Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. Câu thành ngữ “Đất lề quê thói”. Phục nguyên thì Lề Thói=Lời Nói. Nói=Thói=Thọi(giọng Nam Bộ)=Thưa=Thoại=Thốt=Thuyết. Từ đôi Thưa Thốt ý rằng cả nói lễ phép (Thưa) cả nói bình thường (Thốt), câu thành ngữ “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. “Lời có Lễ”=”Lời Lễ”=Lề (đúng qui luật thanh điệu theo toán nhị phân 1+0=1).Quan Thoại nguyên gốc là Quan Bắc Thoại (theo nghiên cứu Bách Việt của viện nghiên cứu Đại học Hạ Môn TQ). Cú pháp của từ “Quan Bắc Thoại” là cú pháp Việt , vì từ này do người Việt thời Tần Hán đặt ra để chỉ ngôn ngữ của tầng lớp quan cai trị, thường là người Hán: “Quan là người Bắc Nói”=”Quan Bắc Nói”=”Quan Bắc Thoại”, lướt nửa vời thì là thành “Quan Thoại”, nếu lướt hết thì “Quan Thoại”=Quái (thanh điệu đúng qui luật toán nhị phân 0+0=1), tức ngôn ngữ lạ so với ngôn ngữ của dân , dân đa số là người Việt. Cú pháp này giống như cụm từ “Ngôn ngữ Đài Loan”, theo cách nói của người Đài Loan thì gọi là “Tai Lâng Gí” tức “Đài Loan Gọi”, mà Gọi=Thọi=Thoại. Về sau “Đất Lề quê Thói” (là cách nói lồng của nguyên gốc “Đất quê có Lề Thói riêng”) biến nghĩa thành ý chỉ phong tục tập quán riêng của một địa phương. (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam). Phục nguyên của Lề Thói chỉ là Lời Nói, nhưng Lời ở đây là Lời lễ độ, “Lời có Lễ”=Lề; Thói=Thọi=Gọi=Nói=Noái (giọng Huế)=Thoại=Thuyết. Cái Văn Hóa lúc bắt đầu là từ đâu? Là từ Ruộng tức từ nông nghiệp, nông thôn, (Ruộng=Vuông=Văn), tức từ thủa ban đầu của văn minh lúa nước cách nay hàng vạn năm, khi con người bắt đầu biết khai thác bề mặt trái đất vì nhu cầu phát triển của xã hội, biết đắp bờ vuông vắn cho Ruộng để giữ nước trồng lúa nước. Từ xưa, Đại La rồi Thăng Long (Lên Rồng) trở thành văn minh nhất nước là do những người nông dân lên sống quần cư làm thành những phường nông nghiệp chuyên canh (như hoa Ngọc Hà, đào Nhật Tân, húng Láng), những phường thủ công nghiệp (như ba mươi sáu phố họ “hàng”), những phường công nghiệp (như đúc đồng Ngũ Xã). Ngày nay văn minh công nghiệp đang dần dần lấn át văn minh nông nghiệp trên pham vi toàn cầu, nên cái Nền Nếp của văn minh nông nghiệp dần dần bị phá hụt (cái Nền bằng Nếp của cái bánh chưng tượng trưng trái đất, nâng đỡ cho bầu trời trong trắng tượng trưng bằng cái bánh dầy đặt ở trên, thành một cặp Yoni/Linga). Nền Nếp bị phá hụt nên làm hư cả bầu trời (thủng tầng ô dôn). Vì vậy ngày nay nhiều nơi đã thức tỉnh, lo chăm chút bảo vệ những vùng gốc. Như ở Đài Loan chăm chút bảo vệ những vùng của dân bản địa (gọi là người “Đài Loan nguyên trú”. Ở Mỹ, Úc cũng vậy. Ở Trung Quốc cũng rất chú ý đến điều này, điển hình là ở Phúc Kiến trong qui hoạch đô thị. Ở Việt Nam trong “chương trình xây dựng nông thôn mới” chắc cũng rất chú ý đến vấn đề này. Song thời gian qua nhiều hiện tượng đáng tiếc xảy ra khi ngành văn hóa “xây” nhà rông mái tôn (nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “không có hồn”), dỡ chùa xây lại mới (như ở Sơn Tây Hà Nội). Còn ở Trung Quốc thì xây đường cao tốc liên xã liên huyện, phản lại câu thành ngữ Trung Hoa xưa “Hương có chùa, Trấn có miếu”. Câu thành ngữ này cũng tương tự ý như câu thành ngữ Việt “Đất Lề quê Thói”. So sánh hai câu thành ngữ tương tự ý này cũng thấy rõ là tư duy Việt từ cổ đại đến thời cận đại là không có tư duy “tượng đài hoành tráng” (như Thiên Sứ từng nói), mà nó là cái văn hóa trong tâm hồn. “Tâm hồn mới là cái giàu nhất” như lời tiến sĩ người Mỹ Joseph Myrphy trong cuốn sách “Sức mạnh tiềm thức”.Bởi vậy ở Yên Hưng Quảng Ninh bên bờ sông Bạch Đằng và ở Đống Đa Hà Nội đều có cái gò đất lớn di tích chôn tử sĩ trong chiến tranh, những nơi đó hàng năm đến ngày kỷ niệm trận mạc nhân dân đều tổ chức Ngày Giỗ Trận Bạch Đằng và Ngày Giỗ Trận Đống Đa, nhân dân goi là Ngày Giỗ Trận từ thời trung cổ đến giờ, chứ không gọi là ngày “Kỷ niệm chiến thắng” (để tham khảo cho hiểu thêm cách đặt tên kỷ niệm của người Việt xưa từ thời Trần, hãy đọc lại bài “Ý tưởng xây dựng tượng đài trái tim thủy tinh của thủ tướng Võ Văn Kiệt”). Thế gới phải học hiểu chữ Giỗ để thấy tâm hồn Việt. Trong cách đặt tên ngày kỷ niệm này cho thấy từ thời trung cổ (thời Trần), tuy chưa học tiếng Anh, người Việt đã biết chỉ có Win-Win thì mới gọi là “Thắng”, còn thì khi Đọ nhau thì chỉ gọi là Được, Được=Cược=Cả=Cồ=Co (đôi co)=Võ=Đọ=Đô=Đạo (Đạo là chữ người Nhật dùng thay vì từ Võ) nên còn gọi bằng từ đôi là Được Cả như câu thành ngữ “Được ăn Cả, ngã về không”. Nguyên tắc của từ đôi là từ sau bao giờ cũng nặng ý “nhiều” hơn là từ trước nên nó có tác dụng như thiện ý san sẻ bổ sung ý “nhiều” cho từ đứng trước để cho chúng cân bằng nhau theo lý công bằng (biểu ý bằng chữ nho Cân巾, vẽ rất là đối xứng phải trái). Tộc người mẫu hệ tên là tộc “Mi Nang Ca Bau” là người Việt di cư sang Indonexia ngay sau thời Hai Bà Trưng, mà cái tên tộc ấy theo ngôn ngữ của họ có nghĩa là “tộc thắng trâu” tức họ là kẻ “Được” trong một cuộc Đọ trâu (như tục chọi trâu còn ở Đồ Sơn Hải Phòng ngày nay) với tộc bản địa láng giềng. Mi Nang Ca Bau phục nguyên là “Mệ Nàng Cả Trâu”. Họ đã lấy tắt từ Cả trong từ đôi Được Cả, nên tự xưng mình là người “Mi Nang Ca Bau”. Kiểu chọn khi nói tắt từ đôi thì lấy từ đứng sau (vì nó nặng ý “nhiều” hơn) gặp rất phổ biến trong Hán ngữ (vì những từ đôi mà Hán ngữ dùng là từ gốc Việt). Ví dụ từ đôi Ngữ Ngôn, trong cổ văn đều có dùng riêng hoặc Ngôn hoặc Ngữ đều chỉ ý là Nói, nhưng khi chọn tắt từ đôi Ngữ Ngôn để ghép với từ khác thì chọn từ nặng ý “nhiều” hơn tức chọn từ sau là Ngôn, như từ ghép Ngôn Xưng nghĩa là “Nói Rằng”. Từ đôi Thuyết Thoại cũng vậy, chọn từ sau để ghép là Thoại Xưng nghĩa là “Nói Rằng”. Nhưng Rằng là từ nguyên của Xưng: Rằng=Sẵng=Sưng=Xưng=Xướng=Xoan (Xoan là hát Xoan ở Phú Thọ). Tiếng Việt có Sẵng Giọng nghĩa là nói dằn giọng khi cáu kỉnh, chưa đến mức chửi nhau , chửi nhau thì gọi là Sưng Sỉa, còn Sửng Cồ thì là chửi dọa mà lại muốn giành phần hơn. Từ “Xướng Ngôn Viên” là do người Việt đặt ra nhưng theo ngữ pháp Hán hóa, trong khi Hán ngữ hiện đại gọi là “Phát Ngôn Viên”. Ngôn Xưng hay Thoại Xưng nghĩa là Nói Rằng. Rằng lại là do lướt “Rỡi ra Răng”=Rằng (thanh điệu đúng qui luật toán nhị phân 0+0=1). Cốt lõi của Lời là cái Rỡi. Rỡi mà ra khỏi hai hàm răng thì nó thành Rằng (nghĩa là “nói ra” hay “phát ngôn”), còn nếu hai hàm răng mà cắn sít thì chỉ ra tiếng Rít chứ không thành Rằng được. Còn nếu chỉ là Tơi không thôi (kể cả cái “vắng tơi” tức không có phụ âm đầu ) thì dù có phát âm ra tiếng cũng chưa có nghĩa gì. “Rỡi ra Răng”= Rằng nên mới có ý nghi ngờ là Chăng, ý khẳng định là Rằng và ý phủ định là Chẳng. Rằng nghĩa là nói khẳng định. “Tiếng rằng, em gái nhà giàu, khuyên em cũng phải kiếm mau tấm chồng”. Tại sao lại dùng lượng từ “tấm” cho từ Chồng? Cái này phải hỏi người Việt, vì các ngôn ngữ nước ngoài không dùng lượng từ “tấm” cho từ Chồng. Tấm Dưới=tấm Giát=tấm Vạt=tấm Ván=tấm Phản; tấm Trên=tấm Mền; còn tấm Chồng thì…giải thích thật lại bảo là Lãn Miên giải thích xiên xẹo nên khỏi giải thích.
  2. Dạo kỷ niệm nghìn năm Thăng Long thấy truyền thông đưa câu “Hà Nội-Thăng Long-thành phố Rồng Bay”, có cả biểu ngữ. viết như vậy. Có lẽ người ta hiểu từ Thăng Long theo kiểu dịch Hán tự chữ Thăng Long, nhưng lại dịch sai chữ Thăng là Bay, vì Rồng Bay nói theo Hán ngữ thì là Phi Long 飛 龍 chứ không phải là Thăng Long, Thăng Long 升 龍 hiểu theo Hán ngữ là Rồng Lên. Nhưng mình người Việt thì cứ theo Việt mà hiểu, Thăng Long 升 龍 nghĩa là Lên Rồng, nghĩa bóng là hóa rồng tức lên phát đạt giàu mạnh và văn minh. Đó chính là ước mơ của Lý Công Uẩn khi ông thấy trong giấc mơ là từ thành Đại La có con rồng đang lên. ( Trời=Trên=Lên=Then=Thiên=Thăng=Thượng) . Cũng do hiểu theo kiểu dịch chữ từ ngữ pháp đã bị Hán hóa nên người ta lại giải thích vịnh Hạ Long下 龍 là vịnh “Rồng Xuống” (nếu nói ý Rồng Xuống thì Hán ngữ gọi là Giáng Long). Thực ra theo cách hiểu xưa của người Việt thì Hạ Long nghĩa là “Đẻ nhiều Rồng” vì từ Hạ nghĩa là Đẻ. Khi người Việt nói Đẻ con hay Sinh con là nói cái việc đẻ một lứa con (lứa là do lướt “Lần Đứa”=Lứa, nghĩa là lần thì một lần ấy nhưng có thể ra một đứa hay hai đứa hoặc nhiều đứa cùng lúc), nhưng hỏi “sinh hạ” được mấy con tức là hỏi về “nhiều” nên đã dùng từ đôi Sinh Hạ, mà nguyên nghĩa của từ đôi thì hai từ đồng nghĩa đó ghép với nhau để nhấn mạnh “nhiều” cho cái ý của chúng, từ đứng sau bao giờ cũng mang ý “nhiều” lại cho nhấn mạnh ý của từ đứng trước. Cho nên Hạ có nghĩa là “đẻ nhiều”. Nhưng Hạ=Rạ=Rớt, nên đứa con đầu gọi là con So, còn những đứa con sau đều gọi là con Rạ (Rạ mang ý là đẻ nhiều nữa sau khi máy đã thành công đẻ được đứa con đầu, tự nhiên thì đẻ hết trứng mới thôi hoặc đẻ đến khi máy không đẻ được nữa thì thôi, đó chính là Rạ=Hạ nghĩa là đẻ nhiều, nhiều đây là nhiều lần đẻ, mà dùng cho gà vịt thì người ta hay dùng từ “Rớt trứng” hoặc “Rớt hột”. Ước mơ Lên Rồng cho đất nước của vua Lý cách nay nghìn năm cũng giống như ước mơ lên rồng của chúng ta ngày nay cho bằng vai với “bốn con Rồng mới nổi ở châu Á” là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapo, mà để Lên được Rồng thì nguyên nhân chính lại không phải là tài nguyên tự nhiên mà là con người. Người Việt từ trong ngôn từ đã hiểu điều đó cách nay vạn năm, đó là từ Con Đỏ = Con So là con đầu tiên, tức yếu tố con người là cái cần qúi trọng đầu tiên để có thể làm nên tất cả. Trong lịch sử, xã hội nào “Vùi Con Đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) thì không Lên Rồng được. (Từ “Con Đỏ” là từ cổ xưa, nay ta dùng là từ “Nhân Dân”, là từ đôi nhưng ghép theo kiểu Hán ngữ, nếu ghép theo kiểu Việt thì là Dân Nhân, tương thuận như Con Đỏ, vì Nhân còn mang ý là “đầu tiên” như Đỏ: Đỏ=So=Nhỏ=Nhân là cái Nhân của hạt cây, nó bé tí nhưng là nhân tố đầu tiên để mọc ra cái cây. Mà thành ngữ xưa nói “Trồng người như trồng cây” và “Dụng nhân như dụng mộc”) Tại sao Đỏ=So=Sơ=Thơ lại mang nghĩa là đầu tiên? Vì mỗi đầu tiên của một ngày , người Việt thấy mặt trời từ từ lên (khi đó nhìn nó hoàn toàn màu đỏ), đó là quá trình Blơi = Ló = Đỏ = Tỏ = Rõ = Rực = Nực = Nhức = Nhật = Nhoáng = Choang = Chang-Chang = Sáng = Náng = Nắng = Nướng = Dương ( vùng Bắc Trung Bộ phát âm từ Nướng là “Náng”), đó là ánh dương sáng choang. [ Ngắn gọn thì so sánh hai nôi khái niệm đối nhau: Nước=Nậm=Âm // Dương=Nướng=Nắng là do cặp đối Nước/Nắng như là Đất/Trời để thấy rằng thuyết Âm/Dương là bản quyền của người Việt; và các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Kinh (dùng từ Nước) với các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái (dùng từ Nậm) là con cùng một mẹ Âu Cơ, vốn là cùng chung một Nước Văn Lang xưa “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn” như sử thư ghi]. Quá trình để có được Ánh Dương Sáng Choang cũng giống như quá trình của Lên Rồng. Yếu tố con người là yếu tố quyết định cho Lên Rồng thì con người đó phải là con người hướng thiện như Đạo dạy (từ Đạo 道 là do lướt “Đầu Gạo” = Đạo là cái đầu nhân gạo của hạt cây để mọc lên mầm mà thành cây, nho viết chữ Đạo 道bằng ghép chữ Đi 辶với chữ Đầu 首, cũng nghĩa như lướt “Đi 辶 Đầu 首” = Đạo 道). Người Việt cổ đại quan niệm con người được sinh ra từ một giọt máu đầu tiên (“Một hòn máu Đỏ nên người”) và một cái Đỏ ấy có thể thành tốt có thể thành xấu tùy theo suy nghĩ, luôn nghĩ tốt tức luôn hướng thiện sẽ thành người tốt, nên người mẹ khi còn mang “hòn máu Đỏ” trong bầu đã luôn nghĩ con mình sẽ khỏe mạnh, thông minh, giỏi giang, để suy nghĩ ấy gieo vào tiềm thức đứa con từ khi còn là bào thai (đó là ý tứ của câu thành ngữ Việt “Dạy con từ thủa còn thơ”). Gieo gì gặt nấy, tức cho gì được nấy, cho thời gian thì được thời gian, cho tiền thì được tiền, cho cái trấn áp suy nghĩ sang người khác thì cũng được Vũ Trụ cho lại chính mình cái trấn ấp suy nghĩ tức là mình sẽ chẳng nghĩ ra được gì là sáng tạo tự do của mình cả, chỉ loay hoay múa gậy trong bị mà thôi (ngẫm câu “Không có gì quí hơn độc lập, tự do” của Bác Hồ, là khuyên mỗi con người phải độc lập tự do trong suy nghĩ của mình để luôn hướng thiện, gieo vào tâm thức mình cái tốt để thành năng lượng của thành công). Do mỗi cá thể đều có thể thành tốt hoặc xấu nên những cặp từ đối nguyên thủy cổ xưa đều là đồng âm, chỉ có chữ nho phải vẽ biểu ý khác nhau để phân biệt chúng mà thôi. Ví dụ một từ “Đỏ” nghĩa là “người”, hay là cái đầu tiên tạo nên tính nết con người, sẽ theo QT Nở mà cho ra cặp từ đối Đạo/Đạo (tương đương cặp Xấu/Tốt dùng về sau) trong đó xấu là Đạo 盜( của “đạo tặc”, chữ Đạo 盜 này nghĩa là ăn cắp; tham nhũng là chỉ ý ăn cắp của công, từ một xu đến trăm ngàn tỷ, như nhau); và tốt là Đạo 道 (của “đạo đức”, chữ Đạo 道 này nghĩa là đi đầu). Hoặc từ Lửa theo QT Nở mà sinh ra cặp từ đối Liệt/Liệt (tương đương cặp Yếu/Mạnh dùng về sau), trong đó yếu là Liệt 劣 (của “bại liệt”, “thân bại danh liệt”, chữ Liệt 劣 này nghĩa là yếu, viết biểu ý bằng ghép chữ Thiếu 少 và chữ Sức 力. Chữ Liệt 劣 này sinh ra từ dính Leo-Lét chỉ ngọn lửa yếu); và mạnh là Liệt (của “oanh liệt”, chữ Liệt 烈 này nghĩa là Mạnh, viết bằng ghép âm “liệt 列” mượn của từ dính La-Liệt nghĩa là nhiều, to (do từ Lớn theo QT Nở mà nở ra từ dính La-Liệt) với chữ Hỏa 灬 nghĩa là Lửa. Chữ Liệt 烈 mang biểu ý “lửa lớn” này sinh ra từ dính Lẫy-Lừng, chỉ ngọn lửa mạnh đang cháy lan rộng ra). Các từ ghép bằng chữ nho như Bại Liệt 敗 劣, Oanh Liệt 轟 烈 mà người ta gọi là “từ Hán Việt” , truy ra nguyên gốc đều là từ Việt cổ. Quay lại Thăng Long là ước mơ Lên Rồng, để lên được thành rồng thì yếu tố chính để tạo nên thành công là con người hướng thiện. Không có cái đó thì sẽ tụt hậu tức đang Rồng xuống Rắn, đang Rắn xuống Dẫn 蚓 (Hán ngữ dùng chỉ con giun), đang Dẫn 蚓 xuống Dĩn (loài ký sinh cắn hút máu động vật), đang Dĩn xuống Giun, đang Giun xuống Trùn, đang Trùn xuống Trùng 蟲 , đang Trùng xuống Sùng (đục khoét củ khoai lang), đang Sùng xuống Sâu (như chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói: “Vài con sâu rồi thành cả bầy sâu thì đến chết cái đất nước này”) Cổ xưa hàng vạn năm trước, người Việt là dân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, nên họ quan niệm một cái cây cũng như một con người, cũng có hồn, cũng có mọi nhu cầu, cũng cần được chăm sóc. Quá trình từ hạt nẩy thành cây là từ cái gạo của hạt nảy ra cái mầm đâm đất mà lên, từ mềm thành cứng, đó là quá trình sinh ra mầm và lên thành cây như sau: Gạo=Đạo=Đủ=Vũ=Võ=Nhỏ=Nhã=Nhú=Mu=Mầm=Mềm=Chêm=Chạc=Chắc=Châm=Đâm=Đứng=Chững=Cứng=Cứng-Cáp=Cường , đến Cường thì rõ ràng là đã trưởng thành Chững Chạc rồi. (Đó là nếu biết chọn giống lấy hạt Chắc. Nếu chọn nhầm phải hạt Lép thì sẽ có hậu quả xấu: Lép=Lỗi=Tội=Ôi=Yếu=Ỏi=Còi=Còi-Cọc. Cặp từ đôi đối Còi Cọc // Cứng Cáp). Những từ như Nho Nhã, Nhã Ngữ (Nhã Ngữ mà Khổng Tử từng nói là của nền văn minh hơn hẳn của phương nam để phương bắc học tập) đều ra từ cái nôi này, đặc trưng cho tính mềm mại của dân nông nghiệp trồng trọt, không phải la hét dữ dội khi dồn đuổi mục súc trên đồng cỏ chăn thả, nên giọng nói Việt được các học giả TQ nhận xét là chất giọng “nhu hòa” tức mềm mại như lời ca mượt mà, không có phụ âm nào phát ra bật mạnh.Từ Mu trong nôi này cũng mang nghĩa “đầu tiên” vì là sự đang phồng lên của cái mầm, nên có thuyết “Lục địa Mu”. Nôi này cũng cho thấy trẻ con cũng giống như cái mầm cây, nó đã tự biết luyện võ và vũ từ khi còn là bào thai. Nôi này cũng cho thấy tại sao người Nhật và người Hàn lại dùng từ Đạo thay vì dùng từ Võ, vì những từ đó là cùng nôi khái niệm “để cho sự lớn lên”. Tê Won Đô tiếng Nhật viết bằng ba Hán tự là Thủ Không Đạo 手 空 道 tức võ tay không, nhưng Tê Won nghĩa là Tay Vắng (tiếng Nhật đọc chữ Thủ 手 là “Tê” theo âm Nhật nghĩa là “Tay”), chữ Vắng là do đọc lướt từ đôi “Vô chăng” = Vắng (thanh điệu đúng qui tắc toán nhị phân là 0+0=1). Tay Vắng Đạo là Võ Tay Không. Dùng chữ Won = =Vắng = Vô Chăng , Vô Chăng là từ đôi, để nói ý phân bua rằng cả hai tay đều không cầm vũ khí gì. Ai Ki Đô thì người Nhật viết bằng ba Hán tự là Hợp Khí Đạo 合 氣 道. Còn Ka Ra Tê Đô thì Hán ngữ dịch là Nhu Đạo Thuật , nhưng Ka Ra = Nhã= =Nhu; Tê=Tay (tiếng Nhật); Đạo = Đô = Đọ = Võ = Vũ; đều từ gốc Việt hết, tiếng Việt có từ ghép Đô Vật, còn từ “Đọ” nghĩa là “so hơn”. Núi Đọ ở Thanh Hóa, giữa đồng bằng ven biển, cái tên gọi của nó đã cho nó cái nghĩa là so hơn tất cả về cái cao của nó, ở giữa đồng bằng bên bờ biển, nó To và Thò lên trời, lên đó tha hồ mà ngắm mặt trời mọc: Đọ=To=Thò=Thái=Chái=Cháy. Khảo cổ học đã chứng minh là nền văn minh lúa nước sớm nhất là từ văn hóa Hòa Bình vạn năm trước. Việt tộc đã men theo bờ biển lên phía bắc vào các cửa sông (hạ du) như Dương Tử, Hoàng Hà, ngược sông về phía tây ( đến trung du như “tây giáp Ba Thục”) khai thác các đồng bằng ven sông để trồng lúa, phía bắc ven biển đến tận Sơn Đông TQ ngày nay, tại Sơn Đông thì núi Đọ khác mới hơn đã được gọi là núi Thái (Thái Sơn), là ngọn núi cao ven biển để lên đó ngắm mặt trời đang mọc tức đang Cháy Đỏ. Chữ Việt 粤 theo Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi giải thích nó gồm chữ Thái 采 nghĩa là “nắng cháy” lồng trong chữ Vuông 口 nghĩa là “mảnh