi chép gì vào thời kỳ này. Mãi đến khi Vương Mãng lật triều Tây Hán để lập triều đại Tân từ năm 9 đến 23, mà Hán sử chỉ chép vỏn vẹn là “quan châu mục Giao Chỉ là Đặng Nhượng và các quận đều đóng bờ cõi tự phòng trị một thời gian”. Năm 25, Lưu Tú lên ngôi lấy hiệu là Hán Quang Vũ, năm sau Hán triều cử Sầm Bành xuống đánh Kinh Châu. Sầm Bành viết thư cho Đặng Nhượng mãi tới năm 29 thì Giao Chỉ mục mới cử Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú các quận là nhóm Đỗ Mục mới sai sứ sang cống, tất cả đều được phong làm Liệt Hầu. Sử Hán chép là các quan châu mục tự cai quản nhưng trên thực tế, các thủ lĩnh Quân trưởng Việt đã cùng với nhân dân đứng lên giành lại quyền tự chủ. Sử TQ Hậu Hán thư chép: “Xưa Sầm Bành cùng Giao Chỉ mục Đặng Nhương quen biết thân thiện nên viết thư cho Nhượng trình bày uy đức quốc gia, rồi lại sai Thiên tướng quân Khuất Sung gửi hịch đến Giang Nam ban hành chiếu mạng. Do thế, Nhượng cùng Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Vũ Lăng là Vương Đường, tướng Trường Sa là Hàng Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, thái thú Thương Ngô Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cùng nhau sai sứ sang cống. Tất cả đều được phong là Liệt Hầu”. Như vậy, chỉ có Thái thú Giao Chỉ lúc này còn ở Hoa Nam mà không nhắc gì đến Cửu Chân(2). Năm 29, Hán triều mới cử Nhâm Diên sang làm Thái thú Cửu Chân thì đến năm 32, Hán triều đã phải “bãi chức” thái thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hán sử chép là “Năm 31, triệu hồi Thái thú Giao Chỉ Tích Quang về triều” mà không nói gì thêm, điều này có nghĩa là nhân dân Cửu Chân, Giao Chỉ ở Hoa Nam đã giành lại độc lập tự chủ. Mãi đến năm 34, Triều Hán mới cử Tô Định là tên võ quan làm thái thú để đem quân đi đánh chiếm lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Trong khi đó, sách Đại Việt Sử lược không rõ tên tác giả viết vào khoảng đời Trần, dù bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh sửa đổi nhưng vẫn không thấy chép gì về Nhâm Diên và Tích Quang. Đại Việt Sử lược chép mục “Quan thủ nhậm qua các thời đại” chỉ ghi là “Thạch Đái thời Vũ Đế (140-86 TDL), Chu Chương đời Chiêu Đế (86-74 TDL0, Nguỵ Lãng Tư Minh đời Tuyên Đế (73-48 TDL) rồi tới Tô Định đời Hán Quang Vũ (34-40)”. Như vậy rõ ràng là thời kỳ này, ở phần đất Bắc và Trung Việt Nam tuy sử sách gọi là thuộc quận Giao Chỉ và Cửu Chân không có viên thái thú nào trấn nhậm cả. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão “Nối lại nghiệp xưa vua Hùng”. Trưng Trắc lấy chồng tên là Thi, danh sĩ đất Giao Châu cùng chí hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Cuộc hôn nhân ngoài tình yêu nam nữ còn là sợi dây liên kết 2 dòng tộc để cùng với toàn dân đứng lên giành lại quyền tự chủ cho dân tộc. Vì thế, năm 39 khi Tô Định đem quân đến Trường Sa, Trưng Trắc đã cử Trưng Nhị cùng các nữ tướng đã chặn đánh tan tành quân Hán ở Trường Sa. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan chức thứ sử thái thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách “An Nam Chí lược” và “Thiên Nam Ngữ lục” chép Tô Định bị giết chết tại trận. Vua Hán phải cử Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã giành lại nền độc lập tự chủ nên vua Hán phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như thời Hán Vũ Đế vậy. BÀ TRƯNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC Sách sử xưa chép rằng việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị thì chúng cho quân đến vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành lũy chuẩn bị dụng binh. Thế cô nên Thi không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp thiên hạ dấy nghĩa”. Nhận được hung tin, Hai Bà làm lễ tế cờ rồi truyền hịch đi khắp nơi dấy nghĩa “Giết quân Hán xâm lược để lập lại nghiệp xưa vua Hùng”. Đầu năm Kỷ Hợi (39DL), Trưng nữ Vương xuất quân đánh ngay vào Trường Sa, trị sở Đô Úy của Hán triều. Trận chiến do Trưng Nhị cùng các nữ tướng Phật Nguyệt, Trần Thiếu Lan, Trần Năng, Lại Thế Cường. Chiến thắng quân Hán ở Đô Uý trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định, tàn quân Hán tháo chạy về nước. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo. Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chép: “Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”. Đây chính là truyền thống suy cử quân trưởng Thủ lĩnh để nối nghiệp xưa của vua Hùng được các Lạc Tướng tôn trọng và truyền lưu mãi tới thời Trưng Nữ Vương. Khi lên ngôi, Trưng Vương đặt quốc hiệu là Hùng Lạc để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng và miễn thuế cho nhân dân 2 năm để phục hồi sức dân. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc: Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta... (3) BÀ TRƯNG ĐÁNH TAN QUÂN HÁN Ở HỒ NAM (TQ) Sách sử xưa chép rằng Trưng Trắc, con gái Lạc tướng Mê Linh lấy con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách bị Tô Định giết chết nên Bà Trưng làm lễ tế cờ rồi xuất quân khởi nghĩa. Đầu thế kỷ thứ 4, Lịch Đạo Nguyên, một người đã từng làm việc ở Giao Chỉ nên rất thông hiểu, lịch sử, địa lý toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc viết trong tác phẩm Thủy Kinh Chú Sớ rằng chồng của bà Trưng tên là Thi chứ không phải Thi Sách vì Hán văn viết liền “Thi sách thê” nghĩa thi là lấy vợ và một sự kiện khác là danh tướng Thi không bị Tô Định giết mà cùng với Trưng Trắc đánh phá các quận, thu phục các Lạc Tướng. Thủy Kinh Chú Sớ chép: “ Con trai Lạc Tướng Chu Diên là Thi lấy con gái Lạc Tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trưng Trắc là người can đảm dũng lược, cùng chồng là Thi đánh phá các quận, thu phục được các Lạc tướng. Trưng Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh…”. Trước đây các sử gia Việt Nam cứ cho rằng cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng diễn ra ở Mê Linh trong lãnh thổ Bắc Việt Nam. Đây là một sự sai lầm vì chính sách “Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu”. Địa danh Mê Linh ở Trường sa và đất Phong Châu là Phong Châu Thượng ở giữa Vân Nam và Quí Châu chứ không phải Phong Châu Hạ ở Bạch Hạc, Việt Trì Bắc Việt sau này do triều Đường mới đặt tên năm 622. Sách “Cựu Đường thư” của Lưu Hú chép: “Phong Châu ở Tây Bắc An Nam, Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Cựu Đường thư đã ghi rõ là Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An Nam. Sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường chép: “Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang”. Thuỷ Kinh chú dẫn Lâm Ấp ký” chép: “Phía Nam Chu Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông nhỏ tên là Văn Lang Cứu”. Sự thật lịch sử này đã được Lịch Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm “Thuỷ Kinh chú” là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân Nam như sau:“Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm 42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu lên vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết. ..”. Mã Viện tiến quân từ mạn Bắc xuống nên nếu Mê Linh là ở Bắc Việt Nam thì làm sao mà đi ra huyện Thúy tỉnh Vân Nam được. Sách Thủy Kinh chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn: “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó …”. Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở cửa Tiến Tang miền Nam huyện Tường Kha tỉnh Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước đến giờ. Theo Lĩnh Nam trích Quái, Triệu Vũ Đế của Nam Việt cũng là người Chân Định (Trường Sa tỉnh Hồ Nam TQ) là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Đất Mê Linh lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ Nam, nơi mà Hán Vũ Đế đặt “Đô Uý trị” ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111 TDL sau khi đánh thắng Nam Việt. Sự kiện này một lần nữa xác nhận Mê Linh lúc đó là địa danh ở Trường Sa, Tây hồ tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân ta đã mang theo địa danh Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên quê hương của danh tướng Thi, chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc. Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc mà theo Thủy Kinh chú thì: “Ở phía Bắc huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua phía Nam thành cũ huyện Long Uyên”. Sử gia Đào Duy Anh và các nhà sử học CHXHCNVN nhất loạt gán ghép một cách vô lý đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành chữ Lý! để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết rõ rằng con sông này còn gọi là sông Nam. Thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang) mà sau này Hán sử cố tình chép đổi lại là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông Trung Quốc. Mặt khác, chính sử sách chép rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay. Căn cứ vào “Quận quốc chí” của “Hậu Hán thư” thì Nam Hải có 7 thành, Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53 thành. Nếu cộng với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành mới đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được. Điều này chứng tỏ cuộc chiến đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kinh Châu và Dương Châu. Sự kiện này đã được xác nhận qua thực tế lịch sử là nhân dân Hoa Nam cho đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo “Thờ Vua Bà”. Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ tướng của Hai Bà.(4) Trận chiến đầu tiên xảy ra đầu năm kỷ Hợi 39 DL được “Địa phương chí” của sở du lịch Trường Sa Trung Quốc xác nhận như sau: “Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan ở đầu sông Tương”. Như vậy, trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đoạn sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này cũng được ghi trong “Quốc phổ thời Nguyễn” chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê ... khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối: Tích trù Động Đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng … Động Đình chiến sử danh trấn Hán, Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng ..! Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì khi Mã Viện huy động đại quân tiến đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối: Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược, Bồ Lăng tuẫn tiết tận thần trung … (5) Các nhà viết sử trước đây cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là “chính sử” mà quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó “Việt chí” và ”Thiên Nam Ngữ lục” là thiên trường ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống cự không nổi phải rút lui dần”. Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc Dương như Hậu Hán thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong “Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện” chép lại. Mặt khác trong khi sử Trung Quốc “Hậu Hán thư” chép là Hán Quang Vũ hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa thuyền xe, sửa chữa cầu đường, thông miền khe núi, tích trữ lúa gạo từ những năm 40-41 thì thời gian này, Mã Viện còn lo đánh Duy Dĩ ở Hồ Nam và Lý Quảng ở Hoãn Thành tỉnh An Huy TQ bây giờ. Mãi đến năm 42, Mã Viện mới được phong là Phục Ba tướng quân đem hơn vạn quân các quận tiến đánh Hai Bà Trưng. Trong khi sách sử chép rằng trong vòng 1 tháng, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm 65 thành trì khắp 6 quận miền Hoa Nam bao gồm Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải thì làm sao có thể huy động được quân của các vùng này như Hậu Hán thư đã chép. Nếu có thì chỉ huy động được hơn một vạn quân sau khi thắng Lý Quảng ở Hoãn Thành An Huy và Duy Dĩ ở Hồ Nam để đánh Hai bà ở Trường Sa và vùng hồ Động Đình mà thôi. Sau 3 năm ráo riết chuẩn bị, Hán triều cử Mã Viện đem đại quân tiến đánh Hai bà. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt trên toàn cõi Hoa Nam. Trận chiến cam go ác liệt nhất xảy ra ở vùng Lãng Bạc khi Hai Bà đem quân tấn công quân Hán năm 43, Mã Viện phải rút quân lên vùng đất cao để đóng quân cố thủ. Quân Hán không thích hợp với khí hậu mùa hè phương Nam nên bị dịch bệnh chết nhiều. Tướng giặc Bình Lạc Hầu Hàn Vũ bị bệnh chết, quân sĩ hoang mang dao động. Sợ lâm vào tình thế nguy ngập, Mã Viện lợi dụng quân số đông, lại có thuỷ bộ phối hợp nên y dốc toàn lực liều chết phá vòng vây khiến quân ta bị tổn thất nặng. Hai Bà Trưng phải rút về Cẩm Khê huyện Mê Linh để bảo toàn lực lượng. Trong suốt 2 năm, Mã Viện nhiều lần tấn công nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo Hậu Hán thư thì “Mã Viện đem quân đuổi theo Trưng Trắc đến Cẩm Khê, hai bên giao chiến nhiều lần. Mã Viện giết được Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về kinh đô Lạc Dương”. Chúng ta phải xét lại những gì Hậu Hán thư chép vì không những mâu thuẫn với Thông sử dân gian mà còn mâu thuẫn ngay với truyện Lưu Long trong Hậu Hán thư. Truyện Lưu Long, phó soái của Mã Viện lại chép rằng Lưu Long đánh đuổi nghĩa quân đến Cẩm Khê, bắt được Trưng Nhị, chém giết hơn ngàn người, bắt đầu hàng hơn vạn người mà không nói gì đến Trưng Trắc. Hậu Hán thư chép tiếp:“Tháng 11 năm 43, Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2 ngàn chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người đánh giặc Đô Dương ở Cửu Chân là dư đảng của Trưng Trắc từ Vô Công đến Cư Phong, chém bắt hơn 5 ngàn người. Lĩnh Nam đều bình định. Viện tâu lên vua rằng Tây Vu có hơn 3 vạn 2 ngàn hộ, vùng xa cách huyện đình hơn ngàn dặm, xin chia làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua đồng ý, chỗ Viện đi qua liền vì quận huyện dựng thành quách, đục ngòi tưới tắm để lợi cho dân. Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân. Năm thứ 20 tức năm 44, mùa Thu, Viện thu quân rút về kinh đô. Quân lính trải qua chướng dịch, mười người chết hết 4,5”. Trận chiến ở Cửu Chân diễn ra ác liệt, tướng Đô Dương tử trận. Quận Cửu Chân theo các sách sử Trung Quốc như Thủy Kinh Chú và Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì “Ái Châu tức Cửu Chân, phía Nam giáp quận Nhât Nam, phía Tây giáp quận Tường Kha, phía Bắc giáp Ba Thục, phía Đông giáp Uất Lâm” gồm một phần của tỉnh Vân Nam, một phần của tỉnh Quảng Tây TQ bây giờ chứ không phải vùng Thanh Nghệ như sử sách chép từ trước đến giờ… Theo Hán sử thì Mã Viện bắt hơn 300 Cừ Soái giải về Linh Lăng. Các thủ lĩnh còn lại biết không chống nổi trước thế giặc hung hãn nên rút dần về phương Nam để tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Hán xâm lược. Hậu Hán thư chép như thế trong khi “Nam Việt chí” của Thẩm Hoài Viễn lại chép là: “Trưng Trắc chạy vào miền trong thác Kim Khê, hai năm sau mới bắt được”. Sách “Việt Chí” cũng chép là Kim Khê ở phía Tây Nam huyện Mê Linh, như vậy thuộc Trường Sa, Hồ Nam TQ trong khi sách Thuỷ Kinh chú lại chép là Cấm Khê. Hậu Hán Thư chép là Mã Viện tâu lên vua Hán là Lĩnh Nam đã bình định. Như vậy là vùng Lĩnh Nam tức phiá Nam rặng núi Ngũ Lĩnh ở bên Trung Quốc chứ không phải ở phần lãnh thổ Việt Nam sau này như các sử gia thời trước đã hiểu sai. Đặc biệt “Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân”. Điều này chứng tỏ nước ta lúc đó còn độc lập tự chủ và xã hội Việt đã văn minh đã thể chế hóa luật Việt hẳn hòi chứ không phải “Man Di mọi rợ” như Hán sử bôi bác xuyên tạc, đồng thời chính Mã Viện phải thương lượng tôn trọng phong tục tập quán cũ của người Việt mà sách sử chép là “cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc, sau đó “Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân !!!”. Thông sử dân gian được chép trong “Thiên Nam Ngữ lục” thì Hai Bà Trưng rút xuống vùng Vân Nam và lập căn cứ ở nước Nam Chiếu. Về sau Hai Bà bệnh mà chết. Con cháu và các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân lui xuống phương Nam tiếp tục mở đất từ Tứ Xuyên xuống Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ rồi tràn xuống phương Nam dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng theo Thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố, ra Chu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) rồi về tới Đồ Sơn. Tiếng địa phương của chi Âu Việt gọi vua là “Chiếu” nên Nam Chiếu có thể hiểu là vua nước Nam. Họ xưng là dân nước Nam Chiếu nên thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc, trong trận thuỷ chiến họ đã giết được viên Thú lệnh của Hán triều. Một số khác trôi dạt ra đảo Hải Nam mà sử sách xưa chép là Hán triều chia ra làm 2 quận Chu Nhai và Đạm Nhĩ. Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đạm Nhĩ rồi đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. Hán sử chép lại sự kiện phải bỏ đảo Hải Nam bằng cách bao biện cho việc rút quân của chúng một cách khôi hài láo xược. Giả Quyên Chi tâu lên vua xin bỏ cuộc chinh phục vì “ dân Lạc Việt ở Chu Nhai vốn còn man rợ, không khác loài cầm thú, cha con tắm cùng sông, quen uống nước bằng mũi nên không đáng để đặt đất này thành quận huyện ..!”. (6) Thần tích làng Hạ Lôi ở Cẩm Khê Mê Linh chép là Bà Trưng Nhị tử trận còn Trưng Trắc chạy lên núi My Sơn rồi hoá. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh, Vân Nam Trung Quốc bây giờ. Theo thông sử dân gian truyền tụng thì ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão tức năm 43, sau khi dốc toàn lực quyết chiến với quân thù, hai Bà sức cùng lực tận đã gieo mình xuống dòng sông Hát (Hát Giang) tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết của bậc anh thư nước Việt. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca chép: Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo, Chị em thất thế phải liều với sông ..! Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” gọi sông Hát là sông Chu Diên và “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi cũng chép:“Ở sông Hát có cá Anh Vũ bơi lội tới sông Giang Hán (Dương Tử giang và Hán thuỷ) vì cây Chiên Đàn ở sông Hát cao cả nghìn trượng, rễ lâu năm, gốc dài bám liền tới sông Trường Giang (Dương Tử giang) và sông Hán. Cá Anh Vũ bơi lội thông thương trong hốc đất vì thế ở Hoàng Hạc Lâu có Anh Vũ châu …”. Như vậy, sông Hát ở đây là ở hạ lưu sông Dương Tử khác với sông Hát sau này ở Bắc Việt nay là Ngã ba Hạc, mà theo tương truyền cá Anh Vũ cũng có tại Hoa Lư là gốc rễ Chiên Đàn nói trong truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Trích quái. SỐ PHẬN MÃ VIỆN VÀ CỘT ĐỒNG HUYỀNTHOẠI Mã Viện không chỉ là một danh tướng Hán chuyên đem quân đi xâm lược để bành trướng đế chế Đại Hán, mà y còn là tên quan thống trị hết sức thâm độc. Để dập tắt mầm mống chống đối, Mã Viện đã vô hiệu hoá mọi phương tiện truyền đạt hiệu lệnh khởi nghĩa của các Lạc Hầu Lạc Tướng Việt, đồng thời triệt tiêu trống đồng là vật biểu trưng cho nền văn minh Việt và cũng là biểu tượng quyền uy của giới lãnh đạo thời Hùng Vương. Mã Viện ra lệnh tịch thu tất cả trống đồng của Lạc Việt để đúc “ngựa thép” để dâng lên vua Hán. Sách “Hậu Hán thư” chép: “Viện ưa cưỡi ngựa hay có tiếng nên khi ở Giao Chỉ, lấy được trống đồng Lạc Việt bèn đúc ngựa thép về dâng vua”. Vấn đề không đơn giản như Hậu Hán thư chép vì trống đồng không chỉ là nhạc cụ truyền thống dùng trong các lễ hội mà trống đồng còn là biểu tượng quyền uy tuyệt đối của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thủ lĩnh quân trưởng của địa phương nữa. Tiếng trống đồng là hiệu lệnh tập hợp của các thủ lĩnh Quân trưởng Việt. Mỗi khi nghe tiếng trống, người người kéo đến như mây. Chính vì vậy, việc làm của Mã Viện là chủ trương trước sau như một của đế chế Đại Hán bành trướng từ Mã Viện đời Hán đến Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Ngụy đời Lục triều và Lưu Hiển đời Minh. Thời nào Hán tộc cũng tìm cách tịch thu phá huỷ trống đồng Việt cổ, tịch thu tiêu hủy toàn bộ sách sử của nước ta nhằm hủy diệt mầm mống ý chí chống giặc thù của tộc Việt. Tuy thắng được Hai Bà Trưng nhưng theo Hậu Hán thừ thì quân số đi mười lúc về chết vì dịch bệnh chỉ còn bốn, năm. Hán thư chép xuyên tạc như vậy vì cho rằng quân Hán chỉ chết vì dịch bệnh chứ không phải chết trận. Nếu tính cả số thương vong thì lúc về chỉ còn 1,2 là nhiều chứ đừng nói tới việc để lại bọn mà sách sử Hán gọi là “Mã lưu”. Trước tình trạng quân Hán ngày một chết nhiều vì thương vong và dịch bệnh khiến giặc bị tiêu hao thiệt hại nặng nề nên Mã Viện nại cớ “Thuỷ thổ Giao Chỉ hơi độc bốc lên đến nỗi chim đang bay trên trời cũng phải rũ cánh sa xuống đất mà chết …” để rút quân về. Nhận được sớ của Mã Viện, năm 44 vua Hán hạ chiếu cho Viện rút quân về. Trước khi về nước, Mã Viện cho dựng một cột trụ bằng đồng làm ranh giới cuối cùng Hán Việt. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” như để răn đe là nếu cột trụ đổ thì Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Sách sử cổ TQ chép về “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” không rõ ràng. Theo Đào Duy Anh thì Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện không hề đề cập tới việc Mã Viện dựng cột đồng. Sách Hậu Hán ký cũng không nói gì đến việc này. Phải đến cuốn Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm. Theo “Man thư” (7) đời Đường thì vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện An Ninh tỉnh Vân Nam trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống chép cột đồng đặt tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” đã viết về cột trụ đồng như sau: “Mã Viện đuổi theo đánh các tàn quân là Bà Đô Dương. Tới huyện Cư Phong tất thảy đầu hàng. Viện bèn lập trụ đồng ghi bờ cõi tận cùng của Hán. Đồng trụ tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. Viện có lời nguyền rằng “Đồng trụ bị gãy thì Giao Châu sẽ bị diệt”. Người nước ta đi qua bên dưới thường lấy đá đắp thêm vào, sau thành ngọn núi. Ấy là vì sợ nó gãy! Mã Thống An Nam Đô hộ đời Đường lại dựng hai đồng trụ ở chỗ cũ đời Hán, ghi công đức Mã Viện để tỏ mình là dòng dõi Phục Ba”.