Lãn Miên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
595 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
19
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lãn Miên
-
Từ nguyên của Trống Đồng Chữ Cái để viết ghép nên Từ theo kiểu ký âm còn gọi là Mẫu Tự, chính là từng Con Chữ. Nguyên tắc của Tiếng Việt, như GS Cao Xuân Hạo nêu, là nói ra một tiếng (một âm tiết) là phải có một ý nghĩa hoàn chỉnh, tức là một Từ. Khi đã ghép các Con Chữ thành một Từ, ta thường gọi là viết xong một Chữ, ví dụ viết “người”, gọi đó là Chữ “người”. Còn các từ ghép Chữ Cái hay Con Chữ, hay Mẫu Tự là chỉ riêng cái ký tự. Nay để khỏi phải dùng từ ghép mà chỉ dùng một tiếng thôi, ta có thể lướt “Con Chữ”=Cữ , nhấn mạnh ý thì lướt lặp “Cữ Cữ”=Cứ, 0+0=1; và “Ký Tự”=Cự, nhấn mạnh ý thì lướt lặp “Cự Cự”=Cứ, 0+0=1. Như vậy khẳng định (1!) có thể dùng từ Cứ thay thế cho việc phải dùng từ ghép Con Chữ hay Ký Tự, gọn tiện nói và viết hơn, mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa mà nó mang: (1) Nó là Cữ=Cỡ nhất định do qui định viết nó như vậy, giống như cái số đo ấy mà. (2) Nó là Cự=Cựa, giống như cái Cựa chân con gà, hàm chứa ý nghĩa riêng, không Cựa con gà nào giống Cựa con gà nào, trên Cựa gà mang đầy thông tin về môi trường cư trú, nên người Việt cổ có thuật bói chân gà (để Biết thông tin do Coi cái cụ thể, lướt “Biết do Coi”=Bói), Cựa thì nho viết bằng chữ Cước, nó hàm chứa cái riêng của nó như vân ngón tay mỗi con người, nên chữ Cước dùng đại diện chỉ cái vân ngón tay, cái tên “Thẻ căn cước” là vì vậy, là căn cứ vào dấu vân ngón tay để phân biệt chính xác mỗi cá nhân, Tây gọi là Thẻ ID (identification), Ta gọi là cái Thẻ chứng minh nhân dân, tức chứng minh nhiều người, ví dụ nói “nhân dân VN” tức “mọi người VN”, mà lại không gọi là cái Thẻ chứng minh công dân. (3) Nó có âm đọc là “Cứ” trùng âm với căn cứ, bởi chính nó cũng là cái căn cứ để mà viết ghép thành một từ ký âm. (4) Nó là một khẳng định, Cứ !, cứ thế mà viết vì đã qui định viết như vậy, mỗi Con Chữ hay Ký Tự là một Cứ, là một chữ khẳng định, như Ạ!=Là!=Dạ!=(Dã! 也)=Nhá!=Nhé!=Nhỉ!=Hỉ!=Hầy!=Đấy!=(Đích! 的)=Đó!=Có!=Cơ!=Cứ!=Chứ!=(Chi! 之)=Chữ! Vì chưa có phần mềm để gõ phím ra Cứ (chữ cái khoa đẩu) thời Hùng Vương, nên khi đọc cuốn sách “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, tôi suy đoán một số chữ viết trên các cổ vật có nêu trong cuốn sách như sau: 1/ Cứ “…” là “n” (Trên tảng đá Hầu Thào ở Sa Pa). Phải chăng đó là viết tắt của chữ Nền (tảng đá dùng để bó nền nhà) 2/ Các Cứ “…” là “u, đ, ng” (Trên rìu đồng Bắc Ninh). Phải chăng đó là chữ Ngắt? Vì Ngắt=Gặt=Chặt=Cắt=Xắt=Xả=Rạ=Rựa=Rìu ( Trong nôi khái niệm này có cả động từ cả danh từ như Rạ, Rựa, Rìu. Cổ xưa thường lấy động từ làm danh từ. VD gọi Đẻ, tức là mẹ; gọi Đụ, tức là bố. Đụ=Phụ=Phò=Bố, từ tiếng Việt cổ, cho “cổ Hán ngữ’ – Phụ, cho tiếng Lào – Phò, rồi vẫn lại trở về là của Việt – Bố. Ở Hưng Yên ngày nay vẫn còn có làng gọi ông Đực bà Đực, ông Cái bà Cái, chứ không gọi là ông Nội bà Nội, ông Ngoại bà Ngoại). 3/ Các Cứ “…” là “s-x, o” (Trên chiếc rìu đá do Đỗ Qúi Bảo tìm thấy ở đồi Giám, Việt Trì 1998). Phải chăng đó là chữ Xo. Vì Xo=Xoi=Xỏ=Xả=Rạ=Rựa=Rìu. 4/Các Cứ “…” là “ ng, n, u” (Trên tấm yếm hộ tâm bằng đồng ở bảo tang lịch sử). Phải chăng đó là viết tắt chữ Người Nú để chỉ cái “Vỏ Che”=Vè=Vệ cho người. Vì Nú=Náu=Nấp=Núp (Ru Rú = Nú). 5/ Các Cứ “…” là “ u, đ, ng” (Trên trống đồng Lũng Cú, thuộc văn hóa Đông Sơn). Phải chăng đó là chữ Đụng (dùng động từ chức năng làm danh từ chỉ cái trống đồng, hễ đụng thì nó kêu). Vì Đụng=Động=Trống. Cái Đụng=Cối Động=Cổ Đồng (Hán ngữ viết ngược là Đồng Cổ). Hai vật tượng trưng phồn thực là Cối/Chày: Cối=Cái=Gái; Chày=Chàng=Chài=Trai (tiếng Tày “Chài” nghĩa là Anh, đối với “Noọng” nghĩa là Em. “Noọng ơi noọng, au Chài mí ?” nghĩa là “Em ơi em, yêu Anh mấy?”. Chài còn dùng như động từ chỉ ý “gái bắt chồng bằng bỏ bùa”, gọi là “chài”, di ấn thời mẫu hệ). Cũng vậy, gọi tên vật theo động từ chức năng thì trống đồng chính là Cái Gõ=Cái Vỗ=Cổ Vũ. Cái Cổ Đồng là để Gõ hay Đụng cho nó kêu để cổ vũ mọi người Đồng lòng (như từng dùng trong cuộc khời nghĩa của Hai Bà Trưng chống Hán xâm lược ở khắp vùng Lĩnh Nam). Như vậy theo như các Cứ viết trên trống đồng Lũng Cú, thấy rõ từ nguyên của Trống Đồng là Cái Đụng. Hệ quả của Đụng (=Động) là: Đụng vào thì nó Nảy=Xảy (nho viết bằng chữ Xuất)=Thảy=Thả, Thả thì ra Thanh (nho viết bằng chữ Thanh). Đụng vào thì nó Nảy=Xảy=Táy (táy máy=đụng), Táy thì ra Tiếng. (Tiếng+Rống+Không)=Trống, đó là bản chất của Tiếng Trống, nghe thì to mà không nhìn thấy. Hệ quả của Tiếng Trống là tập hợp và cổ vũ mọi người đồng lòng: Đụng=Chung=Chúng=Cùng=Quần=Công=Cộng=Đông=Đồng (nhấn mạnh ý thì “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1; “Đông Đông”=Đồng, 0=0=1; “Quần Quần”=Quận, 1+1=0. Các từ đôi Công Chúng, Quần Chúng, Công Cộng, Cộng Đồng là xuất hiện về sau, thời của nho Nhã). Chính vì thời tiền sử người Việt cổ đã có Cứ ký âm (chữ khoa đẩu), dân các địa phương theo Cứ ấy để ghi giọng nói địa phương mình, dễ dàng sáng tạo thêm, từ đó mà có các ngôn ngữ của Bách Việt. Giống như gần đây, vị giáo sư viện trưởng viện khoa học xã hội Trung Quốc nhận định rằng, nguyên nhân phân chia đế quốc La Mã cổ đại ra thành nhiều dân tộc với các quốc gia riêng là do dùng Cứ ký âm Latin. Tìm lại được Cứ ký âm của người Việt cổ thời tiền sử thật là quí giá đáng trân trọng. Do tác giả đã kiên trì trong 50 năm Đi vào nhân dân. Tục ngữ Việt có câu “Đi một đoạn đàng, học một sàng khôn”. Càng Đi nhiều càng biết nhiều. Cái Đi nhiều nhất, tức một bước của nó thì vĩ đại khủng khiếp, đó là Vũ Trụ Đi, tức Trời Đi. Người Đi thì còn Nghi, Nghiên cho đến Kiến mới thỏa mãn (“Người Đi”=Nghi), còn Trời Đi thì Trời biết liền, mở rộng cái khôn của Trời ra liền, cái biết ấy gọi là Tri (“Trời Đi”=Tri), mà nhiều Tri thì “Tri Tri”=Trí, 0+0=1. Người và Trời đều ở trạng thái Đi= Di移 =Dịch易. Đi thì học được khôn. Cái Trí của người là do Trời cho, còn cái Trí của Trời thì vô cùng.