ruộng” (Hồng=Rộng=Ruộng=Vuông=Văn, tiếng Quảng Châu đọc chữ Văn là “mảnh”, còn tiếng Triều Châu đọc chữ Văn là “vuông”, từ đồng nghĩa: văn bằng = mảnh bằng; Văn Lang nghĩa là Rộng Lớn, Hồng Bàng cũng nghĩa là Rộng Lớn, vì Lớn=Lãnh=Lang=Bàng ). Phía dưới chữ Thái trong Vuông là hình cong của cái cày, thành chữ Việt 粤 . Cái âm “thái” của chữ Thái 采, nghĩa là cháy, là ánh nắng, về sau được ghi lại bằng chữ Thái 太 chỉ Thái Dương 太 阳 nghĩa là mặt trời, nhưng cái âm “Thái Dương” nguyên gốc nó là “Cháy Nắng” vì Cháy=Chái=Thái, Nắng=Nướng=Dương. Chữ Thái Sơn cũng có nguyên gốc là Cháy Son, vì Pnom=Non=Hòn=Son=Sơn=San, mà Cháy Son còn có nghĩa là Cháy Đỏ, như nhìn thấy mặt trời khi nhú lên. Câu ca dao Việt “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra” cũng nói lên được Việt tộc đã từng ở những đâu: Cha=Ta=Tía; Sông Nguồn tức Nguyên Giang 沅 江, hạ du của nó cùng với trung hạ du Phong Giang vùng Động Đình Hồ ở Hồ Nam TQ thuộc thủy hệ trung du Trường Giang. [ Ở Việt Nam không có dòng sông nào tên là sông Nguồn, nên chữ Sông Nguồn cổ xưa từ Hồ Nam về sau đã bị nói sai thành “trong nguồn”, tương tự về âm nhưng cũng thấy là sai mẹo, thường người ta nói là “trên nguồn” khi chỉ đầu dòng của con sông. Phục nguyên chữ Sông Nguồn trong câu ca dao trên là của GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN viết trong cuốn “Việt Nam cội nguồn Bách Việt” của ông, sách xuất bản năm 1986, nay tìm các hiệu sách không còn thấy bán và cũng chưa từng thấy được tái bản. Phục nguyên chữ Thái Sơn là Cháy Son thì câu ca dao trên viết lại là “Công cha như núi Cháy Son, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra”. Núi Cháy Son có nghĩa là Núi Đỏ = Núi Đọ, nó cao hơn tất cả (Đọ) nơi đồng bằng ven biển, nó là Đỏ tức là đầu tiên, là vị trí đầu tiên khi người Việt cập thuyền từ biển vào bờ, vì cao và sát biển nên nó là vị trí cho người đầu tiên nhìn thấy mặt trời mọc khi đứng trên đỉnh núi. Phục nguyên bài “Việt nhân ca” , có từ thời nước Sở, của Đỗ Thành còn cho thấy 2800 năm trước ở Triết Giang dân cư nói như nguời Kinh ở Việt Nam ngày nay nói. Còn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận viết cách nay 2000 năm ( nay có sẵn trên mạng internet : 《在线说文解字查询 tại tuyến Thuyết Văn Giải Tự tra tầm》) thì cứ phát âm như tiếng Việt mà “lướt” thì trúng, còn phát âm như Hán ngữ hiện đại mà “thiết” thì trật ] . Tóm lại, nếu muốn “giải tự” cách quê mùa, tức rất Việt, theo kiểu Lãn Miên, thì không cần phải mất công sao lục “tầm chương trích cú” từ các cổ thư của Tàu. Chỉ cần công nhận QT Tơi-Rỡi trong tạo từ Việt (hay là để biểu đạt sự diễn biến của từ Việt mà Lãn Miên phịa ra) là đúng, thì trong bài này quay lại chữ Nhiều ở đầu bài, mà Việt nho viết bằng chữ Nhiêu饒, sẽ giải thích được tại sao chữ Văn 文 thì người Quảng Châu (của đất Văn Lang xưa) lại đọc là “Mảnh”, còn người Triều Châu (của đất Văn Lang xưa, ở bắc Quảng Đông giáp Phúc Kiến) lại đọc là “Vuông”: Vuông /Tròn là hình ảnh của cặp “tượng đài” Bánh Chưng dưới, Bánh Dầy trên (như cặp tượng đài bằng đá Yoni dưới, Linhga trên ở thánh địa Mỹ Sơn), tượng trưng cho Đất/Trời theo cấu trúc Âm/Dương. Vuông mà Vuông Lắm tức Vuông Nhiều, viết là Vuông Nhặn, vì thay tơi “Nh” của Nhặn cho cùng với tơi “V” của Vuông để được từ dính Vuông-Vắn để nhấn mạnh cho ý Vuông là Vuông Lắm, rồi nhấn mạnh nữa bằng từ láy thì Vuông-Vắn = Vuông Vằn-Vặn = Vuông Vành-Vạnh, có nôi khái niệm: Vuông=Văn=Vắn= Vằn-Vặn = Vành-Vạnh = Mảnh ( Mảnh là cách đọc chữ Văn 文 của tiếng Quảng Châu). Trời=Tròn, nhưng Tròn Lắm = Tròn Nhiều = Tròn Nhặn, rồi thay tơi “Nh” của nhặn cho cùng tơi “Tr” của Tròn thì được từ dính Tròn -Trặn nhấn ý cho Tròn. Người Kinh Đô nói giọng chải chuốt nhẹ nhàng hơn nên thường làm mềm các âm cứng, bởi vậy họ phát âm Trăng là Giăng, Trời là Giời, Tròn là Chòn, nên Tròn Trặn phát âm là Chòn Chặn, rồi nhấn ý bằng từ láy là Chòn Chằn-Chặn. Mặt trời, mặt trăng và trái đất đều là Tròn cả, tức luôn Còn mãi mãi ( Tròn=Còn). Nhưng trái đất khi được đại diện bằng chữ Vuông 口, tức là khi loài người đã biết làm Ruộng (Ruộng=Vuông), tức đã bắt đầu khai thác bề mặt trái đất vì nhu cầu của con người. Vuông ám chỉ trái đất chỉ là ám chỉ “trái đất đã có sự khai thác của con người”. Càng ngày sự khai thác trái đất càng quá đi thì trái đất có thể đến lúc sẽ bị hủy diệt tức Mất, khi đó “Vuông Mất” = Vất. Do cặp đối Vuông/ Tròn bao giờ cũng cặp kè với nhau nên người ta nhấn cái ý “cặp kè” (theo lý Âm Dương là “ta với mình tuy hai mà một”) bằng cách nói lồng ngược là “Vuông chằn - chặn, Tròn vành - vạnh”. Cũng do giọng nói cố chải chuốt cho mềm mại của người Kinh Đô nên ở đất Kinh Bắc, quê hương giọng hát quan họ mượt mà, mới có câu ca quan họ chơi chữ tuyệt đẹp là “Giời bao nhiêu tuổi giời già, Giăng bao nhiêu tuổi gọi là giăng non”. Trời và Trăng thì đều là già như nhau vì bao giờ cũng Còn như Càn, nhưng Trời thì ngày nào cũng thấy tròn, nên gọi là Giời Già, còn trăng trong tháng thì khi tròn khi khuyết , trăng khuyết gọi là trăng non, từ Giăng Già đã được nho viết thành từ văn học đẹp đẽ là Hằng Nga 姮 娥, (Giăng Già = Hằng Nga), Nga 娥 là ví trăng như người con gái đẹp, Hằng 恒là liên tục mãi mãi ( do lướt câu cổ “Hồn gửi cung Trăng” = Hằng, nên chữ Hằng 恒 có bộ Tâm 忄 chỉ tâm hồn, hồn là cái người xưa quan niệm nó còn mãi mãi cả sau khi xác đã không còn, để hợp với từ Hằng Nga 姮 娥 chỉ Giăng Già thì nhà nho đã đổi cái tơi là bộ Tâm 忄 thành cái tơi là bộ Nữ 女 cho chữ Hằng 姮 của Hằng Nga 姮 娥, người Việt vẫn gọi cách thi vị Trăng là chị Hằng Nga, thường gọi tắt là chị Hằng. Giăng Già = Hằng Nga 姮 娥 là chữ nho Việt. Hán ngữ gọi Trăng là Nguyệt 月(phát âm là “yue”) và gọi thi vị là nàng Nguyệt Nga 月 娥. Chữ Hằng Nga 姮 娥 là chỉ lúc trăng tròn sáng tỏ, đẹp rạng rỡ như khuôn mặt người con gái dậy thì (còn gọi là tuổi trăng rằm), là lúc trăng “Rõ Lắm” = Rằm (đúng QT Thanh điệu theo toán nhị phân là 0+1=1), ngày lúc ấy gọi là ngày Trăng Rằm hay gọi tắt là ngày Rằm.
  3. Tết Đoan Ngọ và Bách Việt tộc http://su.people.com.cn/GB/channel109/200706/19/1537.html Tết Đoan Ngọ nguyên do là ngày Tế totem của dân tộc Bách Việt. Số lượng lớn văn vật khai quật được thời cận đại cùng với nghiên cứu khảo cổ đã chứng thực: Khu vực rộng lớn ở trung du và hạ du sông Trường Giang, vào thời đại đồ đá mới, có di tồn văn hóa đặc trưng là đồ gốm có in hoa văn kỷ hà học, di tồn văn hóa này thuộc về dân tộc có totem Rồng, sùng bái Rồng- sử gọi là tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt là tên chung chỉ các tộc liên quan đến người Việt cổ đại sống ở vùng mà ngày nay là miền nam Trung Quốc, sử thư ghi là “Bách Việt百粤”, “Việt 粤”, “Việt Tộc 越 族”. Trang trí trên các đồ gốm khai quật và truyền thuyết lịch sử đã làm sáng tỏ rằng họ sống ở làng ven sông, có tập tục cắt tóc ngắn, xăm mình, tự cho là con cháu của Rồng, cho rằng cắt tóc ngắn để dễ làm ăn dưới nước, và xăm mình hình con giao long để không bị các động vật dưới nước làm hại. Đến thời Tần Hán vẫn còn người Bách Việt, tết Đoan Ngọ chính là do họ sáng lập dùng ở ngày tế Tổ. Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm, đại bộ phận người Bách Việt đã hòa nhập vào trong khối Hán tộc, vì vậy Tết Đoan Ngọ đã trở thành ngày Tết của toàn dân tộc Trung Hoa. Trong lịch sử Trung Quốc, toàn bộ vùng đất Giang Nam rộng lớn, tức vùng từng được gọi “từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm”, trước thời Tần Hán đều là nơi cư trú của Bách Việt tộc, họ dùng là cổ Việt ngữ, khác rất xa cổ Hán ngữ của người phương bắc Trung Quốc dùng, hai bên không thể hiểu được nhau. Theo các nhà ngôn ngữ học, cái gọi là 7 phương ngôn lớn ở Trung Quốc hiện nay thì phương ngôn phương bắc (quan bắc thoại) có thể coi là kết quả phát triển hàng ngàn năm từ cổ Hán ngữ, còn lại 6 phương ngôn kia là hình thành do hàng ngàn năm ảnh hưởng lẫn nhau giữa ngôn ngữ phương nam và ngôn ngữ phương bắc do người phương bắc di cư xuống phía nam. Nhất là Ngô ngữ (Thượng Hải-Triết Giang), Mân ngữ (Phúc Kiến) và Việt ngữ (Lưỡng Quảng) càng có quan hệ mật thiết với cổ Việt ngữ của dân tộc Bách Việt. Bách Việt thời Xuân Thu gọi là Ư Việt, lúc đầu trung tâm của Ư Việt là Cối Kê, đến Câu Tiễn kiến lập Việt Quốc. Cuối thời Xuân Thu, nước Ngô và nước Việt thường đánh chiếm lẫn nhau, năm 492 BC Việt Quốc bị vua Ngô là Phù Sai đánh bại, 19 năm sau vua Việt Quốc là Câu Tiễn lại đánh bại Phù Sai, tiêu diệt nước Ngô, xưng là Bá Chủ. Câu Tiễn trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu. Các dân tộc thiểu số sống ở miền nam Trung Quốc ngày nay, dù ngôn ngữ và phong tục có khác nhau, nhưng đều có quan hệ nhất định với dân tộc Bách Việt cổ đại. Ngoài ra nhiều học giả còn cho rằng nhiều dân tộc ở lục địa ĐNÁ như người Thái ở Thái Lan, người Đán ở Miến Điện, người Kinh và người Mường ở Việt Nam, thậm chí các dân tộc Nam Đảo là thổ dân ở Đài Loan đều có quan hệ mật thiết nhất định với Bách Việt tộc. [Nghiên cứu của Đài Loan cho rằng 6000 năm trước, người Việt cổ, khi chưa tiếp xúc với người Hán, đã từ Phúc Kiến đi ra đảo Đài Loan, thành thổ dân Đài Loan, còn người Mân ngữ chỉ là về sau ra Đài Loan vào thời Minh]. Đến thời Tam Quốc thì Bách Việt tộc mới dần dần biến mất.
  4. Bài báo đăng trên Hoàn Cầu thời báo ngày 23-11, tiêu đề: Hộ chiếu mới của Trung Quốc vẽ chủ quyền Nam Hải, Philipin và Việt Nam kháng nghị “chủ quyền” bị xâm phạm. (中国新护照划南海主权 菲越抗议“主权”遭侵犯 2012-11-23 01:17 环球时报 3133 字号:TT ) Hoàn Cầu Thời Báo tổng hợp ngày 23-11 2012 đưa tin, hộ chiếu điện tử mới của TQ có một trang in bản đồ TQ đã làm Philippin và Việt Nam phản đối. Thời báo Tài chính của Anh nói, bản đồ này vẽ ra phạm vi chủ quyền của TQ ở Nam Hải (Biển Đông), là hành động TQ cho đến nay muốn nhấn mạnh chủ quyền của mình ở Biển Đông, “ Khi tiếp công dân TQ nhập cảnh, các nước này phải đóng dấu vào hộ chiếu tức coi như là ngầm thừa nhận chủ trương lãnh thổ của chính phủ TQ”. Theo báo tiết lộ, hai nước Philipin và Việt Nam ngày 22 đã đều tỏ thái độ phản đối, gọi hành vi đó là “xâm phạm chủ quyền”. Bài báo cũng dẫn thuật trả lời của Bộ ngoại giao TQ nói rằng, hộ chiếu mới của TQ phù hợp luật pháp quốc tế, bản đồ trên hộ chiếu không nhằm vào một quốc gia đặc định nào, TQ sẵn sàng tích cực tiến hành đối thoại với các quốc gia liên quan, thúc đẩy giao lưu nhân viên giữa TQ và các nước đó. “Hộ chiếu: phương thức mới của TQ để tuyên bố chủ quyền” , đó là đầu đề bài báo trên ra ngày 22, bài báo nói, Bắc Kinh in bản đồ trên hộ chiếu mới thể hiện đòi hỏi lãnh thổ của họ ở Nam Hải, đem lãnh thổ trong “đường chín đoạn” vẽ thành lãnh thổ của TQ, điều này đã kích nộ các nước láng giềng. Theo báo mạng GMA của Philipin, ngoại trưởng Philippin ngày 22 đã tuyên bố, hành động này của TQ “không thể chấp nhận”, “xâm phạm chủ quyền của Philipin”, Philipin chính thức nêu kháng nghị đối với TQ. Bài báo đưa ra bình luận nói, đây là “hành động trắng trợn nhất” hiện nay của Bắc Kinh. Khi được hỏi liệu có yêu cầu TQ thu hồi lại loại hộ chiếu này không, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Philipin nói: “Chúng tôi hy vọng nó phải được nhanh chóng thu hồi lại”. “Ông ấy còn nói, Philipin không thể nào nhẫn mà nhìn hành động này của TQ, cho phép TQ tiếp tục phát hành hộ chiếu mới này có nghĩa là phục tùng đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh. Ông ấy nói, công dân TQ sẽ sử dụng loại hộ chiếu này, nếu trên hộ chiếu có bản đồ vi phạm bộ phận chủ quyền của nước tôi, chúng tôi cho phép họ nhập cảnh, thì có nghĩa là ngầm cho phép đòi hỏi chủ quyền của TQ đối với Biển Đông. Hiến pháp nước tôi qui định phải kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quốc dân chúng tôi cũng yêu cầu chúng tôi phải làm như vậy”. Bài báo nói, Việt Nam cũng phản đối Bắc Kinh về vấn đề hộ chiếu mới này của TQ. Đại sứ quán VN tại TQ nói: “ Phía Việt Nam đã chú ý đến vấn đề này, hai bên đang triển khai thương thảo vấn đề này, nhưng đến nay thảo luận vẫn chưa đạt được kết quả. Báo nói, phát ngôn viên Bộ ngoại giao VN Lương Thanh Nghị ngày 22 trong cuộc họp báo đã yêu cầu TQ “Sửa đổi ngay sai lầm này”. Báo còn dẫn thuật lời của ông Nguyễn Quang A cố vấn trước đây của chính phủ, nói: “Tôi cho rằng đây là một chiêu thâm độc của Bắc Kinh. Khi người TQ đến Việt Nam, chúng tôi không thể không tiếp nhận hộ chiếu mới, và đóng dấu trên cái hộ chiếu đó”. Từ 15 tháng 5 năm 2012 Công An TQ đã thống nhất bắt đầu phát hộ chiếu phổ thông kiểu hộ chiếu điện tử , phù hợp xu thế phát triển điện tử hóa trên toàn cầu. Hộ chiếu điện tử có tấm lõi điện tử có ảnh và tư liệu cá nhân kèm thêm vào trong hộ chiểu phổ thông truyền thống. Báo “Điện tấn mỗi ngày” của Anh ngày 22 nói, khi làm thủ tục cho thương nhân TQ, ánh mắt sắc như kim của nhân viên Hải quan Việt Nam đã phát hiện ra vấn đề bản đồ. Để phản ứng, cục xuất nhập cảnh Việt Nam đã cự tuyệt đóng dấu vào trang hộ chiếu, mà phát cho một tờ chứng nhận nhập cảnh rời riêng”. Thời báo tài chính Anh dẫn thuật lời một quan chức TQ không nêu tên cụ thể, nói rằng Bộ Công An TQ chịu trách nhiệm thiết kế và phát hành hộ chiếu mới. Ngoài tranh chấp bản đồ ra, trong hộ chiếu mới còn có cả sơ đồ một số danh thắng của TQ, bao gồm phong cảnh hai khu du lịch của Đài Loan. Bài báo còn dẫn lời một cán bộ ngoại giao cao cấp Bắc Kinh nói: “Điều này có nghĩa là sự nghiêm trọng của thế cuộc đã thăng cấp. Trung Quốc đang phát hành vô số các hộ chiếu mới, mà hộ chiếu cho người thành niên có niên hạn 10 năm. Nếu phía Bắc Kinh sau này thay đổi lập trường thì tất phải thu hồi tất cả các loại hộ chiếu mới”. Báo “Pháp tân xã” ngày 22 đăng bài tiêu đề “Bản đồ trong hộ chiếu điện tử của TQ vẽ ra một số đảo và bãi ngầm, đã ẩn tàng một số cái riêng”, bài báo nói, đảo Điếu Ngư đang tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản không hiển hiện trên bản đồ trong hộ chiếu. Nhưng “Thời báo tài chính” lại nói, chính phủ Nhật Bản cũng rất quan tâm đến hộ chiếu mới của TQ. Nhưng vì kích cỡ bản đồ trong hộ chiếu rất nhỏ, đảo Điếu Ngư chưa hiển hiện ra, phía Tokyo cũng chưa nêu vấn đề này với phía Bắc Kinh. Ngoài ra chính phủ khu vực Đài Loan cũng nói chú ý đến vấn đề hộ chiếu mới, nhưng chưa có kháng nghị chính thức với Bắc Kinh. Bái báo nói có quan chức của “Lục ủy hội “ của Đài Loan nói rằng: “ Phía đại lục phải nên đối diện với hiện thực tồn tại Trung Hoa Dân Quốc. Chúng ta nên gác tranh chấp, cùng nỗ lực vì biển đảo Đài Loan hòa bình và phát triển ổn định”. Báo “Điện tấn mỗi ngày” nói, theo lượng xin cấp hộ chiếu mỗi tháng, TQ đã in gần 6 triệu hộ chiếu điện tử, nhiều người TQ oán thán rằng hộ chiếu điện tử mới đã ảnh hưởng đến việc xuất hành của họ, khi nhập cảnh Việt Nam bị thông báo là “chứng nhận vô hiệu”. Một nhân viên làm thuê cho công ty du lịch TQ đã công tác ở VN nhiều năm nói, điều này chỉ tạo cơ hội tốt cho nhân viên xuất nhập cảnh VN có “thu nhập kinh tế”, họ đòi người giữ hộ chiếu phải nạp 30 nhân dân tệ để được đổi lấy “chứng nhận hợp cách”. Ký giả đặc phái tại Thái Lan của Hoàn Cầu thời báo Ký Bội Quyên , ký giả đặc phái của Hoàn Cầu thời báoVương Hiểu Hùng  【环球时报驻泰国特派记者 暨佩娟 环球时报特派记者 王晓雄】