(8) Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Vân Đài Loại ngữ” đã viết: “Gọi là phân mao cỏ rẽ vì núi cỏ mọc rẽ làm hai, phía Tây Phân Mao lĩnh là Khâm Châu (Trung Quốc), lưng chừng có cột đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ là cột đồng do Mã Thống đời Đường dựng mà tương truyền đây là cột trụ đồng của Mã Viện”. Cho đến nay một số sách sử vẫn chép là có trụ đồng ở Phân Mao Lĩnh do Mã Viện trồng ở động Cổ Lâu thuộc Hồ Nam, phía Tây Phân Mao lĩnh thuộc Khâm Châu. Năm 751, viên quan Đô hộ Hà Lý Quang sau khi đánh Nam Chiếu ở Vân Nam đã dựng lại cột đồng ở chỗ cũ.. Sách sử xưa chép rằng Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt nước Sở vì theo Hậu Hán thư thì khi triều Chu suy, Sở hùng cường xưng Bá thì Bách Việt triều cống Sở nên thời kỳ này không thấy sử sách nhắc gì tời Giao Chỉ là như vậy. Giao Chỉ cuối thời Chiến quốc ở phía Nam nước Sở, đến thời Tần năm 214 TDL, Tần cướp đất Dương Việt lập ra 3 quận Quế Lâm (gồm phía Bắc và Đông Việt Tây tức Quảng Tây, Nam Hải (nguyên là Việt Đông sau này đổi là Quảng Đông và Tượng quận là vùng đất gồm phía Tây Việt Tây và Nam Quí Châu. Đến thời Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt thì quận Cửu Chân là vùng đệ tam lĩnh của Ngũ Lĩnh là dãy Đô Bàng ở Cửu Chân. Sang đến thời Tây Hán thì Bách Việt làm chủ lại địa bàn cư trú xưa cũ, Hán sử chép rằng mãi đến năm 29 thời Đông Hán thì các quan châu mục mới sai sứ sang cống, điều này có nghĩa là Hán triều chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. Năm 43, sau khi thắng Hai Bà thì Mã Viện nếu có dựng trụ đồng thì chỉ dựng ở biên giới cực Nam của Trung quốc ở động Cổ Lâu phía Tây Phân Mao Lĩnh thì biên giới phía Nam Trung quốc mới tới vùng này là Hồ Nam. Chính vì vậy dân gian mới đặt tên là Phân Mao Lĩnh, nơi cỏ mọc rẽ sang hướng Bắc và rẽ sang phương Nam như một biên giới tự nhiên là như vậy. Một sự thật là các sử quan Hán tộc không phải là không phải là không phân biệt giữa khái niệm địa danh mà họ cố tình mập mờ đánh lận con đen, đem tên vùng này đặt cho vùng khác để xoá nhoà ký ức dân tộc về nước Việt Thường, Xích Qui rồi Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Chính vì vậy các sử gia nước ta từ trước đến nay bị sa vào trận địa hoả mù của Hán tộc. Họ cứ cho rằng cột trụ đồng ở biên giới phía Nam của Lâm Ấp về sau này. Thực ra Lâm Ấp là tên của một chi tộc Việt bao gồm Lâm + Ấp + Môn + Điền (Việt) ở Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Chi tộc này về sau xuôi Nam thành lập vương quốc Lin-Y phiên âm sang Hán Việt là Lâm Ấp trải dài từ rặng núi Hoa sơn ở Việt Tây dọc theo Trường Sơn đổ xuống Nam tới tận ven biển Trung Việt. Chính sách “Khâm Định Việt sử” của triều Nguyễn chép rõ là: “Lâm Ấp xưa thuộc nước Việt Thường, trải qua thời kỳ Tần xâm lược thì có tên là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận là phần đất giữa Vân Nam, Quí Châu và Quảng Tây. Đến đời Hán mới đặt tên cho vùng Hà Tĩnh là huyện Tượng Lâm thuộc quân Nhật Nam. Khi Khu Liên khởi nghĩa thành công mới đặt tên nước là Lâm Ấp. Về sau, Phạm Hùng là dòng họ ngoại làm vua truyền tiếp nhiều đời. Lâm Ấp còn có những tên khác như Hồ Tôn, Hoàn Vương, Chiêm Thành”. Một sự thật cần phải ghi nhận là sách “Hậu Hán Thư”, bộ sử chính thức của Hán tộc không chép gì về cột đồng Mã Viện. Hậu Hán Thư trong chương nói về tiểu sử của Mã Viện không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước ta. Sự thật lịch sử này đã góp phần làm sáng tỏ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng xảy ra ở Hoa Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như chúng ta hiểu từ trước tới nay. Mãi đến thế kỷ thứ tư, một loạt sách sử Trung Quốc chép gần giống nhau như sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường viết: “Phía Nam Lâm Ấp đường thuỷ đường bộ qua 2 nghìn dặm đến Tây Đồ Di là nơi Mã Viện đặt đồng trụ để nêu bờ cõi”. Sách “Tân Đường thư” cũng chép: “Lâm Ấp có châu Bôn Đà Lăng. Bãi lớn phía Nam có 5 đồng trụ do Mã Viện đời Hán trồng. Hình núi như chiếc tàn nghiêng. Phía Tây là là mấy trùng núi, phía Đông là biển cả”. Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” chép: “Mã Viện đánh Lâm Ấp. Từ Nhật Nam đi hơn bốn trăm dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy lập 2 đồng trụ ở chỗ biên giới Tượng Lâm giáp với Tây Đồ Di. Đường thủy thì đi từ Nam Hải hơn 3 nghìn dặm tới Lâm Ấp, năm nghìn dặm tới đồng trụ của Giao Châu”. Lịch Đạo Nguyên là một người đã từng làm quan ở nước ta đã biết rõ là trụ đồng không có thật nên tác giả Thủy Kinh Chú viết là “Núi sông dời đổi. Đồng trụ đã chìm vào sông biển ..!”. Đây là một sự hư cấu phục vụ cho chủ trương xâm lược bành trướng của “Đại Hán” mà thôi vì nếu cột đồng Mã Viện có thật thì nó phải ở Khâm Châu vì vào thời điểm đó, bên giới phía Nam của Trung Quốc chỉ tới đó. Sau này, vị trí của cột đồng Mã Viện được sách sử Trung Quốc dời về cực Nam theo thời gian để phù hợp với sử quan Hán tộc. Nhà Hán học nổi tiếng Henri Maspéro trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng. Trên thực tế, vấn đề cột đồng được Trung Quốc sử dụng như một vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Quốc muốn tạo cớ để xâm lấn hay xách nhiễu. Nó được viện dẫn như một cái cớ về việc tranh giành đất đai và “khôi phục” lãnh thổ cũ đời Hán xâm lấn.(9) Cho đến ngày nay, dân gian Việt vẫn xem cột đồng như có thật cũng như thi vị hoá truyện danh tướng Thi bị quân giặc giết chết nên Trưng Trắc phải trả thù chồng. Khi thế cùng lực tận, Bà Trưng đã nhảy xuống dòng sông Hát để đền nợ nước nên hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống mãi trong lòng dân tộc. Chính Hán sử còn ghi rõ là trong ngày vui chiến thắng của quân Hán, mùa xuân năm 43 chính viên danh tướng này hú hồn vừa thoát chết trở về đã ngao ngán thốt lên rằng: “Tùng đệ ta là Thiếu Du thương ta khẳng khái nhiều chí lớn, thường nói với ta là Kẻ sĩ sống một đời chỉ mong áo cơm vừa đủ, cỡi xe qua trằm đi ngưa nước kiệu, làm Duyên Lại quận, giữ mồ mả, làng xóm khen là người tốt. Đó là được rồi, chứ mong cầu dư dả, chỉ tự mình làm khổ mình thôi ..! Khi ta còn ở vùng Lãng Bạc Tây Lý, giặc chưa diệt xong, dưới lầy trên mù, khí độc ngun ngút, ngửng trông diều bay, sà sà rơi xuống nước. Nằm nghĩ lại lời của Thiếu Du lúc bình sinh sao mà thấy đúng quá ! Nay nhờ sức Sỹ Đại phu, được ban ơn lớn, đứng trước các ông, giữ ấn vàng mang đai tía, lòng không khỏi vừa mừng vừa thẹn ..!”. Trước khi xuất quân, Mã Viện biết rằng đi đánh Giao Chỉ là việc hiểm nguy không biết sống chết ra sao nhưng may mắn lại thắng trận trở về. Bà con họ hàng ra nghênh đón trong đó có người tên là Hư Ký ca tụng và ủy lạo công lao cực khổ của Mã Viện, thì viên tướng này lại giương giương tự đắc nói rằng “Làm trai nên chết ở chiến trường, da ngựa bọc thây, đem về quê chôn cất, chứ ai lại ngủ chết trên giuờng để cho con cái đem chôn”. (10) Về đến kinh đô còn chưa kịp hoàn hồn sau mấy năm trời chinh chiến thì 7 năm sau lại nhận được lệnh đi đánh dẹp “Mọi Năm khe” là vùng đất bộ lạc người Mèo (Chi Hmong-Mien của Bách Việt) là Tương Tây và Nguyên Lăng thì tinh thần đã suy xụp, sức khỏe suy kiệt rồi lâm trọng bệnh mà chết trên đường hành quân. Sau khi chết, Mã Viện lại bị buộc tội là phải chịu trách nhiệm vì không có khả năng chống lại bệnh dịch hoành hành truyền nhiễm khiến quân sĩ chết rất nhiều vì Mã Viện ra lệnh hành quân chống lại các bộ lạc Ô Hoàn và quan trọng hơn là đã chở ngọc trai và sừng tê giác về nhà mà không trình lên triều đình. Vua Hán Quang Vũ đã tin vào các cáo buộc này và đã tước đi thái ấp cũng như tước hầu của Mã Viện. Vợ con không dám đem thi hài đi chôn, bạn bè thân thuộc cũng không dám đi cúng điếu! Về sau, Hán Chương Đế mới truy tặng ông tước Trung Thành hầu (11) Tự ngàn xưa và mãi mãi ngàn sau, Việt tộc vẫn tự hào về chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, bậc anh thư Liệt nữ của nước Việt. Hai Bà đã chiến đấu kiên cường để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng, kéo dài thêm thời kỳ tự chủ của dân tộc ta thêm được 4 năm nữa để rồi Việt tộc bước vào thời kỳ vong quốc. Với niềm tự hào dân tộc, không một người Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng trang sử oanh liệt của Hai Bà Trưng được ghi trong “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” ngay từ thời tấm bé: Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận quân hung bạo thù chồng chẳng quên … Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ Nương tử thay quyền tướng quân … Ngàn Tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên … Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thuỳ … Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta ..! Hai Bà Trưng được nhân dân cả nước sùng kính tôn thờ trên khắp các tỉnh thành. Hiện ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây và nhiều nơi khác lập đền thờ Hai Bà. Nhân dân các tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú còn lập đền thờ 35 vị nữ tướng đã cùng Hai Bà lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Ngày mồng 6 tháng 2 hàng năm, nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội Hai bà đông như trẩy hội. Không những đồng bào trong nước mà cả những đồng bào người Trung Quốc gốc Việt ở Hoa Nam, mặc dù đã bị Hán tộc thống trị cả ngàn năm vẫn còn giữ nhiều truyền thuyết về tiền nhân đã tham dự cuộc khởi nghĩa của Hai bà. Hiện ở vùng Ngũ Lĩnh gần hồ Động Đình vẫn còn địa danh “Động phủ Trưng Trắc” và ở Phiên Ngung, thủ đô của nước Nam Việt cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng với những đền thờ, miếu thờ các anh hùng liệt nữ đã vì nước hy sinh. Nhân dân các tỉnh vùng Hoa Nam Trung quốc vẫn tôn kính thờ phượng vị anh thư liệt nữ Trưng Trắc mãi tới ngày nay như một tín ngưỡng dân gian gọi là đạo thờ “Vua Bà”.(12) Ngô Thì Nhậm khi đi sứ sang Tàu đã ngậm ngùi xúc động trước tinh thần cao cả của đồng bào ta tại Trung nguyên, dù bị thống trị cả mấy ngàn năm tuy buộc phải giống như người Hán “đồng” nhưng vẫn không bao giờ “hoá” thành người Tàu được. Đứng trước Động phủ Trưng Trắc ở hồ Động Đình, Ngô Thời Nhậm đã cảm khái: Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ, Uý Đà mọt quế động hang sâu … Đặng Minh Khiêm, cháu 4 đời của Đặng Dung là một nho sĩ yêu nước vào thế kỷ XV đã tôn vinh bậc Nữ lưu của dân tộc qua bốn câu thơ bất hủ: Vương hầu văn võ thảy đều Hùng, Mười tám chi vua hiệu vẫn chung … Đời trải hơn nghìn con cháu tiếp, Trưng Vương còn giữ nếp Tiên Rồng ..! Lịch sử danh nhân Việt Nam nói riêng và cả nhân loại nói chung, không có bậc nữ lưu nào có thể sánh ngang với Hai Bà Trưng. Lời hịch xuất quân của Bà Trưng gần 2 ngàn năm về trước đã thể hiện cao độ lòng yêu nước thương nòi kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của tiền nhân cùng với tình thuỷ chung chồng vợ của đạo lý Việt Nam được dân gian thi vị hóa: Một xin rửa sạch thù nhà, Hai xin nối lại nghiệp xưa vua Hùng … Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này ..! Sử gia Lê văn Hưu đời Trần trong “Đại Việt Sử ký” chép: “Trưng Trắc Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành trì ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp Bá vương ! Tiếc thay trong khoảng hơn nghìn năm từ sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, bọn đàn ông con trai đành chỉ cúi đầu, bó tay làm tôi tớ cho Tàu chẳng hề xấu hổ với Hai Bà Trưng là phận nữ nhi .. Thương ôi ..!”. Từ nợ nước đến thù nhà, biểu trưng tuyệt vời của lòng yêu nước hòa quyện với tiết nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam đã được nữ sĩ Ngân Giang diễn tả qua tâm trạng của Trưng Trắc: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa, Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi … Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi ..! Sau khi Hán tộc xâm lược, Nam Việt tiêu vong năm 111 TDL và sau khi Hai Bà Trưng thất bại năm 43, một lần nữa quân dân Nam Việt phải rời bỏ Giao Chỉ bộ là phần đất cuối cùng ở Hoa Nam để xuống phương Nam. Các chi tộc trong Bách Việt ở Hoa Nam đã hội nhập với cộng đồng Bách Việt định cư từ lâu trên phần đất Việt Nam hiện nay. Tất cả đã tạo thành một sức mạnh tổng lực như một bức tường thành bất khả xâm phạm ngăn chặn Hán tộc xâm lược để Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay. Với lòng yêu nước thương nòi và tấm lòng trung trinh tiết liệt thanh cao vời vợi của người phụ nữ Việt Nam, Hai Bà đã biểu trưng cho khí phách anh hùng của bậc nữ lưu. Giá trị tinh thần này không chỉ riêng cho Việt Nam mà còn là di sản văn hoá của cả nhân loại nữa. CHÚ THÍCH. 1. Sự thật lịch sử này đánh tan luận điệu tuyên truyền của Hán tộc là Bà Trưng khởi nghĩa vì Thaí thú Tô Định tham lam tàn bạo và vì thù chồng mới nổi lên chống Hán. Chính lòng yêu nước đã thúc đẩy hai vợ chồng Trưng Trắc đứng lên giết giặc cứu nước, sau khi chồng bà bị giết thì thêm mối thù nhà để “vua Bà” làm nên lịch sử và cũng từ đó ý niệm “nước mất nhà tan, nợ nước thù nhà” thấm đậm trong ngôn ngữ văn chương dân gian Việt. Đọc lại đoạn sử xưa chúng ta không khỏi ngậm ngùi xen lẫn phần hãnh diện vì không có dân tộc nào gắn liền lòng yêu nước với tình thương nòi giống như dân tộc Việt. Trải dài suốt dòng lịch sử, trước một kẻ thù Hán tộc xâm lược tàn bạo gây bao cảnh tang tóc thương đau cho dân Việt nên hơn bất cứ dân tộc nào khác, người dân Việt thấm thía cảnh “Nước mất nhà tan ..!” để từ đó ý niệm quốc gia là nước nhà hình thành hòa quyện làm một “Gene yêu nước” truyền thống Việt tự xa xưa. Từ trước đến nay, sử sách Việt đều ghi là Thi Sách duy chi có sách Thủy Kinh Chú chép chỉ chép là Thi. Theo công trình nghiên cứu gần đây thì nguyên đoạn văn chép trong Hậu Hán thư như sau: “Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê, Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi khí tặc, Mã Viện tương binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê”. Sách chữ Hán không có chấm phết, nên chữ sách có nghĩa là hỏi (vợ). Nếu sách là tên riêng như Trắc thì câu sau phải viết là: ..Trắc Sách tẩu nhập Kim Khê, vì không lẽ tên riêng cho vợ (Trắc) rồi lại viết họ Thi của chồng thì hoàn toàn không ổn. Do đó, chồng của Trưng Trắc là Thi mới đúng chứ không phải là Thi Sách như sách sử vẫn viết từ trước đến giờ. 2. Hậu Hán thư chép: “Năm đầu hiệu Kiến Vũ, Nhâm Diên được triệu làm Thái thú Cửu Chân. Tục Cửu Chân không biết cày cấy, thường đong thóc ở Giao Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dạy cho khai khẩn. Mỗi năm ruộng mở rộng thêm, trăm họ được no đủ. Dân Lạc Việt lại không có lễ phép cưới hỏi, không có giá thú, dâm háo, không rước đón mà vẫn đến với nhau. Không biết tình cha con, đạo vợ chồng. Diên bèn gửi thư đến các thuộc huyện, khiến trai từ 20 đến 50, gái từ 15 đến 40 đều lấy tuổi mình mà lấy nhau. Kẻ nghèo không có lễ rước thì ra lệnh cho Trưởng Lại trở xuống, mỗi người bớt bổng lộc để giúp đỡ họ. Lấy nhau cùng một lúc là hơn 2 ngàn người. Năm ấy mưa thuận gió hòa, lúa đậu được mùa. Họ sinh con mới biết dòng giống họ hàng, đều nói “Khiến ta có con này đều do Nhâm quân nên phần nhiều đặt tên con là Nhâm. Do thế, mọi rợ ngoài biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải. Diên bèn ngưng bỏ do thám đóng quân…”. Đọc lại những gì mà Hậu Hán thư chép chúng ta thấy rõ hơn về cái gọi là Hán sử là chính sử (sic) mà các sử gia từ trước tới nay cứ sao chép một cách vô thức. Trước hết, theo Hậu Hán Thư thì Nhâm Diên mới được cử làm Thái thú Cửu Chân năm 29, nếu Nhâm Diên có nhiều công trạng như vậy thì tại sao đến năm 32 triều đình lại bãi chức Thái Thú của y. Những gì Hậu Hán Thư viết bôi bác xuyên tạc về dân Lạc Việt là man di mọi rợ chính là để biện minh cho chủ trương khai hoá của “thiên triều Đại Hán” văn minh tiến bộ trong khi chính Hán Hiến Đế (190-220) đã tuyên dương Giao Chỉ như sau: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”. Trước đây, chúng ta cho là Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân là phần đất Thanh nghệ VN nhưng chính Hậu Hán Thư đã xác nhận sự thật lịch sử là Cửu Chân lúc đó còn nằm ở phần đất Dạ Lang cao nguyên Quí Châu Ba Thục. Khảo cổ học đã tìm được những lưỡi cày đồng ở phần đất Thanh Hóa Nghệ An thuộc quận Cửu Chân sau này, di chỉ khảo cổ trên chứng tỏ người Cửu Chân đã biết cày cấy từ lâu chứ không phải nhờ Nhâm Diên mới biết cày bừa. 3. Đại Nam Quốc sử Diễn ca của Phạm đình Toái và Lê Ngô Cát xác định Mê Linh ở Trường Sa, Hồ Nam nên mới viết là Lĩnh Nam là từ rặng Ngũ Lĩnh trở về Namphía Nam sông Dương Tử tức là vùng Hoa Nam. Như vậy cuộc kháng chiến diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc. Quê hương của Bà Trưng ở Hồ Nam nguyên là phần đất của nước Văn Lang xưa. Mười tám chi Hùng Vương truyền thừa đến An Dương Vương lập nước Âu Lạc rồi tới Triệu Đà lập nước Nam Việt. Sau khi Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt năm 111 TDL, mặc dù đã chia quận huyện trên giấy tờ nhưng đến thời hai Bà Trưng phần đất này, Hán tộc vẫn chưa kiểm soát được. Đặc biệt là thời đại Hùng Vương đã được chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên ghi rõ trong bộ Sử Ký. Sự thật lịch sử này đã đượcWilliam Watson trong tác phẩm "Cultural Frontiers in Ancient East Asia" viết về những đồ vật đào lên tại Liu-ch'êng-ch'iao Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam trong đó có một cái qua (cây dáo)” còn nguyên vẹn có khắc tên một vị vua tên là Nhược Ngao. Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch. Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử và sự kiện lịch sử Hai Bà Trưng chống quân Hán xâm lược để khôi phục cơ đồ họ Hùng là một sự thật lịch sử. 4. Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài. Ngay cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn có ngôi mộ tên Ngài. Ngoài ra còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam… Tất cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam. 5. Hiện ở ngã ba sông Ô giang và Trường giang có bến Bồ Lăng, ở đó có miếu thờ 3 vị thần họ Đào. Ngay trước miếu có đôi câu đối ca tụng công lao của 3 vị tướng họ Đào đã khẳng khái theo phò vua Bà, dù không đánh đuổi được quân thù nhưng thời của “Người” không lâu nên đau lòng phải tự tận, khí tiết thanh cao vút chín tầng mây: “Khẳng khái phò Trưng thời bất lợi, Đoạn trường trục Định tiết can vân !”. Bên trong miếu thờ có đôi câu đối: “Giang thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ Lăng Bách tộc khấp trung thần ..!”Sông Trường giang, tam anh phò nữ chúa Bến Bồ Lăng trăm họ khóc trung thần ..! 6. Hải Nam: Diện tích 33.940 km2, dân số 7.870.000 người tromh đó có thổ dân sắc tộc Lý (1 triệu người), Miêu 50 ngàn ngườiKhu Tự trị ở miền Trung và miền Nam của đảo gồm 5 quận dành cho người Lý, 2 quận chung cho người Lý và Miêu, 4 thị trấn của người họ Lý, 1 Thị trấn chung cho người Lý và Miêu. Vũ hữu San Sđd tr 70. Đại Việt Sử lược đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi chép: “Đời Linh Đế nhà Đông Hán 184, người trong châu họp binh đánh Thứ sử. Vua Linh Đế dùng Giả Tôn làm thứ sử. Giả Tôn đến vỗ về hoà hợp được lòng người, cõi Giao Châu trở về yên ổn. Trăm họ ca ngợi rằng: Cha Giả đến muộn màng, khiến ta trước đánh càn. Thanh bình nay đã thấy, nào dám phản cho đang !?” Trong lịch sử chẳng có tên thái thú nào mà chẳng tàn bạo tham lam bóc lột dân ta và dĩ nhiên, chẳng bao giờ dân bị trị lại đi ca tụng một tên Thái thú cai trị là “cha”!!! Đây chỉ là sự bịa đặt của những tên Thái thú để tự tâng bốc công trạng của họ với triều đình cũng như các sử gia chính thống Hán tộc thêm thắt tô điểm cho “Thiên triều” mà thôi. Lời tâu của Giả Quyên Chi là luận điệu của các tên Thứ Sử, Thái Thú của Hán tộc xâm lược tự nhận là văn minh nên miệt thị dân ta “người dân như cầm thú, đời sống xã hội không biết lớn nhỏ … không có lễ phép cưới hỏi, nền kinh tế không biết cày bừa, lấy săn bắn làm nghề sinh sống”. Mặt khác, nó biểu lộ một thái độ hằn học trước sự chống cự ngoan cường của một dân tộc khát khao tự do đối với Đại Hán bành trướng. 7. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ, q. III, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, 1944 chép là dân ta đi ngang ném đá vào vì sợ cột đồng gãy chỉ đúng phần nào vì sợ lời nguyền “Giao Chỉ diệt!” nhưng mặt khác đó chính là biểu lộ lòng yêu nước muốn ném đá vào để lấp đi cái chứng tích của Mã Viện nên ngày nay không còn dấu vết của cột đồng nữa. 8. Man Thư là sách sử của người Man. Trước đây chúng ta cho rằng Hán tộc gọi tộc Việt là Man, man di mọi rợ nhưng công trình nghiên cứu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Hy Vọng trích dẫn sách La Civilization de los Origenenes Los hombres de la historia. BuenosAires, Abril de 1977/ Centro editor de Am érica Latina, SA/ Junin 981-Bunos Aires cho chúng ta biết rằng hai chữ Vạn An là phiên âm của Mạn An (người Man). Điều này cho thấy chữ Man là danh từ riêng nên không thể hiểu theo chữ Tàu là man di mọi rợ được. 9. Henri Maspéro: tập XVIII, số 3 năm 1918 của tập san Bulletin de l'EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ),Cuối đời Mã Viện còn ảnh hưởng do “con ngựa thép” mà họ Mã tịch thu trống đồng Lạc Việt để đúc dâng vua Hán. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “ Trên đường hành quân trời nắng nóng nên Mã Viện chi đi chậm rãi để dưỡng sức, lại bị 2 Phò mã là Lương Tùng và Đậu Cố và phó tướng Mã Vũ trình lên vua Hán là cố ý hành quân chậm chạp và khi đi đánh Giao Chỉ về đem theo vàng bạc nhưng giấu vua chỉ dâng vua một con ngựa thép mà thôi nên bị Hán Quang Vũ cho thu hồi ấn tín và không cho chôn cất...Vợ Viện lấy rơm buộc 2 con trai và 3 gái đến xin vua gia ân cho được chôn cất. Mãi đến lần thứ 6, vua mới đồng ý để nghe trình bày nỗi oan. Vua cho người đến khám xét nhà chỉ thấy xe đầy ý dĩ (bo bo) để Mã Viện chữa phong thấp mà thôi. Hán Quang Vũ biết Mã Viện bị oan nhưng vẫn không trả lại ấn tín và cũng không cho ghi vào bảng phong thần 28 anh hùng hảo Hán…!. Cuộc đời Mã Viện xét cho cùng thật là thấm thía làm sao ..!? 10. Hán tộc du mục lấy làm hãnh diện về câu nói này nên mới cổ vũ cho cái chết ngoài chiến trường của Nam tử Hán là “Da ngựa bọc thây”. Thanh niên Việt sẵn sàng hy sinh để bảo vệ giang sơn gấm vóc nên xem cái chết nhẹ như lông Hồng là con chim Hồng Hạc. Dân gian thường phân biệt hình ảnh của con ngựa chiến của tộc người du mục phương Bắc và vật biểu Chim của phương Nam để nói lên sự khác biệt giữa cư dân nông nghiệp và dân du mục Hán: “Việt điểu sào Nam chi, Hồ mã tê Bắc phong” nghĩa là con chim Việt thì đậu cành Nam còn con ngựa Hồ thường hí đón gió Bắc 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN. 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN. 12. Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com). Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với quân Mã Viện. Ngoài ra, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ Ngài. Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42 dl. Dọc miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.