-
Trên trống đồng Lũng Cú, di vật khảo cổ thuộc văn hóa Đông sơn, có mấy chữ cái Việt cổ (cứ Việt) tương đương u, đ, ng, có thể đánh vần thành chữ Đụng. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, thời tiền sử tiếng Việt mới chỉ có hai thanh điệu, chia đủ thành nhóm thanh điệu cao và nhóm thanh điệu thấp (như nhóm 1 và nhóm 0). Đến thời đồ đồng, có thể tiếng Việt đã có tới bốn thanh điệu, cũng chia đủ thành hai nhóm, hai thanh thuộc nhóm cao-nhóm 1, hai thanh thuộc nhóm thấp-nhóm 0. Ngày nay nếu bạn có dịp đi ngang qua bản làng người Thanh, một chi Thái ở miền tây Nghệ An, vào lúc chiều tà bạn sẽ nghe thấy những hồi tiếng cồng ngân nga chậm rãi khoan thai, chỉ có đúng bốn thanh điệu: Đung…Đùng…Đúng…Đụng… … Đung…Đùng…Đúng…Đụng…,như từ 0 đến 1 rồi lại từ 1 đến 0 lặp đi lặp lại, như là “thái âm thành dương”( 0+0=1) rồi “thái dương thành âm” (1+1=0). Trâu bò của bản đi ăn thả rông (mỗi con cổ có đeo một mõ gỗ lục lạc, lúc lắc thành tiếng kêu mà chủ nhà tự làm mõ đó nhận được ra tiếng riêng quen) nghe tiếng cồng ấy mà biết đến giờ tự quay về bản. Tiếng Việt ngày nay có sáu thanh điệu, cũng vừa chia đúng thành hai nhóm, nhóm cao gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền” là nhóm dương-nhóm 1; nhóm thấp gồm ‘không”, “ngã” ,”nặng” là nhóm âm-nhóm 0. Ý tưởng tượng đài Trái Tim Thủy Tinh của thủ tướng Võ Văn Kiệt, với cái tên tượng đài là Trái Tim Thủy Tinh thực đúng là bốn chữ vàng. Về thanh điệu thì cái tên tượng đài ấy đủ thanh điệu tiếng Việt của một hồi nhạc thiền, từ bắt đầu cho đến kết quả của thiền: Tĩnh… Tịnh… Tinh…Tính…Tỉnh…Tình. Hãy bình tĩnh sẽ cho ra quyết định có tình. Tên của tượng đài bốn chữ Trái Tim Thủy Tinh nhắc nhở người ta liên tưởng đến bốn nét của chữ Tâm, để mà hành động đúng lương tâm. Nó còn nhắc nhở người ta nhớ đến 4 chữ THẬT trong đoạn di chúc của Bác Hồ (bắt đầu viết từ ngày 10-5-1965) dặn dò những người của đảng cầm quyền: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải THẬT sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, THẬT sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta THẬT trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ THẬT trung thành của nhân dân”. Tên tượng đài bằng thủy tinh hình trái tim có tên bằng bốn chữ Trái Tim Thủy Tinh. Hai chữ giữa là Tim Thủy. Tim là dòng máu Việt. Thủy là Nước (thủy là màu ngũ hành của nước, lấy Thủy đại diện Nước). Dòng máu Việt là yêu Nước. Tim bên trái, Thủy bên phải. Quyền lợi của Nước phải là cao nhất. Tim=Tải=Trái, dòng máu Việt là trái tim tải Nước (thủy) đi lên. Tiếp là hai chữ liền nhau Thủy Tinh. Nước thì phải Tinh, Nước quyết định phải đúng đắn. Tinh Tinh=Tính, 0+0=1. Tinh Tinh=Tỉnh, 0+0=1. Tinh Tinh=Tình, 0+0=1. Một là Chắc. Chắc=Đắc=Được, (cặp đối Dương/ Âm là Được/ Thua ) . Chắc=Đắc=Được=Nước=Nác=Đác=Đức. Người vì Nước là người có Đức.