  5. Ví dụ về mượn chữ nho để ký âm từ lướt Hán ngữ hiện đại gọi cái nền thùng xe là cái Xa Để Bản 車 底 板 (do người Hán đã mượn các chữ nho của tiếng Việt và ghép theo cú pháp Hán. Còn nếu đọc ba chữ nho đó từ phải sang trái sẽ thấy cú pháp Việt, thì là: Ván Đáy Xe), chứ không gọi là cái Dư 輿, như trong từ điển Hán Việt có chữ Dư 輿, giải thích nghĩa là “sàn xe để chở đồ”. QT Lướt để lướt hai tiếng hay cả câu dài thành một từ, từ cổ xưa đã được nhà nho dùng để tạo ra từ đơn âm tiết nhằm tiết kiệm cho việc viết, chỉ phải viết bằng một chữ. Những chữ “đặt ra” kiểu này của nhà nho không có trong khẩu ngữ Hán ngữ, chỉ có trong từ ghép do đã được dùng từ xưa trong “cổ Hán ngữ” (tức ngôn từ phát âm theo Việt mà cú pháp đã bị đổi ngược theo Hán), nếu tách khỏi từ ghép, chỉ phát âm đơn lập riêng nó thì người Hán sẽ không hiểu (phải hỏi là nó có ở từ ghép nào? Vì có nhiều chữ đồng âm dị nghĩa với nó). Ví dụ phát âm riêng “Dư” thì người ta phải hỏi là “Dư輿” của từ ghép “Dư Luận” hay là “Dư 餘” của từ ghép “Thừa Dư” (là hai chữ “dư” viết biểu ý khác nhau) mới xác định được là chữ “Dư” nào mà họ đã từng học. Cái âm tiết Dư vốn để chỉ cái nền đất, vì khi làm nhà thì người ta phải dùng đất đắp cho cao hơn mặt đất vốn có, gọi là “tôn nền”, cái nền ấy thành một chỗ đất “dư” nhân tạo, âm “dư” này viết bằng chữ “Dư 餘” thừa, vì nó rõ ràng nó “thừa 剩” hơn so với mặt đất xung quanh nó, tức nó Bự hơn (Dư=Bự=Bụ=Nhú=Nhô), cái nền đất gọi là Dư ấy nó Nhô cao hơn mặt đất xung quanh nó. Mặt khác Bự=Bạt nên chữ nho Bạt 拔 có nghĩa là “nâng cho cao hơn”, Hán ngữ dùng từ ghép Đề Bạt 提 拔 có nghĩa là “Nâng Cấp” trong việc phong quan chức. Tiếng Việt còn gọi cái chức “quan cao hơn” là “quan bự” (đến đứa con nít còn biết dùng từ “quan bự”). Hán ngữ còn dùng từ ghép (rất khoa học về mặt ngôn từ) là từ ghép Hải Bạt 海 拔 để chỉ chỗ “nhô cao hơn so với mặt nước biển”, ví dụ nói “Vị trí có Hải Bạt 400 mét” tức là “Vị trí có bình độ nhô cao hơn so với mặt nước biển 400 mét”. Người Việt đã quên mất từ Dư cổ xưa của chính mình, chỉ cái nền đất đắp, và cái QT Tơi-Rỡi là sự diễn biến âm của nó, đó là Dư=Bự=Bụ=Nhú=Nhô, nên ngày xưa dùng từ Hải Bạt của Hán ngữ để chỉ khái niệm “nhô cao hơn so với mặt nước biển”. Thời hiện đại thấy dùng vậy thì “bị Hán hóa quá”, không “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nên lại phải dùng khái niệm “nhô cao hơn so với mặt nước biển” và đến bây giờ vẫn dùng như vậy. Ví dụ câu “Vị trí đó có bình độ nhô cao hơn so với mặt nước biển 400 mét”. Nhưng “nhô cao hơn so với mặt nước biển” là một câu chứ không phải là một từ, như từ ghép Hải Bạt của Hán ngữ dùng. Nếu công nhận rằng trong Tiếng Việt vốn có QT Lướt cả câu để tạo thành một từ mới ( như Hứa Thận 許 慎 đã vận dụng , ông gọi Lướt là “Thiết 切” vì Lướt = Lướt-Thướt = Thiết, cách nay 2000 năm, khi ông viết ra cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn “Thuyết Văn Giải Tự 說 文 解 字”) thì câu “Nhô cao hơn so với mặt nước biển” sẽ được lướt thành “Nhô cao hơn so với mặt nước Biển” = “Nhô… Biển” = Nhiển. Từ Nhiển là một từ mới, cái âm “nhiển” là có sẵn trong Tiếng Việt nhưng chưa được dùng, thì nay lấy ra dùng, phong phú thêm một từ mới mà thực ra là nó vốn ẩn sẵn bên trong cũ). Từ điển sẽ giải thích từ Nhiển: là từ do lướt cả câu “Nhô cao hơn so với mặt nước Biển”, câu này theo QT Lướt thì cái Tơi của từ đầu câu - từ Nhô là “Nh” đã lướt đến chắp với cái Rỡi của từ cuối câu – từ Biển là “iển” để thành từ Nhiển, nghĩa của nó là “nhô cao hơn so với mặt nước biển”, mà về thanh điệu thì vẫn đúng luật ( Thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1): Nhô + Biển = Nhiển = 0 + 1= 1. ( Dùng từ Nhiển chỉ là ý của Lãn Miên nêu, còn làm hay không là do các nhà ngôn ngữ học quyền uy quyết định). Nhưng khi đã có từ Nhiển (tương đương từ Hải Bạt 海 拔 trong Hán ngữ dùng) thì câu “Vị trí đó có bình độ Nhô cao hơn so với mặt nước Biển 400 mét” sẽ được thay bằng câu “Vị trí đó có bình độ Nhiển 400 mét”. Trong câu này vì có từ mới là “Nhiển” thay cho cả câu “Nhô cao hơn so với mặt nước Biển” nên đã tiết kiệm được động tác gõ phím là chỉ có 7 gõ cho từ Nhiển thay cho 28 gõ cho cả câu, tiết kiệm thời gian được 4 lần. [ Trường hợp lướt cả câu để thành từ Nhiển cũng giống như trường hợp của câu “Dài mãi ra đến Biển” các cụ nhà nho ám chỉ “mạch nước ngầm” vì mạch nước ngầm thì cuối cùng nó cũng “Dài mãi ra đến Biển”, các cụ đã lướt “Dài mãi ra đến Biển”= “Dài…Biển” = Diễn 衍, đúng QT Thanh điệu: Dài+Biển=Diễn = 1+1=0 ( đúng như toán học nhị phân) và chỉ viết bằng một chữ Diễn 衍 gồm bộ Hành 行 là Đi có kẹp bộ Thủy 氵ở giữa, biểu ý là “nước nó đi”, nước đi thì cuối cùng cũng ra đến biển, chữ Diễn 衍 chẳng có tá âm “iên” nào mà lại đọc là Diễn, vậy nó chính là do lướt “Dài mãi ra đến Biển” = "Dài...Biển" = Diễn 衍. Chữ Diễn 衍 này còn mang nghĩa là “lấn biển”, trong khi một chữ Diễn khác thì không mang ý đó. Đó là cái địa danh Diễn Châu 衍 州. Về sau người ta viết chỉ chú cái âm “Diễn” nên cũng có văn bản viết Diễn Châu 演 州 bằng chữ Diễn 演 là biểu diễn, sai hết cả biểu ý “lấn biển” của một vùng đất từng một thời “Dài mãi ra đến Biển", nên trong vùng đồng bằng của nó nhiều nơi cách bờ biển ngày nay mấy chục cây số vẫn là “đất sò”, cứ đào lên là thấy từng lớp từng lớp dày vỏ nghêu sò ốc hến vỡ vụn, dùng đúc gạch không nung rất tốt gọi là gạch sò. Từ Diễn 衍 này không có dùng trong khẩu ngữ của Hán ngữ hiện đại, họ phải tra từ điển để hiểu ý nghĩa của nó và gọi nó là từ của “cổ Hán ngữ”. Cũng giống như cánh đồng “Sâu trũng chỉ mọc được toàn cỏ Lác” người ta đã lướt “Sâu trũng chỉ mọc được toàn cỏ Lác”= "Sâu...Lác" = Sác, ( đúng QT Thanh điệu: Sâu+Lác=Sác=0+1=1, như toán học nhị phân), nên có từ “đồng Sác”, chỉ thích hợp trồng cói, có rải rác ở nhiều vùng đồng bằng, thậm chí ở Cần Giờ còn có cả “rừng Sác”, toàn là các loại cây ngập nước ]. Từ Dư lúc đầu chỉ là chỉ cái chỗ đất tôn “dư” lên để làm nền nhà cho cao hơn mặt đất vốn có , đã diễn biến để có “Dư Trải” = Dải và “Dải nối tiếp Dải” = ”Dải…Dải” = Dãy (Thanh điệu: Dải+Dải=Dãy=1+1=0 , theo đúng toán nhị phân), để có các từ trong tiếng Việt là Dải núi và Dãy núi. Về sau người ta mượn ý từ Dư đó để chỉ cái nền thùng xe, viết là chữ Dư 輿. Rồi lại mượn tiếp cái âm “dư” của chữ Dư 輿 để ký âm từ lướt (mà chỉ trên nền tiếng Việt mới thấy ra điều đó) , đó là khi lướt hai từ Dân và Cư, lướt “Dân Cư” = Dư (Nếu dùng phát âm của Hán ngữ hiện đại mà “thiết” thì là “ Mín Chuy” = Muy; Muy là một âm tiết không có trong Hán ngữ, vì Hán ngữ phát âm chữ Dư 輿là “Uý”). (Hán ngữ hiện đại ngày nay dùng ngược là “Chuy Mín 居 民” tức Cư Dân). Chữ Dư = Dân Cư này đương nhiên chỉ là có sau, do vận dụng QT Lướt để tạo từ, và đã mượn âm (đương nhiên phải cả chữ) của chữ Dư 輿 để cho nó một nghĩa khác là “công chúng” (đúng như ý lướt “Dân Cư”). Nguyên gốc chữ Dư 輿 có nghĩa là Đất, do Dư=Doi=Dải=Dãy=Giát=Vạt=Vuông (Tiếng ta có những từ gọi Doi Đất, Vạt Đất, Vuông Đất, Dải Núi, Dãy Núi … phù hợp cho các địa hình khác nhau. Lướt “Dải nối tiếp Dải” = “Dải… Dải”=Dãy, đúng QT Thanh điệu: Dải+Dải=Dãy=1+1=0, theo đúng như toán học nhị phân. Dải núi chỉ có nghĩa là một trái núi liền mạch, còn Dãy núi có nghĩa là nhiều dải núi nối tiếp nhau. Trường hợp biến thanh điệu của Dải+Dải=Dãy cũng giống như trường hợp biến thanh điệu của Không+Không=Khống=0+0=1, theo đúng toán học nhị phân. Từ “cướp không” có nghĩa là cướp lấy mà không có đền bù, còn từ “cướp khống” có nghĩa là chưa cướp được mà tự coi như đã cướp được thành của mình rồi, tự đặt tên cho cái chưa cướp được, coi như là của mình rồi, như “đường lưỡi bò” ở Biển Đông). Dư nghĩa là cái nền đất, bởi vậy có các từ ghép như Dư Đồ 輿 图, Địa Dư; Địa Dư có nghĩa là đất bằng và đất nhô cao, mở rộng thành môn học “Địa Dư” là học về đất đai và dân cư theo hướng kinh tế học). Vì Dư=Giát=Giường nên chữ Dư còn dùng để chỉ cái nền để ngồi như Giát giường, Giát xe, bộ Giát= bộ Vạt (làm bằng tấm gỗ lim hay gỗ gụ quí rất dầy để trong nhà nằm nghỉ ngơi). Vì mượn âm “dư” của chữ Dư 輿 để ký âm từ lướt “Dân Cư”= Dư (nghĩa là “công chúng”, nhưng biểu ý chữ Dư 輿 thì chẳng có dính líu gì nghĩa công chúng cả, chỉ có hiểu như Việt đã lướt thì là cái âm tiết “dân cư” mới có nghĩa là công chúng). Bởi vậy Hán tự mới có từ ghép Dư Luận 輿 論 nghĩa là lời bình của công chúng (Lời=Luận). Vậy chữ Dư 輿 là một từ Việt, còn chữ Dư Luận輿 論 là một từ Việt-Hán vì nó được ghép ngược theo cú pháp Hán (ghép theo Việt thì là Luận Dư tức “Lời của Dân Cư”). Về cấu tạo chữ Dư 輿 thì bên trong phía trên có chữ Xe 車 đặt chèn trong chữ Hưng 興, mà Hưng 興=Hứng=Đựng=Thưng=Thịnh盛 =Thúng=Mủng=Máng=Sàng=Trang 裝 , đều là những đồ để đựng. Người Hán chỉ mượn chữ Thịnh 盛 và chữ Trang 裝 để dùng với ý là “đựng”( Với ý là “đựng” thì khẩu ngữ của Hán ngữ hiện đại thường dùng từ Trang 裝, từ Thịnh ít dùng, coi như từ cổ hơn), Phục Trang là từ để chỉ quần áo, là chỉ cái vỏ (Vỏ=Vải=Váy) đựng thân thể con người. Chữ Hưng 興 thì nghĩa đầu tiên của nó là “đựng” bởi nó có kẹp chữ Đồng 同 nghĩa là ở chung, ý rằng nó là cái Chứa một cái Chửa ở trong nó, tức cái vào ở chung với nó. Hán ngữ có từ phát âm là “thúng vu” cho hai chữ là Đồng Ốc 同 屋 để chỉ người ở chung phòng với nhau (dùng chữ Ốc 屋 cổ xưa mà tiếng Quảng Châu vẫn phát âm là “Ốc” để chỉ cái nhà). Những con vật miền sông nước mang “nhà” theo thân mình là Rùa, Cua, Ốc. Người Việt cổ đại gọi cái nhà là Ốc 屋 do nhìn thấy con ốc trong vỏ Ốc, cũng còn gọi "ở"là "Cư" do nhìn thấy con Cua thu mình cả cẳng, càng và mắt vào trong cái mai của nó . Nói chung là cái để ở thì QT Tơi-Rỡi của Lãn Miên nêu chỉ sự diễn biến âm tiết là : Ở = Ốc = Ấp = Ư 於 = Cư 居 = Cua = Rùa = =Vùa = Vu 於 (Hai từ Ư và Vu viết bằng cùng một chữ nho là chữ 於. Đánh vu hồi nghĩa là đánh vào chỗ ở. Cái bát to bằng đất nung rất mỏng không tráng men dùng để úp đậy đĩa thức ăn gọi là cái bát Vùa. Chữ Cư 居 này người Triều Châu vẫn đọc là “Cua”, còn từ chỉ cái Mái ở là logic với cái Mai cua. Cái Ốc 屋 mà có đông người ở thì thành từ Ấp 邑, là cụm dân cư). Chữ Hưng 興 có ngữ cảnh đọc là Hứng 興, ví dụ khi lấy chậu hứng nước mưa, khi ấy là một niềm vui vì được mát mẻ, về sau nhà nho có các từ Cao Hứng 高 興, Hưng Phấn 興 奮 để chỉ cái vui, tức là “đựng” cái phấn khởi. Hưng 興 và Thịnh 盛 đều có nghĩa là “đựng”, từ Hưng Thịnh 興 盛 chỉ là một từ đôi, từ đôi có tác dụng nhấn mạnh ý chung của hai từ đó, tức là nhấn mạnh sự “đựng” được nhiều, tức giàu có. Tấm cót dựng quây quanh vành trong của cái nong nằm ngửa thành bức vách tròn cao để đựng thóc người ta gọi là cái Thưng, nó khác và to hơn nhiều so với cái Thúng, dù hai thứ đó đều dùng đựng thóc. Hưng Thịnh 興 盛 là từ đôi , ban đầu chỉ là để chỉ cái thưng thóc đầy, về sau dùng với ý hoa mỹ chỉ sự giàu có. (Nền văn minh lúa nước của phương Nam có nhiều tre để làm thẻ viết chữ và chẻ lạt đan lát tạo nhiều đồ đựng đã đẻ ra Việt nho, còn Hán nho về sau chỉ là sự tiếp thu của Việt nho cả chữ lẫn nghĩa). Chữ Dư 輿 bên trong có kẹp chữ Xe 車 vì khi tôn nền làm nhà thì người Việt dùng xe cút kít chở đất đến đựng vào chỗ chỉ định đặt nền nhà. Bởi ý nghĩa là “đựng” đó nên chữ Dư 輿 về sau còn dùng để chỉ cái Giát xe tức cái nền thùng xe (trong ngữ cảnh này người ta sẽ đọc chữ Dư 輿 là Giát ). Chữ Xe 車 có nghĩa là “đưa ra” tức làm ra, như từ Xe Sợi nghĩa là kéo ra sợi. Vì Nôi khái niệm chung của Xe là “đưa ra”, tức cái Nôi : Té=Xe=Xé=Xẻ=Xê=Xa=Tả=Xả=Xổ=Thổ=Thồ=Thở=Chở, đều có nghĩa là đưa ra hay đưa đi. Từ cái Nôi khái niệm này mà có từ đôi dùng làm từ chuyên môn chỉ một loại bệnh là bệnh Thổ Tả 吐 瀉. Đọc là Thổ Tả 吐 瀉là khi viết bằng chữ nho. Khi chưa có chữ nho thì người ta viết bằng chữ khoa đẩu, đó là chữ Té Re (Té Re = Nước Ra = Thổ Tả 吐 瀉). Té=Tức=Đức=Đác=Nác=Nước. Nước luôn luôn làm cái việc của nó là Nở=Nống tức “đưa ra”: thấm, lan tràn, bốc hơi, nở tăng thể tích khi đóng băng. (Tiếng Quảng Châu thì chữ Xa 車 và chữ Tả 瀉 đều đọc là “Xe”, vì Té=Xe). Có nghĩa là người Việt cổ đại biết đi bằng Xe nước – Xuồng (do lướt “Xe Luồng” = Xuồng), đường sông, (Sông=Dòng=Lòng=Luồng=Lạch=Rạch=Rãnh), trước khi biết đi Xe đường bộ. Tất cả các từ như Diễn 衍, Ốc 屋, Ấp 邑,Hưng 興, Thịnh 盛, Dư 輿, Xa 車 nêu trên, từ điển “Yếu tố Hán-Việt thông dụng” của Viện Ngôn Ngữ (NXB KHXH Hà Nội 1991) đều cho là từ gốc Hán.
  6. Ví dụ về mượn chữ nho để ký âm từ lướt Hán ngữ hiện đại gọi cái nền thùng xe là cái Xa Để Bản 车 底 板 (Ván Đáy Xe), chứ không gọi là cái Dư 舆, như trong từ điển Hán Việt có chữ Dư 舆, giải thích nghĩa là “sàn xe để chở đồ”. QT Lướt để lướt hai tiếng hay cả câu dài thành một từ, từ cổ xưa đã được nhà nho dùng để tạo ra từ đơn âm nhằm tiết kiệm cho việc viết, chỉ phải viết bằng một chữ. Những chữ “đặt ra” kiểu này của nhà nho không có trong khẩu ngữ Hán ngữ, chỉ có trong từ ghép do đã được dùng từ xưa trong “cổ Hán ngữ” (tức ngôn từ phát âm theo Việt mà cú pháp đã bị đổi ngược theo Hán), nếu tách khỏi từ ghép, chỉ phát âm đơn lập riêng nó thì người Hán sẽ không hiểu (phải hỏi là nó có ở từ ghép nào? Vì có nhiều chữ đồng âm dị nghĩa với nó). Ví dụ phát âm riêng “Dư” thì người ta phải hỏi là “Dư” của từ ghép “Dư Luận” hay là “Dư” của từ ghép “Thừa Dư” (là hai chữ “dư” viết biểu ý khác nhau) mới xác định được là chữ “Dư” nào mà họ đã từng học. Chữ Dư 舆 vốn để chỉ cái nền đất, vì khi làm nhà thì người ta phải dùng đất đắp cho cao hơn mặt đất vốn có gọi là “tôn nền”, cái nền ấy thành một chỗ đất “dư” nhân tạo, âm “dư” này viết bằng chữ “Dư” thừa, vì nó rõ ràng nó “thừa” hơn so với mặt đất xung quanh nó, tức nó Bự hơn (Dư = Bự = Bụ = Nhú = Nhô), cái nền đất gọi là Dư ấy nó Nhô cao hơn mặt đất xung quanh nó. Mặt khác Bự = Bạt nên chữ nho Bạt có nghĩa là “nâng cho cao hơn”, Hán ngữ dùng từ ghép Đề Bạt có nghĩa là “Nâng Cấp” trong việc phong quan chức. Tiếng Việt còn gọi cái chức “quan cao hơn” là “quan bự” (đến đứa con nít còn biết dùng từ “quan bự”). Hán ngữ còn dùng từ ghép (rất khoa học về mặt ngôn từ) là từ ghép Hải Bạt để chỉ chỗ “nhô cao hơn mặt nước biển”, ví dụ nói “Vị trí có Hải Bạt 400 mét” tức là “Vị trí có bình độ nhô cao hơn mặt nước biển 400 mét”. Người Việt đã quên mất từ Dư cổ xưa của chính mình, chỉ cái nền đất đắp, và cái QT Tơi-Rỡi là sự diễn biến âm của nó, đó là Dư = Bự = Bụ = Nhú = Nhô, nên ngày xưa dùng từ Hải Bạt của Hán ngữ. Thời hiện đại thấy dùng vậy thì “bị Hán hóa quá”, không “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nên lại phải dùng khái niệm “nhô cao hơn so với mặt nước biển” và đến bây giờ vẫn dùng như vậy. Ví dụ câu “Vị trí đó có bình độ nhô cao hơn so với mặt nước biển 400 mét”. Nhưng “nhô cao hơn so với mặt nước biển” là một câu chứ không phải là một từ, như từ ghép Hải Bạt của Hán ngữ dùng. Nếu công nhận rằng trong Tiếng Việt vốn có QT Lướt cả câu để tạo thành một từ mới ( như Hứa Thận đã vận dụng , ông gọi Lướt là “Thiết” vì Lướt = Lướt-Thướt = Thiết, cách nay 2000 năm, khi ông viết ra cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn “Thuyết Văn Giải Tự) thì câu “Nhô cao hơn mặt nước biển” sẽ được lướt thành “Nhô cao hơn mặt nước Biển” = “Nhô… Biển” = Nhiển. Từ Nhiển là một từ mới, cái âm “nhiển” là có sẵn trong Tiếng Việt nhưng chưa được dùng, thì nay lấy ra dùng, phong phú thêm một từ mới mà thực ra là nó vốn ẩn sẵn bên trong cũ). Từ điển sẽ giải thích từ Nhiển: là từ do lướt cả câu “Nhô cao hơn so với mặt nước Biển”, câu này theo QT Lướt thì cái Tơi của từ đầu câu - từ Nhô là “Nh” đã lướt đến chắp với cái Rỡi của từ cuối câu – từ Biển là “iển” để thành từ Nhiển, nghĩa của nó là “nhô cao hơn so với mặt nước biển”, mà về thanh điệu thì vẫn đúng luật ( Thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1): Nhô + Biển = Nhiển = 0 +1 = 1. ( Dùng từ Nhiển chỉ là ý của Lãn Miên nêu, còn làm hay không là do các nhà ngôn ngữ học quyền uy quyết định). Nhưng khi đã có từ Nhiển (tương đương từ Hải Bạt trong Hán ngữ dùng) thì câu “Vị trí đó có bình độ Nhô cao hơn so với mặt nước Biển 400 mét” sẽ được thay bằng câu “Vị trí đó có bình độ Nhiển 400 mét”. Trong câu này vì có từ mới là “Nhiển” thay cho cả câu “Nhô cao hơn so với mặt nước Biển” nên đã tiết kiệm được động tác gõ phím là chỉ có 7 gõ thay cho 28 gõ, tiết kiệm thời gian được 4 lần. Từ Dư lúc đầu chỉ là chỉ cái chỗ đất tôn “dư” lên để làm nền nhà cho cao hơn mặt đất vốn có , đã diễn biến để có “Dư Trải” = Dải và “Dải nối tiếp Trải” = Dãy, để có các từ trong tiếng Việt là Dải núi và Dãy núi. Về sau người ta mượn ý từ Dư đó để chỉ cái nền thùng xe, viết là chữ Dư 舆. Rồi lại mượn tiếp cái âm “dư” của chữ Dư 舆 để ký âm từ lướt (mà chỉ trên nền tiếng Việt mới thấy ra điều đó) , đó là khi lướt hai từ Dân và Cư, lướt “Dân Cư” = Dư (Nếu dùng phát âm của Hán ngữ hiện đại mà “thiết” thì là “ Mín Chuy” = Muy, là một âm tiết không có trong Hán ngữ, vì Hán ngữ phát âm chữ Dư 舆 là “Uý”). Chữ Dư = Dân Cư này đương nhiên chỉ là có sau, do vận dụng QT Lướt để tạo từ, và đã mượn âm (đương nhiên phải cả chữ) của chữ Dư 舆 để cho nó một nghĩa khác là “công chúng” (đúng như ý lướt “Dân Cư”). Nguyên gốc chữ Dư 舆 có nghĩa là Đất, do Dư = Dải = Dãy = Giát, trong tiếng Việt có từ Dải Đất, Dãy Núi. (Bởi vậy có các từ ghép như Dư Đồ 舆 图, Địa Dư có nghĩa là đất bằng và đất nhô cao, mở rộng thành môn học “Địa Dư” là học về đất đai và dân cư theo hướng kinh tế học). Vì Dư = Giát nên chữ Dư còn dùng để chỉ cái nền để ngồi như Giát giường, Giát xe, bộ Giát= bộ Vạt (làm bằng gỗ lim hay gỗ gụ quí trong nhà để nằm nghỉ ngơi). Vì mượn âm “dư” của chữ Dư 舆 để ký âm từ lướt “Dân Cư” = Dư (nghĩa là “công chúng” nhưng biểu ý chữ Dư 舆 thì chẳng có dính líu gì nghĩa công chúng cả, chỉ có hiểu như Việt đã lướt thì là cái âm tiết “dân cư” mới có nghĩa là công chúng). Bởi vậy Hán tự mới có từ ghép Dư Luận 舆 论 nghĩa là lời bình của công chúng (Lời=Luận). Vậy chữ Dư là một từ Việt, còn chữ Dư Luận là một từ Việt-Hán vì nó được ghép ngược theo cú pháp Hán (ghép theo Việt thì là Luận Dư tức “Lời của Dân Cư”). Về cấu tạo thì chữ Dư 舆 thì bên trong phía trên có chữ Xe 车 đặt chèn trong chữ Hưng 兴 mà Hưng = Hứng = Đựng (khi tôn nền làm nhà thì người Việt dùng xe cút kít chở đất đến đựng vào chỗ chỉ định đặt nền nhà), nên chữ Dư về sau còn dùng để chỉ cái Giát xe tức cái nền thùng xe (trong ngữ cảnh này người ta sẽ đọc chữ Dư 舆 là "Giát" ). Chữ Xe 车 có nghĩa là “đưa ra” tức làm ra, như từ Xe Sợi nghĩa là kéo ra sợi. Vì Nôi khái niệm chung của Xe là “đưa ra”, tức cái Nôi : Té = Xe = Xé = Xẻ = Xê = Xa = Tả = Xả = Xổ = Thổ = Thồ = Thở = Chở, đều có nghĩa là đưa ra hay đưa đi. Từ cái Nôi khái niệm này mà có từ đôi dùng làm từ chuyên môn chỉ một loại bệnh là bệnh Thổ Tả. 吐 泻. Đọc là Thổ Tả 吐 泻là khi viết bằng chữ nho. Khi chưa có chữ nho thì người ta viết bằng chữ khoa đẩu, đó là chữ Té Re (Té Re = Nước Ra = Thổ Tả 吐 泻). Té = Tức = Đức = Đác = Nác = Nước. Nước luôn luôn làm cái việc của nó là Nở = Nống tức “đưa ra”: thấm, lan tràn, bốc hơi, nở tăng thể tích khi đóng băng. (Tiếng Quảng Châu đọc chữ Xa 车 và chữ Tả 泻 đều là “Xe”, vì Té = Xe). Có nghĩa là người Việt cổ đại biết đi bằng Xe nước – Xuồng = Xe Luồng, đường sông, trước khi biết đi Xe đường bộ). Hai chữ Dư 舆 và Xa 车 nêu trên, từ điển “Yếu tố Hán-Việt thông dụng” của Viện Ngôn Ngữ (NXB KHXH Hà Nội 1991) đều cho là từ gốc Hán.