  9. DẠY CON CHỮ HIẾU Con người từ thủa còn thơ Coi kính người lớn như là niềm vui Hễ nhà có khách đến chơi Bé đang bận việc cũng rời chỗ ngay Chạy ra chào khách, khoanh tay Khách xoa đầu bé, cháu này thật ngoan Thế là lòng bé rộn ràng Cảm giác hạnh phúc lây lan suốt đời. Khi vào thang máy đông người Bé nhanh miệng hỏi, cô ơi tầng nào? Quan tâm người khác biết bao Cái tính tự lập khác nào nảy sinh. Vậy mà các bậc phụ huynh Thường không để ý tự mình làm gương Chỉ toàn giục giã cháu con Học bài cho thuộc để còn điểm cao Phụ huynh chỉ mỏi ước ao Con hết đại học, mai sau hóa rồng Dạy mà chỉ vậy như không Con không cảm thấy trong lòng được vui Đánh mất hạnh phúc mất rồi Con người đâu phải chỉ nhồi kỹ năng Biết lễ nghĩa, biết quan tâm, Tình người, nhân bản, là bằng đầu tiên Học nhân nghĩa chẳng mất tiền Chỉ cần cha mẹ làm gương hàng ngày Trẻ con sẽ học theo ngay Mà trong lòng nó ngày ngày thấy vui Là niềm hạnh phúc trau dồi Vốn ấy mới thật ích đời con sau Chữ Lễ là chữ học đầu Thói quen lễ phép, mai sau nên người Học bài điểm Sáu hay Mười Cũng chẳng ảnh hưởng cuộc đời của con Mười năm mài ghế nhà trường Giáo điều chưa giúp đảm đương được gì Thói quen lịch sự, nghĩa nghì Mới là cái rễ để vì lớn khôn Gieo trong xã hội nhân duyên Tự tin, hạnh phúc, đứng riêng cuộc đời Đừng nghĩ chữ Lễ 禮 xa vời: Thấy 示 cái Phong 豐 phú là lời chữ nêu Tình người cử chỉ trao nhau Dân Việt lúa nước, nếp màu là Lê Quê có Thói, đất có Lề Hình thành Nề Nếp mà mê Lễ Nghì Mỗi làng hương ước từng ghi Lá rách đùm khéo nên chi lá lành. Đem đời theo nghiệp kinh doanh Vậy thì tư tưởng nào mình theo ngay? Gì là hạnh phúc nhất đây? Quan niệm có đúng mới gây thực hành Thói quen đúng sẽ hình thành Mới tạo tính cách của mình chính ngay Mới có vận mệnh gặp may Mới có hạnh phúc ngày ngày bình yên Sách tư tưởng đọc thường xuyên Bạn rằng lớn tuổi thì liền uyên thông? Xã hội nay mớ bòng bong Tìm người trẻ tuổi mới mong đơn thuần Chất phác mới thật là cần Dạy con tâm lý, bạn dùng sách ai? Sách Liên Xô, sách phương Tây, Sách Tàu, sách Mỹ dịch bày tràn lan Đem con thí nghiệm lâm sàng Hỏng rồi lại sửa, rõ ràng không nên Hãy tìm nguồn cội Tổ Tiên Văn Lang văn hiến 5000 năm nay Tổ Tiên hiền hậu, nghĩ hay Biết rằng truyền thế cách này dài lâu: Lý học vũ trụ cao sâu Chỉ vẽ tóm gọn một bầu Âm Dương Ký hiệu Bát Quái, Ngũ Hành, 64 Quẻ Dịch vẽ thành điển chương Ứng dụng mọi nhẽ, phi thường Còn đối con trẻ, dùng đường nào răn? Hai mươi ba chuyện Lĩnh Nam Trẻ ghi lòng mãi “Bánh Chưng Bánh Dầy”, “Thị ơi thị rụng bị này Thị thơm bà ngửi, bà rày không ăn” “Bống bang cá ở giếng làng Bống ăn cơm bạc, cơm vàng nhà ta”, “Cả làng gánh gạo, gánh cà Nuôi Gióng lớn dậy giữ nhà giữ quê” Trăm năm chữ sẽ mờ đi Nghìn năm bia miệng còn ghi rành rành Cổ tích truyền miệng hình thành Hay, khuyên nên học, hư, răn nên từ. Lắm người năm chục tuổi dư Ngoảnh đầu hối tiếc những gì sai qua Do chưa hiểu thấu ông cha Bao điều minh triết còn là nằm im Muốn khơi dậy phải nhẫn tìm Hiểu ra càng thấy diệu huyền tình thương. Xã hội nay lắm rối ren Văn minh vật chất, bỏ quên tinh thần Kinh tế ắt lắm công trình Các nhóm lợi ích vươn mình đánh đu Mật Ngọt thì lắm ruồi bu Thành bầy Mọt Ngật gặm hư nước nhà Mật Nhạt nhưng phải chan hòa Đừng để Mạt Nhật đến là Ngày Nguy Nguyên tử nổ đã thấm gì Người người vô đạo, ấy thì toàn vong Đạo đức quan trọng vô cùng Người xưa văn hóa tinh thần nêu cao Phủ nhận Việt sử khác nào Ủ gieo mầm độc cứa vào mai sau. Già làm mẫu, trẻ Háo theo “Già Háo” lướt Giáo 教, ấy điều chữ tuyên: “Thượng thi, hạ hiệu” xưa truyền Dục là “Dạy Đức” lướt nên mà thành: “Giáo tử sử tác thiện hành” Thuyết Văn Giải Tự rành rành đã tuyên. Xưa học, chí tại thánh hiền Nay học, chí tại kiếm tiền mà thôi Tiền và Thánh cách xa vời Đâu nên thánh thiện con người có nhân “Thế phục nhân, tâm bất nhiên” Nếu lấy thế lực đè lên con người Con người “tâm bất nhiên” rồi Ắt sẽ có lúc phản hồi chống anh “Lý phục nhân, phương vô ngôn” Là dùng đạo lý ôn tồn giải mông Dân nâng trí ắt hài lòng Đã vừa khâm phục lại cùng với anh. Tư duy nay, thật quẩn quanh Nghĩ rằng tiền có, là thành được công Người xưa, tiền để sau cùng Giáo dục là phải lấy mình làm gương Thầy như gương sáng bên giường Phản chiếu đạo lý xuống trường học sinh Chẳng phải tiêu chuẩn là mình Tiểu chuẩn - Đạo lý, đã thành khách quan Nếu thầy mà chẳng làm gương Giáo dục có đổ lắm tiền, bằng không. Người xưa khuyên nhủ Hiếu 孝, Nhân 仁 Đó là hai chữ phải cần đầu tiên Năm 88 giải Nô Ben Giải từng nêu rõ tuyên ngôn như vầy: Thế kỷ 21 ngày nay Loài người muốn ổn hãy quay về nguồn Học cho hiểu đức Thánh Hiền Ngày xưa Khổng, Mạnh từng truyền Việt Nho Giáo lý Phật pháp kế thừa Mới mong xã hội đều vừa lòng nhau. Nhân Từ là đức cao sâu Từ Bi, Phật đã truyền lâu đời thành Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin Lành Đều nêu Bác Ái minh anh loài người Con người sống ở trên đời Nhân Từ, Bác Ái là ngòi của Tâm Đạo Hiếu là cái rễ căn Gốc vững ấy để cho anh xây nhà Còn đem khẩu hiệu hét to Nhà xây vẫn đổ bởi do gốc cùn Chủ nghĩa lợi nhuận tiếm quyền Mất gốc văn hóa gây liền nguy tai Cái ác trỗi dậy hoài hoài Đến thời “đồ đểu” là thời diệt vong “Kỷ bất dục, vật thi nhân”: “Gì mình không muốn, đừng đem gán người” Chiến tranh tôi chẳng thích rồi Cớ gì tôi lại đem người đánh anh? Chữ Vuông là cái bánh Chưng Mong cho thiên hạ đại đồng trong Vuông Văn Lang rộng rãi bao dung Kinh Dương Vương đến vua Hùng mênh mang Phương Đông muôn vạn Bản, Làng “Bản Làng” lướt lại từng “Bang” tự quyền Phát huy văn hóa trăm miền Hình thành Bách Việt, tiên hiền nở hoa Vốn chung dòng giống xưa xa Tiên Âu Cơ với Rồng là Lạc Long Nhân Ái do Hiếu 孝 nối dòng “Hai Yêu” lướt “Hiếu”, chỉ mong Thái Hòa “Hòa 禾” là lướt “Hột lúa Ta” Ruộng - Vuông 口 giữ nước, phải pha mặt Bằng 平 Cho nên hai chữ Hòa 和 Bình 平 Từ trong đạo Hiếu của mình Việt Nho “Vì người khác trước, mà lo” Là lời Nguyễn Trãi dặn dò từ xưa Tiên hiền giáo huấn truyền thừa Xã hội yên ổn, nắng mưa thuận hòa Ai ai cũng Hiếu như Ta Đại đồng thế giới chẳng xa, đến ngày. Người xưa dạy trẻ rất hay Chuyện gương đạo Hiếu, ngày ngày kể chung. Tích phúc từ tuổi nhi đồng Thành niên tạo phúc cho trong cả đời Về già được hưởng phúc vui Đó là nhân quả cuộc đời xưa nay. Làm sao có hạnh phúc đây? Làm sao hậu duệ ngày ngày phúc êm? Khi nhỏ sống tựa thiên đường Lớn thì bươn chải thương trường cạnh tranh Già vô viện ở quẩn quanh Lủi thủi dưỡng lão chờ xanh nấm mồ Cuộc đời có nghĩa hay chưa Họ tên chẳng gọi, gọi thưa số giường (?) Không có đạo Hiếu làm nền Con người cô tịch, buồn phiền, hư vô. Dạy con từ thủa còn thơ Chớ muốn là có, mặc cho tiêu tiền Đà này tới lúc lớn lên Con cái chỉ biết tiêu tiền phóng tay Đâu hiểu vất vả hàng ngày Mẹ cha mới có trong tay đồng tiền Thói xa xỉ lỡ gây nên Khó mà thay đổi thành liền kiệm căn Kỹ năng sống chẳng chuyên chăm Lớn mười mấy tuổi cũng bằng như ngơ Chỉ hưởng thụ, thật dại khờ Ra trường tốt nghiệp, bấy giờ làm chi? Dạy con phải biết nghĩ suy Kiềm chế dục vọng, chớ vì lòng tham Con người mà tính tham lam Hư hại cơ thể, tan hoang cửa nhà. Sống không nợ, nhẹ thân ta Chẳng bị áp lực để mà cạnh tranh Bon chen, căng thẳng, ganh giành Đáng có hạnh phúc mà thành như không Nhiều nước hiện đại Tây, Đông Công trái hậu thế, dùng trong hiện thời Qũi phúc lợi cứ ngời ngời Dồn món nợ lớn để đời sau mang. Đạo Hiếu chẳng thể vậy làm Đời nay bảo hiểm cưu mang người già Tài nguyên giữ lại sau xa Để cho con cháu còn mà dùng mai Qui hoạch cái kế sinh nhai Lo cho con cháu tương lai lâu bền Đất đai, sông biển, tài nguyên Chớ đem bán hết vì tiền hôm nay Đại gia đắc chí bữa rày Có lo dân tộc có ngày diệt vong? Trẻ mà đã hưởng phúc phần Thì càng trụy lạc, vong thân tới thì Lời xưa “Họa Phúc tương kỳ” Trẻ lo cống hiến, phúc thì đến sau Tới khi già tuổi, bạc đầu Phúc đã từng tạo, dài lâu hưởng nhàn Đạo Hiếu dạy thật rõ ràng Tích phúc, bồi phúc khi còn thiếu niên “Phúc điền phải dựa tâm canh” Cái tuổi mẫu giáo đã thành thánh tiên Biết hiếu thuận, biết xử hiền Biết giúp cha mẹ, biết nhường đồ chơi Đó là tích phúc cho đời Biết cúi nhặt rác lỡ rơi xuống đường Cử chỉ nhỏ, chẳng coi thường Dạy con tích phúc là thương con nhiều Giá trị xã hội con cao Lớn biết tự lập, trong trào dấn thân Nghĩa vụ xã hội biết mần Thế là tạo dựng phúc phần càng to Hết tuổi làm việc về già Phúc tự nhiên đến, thật là thong dong Trí năng tích lũy càng tăng Vẫn còn có ích cho trong cuộc đời Văn Lang văn hóa sáng ngời Đọc nhiều để biết mà khơi báu nguồn. Tiếng “Đầu Gạo” lướt mà thành “Đạo” chính là cái hạt mầm mọc ra “Đi Đầu” lướt Đạo cũng là Tức dùng nội lực đưa ra đâm mầm “Ác mạc tác, Thiện phụng hành” Sống tám mươi tuổi, chưa giành trọn câu Học vấn là cái bước đầu Quan trọng là ở cái khâu thực hành Đọc nghìn cuốn sách còn nhanh Làm một câu nói mà thành khó xơi Mọt sách cứ đọc suốt đời Tự huyễn ta đã là người uyên thông Cho đời đã ích gì không? Có lắm bằng cấp, bởi chăng chẳng hành. Dạy con từ lúc mới manh Học gì làm nấy, cho thành thói quen Sản phẩm có ích rõ ràng Chẳng phải cái “điểm”, tự vang với mình Dạy thế quen thói hư vinh Chạy theo “thành tích” huyễn mình “giỏi giang” Thầy chẳng tới, thợ chẳng bằng Lãng phí xã hội sánh ngang bằng trời Đã rằng thuộc Đạo Thánh rồi “Đi Đầu” lướt “Đạo”, phải mời hành ngay Học như vậy mới là hay Còn thuộc, lấy “điểm” trả thầy, bằng không. Trẻ con nay óc rất thông Thế mà cách dạy lại không theo thời Vẫn: đọc, chép, thuộc, trả bài Lối dạy cổ hủ chẳng ai còn dùng Đem sách Thánh dạy, uổng công Mỗi lời Thánh dạy đều không thực hành (?) Trẻ con bắt chước rất nhanh Mỗi lời Thánh dạy đều hành được ngay Khuyến khích vậy, chúng hăng say Ngày ngày bắt chước, thành đầy thói quen Sáng sớm, Kinh đọc một lần Những điều nhắc nhở việc cần hôm nay Tối, đem Kinh đọc lần hai Kiểm điểm những việc làm sai trong ngày Tự mình phải sửa chữa ngay Cách nhìn, cách nghĩ, nói, hay cách làm Người mà tâm nguyện chân thành Tự nhiên trời cũng sẽ dành độ cho Nhiều người giúp đỡ bất ngờ Qúi nhân phù trợ đó mà, đâu oan. Đọc Âm Dương với Ngũ Hành Lắm kẻ phê phán linh tinh lắm điều Đó là những kẻ ngạo kiêu Nghĩ cạn chẳng hiểu thấu điều uyên thâm Lời cổ xưa chẳng xa xăm Chân lý là cái vĩnh hằng đúc nên Giống như vừng sáng thái dương Mặt trời già lão vẫn lên mỗi ngày Văn minh vật chất ngày nay Nhìn vào Việt cổ, thấy đầy tương lai: Khoa học, minh triết lâu dài Văn Lang văn hiến loài người có công Muốn hiểu thấu phải thực lòng 5000 năm trước Tổ Tông nói rồi. Mẹ cha nước mắt chảy xuôi Không hề đứt đoạn mạch hồi thương con Con xa dù có vuông tròn Nhớ cha mẹ, chỉ khóc thầm đôi khi Mẹ khi đang ngủ giữa thì Vẫn lo thấp thỏm để vì giấc con Quạt xua muỗi, tém màn chăn Cho con thẳng giấc ngon lành suốt đêm Con chưa giúp được bao lăm Hãy khiến cha mẹ yên tâm không buồn Người gặp vui, sướng trong lòng Cho nên con biết sớm hôm mau lời: Sớm ngủ dậy, hỏi mẹ vui Chiều về chào mẹ với lời hân hoan Lớn lên tung cánh đi làm Ở xa, điện thoại thường xuyên gọi về Mẹ cha dù có ở quê Yên tâm, đỡ phải lo về đứa con. “Đầu Gạo” lướt Đạo - mọc mầm Là theo qui luật xoay vần tự nhiên Cũng giống như mọi hành tinh Đều theo quĩ đạo riêng mình mà xuôi Người với người cũng vậy thôi Một Đạo tương tác, gọi nôi Ngũ Hành Âm Dương quan hệ hai phần Cha – Con, Chồng – Vợ, Anh – Em, Bạn – Bè Ngũ Hành phép tắc thuận tề Sẽ không xung đột, thuộc về tự nhiên Xã hội như cái khí quan Gia đình như thể tự nhiên tế bào Gia đình khỏe, xã hội cao Gia đình quan trọng với nhau vợ chồng Sống trong hòa lạc gia đường Con cái học được tình thương con người Lớn lên thấy rõ cuộc đời Một bàn cờ tướng tuyệt vời khó đi Thận trọng từng bước cực kỳ Ngã biết đứng dậy là khi công thành Con nhìn thấy đó học nhanh Càng ơn cha mẹ sinh thành ra con Làm cha dù có thật nghiêm Cũng dành kể chuyện thánh hiền con nghe Ngày dành mười phút tỉ tê Là con có được tràn trề niềm vui Càng thêm hãnh diện với đời Đến trường kể bạn ngời ngời điều hay Có hiếu cha mẹ ngày ngày Ra đời con sẽ thành ngay trung thần. Mọi việc cha mẹ ôm đồm Mua nhà, cưới vợ đều làm thay con Con cho rằng đó tự nhiên Cha mẹ cũng chẳng được phiền công lao Chiều chuộng nên hiểu thế nào? Trăng đến rằm tự làm sao chẳng tròn (!) Thế là chẳng uốn nắn con Mọi việc theo ý của con mà chiều Nghe thầy tướng số vài điều Yên tâm cứ để mặc diều gió bay Con vậy bất hiếu có ngày Bởi do cha mẹ quá tay nuông chiều Thánh hiền xưa đã từng nêu Gia cư kiện tụng là điều húy kiêng Làm cho đổ vỡ gia phong Chẳng có kết quả đáng mong mà chờ Dạy hiếu từ lúc lúc còn thơ Con dù đông ít, vẫn nhờ được con Từ nhỏ biết dạy vuông tròn Không nên mọi việc ôm đồm làm thay Để cho con nhiễm tính lười Là làm hư hại cuộc đời con sau Cha mẹ dù có thật giàu Chi cho con phải trước sau kiệm cần Để con tự lực bản thân Học, làm, biết cách dần dần tiến lên Dù ai giàu có lắm tiền Không quá tam đại, rồi liền đến suy Ngày nay chẳng đợi đến thì Một đời cũng dễ suy vi tan tành Do lối xa xỉ lộng hành Tiêu thụ vật chất đã thành thói quen Vì con nên phải yêu thương Yêu thương có lý, chớ thường tình không Thành ra chiều chuộng bất công Là nuôi bất hiếu đứa con sau này Chăm con, rèn luyện hàng ngày Mới thành bản lĩnh sau này cho con Công danh, hiếu đạo vuông tròn Ấy là trọn phận thương con, không nàn Trẻ con mà tính tham lam Dễ thành vô lễ, dễ làm ngạo kiêu Sẽ bất hiếu, ưa nuông chiều Chẳng nghĩ cha mẹ, chống điều khuyên răn. Người sinh ra bổn tính tham Dạy nghĩ người khác, phải làm tấm gương Nguyên nhân chớ có coi thường Muốn dạy con cái, nêu gương phải lành Khi con mới một tuổi thành Ông Bà Cha Mẹ cơm giành bón con Thế là tạo một thói quen Cho “ông vua nhỏ” nghiễm nhiên trong nhà Nửa vua, nửa hổ tạo ra Cái gương mẫu ấy thật là gương sai Bữa ăn phải diễn như vầy: Món ngon nhất nói mời ngay Ông Bà Trẻ nhìn hiếu hạnh ngẫm ra Mời theo thứ bậc, cuối là đến con Lòng bé nghĩ sẽ vui hơn Học tính hiếu thuận kính nhường người trên Mỗi khi bưng món quà lên Bé biết trước hết mời ông mời bà Biết chia, mời mẹ mời cha Người lớn vui vẻ khen là bé ngoan Trong lòng bé cũng hân hoan Cả nhà vui vẻ, hiếu đoan, lễ nghì Trẻ từ nhỏ nhiễm tự tư Là do người lớn làm hư con mình Dành cho con mọi ưu tiên Không tập con cái tính hiền vị tha 5000 năm Đất Nước ta Sách xưa ghi rõ như là đầu tiên Chọn vợ kén gái thục hiền Gia tộc phát đạt được trên ba đời “Quan Quan Thư Cưu, Tại hà chi châu, Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu” : “Con Con Cù Cu, ấy nghĩa vợ chồng Bay xa vẫn đậu, một lòng sắt son Nếp xưa kén chọn dâu con Lấy đạo hiền đức để còn dài lâu” Ngắt bông sen hạnh cúng cầu Tổ Tiên mát ruột với dâu nhà mình Con trai hiếu thảo thường tình Con dâu hiếu thảo làm vinh họ hàng Khen con cũng thể động viên Cách khen không đúng cũng liền hại con Tùy theo đức hạnh mà khen Khen đúng đức hạnh, con liền phát huy Khen mà sáo rỗng tức thì Con thành kiêu ngạo tưởng gì cũng hơn Thích nghe khen quá thành quen Khi phê bình lại chẳng thèm để tâm. Muốn ra đời gặp quí nhân Cái tính lịch sự phải cần truốt trau Lễ cầu Phật chẳng thấm đâu Phật nhận hối lộ còn nào Thánh nhân? Lịch sự từ nhỏ phải cần Dạy con lễ phép, ân cần hỏi thăm Chào Thầy, chào Bác, chào Anh Vui chào các bạn cho nhanh miệng chào Quen cách lịch sự thanh tao Ra đời luôn gặp chỗ nào quí nhân. Trẻ con thích bắt chước làm Là tính hiếu động thích ham hiểu đời Hai, ba tuổi đã biết rồi Phải hướng dẫn bé, kèm lời ngợi khen Tự lau ghế, tự tắt đèn Tự xếp quần áo, tự em đi giày Thế là tập bé khéo tay Biết giúp người lớn, biết hay việc làm Người lớn mà cứ ôm đồm Giành phần làm hết, biến em thành lười “Hiếu” là lướt tiếng “Hai Yêu” Lớp già, lớp trẻ, hai đều thương nhau Nho viết chữ Lão 老 trên đầu Chữ Con 子 ở dưới, hợp nhau Hiếu 孝 thành: Con gánh trách nhiệm trên mình Phụng dưỡng cha mẹ sinh thành ra con Ngược xuôi đọc HIẾU thấy thâm: U YÊU thành HIẾU, con HÀM YÊU U. Chuyện đời xưa kể lời ru Con đi đốn củi để bù sinh nhai Ở nhà có bạn đến chơi Chờ con không gặp, mẹ thời không yên Mẹ bèn lấy một cái kim Đâm tay chảy máu, Con liền nhói đau Vội vàng rảo bước về mau Nhào đến ôm mẹ , mẹ đau thế nào Mẹ bèn kể chuyện đuôi đầu Mẹ làm vậy để cho mau con về Giao cảm dù cách sơn khê Con biết thương mẹ, mau về bạn con. “Bánh Dầy trên chốc Bánh Chưng” Trời, Người và Đất, chuyện từng đã nêu “Hai Yêu” lướt “Hiếu”, lắm yêu “Lắm Yêu” lướt gọi là “Liêu”, Chưng Dầy Lang Liêu cổ tích rất hay Từ trong đạo Hiếu đất này Văn Lang. Ngày nay chẳng dạy , mất khôn Con chẳng hề biết mẹ thèm món chi Mẹ thì mọi thứ chi li Lo cho con hết, đều vì phần con Như vậy là hiếu chưa tròn Hai bên cùng biết quan tâm mới là Con phải chăm sóc mẹ cha Thường xuyên phải biết mua quà phụng dâng Anh em họ mạc xóm làng Hiếu là phải biết nhịn nhường, giúp nhau. Dạy hiếu, ba điểm phải trau Lấy mình làm mẫu là đầu ưu tiên Trong ngày sinh nhật của mình Mời cha mẹ đến để dành cảm ơn Cái gương ấy gợi cho con Ngày sinh nhật nó, nó còn nghĩ ai. Người tính toán chẳng bằng Trời Người thường chỉ dựa vào người nghĩ suy Chẳng nghĩ trật tự tôn ti Yêu ghét cứ thế vô tư mà làm Thành ra gương xấu cho con Học được chữ Hiếu phải còn dài lâu Nhà và trường phải gắn nhau Con học điều tốt, về mau khoe nhà Động viên con tiến bộ mà Đừng nói trêu giỡn, thế là mất nghiêm Trẻ con muốn giúp việc làm Mẹ cha phải biết động viên, vui mừng Khen con là có hiếu tâm Để cho con trẻ trong lòng sướng vui Lòng thiện như cỏ nảy chồi Mỗi ngày lại một tốt tươi trong lòng Nếu con vụng, giúp chẳng xong Thì phải hướng dẫn tận tình cho con Chớ làm tự ái tâm hồn Phải trân trọng cái nhiệt tình của con. Dạy con chữ Hiếu đầu tiên Có Hiếu, đức hạnh sẽ liền nở hoa Từ nhỏ yêu kính mẹ cha Cái tâm hiếu ấy mới là dài lâu Ra đời kính trước, nhường sau Quan tâm xã hội mà mau trưởng thành Khi đau chẳng tự khổ mình Mà thương cha mẹ vì tình lo âu Biết giữ ngôn hạnh làm đầu Chẳng để cha mẹ xấu đâu vì mình Nghe chửi “mất dạy” biết kinh Luôn luôn lo giữ cho mình đoan trang. Hiếu giúp phán đoán hèn sang Giúp chọn người, chọn bạn vàng cho ta. Kẻ không hiếu thảo mẹ cha Thì ra xã hội đều là khó tin Toan tính lợi, hại, cân, đong Đâu có tình nghĩa trong lòng thiện căn Nhiều kẻ thực sự chăm làm Nhưng lòng chỉ nhắm đến danh với quyền Lo thăm đối tác làm ăn Lơ là đạo nghĩa về thăm mẹ già Tình duyên chểnh mảng chăm lo Giữa đường hạnh phúc lại là đứt dây Do không học hiếu mà gây Bất hiếu ảnh hưởng tới bầy cháu con. Đọc to lục bát là khôn Nhịp điệu