-
Vừa mới chứng minh xong từ Vũ Trụ là do người nông dân Việt Nam đặt ra từ thời cổ đại, tôi may mắn bắt gặp câu đối sau trong nhà nông dân một làng vùng quê xa. Xin gởi bạn đọc để cùng đồng cảm với tâm hồn người nông dân Việt Nam nhân dịp hội xuống đồng của mùa Xuân này đang tới: Chí khí tráng sơn hà, dân tộc anh hùng duy hữu nhất Tinh thần quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song 志 氣 壯 山 河 民 族 英 雄 惟 有 壹 精 神 光 宇 宙 亞 歐 豪 杰 是 無 雙
-
Hiểu tục ngữ Học sinh tiểu học có thể sáng tác được tục ngữ nếu được hướng dẫn hiểu đúng cốt lõi cú pháp Việt là Đề và Thuyết của GS Cao Xuân Hạo. Mỗi tiếng là một từ. Một câu có thể là một từ, hai hay nhiều từ. Câu có đề và thuyết, đề là cái chính cần nêu, thuyết là cái giải thích cho đề. Tục ngữ nói có gieo vần. Mỗi tục ngữ gồm nhiều câu ngắn làm thành một Nôi khái niệm lớn, là cái Đề chung của tục ngữ. Bản thân mỗi câu ngắn trong tục ngữ đều có Đề và Thuyết, mà Thuyết còn có phần ẩn không nói ra, lý do là để cho ngắn gọn. Dùng NÔI khái niệm và phân tích câu theo Đề và Thuyết thì mới dễ hiểu và hiểu đúng hàm ý của tục ngữ, còn phân tích câu theo kiểu Chủ ngữ-Vị ngữ-Tân ngữ như ngữ pháp Tây thì dễ hiểu sai lệch ý mà tục ngữ truyền đạt. NÔI=Nói=Hỏi=Học=Đọc=Đúng=Hùng=Hồng. Trẻ em lớn lên từ Nôi ru con của mẹ, biết Nói mới biết Hỏi, biết Hỏi mới biết Học, biết Học mới biết Đọc, biết Đọc mới hiểu Đúng, làm Đúng mới nên Hùng mạnh, nước có Hùng mạnh mới được Rộng (Hồng) rãi nhiều nước trên thế giới ngưỡng mộ. Nước=Nam=Ham=Hiếu=Điệu=Đồng=Hồng=Hùng. Nước Việt của người Việt ở phương Nam. Người Việt từ cổ đại đã biết Ham, biết Hiếu, biết Điệu (Đẹp+Khéo+Dịu=Điệu), biết Đồng lòng trong tình nghhĩa Đồng bào của một đại tộc lớn, sống trên vùng rộng lớn của ĐNÁ từ nam Dương Tử, gọi là họ Hồng Bàng của nước Văn Lang thành lập cách nay 5000 năm thời các Vua Hùng, hung mạnh vì có nền văn minh rực rỡ. Phân tích để hiểu tục ngữ bằng Nôi khái niệm, để học sinh tiểu học có thể sáng tác được tục ngữ. Ví dụ: 1/Cảnh cau Màu chuối. TN này có hai câu ngắn. Nôi khái niệm chung của TN này là “Mục đích trồng làm”, phần ẩn chung của Thuyết ở mỗi câu là “nên ưu tiên”. Diễn giải: Mục đích trồng làm Cảnh nên ưu tiên cau, Mục đích trồng làm Màu (như hoa màu) nên ưu tiên chuối. Nếu không phân tích theo Đề (Cảnh, Màu) và Thuyết (cau, chuối), mà phân tích như theo cú pháp Tây thì sẽ hiểu sai là Cảnh của cây cau là Màu của cây chuối. Như vậy Nôi khái niệm còn có thể mở rộng nhiều nữa, là do học sinh tự sáng tạo tiếp, hoặc tự đặt nhiều câu khác theo cách tương tự. Nôi có mở rộng là: Cảnh cau=Màu chuối=Rào duối=Chổi rành=Mành sậy=Gậy trúc… 2/ Chó treo Mèo đậy. Nôi khái niệm chung là “Vật ăn vụng là”. Phần ẩn của Thuyết là “thì phải bảo vệ thức ăn của người bằng cách”. Diễn giải: Vật ăn vụng là Chó thì phải bảo vệ thức ăn của người bằng cách treo, Vật ăn vụng là Mèo thì phải bảo vệ thức ăn của người bằng cách đậy. Nôi khái niệm có mở rộng là: Chó treo=Mèo đậy=Ruồi bẫy=Kiến ngâm=Vi Khuẩn Xâm đút tủ lạnh… 3/ Học tài Thi phận. Nôi khái niệm chung là “Kết quả quyết định của”. Phần ẩn của Thuyết là “là do”. Diễn giải: Kết quả quyết định của Học là do tài, Kết quả quyết định của Thi là do phận. Nôi khái niệm có mở rộng: Học tài=Thi phận=Bận ham=Làm siêng=Biếng nản=Ngán no=Lo dối=Bối Rối lỡ lời=Chơi Bời mất dạy=Chạy Vạy túng tiền=Điên Điên lú lẫn=Lẩn Thẩn mất trí=Bí ngu= Chữ Mù không học… 4/Ăn cho Buôn so. Nôi khái niệm chung là “Cách hành xử khi”. Phần ẩn của Thuyết là “là phải”. Diễn giải: Cách hành xử khi Ăn là phải cho, Cách hành xử khi Buôn là phải so (so đo). Nôi khái niệm có mở rộng: Ăn cho=Buôn so=Làm lo=Đọ gắng=Thắng tranh=Giành rang… 5/ Đau đẻ Ngứa ghẻ Hờn ghen. Nôi khái niệm chung là “Bức xúc”. Phần ẩn của Thuyết là “khi”. Diễn giải: Bức xúc Đau khi đẻ, Bức xúc ngứa khi ghẻ, Bức xúc Hờn khi ghen. Nôi khái niệm có mở rộng: Đau đẻ=Ngứa ghẻ=Hờn ghen=Hen cúm=Rúm sợ=Dối Vợ ngoại tình=Bất Bình gặp trái=Vãi Đái yếu hèn… 6/Lợn nhà Gà chợ. Nôi khái niệm chung là “Mua hời giá”. Phần ẩn của Thuyết là “khi tới”. Diễn giải: Mua hời giá Lợn khi tới nhà, Mua hời giá Gà khi tới chợ. Nôi khái niệm có mở rộng: Lợn nhà=Gà chợ=Rau rộ=Cau vườn=Lươn ruộng=Muống ao=Đào hái=Cải mùa=Cua vựa=Dưa đồng… 7/Rắn mai tại lỗ Rắn hổ về nhà. Nôi khái niệm chung là “Cấp độ nọc độc của”. Phần ẩn của Thuyết là “là dính nọc thì chết ngay khi”. Diễn giải: Cấp độ nọc độc của Rắn mai gầm là dính nọc thì chết ngay khi tại lỗ, Cấp độ nọc độc của Rắn hổ mang là dính nọc thì chết ngay khi về nhà. Nôi khái niệm: Rắn mai tại lỗ=Rắn hổ về nhà.