  7. Lao động cuối tuần số 43 từ 2-4.11.2012 Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Thử tháo gỡ sự “vô lý ầm ầm” khi điền giải thành ngữ “thắt lưng buộc bụng” Nguyễn Đức Dương Mới đây. LĐCT (số 43) có giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết dài của PGS-TS Phạm Văn Tình, trong đó tác giả dành gần trọn nội dung để diễn giải thành ngữ [TN] Thắt lưng buộc bụng. Nhìn chung nhờ xác định nhanh chóng và đúng đắn thực chất ngữ học của đơn vị ngôn từ đang xét, tác giả đã diễn giải thành công TN vừa nêu. Tuy nhiên, khi thử soi sang cái được tác giả gọi là “nghĩa đen” của nó [Có lẽ nên gọi đó là “nghĩa hiển ngôn”, như nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo từng làm thì hơn] thì ông có phần hơi lướng vướng do bị tình cảnh “vô lý ầm ầm” “bủa vây”, như chính ông công khai thừa nhận, ngay cả khi đã viện tới sự giúp sức của một số cô bác cao tuổi. Sở dĩ tác giả đã lâm vào tình cảnh ngoài ý muốn ấy, theo thiển nghĩ, chắc chỉ vì quĩ thời gian của ông quá eo hẹp, khiến ông quên không để ý tới nghĩa thứ hai của từ lưng được “Từ điển tiếng Việt” của GS Hoàng Phê ( chủ biên), một công trình biên khảo dày công vừa được Nhà Xuất bản Trí thức tặng thưởng “Giải sách hay năm 2012” nêu rõ. Giá có nhiều thì giờ hơn, chắc ông sẽ nhận thấy ngay bộ phận tiếp theo sau đây trong lời diễn giải của từ lưng: “ [Là thứ] dải bao dài bằng vải [mà phụ nữ thời xưa hay buộc ngang lưng cho đẹp] dùng làm chỗ đựng tiền; (thường dùng trong khẩu ngữ) để chỉ tiền riêng, tiền vốn (Người viết nhấn mạnh) […]). Nghĩa này của lưng hiện chúng ta còn có thể bắt gặp trong Kiều ( Chung lưng mở một ngôi hang) […] Nữa khi muôn một thế nào. Bán hùm buôn sói chắc vào lưng đâu?) hoặc trong một số áng thơ văn cổ (Mỏng lưng em cũng chẳng giàu. Nhiều miệng lấy chi cho đủ) [Nguyễn Công Trứ. Hàn nho phong vị phú]. Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể đi đến nhận định: có thể giảng cụm thắt lưng và cụm buộc bụng đại để như sau: Thắt lưng= Hạn chế các khoản tiền bạc định chi tiêu; và Buộc bụng=Hạn chế ăn uống. Còn toàn bộ TN là: Hạn chế tới mức cao nhất cả chi tiêu lẫn ăn uống (để đồng vốn đỡ bị tham lạm trong thời buổi kinh tế hết sức ngặt nghèo). Tình cảnh “vô lý ầm ầm” có lẽ đã được tháo gỡ xong. Nhân đây chúng tôi xin có đôi lời với tác giả Phan Thị My (xin xem LĐCT số 38) cùng đông đảo bạn đọc chung quanh những lời góp ý của bà khi bàn về cặp tục ngữ [TNg] “Khuất mắt khôn coi” và “Khuất mắt trông coi” được chúng tôi giới thiệu trên LĐCT số 36. Chúng tôi xin thú thật là rất nhiều người đi trước, giàu kinh nghiệm hơn, khuyên tôi nên tránh trả lời bởi, theo họ, khoảng cách giữa ý kiến của đôi bên còn quá rộng. Chẳng hạn hồi còn đi học ở trường, các thầy, các cô dạy tôi đều khuyên nên chia mọi biểu thức ngôn từ cần tìm hiểu thành nhiều hợp phần nhỏ hơn (chảng hạn, âm vị thành nét khu biệt hoặc nghĩa thành nét nghĩa, v.v.) mới hy vọng đi sâu được vào thực chất của nó và phát hiện được các đặc trưng lý thú của nó. Về sau, khi ra trường, hầu như mọi cuốn sách tôi đọc đều dạy tôi điều tương tự, và những lời dạy ấy từ đó trở đi tôi đều cố làm đúng trong bất cứ trường hợp nào. Ấy thế mà tác giả bài góp ý lại khuyên tôi là “không nhất thiết phải suy xét đến tận chân tơ kẽ tóc bất kỳ một thành ngữ nào để xem nó có hợp lý không”. Ngoài ra tôi còn được dạy rằng tần suất sử dụng của của các biểu thức trong lời ăn tiếng nói chẳng phải lúc nào cũng luôn đi đôi với tính đúng đắn của biểu thức ấy, bởi lẽ “tính đúng đắn” ấy lắm khi đã bị cái được nhà ngữ học lỗi lạc F. de Saussure gọi là “từ nguyên học dân gian” làm cho sai lạc đi. Ấy thế nhưng tác giả bài góp ý lại khuyên tôi: “[…] quan trọng hơn, là xem tần số sử dụng nó trong cuộc sống, trong xã hội cao hay thấp, số lượng sử dụng nhiều hay ít mà thôi”. Sự khác biệt quá lớn ấy đã ngăn tôi viết bải trả lời; cho nên ở đây tôi muốn thưa lại cùng độc giả xa gần chỉ vài lời như vậy mà thôi để mong được thông cảm. Lãn Miên viết: Tôi chưa được đọc các bài thảo luận về câu thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng” trên các số của LĐCT. Tình cờ tôi đọc LĐCT số 43 có bài trên, nên đưa lên đây. Tôi không phải người nghiên cứu ngôn ngữ nên chẳng dám lạm bàn. Tôi chỉ đưa hiểu của tôi về câu thành ngữ trên để trình bạn đọc tham khảo. Tôi giải thích câu thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng” bằng “QT Tạo ngôn từ Việt” của Lãn Miên nêu (nhưng chưa được ai công nhận), cộng với “Qui tắc cấu trúc của câu nói Việt là Đề và Thuyết” của GS Cao Xuân Hạo (nhưng chưa được Bộ GDĐT công nhận) như sau: Câu thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng” nếu chỉ giải thích theo những cái vật cụ thể (nhìn sờ thấy được) là Lưng và Bụng thì sẽ chỉ ra một ý nghĩa rất phiến diện là “dè sẻn”, một phản ứng hoàn toàn bị động trước hoàn cảnh ngặt nghèo, không thuộc tư duy năng động như bổn tính vốn có của người Việt là năng động như nước, như GS Cao Xuân Huy nói: “Cái lý của người Việt là nước, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Nếu hiểu cả từ trừu tượng (không nhìn sờ thấy được) là Lưng và Bụng thì nội dung câu thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng” là : Tùy theo hoàn cảnh mà nghĩ ra cách giải quyết, một phản ứng hoàn toàn chủ động, như tư duy thường có của người Việt. Tức câu thành ngữ đó cũng tương tự câu “Cái khó ló cái khôn”. Câu thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng” có hai mệnh đề như hai câu con là Thắt Lưng và Buộc Bụng. (1) Trong câu con Thắt Lưng thì Thắt là “Đề” (Đề bao giờ cũng đặt đầu câu) và “Thuyết” cho cái đề đó là Lưng (Thắt cái gì ? Thắt cái Lưng ! ). Nhưng QT Tơi-Rỡi lại chỉ rõ: Thắt=Bắt (Tôi Thắt mõm bao lại không cho gạo đổ ra, tức tôi Bắt gạo nằm im trong bao). Lưng nghĩa là sự thiếu thốn (Đong Lưng hay đong Đầy ? ). Lưng nằm trong nôi khái niệm của một sự biến từ Âm tới Dương như từ 0 tới 1, là cái nôi: Ung=Lủng=Lưng=Lưng-Lửng=Lừng-Lững=Lừng-Lẫy=Đầy, tương ứng là các nghĩa: Không còn ( Ung và Lủng) - Thiếu (Lưng) – Gần đủ (Lưng-Lửng) - Đủ chững (Lừng- Lững)– Tràn (Lừng-Lẫy) – Đầy (Đầy vun có ngọn) Vậy ý nghĩa của câu con “Thắt Lưng” là: Bắt cái thiếu thốn, tức Nắm bắt hoàn cảnh thiếu thốn. (2) Trong câu con Buộc Bụng thì Buộc là “ Đề” và cái “Thuyết” cho cái đề đó là Bụng ( Buộc cái gì ? Buộc cái Bụng ). Theo QT Tơi- Rỡi thì Buộc=Bắt, nên có từ đôi Bắt Buộc. Bụng nghĩa là “cách giải quyết”. Người Việt nói “Tôi đang nghĩ Bụng” tức là “Tôi đang nghĩ Cách giải quyết”. Thế giới còn phải ngạc nhiên là chỉ có người Việt là nghĩ bằng bụng, khi người Việt nói câu “Bụng nó nghĩ là…” mà không hiểu cái ý: “Cách giải quyết của nó là …”. Người ta không hiểu được “Bụng” nghĩa là “Cách giải quyết” bởi do người ta không công nhận QT Lướt trong tạo từ của tiếng Việt (lướt hai tiếng hay cả một câu dài thành một từ). Bụng là kết quả của lướt cả câu “Bước vào tâm thức tận Cùng” = “Bước… Cùng” = Bụng. Theo QT Lướt thì trong cái biến này cái Tơi của từ đầu- từ Bước là “B” sẽ lướt đến chắp với cái Rỡi của từ cuối- từ Cùng là “Ung” để thành Bụng. Tại sao lại thành “dấu nặng Bụng” ? Về thanh điệu thì Lãn Miên đã chia 6 thanh điệu của tiếng Việt thành hai Nhóm là Nhóm Âm (0) gồm “không”, “ngã”,“nặng” và Nhóm Dương (1) gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền”; chứ không chia thành hai nhóm Bằng, Trắc như người ta chia. Trong cái biến “Bước… Cùng” thì theo thanh điệu có Bước= “sắc”=1; Cùng= “huyền”=1; đương nhiên theo qui tắc toán nhị phân (hệ quả của khái niệm Âm Dương của người Việt) thì 1+1=0, nên Bụng= “nặng”=0 ( thanh điệu của nó phải là dấu nặng). Bụng là “Cách giải quyết”, nhưng là cách giải quyết kiểu Việt, tức phải “Bước vào tâm thức tận Cùng”, tức phải qua Thiền để tìm được cách giải quyết sáng suốt. Vậy Thiền cũng là một phát minh bản quyền của người Việt. Cả câu lớn “Thắt lưng buộc bụng” thì “Đề” là Thắt Lưng và “Thuyết” cho cái đề ấy là “Buộc Bụng” (Thắt lưng thì phải làm sao ? Thắt lưng thì phải buộc bụng ). Nghĩa là “Nắm bắt hoàn cảnh thiếu thốn thì buộc phải nghĩ ra cách giải quyết sang suốt”. Đó chính là tính nhân văn, là minh triết của câu thành ngữ trên. Đó mới chính là phản ánh đúng tư duy năng động như nước của người Việt. Trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo nào người Việt cũng đều nghĩ tìm ra được ra lối ra, như Nguyễn Trãi từng nói “Hào kiệt đời nào cũng có”. Thành ngữ Việt đơn giản mà không tầm thường. Ví dụ câu “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” không phải là đơn giản mẹ khuyên con nhỏ phải biết cư xử trong bữa cơm, mà là khuyên con phải biết qui hoạch bất cứ việc gì từ việc nhỏ đến việc lớn như qui hoạch vĩ mô, hay qui hoạch hạ tầng một thành phố lớn, cốt lõi của mọi qui hoach đều phải là lấy nhu cầu lợi ích của cộng đồng người làm đầu: Trong câu “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” thì “Trông” nghĩa là trông cậy, trông cậy đáng dựa nhất là trông cậy vào trí tuệ của nhân dân [ Cho nên mới có câu chuyện ông đẽo cày lấy gỗ trong rừng, nhưng đẽo cày thì ra ngồi công khai vệ đường mà đẽo để được nhân dân chỉ vẽ cho] ; “Ăn” nghĩa là mọi nhu cầu hoạt động của Con Người; “Nồi” nghĩa là nguồn lực, gồm tài nguyên của đất nước và trí tuệ của nhân dân (Nồi=Nôi=Nước); “Ngồi” là sự yên ổn lâu dài của cả cộng đồng xã hội (Ngồi=Ngôi=Người=Tươi=Tuổi=Tuế Tuế); “Hướng” là Phong Thủy Lạc Việt ( Hướng là do lướt “Hỗ Tương” = Hướng, thanh điệu là “ngã”+ “không”= “sắc” tức 0+0=1, đúng như toán học nhị phân của người Việt. “Hướng” là Phong Thủy Lạc Việt, “Hỗ Tương” là nói sự tương tác đúng Âm Dương Ngũ Hành, nếu không có Phong Thủy Lạc Việt thì định hướng sai. Định hướng sai thì của dù có cả đống cũng dần dần đội nón ra đi kể cả của quí nhất là chất xám cũng đội nón ra đi(ví dụ lao động xuất khẩu hết hợp đồng lại trốn ở lại Hàn Quốc có đến hàng ngàn). Thành ngữ Việt đơn giản vậy mà không hề tầm thường.
  8. Theo nhóm nghiên cứu thời tiền sử của cụ Đỗ Tòng, cuốn “Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh tuyền” để ở đền Hùng, Phú Thọ, nội dung cho thấy nước Văn Lang tồn tại 2622 năm qua 18 triều đại, đều lấy họ là Hùng, tôn xưng là Lang Vương, Long Quân. (Đỗ Thành phân tích chữ Lệnh Doãn ở nước Sở chính là “Lệnh Doãn ”=Loãn=Lang=Lãnh=Lớn, là một chức Quân). Theo cuốn phả trên cho biết, dưới thời cháu của Triệu Đà là Minh Vương đã cho đem chôn 114 ấn tỷ truyền quốc của nhà Hùng, chứng tỏ nhà Hùng có 114 đời kế tiếp nhau làm vua qua 18 triều đại lớn. Tại sao đang làm vua trên đất Lĩnh Nam xưa của Hùng Vương mà lại phải đem chôn ngọc tỷ đời trước của dòng nhà Hùng? Là vì như sử ghi, nhà Tần chiếm được đất Lĩnh Nam của nhà Hùng, nhưng đến thời Tần mạt, nông dân ở Trung Nguyên nổi lên khởi nghĩa với lãnh tụ Trần Thắng, Triệu Đà thừa cơ đó lãnh đạo Lĩnh Nam giành lại độc lập cho đất Việt, lập nên Nam Việt quốc (204-111BC tồn tại 93 năm), đô ở Phiên Ngung, hoàn toàn độc lập với Tần-Tây Hán quốc, bởi vậy hai đời đầu của nhà Triệu là Triệu Đà xưng Nam Việt Vũ Đế ( 204-137 BC), con Triệu Đà thì Triệu Thủy (Triệu Trọng Thủy ?) chết khi chưa được truyền ngôi, con thứ Triệu Muội tiếp ngôi xưng Nam Việt Văn Đế ( 137-122 BC), xưng đế thể hiện độc lập hoàn toàn với Tây Hán, nhưng vẫn rất mềm mỏng trong quan hệ với nhà Hán. Lại còn cho dân chạy loạn từ Trung Nguyên di cư xuống Lĩnh Nam. Đến đời cháu Triệu Đà là Triệu Anh Tề , nhà Hán lấn lướt càng mạnh, Nam Việt trong quan hệ đối ngoại mềm mỏng chịu nhún chỉ dám xưng là Vương, nên từ đời ba đến đời năm, Nam Việt quốc chỉ có Vương, chịu làm phiên thuộc của Tây Hán. Nam Việt Minh Vương Triệu Anh Tề, như đã lường trước nguy cơ trước sức mạnh xâm lược của nhà Hán, đã cho đem chôn 114 ngọc tỷ các đời của dòng Hùng, là để bảo vệ di sản dòng Hùng khỏi tay Hán.
  9. Người chép viết: Việt nhân ôm chèo mà ca, ca từ nói: “…. “ . Đây là bản gốc bài “Việt nhân ca”, nhưng câu chép ngắt đoạn bằng dấu phẩy không đúng: 越人拥楫而 歌,歌辞曰:‘ 滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖 。’ Đỗ Thành sửa lại cho đúng ngắt câu, Đỗ Thành viết: 《 Nay tôi xin thử phục nguyên bài ca Việt trình bạn đọc. Xin trình bày lại và xếp theo ý tôi: 滥 兮 抃 草 滥 予 昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗 惿 随 .. 河 湖。》 [ Hoàn toàn chính xác, nhưng sẽ không thể dịch được đúng nghĩa bài ca nếu cứ theo nghĩa từng chữ Hán như từ điển mà dịch. Ví dụ chữ Xương ở bài “Việt nhân ca” chỉ là mượn âm để ghi chữ Thương, vì biểu ý của chữ Xương nghĩa là Thịnh Vượng . Chữ Xương 昌 là chữ do nhà nho đặt ra, ám chỉ Thịnh Vượng, ghép bằng hai chữ Viết 曰, chẳng tá âm “ương” nào cả, mà lại đọc là Xương. Chữ Viết 曰nghĩa là Nói , hình tượng chữ Viết 曰là cái miệng chữ khẩu 口có cặp môi là nét vạch ngang . Van=Viết=Vân=Và (tiếng Quảng Châu)=Vân Vân=Van Vỉ=Ví Von= Văng, chỉ dùng cho trường hợp “văng tục”. Nói=Na (tiếng Nhật là “ha-Na-xư”) =Nài=Năng, nên có từ đôi Nói Năng, Van Nài. Chữ Viết 曰nhỏ ở trên (ý là số ít, là kẻ trên tức quan nói), chữ Viết 曰to ở dưới ( ý là số đông, là kẻ dưới tức dân nói). Ghép hai cái Nói thành chữ Xương昌, đúng địa vị trên dưới, mà lại mang nghĩa là Thịnh Vượng thì chỉ có là trong trường hợp kẻ trên và kẻ dưới đồng thuận có lý, tức có tự do phản biện cho ra nhẽ để đạt đồng thuận có lý thì mới đạt Thịnh Vượng. Trường hợp bài “Việt nhân ca” cổ xưa này nếu cứ theo nghĩa chữ mà dịch thì khi ấy sẽ là Dịch=Diệt (như Đỗ Thành nói). Diệt nghĩa là mất đi, nhưng lý thú là trong cái mất đi ấy lại có thể phát hiện được “Dấu nét Việt”=Diệt. Nên ta thấy nhiều từ Việt cổ không còn được dùng trong Tiếng Việt nữa, lại vẫn còn dùng ở ngôn ngữ láng giềng.] Đỗ Thành viết tiếp: 《 Ký âm tiếng Việt của bài ca được ghi lại là: 滥 兮 抃 草 滥 予 Lạm hề biện thảo lạm dư Giải tự: Lạm=Nam=Năm, Hề=Hầy=Nầy=Này, “Biện Thảo”=Bảo, Dư=Xừ=Xưa . Giải thích: ví dụ câu trách “kém bỏ xừ !” (nghĩa là kém quá, bỏ đi, vì cách đó quá xưa rồi). 昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠 Xương hằng trạch dư xương châu châu thực Giải tự: Xương=Sương (tiếng Hã Tĩnh)=Thương, Hoằng=Hoàng, “Trạch Dư”=Trứ=Tứ=Tó (tiếng Triều Châu)=Tả=Trá=Trở=Trái=Trổ=Tró=Chỏ (tiếng Quảng Châu)=Dó=Dối=Dủa (tiếng Bắc Kinh). Giải thích: Ở Việt có làng Kẻ Trổ, cũng có làng Kẻ Tró. “Chít khăn để Trở” tức là chit khăn tang, nó trái với chit khăn bình thường. Lật Trở cái bánh đa đang nướng tức lật Trái cái bánh đa đang nướng. “Trái Dó Trở Trời” thì sinh bệnh tức trái tự nhiên thì sinh bệnh, chứ không phải gặp gió từ bên trái. Dối Trá là nói trái sự thật. Trứ danh là tên nổi hẳn, trái với những tên bình thường. Giải tự: Châu Châu = Chiều Chiều, Thực= Xực (tiếng Quảng Châu)= Xưa 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 Thầm châu yên hô tần tư tư Giải tự: Thậm=Sẫm=Sớm, Châu=Chiều, Yên=Em, “Hô Tần”=Hận, Tư Tư = Tương Tư 缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗 惿 随 Mạn dư hồ chiêu thìn tần du sâm, đề tùy hà hồ Giải tự: Mạn=Mà, Dư=Ư=Ai, “Hô Chiêu”=Hiểu, Thìn=Thẳng=Đặng, Tần Du = Tình Duyên, Sâm=Sâu, “Đề Tùy”= Đùy=Đầy .. 河 湖 …hà hồ 。 Giải tự: Hà=Hò, Hố=Hớ. Như vậy, nghĩa Việt của bài ca như sau: Năm nầy bảo nămxưa Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa Sớm chiều em hận tương tư Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. ...Hò Hớ Theo khảo cứu của tôi thì Việt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò củadân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽ là: Hò... ... hớ... Năm nầy bảo với năm xưa Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa Sớm chiều em hận tương tư Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. 》 [ Tôi xin mạn phép xếp lại cho vần: Hò…hớ… Năm này bảo với năm xưa Thương hoàng tử tự chiều xưa, thương nhiều Tương tư em hận sớm chiều Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy ]
  10. Bách Việt Nguồn: [ www.cqvip.com/qk/80164…] Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt Trung Quốc , thành lập năm 1980, mỗi hai năm tổ chức một lần hội thảo trong nước hoặc quốc tế, chuyên đề Bách Việt . Hội do đoàn thể nghiên cứu học thuật có tính toàn quốc thuộc khoa nghiên cứu nhân loại học Học viện nhân văn Đại học Hạ Môn phụ trách, văn phòng tại phòng 303 tầng 3 Bảo tàng nhân loại học Đại học Hạ Môn. Hàm nghĩa “Bách Việt ”: Bách Việt còn gọi là Việt Tộc hoặc Cổ Việt Nhân, là tên gọi dân tộc cổ đại vùng Đông Nam và Nam TQ. Tên Bách Việt có ghi sớm nhất trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là phía nam đất Hán là đất Bách Việt.. Các nhà sử học cho rằng dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc. Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời. Như Nghiêu, Thuấn, Vũ trong truyền thuyết chính là tiên dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu. Thời Thương sử thư có ghi lại hoạt động của dân tộc Việt. Cái tên Việt là do lấy tên công cụ và binh khí của họ là “Dương Việt “ là tên chung nhất. Không gian phân bố của họ rất rộng. Bộ phận gần Hoa Hạ nhất gọi là Ư Việt, nhưng họ rõ rang khác hẳn Hoa Hạ. Do Việt Tộc có nhiều chi hệ, lại phân bố rất rộng nên sử thư cuối thời Chiến Quốc gọi chung họ là Bách Việt. [ Đoạn trên nói Dương Việt 扬 越 là tên gọi công cụ đồng thời là binh khí, mệnh danh cho Việt Tộc. Bản thân chữ Dương Việt 扬 越 theo biểu ý của chữ là Giơ Vẹt (QT Tơi-Rỡi: Giơ Vẹt = Dương Việt) . Vẹt là cái rìu đá hình vuông dẹt ( QT Lướt: “Vuông Dẹt” = Vẹt, mà khảo cổ Quảng Tây gọi là cái “xẻng đá”, Tiếng Việt còn có các dụng cụ khác như cái bàn Vét là công cụ làm nông, cái Vá làm bằng miếng vỏ gáo dừa ] Sử thư gọi chung dân phương Nam là Man hoặc Tam Miêu, họ có chung cội nguồn sâu xa với Bách Việt. Đại khái đến đầu thời Thương, dân tộc vùng Bách Việt đã từ Man, Miêu phân chia ra nhiều dân tộc có tên gọi khác nhau, như theo《 Dật Chu thư. Vương Hội giải 逸 周 书• 王 会 解》 là các tên Khu Thâm 沤 深, Việt Khu 越 沤, Đặng 邓, Quế Quốc 桂 国, Tổn Tử 损 子, Sản Lý 产 里, Bách Bộc 百 濮, Cửu Quốc 九 国, Đông Việt 东 越, Âu Nhân 瓯 人, Ư Việt 于 越, Cô Muội 姑 妹, Thả Âu 且 瓯, Cộng Nhân 共 人 v.v. đều nằm ở đất phía Đông hoặc phía Nam vương triều Thương Chu, đại bộ phận tộc xưng trên đều có quan hệ với hệ thống Bách Việt. Thời kỳ Tây Chu, danh xưng Việt 越 đã xuất hiện phổ biến . Ngoài sách trên, sách 《Chu lễ. Đông quan khảo công ký 周 礼• 冬 官 考 工 记》 có danh xưng Ngô Việt “吴 粤”; sách 《Trúc thư kỷ niên 竹 书 纪 年》 ghi Chu Thành Vương năm thứ 24 ( 1040 BC) có “Ư Việt lai tân 于 越 来 宾 khách Ư Việt đến thăm”, trong đó có “吴” tức Ngô Quốc, thuộc một chi của Bách Việt; có “Ư Việt 于 越” tức tộc xưng Việt Quốc. Ngoài đó ra trong sách 《Chu lễ. Chức phương thị 周 礼• 职 方 氏 》 còn nói đến tên gọi “Thất Mân 七 闽 ” . Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc lịch sử Việt Tộc tiến vào thời kỳ lịch sử mới, người Việt vùng là Giang Tô, Triết Giang ngày nay kiến lập nên Ngô Quốc và Việt Quốc, quật khởi ở vùng hạ du Trường Giang tiến hành tham gia tranh bá, người Việt ở các vùng khác cũng rất là hoạt bát, bởi vậy lúc này danh xưng Việt Tộc đã đại hiển ư thế, danh xưng này được sử gia dùng phổ biến. Trong sử thư “Bách Việt” ngoài được gọi là “Dương Việt 扬 越 ” cũng còn được gọi là “Di Việt 夷 越 ” . [ QT Tơi-Rỡi thì Giơ= Dương = Dứ = Dí = Di , là một nôi khái niệm “hành động” . Giơ Vẹt = Dương Việt là mệnh danh cho Việt Tộc tức là Bách Việt. Kẻ dính Bách Việt lại để lập nên quốc gia là một người Kinh là Kinh Dương Vương, là kẻ dẫn đầu các chi hệ Bách Việt lập nên quốc gia Văn Lang ở Nam Dương Tử cách nay 5000 năm. Kẻ Dính = Kẻ Dẻo = Cần Keo = = Gắn Kết ( Tiếng Việt “Kẻ” nghĩa là người, tiếng Tày “Cần Keo” nghĩa là người Kinh. “Kẻ Dính” = Kinh .Thành ngữ “dính như bánh chưng” nói ý quyến luyến mãi ngày Tết . Truyền thuyết “Bánh Chưng bánh Dầy” đã nói rõ người Kinh là chủ bản quyền của bánh chưng. “Kẻ Dính” = “Câu Đinh” = Kinh. Sách Thủy Kinh Chú có ghi bốn ngàn năm trước công nguyên có quốc gia cổ đại gọi là Câu Đinh 勾 町 , mà diện tích bao trùm vùng rộng lớn ngày nay thuộc Vân Nam - Điền, Qúi Châu, Quảng Tây - Quế , Quảng Đông và Việt Nam ] Câu Ngô và Ư Việt trong thời Chiến Quốc đã bị diệt quốc. Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc xong tại đất cũ của Ngô Việt đặt thành quận Cối Kê. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” ngoài ghi lại sử của Ngô Việt thời Tiên Tần như các cuốn “Ngô thế gia”, “Việt thế gia” còn ghi các cuốn chuyên là “Nam Việt liệt truyện” và “Đông Việt liệt truyện”. Đến thời kỳ Tần Hán thì trong thư tịch xuất hiện các từ “Mân Việt”, “Đông Âu”, “Nam Hải”, “Nam Việt”, “Tây Âu”, “Lạc Việt”, “Điền Việt” v.v. là quốc danh hoặc tộc danh của người Việt. Những danh xưng này tuy xuất hiện muộn hơn trong lịch sử, nhưng không có nghĩa là những tộc hay nước này của Bách Việt đến đời Hán mới xuất hiện. Họ giống nhau là có một lịch sử phát triển lâu dài, cùng một dân tộc cổ xưa. [ Nhận định này đúng như cái tên chung của “cùng một dân tộc cổ xưa” mà trong Tiếng Việt có thể thấy bằng QT Tơi-Rỡi: Nam Việt = Nậm Việt = Nước Việt = Nác Việt = Lạc Việt = Lắm Việt = Trăm Việt = Bẵm Việt = Bẫm Việt = Bộc Việt = Bách Việt ] Trong Hán Thư 《汉书》 đã đem đổi chữ Việt “越” thành chữ Việt “粤”. Thế nhưng, thời kỳ này từ và chữ “Bách Việt 百 越” đa phần là dùng để chỉ người Việt ở vùng Lĩnh Nam. Ngoài đó ra còn theo phương vị để xưng hô như Đông Việt, Nam Việt, Tây Việt v.v. trong Sử Ký có chỗ dùng từ Đông Việt để chỉ Mân Việt, cũng có dùng để chỉ Đông Âu, nhưng có chỗ dùng chỉ tộc xưng và quốc danh xưng như Nam Việt, thành ra về tộc xưng có nhiều hỗn loạn. Sau khi Hán Vũ Đế thống nhất Tây Nam Di, Nam Việt và Mân Việt thì danh xưng Bách Việt và danh xưng các chi tộc Việt dần dần biến mất, người Việt tụ cư ở ven biển Đông Nam bị cưỡng bức di cư lên vùng Giang Hoài, có bộ phận thì bị Hán Tộc đồng hóa. Nhưng vẫn có bộ phận người Việt tản cư ở Giang Tây, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, lui vào các vùng núi và bị gọi là Sơn Việt “山 越”. Sơn Việtlà hậu duệ của Bách Việt. Từ thời Đường về sau danh xưng Sơn Việt cũng biến mất.