nó giống thở Thiền hít sâu “Nam mô”, Hít khí sâu vào “A di đà Phật”, Thở phào mạnh tuôn Bài ru dưới để cho con Ê- A, Hít-Thở, còn hơn chơi tràn: Ru con, con ngủ cho ngoan Ngàn năm tinh túy Văn Lang mãi còn Công cha như núi Cháy Son Nghĩa mẹ như nước sông Nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con Hiếu Kinh xưa đã từng răn Nuôi tâm hồn Việt ngàn năm cửu trường Trong nhà hòa hợp tình thương Anh chị em phải biết nhường nhịn nhau Lời nói phải nghĩ trước sau Cẩn thận, nói thật, chẳng đâu mất lòng Chơi thì bình đẳng, bạn đông Gần người tử tế để mong học nhiều Thể thao, tập vẽ, tập thêu Tập đờn, tập hát, đến điều học văn Cha mẹ gọi, dạ thưa nhanh Cha mẹ nhờ, phải thi hành làm ngay Mẹ cha khuyên nhủ, giãi bày Là mong con giỏi những ngày mai sau Con phải cung kính nghe theo Cả con, cha mẹ, lòng đều cùng vui Nếu khi con lỡ gì sai Cha mẹ có trách, vâng lời tiếp thu Cãi lại cha mẹ là hư Làm cha mẹ giận, cũng như đau lòng Luôn luôn phải biết quan tâm Hỏi han cha mẹ ân cần sớm hôm Tối chúc cha mẹ ngủ ngon Sáng dậy nhanh miệng, mẹ tròn giấc không Học về chào hỏi vui lòng Kể cho cha mẹ chuyện trong lớp mình Rồi kể sang chuyện học hành Bài hôm nay thấy với mình ra sao Đi đâu xin phép, thưa chào Về nhà mách lại nơi nào, việc chi Ở nhà phải có nội qui Vệ sinh, tắm rửa phải đi đúng giờ Ngồi học đừng nghịch vẩn vơ Ti Vi giải trí chỉ giờ trẻ em Thế là cha mẹ yên tâm Con ta tự biết lo chăm việc mình Việc gì khác, nếu muốn làm Hỏi trước cha mẹ khuyên nên thế nào Chớ có tự ý nhúng vào Lỡ khi nguy hiểm, tổn hao sức mình Biết hỏi là trẻ thông minh Cha mẹ cũng sẽ vì mình yên tâm Mọi vật dù nhỏ của công Con đừng tự tiện lấy dùng làm riêng Đồ của ai cứ để nguyên Mình tò mò lấy bị phiền trách tham Điều gì cha mẹ vui lòng Thì con phải biết làm xong cho lành Điều gì cha mẹ không ưng Thì con phải biết liệu chừng gạt bên Thân mình phải biết giữ gìn Chơi đừng vô ý để mình bị thương Mẹ cha sẽ rất đau lòng Lo không chữa khỏi, lo không an toàn Chơi đừng ngỗ nghịch, ngang tàng Mẹ cha xấu hổ xóm làng người ta Mẹ cha yêu quí con mà Con phải hiếu thuận mới là con ngoan Mẹ cha dù có quá nghiêm Con vẫn hiếu thuận, dịu hiền là thương Con sai, xin lỗi là thường Sửa ngay, giữ tín, đường đường con ngoan Mẹ cha có lúc mắng oan Con phải bình tĩnh, dịu dàng phân bua Mẹ cha lúc ấy chưa vừa Đợi lúc vui vẻ con thừa tỉ tê Bấy giờ cha mẹ sẽ nghe Cũng sẽ xin lỗi, ai dè mình sai Vậy là con đã có tài Biết khuyên phải trái, làm hài lòng nhau Cũng có cha mẹ nóng đầu Đánh con vô lý làm đau nhân tình Con cũng đừng oán, đừng khinh Làm vậy cha mẹ của mình càng sai Con phải kiên nhẫn khuyên nài Mẹ cha tỉnh ngộ, sửa sai lỗi mình Khi cha mẹ có bệnh tình Con cái phải biết quên mình chăm nuôi Bệnh mà đã quá nặng rồi Con cái luôn ở bên người không xa Khi cha mẹ đã băng hà Con cái luôn nhớ hương hoa tâm niềm Chớ qua loa, chớ phí tiền Mới đúng hiếu thuận, Thánh hiền từng răn Thành tâm, thành ý là cần Cũng như khi sống đang gần bên nhau. Anh chị em hợp tâm đầu Biết thương nhau, quí trọng nhau một nhà Mới làm vui sướng mẹ cha Mới là đạo hiếu, mới là con ngoan Chơi với bạn phải ngang hàng Chẳng gây oán giận, chẳng ham tranh giành Nói năng khiêm tốn dịu dàng Không nói tục tĩu, không màng chê bai Lớn thì biết giúp nhỏ chơi Nhỏ thì lễ phép nghe lời lớn khuyên Ai cần giúp, phải giúp liền Không đủ sức giúp thì truyền người trên Giúp người là việc ưu tiên Luôn luôn coi đó là niềm vui chung Xưng hô phải biết khiêm nhường Đáng chị gọi chị, anh thường gọi anh Bạn bè thân mật ân cần Bằng vai phải lứa xưng bằng mày tao Gặp ai lớn tuổi hỏi chào Nhường bé kém tuổi ra vào ưu tiên Cụ già là bậc người trên Khoanh tay lễ phép chào nghiêm trang chào Cùng với người lớn đi đâu Nhường già ngồi trước, trẻ sau mới ngồi Nghe hỏi phải biết trả lời Giọng phải to rõ, nói thời nghiêm trang Nhìn đối mặt, nói gọn gàng Mắt đừng lơ láo, chàng màng, ngó nghiêng Hàng ngày biết quí thời gian Dậy thì rửa mặt, đánh răng đúng giờ Vệ sinh xong, rửa tay cho Biết giữ sức khỏe, khỏi lo bệnh vào Ăn mặc phải giữ bảnh bao Đội mũ phải biết đội vào cho ngay Ra đường phải có dép, giày Đi học đeo cặp phải ngay mà vừa Ở nhà xem xếp đúng chưa Thứ nào chỗ nấy, không bừa lung tung Không ham lòe loẹt hư vinh Nhưng quần áo phải hợp mình trang nghiêm Ăn uống phải hợp dưỡng sinh Đừng có kén cá chọn canh gây phiền Ăn nhiều rau quả là nên Chớ uống nước ngọt, nước đường có ga Rượu bia thì hãy tránh xa Chớ đụng thuốc lá kẻo mà nguy to Ăn nhai kỹ, bụng vừa no Chớ ăn cơm bụi, ăn quà bán rong Thực phẩm chế biến gia công Đồ ăn công nghiệp là không lợi mình Đi bộ chú ý ngoài đường Không đi theo kiểu vội vàng, long đong Khi đứng cũng phải ngóng trông Không được ưỡn ẹo, cũng không cúi đầu Khi bước qua cửa đi vào Không đứng ngạch cửa mà chào người trong Khi ngồi, chân chớ có rung Ngồi đừng ngả ngớn khó trông, xấu người Khi mở cửa, vén rèm khai Con phải chú ý nhẹ tay đừng ồn Trong nhà chớ chạy ầm ầm Va phải đồ đạc đổ rầm, bị thương Cầm ly chén chớ coi thường Tránh làm rơi vỡ tốn tiền mẹ cha Vào phòng không có ai nhà Cũng không tự tiện mới là người nghiêm Làm việc gì cũng chú chăm Mới không phạm phải sai lầm do ta Không vội vã, chẳng qua loa Nhẫn nại, cẩn thận, làm là thành công Những trò chơi kém thông minh Hoặc là những chuyện linh tinh suy đồi Chớ tò mò, chớ nhòm coi Nhác thấy trò xấu phải rời xa ngay Thấy cửa đóng phải gõ tay Hỏi thăm trong ấy có người hay không Không được tự tiện mở tung Là không lịch sự, họ khinh chính mình Vào phòng khách chớ làm thinh Chào trước để họ biết mình là ai Khách hỏi ai đấy, vào đây Phải xưng tên rõ thẳng ngay mà vào Mượn ai dụng cụ thế nào Phải nói rõ trước dùng vào việc chi Được cho phép mới cầm đi Không như kẻ trộm thấy gì tự vơ Dùng xong trả lại đúng giờ Lần sau cần mượn mới là dễ xuôi. Nói thật thà, có đầu đuôi Lời gì đã hứa kịp thời thực thi Không làm nổi, hứa làm chi Nếu mà như vậy khác gì dối gian Nói ít còn hơn lan man Nói tốt hơn hẳn lặng câm kém lời Đáng nói mới nói ra thôi Điều không đáng nói thì thời thà im Nói lời đáng quí, trang nghiêm Chớ lời lẻo mép, tầm thường, gian ngoan Chớ lời tục tĩu bụi đường Đừng để thói xấu ấy vương vào mình Việc gì chưa thấy, chưa nhìn Đừng có phát biểu tự mình lung tung Việc chưa rõ, chớ tuyên truyền Mách lẻo như vậy nó liền thành ngoa Khác gì rước họa vào nhà Vì bị kẻ xấu làm loa tin đồn Việc ai xui, thấy chẳng khôn Thì nên từ chối, khỏi làm rối ren Nói năng câu chữ rõ ràng Chậm rãi, dứt khoát, chẳng mang mù mờ Nghe ai gạ chuyện thực hư Nghe thì bỏ vậy, chối từ ngoài tai Phải biết phán đoán đúng sai Việc không phận sự, chẳng hoài quan tâm Thấy người ưu điểm, thạo làm Thì nhớ cái tốt, dần dần học theo Thấy người làm xấu, làm điêu Tự răn mình chớ phạm điều trái ngang Tự rèn phẩm đức, kỹ năng Còn thua người, phải càng hăng gắng nhiều Dù có kém mặc, kém tiêu Cũng không lấy đó làm điều tự ti Năng lực mình có thiếu gì Cố gắng nhiều sẽ đến khi trưởng thành Mình mà nghe bạn phê bình Lại đem tức giận ra dành cho ai Mình mà nghe bạn khen tài Lấy làm sung sướng tự oai với mình Thế là bạn tốt lánh dần Chỉ còn bạn xấu, dẫn mình xấu hơn Nếu mà nghe thấy người khen Đừng có đắc ý, phải xem lại mình Càng cố gắng, việc càng thành Cho thật xứng đáng để giành lời khen Nếu mà nghe thấy phê bình Đừng có tức giận, làm thinh vui lòng Quyết tâm sửa chữa cho xong Thế là bạn tốt đến đông vui vầy Vô ý phạm lỗi là sai Cố ý phạm lỗi ác tai tội tình Biết sai, biết sửa, thông minh Cái lỗi nó sẽ xa mình bỏ đi Cố tình giấu lỗi càng nguy Cái sai sẽ đẻ ra thì càng sai Thân nhau, yêu quí loài người Yêu thương vạn vật là thời văn minh Người ta quí trọng nhân tình Người có đức hạnh, nâng mình càng cao Người có năng lực dồi dào Sẽ được khâm phục mà trao chức quyền Mình có năng lực kiếm tiền Cũng không tư lợi chỉ riêng cho mình Biết tổ chức, biết hợp quần Lợi ích xã hội là phần vẻ vang Chớ thấy giàu có bắt quàng Chớ thấy nghèo khó lấy làm khinh khi Chớ mới nới cũ làm gì Qúi trọng bạn cũ, nhớ ghi nghĩa tình Thấy người đang bận chớ phiền Thấy người lo, chớ chuyện nhàn, thêm lo Đừng đem kháo chuyện người ta Nào là khuyết điểm, nào là riêng tư Thà rằng cái tốt khen ra Cũng như ý đẹp làm quà noi theo Người ta nghe thấy mình nêu Nhất định càng dốc làm điều thiện hay Còn đem bêu xấu người ngay Nhiều khi sẽ rước họa tai về mình Tiền của thì phải phân minh Thà rằng nhận ít về mình còn hơn Thế là mình tạo thiện duyên Đến đâu cũng gặp người hiền giúp cho Muốn nhờ người giúp việc chi Phải xem việc ấy mình thì thích không Nếu mà mình chẳng thích làm Đừng đem việc ấy gán trông chờ người Nếu mà đã nhận ơn ai Phải lo báo đáp chóng chầy cho xong Ơn thì nhớ mãi trong lòng Oán thì lờ bỏ cho vong hận thù Nhân tâm lấy lý mà thu Còn dùng quyền thế, chẳng khi nào thành Người ta dù nể sợ anh Trong lòng không phục, tiềm tàng nguy tai Trên đời chọn bạn mà chơi Chọn người có đức, có tài mà thân Gần mực thì lụa nhuốm đen Gần đèn thì tỏ như đèn sáng soi Nếu mà đã đọc sách rồi Phải đem điều tốt mà soi thực hành Học rồi mà chẳng chịu làm Chỉ là mọt sách mơ màng hư vinh Đọc sách, một phải biết nhìn Hai phải biết nói, ba dồn đến tâm Rút ra kinh nghiệm ngấm ngầm Mới là nghiên cứu thâm trầm ý thư Đừng có một sách đọc qua Vội tìm sách khác hòng mà hiểu thêm Cách làm như vậy không chuyên Đọc từng cuốn sách phải nghiền cho sâu Ý nào sâu sắc ghi mau Tìm thầy, tìm bạn, yêu cầu hỏi thêm Giá sách xếp gọn từng ngăn Bàn học bút giấy cũng trong chỉnh tề Tâm mình yên tịnh một khi Đọc thì mới hiểu, học thì mới thông Vở tập khi lấy làm xong Xong xếp chỗ cũ gọn gàng, chỉn chu Sách không tốt, phải chối từ Đừng có xem, đọc, rước hư vào mình Thánh hiền sách dạy anh minh Học và thực tập sẽ thành nếp quen Gieo trong xã hội thiện duyên Đó là tạo phúc ước nguyền mai sau Hiếu Kinh đọc thuộc làu làu Tự mình nhắc nhở, giúp nhau việc lành.
  10. Giỗ Tổ Hùng Vương, Dạy con chữ Hiếu Đọc Âm Dương với Ngũ Hành Lắm kẻ phê phán linh tinh lắm điều Đó là những kẻ ngạo kiêu Nghĩ cạn chẳng hiểu thấu điều uyên thâm Lời cổ xưa chẳng xa xăm Chân lý là cái vĩnh hằng đúc nên Giống như vừng sáng thái dương Mặt trời già lão vẫn lên mỗi ngày Văn minh vật chất ngày nay Nhìn vào Việt cổ, thấy đầy tương lai Khoa học, minh triết lâu dài Văn Lang văn hiến loài người có công Muốn hiểu thấu phải thực lòng 5000 năm trước Tổ Tông nói rồi Mẹ cha nước mắt chảy xuôi Không hề đứt đoạn mạch hồi thương con Con xa dù có vuông tròn Nhớ cha mẹ, chỉ khóc thầm đôi khi Mẹ khi đang ngủ giữa thì Vẫn lo thấp thỏm để vì giấc con Quạt xua muỗi, tém màn chăn Cho con thẳng giấc ngon lành suốt đêm Con chưa giúp được bao lăm Hãy khiến cha mẹ yên tâm không buồn Người gặp vui, sướng trong lòng Cho nên con biết sớm hôm mau lời: Sớm ngủ dậy, hỏi mẹ vui Chiều về chào mẹ với lời hân hoan Lớn lên tung cánh đi làm Ở xa, điện thoại thường xuyên gọi về Mẹ cha dù có ở quê Yên tâm, đỡ phải lo về đứa con. “Đầu Gạo” lướt Đạo - mọc mầm Là theo qui luật xoay vần tự nhiên Cũng giống như mọi hành tinh Đều theo quĩ đạo riêng mình mà xuôi Người với người cũng vậy thôi Một Đạo tương tác, gọi nôi Ngũ Hành Âm Dương quan hệ hai phần Cha – Con, Chồng – Vợ, Anh – Em, Bạn – Bè Ngũ Hành phép tắc thuận tề Sẽ không xung đột, thuộc về tự nhiên Xã hội như cái khí quan Gia đình như thể tự nhiên tế bào Gia đình khỏe, xã hội cao Gia đình quan trọng với nhau vợ chồng Sống trong hòa lạc gia đường Con cái học được tình thương con người Lớn lên thấy rõ cuộc đời Một bàn cờ tướng tuyệt vời khó đi Thận trọng từng bước cực kỳ Ngã biết đứng dậy là khi công thành Con nhìn thấy đó học nhanh Càng ơn cha mẹ sinh thành ra con Làm cha dù có thật nghiêm Cũng dành kể chuyện thánh hiền con nghe Ngày dành mười phút tỉ tê Là con có được tràn trề niềm vui Càng thêm hãnh diện với đời Đến trường kể bạn ngời ngời điều hay Có hiếu cha mẹ ngày ngày Ra đời con sẽ thành ngay trung thần. Mọi việc cha mẹ ôm đồm Mua nhà, cưới vợ đều làm thay con Con cho rằng đó tự nhiên Cha mẹ cũng chẳng được phiền công lao Chiều chuộng nên hiểu thế nào? Trăng đến rằm tự làm sao chẳng tròn (!) Thế là chẳng uốn nắn con Mọi việc theo ý của con mà chiều Nghe thầy tướng số vài điều Yên tâm cứ để mặc diều gió bay Con vậy bất hiếu có ngày Bởi do cha mẹ quá tay nuông chiều Thánh hiền xưa đã từng nêu Gia cư kiện cáo là điều húy kiêng Làm cho đổ vỡ gia phong Chẳng có kết quả đáng mong mà chờ Dạy hiếu từ lúc lúc còn thơ Con dù nhiều ít, vẫn nhờ được con Từ nhỏ biết dạy vuông tròn Không nên mọi việc ôm đồm làm thay Để cho con nhiễm tính lười Là làm hư hại cuộc đời con sau Cha mẹ dù có thật giàu Chi cho con phải trước sau kiệm cần Để con tự lực bản thân Học, làm, biết cách dần dần tiến lên Dù ai giàu có lắm tiền Không quá tam đại, rồi liền đến suy Ngày nay chẳng đợi đến thì Một đời cũng dễ suy vi tan tành Do lối xa xỉ lộng hành Tiêu thụ vật chất đã thành thói quen Vì con nên phải yêu thương Yêu thương có lý, chớ thường tình không Thành ra chiều chuộng bất công Là nuôi bất hiếu đứa con sau này Chăm con, rèn luyện hàng ngày Mới thành bản lĩnh sau này cho con Công danh, hiếu đạo vuông tròn Ấy là trọn phận thương con, không nàn Trẻ con mà tính tham lam Dễ thành vô lễ, dễ làm ngạo kiêu Sẽ bất hiếu, ưa nuông chiều Chẳng nghĩ cha mẹ, chống điều khuyên răn. Người sinh ra bổn tính tham Dạy nghĩ người khác, phải làm tấm gương Nguyên nhân chớ có coi thường Muốn dạy con cái, nêu gương phải lành Khi con mới một tuổi thành Ông Bà Cha Mẹ cơm dành bón con Thế là tạo một thói quen Cho “ông vua nhỏ” nghiễm nhiên trong nhà Nửa vua, nửa hổ tạo ra Cái gương mẫu ấy thật là gương sai Bữa ăn phải diễn như vầy: Món ngon nhất nói mời ngay Ông Bà Trẻ nhìn hiếu hạnh ngẫm ra Mời theo thứ bậc, cuối là đến con Lòng bé nghĩ sẽ vui hơn Học tính hiếu thuận kính nhường người trên Mỗi khi bưng món quà lên Bé biết trước hết mời ông mời bà Biết chia, mời mẹ mời cha Người lớn vui vẻ khen là bé ngoan Trong lòng bé cũng hân hoan Cả nhà vui vẻ, hiếu đoan, lễ nghì Trẻ từ nhỏ nhiễm tự tư Là do người lớn làm hư con mình Dành cho con mọi ưu tiên Không tập con cái tính hiền vị tha 5000 năm Đất Nước ta Sách xưa ghi rõ như là đầu tiên Chọn vợ kén gái thục hiền Gia tộc phát đạt được trên ba đời “Quan Quan Thư Cưu, Tại hà chi châu, Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu” : “Con Con Cù Cu, ấy nghĩa vợ chồng Bay xa vẫn đậu, một lòng sắt son Nếp xưa kén chọn dâu con Lấy đạo hiền đức để còn dài lâu” Ngắt bông sen hạnh cúng cầu Tổ Tiên mát ruột với dâu nhà mình Con trai hiếu thảo thường tình Con dâu hiếu thảo làm vinh họ hàng. Khen con cũng thể động viên Cách khen không đúng cũng liền hại con Tùy theo đức hạnh mà khen Khen đúng đức hạnh, con liền phát huy Khen mà sáo rỗng tức thì Con thành kiêu ngạo tưởng gì cũng hơn Thích nghe khen quá thành quen Khi phê bình lại chẳng thèm để tâm. Muốn ra đời gặp quí nhân Cái tính lịch sự phải cần truốt trau Lễ cầu Phật chẳng thấm đâu Phật nhận hối lộ còn nào Thánh nhân? Lịch sự từ nhỏ phải cần Dạy con lễ phép, ân cần hỏi thăm Chào Thầy, chào Bác, chào Anh Vui chào các bạn cho nhanh miệng chào Quen cách lịch sự thanh tao Ra đời luôn gặp chỗ nào quí nhân. Trẻ con thích bắt chước làm Là tính hiếu động thích ham hiểu đời Hai, ba tuổi đã biết rồi Phải hướng dẫn bé, kèm lời ngợi khen Tự lau ghế, tự tắt đèn Tự xếp quần áo, tự em đi giày Thế là tập bé khéo tay Biết giúp người lớn, biết hay việc làm Người lớn mà cứ ôm đồm Giành phần làm hết, biến em thành lười. 孝 “Hiếu” là lướt tiếng “Hai Yêu” Lớp già, lớp trẻ, hai đều thương nhau Nho viết chữ Lão 老 trên đầu Chữ Con 子 ở dưới, hợp nhau Hiếu 孝 thành: Con gánh trách nhiệm trên mình Phụng dưỡng cha mẹ sinh thành ra con Ngược xuôi đọc HIẾU thấy thâm: U YÊU thành HIẾU, con HÀM YÊU U. Chuyện đời xưa kể lời ru Con đi đốn củi để bù sinh nhai Ở nhà có bạn đến chơi Chờ con không gặp, mẹ thời không yên Mẹ bèn lấy một cái kim Đâm tay chảy máu, Con liền nhói đau Vội vàng rảo bước về mau Nhào đến ôm mẹ , mẹ đau thế nào Mẹ bèn kể chuyện đuôi đầu Mẹ làm vậy để cho mau con về Giao cảm dù cách sơn khê Con biết thương mẹ, mau về bạn con. Ngày nay chẳng dạy mất khôn Con chẳng hề biết mẹ thèm món chi Mẹ thì mọi thứ chi li Lo cho con hết, đều vì phần con Như vậy là hiếu chưa tròn Hai bên cùng biết quan tâm mới là Con phải chăm sóc mẹ cha Thường xuyên phải biết mua quà phụng dâng Anh em họ mạc xóm làng Hiếu là phải biết nhịn nhường, giúp nhau. Dạy hiếu, ba điểm phải trau Lấy mình làm mẫu là đầu ưu tiên Trong ngày sinh nhật của mình Mời cha mẹ đến để dành cảm ơn Cái gương ấy gợi cho con Ngày sinh nhật nó, nó còn nghĩ ai. Người tính toán chẳng bằng Trời Người thường chỉ dựa vào người nghĩ suy Chẳng nghĩ trật tự tôn ti Yêu ghét cứ thế vô tư mà làm Thành ra gương xấu cho con Học được chữ Hiếu phải còn dài lâu Nhà và trường phải gắn nhau Con học điều tốt, về mau khoe nhà Động viên con tiến bộ mà Đừng nói trêu giỡn, thế là mất nghiêm Trẻ con muốn giúp việc làm Mẹ cha phải biết động viên, vui mừng Khen con là có hiếu tâm Để cho con trẻ trong lòng sướng vui Lòng thiện như cỏ nảy chồi Mỗi ngày lại một tốt tươi trong lòng Nếu con vụng, giúp chẳng xong Thì phải hướng dẫn tận tình cho con Chớ làm tự ái tâm hồn Phải trân trọng cái nhiệt tình của con. Dạy con chữ Hiếu đầu tiên Có Hiếu, đức hạnh sẽ liền nở hoa Từ nhỏ yêu kính mẹ cha Cái tâm hiếu ấy mới là dài lâu Ra đời kính trước, nhường sau Quan tâm xã hội mà mau trưởng thành Khi đau chẳng tự khổ mình Mà thương cha mẹ vì tình lo âu Biết giữ ngôn hạnh làm đầu Chẳng để cha mẹ xấu đâu vì mình Nghe chửi “mất dạy” biết kinh Luôn luôn lo giữ cho mình đoan trang. Hiếu giúp phán đoán hèn sang Giúp chọn người, chọn bạn vàng cho ta. Kẻ không hiếu thảo mẹ cha Thì ra xã hội đều là khó tin Toan tính lợi, hại, cân, đong Đâu có tình nghĩa trong lòng thiện căn Nhiều kẻ thực sự chăm làm Nhưng lòng chỉ nhắm đến danh với quyền Lo thăm đối tác làm ăn Lơ là đạo nghĩa về thăm mẹ già Tình duyên cũng chẳng chăm lo Giữa đường hạnh phúc lại là chia tay Do không học hiếu mà gây Bất hiếu ảnh hưởng tới bầy cháu con. Đọc to lục bát là khôn Nhịp điệu nó giống thở Thiền hít sâu “Nam mô” là hít sâu vào “A di đà Phật” thở phào mạnh tuôn Bài ru dưới để cho con Ê - A, Hít - Thở, còn hơn chơi tràn: Ru con, con ngủ cho ngoan Ngàn năm tinh túy Văn Lang mãi còn Công cha như núi Cháy Son Nghĩa mẹ như nước sông Nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con Hiếu Kinh xưa