-
Học I Tờ Tại sao bắt đầu học đánh vần chữ quốc ngữ lại gọi là “Học I Tờ” ? Còn trình độ nhân thức mặt chữ khi mới bắt đầu học lại gọi là “trình độ A, Bê, Cê” ? Câu hỏi 2 dễ giải thích vì A, B, C là ba chữ cái đầu bảng Anphabét của chữ cái Latin, buộc phải thuộc lòng thứ tự các chữ cái trong bảng đó để còn tiện tra từ điển và biết đánh đúng thứ tự mục bài viết. Giải thích câu 2 là giải thích cái “Học I Tờ”, cái này liên quan đến cái quán tính từ vạn năm trước của người Việt do đã có học bằng các con chữ cái Việt thời Vua Hùng (còn gọi là chữ khoa đẩu), nay gọi tắt là chữ cái Việt (hiểu là có từ thời tiền sử), bởi vì khi học chữ quốc ngữ ta không gọi các chữ cái là chữ của ta, mà vẫn gọi với một tinh thần rất công bằng như khoa học là “con chữ cái Latin”. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã có công sưu tầm lại đầy đủ các con chữ cái Việt và giải mã được cách ghép vần để tạo thành từ đơn âm tiết của tiếng Việt thời tiền sử khi sử dụng các con chữ cái Việt đó. Chữ quốc ngữ đã hình thành từ công lao những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đưa mẫu tự Latin đến xứ ta, và công lao những người Việt đem cách ghép vần bằng chữ cái Việt thời Vua Hùng áp dụng vào thành cách đánh vần chữ quốc ngữ. Hai tố Tây và Việt ấy đã hình thành nên chữ quốc ngữ gồm chữ cái Latin và cách đánh vần như Việt. Đây rõ ràng là một sự đổi mới lại như cũ, làm cho Việt Nam thành nước đầu tiên ở ĐNÁ đã “Latin hóa” được chữ viết của ngôn ngữ mình, để bước đầu hội nhập Đông Tây. Xã hội loài người trên tòan cầu sẽ còn lần đổi mới lại như cũ nữa, như nhà tiên tri, bà Vanga nói: “ Một lý thuyết cổ xưa sẽ trở lại với nhân loại…”. Cái lý thuyết cổ xưa ấy lại cũng được tìm ở người Việt. Chữ cái Latin chia thành phụ âm và nguyên âm. Phụ âm thì không phát ra thành tiếng, còn nguyên âm thì phát ra thành tiếng, do đặc điểm ngôn ngữ đa âm tiết của phương Tây. Chữ cái Việt không gọi là chia ra phụ âm và nguyên âm, mà mỗi chữ cái là một âm vận, tức phát ra thành tiếng, mà mỗi tiếng là một từ tức có nghĩa hoàn chỉnh, như nhận định của nhà ngôn ngữ học GS Cao Xuân Hạo. Bắt đầu học chữ quốc ngữ thì gọi là “Học I Tờ”. I và Tờ là gồm thanh điệu nhóm âm tức nhóm 0 (chữ I) và thanh điệu nhóm dương tức nhóm 1 (chữ Tờ). Chữ cái Việt đánh vần nên từ Việt, theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền là thời tiền sử chưa có dấu, thanh điệu chỉ mới chia thành hai nhóm là nhóm thanh điệu thấp và nhóm thanh điệu cao. Đương nhiên là như vậy, vì thời tiền sử ngôn từ chưa nhiều. Ngôn từ nhiều lên, thanh điệu đã nhiều lên theo, thành sáu thanh điệu, mà Lãn Miên chia thành hai nhóm là nhóm âm (0) gồm “không”, “ngã”, “nặng” và nhóm dương (1) gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền” , mà diễn biến thanh điệu của từ lặp khi bị lướt để thành một từ mới cùng nôi khái niệm là theo đúng thuật toán nhị phân: 0+0=1, 0+1=1, 1+0=1, 1+1=0. Học I Tờ chỉ cần học một tháng là đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ, xóa được nạn mù chữ. Ca dao “Rủ nhau đí học I Tờ. Bước đầu khó nhọc đến giờ vinh quang”. Âm vận I có nghĩa của I, thời chữ cái Việt tiền sử âm vận I chỉ có một chữ cái, vẫn bảo lưu được cái âm tiết I với nghĩa hoàn chỉnh của nó cho đến tận ngày nay, mà không cần phải hội thảo quốc gia là nên viết i ngắn hay y dài (VD làm như y, giống y xì, làm ngành y – là chữa theo thuốc và theo phác đồ điều trị). Nhấn mạnh cái Y thì dùng từ lặp Y Y, mà lướt thì sẽ cho ra ba đáp số: “ Y Y”= =Ý, 0+0=1, rõ ràng là mình nếu cứ theo cái tư duy của mình thì đó là cái Ý của mình; “Y Y”= Ỷ, 0+0=1, rõ ràng là nếu mình cứ theo mãi cái gì đó thì thành ra Ỷ , là ỷ lại; “Y Y”= Ỳ, 0+0=1, rõ ràng là nếu mình cứ y mãi cái tư duy cũ của mình, không chịu đổi mới, thì thành một sức Ỳ lớn. Ba chữ Y, Ý, Ỷ mà Hán ngữ dùng là mượn của tiếng Việt, cho nên Hán ngữ không có chữ Ỳ. Con trâu ở vùng sâu vùng xa nó còn biết đứng ỳ không nghe lệnh người nếu nó không đồng ý, chẳng lẽ nó phải mượn “từ Hán Việt” rồi mới chế ra cái từ Ỳ ? Âm vận Tờ có nghĩa của Tờ, (VD tờ giấy bạc, tờ báo). Câu ”Học I Tờ” có nghĩa là học theo như tờ sách của thầy dạy. Con chữ cái Việt thời Hùng Vương là “Tờ” nó là một âm vận, nó có nghĩa của nó, nó đồng thời cũng là một từ, Học chữ quốc ngữ vì chữ cái là chữ cái Latin nên mới gọi T là phụ âm. Nhưng vần “tờ” này dùng với tần suất rất lớn trong tiềng Việt, có tác giả đã viết cả một tiểu thuyết tình yêu mà chỉ toàn bằng các chữ có vần “tờ” đầu. Học I Tờ cũng là học theo giấy, tức viết đến đâu học đến đó. Mà giấy thì người Việt đã làm ra cách nay vạn năm. Nôi khái niệm các công đoạn làm cho ra thành phẩm Giấy là: Vỏ=Dó=Giã=Gieo=Xeo=Xáo=Sào=Sấy=Giấy. Nguyên liệu thô là Vỏ cây Dó, phải Giã ra thành bột, Gieo xuống nước (như gieo mình xuống sông), tiếp là động tác Xeo và Xáo bằng cái rây, rồi vắt tờ ướt lên Sào, để Sấy bằng cách phơi nắng, khô rồi mới thành Giấy. Tờ ấy nó là từ cái Xơ của vỏ cây, mà tiếng Tây gọi Xơ là Xenlulôzơ (do họ không biết lướt “Xenlulôzơ”= Xơ cho gọn như tiếng Việt). Trong buổi công bố cuốn sách Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, có câu hỏi là thời Vua Hùng có chữ viết, vậy mực ở đâu ? Người ta hỏi vậy mà không biết rằng vạn năm trước người Việt đã biết xăm mình và nhuộm răng đen ăn trầu, lại không biết làm ra mực ư ? Từ Mực, Hán ngữ mượn của tiếng Việt do dịch âm và ý của từ Mun Tức trong tiếng Việt, nghĩa là một chất màu đen (Mun) và là chất nước (Tức), Hán ngữ phát âm là “mua shủi” từ chữ Mặc Thủy. Mun Tức nói lướt là “Mun Tức”= Mực, viết bằng chữ Mặc (ngôn ngữ Môn Khơ Me “Tức” nghĩa là nước). Mặc Tử có thuyết của Mặc Tử, tương truyền ông ta da đen như mực, Hán thư còn nói có lẽ ông ấy người Ấn Độ, vì không rõ lai lịch của ông ấy. Ông ấy là người Việt phương nam mà thôi.