  11. Khảo cổ nói gì Cuốn sách “Nam Man bất man” NXB Bình luận học thuật , Trung Quốc, năm 2009 (nguồn: Mạng tiếng Hoa) Đôi điều về tác giả: Trương Trấn Hồng 张 镇 洪, sinh tháng 12 năm 1938 ở Đông Oản, Quảng Đông. Giáo sư khoa nhân loại học trường Đại học Trung Sơn. Thành viên Viện văn sử tỉnh Quảng Đông, phó hội trưởng Hội nghiên cứu văn hóa Chu Giang tỉnh Quảng Đông, chủ nhiệm ủy ban nghiên cứu khảo cổ Lĩnh Nam. Tháng 7 năm 1963 sau khi tốt nghiệp chuyên khoa động vật học Đại học Trung Sơn, ông được phân công về phòng nghiên cứu cổ nhân loại thuộc Viện nghiên cứu khoa học Trung Quốc tại Bắc Kinh. Tháng 11 năm 1973 ông được điều đến công tác tại đội khảo cổ thuộc Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh. Tháng 1 năm 1985 ông được điều về giảng dạy tại khoa nhân loại học Đại học Trung Sơn, Quảng Châu. Lời nói đầu:   珠江是岭南地区一条最大的河流,它覆盖了云南、贵州、广西、广东四省区,其中一些支流的源头可追溯到湖南、江西、福建境内,珠江文化就是指存在于珠江 流域的各种文化。本书介绍的是珠江流域史前时期的文化。   岭南地区一直都被视为蛮荒之地。所谓蛮荒意为与中原地区相比,岭南地区生产落后,经济不发达,民风粗野,不够开化等等。其实不然,大量的考古发现表 明,早在史前时期,岭南地区已经存在丰富的文化,在人类起源、农业和家畜饲养起源、原始宗教和艺术的起源等方面都有过辉煌的成就。数十年来,考古资料日益 丰富,幷且今后还会不断有更新、更重要的发现。虽然目前还不能说珠江流域史前文化的面貌、珠江流域的史前史已经完全清楚,但我们基本可以断言:岭南地区不 是蛮荒之地——南蛮不蛮。正因为史前时期有过灿烂辉煌的文化,珠江流域在各个历史时期,特别是近、现代历史上,在中华民族文化的发展中都起着先锋作用,这 正是文化沉淀深厚的表现。 Châu Giang là con sông lớn nhất khu vực Lĩnh Nam, nó chảy qua bốn tỉnh Vân Nam,Qúi Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, các chi lưu của nó thì bắt nguồn từ Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến. Văn hóa Châu Giang là nói các văn hóa tồn tại ở lưu vực sông Châu Giang. Cuốn sách này là nói về các văn hóa thời tiền sử ở lưu vực Châu Giang. Khu vực Lĩnh Nam xưa nay bị coi là “man hoang chi địa”. Cái gọi là “hoang man” có nghĩa là so với Trung Nguyên thì khu vực Lĩnh Nam sản xuất lạc hậu, kinh tế không phát đạt, dân phong thô dại, chưa được khai hóa v. v. Kỳ thực thì không phải vậy, số lượng lớn khảo cố đạt được đã chứng tỏ rằng sớm từ thời tiền sử khu vực Lĩnh Nam đã là một nền văn hóa có thành tựu huy hoàng là khởi nguồn của nhân loại, khởi nguồn của nông nghiệp và nuôi gia súc, khởi nguồn của tôn giáo và nghệ thuật v.v. Chục năm trở lại nay, tư liệu khảo cổ ngày càng phong phú với các phát hiện mới và quan trọng.Tuy chưa tả hết được diện mạo văn hóa lưu vực Châu Giang, nhưng, hoàn toàn rõ ràng về sử của thời tiền sử ở lưu vực Châu Giang, nên chúng ta cơ bản quả quyết rằng: khu vực Lĩnh Nam không phải là “man hoang chi địa”. Chính vì thời tiền sử có văn hóa huy hoàng sán lạn, nên lưu vực Châu Giang trong các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là trong lịch sử cận đại và hiện đại phát huy được tác dụng tiên phong trong phát triển văn hóa của dân tộc Trung Hoa, đấy chính là biểu hiện của sự lắng đọng sâu dày của văn hóa. Lời tựa, của giáo sư Dung , khoa nhân loại học Đại học Trung Sơn, chuyên gia đặc thỉnh của Bảo tàng dân tộc học Trung Quốc, có đoạn viết: Địa danh vừa lắng đọng văn hóa của quần thể cư trú vừa truyền lại thông tin nhất định về quần thể cư trú cụ thể, nó giúp cho việc phục nguyên diện mạo lịch sử của quần thể khi thiếu sót văn tự ghi lại. Ví dụ câu “man nhân sở cư viết động” của cổ nhân lưu lại , đến nay thì thấy trong lưu vực Châu Giang có vô cùng nhiều địa danh bắt đầu bằng “động” ( viết bằng chữ 洞 hoặc 峒 ), chỉ lấy riêng ở Hồng Kông vùng cửa sông Châu Giang đã có các địa danh: Mạt động, Cổ động, Sa Loa động, động Tân, Đại động, Hoàng Địa động, Kê Ma động, Nam Sơn động, Quan Âm động v.v. đây là những vùng sâu, xưa người Dao cổ đại từng cư trú. Lại cũng ở Hồng Kông còn rất nhiều địa danh khác mang tên kèm Hẹ, là nơi xưa người Hẹ từng cư trú.Duyên hải Hồng Kông còn có dân sông nước, họ là hậu duệ của người Việt cổ. Cho nên khi trong sách này có nói đến di chỉ Thâm Dõng (Dòng Sâu) ở HK phát hiện cả một công trường lớn khí cụ thời cuối đá cũ thì mọi người bàng hoàng nghi ngờ, đó là do họ không hiểu văn hóa sử thời tiền sử ở lưu vực Châu Giang, rằng thời đó ở đây dân cư đã đông, mật độ khá dày, sản xuất hưng vượng, bởi vậy mới cần chế tác nhiều chủng loại công cụ lao động như vậy, đó là hình thái xã hội, trình độ sản xuất biểu hiện trên thạch khí. [ Nhận xét này logis với tên địa danh là “động” bằng tiếng Việt mà ở Việt Nam cũng vô cùng nhiều địa danh bắt đầu bằng “động” như câu cổ “Đinh Bộ Lĩnh sinh ở động Hoa Lư”. Nhưng có bài của thạc sĩ sử học Việt Nam mới đây giải thích “ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc có nhiều địa danh “động” là do thời Hùng Vương dân cư còn sống trong hang đá”. Tôi đã giải thích chữ “động” nghĩa là vùng, nhưng là vùng dân cư . Đó là do người Việt nói lướt ( dẫn đến “thiết” trong Thuyết văn giải tự) cả câu, câu chỉ nơi dân ở “Đông dân mà đất Rộng”= (thì nói lướt) = Động. Cũng còn vô cùng nhiều các địa danh ở Lĩnh Nam kèm chữ Kê ( nghĩa chữ thì là con gà) , là do mượn âm chữ Kê để ghi tên “Kẻ” trong tiếng Việt , Kẻ thường kèm tên các làng Việt cổ.Bởi tiếng Quảng Đông con gà thì gọi là Tu Cáy, y như tiếng Tày, chứ không phải gọi là Kê, ( từ Con Gà của tiếng Việt đã theo QT Tơi-Rỡi mà diễn biến: Con Gà = Con Cà = Con Kê = Cu Qué = Tu Cáy ). Diễn biến ấy của ngôn từ Việt cùng với những văn hóa khảo cổ vô cùng phong phú phát hiện chục năm lại nay ở Lĩnh Nam (Trung Quốc) mà cuốn sách này kể ra và phân tích (từ chương 1 đến chương 4), cùng với 23 chuyện truyền thuyết truyền miệng chỉ tồn tại trong dân gian Việt Nam như “Tấm Cám”, “Phù Đổng Thiên Vương” v.v trong cuốn sách chép lại vào thế kỷ 13 là cuốn “Lĩnh Nam chích quái” đã làm rõ ràng là cách nay hơn 4000 năm người Kinh của Kinh Dương Vương ( “Kẻ Dính” = Kinh, tiếng Tày thì “người Kinh” gọi là “cần Keo”, người gắn kết 15 bộ của Lạc Việt) đã dẫn đầu các dân tộc anh em để thành lập nên quốc gia Văn Lang “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn”, như chính sử ghi, của 18 thời Hùng Vương ]. Chương 5 “Địa vị của văn hóa tiền sử Châu Giang trong văn hóa dân tộc Trung Hoa”, chương cuối của cuốn sách, có đoạn đại ý: Từ những tư liệu đã dẫn, chứng minh rằng cách nay 4 vạn năm vùng Quảng Đông là cái nôi của tiên dân người Việt cổ, rồi họ tỏa đi bốn hướng, nghiên cứu khảo cổ về đầu cốt chứng minh con người đã thiên di từ Nam lên Bắc, đông đúc lên ở lưu vực Hoàng Hà , rồi di cư cho đến khắp miền Hoa Bắc. Đến thời đá mới họ mới hội nhập với tiên dân của người Hoa Bắc hình thành nên dân tộc Hoa Hạ và dân tộc Đông Di, hai dân tộc này đi tiếp lên vùng Đông Bắc hình thành nên các dân tộc anh em khác. Những học giả này cho rằng khởi nguồn nhân chủng người Trung Quốc là ở phương Nam (Hoàng Tượng Hồng 黄 象 洪, năm 1988). [ Nhận định này cùng logic với câu tôi viết khi nhận xét cách đọc Hán tự theo “thiết” của Thuyết Văn Giải Tự là: Thời của Hứa Thận cách nay 2000 năm có lẽ ở Trung Nguyên cư dân toàn nói tiếng Quảng Đông. Và cũng logic với câu tôi viết: Muốn tìm từ nguyên của Hán ngữ thi lui về “cổ Hán ngữ”, muốn tìm từ nguyên của “cổ Hán ngữ” thì lui về Tiếng Việt. Cho nên chỉ tồn tại khái niệm “từ Việt-Hán” (từ nguyên là của Việt, ghép theo cú pháp của Hán, ví dụ như địa danh ở Hồng Kông viết trong đoạn trên có “Kê Ma động” thì từ nguyên của nó là “động Kẻ Ma”) chứ làm gì có khái niệm gọi là “từ Hán-Việt chiếm đến 70% trong Tiếng Việt” (!) ]
  12. Nguồn gốc dân tộc Choang Bài của tác giả Lan Thiên Minh ở Vân Nam, đăng Văn Sơn nhật báo Tân nông thôn bản(原刊载于2012年2月22日《文山日报.新农村版》兰天明) Đa số các nhà n/c lịch sử và dân tộc học về dân tộc Choang đều cho rằng người Choang bắt nguồn từ người Việt cổ đại 古代的越人. “Hán thư. Địa lý chí” dẫn lời chú của Nhạn Sư Cổ: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám nghìn dặm tạp cư Bách Việt, các tộc có họ riêng”. Bách Việt 百 粤 tức Bách Việt 百 越. Sách “Lã thị xuân thu. Thị quân biên” viết: “Vùng Dương Hán, Vân Nam là thế giới Bách Việt”. Đủ thấy là cổ đại vùng nam Trường Giang cư trú toàn là người Việt, có nhiều họ riêng nên sử gọi là “Bách Việt”. Tây Âu 西 鸥, Lạc Việt 骆 越 phân bố ở Quảng Tây và Quảng Đông đều là Bách Việt, là cội nguồn của dân tộc Choang ngày nay. Năm 221 Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất lục quốc tiếp đó là tiến quân vào Lĩnh Nam, từng gặp phải sự chống cự của người Tây Âu, sách “Hoài Nam tử. Nhân gian huấn” của Lưu An thời Hán và “Sử ký. Tần Thủy Hoàng bản kỷ” của Tư Mã Thiên thời Hán đều có ghi lại việc đó. Chứng tỏ thời đó người Tây Âu cư trú tại vùng này, Tây Âu và Lạc Việt ở xen lẫn nhau. Sách “Nguyên Hòa quận huyện đồ” và “Cựu Đường thư. Địa lý chí” có ghi, Qúi Châu thuộc lưu vực Úc Giang (nay là Qúi Huyện), Phiên Châu (nay là Quảng Đông Cao Châu Huyện) là “nơi cư ngụ của cổ Tây Âu và Lạc Việt” (tức Tây Âu và Lạc Việt ở xen lẫn nhau), “từ Tuyên Hóa Huyện trở về phía nam đều là đất của cổ Lạc Việt”. Sách “Cựu Đường thư. Địa lý chí” ghi : “Hoan Thủy tại Huyện Bắc, vốn là Dương Kha Hà, xưa gọi là Úc Tráng Giang tức Lạc Việt Thủy, có tên khác là Ôn Thủy, là đất của cổ Lạc Việt”. Chỗ gọi là “Hoan Thủy”, “Dương Kha Hà” nay là Bắc Bàn Giang, còn chỗ gọi là “Lạc Việt Thủy”, “Ôn Thủy” nay là Nam Bàn Giang, đây không phải là một con sông. Điều này chứng tỏ rằng lưu vực nam và bắc Bàn Giang tự cổ là nơi xuất thân của người cổ Lạc Việt. Sách “Linh ngoại đại đáp” của Chu Khứ Phi thời Tống viết: “Khâm dân có năm loại, một là thổ dân là chủng Lạc Việt tự xưa". Tức thổ dân Khâm Châu là người Lạc Việt cổ đại. Lại viết: “Ngôn ngữ thổ dân Khâm Châu dựa môi lưỡi tạp làm âm thanh, lạ không thể hiểu, vị chi Lâu Ngữ 萎 语”. Theo khảo chứng của các nhà ngôn ngữ học, cái gọi là “Lâu Ngữ 萎 语” có thể chính là Lạc Ngữ, tức là tiếng Choang ngày nay. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Choang bảo lưu đặc điểm của ngôn ngữ người Việt cổ đại thể hiện rõ ở kết cấu ngữ pháp và nguồn từ vựng cơ bản. Mặt khác trong tập tục, người Choang cũng bảo lưu nhiều đặc trưng của dân tộc Bách Việt như xăm mình, ở nhà sàn, tôn sùng trống đồng, bói chân gà.
  13. Đại từ nhân xưng trong Tiếng Việt xuất phát từ con số Một (ngôi thứ nhât) và con số Hai (Mai, là ngôi thứ hai. Từ ngôi Một có Một=Mỗ=Ngô=Ngộ=Người=Tôi=Tui=Tau=Tao=Ta=Nha=

    =Nhà=Gia=Giả=Cả=Cau=Qua=Kẻ=Con=Cu=Kô=Mỗ=Một ( Cau là người Philippin dùng, Kô là người Nhật dùng, Qua là người Quảng Nam dùng). Từ ngôi Hai có Hai=Mai=Mày=Mừ=Mi (Mừ là người Tày-Thái dùng)

  14. Zh.wikipedia Năm 40 (Đông Hán Quang Vũ Đế, Kiến Vũ niên 16) Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa công thủ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố v.v. . Man, Di hưởng ứng rầm rầm. Thái thú Hán triều là Tô Định tháo chạy khỏi Nam Hải quận. Hai Bà Trưng tổng cộng nắm giữ được 65 thành trì, rất nhiều quân nhân Lạc Việt thuận tùng Hai Bà, Trưng Trắc được tôn làm Trưng Vương, sử gọi là Trưng triều, phạm vi hoạt động nam tới Trung bộ Việt Nam, bắc tới Khâm Châu, Bắc Hải, Phòng Thành thuộc Quảng Tây v.v. 《 Hậu Hán thư, quyển 24 , Mã Viện liệt truyện và quyển 86, Nam man tây nam di liệt truyện 》 đều có ghi về chiến trận của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán xâm lược, và ghi là Hai Bà tử trận, nhưng không có ghi chuyện Mã Viện trồng cột đồng chia ranh giới đất Hán. Mãi đến thời Đường có Lý Diên Thọ soạn viết cuốn 《 Nam sử 》 mới ghi “Mã Viện sở thực nhị đồng trụ, biểu Hán gia giới sở dã 馬 援 所 植 二 銅 柱,表 漢 家 界 處 也 Mã Viện từng trồng hai cột đồng để ghi ranh đất nhà Hán” . 《 Tân Đường thư 》 lại ghi Mã Viện trồng năm cột đồng. Về sau các sách của VN như 《 Việt sử lược 越 史 略 》,《 Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書 》, 《 Khâm Định Việt sử thông giám cương mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱 目》 đều có ghi chuyện Mã Viện trồng cột đồng. Cuốn 《 Việt điện u linh tập 粵 甸 幽 靈 集 》 truy xưng Bà Trưng là Trưng Thánh Vương 徵 聖 王. Có đến mấy chục vị nữ tướng của Hai Bà được tôn thờ làm Thành Hoàng ở các làng VN. Ngày 14-03-1959 (nhằm ngày Giỗ Hai Bà 6 tháng Hai âm lịch) VNDCCH phát hành bộ tem Hai Bà Trưng gồm hai tem hình Hai Bà cưỡi voi thống soái nghĩa quân. Cùng ngày, VNCH phát hành bộ tem Hai Bà gồm bốn tem hình Hai Bà cưỡi voi đánh trận.
  15. Khi n/c nhân chủng qua gen phải hiểu một quan niệm khoa học đầu tiên quan trọng là: “Nhiễm sắc thể Y” hàm chứa 78 gen là di truyền từ Bố, công năng chủ yếu của 78 gen này chỉ là khởi động phát dục của Nam tính để chế tạo tinh trùng, sau phát dục thì tính cách Nam, tính khí quan v.v. đều do các nhiễm sắc thể khác (có tới 2-2,5 vạn gen) quyết định, những nhiễm sắc thể này đều đến do Tổ, là sự hỗn hợp của hai bên Bố và Mẹ. [ Ổ là cái chung nhất. Động vật đã tiến hóa từ dưới nước, đến lưỡng cư như Nòng-Nọc, rồi đến sống hẳn trên cạn, rồi mới đến thành chim biết bay. Nôi của các loài có trước chim gọi là Ổ, còn Nôi của loài chim gọi là Tổ, do lướt “Từ Ổ” = Tổ, tức đã đi từ mặt đất rồi mới biết bay thành chim. Do tổ chim thường làm trên Cây = Cao nên Tổ của chim còn được gọi là Sào 巢 và cái que giúp nối dài cánh tay để vói lên Cao cũng gọi là cây Sào. Tổ của chim gọi là Sào đã gợi ý cho người nguyên thủy làm Ổ = Chỗ = Ở = (Ư 於 = Âu 瓯 = Yêu = U = Vu 於, đều chỉ sự Ở như là trong cái để Đựng = Đường 堂) trên chạc cây cao để tránh thú dữ. Cây Sào (thủa ban đầu là một cây đơn có đẽo bậc để dễ bám mà trèo lên) có công năng đầu tiên là dùng để Trào=Trèo=Leo lên Sào mà ở (ngoài tránh thú dữ còn tránh được nước lũ Trào 潮 = Triều 潮 = Tràn lên cao), khi gặp lũ mới biết phát huy công năng thứ sinh của cây Sào là dùng để Trao=Chao==Chèo thuyền. Sào ở của người khác với Sào ở của chim là được làm Dàn=Dang=Ngang rộng ra thành một vuông bằng bặn không dốc, nên gọi lướt là “Sào Dàn” = Sàn. Thổ dân Indonexia gọi nó là “Tan-Ga”, thổ dân Việt gọi nó là “Sàn Nhà”, thổ dân Chăm gọi nó là “Thang-Giơ” và Việt nho viết bằng hai chữ “Đường Gia 堂 家” . Chữ Đường 堂 cụ thể chỉ cái nhà thiên về ý phần trong của nó, về sau Hán nho dùng chữ Đương Huynh Đệ 堂 兄 弟 để chỉ anh em cùng họ đằng nội. Từ đôi Sàn Nhà = Đường Gia là lối ghép từ đôi nguyên thủy, cái Trong có trước thì đứng trước, cái Ngoài có sau thì đứng sau. Khi người ta Dựng nhà bằng cây, tức Dựng cái để Đựng, cho con người, thì bao giờ cũng dựng cột kèo là cái trong trước, rồi mới đến làm mái và phên là cái ngoài, cái thiên ý ngoài gọi là Nhà=Da=Giỏ=Vỏ=Ván=Váy=Quây=Cót=Lót=Lều=Lán, (đều là những cái để Đựng). Thiên ý trong là Sàn=Giàn=Giường=Đường 堂 =(Trướng 帐 = Trong = Trung 中= Phùng 篷). Sau giai đoạn ở Sào làm dựa vào chạc cành có sẵn trên cây thì người nguyên thủy làm Nhà Sàn trên các cọc cắm trên nền đất. Cái Sàn để sinh hoạt trong nhà là làm bằng cách ghép Vỏ cây hoặc cật Nứ a sít lại với nhau gọi là Đan = Nan = “Tan” (trong từ “Tan- Ga” của thổ dân Indonexia) = =Sàn = Ván = Vỉ = Thỉ 屉 = Vì屉 = Vỏ = Giỏ = Giát, giống như những thanh Vì ghép sát nhau đỡ hay đựng cho ngói khi lợp mái nhà. Lúc này công cụ để bước lên Nhà Sàn không còn là một cây Sào nữa mà là cái “Thang” (trong từ “Thang-Giơ” của tiếng Chăm) làm bằng hai cây sào có những thanh ngang để tiện đặt chân bước lên, cái dụng cụ ấy gọi lướt “Thanh Ngang” = =Thang (ngày nay không còn dùng Nan hay Thanh để làm thang nữa nhưng vẫn gọi là Thang Máy). Hàng vạn năm trước khi Việt và Hán chưa gặp nhau, chưa biết nhau, thì do sinh thái phương Nam sông nước và sinh thái phương Bắc đồng cỏ đất khô là khác nhau, người Việt nguyên thủy ở Sào, người Hán nguyên thủy ở Huyệt, là nơi trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng có những rãnh đất khô sâu là vết nứt do động đất từ xa xưa để lại, người Hán nguyên thủy du mục trên đồng cỏ khoét vách rãnh đất khô đó thành hàm ếch làm chỗ ở tránh gió tuyết lạnh, người Việt gọi kiểu ở đó là ở Huyệt. Khi hội nhập hai nền văn hóa Nam với Bắc tại vùng đồng bằng khô Hoàng Hà, lúc đó Việt nho mới có từ đôi Sào Huyệt để nhấn mạnh chỉ chỗ ở của một tổ chức nhiều người (thiên về dùng cho bọn cướp). Gọi là Sào Huyệt 巢 穴 chứ không gọi là Huyệt Sào, vì Tiếng Việt từ Sào có trước, từ Huyệt có sau. Hán nho mượn từ đôi Sào Huyệt 巢 穴và dùng nguyên theo thứ tự ghép như vậy (nếu bạn gõ chữ Hán ngữ đúng thứ tự Sào Huyệt thì sẽ hiện lên hai chữ nho đúng thứ tự Sào Huyệt 巢 穴, còn nếu gõ Huyệt Sào thì máy tính sẽ không hiểu và không hiện lên hai chữ Huyệt Sào). Khi đang còn ở Sào 巢 người nguyên thủy cất xác chết trong hang núi cheo leo chứ chưa có tục đào Huyệt 穴 chôn xuống đất như khi đã chuyển sang sống nghề trồng trọt định cư. Huyệt cũng là cái Ổ, nhưng là Ổ chôn xác chết: Ổ=Hố=Hốc=Hang=Huyệt, “Hố chôn một thây Việt” = Huyệt. Về sau không ở Huyệt nữa thì người Hán nguyên thủy du mục làm nhà ở bằng may các tấm da cừu (về sau lại làm bằng các tấm vải bạt) thành cái lều hình chóp tròn. Việt nho gọi cái lều vải ấy bằng từ đôi theo thiên ý “Trong” là cái Trướng Phùng 帐 篷 (đây là một từ đôi của Việt nho, Hán ngữ hiện đại vẫn dùng y nguyên thứ tự từ đôi Việt này, nếu gõ ngược là Phùng Trướng thì máy sẽ không hiện hai chữ Trướng Phùng 帐 篷 này. Bởi vì từ nguyên của từ “ở Trướng Phùng” chính là từ “ở Trong Phên” của cái nhà tre Việt. Người Việt nguyên thủy đã đem cái từ ở trong nhà tre của Việt là “ở Trong Phên” để gọi cái ở trong lều vải của người Hán nguyên thủy là “ở Trướng Phùng” . Từ này có lẽ xuất hiện sau khi người Việt đã bán Vải cho người Hán, trước khi người Hán học được cách trồng bông dệt vải của kỹ thuật nông nghiệp của người Việt, vải bán theo số lượng từng Bó, từng Bó để dễ chất lên lưng Lừa hay Lạc Đà của người Hán, nên người Hán gọi vải là Bố 布. Và Bố=Bạt. Nhưng thiết kế lều vải hình chóp tròn thì là đúng bản quyền của người Hán, trước đó người Việt chưa từng nhìn thấy kiểu ở như vậy. Người Việt nguyên thủy chỉ biết Nhà Sàn (như ở di chỉ Hà Mẫu Độ thuộc Triết Giang có niên đại một vạn năm đã phục dựng nhà sàn bằng cây , có mái lá cong ) và chỉ biết “Mâu Lô 茅 廬” (lều bằng cỏ lau) mà Lưu Bị ở thủa hàn vi.]