đã từng răn Nuôi tâm hồn Việt ngàn năm cửu trường Trong nhà hòa hợp tình thương Anh chị em phải biết nhường nhịn nhau Lời nói phải nghĩ trước sau Cẩn thận, nói thật, chẳng đâu mất lòng Chơi thì bình đẳng, bạn đông Gần người tử tế để mong học nhiều Thể thao, tập vẽ, tập thêu Tập đờn, tập hát, đến điều học văn Cha mẹ gọi, dạ thưa nhanh Cha mẹ nhờ, phải thi hành làm ngay Mẹ cha khuyên nhủ, giãi bày Là mong con giỏi những ngày mai sau Con phải cung kính nghe theo Cả con, cha mẹ, lòng đều cùng vui Nếu khi con lỡ gì sai Cha mẹ có trách, vâng lời tiếp thu Cãi lại cha mẹ là hư Làm cha mẹ giận, cũng như đau lòng Luôn luôn phải biết quan tâm Hỏi han cha mẹ ân cần sớm hôm Tối chúc cha mẹ ngủ ngon Sáng dậy nhanh miệng, mẹ tròn giấc không Học về chào hỏi vui lòng Kể cho cha mẹ chuyện trong lớp mình Rồi kể sang chuyện học hành Bài hôm nay thấy với mình ra sao Đi đâu xin phép, thưa chào Về nhà mách lại nơi nào, việc chi Ở nhà phải có nội qui Vệ sinh, tắm rửa phải đi đúng giờ Ngồi học đừng nghịch vẩn vơ Ti Vi giải trí chỉ giờ trẻ em Thế là cha mẹ yên tâm Con ta tự biết lo chăm việc mình Việc gì khác, nếu muốn làm Hỏi trước cha mẹ khuyên nên thế nào Chớ có tự ý nhúng vào Lỡ khi nguy hiểm, tổn hao sức mình Biết hỏi là trẻ thông minh Cha mẹ cũng sẽ vì mình yên tâm Mọi vật dù nhỏ của công Con đừng tự tiện lấy dùng làm riêng Đồ của ai cứ để nguyên Mình tò mò lấy bị phiền trách tham Điều gì cha mẹ vui lòng Thì con phải biết làm xong cho lành Điều gì cha mẹ không ưng Thì con phải biết liệu chừng gạt bên Thân mình phải biết giữ gìn Chơi đừng vô ý để mình bị thương Mẹ cha sẽ rất đau lòng Lo không chữa khỏi, lo không an toàn Chơi đừng ngỗ nghịch, ngang tàng Mẹ cha xấu hổ xóm làng người ta Mẹ cha yêu quí con mà Con phải hiếu thuận mới là con ngoan Mẹ cha dù có quá nghiêm Con vẫn hiếu thuận, dịu hiền là thương Con sai, xin lỗi là thường Sửa ngay, giữ tín, đường đường con ngoan Mẹ cha có lúc mắng oan Con phải bình tĩnh, dịu dàng phân bua Mẹ cha lúc ấy chưa vừa Đợi lúc vui vẻ con thừa tỉ tê Bấy giờ cha mẹ sẽ nghe Cũng sẽ xin lỗi, ai dè mình sai Vậy là con đã có tài Biết khuyên phải trái, làm hài lòng nhau Cũng có cha mẹ nóng đầu Đánh con vô lý làm đau nhân tình Con cũng đừng oán, đừng khinh Làm vậy cha mẹ của mình càng sai Con phải kiên nhẫn khuyên nài Mẹ cha tỉnh ngộ, sửa sai lỗi mình Khi cha mẹ có bệnh tình Con cái phải biết quên mình chăm nuôi Bệnh mà đã quá nặng rồi Con cái luôn ở bên người không xa Khi cha mẹ đã băng hà Con cái luôn nhớ hương hoa tâm niềm Chớ qua loa, chớ phí tiền Mới đúng hiếu thuận, Thánh hiền từng răn Thành tâm, thành ý là cần Cũng như khi sống đang gần bên nhau. Anh chị em hợp tâm đầu Biết thương nhau, quí trọng nhau một nhà Mới làm vui sướng mẹ cha Mới là đạo hiếu, mới là con ngoan Chơi với bạn phải ngang hàng Chẳng gây oán giận, chẳng tham tranh giành Nói năng khiêm tốn dịu dàng Không nói tục tĩu, không màng chê bai Lớn thì biết giúp nhỏ chơi Nhỏ thì lễ phép nghe lời lớn khuyên Ai cần giúp, phải giúp liền Không đủ sức giúp thì truyền người trên Giúp người là việc ưu tiên Luôn luôn coi đó là niềm vui chung Xưng hô phải biết khiêm nhường Đáng chị gọi chị, anh thường gọi anh Bạn bè thân mật ân cần Bằng vai phải lứa xưng bằng mày tao Gặp ai lớn tuổi hỏi chào Nhường bé kém tuổi ra vào ưu tiên Cụ già là bậc người trên Khoanh tay lễ phép chào nghiêm trang chào Cùng với người lớn đi đâu Nhường già ngồi trước, trẻ sau mới ngồi Nghe hỏi phải biết trả lời Giọng phải to rõ, nói thời nghiêm trang Nhìn đối mặt, nói gọn gàng Mắt đừng lơ láo, chàng màng, ngó nghiêng Hàng ngày biết quí thời gian Dậy thì rửa mặt, đánh răng đúng giờ Vệ sinh xong, rửa tay cho Biết giữ sức khỏe, khỏi lo bệnh vào Ăn mặc phải giữ bảnh bao Đội mũ phải biết đội vào cho ngay Ra đường phải có dép, giày Đi học đeo cặp phải ngay mà vừa Ở nhà xem xếp đúng chưa Thứ nào chỗ nấy, không bừa lung tung Không ham lòe loẹt hư vinh Nhưng quần áo phải hợp mình trang nghiêm Ăn uống phải hợp dưỡng sinh Đừng có kén cá chọn canh gây phiền Ăn nhiều rau quả là nên Chớ uống nước ngọt, nước đường có ga Rượu bia thì hãy tránh xa Chớ đụng thuốc lá kẻo mà nguy to Ăn nhai kỹ, bụng vừa no Chớ ăn cơm bụi, ăn quà bán rong Thực phẩm chế biến gia công Đồ ăn công nghiệp là không lợi mình Đi bộ chú ý ngoài đường Không đi theo kiểu vội vàng, long đong Khi đứng cũng phải ngóng trông Không được ưỡn ẹo, cũng không cúi đầu Khi bước qua cửa đi vào Không đứng ngạch cửa mà chào người trong Khi ngồi, chân chớ có rung Ngồi đừng ngả ngớn khó trông, xấu người Khi mở cửa, vén rèm khai Con phải chú ý nhẹ tay đừng ồn Trong nhà chớ chạy ầm ầm Va phải đồ đạc đổ rầm, bị thương Cầm ly chén chớ coi thường Tránh làm rơi vỡ tốn tiền mẹ cha Vào phòng không có ai nhà Cũng không tự tiện mới là người nghiêm Làm việc gì cũng chú chăm Mới không phạm phải sai lầm do ta Không vội vã, chẳng qua loa Nhẫn nại, cẩn thận, làm là thành công Những trò chơi kém thông minh Hoặc là những chuyện linh tinh suy đồi Chớ tò mò, chớ nhòm coi Nhác thấy trò xấu phải rời xa ngay Thấy cửa đóng phải gõ tay Hỏi thăm trong ấy có người hay không Không được tự tiện mở tung Là không lịch sự, họ khinh chính mình Vào phòng khách chớ làm thinh Chào trước để họ biết mình là ai Khách hỏi ai đấy, vào đây Phải xưng tên rõ thẳng ngay mà vào Mượn ai dụng cụ thế nào Phải nói rõ trước dùng vào việc chi Được cho phép mới cầm đi Không như kẻ trộm thấy gì tự vơ Dùng xong trả lại đúng giờ Lần sau cần mượn mới là dễ xuôi. Nói thật thà, có đầu đuôi Lời gì đã hứa kịp thời thực thi Không làm nổi, hứa làm chi Nếu mà như vậy khác gì dối gian Nói ít còn hơn lan man Nói tốt hơn hẳn lặng câm ít lời Đáng nói mới nói ra thôi Điều không đáng nói thì thời thà im Nói lời đáng quí, trang nghiêm Chớ lời lẻo mép, tầm thường, gian ngoan Chớ lời tục tĩu bụi đường Đừng để thói xấu ấy vương vào mình Việc gì chưa thấy, chưa nhìn Đừng có phát biểu tự mình lung tung Việc chưa rõ, chớ tuyên truyền Mách lẻo như vậy nó liền thành ngoa Khác gì rước họa vào nhà Vì bị kẻ xấu làm loa tin đồn Việc ai xui, thấy chẳng khôn Thì nên từ chối, khỏi làm rối ren Nói năng câu chữ rõ ràng Chậm rãi, dứt khoát, chẳng sang mù mờ Nghe ai gạ chuyện thực hư Nghe thì bỏ vậy, chối từ ngoài tai Phải biết phán đoán đúng sai Việc không phận sự, chẳng hoài quan tâm Thấy người ưu điểm, thạo làm Thì nhớ cái tốt, dần dần học theo Thấy người làm xấu, làm điêu Tự răn mình chớ phạm điều trái ngang Tự rèn phẩm đức, kỹ năng Còn thua người, phải càng hăng gắng nhiều Dù có kém mặc, kém tiêu Cũng không lấy đó làm điều tự ti Năng lực mình có thiếu gì Cố gắng nhiều sẽ đến khi trưởng thành Mình mà nghe bạn phê bình Lại đem tức giận ra dành cho ai Mình mà nghe bạn khen hoài Lấy làm sung sướng tự oai với mình Thế là bạn tốt lánh dần Chỉ còn bạn xấu dẫn mình xấu hơn Nếu mà nghe thấy người khen Đừng có đắc ý, phải xem lại mình Càng cố gắng, việc càng thành Cho thật xứng đáng để giành lời khen Nếu mà nghe thấy phê bình Đừng có tức giận, làm thinh vui lòng Quyết tâm sửa chữa cho xong Thế là bạn tốt đến đông vui vầy Vô ý phạm lỗi là sai Cố ý phạm lỗi ác tai tội tình Biết sai, biết sửa, thông minh Cái lỗi nó sẽ xa mình bỏ đi Cố tình giấu lỗi càng nguy Cái sai sẽ đẻ ra thì càng sai Thân nhau, yêu quí loài người Yêu thương vạn vật là thời văn minh Người ta quí trọng nhân tình Người có đức hạnh, nâng mình càng cao Người có năng lực dồi dào Sẽ được khâm phục mà trao chức quyền Mình có năng lực kiếm tiền Cũng không tư lợi chỉ riêng cho mình Biết tổ chức, biết hợp quần Lợi ích xã hội là phần vẻ vang Chớ thấy giàu có bắt quàng Chớ thấy nghèo khó lấy làm khinh khi Chớ mới nới cũ làm gì Qúi trọng bạn cũ, nhớ ghi nghĩa tình Thấy người đang bận chớ phiền Thấy người lo, chớ chuyện nhàn, thêm lo Đừng đem kháo chuyện người ta Nào là khuyết điểm, nào là riêng tư Thà rằng cái tốt khen ra Cũng như ý đẹp làm quà noi theo Người ta nghe thấy mình nêu Nhất định càng dốc làm điều thiện hay Còn đem bêu xấu người ngay Nhiều khi sẽ rước họa tai về mình Tiền của thì phải phân minh Thà rằng nhận ít về mình còn hơn Thế là mình tạo thiện duyên Đến đâu cũng gặp người hiền giúp cho Muốn nhờ người giúp việc chi Phải xem việc ấy mình thì thích không Nếu mà mình chẳng thích làm Đừng đem việc ấy gán trông chờ người Nếu mà đã nhận ơn ai Phải lo báo đáp chóng chầy cho xong Ơn thì nhớ mãi trong lòng Oán thì lờ bỏ cho vong hận thù Nhân tâm lấy lý mà thu Còn dùng quyền thế, chẳng khi nào thành Người ta dù nể sợ anh Trong lòng không phục, tiềm tàng nguy tai Trên đời chọn bạn mà chơi Chọn người có đức, có tài mà thân Gần mực thì lụa nhuốm đen Gần đèn thì tỏ như đèn sáng soi Nếu mà đã đọc sách rồi Phải đem điều tốt mà soi thực hành Học rồi mà chẳng chịu làm Chỉ là mọt sách mơ màng hư vinh Đọc sách, một phải biết nhìn Hai phải biết nói, ba dồn đến tâm Rút ra kinh nghiệm ngấm ngầm Mới là nghiên cứu thâm trầm ý thư Đừng có một sách đọc qua Vội tìm sách khác hòng mà hiểu thêm Cách làm như vậy không chuyên Đọc từng cuốn sách phải nghiền cho sâu Ý nào sâu sắc ghi mau Tìm thầy, tìm bạn, yêu cầu hỏi thêm Giá sách xếp gọn từng ngăn Bàn học bút giấy cũng trong chỉnh tề Tâm mình yên tịnh một khi Đọc thì mới hiểu, học thì mới thông Vở tập khi lấy làm xong Xong xếp chỗ cũ gọn gàng, chỉn chu Sách không tốt, phải chối từ Đừng có xem, đọc, rước hư vào mình Thánh hiền sách dạy anh minh Học và thực tập sẽ thành nếp quen Gieo trong xã hội thiện duyên Đó là tạo phúc ước nguyền mai sau Hiếu Kinh đọc thuộc làu làu Tự mình nhắc nhở, giúp nhau việc lành.
  11. Người Kinh và nghề Dệt Nhân dịp Viện Dân Tộc Học sẽ tổ chức triển lãm “Con đường tơ lụa trên biển Đôn” vào khoảng tháng 4-5 năm nay, tôi muốn giải thích thêm những từ Tổ, Chức, Kinh, Dệt, Việt chúng liên quan nhau như thế nào. Trong tiếng Việt thì địa danh thường đặt bằng kết cấu Người - Đất, ví dụ Việt Nam tức người Việt ở đất Nam, cũng như thời cổ đại Kinh Sở (tên gọi nước Sở) tức người Kinh ở đất Sở, cũng như tên làng Việt bắt đầu bằng Kẻ, như Kẻ Mọc tức người ở đất Mọc, Kẻ Chợ tức người ở đất Chợ; cũng còn có địa danh hình thành do kết cấu Người- Nghề như Kẻ Ngói, Kẻ Mắm, Kẻ Bún. Chữ Kẻ là do lướt Kinh Đẻ=Kẻ, tức vẫn là hậu duệ của người Kinh. Nhưng Kẻ=Cu=Con=Quan=Quân, đều là do tiếng Kinh mà ra cả, Con Chung=Quân Chung=Cùng thì thành ra rất đông nên gọi là Quần và ở tập trung thì làm thành đơn vị hành chính gọi là Quận. Chính vì đông Con thành Quần ở thành Quận cho nên Quấn-Quýt thì vui thật nhưng nhiều khi Quẫn nên thành ra tính Quẩn (đủ sáu thanh điệu rồi nha), dãn dân, kinh tế mới, v.v., từ thời cổ đại đến giờ vẫn chưa giải quyết xong ách tắc giao thông, nên người Việt đã vượt biển đi buôn bán khắp thế giới, làm nên con đường tơ lụa trên biển Đông từ thời cổ đại. Chữ Kinh dù viết bằng chữ gì như Kinh 經, Kinh 荊, Kinh 京 thì cái âm tiết Việt từ thời cổ đại đến giờ vẫn là âm tiết Kinh. Tơ lụa chỉ có từ khi người Việt biết nuôi Tằm thời cổ đại, còn trước đó thì tước vỏ cây Lanh để dệt vải, nên người Kinh còn gọi là Kẻ Lanh, lướt Kẻ Lanh=Canh, xứ sở làm ra nhiều vải ấy gọi là Canh, nó nằm ở phương Nam, nên còn gọi là Canh Nam (cũng tức là Kinh Nam, tên địa danh này cũng theo qui luật kết cầu Người-Đất, là Canh Nam. Người Canh Kinh, tiếng Tày Thái gọi là Cần Keo). Canh Nam gọi lướt là Cam, cổ thư có viết về nước Cam 甘, nhưng các học giả ngày nay không biết cái nước Cam thời tiền sử ấy nằm ở đâu. Tên xứ Canh Nam của người Canh ấy còn được viết theo kiểu phiên thiết chữ Canh thành hai chữ là Cam 甘 Ranh 郎, nước Cam 甘 bắt đầu từ Cam Ranh, vùng văn hóa Sa Huỳnh, người Canh đã khai thác thuần thục ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa từ vạn năm trước, trước cả thời đại Hùng Vương. Sách “Thuyết 說 văn 文 giải 解 tự 字” của Hứa 許 Thận 慎 giải thích chữ Kinh 經, đọc: lướt Cổ 古Khanh 卿 = Canh; nghĩa: dệt. Vậy là rõ, công nghệ dệt bằng khung cửi đầu tiên là của người Canh. Thao tác khung cửi thì phải ngồi, đơn sơ thì căng bằng chân, sau đóng khung bán tự động bằng gỗ, vì thao tác ngồi thì phải ngồi vào, nên gọi là Vào Dệt, và lướt Vào Dệt=Việt (cái Rỡi “ệt” nó còn hiển hiện rõ mồn một, Dệt=Việt). Từ đó mới xuất hiện tên gọi người Kinh hay người Canh là Việt, và cái từ “nghề Canh Cửi” nó là một trong những từ cổ nhất trong tiếng Việt . Dệt thì đương nhiên thành phẩm của nó phải là Dải ( “Thân em như Dải lụa Đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”) vì tấm vải càng dệt càng dài Dải ấy dùng để quấn quanh người như cái Vỏ che thân, nên cái Vỏ bằng Dải ấy người ta gọi là Vỏ Dải, lướt Vỏ Dải=Vải, Vải ấy Vấn quanh thân dưới thì gọi là Vấn Quay=Váy (lối Vận phổ biến của đàn bà Nam Á, kể cả đàn ông ở Miến Điện). Người Việt đem vải dệt quấn thành Bó, bán lên phía Bắc cho người Hán, người Hán mua từng Bó, từng Bó nên họ gọi vải là Bố 布. Người Hán có công đem Bố 布 tải bằng ngựa và lạc đà qua sa mạc Trung Á bán sang Trung Đông, mở ra con đường tơ lụa qua sa mạc. Người Việt là dân đầu tiên dùng vỏ Bối 貝là vỏ loài nghêu moi ở bãi Bùn Bồi khi thủy triều rút, để làm tiền trao đổi, và vì dùng Bối 貝 nên trong tiếng Việt mới có từ Buôn Bán. Người Canh đem vải bán xuống phía Nam, đi biển bán sang A Rap, đó là con đường tơ lụa trên biển Đông. Dân Buôn thì người Việt gọi lướt Dân Buôn là Duôn, Dân Buôn=Duôn, nên người Khơ Me, người Malaixia gọi người Việt là “Duôn”. Đến thời Hùng Vương thì nước Cam đã phát triển thành nước Văn 文 Lang 郎 rộng khắp nam Dương Tử, có nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm trước là ở đó, và lụa tơ tằm cũng phát triển thịnh nhất là ở đó. Thời Việt Vương Câu Tiễn , tể tướng là Phạm Lãi, sau Phạm Lãi bỏ Câu Tiễn đi thuyền lên nước Tề, đổi tên là Đào Chu Công. Nàng Tây Thi tuyệt đẹp là vợ Câu Tiễn cũng bỏ chồng theo Phạm Lãi. Hai ông bà ở nước Tề trở thành nhà doanh nghiệp buôn lụa nổi tiếng giàu có. Chữ Kinh 經 nghĩa là dệt mà Hứa Thận giải thích, sau người Việt cũng dùng chữ Kinh đó để ghi cái âm tiết Kinh, do lướt cả câu “ Có sự từng trải của Mình”=Kinh 經 để nói về kỹ năng của người thợ dệt, tấm vài đẹp hay xấu, hoa văn như thế nào hoàn toàn do cá nhân người thợ dệt thủ công (đó là kinh nghiệm). Một kỹ năng khác của người thợ dệt là “Giỏi điều khiển để Thành”=Doanh. Về sau người ta ghép thành từ Kinh 經 Doanh 營. Từ điển Tiếng Việt (nxb KHXH HN) giải thích từ Kinh Doanh: “Tổ chức các hoạt động như buôn bán, mở nhà máy, v.v.”. Giải thích như vậy thì thật chưa thỏa đáng, vì như vậy mới chỉ là hệ quả của cái ngữ nghĩa “Kinh Doanh”, rồi thì nếu học sinh “vặn” thì nói là “đó là một từ Hán-Việt” thế là xong, thật là phủ nhận 5000 năm văn hiến Lạc Việt. Từ Kinh Doanh 經 營 phải giải thích là (như công nghệ dệt của người Việt 5000 năm trước ở nam Dương Tử đã chỉ rõ): “ Bằng sự từng trải của bản thân mà giỏi điều khiển hoạt động để đạt thành công cho mục đích mà mình theo đuổi”, gọi là Kinh Doanh (câu trong ngoặc kép ấy đủ ba vế: Kinh nghiệm , Quản lý, Mục tiêu). Bởi vì người ta vẫn có thể nói: Kinh doanh nhà hàng, Kinh doanh nhà máy, Kinh doanh thân xác, Kinh doanh cuộc đời bản thân. Chữ Việt là từ Dệt, bởi chữ Việt mang nghĩa Vượt, như tấm vải càng dệt càng vươn về phía trước, nên mới có từ Ưu Việt. Công nhận cổ sử Việt 5000 năm văn hiến thì sẽ đạt được Ưu Việt.
  12. Con Khuyển Các di tích cổ của người Việt như mộ cổ, đền, miếu thường có tượng chó đá gác trước cửa (còn có di tích thờ chó đá như trên hòn đảo nhỏ ở hồ Trúc Bạch Hà Nội), từ xưa gọi là con Khuyển. ( Khẩu ngữ tiếng Việt gọi là con Chó, nhiều thứ chó thì gọi chung bằng từ đôi là Chó Má để nhấn mạnh ý “nhiều”, tiếng Tày-Lào-Thái thì gọi là con Má, tiếng Hán gọi là con Cẩu. Nhưng trong tiếng Việt thì “gâu gâu” lại là tiếng chó nó “Sủa” chứ không phải nó kêu, nó chỉ kêu “ăng ẳng” khi nó bị đau. Còn trong tiếng Hán thì “Sua” lại là người “Nói”. Thật là lộn xộn tứ tung đến buồn cười). Tục làm tượng chó đá đặt gác cổng miếu của người Việt chắc phải có liên quan đến cái tên Khuyển, mà từ Khuyển chỉ có dùng trong văn học (ở Việt Nam và ở Trung Quốc) để chỉ đầy tớ trung thành hay chó săn (khẩu ngữ không dùng). Ngày nay người ta hồn nhiên bưng tượng sư tử đá hoành tráng về đặt trước cổng chùa như ở trước chùa Một Cột, không biết đặt vậy có đúng ý nghĩa không (?), hay do chưa tìm hiểu kỹ hàm ý văn hóa của sự liên quan giữa chó đá và cái tên Khuyển ? Cuốn “Từ điển Trung-Việt”, nxb KHXN HN 1997, giải thích chữ Khuyển 犬 là “con chó”, còn chữ Khuyển 畎 là “mương máng tưới ruộng” lại có chú là [sách] tức chỉ dùng trong viết sách (thời cổ) chứ không phải khẩu ngữ, vậy chữ Khuyển 畎 này chỉ là chữ do nhà Nho đặt ra bằng cách giả tá, mượn âm “khuyển” của chữ Khuyển 犬 có trước ghép với chữ Điền 田 thành ra chữ Khuyển 畎 để diễn tả “mương máng tưới ruộng”, nhưng chữ Khuyển 畎 này phù hợp với âm lướt Khê Tuyền = Khuyển, mà Khê 溪 Tuyền 泉 tức là nhiều rãnh nước (tương đương với mương máng), để chỉ phải viết có một chữ Khuyển 畎, khỏi phải viết hai chữ Khê 溪 Tuyền 泉. Từ đó suy ra , chữ Khuyển 犬 có trước, chỉ con chó, cũng có thể từ một âm lướt nào đó mà thành chứ không phải là một từ của khẩu ngữ. Cuốn “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận 2000 năm trước giải thích chữ Khuyển 犬, đọc: lướt Khổ 苦 Huyền 泫 =Khuyển (theo âm Việt thì đúng như vậy, nếu theo âm Hán mà đọc thì là: thiết “khủ 苦” “xoén 泫”= “khoẻn”, sai, Hán ngữ không có âm này, Hán ngữ đọc chữ Khuyển 犬 là “xoẻn”, sai so với “khoẻn” là theo Hứa Thận). Về nghĩa: Cẩu chi hữu đề huề giả dã, tượng hình, Khổng Tử viết: thị Khuyển chi tự như họa Cẩu dã (Chó là kẻ theo với người đến cùng, chữ tượng hình, Khổng Tử nói: nhìn chữ Khuyển giống như bức vẽ con Cẩu vậy). Như vậy đủ thấy rõ là Khuyển là tên gọi con chó, nhưng không phải là con chó khi còn nuôi mà là con chó đá gác mồ cho chủ. Cái tên Khuyển là cái tên do người Việt đặt ra để gọi con chó đá, cho người đã Khuất, nó là con chó Hiến, lướt hai âm Khuất Hiến = Khuyển. Để xem tôi đoán vậy có đúng không thì tra tiếp chữ Hiến 獻 coi Hứa Thận giải thích thế nào. Chữ Hiến 獻, đọc: lướt Hứa 許 Kiến 建 =Hiến. Nghĩa: 宗 庙犬 名 義 獻 Tông miếu Khuyển danh nghĩa Hiến, 犬 肥 者 以 獻 之 Khuyển phì giả dĩ Hiến chi ( danh Khuyển ở tông miếu, nghĩa là của Hiến; Khuyển béo là để Hiến chứ). Vậy là rõ, Khuyển là gọi con chó đá gác cửa tông miếu, đó là vật để hiến, thường làm là tượng con chó đá mà béo. Nghĩa của chữ Hiến là cái tinh thần trung thực trung thành đến cùng để lại cho đời sau.