-
何人上古交流 八月初九鬥牛仍换 經盈水步百班 依諮日月來換鬥牛 Vì chữ nho đồng âm nhiều lắm, nên không biết nó dùng chữ nào.Thử theo âm, viết lại bằng chữ nho như trên , không chắc có đúng không (?). Câu trên là: Hỏi ai thượng cổ giao lưu. Ngày 9 tháng 8 đấu trâu xoay vần. Thắng qua trên dưới trăm lần. Theo coi ngày tháng đến tuần đấu trâu.
-
Chữ Tân thì đúng đấy, nó chỉ hơn chữ Tiêu một nét phẩy xiên từ phải sang trái, chữ bé quá nhìn không thấy. Tiêu là Đêm, còn Tân là khách, thường nói tiếp Tân. Tân chí như qui là Khách đến như về (nhà của họ)gia chủ liệu mà đãi cho họ hài lòng. Câu dài cũng nghĩa đó. Tân chí như quí ngô qui gia là (làm sao cho)khách đến cũng được thoải mái như ta khi về đến nhà mình vậy.
-
Thắc Mắc Thắc Mắc, từ điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 giải thích là: Có chỗ chưa hiểu, Băn khoăn, Xích mích chưa giải quyết. Đúng, đó là những ứng dụng của từ Thắc Mắc. Còn từ nguyên của nó là từ đối: Thắc/Mắc=Trái/Phải. Hỏi “Còn thắc mắc gì nữa không ?” tức là “Còn trái phải ( đôi co, tranh luận, băn khoăn) gì nữa không ?”. Mà từ nguyên của Trái/Phải hay Thắc/Mắc lại là bắt nguồn từ tiếng quát lệnh trâu cày quẹo Trái hay quẹo Phải, đó là từ đối Tắc/Rì (Bắc Bộ) hay Thá/Dí (Nam Bộ). Con trâu khi cày, người cầm chuôi cày bằng tay phải, dây mũi trâu bằng tay trái, muốn trâu quẹo trái thì kéo căng dây mũi, nó đau nên phải theo trái, kèm tiếng quát “Thá !”. Thá=Tha=Thắc=Tắc=Tả=Tim=Tải=Trái=Trước=Trói=Mòi=Mỗi=Một (đó là cái lệnh thứ nhất, quẹo Trái). Kéo dây mũi còn gọi là lôi hay Tha (“Mèo tha miếng thịt thì đòi. Cọp tha con lợn mắt coi trừng trừng”). Trái Tim thì nằm bên Trái cơ thể, dùng để Tải máu đi nuôi cơ thể. Mòi là nhất, Mặn Mòi là mặn nhất. Thá là bên Trái, vì có dây mũi nắm trên tay người, làm Trói buộc con trâu, nó biết thừa là nó bị đau mũi do bên trái là cái dây căng gây nên, do đó hễ đứt hay tuột dây là nó có phản ứng bùng đầu tiên là chạy về bên phải. Khi muốn trâu quẹo Phải, tay trái người cày để dây mũi chùng, tiện khúc dây thừa phía bàn tay trái, làm roi quất nhẹ vào mông trâu, kèm quát lệnh “Dí !” là con trâu đi quẹo Phải. Như vậy đối với con trâu thì bên Thá là bên Bị (bị đau mũi). Bị=Buộc=Bịt=Tịt=Tắc=Tị. (Tị Nạn cũng là một sự bó buộc, một cảnh đời Trái.”Trói Ai”=Trái ). Cái Tắc Tị kéo dài khá lâu, nên “Tị Tị”=Tí, 0+0=1, (Tí cũng là vị trí Một, thứ nhất trong 12 can ); đối với con trâu thì bên Dí là bên Đi, tức được tự do, không bị tha đau mũi như bên Thá. Vậy Trái/Phải = Bó Buộc/Tự Do, Phép/Tắc =Phải/Trái, làm theo Phép thì được tự do, làm theo Tắc thì bị bó buộc. Tắc=Giặc. Bên Dí là bên phải: Đi=”Rì!”=”Dí!”=Di=Du=Do=Dữu=Giải=Bãi (miễn bó buộc)=Buông=Bùng=Bong=Phóng. Bên Phải là bên Đi, tức bên được Giải Phóng, mà phóng ai thì người phóng và kẻ được phóng đều được cái Phải: “Phóng Ai”=Phải. Phải=Hài=Vài=Hai=Hậu=Hữu=Hay=Ngay=Trảy=Trâu=Ngầu=Ngưu=Sửu=Sỉu=”Níu”(phát âm của Hán ngữ). Phải lòng=Hài lòng. Tiếng Tày dùng từ Vài chỉ con trâu, gọi là Tu Vài (Con=Cu=Tu=Tử) . Tiếng Việt Đông gọi con trâu là Tu Ngầu. Bên “Dí” là cái lệnh thứ Hai, Dí=Nhị, và con Sửu là vị trí con thứ Hai trong 12 can. Hay=Hai, Hay là phương án 2, VD nói “Tôi làm thế này, Hay là…”, tức nêu phương án 2. Hay=Hài=Phải, khi hài lòng thì người ta khen Hay, hoặc khen Phải đấy. Bên phải còn gọi là bên Ngay; Hay=Ngay, như từ đôi Trái/Ngay. Trảy=Đi , như trảy hội là đi lễ hội. Bên Phải còn gọi là bên Mặt, tay phải là tay mặt. Mặt=Mắc. Nên Thắc/Mắc=Trái/Phải. Khi hỏi “Còn Thắc Mắc gì nữa không? Tức là “Còn Trái Phải (đôi co, tranh luận) gì nữa không? Khi viết chữ thì nét viết đưa Trái Trước rồi đến Phải sau, thứ Một rồi mới đến thứ Hai. (Cái Thai nó cũng bị Trói trong bụng mẹ Trước; rồi mới Ra=Rì=Dí=Đi thành ra cái Hài=Hai=Hậu=Sau). “Nam Tả, Nữ Hữu”. Bên Trái là bên có Trái Tim, làm chức năng Tải cả gia đình (“Thuyền theo lái gái theo chồng”), gái bên Phải, bên Hữu, bên Hậu. Trong thông tin thì lề Trái như chuyển tải thông tin, như trái tim tải máu nuôi cơ thể; lề phải như xử lý thông tin, sàng lọc ra lẽ phải xứng đáng “Phóng Ai”=Phải, đem lại tự do cho con người. Phải=Hài là sự hài lòng, đồng thuận, nên nôi khái niệm các từ khẳng định đồng thuận là: Phải=Hài=Hay (tiếng Nhật)=Hầy (tiếng Bắc Trung Bộ, tiếng Việt Đông)=Hề=Hè (tiềng Huế)=Hỉ (tiếng Quảng Nam)=Nhỉ=Nhé=Né (tiếng Nhật)=Nư (tiếng Thái)=Chứ=Chớ=Chi. Người Việt khi hỏi rủ rê thì hướng về đồng thuận của người đối thoại, tiếng Việt Đông và tiếng Nhật cũng vậy. VD: “Anh đi cùng tôi Hầy !”, “Anh đi cùng tôi Nhé !”, “Anh đi cùng tôi chứ !”, “…..Hầy !”, “…. Né !”, “… Nư !”