  16. Hạ Vũ Sự ra đời của Vũ có nhiều thuyết: 1.Truyền thuyết kể rằng sau khi Cổn 鯀 chết thì Vũ 禹 mới ra đời. Cổn do lấy trộm (Trộm = Triệt = Thiết 竊 , trộm nghĩ = thiết nghĩ) đất thu tô của thượng đế để lấp hồng thủy nên bị thượng đế xử tội, lệnh cho thần Chúc Dung giết chết (theo sách 《Sơn hải kinh. Hải nội kinh 山 海 經.海 內 經》). Cổn chết ba năm mà xác không rữa nát , mổ xác Cổn ra thì lấy được Vũ sinh ra. 《山 海 經.海內 經》 : Hoàng Đế sinh Lạc Minh 駱 明, Lạc Minh sinh Bạch Mã 白 馬. Bạch Mã thị vi Cổn 鯀. … Đế lệnh Chúc Dung giết Cổn ở Vũ Giao. Cổn phục sinh Vũ) 2. Cổn 鯀 là người đàn bà, sinh ra Vũ. Sách 《Sở giản.Tử Cao biên 楚 簡.子 羔 篇 》 ghi Khổng Tử luận Vũ sinh ra do mổ ở lưng mẹ mà lấy ra, mẹ Vũ mang thai đến ba năm, Vũ sinh ra đã biết nói ngay. “ Hoàng Đế đẻ Xương Ý, Xương Ý đẻ Cao Dương thị vi Đế Chuyên Húc, Chuyên Húc đẻ Cổn, Cổn đẻ Văn Mệnh thị vi Vũ”. 3.Từ thời nhà Hán về sau, thư tịch ghi lại truyền thuyết, và cho rằng Vũ 禹 là một người đàn ông, ghi theo phả hệ dòng bố như kiểu đích tôn cha truyền con trai nối, rằng Cổn 鯀 là bố của Vũ 禹 (Tư Mã Thiên viết về sử nhà Tây Hán trong “Sử ký. Hạ bổn kỷ 史 記.夏 本 紀”: Bố của Vũ là Cổn, bố của Cổn là “đế Chuyên Húc 帝 顓 頊”, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, bố của Xương Ý là “Hoàng đế 黃 帝”, “ Vũ giả, Hoàng đế chi huyền tôn nhi đế Chuyên Húc chi tôn dã 禹者,黃帝之玄孫而帝顓頊之孫也” - Kẻ Vũ là cháu 5 đời của Hoàng đế, còn Chuyên Húc là cháu 3 đời của Hoàng đế” [ Đọc trong nguyên bản hành văn trên, thấy cú pháp lẫn lộn khi Hán, khi Việt. Tất cả dựa vào truyền thuyết, nhưng lại muốn qui cho ông Tổ đầu tiên là Hoàng đế, gọi theo cú pháp Hán, nhưng cháu nội đích tôn của ông ấy lại không gọi là Chuyên Húc đế mà lại gọi là “đế Chuyên Húc”, gọi theo cú pháp Việt; đến hàng mấy ngàn năm sau (theo như sử này nói Hoàng Đế là Tổ của người Hán cách nay 5000 năm), cái ông vua đang chỉ đạo viết sử này, chính ông ấy lại được gọi là Hán Vũ đế, gọi theo cú pháp Hán. Vậy chứng tỏ là sử cổ đại (truyền thuyết) trên Hán thư ghi lại là do người Hán chép lại và có xào nấu lại sử cổ đại của Việt. Cổn 鯀 được cho là bố của Vũ 禹. Vậy mà chữ Vũ 禹là chữ đơn thể, tự nó gốc gác là từ tượng hình trên giáp cốt văn, diễn tả hình người bắt rắn (Thuyết Văn đọc: lướt “Vương 王 Cụ 矩 = Vũ 禹, giải thích là loài 蟲 Trùng; Trùng=Trùn=Tròn=Trăn=Rắn (loài không có chân); nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Váng 王Chuy 矩”= = Vuy, không thành Uỷ như pinyin “Yu 禹” được). Trong khi chữ Cổn 鯀 là chữ ghép biểu ý, là kiểu chỉ có từ khi có qui tắc lục thư do soạn ra từ thời nhà Tần, chữ Cổn này gồm chữ Hệ 系( từ nguyên là Họ) và chữ Ngư 魚là cá, ám chỉ dân sông nước, giải thích là một loài cá, ( Ngư 魚 Hệ 系 thì có thể hiểu là con Cá Hô . Thuyết Văn đọc: lướt. “Cổ 古 Bổn 本” = Cổn 鯀, nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Củ 古 Pẩn 本” = Cẩn, không thành Cun như pinyin “Gun 鯀” được). Chữ Cổn 鯀phát âm Hán là “Cun” (pinyin “gun”), nó có từ nguyên chính là từ Con của Tiếng Việt mà thôi, nhưng Con ở đây là Con Mẹ hay Con Mụ, tức là một Bà, vì thời cổ đại hàng vạn năm trước ấy vẫn còn là thời mẫu hệ gọi là Thị Tộc; U=Vú=Vũ=Mụ=Mẹ=Mẫu. QT Tơi-Rỡi: Cả = Con = Quan = Quân = Cun = Khun = Khôn = Khuông = Vuông = Vua = Văn = Vũ = Vương = = Tướng = Hường = Hoàng = Voòng = Vàng = Lang = Lớn = Cổn = Cả. Pò Khun là Bố Cả hay Bố Cái. Sông Cả cũng gọi là sông Cái. Tên thường gọi trong truyền thuyết chuyện kể là “Đại Vũ” là do những cái tên Lang Vũ, Lớn Vũ, Cổn Vũ, Cả Vũ, Đà Vũ (chuyện cổ tích “ông Đùng bà Đà”), nên khi viết lại sử từ truyền thuyết dân gian, nghe tiếng Cổn Vũ thì dễ coi như bố Vũ là Cổn, hay nghe thấy tên Đà Vũ thì dễ coi như mẹ Vũ là bà Đà hay bà nữ Oa. Những từ có sau như Chu Văn Vương là ông Vua họ Chu, Chu Vũ Vương cũng là ông Vua họ Chu, Lưu Hướng là ông Vua họ Lưu, Hán Vũ Đế là ông “Đứa Vua nước Hán” hay “Đức Vương nước Hán” cũng là một. Ngôn ngữ dân gian thì nó là như vậy, dù là Vua hay Quân hay Vương hay Tướng thì cũng là Con, tức là từ đẻ cái chửa mà ra, mà lướt “Đẻ cái Chửa” = Đứa. Từ nguyên của chữ Đế là Nước, do Té = Tức = Tế = Đế = Đức = Đác = Nác = Nước. Người đứng đầu Vùng gọi là Vua hay Vương thì người đứng đầu Nước gọi là Đế hay Đức (tiếng Khơ Me gọi là Xăm Đéc). Thời Văn Lang lập Nước cách nay gần 5000 năm, đó là thời Đế Minh. Căn theo cái âm tiết, thì nguyên thủy từ Đế Minh chưa có nghĩa là Vua Sáng, nó có nghĩa là “Đức của Mẹ Kinh”, tức người đứng đầu quốc gia của người Kinh, Đầu Nước = Đầu Tức = Đức; Mẹ Kinh = Minh; chế độ là mẫu hệ; người đứng đầu nước là do cộng đồng bầu lên, là đàn bà hoặc đàn ông, thay đổi cũng là do bầu, gọi là Thiền nhượng (Thay Hiền = Thiền). Khái niệm “Sáng” khởi thủy là do từ Trời và từ Trăng. Trời = Rọi = Chói = Chiếu 照 = Triêu 朝 = Diệu 耀 (Hán ngữ phát âm khái niệm Rọi là “Rừ” viết là chữ Nhật 日; phát âm chữ Nhiệt 热 có bộ hỏa là “Rừa”, do từ lướt của tiếng Việt là “Rực Lửa” = “Rừa”, nghĩa là nóng, mà Nóng = Nắng = Dàng = Dương = “Yáng 阳” ); Trăng = Rạng = Sáng = Láng = =Lượng 亮. Rọi sáng là một câu, nhưng Sáng Soi là một từ đôi, do lướt Sáng + Sáng Rọi = Sáng Soi, lướt “Sáng Rọi” = Soi. Do người Kinh, cũng tức là người Việt, nên từ Mẹ Kinh = Minh người ta viết bằng hai chữ Việt ghép lại với nhau (để mang ý là nhiều, theo kiểu có âm có dương thì đẻ ra nhiều), hai chữ Việt đó là chữ Nhiệt 日 và chữ Nguyệt 月( QT Tơi-Rỡi: Việt = Nguyệt 月= Nhiệt = Nhật 日, để nói là dân xứ nóng, dân mặt trời), thành ra chữ Minh 明.Chữ này chẳng có tá âm "inh" gì cả mà lại gọi là Minh, vậy nó chỉ có thể là do "Mẹ Kinh" = Minh , thiết mà thôi. Do ghép như vậy nên chữ Minh 明 gồm Nhật 日và Nguyệt 月 mới đại diện cho cái nghĩa do biểu ý của chữ, nghĩa là Sáng, nó là cái khái niệm có sau từ Sáng, chỉ có nghĩa trên mặt chữ, tức là dùng chữ Minh 明 nghĩa là sáng cho ý văn học như từ minh chứng, minh bạch. Khẩu ngữ Hán ngữ chỉ dùng chữ Lượng 亮 (“liang”), khẩu ngữ Tiếng Việt chỉ dùng chữ Sáng]. Mẹ của Vũ là Nữ Hỉ 女 嬉 (theo “Ngô Việt Xuân Thu. Việt vương Vô Dư ngoại truyện 吳 越 春 秋.越 王 無 余 外 傳”, soạn giả là Triệu Hoa 趙 曄 thời Đông Hán 25-220 ) : Vũ phụ Cổn giả, đế Chuyên Húc chi hậu 禹父鯀者,帝顓頊之後 Cha Vũ là Cổn, con của đế Chuyên Húc. Cổn 鯀 lấy con gái họ Tân 莘 tên là Nữ Hỉ 女 嬉 . ( Có vùng đất thuộc Thượng Hải tên Tân 莘, cũng có vùng đất thuộc Sơn Đông tên Tân 莘). [ Nguyên văn: “hữu Tân thị 有 莘 氏”, hữu Tân nghĩa là họ Tân, chữ Thị 氏 sau thì sách nói là do ý tôn kính đối với họ quí tộc, ví dụ như viết “hữu Hùng thị 有 熊 氏” nghĩa là "họ Hùng quí tộc". Chú ý lối ghép này là cú pháp Việt, mà chữ Hữu 有, (hoặc có thể dùng chữ Hệ 系), chỉ là tá âm cho chữ Họ, tức là dùng chữ nho đang sử dụng thời người soạn, có âm na ná để phiên dịch âm tiết Họ được viết bằng chữ khoa đẩu dùng trước đó; nếu là lối ghép cú pháp Hán thì phải viết là “Tân tính 莘 姓”, “Hùng tính 熊 姓,雄 姓”. Vì ghép là theo cú pháp Việt, nên từ nguyên lại phải đẩy lùi về đến Tiếng Việt mà tìm: “hữu Tân thị” có từ nguyên là “họ Tân chị”, tức là họ Tân, mà lấy theo họ mẹ, chứng tỏ thời đó là thời mẫu hệ, người ta lấy họ theo họ Mẹ (nhiều nhóm người Hoa ở Việt Nam đến ngày nay vẫn còn lấy họ theo họ Mẹ). Thời Hùng Vương chắc là vẫn còn dùng chế độ mẫu hệ, lấy họ theo họ Mẹ, nên người Việt có tục thờ Mẫu. Phật giáo truyền vào thì Phật một mặt giữ nguyên, mặt khác Phật còn bị Việt hoá mà hóa thân thành Phật Bà Quan Âm. Chế độ mẫu hệ có lẽ còn kéo dài đến tận thời Hai Bà Trưng, nên người Hoa Nam có tục thờ Vua Bà. Địa danh trên đất nước thì Bà nhiều hơn là Ông, đền thờ Bà Chúa thì thấy nhiều chứ đền thờ ông Hoàng Tử thì nghe hiếm. Tuy nhiên chế độ mẫu hệ nhưng Vua có thể là đàn bà hoặc đàn ông, bình đẳng chọn theo “thiền nhượng” để kén hiền tài. Tiếng Việt thì cá nhân mỗi con người là Kẻ. Kẻ = Cả = Cha = Giả 者 = Gia 家, chỉ người đàn ông. Kẻ = Mẹ = Đẻ = Đĩ = Chị = Kỹ 妓 = Thị 氏 = Thư 姐, chỉ người đàn bà. Những từ như Đĩ hay Kỹ Nữ 妓 女 cổ xưa nó chưa biến nghĩa thành nghĩa xấu, chẳng qua là về sau do xã hội qui định. Nhiều nơi người Việt vẫn gọi Mẹ là Đẻ hoặc là Chị. Từ đôi là hai từ đồng nghĩa ghép với nhau để nhấn mạnh ý. Khi chửi “Mẹ mày !”, để nhấn mạnh ý người ta còn dùng từ đôi là “Đĩ Mẹ mày !”. Chế độ mẫu hệ lấy họ Mẹ, chế độ phụ hệ lấy họ Cha, là do qui định của cộng đồng xã hội, chẳng phản ánh gì về sự tiến bộ hay thoái hóa xã hội, miễn là không cận hôn. Thông thường xã hội qui định sau năm đời thì hết cận hôn. Ở Việt Nam có họ còn qui định riêng là muôn đời cùng họ không được lấy nhau, mà vẫn được mọi người trong họ đó chấp hành nghiêm, hoặc như liền anh liền chị của quan họ Bắc Ninh dù khác họ, dù yêu nhau say đắm đến mấy vẫn chấp hành nghiêm lệ của quan họ là không được lấy nhau, vẫn coi nhau là bạn và vui mừng cho hạnh phúc riêng của nhau. Thế mới thấy cái ứng xử văn hóa “phép Vua còn thua lệ Làng” nó có uy lực đến nhường nào. Ngày nay có kẻ đến phép Quốc Tế nó còn chẳng coi là cái đinh gì, muốn chiếm biển, cướp đảo của người ta là chiếm, cho nên nó bị “mất mặt”, Hán ngữ gọi là “tiu liẻn 丟 臉”; Mất = Thất 失 (“sư”) = Tốt 卒 (“zú”) = Toi = Tiêu 消(“xieo”) = Điệu 掉 (“tieo”) = Đu = Đéo = Đểu = “丟 Tiu”; Mặt = Miện 冕 (“mien”) = Diện 面(“mian”) = Liễn 臉 = “Liẻn 臉”. ( Các phát âm có ngoặc kép trong ngoặc đơn là phát âm của Hán ngữ , không hoàn toàn thể hiện được QT Tơi-Rỡi của một nôi khái niệm, nếu đọc theo âm Việt thì nó liền một mạch theo QT Tơi-Rỡi của một nôi khái niệm, chứng tỏ chúng đều có gốc là từ Việt , có những từ được viết bằng chữ nho. Qua đó cũng thấy rõ: Muốn tìm từ nguyên của Hán ngữ thì lui về “cổ Hán ngữ” mà tìm, muốn tìm từ nguyên của “cổ Hán ngữ thì lùi nữa về Tiếng Việt mà tìm, ngôn ngữ Việt là nền tảng của Hán ngữ). Đi từ Âm Dương thì cặp đối nghịch 0/1 = Mô/Một, Mô=Mất, Một=Mãi=Mai=Lai; giữ Một nguyên tắc Quốc Tế thì còn trong tương lai Mãi Mãi, chứ “mất mặt” thì Mất hẳn, bằng Mô=Vô là con số 0. Mặt, Mắt, Mũi, Môi, Mồm, Mép đều ở trên cái Mặt và làm nên cái Mặt của con người.] Nữ Hỉ 女 嬉 đến tuổi chững (niên tráng 年 壯, chứ chưa đến tuổi chiều) rồi mà vẫn không có chửa, một hôm ở Để Sơn 砥 山 (núi toàn những hòn đá mài nhỏ) nhặt được cây ý dĩ 薏 苡, nhai nuốt vào thế là có thai, phải mổ đẻ ra Cao Mật 高 密. Nhà ở Tây Dương 西 羌, đất ấy là Thạch Nữu 石 紐. Thạch Nữu tại Thục Tây Xuyên ạ 石 紐 在 蜀 西 川 也. Nơi sinh của Vũ thì nhiếu sách viết khác nhau. Sách “Đế Vương thế kỷ” của Hoàng Phó Bật 皇 甫 謐 thời Tây Tấn viết: Chuyên Húc 顓 頊 sinh Cổn 鯀, Cổn được Nghiêu 堯 phong làm Sùng Bá 崇 伯 [tước ưu huệ thứ ba], Cổn 鯀 lấy vợ họ Tân tên là Chí 志, thị vi Tu Kỷ 修 己 [ “Tu Kỷ” = Tý = Chí = Hỉ ]. Chí 志 lên núi ngửa mặt thấy sao bay, mà cảm hứng, rồi nuốt thần châu ý dĩ, chuyển dạ đẻ ra Vũ 禹 ở Thạch Nữu 石 紐. Sách “Sử ký. Lục quốc niên biểu tự” của Tư Mã Thiên thời Tây Hán viết Vũ sinh ở Tây Dương. Sách thời Nam Tống 《Thế thuyết tân ngữ. Ngữ ngôn biên 世 說 新 語‧語 言 篇》 viết: Vũ sinh ở Đông Di. Sách 《Tùy sào tử 隋 巢 子》 viết: Vũ lấy vợ Đồ Sơn, trị hồng thủy.