  13. Bài thơ Thư Cưu 关关雎鸠,在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。   参差荇菜,左右流之。窈窕淑女,寤寐求之。求之不得,寤寐思服。悠哉悠哉,辗转反侧。   参差荇菜,左右采之。窈窕淑女,琴瑟友之。参差荇菜,左右芼之。窈窕淑女,钟鼓乐之。 Thời Tiên Tần, “Thi Kinh” chỉ gọi bằng một tiếng là Thơ=Thi, có tới hơn 1000 bài sưu tầm trong dân gian, bao gồm Phong (phong dao) là ca dao nói về phong tục tập quán của dân cư thuộc 15 quốc; Nhã là những bài ca của nhã nhạc trong triều đình; Tụng là những bài nhạc ca cúng vua (lướt “Tế Cúng”=Tụng). Tất cả đều viết theo thể thơ 4 chữ (thể 4 chữ kiểu này thì đầy rẫy trong thành ngữ, tục ngữ, đồng dao của Việt Nam, như: Nhất nước nhì phân, Tam cần tứ giống; Tốt giống tốt má, Tốt mạ tốt ló; Chi chi chành chành, Cái đanh thổi lửa, Con ngựa chết chương, Ba vương ngũ đế, Bắt dế đi tìm, Ú tim ù ập v.v.). Sau chỉ còn có hơn ba trăm bài, gọi là “Thi” hoặc “Thi Tam Bách”, Khổng Tử chỉnh lý lại. Sau, Hán Vũ Đế giao cho Đổng Trọng Thư và các học giả, độc tôn Nho thuật, giải nghĩa, tôn “Thi” thành kinh điển, nên gọi là “Thi Kinh”, gồm 305 bài, là của sưu tầm từ thời đầu Tây Chu đến thời giữa Xuân Thu, dài hơn 500 năm. 包括 : 周南、召南、邶、鄘、卫、王、郑、齐、魏、唐、秦、陈、桧、曹、豳(邠)十五国 Theo giải thích trên mạng này (http://www.ccview.net) thì 15 quốc, đều là “chư hầu quốc” của nhà Chu gồm: Bội 邶 (ở Hà Nam), Đường 鄘 (ở Hà Nam), Vệ 卫 (ở Hà Nam), Vương 王(ở Hà Nam), Trịnh 郑 (ở Hà Nam), Tề 齐 ( ở Sơn Đông), Ngụy 魏 (ở Sơn Tây), Đường 唐 (ở Sơn Tây), Tần 秦 ( ở Thiểm Tây), Trần 陈 (ở Hà Nam – An Huy), Cối 桧 (ở Hà Nam), Tào 曹(ở Sơn Tây), Mân 豳(邠) (ở Thiểm Tây - khác với Mân 闽 có về sau là ở Phúc Kiến). Loanh quanh chỉ ở vùng Thiểm Tây - Sơn Tây - Hà Nam - An Huy - Sơn Đông. Trong đó có hai quốc không giải thích là nằm ở đâu, đó là Chiêu Nam 召 南 ( vậy quốc Chiêu Nam 召 南 này chính là Nam Chiếu 南 召 ở Vân Nam), và quốc Chu Nam 周 南(Chu Nam 周 南 này chính là Văn Lang ở Lĩnh Nam). Chu Nam nó không còn là quốc nữa mà là Nước của các quốc còn lại nêu trên, các “chư hầu Quốc”, tức các “thứ hai Của Nước”. “Của Nước”=(lướt)=Quốc. Hứa Thận giải thích “Quốc” nghĩa là “khu vực”. Chữ Chu Nam chỉ là dùng chữ để dịch nghĩa mà thôi. Chu 周 nghĩa là cái Vòng (chu vi), tức cái Vùng, cái Vuông 口, mà về sau viết lệch đi thành chữ Văn 文 (người Triều Châu vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Vuông”, còn người Quảng Đông vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Mảnh” vì cái Vuông ấy nó Vuông Vắn mà Vành Vạnh như cái Mủng nên đọc nó là Mảnh, cái âm tiết “Văn” ấy cũng do từ dính Vuông- “Vắn” của tiếng Kinh mà ra). Hứa Thận giải thích chữ Văn 文 nghĩa là vuông, viết cách sai nét đi. Chu Nam 周 南 có nghĩa là Vùng đất của người Nam, ở Lĩnh Nam. (Lang=Nang=Nam chỉ là sự biến âm). Chu Nam cũng có nghĩa là Đông Đúc ở phía Nam. Chữ Chu 周(=Châu 周) trong Việt ngữ còn có nghĩa là Trọn Vẹn (chu toàn, châu đáo) là một khái niệm mang nghĩa Âm Dương hài hòa, bản thân chữ Trọn Vẹn nói lên điều đó, bởi nó là hình ảnh của cái bánh Dầy trên chốc bánh Chưng, tức Tròn trên Vuông, Tròn Vuông đã được nâng lên nặng ý (đổi thành hoàn toàn dấu nặng) thành Tròn Vuông = Trọn Vẹn. Đúng như Hứa Thận giải nghĩa chữ Chu 周 nghĩa là: Mật dã 密 也 “Mật ạ”, tức đông đúc, mà đông đúc là kết quả của Âm Dương hài hòa (theo tư duy phồn thực), cách đọc nó là: lướt Chức 職 留 Lưu = Chưu. Chưu=Chu=Châu=Chậu=Chứa=Chửa, là kết quả của sự giao hợp, tức Chung Đậu = Châu, Chung Đụ = Chu. Tượng hình trong cổ văn của chữ Chu là giống hình Âm vật và Dương vật cùng nhau, có Tròn, có Vuông (để sẽ cho ra cái Trọn Vẹn). Về sau Nho viết đẹp hơn, chữ Chu 周 gồm bộ Cung bên ngoài, tượng trưng cho cái tử cung, bên trong gạch chia đôi trên dưới hai phần, bên dưới là Vuông 口 tượng trưng Trứng (cái) Âm, bên trên là hai gạch tượng trưng Tinh Trùng (đực) làm thành dấu cộng + Dương. Trứng và Tinh Trùng cùng chen nhau Chung Đậu = Châu trong tử cung nên mang nghĩa là Mật (khi ở bên trong), để rồi có thể đẻ ra một lúc chục con hay trăm con, là “mẹ tròn con vuông” tức Trọn Vẹn và đương nhiên là đông đúc, tức Mật (khi đã ở bên ngoài). Các bài thơ trong “Thi Kinh” từ thời Xuân Thu, đã được người nay chú giải, nếu không thì không ai hiểu. Bởi nó là thơ của người Việt. Để xem thơ trong “Thi” có phải là thơ của người Kinh hay không, ta xem bài đầu tiên là bài “Quan Thư” (“Con Cu”, tức con chim cù cu hay còn gọi là con chim gáy, con nào có lông lốm đốm đẹp thì còn được gọi là con cu cườm). Chim cù cu sống có đôi, rất chung thủy “trống”- “mái”, một “chồng”- một “mợ”. Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu lưu chi. Ngô muội cầu chi. Cầu chi bất đắc, Ngô muội tư phục. Du tai Du tai, Triển chuyển phản trắc. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu thái chi. Yểu điệu thục nữ, Cầm sắt hữu chi. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu mao chi. Yểu điệu thục nữ, Chung cổ lạc chi. Dịch: Con Con Cù Cu, Ở ổ chỗ cao. Yểu điệu thục nữ, Cu Tí ham nhau. Ngắn dài bông sen, phải trái lay chen. Ngỏ muồi cầu chứ , Cầu mà không được, Ngỏ muồi lại nhớ. Dài dài dài dài, trằn trọc lăn lóc. Ngắn dài bông sen, Phải trái lay chen. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt tình chứ. Ngắn dài bông sen, Phải trái ngắt lên. Yểu điệu thục nữ, chuông cối vui chứ.   【注释】(chú giải)    01、关关:指雌雄两鸟相对鸣叫    02、雎鸠(JuJiu):一种鱼鹰类的水鸟,传说此鸟雌雄终生相守。    03、洲:水中陆地    04、窈窕(YaoTiao):娴静端正的样子    05、淑女:贤德的女子。淑,善    06、君子:对男子的美称    07、好逑:好的配偶    08、参差:长短不齐的样子    09、荇(Xing)菜:一种根生水中、叶浮水面的可食用植物    10、流之:随着水流而摇摆的样子    11、寤寐(WuMei):指日夜。寤,睡醒;寐,睡着。    12、求:追求    13、悠:长久    14、辗转反侧:躺在床上翻来覆去睡不着    15、芼(Mao):采摘 Xem chú giải: 01.Quan关 quan关: Chỉ trống mái hai chim hót mừng đối đáp nhau. Chữ Quan 关 này theo nghĩa chữ là “đóng” (bế quan) nhưng cái âm của nó là âm Việt: Cu=Con=Quan=Quân, dù có viết bằng chữ gì thì cái âm tiết “con” vẫn hiển hiện trong từng chữ khác nhau đó, dù Quan 官 là ông quan, hay Quân 君 là ông vua, hay Quân 军 là ông bộ đội thì vẫn là Con. Quan 关 Quan 关 chính là Con Con, đó là hai Con (chim) 02.Thư cưu 雎 鸠(JuJiu): Một loài chim nước giống chim ưng ăn cá (?), truyền thuyết nói rằng giống chim này trống mái chung thủy với nhau đến cuối đời. Từ điển Hán Việt (nxb KHXH –HN 1997) giải thích Thư Cưu là: chim gáy trong sách cổ (điều này đúng). Có lẽ do người ta đọc chữ Tại Hà Chi Châu nên nghĩ nó là chim nước. Âm tiết Thư, ngoài chữ Thư 雎 bộ chuy 隹 là chim, còn có chữ Thư 狙 mà Từ điển trên giải thích là: chỉ “người” thời Xuân Thu, như Phạm Thư, Đường Thư. Vậy gọi theo kiểu Việt là Thư Phạm, Thư Đường, tức Cu Phạm, Cu Đường (hoặc cả như Cu Tí là Câu Tiễn, vua nước Việt từng đóng đô ở Cối Kê). Cu = Cụ = Cử = Thư đều là cách người Việt gọi người. Người Vân Kiều hay người Kinh ở nông thôn vẫn gọi người là Cu, nặng kính trọngg thì gọi là Cụ. Cu Trai = Chài (Chài tiếng Tày là Anh, “noọng ơi noọng au Chài mí ?” là “nàng ơi nàng yêu Anh mấy?”, “mấy ?” là dấu hỏi, nghĩa là “không?”), Cu Gái = Cái, Cu Hòn = Con (con trai mới có hòn giống), do đó mà có từ “Con Cái” trong tiếng Việt, Hán ngữ gọi là “Tử Nữ”. Cu = Cụ = Cử = Cưu. Thư Cưu là Cù Cu, con Cù Cu là con chim gáy. Loài chim nữa cùng loại, cũng sống đôi chung thủy, được lấy làm biểu tượng đôi lứa là chim Câu, mà người Việt gọi đôi theo mái trống là Bà Cu = Bồ Câu. 03.Châu 洲: Lục địa trong nước. Chữ Châu mang nghĩa lục địa là về sau mới có. Thời cổ đại chữ Châu này là Chỗ Đậu = Châu. Châu=Cầu=Cao=Cồn=Hòn (do thời Nghiêu có thiên tai biển dâng, người Việt đò đến những đỉnh núi đã thành chơ vơ giữa biển nước, gọi đó là Cồn Đậu (Cồn Đậu = Côn Đảo). Cồn Đậu = Cầu, nên quần đảo Đài Loan và Nhật Bản xưa gọi là Lưu Cầu. Hà, xưa là chỉ nơi đựng nước: Ổ = Hố = Hồ = Hà. Ổ = Ao = Áo = Âu = Au = Yêu đều là những cái đựng, dù là đựng người (cái Ổ, cái Áo, “yêu nhau cổi áo cho nhau”), đựng nước (cái Ao, cái Âu, cái bát chiết Yêu), hay đựng tình cảm ( cái Yêu, cái Au “Au chài mí ?”). Bài thơ viết “Tại Hà Chi Châu” là dùng hình tượng đảo giữa nước nhưng là để nói ý cái ổ trên cao, vừa nhắc điển tích trận biển dâng thời Nghiêu, ý nói đôi chim Cù Cu đã phải qua bao gian lao mới có được cái ổ để nên vợ nên chồng 04.Yểu Điệu 窈 窕(YaoTiao): Dáng nhuần tịnh đoan chính Chữ này phải chú phiên âm, vì chỉ có trong “Hán cổ”. Nhưng tiếng Việt thì dễ hiểu, là “đáng Yêu mà lại Điệu đàng”, tức rất nữ tính mà lại sang trọng, có tri thức. 05.Thục nữ 淑 女: Người con gái hiền đức. Thục,Thiện Các cặp từ đối Âm/Dương theo phồn thực trong tiếng Việt là Nường/Nõn, Nọc/Nái, Nòi/Nụ , từ đó mà có từ Nữ. Thật Đức =Thục, Thật Hiền = Thiện. 06.Quân Tử 君 子: Mĩ xưng đối với nam tử Đơn giản Quân 君 Tử 子 là do từ Cu Tí của tiếng Việt cổ 07.Hảo Cầu 好 逑: Phối ngẫu tốt Việt ngữ không gọi là phối ngẫu mà gọi là “Cùng Nhau” = Cầu. Hám Cùng Nhau thì viết là Hảo Cầu. 08.Sâm Sai 參 差: Dáng ngắn dài không bằng nhau Đây là chữ mượn âm để ký âm: Sâm=Ngâm=Ngắn, Sai=Dài. 09.Hạnh Thái 荇(Xing)菜: Một loại thực vật ăn được, rễ ở dưới nước, lá nổi trên mặt nước (rau hạnh: nymphides peltalum – Từ điển Hán Việt nxb KHXH 1997) Chữ của sách cổ nên ngày nay phải phiên âm, chẳng biết nó là rau gì. Đơn giản hiểu là loại rau ao nhà, người con gái tần tảo hái nấu hàng ngày lo cho bữa ăn gia đình. Nhưng lá nó cọng ngắn dài khác nhau, chen nhau chao động theo sóng nước, nên tôi nghĩ nó là cây sen. Bông sen biểu trưng cho đức hạnh của người con gái “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” nên con dâu thường hái bông sen ngày một, ngày rằm thắp nhang cúng tổ tiên nhà chồng để tưởng nhớ, tỏ lòng hiếu thảo, xin chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình 10.Lưu Chi 流 之: Dáng dao động theo sóng nước Lắc lư chớ, viết bằng chữ Lưu 流 Chi 之. Chữ Lưu 流 trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là nước chảy. Chẳng qua mượn chữ Lưu 流để phiên âm chữ Lắc Lư 11.Ngô Muội 寤 寐(WuMei): Chỉ Ngày Đêm. Ngô là ngủ tỉnh, Muội là ngủ say Chữ này phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Thực ra nó là âm tiết Ngỏ Muồi của tiếng Việt. Ngỏ là ngủ mà mở mắt thao láo vì không ngủ được, còn có từ ghép Mở Ngỏ. Muồi là ngủ say (“Ru tam, tam thẹc cho muồi. Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu”- Bài ru con xứ Huế, “tam” là gọi tránh, mẹ, cha rồi đến con là thứ ba) 12.Cầu 求: Truy cầu Kêu xin ơn Sâu=(lướt)=Cầu 13.Du 悠: Trường cửu Trong thơ viết là Du Tai, đó là phiên thiết của từ Dài (lướt Du Tai = Dài; lướt Dài Lâu = Dâu) 14.Triển Chuyển Phản Trắc 辗 转 反 侧: Nằm trên giường lật qua lật lại, ngủ không được Hán ngữ chú giải cụm từ “trằn trọc lăn lóc” của tiếng Việt nghe mà thấy khó nhọc cho họ wá xá. Tiếng Việt chỉ có cụm 4 từ đó thôi mà hình dung được hết rồi, biết là ở trên giường luôn và ngủ không được: Trằn là kết quả lướt của Trở Lăn,Trở Lăn = Trằn; Trọc là kết quả lướt của Trở Dọc, Trở Dọc = Trọc; Lóc là kết quả lướt của Lăn đến Góc, Lăn đến Góc = Lóc. Lăn đến góc giường rồi tất nhiên phải lăn trở lại nếu không thì rớt xuống đất, nên từ đôi Lăn Lóc là đã nói lên cái sự lăn đi lăn lại đó mà vẫn là ở trên giường (các nhà ngôn ngữ học VN thì nói: những từ như kiểu từ Lăn Lóc không phải là từ Láy, cũng chưa định nghĩa được là từ gì, trong đó Lăn là rõ nghĩa, còn Lóc chưa rõ nghĩa, gọi nó là từ “chờ chưa sử dụng”). Hán ngữ đã phiên âm từ Trằn Trọc bằng mượn âm từ Triển Chuyển, Triển 辗 là cán bằng trục xoay, Chuyển 转 là chở bằng xe, còn phiên âm từ Lăn Lóc bằng Phản Trắc. Dịch được ngôn từ của Nhã ngữ đã khó ( Người Việt thì mới có khái niệm “khó nhọc với việc bên ngoài” thì gọi là Vất-Vả, còn “khó nhọc với chính bên trong bản thân” thì gọi là Vật-Vã, đều cùng tơi “V” với Việt. Người Hán hay người Anh chẳng có kiểu đặt tên khái niệm được như vậy), dịch ý thơ của Nhã ngữ còn khó hơn. Trên mạng này chỉ thấy chú giải, không thấy dịch ý thơ. 15.Mao 芼(Mao): Thái Trích Hái=Thái, Tách=Trích. Chữ Mao phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Mắn Vào = Mao, có nghĩa là Ngắt. Mắn=Ngắn=Ngắt. Mắn là sự cắt ngắn, cả đối với cọng rau (Mắn Vào = Mao nghĩa là Ngắt đem về), cả đối với thời gian (ví dụ từ Mắn Đẻ là rút ngắn thời gian giữa hai lần đẻ). Trong bài thơ này tôi coi cây Rau Hạnh chỉ là do Nhã ngữ muốn ám chỉ cái đức hạnh của người con gái đi làm dâu, mà chồng đang đi xa, ở nhà nhớ nhung, trằn trọc không ngủ được, vẫn cầu mong tốt lành cho chồng và nhà chồng, hiếu thảo thờ phụng gia tiên. Tôi nghĩ Rau Hạnh đó là ám chỉ Bông Sen. Người con gái hiền thục đó khi nhớ chồng đem đờn ra gẩy. Cuối cùng thì họ cũng đến lúc sum vầy “Chuông Cối vui chứ”, Chuông = Chung (tượng trưng người chồng), Cối = Cổ là cái trống đồng hình giống cái cối úp (tượng trưng người vợ). Bài thơ lấy bối cảnh ổ chim Cù Cu để ca ngợi tình nghĩa vợ chồng. Thời Việt Nho còn rất hồn nhiên, tự do yêu đương cũng như tự do tư tưởng, không bị gò ép như thời Hán Nho về sau, phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” gái bó chân, nhốt trong lầu hồng, như nô lệ của đàn ông. Người phụ nữ Việt của Nhã ngữ đoan trang đức hạnh lại tự do bình đẳng, vui vẻ chủ đọng trong hạnh phúc, tình dục và trách nhiệm gia đình chồng, qua hình ảnh đôi chim Cù Cu. Ca dao Việt còn có câu: “Thương chồng nấu cháo cù cu. Chồng ăn chồng đụ như tru phá ràng”. Hình ảnh ngắt bồng sen đem về cúng cầu gia tiên, đúng là vai trò đảm đang của người con dâu: Con trai có hiếu thường tình. Con dâu có hiếu làm vinh gia đàng.
  14. Văn hiến là Hiếu Thánh hiền khuyên nhủ Hiếu, Nhân Đó là hai chữ phải cần đầu tiên Năm 88 giải Nô Ben Giải từng nêu rõ tuyên ngôn như vầy: Thế kỷ 21 ngày nay Loài người muốn ổn hãy quay về nguồn Học cho hiểu đức Thánh Hiền Ngày xưa Khổng, Mạnh từng truyền Việt Nho Giáo lý Phật Pháp kế thừa Mới mong xã hội đều vừa lòng nhau. Nhân Từ là đức cao sâu Từ Bi, Phật đã truyền lâu đời thành Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin Lành Đều nêu Bác Ái minh anh loài người Con người sống ở trên đời Nhân Từ, Bác Ái là ngòi của Tâm Đạo Hiếu là cái rễ căn Gốc vững ấy để cho anh xây nhà Còn đem khẩu hiệu hét to Nhà xây vẫn đổ bởi do gốc cùn Chủ nghĩa lợi nhuận tiếm quyền Mất gốc văn hóa gây liền nguy tai Cái ác trỗi dậy hoài hoài Đến thời “đồ đểu” là thời diệt vong “Kỷ bất dục, vật thi nhân”: “Gì mình không muốn, đừng đem gán người” Chiến tranh tôi chẳng thích rồi Cớ gì tôi lại đem người đánh anh? Chữ Vuông là cái bánh Chưng Mong cho thiên hạ đại đồng trong Vuông Văn Lang rộng rãi bao dung Kinh Dương Vương đến vua Hùng mênh mang Phương Đông muôn vạn Bản, Làng “Bản Làng” lướt lại từng “Bang” tự quyền Phát huy văn hóa trăm miền Hình thành Bách Việt, tiên hiền nở hoa Vốn chung dòng giống xưa xa Tiên Âu Cơ với Rồng là Lạc Long Nhân Ái do Hiếu nối dòng “Hám Yêu” lướt “Hiếu”, chỉ mong Thái Hòa “Hòa 禾” là lướt “Hột lúa Ta” Ruộng - Vuông 口 giữ nước, phải pha mặt Bằng 平 Cho nên cái chữ Hòa 和 Bình 平 Từ trong đạo Hiếu của mình Việt Nho “Vì người khác trước, mà lo” Là lời Nguyễn Trãi dặn dò từ xưa Tiên hiền giáo huấn truyền thừa Xã hội yên ổn, nắng mưa thuận hòa Ai ai cũng Hiếu như Ta Đại đồng thế giới chẳng xa, đến ngày. Người xưa dạy trẻ rất hay Chuyện gương đạo Hiếu, ngày ngày kể nghe.
  15. Tình thương có ở con người Do ta hiểu biết mà khơi đúng dòng ( ý của Thiền sư Thích Nhất Hạnh) Ông thẩm phán ấy đúng là một người lãnh đạo giỏi. Do ông hiểu thấu từ Nhân Đạo, có Nhân mới lãnh Đạo giỏi được. Mà từ Nhân Đạo lại là một từ hoàn toàn thuần Việt : Cư dân ĐNÁ là cư dân trồng trọt đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Cái Ruột của hạt cây, tiếng Việt gọi là cái Nhân hay cái Gạo, khi hạt mọc mầm, nó là cái đầu tiên sinh ra cái Rễ rồi nảy cái mầm lá, là bộ Gân của cả cái cây về sau (Ruột=Rốn=Nhổn=Nhân=Gân=Gạo=Gốc=Đốc=Đầu=Đạo). Cái Nhân hạt là cái đầu tiên cho sự nảy mầm rồi lớn lên của cây, cái Nhân ấy là cái Đầu Gạo=Đạo. Từ cái Đầu Gạo mà hạt cây mọc ra cái Rễ đầu tiên (Sau nâng ý lên thì thấy rõ ràng là Đạo nào muốn bắt rễ được vững chắc ở đất này thì trước tiên là nó phải có cái Nhân lành mạnh). Cái Nhân hạt làm nên cái Rễ Cái của cây, đó là cái Đầu Gạo tức cái Đạo (nâng ý lên thì nó là cái nền tảng văn hóa của cái xã hội). Xã hội lớn lên thì cũng như cái cây lớn lên. Cây thay lá hàng năm , không để những lá già ngự trị mãi trên cành của nó, thì nó mới lớn lên được, nhưng cái Gốc Rễ văn hóa của nó thì nó đâu có thay, nó chỉ nở to hơn, vươn sâu xa hơn mà thôi. Nhân có lành mạnh, cây mới khỏe. Mỗi con người cũng là một cái Nhân của xã hội, Nhân có lành mạnh thì xã hội mới khỏe để phát triển. Nếu Bộ GDĐT có dạy tiếng Indonexia ở trường phổ thông thì tôi cũng sẽ đi học. Trên VTV thì tôi chưa từng được xem bộ phim nào của Indonexia.