. Trong khi người Hán khi hỏi rủ rê lại quan tâm lo lắng đến sự không đồng thuận của người đối thoại, VD: “Anh đi cùng tôi, Bất ?( phát âm là “pu”, nghĩa là không”. Người Việt không khi nào hỏi rủ rê là “Anh đi cùng tôi không?” vì hỏi như vậy không tình cảm, giống như xét hỏi. Nam Tả nữ Hữu, nên bên Tả=Tắc=Thắc=Thá là bên Trái Tim, bên Tải cả cơ thể, là phái mạnh. Do vậy cày đôi bằng hai con bò, người cày phải đi mua chọn con Thá là con khỏe hơn con Dí. Vì khi cày bằng bò đôi, con Dí được đi trên đất chưa cày lật, bằng phẳng dễ đi hơn (Đi=Dí=Dễ=Dị, lề phải thì dễ chứ lề trái là khó à nghe), còn con Thá (là con Tải) nó phải lội trên chỗ đất vừa cày lật, gập ghềnh hơn, nó phải là con khỏe hơn mới tải được. Tương tự, thông tin lề Trái nên nhiều hơn (phản biện) để lề Phải dễ sàng lọc chọn ra để hoàn thiện cái Phải. Đó là câu “Của chồng công vợ”, vì Nam tả như Của, càng nhiều càng mạnh càng tốt để Nữ hữu như Công, bỏ công càng nhiều , sang lọc thông tin càng kỹ, càng hòan thiện hơn cái Phải để đúng là “Phóng Ai”=Phải=Hài, làm hài lòng công chúng. Hóa ra Nam tả Nữ hữu là cái lẽ phải nó thuộc về đàn bà, có Của không bằng có Công. Tắc (là ngôn ngữ lệnh trâu) có nghĩa là bên Trái. Nguyên Tắc là cái Đầu tiên Bó Buộc tuân thủ. NÔI=Nòi=Ngòi. Cái “Ngòi đầu Tiên”=Nguyên. Nguyên Tắc là Ngòi Trói, không tuân thủ không được. Chữ Tắc còn thể hiện cái nguyên tắc đối với đồng tiền. Vì nó gồm bộ Bối (tức đồng tiền Việt cổ. Bối=Bái=Trai, là con trai có hai mảnh vỏ giống bàn tay úp lại với nhau thành động tác Bái, vỏ nó nung lên thì thành “Vỏ Bối”=Vôi) và bộ con dao (ý là giám sát quyết liệt), để đồng tiền phải là đồng tiền chính đáng, không để cho đồng tiền bẩn (do tham nhũng, rửa tiền mà có). Cái Vuông của lỗ đồng tiền đã nói rõ cả. Vuông có 4 Ven, cứ hai Ven là “Ven Ven”=Vèn, 0+0=1; hai Vèn là “Vèn Vèn”=Vẹn, 1+1=0. Tức đồng tiền sinh lời là phải Vẹn, là hài hòa lợi ích cho cả 4. Đó là Một=Mua, Hai=Lái, Ba=Buôn, Bốn=Bổn. “Một vốn bốn lời” , 4 đối tượng trên đều phải được hưởng lợi. Trong BĐS thì Bổn là ngân hàng, Buôn là Đầu tư xây dựng, Lái là Đầu cơ (“nhà đầu tư thứ cấp”), Mua là Toàn dân, nhưng là chủ sở hữu của đất. BĐS đang Ê=Ế=Khê=Khú vốn. Khú Vốn, (Hán ngữ dùng từ này, phát âm là “khuây pển” nhưng để chỉ ý “lỗ”). Khú=Hủ thì mới là thúi. Khú vốn không phải lỗ, mà là vốn đang bị Khú (dưa khú), không ai mua để giải tỏa đọng vốn. Giải quyết chỉ cần một chữ Vẹn, là đáp ứng lợi ích hài hòa cả bốn cái Ven của Vuông lỗ đồng tiền là xong. Ai trong số 4 trên đã (do làm Trái) mà giành được lời Khẳm rồi, thì vì làm Trái nên giờ phải Trớ ra cho Toàn dân là xong. Còn không chịu thì “Khẳm Lắm”=Khắm, không giải tỏa Khú vốn, để lâu, sẽ thành Khắm Lằm Lặm. Chữ Tắc (của con trâu nó hiểu) là bên Trái, phía đó tay cầm dây mũi làm con trâu bị đau khi dây mũi Tha (lôi) nó, Tha mạnh thì “Tha Tha”=Thá, 0+0=1. Con trâu nó biết phía Thá ây nó bị bó buộc do tay cầm dây mũi (dây thừng, còn gọi là chạc mũi) của người cầm cày, Trái=Trói, nên chữ Tắc ấy còn có nghĩa đen là Tắc, như làm Tắc cống. Chữ Tắc này Hán ngữ dùng nguyên nghĩa đen, phát âm là “xai”. Tắc=Ngắc (Ngắc Ngứ là ngạt thở gần chết)=Ngạt=Nghẹt=Chẹt=Chật=Chẹn (chẹn họng làm cho không thở được). Thở=Thông. Thông=Ống=Cống=Sông=Súng (lòng song cũng thông như nòng sung). Còn một chữ Tắc nữa, mà cũng như hai chữ Tắc trên được Từ Điển đã dẫn giải thích là từ Hán Việt. Chữ Tắc này cũng vẫn là từ Việt, đồng âm nhưng không đồng nghĩa hai chữ Tắc trên. Nó là do tạo ra bằng lướt, đó là chữ Tắc trong từ Xã Tắc. Xã Tắc=Cả Nước. Tắc nghĩa là Nước, do lướt từ đôi “Té Đắc”=Tắc, dùng từ đôi để nhấn ý Nước: Té=Tế=Tức (tiếng Khơ Me)=Đức=Đế=Đắc=Đác (tiếng Choang)=Nác=Nước=Nam (tiếng Thái Lan)=Nậm (tiếng Tày)=ÂM. Tế Lễ là cúng tế cái thế giới âm. Khi làm lễ, chủ lễ làm nghi thức cúi cong chùng thân mình tỏ ý tôn kính bề trên, động tác ấy là “Cúi cong Chùng”=Cung. Cung=Cúng=Kính. Biến nghĩa của từ nước thì Té=Tưới=Tẩy=Vẩy=Rẩy, như lễ hội té nước của người Lào nay vẫn còn. Không có nước để Vẩy thì làm sao con cá có thể Vùng Vẫy được, hay người Việt có thể “Vẫy Vùng biển khơi” từ thời cổ đại được ? Từ Vẫy Vùng, Hán ngữ phiên âm là “dấu dủng” để chỉ ý Bơi. Nhưng tiếng Việt thì “chim trời cá nước” , con Bay con Bơi. Khi còn Bé chưa biết thì phải “Bắt đầu Tập”=Bập, đó là khi con chim con cá còn Bé, bé lắm ấy nên “Bé Bé”=Bẹ, 1+1=0, Bập Bẹ là mới tập khi bé, Bập Bẹ bơi, Bập Bẹ bay, Bập Bẹ nói. Chữ Tắc (xã tắc) là nước, và đại diện cho Nước. Chữ Tắc này có bộ Hòa nghĩa là lúa nước, nhưng chữ Hòa cũng có nghĩa là