  17. QT Tơi-Rỡi để tạo ngôn từ cho thấy: Ổ=Hộ=Hệ=Họ=To=Tổ=Tộc. Đông người sinh sống tập trung ở một vùng đất thì vùng đó gọi là “Đất đông Hộ” = Đô, như QT Lướt để tạo ngôn từ cho thấy. Những đất tập trung đông người là Đô 都 = Chỗ = Chạ = Chợ = =Chỉ 址 = Thị 市(Hán ngữ mượn chữ Thị 市 để gọi cái Chợ) là nơi để người ta Giao lưu trao đổi Giữa người với người, là Chỗ Trao = Chỉ Giao (Chỉ Giao 址 交 viết theo ngữ pháp Hán thì là Giao Chỉ 交 址). Từ nguyên của Giao 交 là một từ cổ xưa hơn nữa từ thời nguyên thủy, chỉ động tác giao hợp của sinh thực khí đực và cái (như hình vẽ của giáp cốt văn), đó là từ Lẹo (như hai con bướm tằm hay hai con chó đang Lẹo nhau). Lẹo=Đéo=Chéo=Chập=Vập=Vào=Trao=Giao=Giữa=Gian=Dâm=Giấm ( dương thực khí khi đã vào bên trong âm thực khí thì nó giao cái dịch nó tiết ra cho trứng để giấm trứng cho đến khi trứng nở, như giấm trái cây hườm vài ngày cho đến khi nó chín). Từ Giao Dịch là động tác rất cụ thể của tính dục đã trừu tượng hóa lên thành từ Giao Dịch trong thương mại (chỉ có điều là viết bằng chữ Dịch 易 biểu ý khác chứ không phải là chữ Dịch 液 là nước tinh dịch). Hoạt động mua bán thường có người thứ ba chen vào Trong Giữa bên bán và bên mua, người làm Trong Giữa ấy viết bằng chữ Trung Gian 中 間 cho việc Giao Dịch. Gian 間 là Giữa nên nó ở bên trong, nên phần trong của cái nhà thì phải có nhiều Gian. Từ lướt “Đất đông Hộ” = Đô. Từ ghép Kinh Đô 京 都 là một từ viết tắt từ cái nghĩa đen là “nơi người Kinh quần cư là Đất đông Hộ”. Như vậy từ Kinh Đô là một từ thuần Việt của tiếng Kinh. Người Kinh còn tự xưng mình là Kẻ, nên làng Việt cổ nào cũng có tên đầu là Kẻ (tiếng Tày gọi Kinh là Keo), vì vậy Kinh Đô còn gọi là Kẻ Chợ, do Đô=Chỗ=Chạ=Chợ=Chỉ=Thị. Một người thì gọi là Cha, có khi còn gọi là thằng Cha, đông người thì nặng hơn nên gọi là Chạ, đi lang chạ là đi lang thang với nhiều người (chỉ gái điếm) Đô=Chợ nên chữ Đô 都 (= 者邑) viết bằng ghép chữ Cha 者 và chữ Ở 邑, đọc lướt “Cha Ở” = Chợ. Kẻ=Cả=Cha=Ta=Gia=Giả 者. Ở=Ổ=Ấp 邑. Chợ thì mới là cái từ gốc có trước, tại Chợ thì đương nhiên là có rất đông hộ bán hàng, Chợ là cái “Đất đông Hộ” nên người Việt mới lại phải lướt “Đất đông Hộ” = Đô, như vậy Đô chỉ là một cách gọi khác, có sau, hệ quả của cái Chợ là “Đất đông Hộ”. Hán nho mượn chữ Đô 都 có sẵn này của Việt nho (mà Hán phát âm 都 là “tu”). Vậy rõ ràng là muốn tìm từ nguyên của từ “tu 都” này của Hán ngữ hiện đại thì phải tìm về từ “Đô 都” của cái mà họ gọi là “cổ Hán ngữ”; muốn tìm từ nguyên của Đô 都 trong “cổ Hán ngữ” thì tìm về Tiếng Việt, đó là từ Chợ 都 ( “Cha 者 Ở 邑” = Chợ ). Thuyết Văn Giải Tự hướng dẫn đọc chữ Giả 者 (như “tác giả”, “học giả”) là lướt “ Chi 之 Dã 也”= Cha; đọc chữ Ấp 邑 là lướt “Ư 於 Cấp 汲”= Ấp, nhưng Ấp nghĩa là đất Ở do vua ban, nên chữ Ấp cũng đọc là Ở. Chữ mà về sau Hán nho đọc là “tu 都” (Đô 都) vốn xưa là của người Việt, Việt nho đọc là Chợ 都, do lướt “Cha Ở” = Chợ
  18. http://vn.news.yahoo.com/%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c-20-000-usd-nh%E1%BB%9D-ch%E1%BB%89-%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-cho-044600737.html Câu chuyện đẹp như trong cổ tích xảy ra trên đường phố California, Mỹ, khi một cô gái nghèo mang bệnh nhờ vô tình giúp đỡ một tỷ phú tốt bụng mà đã có đủ tiền để qua cơn hiểm nghèo. Tỷ phú Ty Warner, Jennifer Vasilakos, cô gái bị suy thận đã chỉ đường giúp ông và bức thư ông đính kèm tờ ngân phiếu 20.000 USD. Ảnh: aboutbeanies, The Sideshow The Sideshow mới đây cho hay chuyện xảy ra hồi tháng trước. Tỷ phú Ty Warner dừng lại hỏi đường ở Santa Barbara, California, và gặp Jennifer Vasilakos. Trong khi ông Warner không biết rõ ông phải đi đường nào thì Vasilakos cũng không nhận ra người mình đang giúp đỡ là ông vua sản xuất đồ chơi Mỹ. Vasilakos đang đứng ở ngã tư đường để kêu gọi mọi người quyên tiền giúp cô chữa bệnh. Cô bị suy thận nhưng không kiếm đâu ra đủ 20.000 USD để phẫu thuật cấy ghép tế bào gốc. Vasilakos đã kể lại cuộc gặp gỡ định mệnh giữa hai người trên blog của mình. "Tôi vẫn thường gặp những người lạ ngẫu nhiên hỏi đường. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi đưa cho ông ấy tờ giấy giới thiệu về mình và ông ấy ủng hộ tôi 50 USD. Khi ông ấy lái xe đi, tôi tưởng rằng cuộc gặp gỡ đã khép lại. Vậy mà một giờ sau ông ấy quay lại. Kéo kính cửa sổ xe xuống, ông ấy đưa tay ra và giới thiệu bản thân. Tôi rất bất ngờ khi nhận ra tên của ông ấy. Ông ấy rất tốt bụng và chân thành khi nhìn thẳng vào mắt tôi. Ông ấy nhắc đi nhắc lại rằng sẽ giúp đỡ tôi. Và việc gây quỹ của tôi đã thành công. Từ giờ tôi không cần phải lo lắng nữa. Ông ấy nói sẽ gửi cho tôi một tấm ngân phiếu khi trở về văn phòng tuần này". Tỷ phú Warner đã giữ đúng lời hứa. Vasilakos, một người bán thảo dược kiêm giáo viên dạy Reiki, một phương pháp dưỡng sinh và trị bệnh, nhận được một bưu phẩm hôm 16/7 với tờ ngân phiếu 20.000 USD và một lá thư viết tay từ ông Warner. "Tôi chưa bao giờ lạc đường cả nhưng số phận đã khiến tôi đi lạc và nhờ cô dẫn đường. Phần còn lại của câu chuyện, tôi hy vọng sẽ là một cuộc đời mới tươi đẹp dành cho cô", bức thư viết. Vasilakos đã khóc ngay sau khi đọc những dòng nhắn nhủ trên. "Tôi vô cùng biết ơn ông Ty Warner và mọi người đã ủng hộ tôi bằng tình yêu và những lời cầu nguyện", cô nói. Tấm ngân phiếu được sử dụng một vài tuần sau đó. Vasilakos đã chọn một bệnh viện nước ngoài để bắt đầu cấy ghép tế bào gốc tạo huyết hay còn gọi là ghép tủy. Cấy ghép tế bào gốc tạo huyết là lấy một tế bào trong máu hoặc tủy xương có khả năng tái tạo và biệt hoá thành nhiều loại tế bào khác để thay thế cho các tế bào đã bị mất đi. "Sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Jenifer, tôi đã tự tìm hiểu thêm về nhu cầu tế bào gốc của cô ấy. Tôi đã rất sốc khi biết rằng cách điều trị đặc biệt này không có ở Mỹ", tỷ phú Warner cho biết trong thông báo đến giới truyền thông. "Tôi hy vọng chúng ta có thể tiếp thu phương pháp chữa bệnh cứu người này để chúng trở nên phổ biến hơn và giúp đỡ những người như Jenifer". Anh Ngọc
  19. Chỉ có người Việt, Tiếng Việt mới gọi xứ sở của mình là Đất Nước. Người Việt vẽ ra cái bầu biểu tượng Âm Dương khái quát sự hình thành Vũ Trụ, cũng như Đất Nước, cũng như Con Người. Mỗi con người cũng là một tiểu vũ trụ. Trong cái bầu ấy là hình vẽ hai con Nòng Nọc xoắn xuýt nhau. Từ Nòng-Nọc là một từ dính, bởi nó là do QT Nở mà sinh ra từ một cái Nòi tức là từ cái NÔI khái niệm, khi đang trong quá trình tách đôi ở trong bọc thì nó đang là từ dính Nòng-Nọc, vậy Nòng-Nọc là chỉ một con, gọi là con Nòng-Nọc, một con thì trong cấu tạo của nó cũng đã là có hai phần Âm Dương cân bằng, chỉ khi tách hẳn thì mới thành hai con là thành con Nòng (con Đực) và con Nọc (con Cái). Tương quan giữa Đất và Nước cũng giống như tương quan giữa Dương và Âm. Con Nòng-Nọc là nói chung, khi nó chưa ra khỏi bầu nước, khi đứt đuôi nhảy ra khỏi bầu nước thì rõ ràng thành con Cóc Đực và con Cóc Cái. Nhưng về mặt ngôn từ thì từ Nòng Nọc cũng lại là từ nguyên của từ Đất Nước: Đất là nơi ở của con người, nơi con người đậu đến đó, đỗ đến đó, Đất là Chỗ=Chỉ (địa chỉ) của con người. Con chó trước khi nằm nó còn quay thân một vòng tròn xác định cái chỗ nằm của nó rồi mới đặt thân nó nằm xuống, đó là đất ở của nó, cũng như cái ổ. Vì vậy ngôn từ “đất” bắt đầu từ chữ O tròn (chữ O cũng là cái lõi của NÔI), đúng với câu “Mẹ Tròn Con Vuông”, Tròn là dương, có đầu tiên để sinh ra mọi thứ. Nôi khái niệm của “Đất” là trong từ NÒNG, như sau: Đất=Đậu=Âu=Ấp=O=Ở=Ư=Khư=Khu=U=Vu=Ụ=Ổ=Tổ=Thổ=Đỗ=Địa=Đai=Đồng=Nông=NÒNG=Nà=Nương=Ruộng=Vuông=Văn=Vườn=Vùng=Lũng=Lộ=Lục=Lang=Làng=Long=Vòng=Vàng=Hoàng=Hồng=Vồng=Giồng=Rồng=Động=Đàng=Đường=Đê=Đất. (“Nà” tiếng Tày nghĩa là Ruộng. Ở Vân Nam có vùng của người Thái là vùng Xịp Xoong Bản Nà tức Thập Song Bản Ruộng, xưa có mười hai bản làm ruộng lúa nước). Những từ đôi Đồng Đất, Ruộng Đất, Ruộng Nương, Ruộng Vườn, Thổ Địa, Đất Đai, Đàng Lộ , Đường Đê, Lục Địa là ý nói nhiều đất. Thần Long Đỗ cũng hiểu là Thần nhiều đất như là Thần Thổ Địa. Nôi khái niệm của “Nước” là trong từ NỌC, như sau: Nước=Nặm=Nậm=NỌC=Nôi=Nác=Đác=Đầy=Đế=Đức=Tức=Túc=Té=Tế=Lễ=Lã=Lọc==Lạc=Nác=Nước. Những từ đôi Nước Nôi, Nước Đầy, Tức Nước, Nước Lã, Nước Lọc đều chỉ ý nhiều nước. Dẫn hai nôi khái niệm trên thì thấy rõ là từ dính Âm-Dương như từ Nòng-Nọc thì Nòng ở nôi Đất, Nọc ở nôi Nước. Từ dính Nòng-Nọc cũng tương tự như từ dính Hoàng-Đế , như từ dính Đất-Nước hay như từ dính Long-Lạc.Khi tách hẳn ra không dính ở từ dính nữa thì có những cặp từ đối như Âm/Dương, Trời /Đất, Đất/Nước, Nòng/Nọc. Ở tương quanTrời/Đất thì Đất là Âm, nhưng ở tương quan Đất/Nước thì Đất là dương so với Nước là âm (cũng thường thay bằng cặp Non/Sông). Nhưng cái bầu biểu tượng Âm-Dương ấy người Việt gọi là Con Nòng-Nọc, đương nhiên sẽ tương tự như Con Đất-Nước hay Con Long-Lạc. Mà Con ở đây là thay cho cái gọi là Từ trong ngôn ngữ, vì Con=Quân=Quan=Kẻ=Cu=Tu=Tử=Tế=Tố=Từ, một Con chữ như một cái Tế, khi cất tiếng lên thì nó là một cái Tố, nó có ý nghĩa nên nó gọi là một Từ. Con Đất-Nước = Con Nòng-Nọc =Con Long-Lạc. Nhưng Con=Quan=Quân, nên Con Long Lạc = Quân Long Lạc. Đó là khi viết bằng chữ Khoa Đẩu , viết và đọc từ trái sang phải, là Quân Long Lạc. Còn đến khi phát triển lên viết bằng “vuông Chữ Nho nhỏ”, gọi vo theo cái lõi, tức gọi theo kiểu chọn lấy “Giữa Chỗ” tức kiểu “Giao Chỉ” thì còn cái lõi là Chữ Nho , thì khi đó phải đọc từ phải sang trái theo qui định mà các nhà nho bày đặt ra (dù viết một chữ vuông thì các nét viết theo chiều từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, nhưng xếp chữ trên bức hoành phi thì xếp từ phái sang trái nên phải đọc câu là từ phải sang trái. Còn sách thì viết theo dòng dọc, xếp dòng từ phải sang trái nên lật trang sách cũng lật ngược về bên phải), nên phải đọc từ phải sang trái là Lạc Long Quân. Hàng nghìn năm dùng chữ nho, không dùng chữ Khoa Đẩu nữa nên người ta quên hẳn Con Long Lạc, mà chỉ nhớ Lạc Long Quân, để bây giờ viết bằng chữ Quốc Ngữ thì viết từ trái sang phải là Lạc Long Quân. Nhưng cứ thử đọc ba chữ đó bằng từ phải sang trái thì lại là Quân Long Lạc = Con Long Lạc (= Con Nòng Nọc). Đây cũng giống như người ta đọc câu đầu tiên của bài đầu tiên trong nguyên bản của Thi Kinh là câu “quan quan Thư Cưu” thì không hiểu nó là ý gì, phải khổ công tìm các sách xưa từng “chú giải” để mới có thể dịch nổi hay chứng minh nổi nó nghĩa gì. Bởi lẽ “quan quan Thư Cưu” nó là cái âm Việt, là “con con Cù Cu”, “quan quan = con con” bởi chúng là hai con đang đứng cặp kè với nhau, “Thư Cưu = Cù Cu” bởi chúng là nòi chim Cù Cu (gọi chung bằng từ dính Cù-Cu giống như từ dính Nòng-Nọc của nòi cóc), mà trong cái tên chung nòi chim đó thì con Cù là con Mái, vì Cù=Thú=Thư=Nữ=Nái=Cái=Mái=Mợ=Vợ ( Thú là Hôn Thú). Còn con Cu là con Trống, vì Cu=Cặc=Cộc=Chốc=Trốc=Trống=Chồng=Hồng=Hùng (Tiếng Việt “Chốc” là nằm trên, “Trốc” là cái đầu, cũng là kẻ dẫn đầu trong nhà, “Trước Ốc” = Trốc). Loài Chim đơn giản thế mà lại chính là loài gợi ý cho con người biết dệt vải mặc từ cách đan tổ của nó: Chim=Chức=Dực=Dày=Dầy=Dải=Vải=Váy=May. Con người biết Tổ Chức cũng do con Chim biết phân công khi bay cùng bầy hay khi ấp trứng mà gợi ý cho (nên trống đồng mới có nhiều hình chim). Do cái mỏ con Chim là cái công cụ lao động của nó như cái Kìm để mổ và gắp nên người Việt mới biết làm đôi đũa, và có nôi khái niệm ngôn từ là Chim=Kìm=Cầm=Châm=Đâm=Điểu. Hán ngữ có từ “Gia Cầm” chứ không có từ “Gia Điểu” trong khi họ gọi Chim là Điểu, chứng tỏ thuần dưỡng gà vịt là nghề của người Việt đầu tiên chứ không phải của người Hán du mục từ phương Bắc dạy cho mới biết. Từ cái tên gọi nòi chim gần gũi quanh vườn nhà của người Việt là Cù-Cu, mà tính cách của chúng tiêu biểu cho tình yêu chung thủy một vợ một chồng như trong bài “Thư Cưu” của Thi Kinh (Thơ của người Kinh) mà có được các từ nho nhã đẹp đẽ là từ “Anh Thư”, “Anh Hùng” và các từ văn học như “một phen Trống Mái”, “một trận Thư Hùng”. Con Nòng Nọc = Con Long Lạc = Quân Long Lạc là Lạc Long Quân. Bởi vậy người Việt nghe đến Lạc Long Quân thì hiểu ngay đó là Tổ của Đất Nước, và trên ban thờ luôn có hình cái bầu biểu tượng Âm Dương. Ý nghĩa của biểu tượng ấy (ngoài các ý nghĩa vũ trụ cao siêu khác) cũng còn đơn giản là Con Nòng Nọc (= Con Đất Nước = Con Long Lạc) = Lạc Long Quân. Lạc Long Quân là Tổ của Đất Nước. Đất Nước ấy là do người Kinh tạo lập nên, cho nên bố của Lạc Long Quân là Kinh Dương Vương (đọc từ phải sang trái là Vương Dương Kinh = Vua Việt Kinh, ý nghĩa là: Vua của Bách Việt là người Kinh. Dương=Duôn= Duê = Duyệt = Nguyệt = Việt = =Liệt = Nhiệt = Nhật. Chữ Nhật 日 và chữ Nguyệt 月 ghép lại như từ dính Nhật-Nguyệt 明, tương tự Đất-Nước, tương tự Nòng –Nọc. Lướt thì “Nhật Nguyệt” = Nhiệt = Liệt = Việt. Mà tiếng đọc và ý nghĩa của từ dính 明 Nhật-Nguyệt đó là là chữ Minh明. Kinh Dương Vương = Đế Minh. Đế Minh cho một con là Đế Nghi đi làm vua đầu tiên của nước Sở). Đó chính là nội dung của sự thật lịch sử được hình tượng hóa bằng truyền thuyết Trăm Trứng : Cha và Mẹ đem trăm con đi các vùng, lập nên Bách Việt.
  20. Người Việt định cư ven các dòng sông để làm ruộng “Lạc” tức ruộng “nước” trồng lúa, nên gọi xứ sở mình là Nước. Nam Việt 南 粤(thời Triệu Đà) chẳng qua là viết bằng chữ nho, nên phải đọc là Nam Việt 南 粤 (theo phát âm của tiếng Kinh hoặc phát âm của “cổ Hán ngữ”), còn nghĩa đen của nó là Nước Việt , vì Nước = Nặm = Nam (“nước” là người Kinh nói, “nặm” là người Tày nói, “nam” là người Thái Lan nói). Nam Việt = Nặm Việt = =Nước Việt, của các tộc người Bách Việt. Người Việt chỉ cần nhìn chữ Nam Việt 南 粤 mà đọc là Nam Việt hoặc đọc là Nước Việt. Chỉ có Hán thư thì mới phải ghi là Nam Việt Quốc 南 越 国, bởi họ quan niệm Quốc mới là Nước, họ còn gọi là Quốc Gia. Nhưng Hứa Thận thời Đông Tấn viết Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm giải thích: “Quốc- Bang dã 國 邦 也” tức Quốc chỉ là Bang mà thôi, tức là Nước phải là Liên Bang. Quốc là Bang tức là cái âm tiết “Quốc” chỉ là từ lướt “Của Nước” = Quốc, một khi coi Nước là Liên Bang, chẳng thế mà thời Vua Hùng phải thống nhất cả 15 bộ ở một địa bàn rộng mênh mông gọi là Họ Hồng Bàng, bổn nghĩa chữ thì Hồng 鴻 và Bàng 龐 đều là rộng mênh mông, mà cái âm tiết của chúng lại cũng nói lên là vùng sông nước, theo QT Tơi-Rỡi thì: Hồng = =Sông, Bàng = Giang, Hồng Bàng 鴻 龐 là vùng của cư dân nông nghiệp lúa nước thuộc đại tộc Việt. Cư dân là người đặt tên cho dòng sông và chính cư dân lại lấy lấy tên sông nơi mình sinh sống làm Họ . Dòng sông lớn nhất của bất cứ vùng nào người Việt ở đều được gọi là Sông Cả. Cả=Cái=Cơ=Cu=Tu=Tử. Sông=Công=Kinh=Kang=Giang=Dòng=Dương=Trường. Sông Cả = Sông Cái = Sông Cơ = Dòng Cả = Dương Tử. Dương Giang = Trường Giang, đều là những từ đôi để nhấn mạnh một ý “sông”, rằng con sông này rất rộng lớn. QT Lướt để tạo ngôn từ Việt đã có Hứa Thận chứng minh, vì cách nay 2000 năm ông đã vận dụng qui tắc đó để hướng dẫn cách đọc đúng âm một từ đơn âm tiết bằng cách “thiết” (tức lướt) hai âm tiết khác (mà cứ phải phát âm như Tiếng Việt hiện đại thì mới trúng chứ còn phát âm như Hán ngữ hiện đại thì trật). QT Tơi-Rỡi tôi nêu trong tạo ngôn từ Việt, có thể vận dụng để tìm từ nguyên (theo nguyên tắc: của Hán ngữ hiện đại thì tìm trong “cổ Hán ngữ”, của “cổ Hán ngữ” thì tìm trong Tiếng Việt), nghe cái tên tôi đặt là QT Tơi-Rỡi thật là quê mùa, vậy mà hóa ra tính đúng của QT ấy lại được đại danh nhân Tư Mã Thiên chứng minh giùm, khi tôi tình cờ đọc được trong Sử Ký có đoạn ghi: 夫差取番者,番首姿,又音蒲。还音烦,音盘者即潘氏 - Phù Sai thủ Phan giả, Phan Thủ Tư, hựu âm Bồ. Hoàn âm Phàn, âm Bàn giả tức Phan thị - Phù Sai (vua nước Ngô, đánh nhau với Câu Tiễn vua nước Việt) lấy vợ họ Phan, Phan Thủ Tư, lại có âm là Bồ. Còn âm Phàn, âm Bàn là tức họ Phan. Như vậy rõ ràng là thời Hán Vũ Đế (đánh nhau với Hai Bà Trưng), thời của Tư Mã Thiên, trong Tiếng Việt có tồn tại qui tắc Tơi-Rỡi trong hình thành ngôn từ, cho nên mới có như viết ở đoạn trên, tức: Phan=(Phiên)=Phàn=Bàn=Bồ=(Đỗ=Cổ=Cố=Cơ), tức các họ này đều có cùng một gốc từ họ Cơ, ở dòng sông Cơ, từ họ của một mẹ chung là U Cơ = Âu Cơ (mẹ chung là “Mẹ Âu” = Mẫu). Cổ thư có ghi xuất xứ họ Phan (cũng như xuất xứ của nhiều họ khác) là từ họ Cơ. Bởi lẽ thời cổ đại dân số còn ít, đương nhiên ít họ. Đông dần lên, họ sinh nhiều chi, chi biến thành họ khác khi đến sống ở dòng sông khác, ngôn từ để đặt cho họ cứ vậy theo QT Tơi- Rỡi mà sinh ra nhiều, đều cùng từ một Nôi khái niệm mà ra cả. Người Việt cổ đại làm lúa nước đã theo đường biển từ Nam lên Bắc vào các cửa sông bãi bùn để trồng lúa nước, ngược dòng sông Tây tiến khai thác các đồng bằng hai bên bờ sông. Trong khi lịch sử của người Hán cổ đại là từ Tây sang Đông giai đoạn một, rồi từ Bắc xuống Nam giai đoạn hai.
  21. Thổ dân Nhật Bản (có thể cả thổ dân Hàn Quốc) và thổ dân Đài Loan là đã có ở đó hàng vạn năm trước. Họ thuộc chủng Lạc Việt (nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình và canh tác lúa nước). Tác phẩm “Hoài Nam tử 淮 南 子” còn có tên là “Hoài Nam Hồng Liệt 淮 南 鸿 烈” là do một nhóm học giả thời Tây Hán do Lưu An 刘 安 triệu tập lại cùng nhau ghi chép các chuyện truyền thuyết xưa thành một cuốn sách. Theo “Hán thư. Nghệ văn chí” viết: “Hoài Nam, nội có 21 thiên, ngoại có 33 thiên”. Nay chỉ còn 21 thiên. Nội dung rất rộng, hội tụ tư tưởng của Đạo gia, Âm Dương gia, Mặc gia, Pháp gia và một bộ phận Nho gia, nhưng tông chỉ chủ yếu là khuynh hướng Đạo gia, mà tư tưởng của Đạo gia là sống “thuận thiên”, dựa vào sinh thái, hòa hợp với thiên nhiên. Đó là tư tưởng Việt, chưa hề có yếu tố Hán. Tên sách là “Hoài Nam Hồng Liệt 淮 南 鴻 烈”. Theo Cao Dụ Tự 高 诱 序 nói thì: “「鸿」 是 广 大 的 意 思,「烈」 是 光 明 的 意 思 Hồng 鴻 nghĩa là quảng đại tức rất rộng lớn, Liệt 烈 nghĩa là quang minh”. Chữ Hồng 鴻 (“nghĩa là quảng đại”) gồm chữ Giang 江 và chữ Điểu 鳥, chữ Giang 江 phải đọc như từ nguyên cổ là Sông = Dòng = Giang = Kang = Kinh , thì chữ Hồng 鴻 đọc từ phải sang trái là lướt “Điểu 鳥 Sông江” = Đông = Đồng = Hồng 鴻, chỉ cư dân đông đúc làm nông nghiệp ở một vùng rộng lớn phía nam sông Hoài 淮 (sông Hoài 淮 ở tỉnh An Huy ven biển), mới có chữ Hồng 鴻 mang nghĩa rộng lớn đồng âm đồng nghĩa với chữ Hồng 洪 trong từ “hồng 洪 thủy水”, mà dân đó có totem Điểu 鳥 là dân dòng Chim = Chiêm = Tiên, là chim Lạc trên trống đồng. Chữ Liệt 烈 (“nghĩa là quang minh”) tức sáng, sáng thì chỉ có Lửa mới sáng, bản thân chữ Liệt 烈 là bộ Hỏa 灬 ở dưới, trên là chữ Liệt 列 để tá âm, nên nội hàm của chữ Liệt 烈 chính là Lửa, chỉ dân Kẻ Lửa = Quẻ Ly = Cửu Lê, là dân phương Nam xứ nóng của Đế Viêm –Thần Nông (kiểu nhà sàn bằng gỗ, tre, lá, có bếp lửa đặt ở giữa sàn nhà, đồng bào Tày vẫn quen gọi là “nhà Quẻ Ly”). Vậy Hồng Liệt 鴻 烈 chẳng qua là Hồng Lạc 鴻 洛, là dân Lạc Việt họ Hồng Bàng 鴻 龐 của Đế Viêm = Đế Việt = Nước Việt (Đế = Tế = Tức = Đức = Đác = Nác = Nước). Chữ Việt 粵 theo Đỗ Thành giải thích, bên dưới là hình cái Cày 亏, bên trên gồm chữ Thái 采 (nghĩa là sáng, viết 采 hoặc 彩 ) đặt trong Vuông 口, nghĩa là Văn 文 khi viết lệch chữ Vuông (như “Thuyết Văn Giải Tự” giải thích) của Văn Lang, mà Thái = Chái (phát âm Nam Bộ) = Cháy, cũng nghĩa là lửa, là nóng, là viêm. Cháy = =Cày, diễn biến âm thì ngắn tày gang như vậy, nhưng là cả một sự tiến bộ trải hàng nghìn năm của nghề trồng trọt, từ “hỏa chủng” ( đốt cháy đầu cọc gỗ để mài cho nhọn làm nông cụ chọc lỗ trỉa hạt, đến cày xới đất bằng lưỡi cày bằng đồng thau, rồi đến lưỡi cày bằng sắt). Ngày nay người ta chỉ quen tên sách là “Hoài Nam tử”. nghĩa là Kẻ ở vùng nam sông Hoài, mà hầu như quên sách ấy xưa tên là “Hoài Nam Hồng Liệt” nghĩa là Dân Hồng Lạc ở nam sông Hoài. Có lẽ là do tư liệu mà có thể đọc ngày nay đều là từ “Tứ Khố Toàn Thư” đời Càn Long thời nhà Thanh. Thuyết Văn Giải Tự thời Đông Tấn thì có nhắc đến một cuốn sách khác là “Hoài Nam Hồng Liệt giải cô 淮 南 鸿 烈 解 估” là một cuốn cân nhắc chú giải các từ ngữ dùng trong “Hoài Nam Hồng Liệt” [ Trên một trang mạng, một học giả TQ nói đã dành thời gian 8 năm đọc rất nhiều cổ thư để rồi nhặt ra những điều sự thật lịch sử mà 90% người dân TQ không biết. Sau đây là điều thứ 28 học giả đó nói: 28.清 朝乾 隆 时 期 修 《四 库 全 书》,总 计 存 书 3457 部,79070 卷,禁 毁 6766 部,93556 卷。 评 价: 真 不 知 道 这 是 修 书 还 是 毁 书 - Thanh triều thời kỳ Càn Long tu “Tứ Khố Toàn Thư”, tổng kê tồn thư 3457 bộ, 79070 quyển, cấm và hủy 6766 bộ, 93556 quyển. Bình giá: thật hết biết đây gọi là tu thư hay là hủy thư.] Trong sách “Hoài Nam Hồng Liệt” có chép chuyện “Hạ Vũ trị thủy“ đại ý: Vũ lo trị thủy khắp nơi, bắc đến tận Kinh Sơn 荆 山 (An Huy), tây đến…, nam đến Giao Chỉ, Đông đến Hắc Xỉ quốc 黑 齿 国 (“Hắc Xỉ quốc” nghĩa là “nước Răng Đen”, mà ở phía Đông thì chỉ có thể là Đài Loan và Nhật Bản), Vũ mải mê công việc đến quên cả đời tư, ba mươi tuổi chưa có vợ, nhân đi trị thủy ở Đồ Sơn 涂 山(thuộc Triết Giang) lấy được vợ ở đó. Sau Vũ có hai lần hội minh chư hầu, lần đầu ở Đồ Sơn quê vợ, lần hai ở Cối Kê (thuộc Triết Giang). Các học giả ngày nay nghe đến từ Trị Thủy thì cứ theo cái nhìn ngày nay mà mường tượng là phải có đê , đập hoành tráng (bất kể tác động môi trường) nên cứ thắc mắc là “thời cổ đại làm gì có sức đông và công cụ hiện đại để Vũ có thể đi khắp nơi trị thủy tới 9 dòng sông lớn như sử thư ghi, quá lắm chỉ được một hai dòng mà thôi”. Thực ra phải hiểu là Vũ là hậu duệ của Thần Nông (Thần Nông là thời đại cư dân nông nghiệp lúa nước Lạc Việt). “Vũ đi trị thủy” chẳng qua là nói Vũ đi truyền bá văn minh lúa nước, hướng dẫn canh tác lúa nước bằng “dẫn thủy nhập điền” mà thôi. Trị = Chỉ = Chữa, là đi chỉ vẽ hướng dẫn kiểu cầm tay chỉ việc cho các tộc người để biết làm lúa nước mà ăn. Thời đó con người canh tác thuận theo tự nhiên, nên mới giỏi làm lịch nắm bắt thời cơ, không tác động mấy vào môi trường sinh thái. Thời cận đại, Nguyễn Trường Tộ cực lực chê cách làm đắp đê, đập, chặn dòng sông, “người ta đã bóp chết non con sông Hồng, để rồi khi muốn cứu nguy cho Hà Nội, phải xả lũ ngập chịu hy sinh vài tỉnh vùng đồng chiêm trũng, trong khi phù sa màu mỡ của sông Hồng đổ hết ra biển và bồi lắng đáy sông có nơi còn cao hơn mặt đồng ruộng”. Sông Hoàng Hà đã bị “Trị Thủy” hàng ngàn năm nhưng đến ngày nay vẫn còn nổi giận, sông Trường Giang chắc cũng chẳng vừa lòng.