  16. Giáo dục Già làm mẫu, trẻ Háo theo “Già Háo” lướt Giáo, ấy điều chữ tuyên “Thượng thi, hạ hiệu” xưa truyền Dục là “Dạy Đức” lướt nên mà thành: “Giáo tử sử tác thiện hành” Thuyết văn giải tự rành rành đã tuyên. Xưa học, chí tại thánh hiền Nay học, chí tại kiếm tiền mà thôi Tiền và Thánh cách xa vời Đâu nên thánh thiện con người có nhân “Thế phục nhân, tâm bất nhiên” Nếu lấy thế lực đè lên con người Con người “tâm bất nhiên” rồi Ắt sẽ có lúc phản hồi chống anh “Lý phục nhân, phương vô ngôn” Là dùng đạo lý ôn tồn giải mông Dân nâng trí ắt hài lòng Đã vừa khâm phục lại cùng với anh. Tư duy nay, thật quẩn quanh Nghĩ rằng tiền có, là thành được công Người xưa, tiền để sau cùng Giáo dục là phải lấy mình làm gương Thầy như gương sáng bên giường Phản chiếu đạo lý xuống trường học sinh Chẳng phải tiêu chuẩn là mình Tiểu chuẩn - Đạo lý, đã thành khách quan Nếu thầy mà chẳng làm gương Giáo dục có đổ lắm tiền, bằng không.
  17. Học Chữ Lễ Con người từ thủa còn thơ Coi kính người lớn như là niềm vui Hễ nhà có khách đến chơi Bé đang bận việc cũng rời chỗ ngay Chạy ra chào khách, khoanh tay Khách xoa đầu bé, cháu này thật ngoan Thế là lòng bé rộn ràng Cảm giác hạnh phúc lây lan suốt đời. Khi vào thang máy đông người Bé nhanh miệng hỏi, cô ơi tầng nào? Quan tâm người khác biết bao Cái tính tự lập khác nào nảy sinh. Vậy mà các bậc phụ huynh Thường không để ý tự mình làm gương Chỉ toàn giục giã cháu con Học bài cho thuộc để còn điểm cao Phụ huynh chỉ ước làm sao Con hết đại học, mai sau hóa rồng Dạy mà chỉ vậy như không Con không cảm thấy trong lòng được vui Đánh mất hạnh phúc mất rồi Con người đâu phải chỉ nhồi kỹ năng Biết lễ nghĩa, biết quan tâm, Tình người, nhân bản, là bằng đầu tiên Học nhân nghĩa chẳng mất tiền Chỉ cần cha mẹ làm gương hàng ngày Trẻ con sẽ học theo ngay Mà trong lòng nó ngày ngày thấy vui Là niềm hạnh phúc trau dồi Vốn ấy mới thật ích đời con sau Chữ lễ là chữ học đầu Thói quen lễ phép, mai sau nên người Học bài điểm Sáu hay Mười Cũng chẳng ảnh hưởng cuộc đời của con Mười năm mài ghế nhà trường Giáo điều chưa giúp đảm đương được gì Thói quen lịch sự, nghĩa nghì Mới là cái rễ để vì lớn khôn Gieo trong xã hội nhân duyên Tự tin, hạnh phúc, đứng riêng cuộc đời Đừng nghĩ chữ lễ xa vời Từng cử chỉ nhỏ, tình người trao nhau Lễ là cái chữ có sau Dân Việt lúa nước, nếp màu là Lê Quê có thói, đất có Lề Hình thành Nề Nếp mà mê Lễ Nghì Mỗi làng hương ước từng ghi Nếp sống đạo đức quản gì giúp nhau. Đem đời theo nghiệp kinh doanh Vậy thì tư tưởng nào mình theo ngay? Gì là hạnh phúc nhất đây? Quan niệm có đúng mới gây thực hành, Thói quen đúng sẽ hình thành Mới tạo tính cách của mình chính ngay Mới có vận mệnh gặp may Mới có hạnh phúc ngày ngày bình yên Sách tư tưởng đọc thường niên Bạn rằng lớn tuổi thì liền uyên thông? Xã hội nay mớ bòng bong Tìm người trẻ tuổi mới mong đơn thuần Chất phác mới thật là cần Dạy con tâm lý, bạn dùng sách ai? Sách Liên Xô, sách phương Tây, Sách Tàu, sách Mỹ dịch bày tràn lan Đem con thí nghiệm lâm sàng Hỏng rồi lại sửa, rõ ràng không nên Hãy tìm nguồn cội Tổ Tiên Văn Lang văn hiến 5000 năm nay Tổ Tiên hiền hậu, nghĩ hay Biết rằng truyền thế cách này dài lâu: Lý học vũ trụ cao sâu Chỉ vẽ tóm gọn một bầu Âm Dương Ký hiệu Bát Quái, Ngũ Hành, 64 Quẻ Dịch vẽ thành điển chương Ứng dụng mọi nhẽ, phi thường Còn đối con trẻ, dùng đường nào răn? Hai mươi ba chuyện Lĩnh Nam Trẻ ghi lòng mãi “Bánh Chưng Bánh Dầy”, “Thị ơi thị rụng bị này Thị thơm bà ngửi, bà rày không ăn” “Bống bang cá ở giếng làng Bống ăn cơm bạc, cơm vàng nhà ta” “Cả làng gánh gạo, gánh cà Nuôi Gióng lớn dậy giữ nhà giữ quê” Trăm năm chữ sẽ mờ đi Nghìn năm bia miệng còn ghi rành rành Cổ tích truyền miệng hình thành Hay, khuyên nên học, hư, răn nên từ. Lắm người năm chục tuổi dư Ngoảnh đầu hối tiếc những gì sai qua Do chưa hiểu thấu ông cha Bao điều minh triết còn là nằm im Muốn khơi dậy phải nhẫn tìm Hiểu ra càng thấy diệu huyền tình thương. Xã hội nay lắm rối ren Văn minh vật chất, bỏ quên tinh thần Kinh tế ắt lắm công trình Các nhóm lợi ích vươn mình đánh đu Mật Ngọt thì lắm ruồi bu Thành bầy Mọt Ngật gặm hư nước nhà Mật Nhạt mà lại chan hòa Đừng để Mạt Nhật đến là Ngày Nguy Nguyên tử nổ đã thấm gì Người người vô đạo, ấy thì toàn vong Đạo đức quan trọng vô cùng Người xưa văn hóa tinh thần nêu cao Phủ nhận Việt sử khác nào Ủ gieo mầm độc cứa vào tương lai.
  18. Thiên hạ đang cố công dùng ký tự Latin làm chữ ký âm thay cho chữ tượng hình, vì ký tự Latin ký âm chính xác và tiện lợi dễ phổ cập, có thể ghi tiếp những từ mới khái niệm mới. Người Choang ở Quảng Tây cũng dùng ký tự Latin ký âm tiếng Choang. Người Việt Nam học tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Indonexia dễ hơn nhiều vì ký tự cũng giống như chữ quốc ngữ của ta, dễ giao lưu hội nhập. Một học giả người Hoa đã mười mấy năm nay nghiên cứu dùng ký tự Latin để ghi Mân ngữ, đã viết hơn hai mươi bài bằng cách đó và gọi đó là “chữ khoa đẩu”. Học giả đó cũng có niềm tin rằng hai mươi năm nữa “chữ khoa đẩu” của ông sẽ phổ biến thành “chữ Mân ngữ”.(Nguồn http://www.tadpolenese.com/ 原帖由 vudik 於 2008-11-26 ). Dưới đây là một bài của học giả đó viết song ngữ: Mân ngữ và Anh ngữ: Ge'Aurl 家後 Url jid rid. laln nar laurl, coer voo laang. gar laln yul'hauc, qual eurl buee lyl zeorl diamp yil'liaau, tnia lyl golng siaucleen. e siizurn. lyl url ruar qaau; Jiaq hol. jiaq vail. voo gecgauc, oant tni. oant deor. marl veurl hiaul; Lyl e ciul, qual eurl gar lyl kan diaau'diaau, yinwir qual sirl lyl e Ge'Aurl; Quln. jiong cengcun. gec dirl lyln dau; Quln duic siaucleen. doec lyl doec gah laurl; Riinzeeng. Sec'Sur. yilgeng knuac tauc'tauc, url sniah laang. bil lyl kah diorng'yauc? Quln e yitseng. hent hour lyln dau, jiah zai hernghok. sirl cal'cal-naur'naur; Dalntair dylng`kyc. e siizurn. nar gauc, qual eurl niur lyl seng zaul... yinwir qual eurl m gam-... bank lyl wir qual vagsail. laau; Url jid rid. laln nar laurl, url simbur-gnial'rii. yul'hauc, lyl nar voo liaau, teq laln e sionkpnic, knuac kahzal. gethun. e siizurn. lyl ruar eendaau; Cirng hol. cirng vail. voo gecgauc, guaic'dang-guaic'sai. marl veurl hiaul; Lyl e sim, qual eurl yelng'oaln. gic diaau'diaau; yinwir qual sirl lyl e Ge'Aurl; Quln. jiong cengcun. gec dirl lyln dau; Quln duic siaucleen. dioq doec lyl doec gah laurl; Riinzeeng. Sec'Sur. marl yilgeng knuac tauc'tauc, url sniah laang. bil lyl kah diorng'yauc? Quln e yitseng. hent hour lyln dau, jiah zai hernghok. sirl cal'cal-naur'naur; Dalntair dylng`kyc. e siizurn. nar gauc, Lyl dioq niur qual seng zaul... yinwir qual eurl m gam-... knuac lyl wir qual vagsail. laau; Behind You One day, when we get old, when we can't find people to take care of us, I'll sit next to you on the bench, listen to your endeavors from your younger days. It doesn't matter whether we have fancy meals, neither do we know to blame luck or people. Your hand, I'll hold it tight, because I am always behind you. I spent the best time of my life, married to you in a family. I followed you from young to old. Life's stories, I have seem them all, who else is more important than you? I dedicated my life to a family, only to find out that happiness comes with its ups and downs. When the time of departure comes, I'd let you go first... because I cannot hold the thought that... I'd leave you in tears for me. One day, when we get old, and our children are there for us, if you get bored, let us go over our picture albums, and check out how handsome you were at our wedding. It doesn't matter whether we have fancy clothes, neither do we know to blame anything. Your heart, I'll always keep it on my mind, because I am always behind you. I spent the best time of my life, married to you in a family. I followed you from young to old. Life's stories, I have seem them all, who else is more important than you? I dedicated my life to a family, only to find out that happiness comes with its ups and downs. When the time of departure comes, You should let me go first... because I cannot hold the thought that... I'd see you in tears for me.
  19. Chữ Hiếu孝 Ức 臆 nếu căn cứ vào nghĩa chữ thì không logic với tên quốc gia là “Hiếu với Ngực” (?). Người viết chú bức vẽ có thể đã dùng chữ đồng âm để làm ký âm tên quốc gia đó mà thôi, chưa chọn ra chữ đồng âm nào để ký âm mà nó có vẻ logic một chút (ra một cái nghĩa dễ nghe nào đó) thì tạm lấy đại hai chữ đồng âm đó vậy, người đọc chỉ nghe cái âm chứ không cần để ý đến cái biểu ý của chữ ( cũng giống như kiểu ngày nay Hán ngữ vẫn dùng chữ có sẵn để làm ghi âm các tên riêng của các ngôn ngữ khác, ví dụ Marks thì phiên âm là Mã 馬 Khắc 克 Tư 斯, chớ có hiểu là ông ấy họ Mã 馬). Chữ Hiếu 孝 Ức 臆, tiếng Bắc Kinh phiên âm là Xiao Yi, cũng đồng âm như chữ Tiểu 孝 Dị 異(nhỏ lạ) cũng phiên âm là Xiao Yi. Vậy mượn chữ Hiếu 孝 Ức 臆 hay mượn chữ Tiểu 小 Dị 異 làm phiên âm hợp logic hơn ? để chỉ cái quốc gia nhỏ mà lạ lùng đối với họ là cái nước Việt Nam ? Thời Tống (960- 1279) thì ở Trung Hoa giọng phương Nam vẫn là áp đảo hơn so với giọng phương Bắc. Nhiều chữ giọng phương Nam bắt đầu bằng “H” thì giọng phương Bắc bắt đầu bằng “X”, như chữ Hiền 賢, tiếng Bắc Kinh đọc là Xián 賢 thì Mân ngữ ngày nay như ở Đài Loan vẫn đọc là Hền 賢 (có dấu huyền rõ ràng như người Việt Nam đọc là Hiền 賢). Chữ Tiểu 小 Dị 異 thời đó người Việt đọc là Hẻo Dị. Hẻo=Tẹo=Tiểu 小=Tíu=Xỉu=Xíu=Xiao 小. Tiếng Nam Bộ ngày nay vẫn nói khi chê bé chê ít là “sao hẻo vzậy”. Cái quốc gia nhỏ (Hẻo) mà lại đứng Riêng (Lánh) tức hẻo lánh đối với Trung Nguyên, lại lạ lùng , nên gọi là Hẻo Dị. Dị vốn là từ Việt: Lạ=Lai=Dại=Dã 野 =Dữ=Dị 異 = Kì 奇 (của lai là của lạ, của dã là của dại). Người Nam Bộ vẫn nói “mày làm gì dữ vzậy” nghĩa là “làm cái gì mà kì cục vậy”. Chữ Hiếu 孝, vào năm 100 Hứa Thận giải thích trong “Thuyết văn giải tự” đọc: lướt Hô 呼 Giáo 教 = Háo. Háo này rõ ràng là cái âm Việt đúng nghĩa Việt là yêu, Háo tình, Háo tiền, Háo sắc, Háo ăn (tiếng Tày thì Au nghĩa là Yêu, dòng Rồng - Lạc Long Quân và dòng Tiên – Âu Cơ thành con cháu Tiên Rồng, tiếng Việt có “Ham Au” = Háu = Háo = Hiếu = “Ham Yêu”). Giải thích ngôn từ ở đây không có nghĩa là ông Lạc Long Quân ở Hạ Long lên lấy bà Âu Cơ ở trên Cao Bằng (!). Cái ngôn ngữ tiếng Việt như người Việt Nam vẫn nói ngày nay đã từng tồn tại phổ biến ở nam Dương Tử 5000 năm trước. Chữ Hiếu 孝 của nền văn minh Văn Lang 5000 năm trước ở nam Dương Tử đã trở thành cái đạo trong nền văn minh Trung Hoa. Khổng Tử đã soạn sách có cả phần dịch Hiếu Kinh từ nguyên bản là chữ Khoa Đẩu tàng trong vách nhà Khổng Tử. Đến cuối thời Đông Tấn, Hứa Thận ở Trung Nguyên còn vận dụng các qui tắc trong tiếng Việt là “nói Lướt” (thiết) và “nói Lái” (phản thiết) để làm công cụ giải thích cách đọc chữ cho đúng âm. Chữ Ức 臆 là từ Việt chỉ cái Ngực ( Hán ngữ gọi ngực là Xiong 胸 Bu 部). Ức chỉ cái bên trong đầy đặn, nên Ức = Ngực =Dực 溢 = Nực = Bực =Bức 迫 = Bách, đầy lòng tức dực lòng, tức nóng lòng thì gọi là Bức Bách. Hứa Thận giải thích chữ Bức, đọc: Bác 博 Mạch 陌 = Bách.
  20. Thời Chiến Quốc, nhà “tung hoành gia” là nói vai trò của nhà ngoại giao quốc tế, có thể là người đi khuyên các nước hòa hảo với nhau, như Tô Tần, có thể là người đi nói kiểu “đâm bị thóc chọc bị gạo như Trương Nghi, tùy theo mục đích mà người ấy muốn làm. Tô Tần và Trương Nghi cùng học một thầy là đại sư Qủi Cốc Tử, trong thời đang học Tô Tần còn phải phục Trương Nghi học giỏi hơn. Vậy mà dân gian chỉ có lưu truyền câu ngạn ngữ “cái lưỡi Tô Tần” chứ không có câu ngạn ngữ “cái lưỡi Trương Nghĩa”, vì nhân vật Tô Tần như minh, còn nhân vật Trương Nghi như ám. Tô Tần khi khuyên vua Tần phải tôn trọng, hòa bình với lục quốc không được, ông bỏ về nhà, bị vợ đuổi, cha từ, đành vào núi khổ công hơn một năm trời đọc lại các sách xưa. Ra khỏi núi, ông từ nước Yến bắt đầu kế hoạch báo thù vua Tần, ông thuyết phục được lục quốc liên hợp chặt chẽ với nhau, làm thành một cục diện mà vua Tần trong suốt 25 năm liền không giám tấn công lục quốc. Trương Nghi thì phẩm cách lại khác. Khi còn học, có lần đi ăn cơm nhà quan, quan rơi mất cái đổng cổ, có người mách chắc là Trương Nghĩa lấy trộm, thằng ấy du thủ du thực lắm. Quan bèn nọc Trương Nghĩa đánh cho một trận nhừ đòn. Về nhà , Trương Nghĩa hỏi vợ rằng xem giùm cái lưỡi của ta có còn không, vợ vừa lạ vừa buồn cười nói vẫn còn. Trương Nghĩa mới thở phào: “Lưỡi còn thì ta còn có thể báo thù”. Sau Trương Nghĩa nhờ có Tô Tần giúp đỡ mới có được quyền vị ở nước Tần. Lúc đó Trương Nghĩa thư về cho ông quan năm xưa đã đánh hắn: “Năm xưa tôi chẳng phải trộm của ông, mà ông đối xử với tôi như vậy, bây giờ tôi đã hùng rồi, nước ông liệu mà coi chừng nhá”. Sau đợi đến khi Tô Tần mất rồi, Trương Nghĩa mới hiến kế sách cho vua Tần phá tan sự liên hợp của lục quốc, công thành, nhổ trại mạnh như gió thu quyét sạch lá rụng. Qủi Cốc Tử có thể không phải là tên thật của ông thầy dạy “thuật thuyết pháp”. Chuyện truyền thuyết dùng chữ “quỉ cốc” chỉ để muốn ám chỉ rằng ông ấy đã đào tạo thành công một thằng giỏi “đâm bị thóc, chọc bị gạo” như Trương Nghi, mới phá tan nổi sự liên hợp lục quốc mà Tô Tần dày công thuyết phục xây dựng được để chống lại âm mưu xâm lược của nước Tần.
  21. Không biết tên chữ của cái chuông Vân Bản ấy viết như thế nào, nhưng chắc phải là chữ Vân 云 Bản 板 chứ không thể là chữ Vân 雲 Bổn 本 (chữ Bổn 本 này cũng đọc là Bản 本, Vân 雲 Bổn 本 nghĩa là Mây Vốn). Còn Vân 云 Bản 板 nghĩa là Vang Bản Làng tức Vang Bang (QT lướt: Bản Làng=Bang), tức vang cả nước. Chữ Vân 云 vốn gốc là từ Van của tiếng Việt cổ, nghĩa là Nói, đã Van thì tiếng phải Vang cho khắp thế giới nghe thấy (QT lướt: Van khắp Làng = Vang), nên tiếng Việt còn có từ Van Nài, Van Vỉ, Ví Von. Cổ Hán thư dùng từ Vân 云 với tần suất rất lớn, nào là “Khổng 孔 Tử 子 vân 云:…”, “Lão 老 Tử 子 vân:…” vân vân mà Hán ngữ về sau rất ít dùng hoặc không dùng, gọi từ Vân là “ thuộc cổ Hán ngữ”. Tiếng Việt vẫn còn dùng từ Vân Vân ở cuối câu viết, ý là còn nói nhiều nữa (từ đôi Vân Vân thì nhấn ý là “nói nhiều”), trong khi Hán ngữ thì dùng từ Đẳng Đẳng chứ không nói là Vân Vân. Cái chuông Vang Bản ấy được viết bằng hai chữ Vân 云Bản 板. Từ Bản 板 này còn vô vàn trong tên địa danh các vùng ở Hoa Nam, dù có ghi xuôi kiểu Việt hay ghi ngược kiểu Hán thì Bản 板 vẫn là dấu ấn của Bản Làng người Việt của nước Văn Lang xưa. Thời đất nước thái bình thì chuông vang bản làng là đương nhiên. Thời chiến tranh loạn lạc, chuông chẳng muốn Vang nữa, nên nó lặn lẩn đi. Bởi nó nghĩ rằng thời loạn, nó có Van cũng chẳng ai biết nghe, thì nó Van làm gì cho vô ích, như làm Bẩn chính nó, đó là sự tự trọng. Thái bình ngược với Loạn lạc, cũng như Vân Bản lái ngược lại là Van Bẩn. Người Việt yêu hòa bình, nên hiểu theo nghĩa thuận là Vân Bản tức vang bản làng, người Việt ghét chiến tranh nên không hiểu ngược theo nghĩa lái ngược là Van Bẩn (nghĩa bóng là nói xấu). Thời chiến tranh, để tránh sự tàn phá văn hóa của quân xâm lược, người dân đem chôn giấu chuông đi, rồi kể bằng câu chuyện, để đời sau còn biết mà tìm, đồng thời ý tứ của chuyện cũng để nhắc nhở rằng cái chữ kiểu gì thì cũng chỉ là cái công cụ ghi mà thôi, công cụ ghi nào tiện lợi nhất có được để ghi cái tiếng thì dùng công cụ ấy, cái tiếng nói mới cần phải giữ mãi để khỏi mất dân tộc. Cũng như thời Tần Thủy Hoàng đốt sách, bắt nói một thứ tiếng chung, có ông Tô nói rằng: “ Ta mất sạch cả rồi, Ta chỉ còn mỗi cái lưỡi”, nên về sau có câu thành ngữ điển tích là “cái lưỡi Tô Tần”. Cách nay 2000 năm Hứa Thận còn biết vận dụng cách nói lái của người Việt để hướng dẫn cách đọc cho đúng âm chữ (gọi là “phản thiết”), thì cái cách nói lái ấy nó phải có trước thời Hứa Thận chí ít 3000 năm nữa, tức có cách nay 5000 năm, đó là 5000 năm của văn minh Văn Lang.