hòa tan, Chan hòa như bản chất của nước là Lan Tràn cho đến khi bằng, như vậy đã gọi là Nước thì chính sách của Nước phải là công bằng, cái lý của tiếng Việt nó đã chỉ ra như vậy. “Tưới Đẵm”=Tắm, “Rảy Tưới”=Rưới. Tiếng Triều Châu gọi Tắm Ướt là Chan Ét (khác hẳn với Hán ngữ dùng từ chỉ tắm là “xỉ dảo”). Vẫy Vùng dưới nước thì khi Vẩy lên, khi Vục mặt xuống nước. Vục=Dục, chữ Dục này của “cổ Hán ngữ” mang nghĩa là tắm, còn dùng trong Hán ngữ hiện đại để chỉ cái nhà tắm. Chữ Tắc còn dùng để chỉ cái Đàn tế Thần Nông, là ông tổ của lúa nước. Đài là vuông đất đắp cao hơn nền đất cũ (Vuông=Vẹn=Nén=Nền, như hình cái Nền Nếp của bánh chưng. Làm Đài thì lấy “Đất đắp cao và Dàn bằng thành tầng Hai”=”Đất…Hai”=Đài, “Đất Dàn”=Đàn. Đàn tế Thần Nông về sau gọi là Đàn Xã Tắc (Đàn Cả Nước), rồi gọi là Đàn Nam Giao (Đàn của người Nam ở Giao Chỉ). Ở Bắc Kinh có thắng cảnh kiến trúc Thiên Đàn, xây trên nền đối cao san bằng, nhưng kiến trúc thì toàn hình tròn, tường bao tròn gọi là tường hồi âm, vì ghé sát tường nói thì tiếng truyền thẳng sẽ khúc xạ theo tường, nên người đứng ở vòng đằng xa vẫn nghe được; còn kiến trúc nhà thì hình tròn nhiều tầng như quả bầu nậm, di ấn hình lều bạt tròn của Mông Cổ. Xã Tắc=Cả Nước, Xã Hội =Cả Hội, là cộng đồng lớn. Cả đám đông đi hội, lúc ấy là một Xã Hội thu nhỏ. Đơn giản thế thôi là cái lý của tiếng Việt. Không phải quan trọng hóa vấn đề, khi thấy giải thích cho học sinh cấp một: “Từ Xã Tắc và từ Xã Hội là những từ Hán Việt, ý nghĩa cao siêu, các em phải tra ”Từ Điển giải thích từ Hán Việt” (hiện có bán nhan nhản nhiều loại ở hiệu sách) thì mới hiểu được”. Vì nghe tin năm 2012 là năm du lịch “Văn minh sông Hồng” tổ chức ở đồng bằng Bắc Bộ. Lại thấy trên báo Lao Động cuối tuần 11-13/1/2013, ở bài “Về vài chuyện còn chưa ngã ngũ” tin : …hội thảo khoa học quốc gia nhằm “Xây dựng một chuẩn mực chính tả thống nhất trong nhà trườngvà trên các phương tiện truyền thông đại chúng”…nhờ thu hút được nhiều nhà Việt ngữ học tên tuổi trong nước, hội thảo đã thống nhất được 4 vấn đề lớn. Trong các vấn đề ấy có chuyện khi nào thì nên dùng i và khi nào thì nên dùng y. Hội thảo đã ấn định được như sau: “Những từ gốc Hán Việt dùng y, còn thuần Việt thì dùng i”. Vì vậy để tránh cho khách du lịch lễ hội “Văn minh sông Hồng” lỡ có ai ngộ nhận rằng, người Hán đã nam tiến khai hóa cho người Việt biết làm ruộng ở đồng bằng sông Hồng, tôi dẫn giải từ ngôn ngữ của trâu của người Việt đã sinh ra “từ Hán Việt”, như viết đoạn trên, ai có thắc mắc xin chỉ giáo. Nhân tiện tôi viết câu Văn Minh Nước Nam, theo ngữ pháp Xuôi, mà tôi thấy không có chữ nào là từ Hán Việt hết trọi: VĂN VÕ KIÊM TOÀN THANH VIỆT QUỐC MINH NGÂN TRÍ HUỆ SÁN THIÊN NAM 文武兼全聲越國 明銀智惠燦天南 Văn: Vuông=Vẹn=Văn (toàn tài về tư duy) Võ: “Vạm vỡ và biết đánh nhỏ, To” = Võ (toàn tài về quân sự) Kiêm: Gập=Gộp=Gom=Gồm=Gươm=Cườm=Kèm=Kiêm=Kiếm (Cườm là chuỗi hạt trang sức gồm nhiều hạt gộp lại, hật nọ kèm hạt kia. Gươm là chữ viết trên gươm của Việt Vương Câu Tiễn, do công nghệ rèn là gõ dát mỏng là sắt nung đỏ, gập lại, nung, gõ tiếp, cứ vậy hàng nghìn lần. Công nghệ Rèn ấy làm cho gươm Bén và Bền; do Dập nhiều lần nên gươm Dẻo chứ không thể gãy. Toàn: “Tất cả trọn Toán” = Toàn (tính gộp lại) Thanh: Tiếng=Thiêng=Thánh=Thanh. Người Việt coi Tiếng của dân tộc mình là thiêng liêng nhất để giữ gìn văn hóa (“Chửi cha không bằng pha tiếng”, “Trăm năm bia đá thì mòn, Nhìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”) nên dù đã bị Hán thống trị một nghìn năm, tiếng Việt vẫn giữ nguyên vẹn. Quốc: “Của Nước”=Quốc, “Của Nác”=Quấc Minh: Là ghép Nhật 日(ánh sáng Trời) và Nguyệt 月(ánh sáng Trăng) vào một thì càng sáng rõ, ghép vào một thì thành một mình, “Một Mình”= Minh 明, nghĩa là sáng rõ. Hán ngữ làm gì có từ Một với từ Mình mà nói từ Minh là “từ Hán Việt” ? “Ánh sáng Trời” là “Nhật” thì nó Nhiệt, “ánh sáng Trăng” là “Nguyệt” thì nó Nguội (vì nó chỉ là khúc xạ của ánh sáng “Ngày Trời”=Ngời) Ngân: Là ánh sáng Trăng: Ngời=Nguyệt=Ngân=Ngà=Nga, đều là chỉ ánh sáng Trăng Trí: “Trời cho óc sinh ra Ý” = Trí Huệ: “Hiền như Mế” = Huệ, nghĩa là cái lòng tốt. Hiền, tiếng Đài Loan là Hền, tiếng Hán là Xián Sán: Sáng=Sán, Sáng Lắm = Sáng Láng = Sán Lạn. Chữ này là Hán mượn của Việt. Vì người Việt làm ra lịch Trăng, “Thời Sáng”=Tháng. Hán ngữ mượn một chữ Nguyệt, chỉ cả ba: thiên thể là Trăng, ánh sáng của nó là Nguyệt, và Tháng là “Thời 29 ngày nguyệt thay đổi độ Sáng”=Tháng Thiên: Trời=Thời=Then (tiếng Tày)=Thiên
-