  22. Sông Khương ở đâu ? Nó chính là Mê Kông. Từ đôi Mẹ Sông chỉ ra rằng nó vừa là Mẹ, vừa là Sông, là nguồn nuôi sự sống. Tiếng Việt dùng lượng từ “con” cho Sông, gọi là con Sông, cũng như là con Người, con Vật, vì Sông cũng sống động, phát triển, biến hóa, do bản chất nó là Nước, là Âm, tính động (không như lượng từ hòn Núi, trái Núi, vì Núi biểu tượng Dương, tính tĩnh). Lượng từ “con” Sông cũng giống như lượng từ “con” Rồng, dù biểu tượng Rồng đã được phong kiến hàng ngàn năm hình tượng hóa lên thành biểu tượng quyền uy tối cao, như “long thự”, “long đỉnh”, “long sàng”, nhưng lượng từ cho Rồng trong Tiếng Việt hàng vạn năm qua vẫn là “con” thân thiết gần gũi như con sông, gọi là con Rồng, bởi vì thực chất từ nguyên của Rồng là: Krông=Sông=Rồng=Tông=Dòng=Long=Lòng=Luồng=Khuông=Khoỏng=Khương, là một Luồng nước chảy ngàn năm nuôi sự sống, giống như Dòng lịch sử chảy mãi.( Thời cổ đại dưới sông còn có loài Thuồng Luồng sinh sống). Do từ Mẹ Sông = Mê Kông mà có Tông là Dòng, đó là Tông Lê Sáp (Biển Hồ) ở Campuchia; do từ Mẹ Sông = Mê Kông mà có Khoỏng là Dòng, đó là Mè Khoỏng ở Lào, còn gọi là Mè Nặm Khoỏng (Mẹ-Nước-Sông), tiếng Thái Lan thì gọi là Mê Nam. Do từ Mẹ Sông = Mê Kông mà có chữ nho Công 公 nghĩa là của chung (bởi lướt “Của Đông” = Công , và nhấn mạnh ý “của chung” ấy bằng từ đôi Công Cộng 公 共), nên mọi sắc tộc sống bên mọi dòng Sông đều tôn quí Sông là Mẹ, là nguồn nuôi sự sống, là mẹ của chung, không ai dám làm hại Sông, đầu độc Sông, thần Sông chính là thần Rồng (điệu múa rước Rồng quanh co như dòng sông, gắn với Lễ Tế Nước), Lòng Sông cũng là Dòng Sông, nó là ruột thịt với con người như là bộ lòng đem dinh dưỡng nuôi cơ thể. (“Lòng của Nôi” = “Dòng Nôi” = Dồi, món “dồi trường” còn gọi là món “lòng xe điếu”, là món nhậu ngon nhất khi làm thịt heo). Tộc Việt coi dòng nước nuôi sự sống là Mẹ. Mẹ là Nước ( nho viết là chữ Mẫu Quốc 母 國 – Mẹ Của Nước = Mẹ Cơ Nước [ Của=Có=Cơ=Kỳ 其=Cả=Ạ=Dạ=Dã 也=Là=Đà=Đấy=Đích 的, đều là những phó từ chỉ sự sở hữu, thường đặt cuối câu khẳng định, ví dụ câu “Tôi Có ! ” = “Tôi Cơ ! ” = “Tôi Ạ ! ” = “Tôi Đấy” . Tiếng Quảng Đông dùng từ “Cơ 的”, cổ Hán ngữ và tiếng Hàn Quốc dùng từ Dã 也 mà phát âm là “Yể 也” (đều giống “Yes” của tiếng Anh), Hán ngữ dùng từ Đích 的 mà phát âm là “Tơ 的”, tiếng Nhật dùng từ Đấy mà phát âm là “Đê-xư” ]. Mẹ chính là cái Ổ ( là cái lõi Ô của NÔI=Nước) cho ra sự sống, bởi vì Mẹ=Đẻ=Độ=Ô=U=Âu=Yêu (Tiếng Việt thì Ổ, Âu, Yêu đều là những dụng cụ để đựng, như tình Âu Yếm, tình Yêu Thương đựng trong Lòng Mẹ để đem té tưới tắm mát cho con. Mẹ Âu Cơ là Nước đựng tất cả chúng ta, nên người Việt Nam ai ai cũng yêu Nước. Mẹ là Nước, nhưng Mẹ là Người, vì : Mẹ = Mọi = Man = Mằn = Mân = Cần(tiếngTày)= Nhân = Dân = Dằn = Duôn = Nguồn = = Người = Ngài= Ai = Âu. Muốn diễn đạt khái niệm "nhiều người" thì dùng từ đôi như Mọi Người, Ai Ai, Nhân Dân, Dằn Mằn (tiếng Quảng Đông). Mẹ = Âu, nhấn mạnh ý nghĩa Mẹ thì lướt từ đôi “Mẹ Âu” = Mẫu, Mẫu là mẹ chung của tất cả, nên người Việt có tục thờ Mẫu. Lạc Việt là Các Nước Việt tức Bách Việt, nên Âu Lạc có nghĩa là “Mẹ của Bách Việt”. Câu “Dân là Dân Nước, Nước là Nước Dân” của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu trở thành như là một câu thành ngữ cách rất hiển nhiên. Té=Tế=Túc=Tức (tiếng Khơme)=Đức=Đầy=Đắc(tiếng Tây Nguyên)=Đác (tiếng Choang)=Nác=Nước=Nặm (tiếng Lào)=Nam (tiếng Thái Lan)=Lam=Lầm (màu ngũ hành của nước, ví dụ từ “lầm than”, “vải đồng lầm” là vải nâu nhuộm thâm bằng bùn)=Thâm (màu ngũ hành của nước)=Thủy 水. Lễ tế Nước của người Lạc Việt là phong tục đã có từ thời Kinh Dương Vương cách nay 5000 năm: Đọc bài “Nam Bang thủy tổ thờ ở nơi này” của Nguyễn Đình Soạn, xin trích lược một đoạn: Dọc bờ nam sông Đuống (sông Thiên Đức) có làng Á Lữ (Thuận Thành, Bắc Ninh) nơi có lăng mộ và đền thờ Thủy Tổ Nước Nam – Kinh Dương Vương, là bố của Lạc Long Quân. Lăng có câu đối: “Vạn cổ giang sơn tự tụy Tổ 萬 古 江山 自 萃 祖. Nhất khâu phong vũ ngật Hồng bi 壹 丘 風 雨 兀 鴻 碑” (Từ vạn cổ cả nước Nam suy nghĩ về ngọn nguồn Tiên Tổ. Một nấm mồ nhỏ trải qua mưa gió vẫn sừng sững tấm bia Hồng Lạc”. Trong đền có bức đại tự “Nam Bang Thủy Tổ 南 邦 始 祖” với các câu đối là câu “Việt Nam sơ đầu xuất 越 南 初 頭 出. Hồng Bàng vạn đại xương 鴻 龐 萬 代 昌” (Vị Tổ đầu tiên của nước Nam. Họ Hồng Bàng muôn đời thịnh vượng) và câu “ Việt Nam hoành đồ vạn lịch giang sơn để tạo thủy 越 南 宏 圖 萬 曆 江 山 底 造 始. Hồng Bàng đế trụ thiên thu Hà Lạc tứ linh thanh 鴻 龐 帝 柱 千 秋 霞 嗠 四 靈 聲” (Cương vực Việt Nam núi sông vạn dặm vốn đã tạo lập tự ngàn xưa quốc gia đầu tiên. Đế vương họ Hồng Bàng chung đúc khí thiêng tiếng thơm còn mãi mãi) [ Việt Nam ở đây hiểu là người Lạc Việt họ Hồng Bàng chủ nhân của nền văn minh lúa nước phương Nam, khẳng định là chủ nhân của Hà-Lạc, lập quốc gia Văn Lang là quốc gia đầu tiên (“thủy 始”) cách nay 5000 năm]. Ngày giỗ Thủy Tổ là ngày 18 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm. Đặc sắc nhất trong nghi thức Tế là tục rước Nước (nước được múc ở giữa dòng sông Thiên Đức, phía mặt tiền lăng mộ, đổ vào thạp đồng, rồi đưa lên kiệu, rước về đền) mang ý nghĩa triết lý nhân văn: “Nước” là giang sơn xã tắc, và “nước” cũng là gốc của sự sống muôn loài.
  23. Tiếp tục phát hiện nhiều bản đồ sai sự thật do Trung Quốc sản xuất Thanh Niên Online – 7 giờ trước Ngay sau khi các cơ quan chức năng tỉnh Lạng Sơn phát hiện những tấm bản đồ Trung Quốc xuất bản có nội dung sai sự thật về biên giới do người Trung Quốc mang lậu vào VN, hôm qua, Hải quan và Biên phòng tỉnh Lạng Sơn tiếp tục phát hiện nhiều quả địa cầu hành chính thẩm lậu vào VN có nội dung sai sự thật. Theo Chi cục Hải quan Tân Thanh, trong những ngày gần đây, lực lượng Hải quan phối hợp với bộ đội biên phòng kiểm tra tại một số khu chợ trên địa bàn tỉnh đã phát hiện, tịch thu một số hành chính có kích thước lớn như mũ bảo hiểm do Trung Quốc sản xuất, có chú giải bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Kiểm tra về nội dung trên những quả địa cầu này cho thấy, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN bị in đồng màu với địa phận Trung Quốc. Loại bản đồ sai trái do Trung Quốc sản xuất để tuyên truyền về “đường lưỡi bò” Theo một lãnh đạo của Chi cục Hải quan Tân Thanh, có rất nhiều nội dung sai trái được cố tình in trên những quả địa cầu này như 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN thành Nam Sa và Tây Sa của Trung Quốc. Mặt khác, “đường lưỡi bò” cũng lờ mờ được thể hiện bằng nét đứt trên vùng biển của VN. Cũng theo lực lượng Hải quan tỉnh Lạng Sơn, ngay sau khi phát hiện, lực lượng chức năng đã lập biên bản tịch thu. Trao đổi với Thanh Niên hôm qua, một cán bộ có trách nhiệm của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn khẳng định trong thời gian tới sẽ phối hợp với lực lượng hải quan tăng cường kiểm soát chặt chẽ, tránh để xảy ra những trường hợp tương tự. Cảnh giác với tiểu xảo của Trung Quốc Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho biết từ nhiều năm qua Trung Quốc có một chủ trương nhất quán trong việc thể hiện chủ quyền “đường lưỡi bò” trên các loại bản đồ. Mỗi ấn phẩm của Trung Quốc, nếu có phần thể hiện bản đồ thì chắc chắn “đường lưỡi bò” sẽ có, dù đó là một quyển sách địa lý phổ thông hay một biên khảo về lịch sử văn hóa. Thậm chí trong một cuốn sách về khảo cổ các tỉnh Thiểm Tây, Tứ Xuyên (miền trung Trung Quốc) mặc dù không có liên quan gì đến Quảng Đông (phía nam, giáp biển) họ cũng cho in một bản đồ tổng quát thể hiện “đường lưỡi bò”. Điều đó cho thấy họ tuyên truyền cho “đường lưỡi bò” phi pháp này một cách rất có hệ thống. Tương tự, đối với các ấn phẩm bằng các thứ tiếng khác, ví dụ tiếng Anh, Pháp do nhà xuất bản ngoại văn của Trung Quốc ấn hành thì các bản đồ cũng được thể hiện. Chủ trương này được thực hiện cặn kẽ, chi tiết và nhất quán, tạo sự ngộ nhận cho người dân Trung Quốc cũng như các quốc gia khác khi tiếp cận với các ấn phẩm đó rằng: toàn bộ vùng biển nằm trong “đường lưỡi bò” đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Ông Phạm Hoàng Quân cũng cảnh báo trong tương lai không loại trừ khả năng sẽ có những bản đồ do Trung Quốc in ấn bằng tiếng Việt nhưng lại có “đường lưỡi bò” hay các địa danh thể hiện theo cách của Trung Quốc được đưa vào VN theo cả con đường hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Đặc biệt, khi những bản đồ đó lại được in bằng tiếng Việt thì dễ làm mọi người nghĩ rằng do VN sản xuất. Chính vì vậy, nếu để những sản phẩm kiểu này lọt vào VN sẽ tạo ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Thái Sơn - Trường Sơn - Lê Quân
  24. (VEF.VN)- Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn vừa bắt giữ một số bản đồ Việt Nam do Trung Quốc sản xuất bày bán trên địa bản tỉnh có nội dung về gianh giới quốc gia sai sự thật. Theo công văn gửi Tổng cục Hải quan mới đây, Cục Hải quan Lạng Sơn cho hay, từ nguồn tin nhân dân phản ánh, ngày 1/8, Chi cục Hải quan Tân Thanh đã phối hợp với lực lượng công an tỉnh tiến hành kiểm tra khách sạn Kim Lệ Hoa, địa chỉ tại đường nhánh Bắc, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng. Qua đó, đoàn kiểm tra đã phát hiện và tịch thu một số bản đồ phân giới quốc tế Việt Nam- Lào- Campuchia- Trung Quốc có nội dung sai sự thật. Toàn bộ số bản đồ này đều mới 100%, do Trung Quốc xuất bản. Cụ thể, trong số này có 1 bìa bao bọc bản đồ phân giới quốc tế Việt Nam- Lào- Campuchia chú giải song ngữ Anh- Trung, kích thước 13 x 20cm, 6 tấm bản đổ phân giới Việt Nam- Lào- Campuchia chú giải song ngữ Anh- Trung, loại in màu, kích thước 52 x 75cm. Tại các tấm bản đồ này có phân giới quốc tế sai sự thật. Ngoài ra còn có 5 tấm bản đồ du lịch Trung- Việt, chú giải bằng chữ Trung Quốc, khổ 52 x 75cm. Đại diện của khách sạn là người đàn ông ở Quảng Đông- Trung Quốc tên là Chung Thành, hiện giữ chức danh Phó giám đốc. Ông này khai báo, toàn bộ số bản đồ trên được mua tại Trung Quốc, sau đó mang về Việt Nam qua cửa khẩu Tân Thanh dưới dạng hành lý xách tay cá nhân, không khai báo hải quan nhằm mục đích bán cho khách du lịch ở Việt Nam. Kể từ tháng 4/2012 cho đến khi bị phát hiện, khách sạn Kim Lệ Hoa đã bán được 3 tấm bản đồ cho du khách. Ông Thành đã thừa nhận hành vi trên là sai quy định của pháp luật Việt Nam, nhưng cam kết khách sạn không dùng bản đồ vào mục đích khác. Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn nhận định, hành vi vi phạm của ông Chung Thành là nhập lậu, tàng trữ, lưu hành ấn phẩm bản đồ có nội dung sai sự thật do Trung Quốc xuất bản là vụ việc liên quan đến chính trị, an ninh quốc gia. Đặc biệt, vụ việc này bị phát hiện trong bối cảnh có nhiều diễn biến phực tạp về tranh chấp chủ quyền biển Đông hiện nay. Do đó, cơ quan hải quan đã chuyển vụ việc sang công an tỉnh Lạng Sơn để tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật. Phạm Huyền
  25. Phong thủy kinh doanh: 999 hay 666 và những câu chuyện thành công Phong thủy số học là một trong những chủ đề ưa thích của giới kinh doanh. Trong một buổi đấu giá gây quỹ dành cho những "ông trùm" ẩm thực tại Hà Nội gần đây, chủ đề này lại trở nên nóng hơn. Số 9 và những câu chuyện thành công Không phải ngẫu nhiên mà nhiều thương hiệu lớn lại chọn ngày mùng 9 tháng 9 làm ngày ra mắt sản phẩm mới. Hãng Apple lừng danh, mặc dù không hề mê tín, vẫn tranh thủ ngày "Tam Cửu" có một không hai (09/09/09) để ra mắt sản phẩm Ipod mới. Cùng thời điểm đó, hãng phim Focus Feature cũng ra mắt bộ phim hoạt hình mới mang tên "9" về số 9 lý thú này.Theo quan điểm phong thủy thì số 9 là số may mắn nhất bởi nó tượng trưng cho sự tròn đầy, toàn vẹn của trời và đất. Khi nhân số 9 với bất kì số nào thì kết quả vẫn không thay đổi: 9 x 3 = 27, lấy 2 cộng 7 lại thành 9; hoặc 9 x 9 = 81 và 8 cộng 1 vẫn bằng 9! Có lẽ vì vậy mà người ta tin rằng con số 9 gắn liền với sự trường cửu, sức mạnh và sự cân bằng hoàn hảo. Có nhiều câu chuyện thú vị về những sản phẩm cao cấp gắn liền với số 9 mà giới đầu tư, kinh doanh hay nhắc đến. Sự ra đời của chiếc Ford 999 không chỉ giúp Henry Ford thiết lập kỉ lục mới trên đường đua vào năm 1904, mà còn giúp Ford trở thành thương hiệu được biết đến khắp Hoa Kỳ ngay sau đó. Tương tự, năm nay một hãng single malt kì cựu của vùng Glen Ord cũng cho xuất xưởng 999 sản phẩm cho phiên bản đặc biệt 35 năm tuổi. Hai trong số 999 sản phẩm này đã được mua lại với giá 263 triệu đồng trong một cuộc đấu giá nhằm gây quỹ cho Dự án hỗ trợ nước sạch tại Ninh Thuận. Số 6 và những thông điệp may mắn Không chỉ có số 9, mà số 6 với hình dáng tương tự cũng là con số mang lại may mắn theo quan niệm của phong thủy số học. Chiếc sim điện thoại đắt nhất thế giới với bảy số 6 đã tạo thành tin tức sốt dẻo tại đất nước Qatar: Một người dân nước này sẵn sàng bỏ ra 2,75 triệu đô la để sở hữu chiếc sim có một không hai này. Câu chuyện khiến các đại gia Trung Quốc cũng phải giật mình, bởi chiếc sim đắt nhất (gồm tám chữ số 8) mà nước này đấu giá được cũng chỉ đến mức 486 nghìn đô la. Bởi theo quan điểm của người Trung Hoa, số 6 là con số tượng trưng cho sự thuận lợi, còn theo tiếng Ả Rập, số 6 còn có ý nghĩa là Chúa Trời. Trải qua hàng nghìn năm, quan niệm về số 6 may mắn vẫn tồn tại đến ngày nay. Điều này chứng tỏ rằng có một ảnh hưởng nào đó từ văn hoá tinh thần khiến cho con số này phần nào mang lại may mắn thật sự! Chiếc máy tính đầu tiên mà hãng Apple Computer bán ra thị trường có trị giá 666,66 đô la Mỹ là một trong số những ví dụ điển hình. Apple-1 là một trong 200 sản phẩm được Steve Wosniak (nhà đồng sáng lập hãng Apple) sản xuất thủ công và nó đã hoàn thành nhiệm vụ tạo nên sự khởi đầu đầy may mắn cho cả "đế chế" Apple hùng mạnh ngày nay. Ông Daniel Ryan, một đại diện của Singleton tại Việt Nam cho biết: "Một tuyệt phẩm đặc biệt của chúng tôi mang tên "Phiên bản Đông Hạ" cũng có số sê-ri 666 đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các đối tác của chúng tôi, cụ thể là chủ các nhà hàng, khách sạn lớn tại Việt Nam. Con số 177 triệu đồng chứng tỏ giá trị của tuyệt phẩm này và tôi tin rằng số 666 sẽ đem lại "tam lộc" cho vị chủ nhân sở hữu nó." Phong thủy là môn khoa học được công nhận từ thời Trung Hoa cổ đại và ở cả các trường đại học ở Hoa Kỳ ngày nay. Nó không chỉ nhắc nhở con người về việc tạo lập nếp sống cân bằng giữa vạn vật, mà còn trở thành trợ thủ đắc lực cho những ai quan tâm tìm hiểu và vận dụng nó một cách khoa học. Phong thủy số học cũng không nằm ngoài phạm vi của phong thủy căn bản, tuy nhiên làm cách nào để ứng dụng phong thủy vào kinh doanh, tiếp thị vẫn còn là một bài toán khó dành cho những ai ưa thích bộ môn này. (Theo Tạp chí kinh doanh) Theo ngôn từ Việt thì người Việt thích từ Chín (vua Hùng còn thích “voi Chín ngà, gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao”) vì người Việt thường mong cho lúa đến mùa Chín, trái cây đến mùa Chín và cơm nấu mau Chín để được ăn. Và cũng thích Luật Chính vì nó là kết quả của quá trình Luộc Chín sau khi đã có bốn sợi Lạt Chắn. Vì vậy Luật thành ra Chín Chắn nên người Việt đòi hỏi phải theo Luật Chính mà hành xử cho Chính Luật, tức phải Chính đáng như Luật tuyên. Làm ăn mà hành xử Chín Chắn cho Chính Luật thì sẽ gặp may mắn. Người Việt cũng thích từ Sáu (ngày xưa Sài Gòn có thuốc lào ba số Sáu, nay không còn) vì Sáu = Sâu = Lâu. Đàn ông hay đàn bà đều thích từ này. Còn làm ăn thì xâm nhập thị trường nào cũng đều phải Sâu và Lâu mới có kết quả.