  22. Luật Pháp. Từ ghép này xuất xứ từ công nghệ Bánh Chưng, lúc đầu chỉ là để chỉ các công đoạn cụ thể, sau nâng ý trừu tượng hóa thành từ “luật pháp”. Khi gói xong bánh chưng thì dùng Lạt để Buộc. Tiếp đến là cho vào nồi để Luộc. Quá trình luộc thì cả bánh cả lạt đều bị luộc tất (QT lướt: Lạt Buộc Tất=Luật). Bánh luộc xong rồi phải ép cho nó ráo (Phải Ép=Phép). Để ép thì người ta đặt cho tấm ván phải áp sát mặt bánh, dàn sao cho thật bằng (Phải Áp=Pháp). Do đó mà có từ Luật Pháp. Hai ngàn năm trước người Việt vẫn nói như năm ngàn năm trước đó nói, tức nói như Hứa Thận giải thích trong “Thuyết văn giải tự”: Chữ Luật 律, đọc: lướt Lữ 呂 Tuất 戌 = Luật. Nghĩa: “Quân 均 Bố 布 Dã 也”. Nếu nhìn mặt chữ gọi là Hán tự thì Quân 均 là “dàn đều”, Bố 布 là “vải”, căn cứ vào cái nghĩa đen chỉ vật cụ thể thì sẽ hiểu sai: Quân 均 Bố 布 là “dàn đều vải”, dàn đều vải ra thì gọi là Luật? Luật gì mà lại là dàn đều vải, có đúng logic không?. Nhưng nếu căn cứ cái âm Việt thì Quân 均 Bố 布 Dã 也 nghĩa là Quấn Bó Ạ (Hứa Thận mượn chữ có âm na ná là Quân 均 Bố 布 để phiên âm Quấn Bó, vì đến thời đó đã không còn chữ khoa đẩu để mà ký âm. Người Việt dệt Vải để làm Váy. Vải dệt ra quấn thành Bó đem bán cho người Hán, người Hán mới gọi vải là Bố). Quấn Bó tức là Buộc (thế mới đúng logic), muốn Buộc phải dùng Lạt (thành ngữ Việt: “lạt mềm buộc chặt”). Cái Lạt mềm ấy mà lại Buộc được Tất mới thật là giỏi, xứng đáng là cái lạt trí tuệ của sức mạnh mềm, còn buộc bằng bạo lực thì là quá hạ đẳng, lại không chặt được ( QT lướt: Lạt Buộc Tất = Luật). Nhưng nếu căn cứ vào cái nghĩa do đã nâng ý của từ chỉ động tác cụ thể là Quấn Bó thành ra Quân 均 Bố 布 thì đúng logic với một phần cái nghĩa của chữ Luật 律 là sự Buộc đó phải ban bố dàn đều (từ đã nâng ý Quân 均 Bố 布 chỉ là hệ quả của động tác Quấn Bó). Không tin thì cứ nhìn vào động tác quấn sợi vào con suốt của người Việt (tất nhiên không phải bằng tay chậm chạp mà bằng cái xe quấn sợi): sợi quấn sít nhau dàn đều một tầng rồi tiếp đến tầng khác ngoài nó, cho đến khi con suốt đầy lên thì xong (giống như quấn biến áp thời hiện đại). Do đó mà Quấn đã nâng ý lên thành Quân 均 nghĩa là dàn đều, và từ ghép Quấn Bằng cũng nâng nghĩa lên thành Quân 均 Bình 平 mà Hán ngữ gọi ngược là Bình 平 Quân 均. Động tác quấn sợi đương nhiên theo cùng nó là sợi bị Bó vào trong cái suốt, động tác bó ấy là bó chặt, nếu không sợi sẽ bị xô và không còn thành dàn đều cho sít được ( quấn biến áp mà để sợi dây đồng bị xô thì khi cho điện vào biến áp sẽ nóng và cháy ngay), động tác bó ấy là Bó Buộc, nâng ý lên thành Bắt Buộc. Động tác Bó (cho đều như quấn sợi hay quấn biến áp) đã nâng nghĩa lên thành chữ Bố 布 và có từ ghép Ban Bố nghĩa là truyền đạt cho đều khắp (Ban Bố là từ ghép kiểu Việt, nghĩa là Ban sao cho Bố tức Ban cho đều khắp, Ban là từ trên xuống, chỉ có Biếu là từ dưới lên. Rõ như vậy, nhưng mà người ta lại cho rằng Ban Bố là “từ Hán Viêt”, bất chấp cả gốc gác của nó, cũng như “70-80% những từ trong tiếng Việt hiện đại là gốc Hán”). Tinh thần của Luật là Bó Buộc, lại dàn đều, tức từ thằng vua đến thằng dân đều phải theo Luật chứ không ai có thể được ưu tiên đứng trên Luật (cổ thư viết về cái thời đại mà “vua tôi cùng cày” của người Việt). Chữ Pháp 法, Hứa Thận giải nghĩa: “Bình 平 Chi 之 Như 如 Thủy 水, Sở 所 Dĩ 以 Xúc 触 Bất 不 Trực 直 Giả 者 Khử 去 Chi 之” (bằng như nước, đụng cái gì bất trực thì khử ngay), do Hứa Thận căn cứ vào cái hình của cổ văn miêu tả chữ Pháp, vẽ giống như con thú có một sừng (chắc là con tê giác), nó rất trực tính, gặp cái gì trái là nó dùng một cái sừng của nó hất bay đi ngay, kiểu “kiến nghĩa dõng vi”. Chữ thì hoàn toàn biểu ý, không có mượn âm nào là “pháp” hay na ná cả, nó gồm chữ nước 氵 và chữ khử 去. Nhiều độc giả Trung Quốc nghi ngờ rằng giải thích “bằng như nước” của Hứa Thận là chưa thỏa đáng, mặt nước lặng im thì nó là bằng nhất, tức công bằng, đúng tinh thần của Pháp 法, nhưng mặt nước luôn bị ngoại tác mà xao động chứ không chắc như đinh đóng cột, không xứng đáng với tinh thần của Pháp 法. Còn giải thích là nước rửa sạch(khử 去) cái hình con thú, tức cái thú tính trong con người thì có lý hơn, đúng tinh thần của Pháp. Giải thích theo tư duy Việt thì tôi cho là cái âm tiết Pháp là xuất xứ từ công đoạn hoàn thành bánh chưng, Phải Áp cho nó phẳng đều tức công bằng, và Ráo tức loại trừ ô nhiễm tinh thần, đó là Phải Áp = Pháp (Phải Ép = Phép), tức lấy cái Phải mà Ép mọi người tuân theo, lấy cái Phải mà Áp chế thì mọi việc đều tốt đẹp. Cái Pháp 法 đó cũng như nước, ban bố từ trên xuống (thành ngữ Việt: “nước chảy chỗ trũng”), lại rất sắc bén (thành ngữ Việt: “sắc như nước”, “nước chảy đá mòn”, có bướng đến mấy cũng không chống lại được cái Phải). Mặt khác cũng thấy trong biểu ý của chữ Pháp法, viết là Nước氵 và Khứ 去 (Khử=Khuất=Khứ, bị Khử rồi cho nên nó Khuất vào trong quá Khứ xa xăm rồi, chỉ còn lại những mảnh vụn, chữ Pháp 法 biểu ý: “Nước trong quá Khứ” , Nước ấy là Nước Văn Lang, cái văn minh cổ xưa trong quá khứ vốn nhân bản, trong trẻo, đẹp đẽ, chính là Pháp). Chỉ có công nhận sử Việt 5000 năm văn hiến thì mới hiểu đúng từ Luật Pháp. Khi ấy sản phẩm bánh chưng mới trân quí như nó vốn đã vậy 5000 năm nay, mới Ráo để mà rao. Còn không thì, Luộc quá, lại không tuân thủ qui trình, bánh sẽ Nhão thành Cháo, là một mớ kiến thức chắp vá hổ lốn thành hỗn độn. Theo từ điển tiếng Việt NXB KHXH 1977, Luật: điều qui định bắt buộc. Luật Pháp: là Luật. Pháp Luật: Phép tắc do nhà nước đặt ra để qui định hành vi của mọi người. (?). Theo như từ nguyên của tiếng Việt giải thích ở trên thì, Luật Pháp: Những điều bắt buộc nhằm làm cho lẽ Phải trở nên có hiệu năng áp chế mọi người tuyệt đối tuân theo.
  23. Cái Đồ Thời Buổi (Thôi 推 Bối 背 Đồ 圖) Tương truyền 1300 năm trước, vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân có sai hai ông họ Lý và họ Viên là hai vị xem thiên tướng nổi tiếng đương thời làm ra cuốn Thôi Bối Đồ để Bấm Độn (Thôi Toán) quốc vận nhà Đường. Ông họ Lý cứ Bấm Độn mải miết đến mức nghiện, không những hết quốc vận nhà Đường rồi mà còn Bấm đến 2000 năm sau nhà Đường nữa, vậy mà cũng chưa hết các Tượng. Ông họ Viên đợi lâu quá, lúc ấy mới Thúc vào lưng ( tức cái Bối) ông họ Lý, nói: “Thiên cơ không thể tái tiết lộ, dừng đi, về nghỉ cái đã” khi ấy ông họ Lý mới Bấm hết quẻ thứ 60 (còn 4 quẻ nữa đành bỏ). Thế là công trình của hai ông mang tên là Thôi Bối Đồ. Đó là chuyện tương truyền, do người đời sau đặt ra để giải thích tại sao có tên là Thôi Bối Đồ, đó là chuyện tương truyền của 1300 năm trước. Nhưng 2000 năm trước, tức cuối thời Đông Tấn, còn trước thời Đường 700 năm, Hứa Thận giải thích cách đọc đúng chữ Bối và chữ Thôi cũng đúng như QT ngôn từ Việt mà tôi nêu. Chữ Bối 背, sau trong Hán ngữ dùng chữ Bối 背 nghĩa là cái lưng (do người Hán đã dùng chữ Bối 背 đó để ký âm cái âm tiết “bei” trong Hán ngữ nghĩa là cái lưng), nhưng thời Hứa Thận, trong phần của ông giải thích nghĩa chữ Bối thì để trống (không biết nó nghĩa là gì), còn hướng dẫn đọc thì là: lướt Bổ 補 Muội 妹 = Buổi. Vậy cái chữ Bối 背 ấy là của người Việt, đọc là Buổi và có nghĩa là Buổi, nghĩa của nó trong tiếng Việt là “một sự tuần hoàn”, như buổi sáng rồi đến buổi tối rồi lại đến buổi sáng, cứ thế tuần hoàn mãi. Chữ nho Bối 背 ấy viết bằng chữ Rau 肉ở dưới và chữ Bắc北 ở trên, đọc từ dưới lên (như đếm hào của quẻ dịch thì cũng phải đếm từ dưới lên), thì theo QT lướt: Rau肉 Bắc北=Rắc, và QT thay tơi: Rắc=Lắc, sự Lắc cũng là “một sự tuần hoàn”. (Tôi đã giải thích rồi: Ruột=Rau=Nhau=Nhục肉, chữ Nhục肉 ấy đọc là Rau, là cái Nhau bà đẻ nên có hinh hai nhân trong cái Cung, nhân thò ra ngoài là mẹ, nhân gọn lỏn bên trong là con). Tuần hoàn Lắc ấy cũng giống như là con lắc của cái đồng hồ quả lắc, hết vòng lại quay lại, như con thoi chạy trên khung cửi. Chữ Thôi 推, Hứa Thận hướng dẫn đọc: lướt Tha 他 Hồi 回 = Thôi, giải thích nghĩa là : vỗ. Vỗ=Võ=Gõ. Vậy thì đích thị là nói về con Thoi, mà con Thoi thì cũng như con Lắc, là “một sự tuần hoàn”. Hãy quan sát con thoi nó làm việc trên khung cửi thì rõ. Nó chạy đến đụng Đầu trái thì nó Lộn lại tức Dội lại hướng phải, đến đụng Đầu phải, nó lại lập tức Lộn lại tức Dội lại hướng trái. Khoảng cách hai Đầu ấy, tức chiều rộng của khung cửi ra khổ rộng của tầm vải, gọi là Đoạn, nên cái Đầu ấy cũng gọi là cái Đoan. Thoi đến Đầu thì Lộn, nên Đầu Lộn=Độn, Thoi đến Đầu thì Dội, nên Đầu Dội=Đội. Mà cái Đầu ấy chính là cái Thớt gỗ trên khung cửi, Thoi đến Thớt thì Gõ vào thớt một cái rồi thì Hồi, cái lúc gõ vào thớt ấy chính là cái Thời khắc nó phản hồi trở lại tức Dội lại, nên Thớt Hồi=Thôi. Quãng đường con thoi chạy trên khung cửi gọi là Buổi. Từ thớt trái chạy đi là bắt đầu bằng Thời rồi đến Buổi, đến đụng thớt phải nó lộn lại cũng là một Thời Buổi tiếp theo, cứ thế tuần hoàn mãi. Vậy thì trong cái nôi tuần hoàn là công việc của con Thoi ấy ta có: Thời=Thoi=Thôi=Đội=Độn=Đoan=Đoán=Toán=Bàn=Bấm. Cái hình ảnh tuần hoàn của con thoi cũng giống hệt như hình ảnh tuần hoàn của 6 hào của quẻ Dịch, từ dưới lên trên là từ hào 1 đến hào 6 rồi lại lộn trở lại. Từ đó mà người ta có Bấm Độn hoặc viết bằng chữ nho là Toán 算 Thôi 推(sau Hán gọi ngược là Thôi 推 Toán 算) rồi làm ra cái Bàn Tính (mà Hán gọi ngược là cái Toán 算 Bàn 盤). Và cũng từ đó mà có khái niệm Thời Buổi là nói cái thời gian hoạt động, Thời là cái thời khắc bắt đầu, Buổi là quá trình tiếp theo từ khi bắt đầu. Thời gian mà Dịch từ hào 1 đến hào 6 trong một quẻ (tức một Tượng, hay một Đồ) cũng gọi là một Thời Buổi. Bởi vậy mới có cái từ Việt là hình tượng “Đồ Thời Buổi”, chữ nho viết là Đồ 圖 Thôi 推 Bối 背, Hán ngữ viết ngược là Thôi 推 Bối 背 Đồ 圖. Giải thích theo QT có mấy từ đó thôi mà cũng đã thấy rõ là 64 quẻ Dịch là của người Việt. Cái thiên Cơ là một sự tuần hoàn huyền bí, cũng chỉ do cái dân tộc Việt là Cặm-Cụi làm lúa nước, ghi ra bằng 64 Quẻ. Tiếng Việt: Cơ=Cạm=Cộ=Cọn=Cửi=Cút-Kít đều là những ứng dụng của sự tuần hoàn, giống như Quẻ. Thoi=Thôi, chữ Thôi 推 viết hoàn toàn biểu ý bằng Tay 扌 + Chim 隹, mà Tay Chim = Tim Chảy, cũng là một sự bắt đầu tuần hoàn, tức là cái Thời điểm, giọt máu từ Tim bắt đầu Chảy gọi là Tim Chảy, một giọt máu từ tim chảy đi khắp cơ thể rồi lại quay về tim, để lại bắt đầu chảy, cứ thế tuần hoàn mãi. Người Việt dùng tượng quẻ Dịch để bấm độn đời một con người, hay đời của một triều đại, nên gọi quẻ Dịch là Đồ Thời Buổi. Thời Đường cuốn sách “Đồ Thời Buổi” ấy vẫn còn trong mỗi gia đình, để người già Bấm Độn ứng dụng cho nhiều việc, như thư tịch từng nói, nhưng thư tịch cũng nói là sách ấy bị coi là sách cấm. Vua Đường tò mò cũng muốn tìm hiểu xem sao nên mới sai người biên soạn lại. Chữ Đồ 圖, Hứa Thận hướng dẫn đọc: lướt Đồng 同 Đô 都 = Đồ. Giải thích nghĩa: khó ghi, khó ý (tức nó là một biểu tượng chứ không phải là một ký tự biểu thị khái niệm), bên ngoài là Vuông口, bên trong là cái hình của cổ văn, (bỏ trống - không biết từ đâu) đã nhận được. Đọc cái hình tượng bên trong 啚 ấy là: lướt Phương 方 Mĩ 美= Phị (hoặc lái Phương Mĩ=Phi Mưỡng). Thật là khó định nghĩa cái chữ Đồ 圖 này đây, vì Hứa Thận cũng không rõ lắm. Phải vận dụng QT ngôn từ Việt để giải mã: Giải thích nghĩa của Hứa Thận chữ Đồ 圖: “thư 書 ký 計 nan 難 dã 也” (viết, ghi khó ạ), bên trong là hình 啚 “nan 難 ý 意 dã 也” (ý nó khó ạ). Nhưng cái hình ấy lại đọc là Phị, Phi mà trong tiếng Việt có từ “phương phi” = “béo phị” và Béo Phị=Bị (QT lướt). Vậy cái hình bên trong 啚 ấy chính gọi là Bị. Hình chữ Đồ 圖 nó là cái gì mà lại “khó ghi, khó hiểu ý”, xem hình trong cái vuông của nó thì hình dung ra là hai con “Đuôi thóp đầu Thô”, rõ ràng con ở trên có cái đầu to còn đuôi thì mỏng mảnh tẽ ra hai phía, con ở dưới thì hình dung đầu nó là cái vòng ngoài to còn đuôi là cái vòng trong thóp nhỏ lại. Hai con “Đuôi thóp đầu Thô” ấy chính là hai con trong hình “thái cực đồ” (giống hai con Nòng Nọc) nên mới “nan ý”, và QT lướt thì: “Đuôi thóp đầu Thô”=Đồ. Phần chú có vẽ cổ văn (giáp cốt văn) tượng hình chữ Đồ 啚 là: Bên dưới là một vòng tròn kín to, có núm cuống tí tẹo trên đầu như muốn dính với phần trên, trong vòng có kẻ thẳng bốn sợi lạt chia cái vòng tròn to đó thành 9 ô ( Vậy đó chính là hình chiếc bánh Chưng). Bên trên là hình tròn nhỏ được tạo thành bằng hai vòng cung bán nguyệt không tiếp xúc nhau, trong có một kẻ thẳng ngang (Vậy đó là hình cái bánh Dầy, kẻ ngang bên trong là tượng trưng cho dương hay càn, hai cung và một kẻ đó tạo thành 3 nét vẽ, đều không tiếp xúc nhau). Nhìn toàn hình thì nó giống cái Bị vải căng phồng bị buộc túm cổ, thòi cái chỏm tròn nhỏ bên trên. Đây chính là hình ảnh của câu đồng dao trẻ con Việt: “3 Bị 9 quai“. Vậy tức là cả hình biểu tượng Âm Dương Lạc Việt, cả hình bánh Chưng bánh Dầy, được ngôn từ Việt gói gọn trong một chữ Đồ 圖. Vận dụng QT lướt thì giải thích ra cái hình vẽ mà thành âm tiết Đồ 圖 là vậy. Nhưng vận dụng QT thay Tơi và QT thay Rỡi thì cũng đúng Đồ 圖 ấy là của Việt: người Việt là dân mặt trời, dân Kẻ Lửa, từ khái niệm đầu tiên của “lửa” là Tá=Tỏ=Đỏ=Đồ=Đào của Hồng Bàng thị , nên Hồng Bàng thị cũng gọi là dân Đào. Dân Đào quí nhất là con người nên mới có câu “Giọt máu Đào hơn ao nước lã”. Dân Đào đã có nền văn minh được các tộc khác say đắm từ hàng vạn năm trước, nên mới có câu “Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say” (chất men say của “Hồng Bàng thị tức dân Đào”=Hồng Đào). Cái âm tiết Đào còn giải thích được lịch sử trận đại hồng thủy thời Nghiêu, dân con Đỏ đã “Đò được đến đậu ở các cù Lao”=Đào. Mỗi Cù Lao (như núi Tản chẳng hạn) là một Cửu Châu (Cù Lao=Cửu Châu, nên “Cù lao-Cửu châu” là một từ đôi nhấn ý “nhiều đảo”, sau người ta lướt “Cù lao- cửu Châu”=Cầu 球 để chỉ quần đảo. Lửa Cầu là dân Lửa tức tộc Việt ở quần đảo ngoài Thái Bình Dương (họ cũng trồng lúa nước và ăn trầu vậy), Lửa Cầu viết ký âm bằng chữ là Lưu 留 Cầu 球, chỉ Đài Loan và Nhật Bản. 编号 3326 楷字 啚 卷属 卷五 部首 ?部 拼音 bi3 反切 方美切 解释 嗇也。从口、?。?,受也。 注解 古文啚如此。
  24. Tập cơ thể, giảm huyết áp (bác sĩ Mỹ) Đo xem huyết áp bình thường ( 140/80 ) Mức dưới chớ để quá chừng 90 Giảm áp, phương pháp dễ thôi Isometic Exercise, tập liền: 1. Đứng thẳng, buông lỏng toàn thân 2. Hai tay thẳng ngón, thong dong bình thường 3. Dồn sức gồng rặn toàn mình 4. Hô: “một”… đến “sáu”, rồi chùng toàn thân 5. Cứ vậy, Lỏng, lại tiếp Căng Mỗi tập Căng, Lỏng, làm xong ba lần Ngày ba bận, tự luyện thân Tốt nhất tập trước khi ăn hàng ngày. Đang uống “hạ áp” thì vầy: Giảm dần thuốc đã, rồi bài tập sau. Không bệnh, tập cũng chẳng sao Luyện hàng ngày, chẳng khác nào phòng thân.
  25. Nói là “hai ông đồng biên soạn” thì có nghĩa là không phải do hai ông sáng tác, mà chỉ soạn lại nội dung của một tác phẩm cũ bằng hình thức viết khác là lời thơ, lời tụng và tranh vẽ minh họa, như là một tác phẩm văn học mà nội dung có tính dự báo. Bạn vào mạng: [ tieba.baidu.com/p/1274906505 ] rồi mở tiếp mạng: [ hudong.com/wiki…] bạn sẽ thấy đủ 60 hình vẽ (gọi là Đồ) kèm khổ thơ và lời tụng (gọi là Thi), thì sẽ phán đoán đúng là hai ông họ Lý và họ Viên đã vận dụng cuốn sách gốc là cuốn Việt Dịch chỉ viết vỏn vẹn là 64 quẻ, mỗi quẻ là một Tượng gồm có 6 hào là 6 kẻ vạch liền và đứt mà thôi. Trên dòng đầu của mạng trên có giải thích về Thôi Bối Đồ rằng: Tương truyền 1300 năm trước, vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân có sai hai ông họ Lý và họ Viên là hai vị xem thiên tướng nổi tiếng đương thời làm ra cuốn Thôi Bối Đồ để Bấm Độn (Thôi Toán) quốc vận nhà Đường. Ông họ Lý cứ Bấm Độn mải miết đến mức nghiện, không những hết quốc vận nhà Đường rồi mà còn Bấm đến 2000 năm sau nhà Đường nữa, vậy mà cũng chưa hết các Tượng. Ông họ Viên đợi lâu quá, lúc ấy mới Thúc vào lưng ( tức cái Bối) ông họ Lý, nói: “Thiên cơ không thể tái tiết lộ, dừng đi về nghỉ cái đã” khi ấy ông họ Lý mới Bấm hết quẻ thứ 60 ( còn 4 quẻ nữa đành bỏ). Thế là công trình của hai ông mang tên là Thôi Bối Đồ. Đó là chuyện tương truyền, do người đời sau đặt ra để giải thích tại sao có tên là Thôi Bối Đồ, đó là chuyện tương truyền của 1300 năm trước. Nhưng 2000 năm trước, tức cuối thời Đông Tấn, còn trước thời Đường 700 năm, Hứa Thận giải thích cách đọc đúng chữ Bối và chữ Thôi cũng đúng như QT ngôn từ Việt mà tôi nêu. (Chữ Đồ là cái hình vẽ minh họa, nên không cần xét nữa). Chữ Bối 背, sau trong Hán ngữ dùng chữ Bối 背 nghĩa là cái lưng (do người Hán đã dùng chữ Bối 背 đó để ký âm âm tiết “bây” trong Hán ngữ nghĩa là cái lưng), nhưng thời Hứa Thận, trong phần của ông giải thích nghĩa chữ Bối để trống (không biết nó nghĩa là gì), còn hướng dẫn đọc thì là: lướt Bổ 補 Muội 妹=Buổi. Vậy cái chữ Bối 背 ấy là của người Việt, đọc là Buổi và có nghĩa là Buổi, nghĩa của nó trong tiếng Việt là “một sự tuần hoàn”, như buổi sáng rồi đến buổi tối rồi lại đến buổi sáng, cứ thế tuần hoàn mãi. Chữ nho Bối 背 ấy viết bằng chữ Rau 肉 ở dưới và chữ Bắc 北 ở trên, đọc từ dưới lên (như đếm hào của quẻ dịch thì cũng phải đếm từ dưới lên), thì theo QT lướt: Rau 肉 Bắc 北=Rắc, và QT thay tơi: Rắc=Lắc, sự Lắc cũng là “một sự tuần hoàn”. (Tôi đã giải thích rồi: Ruột=Rau=Nhau=Nhục 肉, chữ Nhục 肉 ấy đọc là Rau, là cái Nhau bà đẻ nên có hinh hai nhân trong cái Cung, nhân thò ra ngoài là mẹ, nhân gọn lỏn bên trong là con). Tuần hoàn Lắc ấy cũng giống như là con lắc của cái đồng hồ quả lắc, hết vòng lại quay lại, như con thoi chạy trên khung cửi. Chữ Thôi 推, Hứa Thận hướng dẫn đọc: lướt Tha 他 Hồi 回=Thôi, giải thích nghĩa là : vỗ. Vậy thì đích thị là nói về con Thoi, mà con Thoi thì cũng như con Lắc, là “một sự tuần hoàn”. Hãy quan sát con thoi nó làm việc trên khung cửi thì rõ. Nó chạy đến đụng Đầu trái thì nó Lộn lại tức Dội lại hướng phải, đến đụng Đầu phải, nó lại lập tức Lộn lại tức Dội lại hướng trái. Khoảng cách hai Đầu ấy, tức chiều rộng của khung cửi ra khổ rộng của tầm vải, gọi là Đoạn, nên cái Đầu ấy cũng gọi là cái Đoan. Thoi đến Đầu thì Lộn, nên Đầu Lộn=Độn, Thoi đến Đầu thì Dội, nên Đầu Dội=Đội. Mà cái Đầu ấy chính là cái Thớt gỗ trên khung cửi, Thoi đến Thớt thì Hồi, nên Thoi Hồi=Thôi. Vậy thì trong cái nôi tuần hoàn là công việc của con Thoi ấy ta có: Thoi=Thôi=Đội=Độn=Đoan=Đoán=Toán=Bàn=Bấm. Cái hình ảnh tuần hoàn của con thoi cũng giống hệt như hình ảnh tuần hoàn của 6 hào của quẻ Dịch, từ dưới lên trên là từ hào 1 đến hào 6 rồi lại lộn trở lại. Từ đó mà người ta có Bấm Độn hoặc viết bằng chữ nho là Thôi 推 Toán 算 rồi làm ra cái Bàn Tính. Giải thích theo QT có mấy từ đó thôi mà cũng đã thấy rõ là 64 quẻ Dịch là của người Việt. Cái thiên Cơ là một sự tuần hoàn huyền bí cũng chỉ là do cái dân tộc Việt Cặm-Cụi làm lúa nước ghi ra bằng 64 Quẻ. Tiếng Việt: Cơ = Cạm = Cộ = Cọn =Cửi =Cút-Kít đều là những ứng dụng của sự tuần hoàn, giống như Quẻ. Thoi=Thôi, chữ Thôi 推 viết hoàn toàn biểu ý bằng Tay 扌 +Chim 隹, mà Tay Chim = Tim Chảy, cũng là một sự tuần hoàn, một giọt máu qua tim rồi đi khắp cơ thể rồi lại về qua tim, cứ thế tuần hoàn mãi.