Năm rồi nhiều chính sách đưa ra nhưng không được công chúng chấp nhận. Dư luận các báo cho rằng vì các nhà làm chính sách chỉ ngồi suốt ở phòng máy lạnh. Không ban hành được, thật là phí của thời gian và lương nhà nước. Khi còn chưa làm quan thì ở quê, đêm trăng ra đê trai gái tán tỉnh nhau. “ Anh mà Phải lòng em thì anh yêu em suốt đời”. “Em cũng thế, em mà Hài lòng anh thì em nguyện theo anh suốt đời”. Đến khi làm quan, ngồi phòng máy lạnh thì các Ngài quên béng cái lý đơn giản của tiếng Việt là Phải lòng dân thì được, Trái lòng dân thì hỏng. Làm chính sách cũng chỉ cần một tiêu chí đơn giản là Trái Phải mà thôi, đến con trâu cày đơn nó cũng hiểu Dí Thá là thế nào để hành động, hai con trâu cày đôi thì cả con Dí và cả con Thá đều hiểu và cùng nhau chấp hành răm rắp theo Dí hay Thá, đâu cần phải học một chữ hay bốn chữ hay mười sáu chữ. Sau buổi cày, tối đến thợ cày vào quán nhậu thấy bức thư pháp treo trong quán: Nhân Dĩ Hòa Vi Qúi. Dân Dĩ Thực Vi Thiên; là thấy vui vẻ rồi vì có nhiều thức. Dựa Đi ! tức là hành động dựa, lướt “Dựa Đi” = Dĩ. Nhân dân chỉ cần dựa vào Hòa, tức là cuộc sống hòa bình, hòa hợp dân tộc, hài hòa lợi ích; và dựa vào Thực, tức là ăn nhiều thức, vì lướt từ lặp nhấn ý “nhiều” là “Thức Thức” = Thực, 1+1=0, biến thanh điệu đúng thuật toán nhị phân. Nhiều Thức ấy là Ăn Uống, Ăn Mặc, Ăn Ở, Ăn Nằm, Ăn Học; đó là hạnh phúc của con người. Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm 7-12-1258 Mậu Ngọ / 16-11-1308 Mậu Thân) có bài thơ: 居塵樂道且隨緣 饑則餐和睏則眠 家中有寶休尋覓 對境無心莫問禪 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền ( Sống giữa cõi trần hỉ tùy duyên Đói ăn mệt ngủ lẽ tự nhiên Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Nhìn đời vô cảm chớ hỏi thiền) Mà Hoangnt đã dịch câu có chữ Báu tuyệt vời. Các bậc tiền bối đều tự biết rèn mình thành “Bối Trau” = Báu. Bậc hậu bối là các quan ngày nay có tự biết rèn mình để cũng là “Bối Trau” = Báu hay không mà hễ ra qui định là bị sai vì không hợp lòng dân. Học ở tiếng Việt thì cực giản dị. Ai là Người, Ai Ai cũng hiểu như vậy, Ai=Ngài=Người. Đơn giản học từ tiếng Việt: “Trói Ai” = Trái, “Phóng Ai” = Phải. Ban hành chính sách mà bó buộc con người vô lý (trói) thì là Trái lòng dân, ban hành chính sách mà giải phóng con người, trả lại tự do cho con người (phóng) thì là Phải lòng dân (“Anh mà phải lòng em thì em theo anh suốt đời”). Còn qui định mà chỉ nhằm Dí dân thì trái rõ ràng: Giam=Giữ=Dí=Đì=Ghì=Trì=Tra=Trái.( Ngày xưa Chu Công bị Đì = bị “Dí “, nên sử sau viết phiên thiết là bị giam ở ngục “Dữu Lí “)
-
Lại “từ Hán Việt” Báo Lao Động cuối tuần13-1-2013 mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, có bài của tác giả Nguyễn Đức Dương, phần 2 nói về “Canh gà Thọ Xương”, phần 1 nói về qui định i ngắn y dài khi viết từ Hán Việt, trong đó có đoạn viết: “Phần đông chúng ta hiện nay chưa biết phải căn cứ vào đâu để biết từ nào là gốc Hán Việt và từ nào là thuần Việt, bởi lẽ từ nguyên ( tức gốc gác của từ ngữ) là chuyện hết sức “cao siêu”đối với hầu hết người Việt bình thường. Ấy là chưa kể đến một sự thực hết sức hiển nhiên sau: Hàng loạt từ ngữ rõ ràng đều là gốc Hán, nhưng xưa nay chưa hề thấy ai viết với y dài. Xin minh họa bằng dẫn chứng để người đọc dễ nắm bắt. Hàng trăm từ ngữ chẳng hạn như chi (chi phí), chí (chỉ khí, chí tôn), di (di cư, di chỉ), dĩ (sở dĩ, dĩ hòa vi quí), thi (thi cử, thực thi)…” Đọc bài này do thấy “vẫn chưa ngã ngũ” nên tôi góp vài lời: Phần 2: Đúng, trong bài này Canh Gà không có ý hai là canh nấu bằng thịt gà. Ở đây là do lối tiếng Việt có cách dùng từ làm đại diện cho từ. Ví dụ Tiếng làm đại diện cho Giờ, vì đến giờ thì đồng hồ đánh tiếng. Hỏi “Đi mất mấy giờ ?” hay “Đi mất mấy tiếng ?”, như nhau. “Tiếng Chuông Trấn Võ, Canh Gà Thọ Xương” là một câu đối, địa danh Thọ Xương đối với địa danh Trấn Võ, từ đôi Canh Gà đối với từ đôi Tiếng Chuông. Là từ đôi vì Tiếng=Chuông, chuông đại diện cho tiếng, vì chuông chỉ gõ khi điểm canh. Canh=Gà, vì tiếng gáy của gà báo hết canh đêm, nên Gà đại diện cho Canh. Dùng từ đôi để nhấn ý trách nhiệm phải điểm canh. Canh là khoảng thời gian qui định Gánh một trách nhiệm nào đó. NÔI khái niệm các khoảng thời gian ngắn dài khác nhau, dùng cho các sắc thái khác nhau là: NÔI=Chỗi=Chợt=Chợp=Chớp=Chốc=Lốc=Lát=Lúc=Khúc=Khối=Khi=Kỳ=Thì=Thế=Thời=Đời=Đại=Đỗi=Hồi=Cỗi=Canh=Ca=Kíp. Trong nôi khái niệm này không có từ nào gốc Tàu hay gốc Tây cả. Đừng tưởng cái lịch Lốc là do gốc Blog mà ra. Gọi là lịch Lốc vì nó bao Khối thời gian là một năm, nhưng cũng bay vèo như cơn Lốc mà tiêu luôn 365 ngày. Đỗi là một Khối thời gian Đo được bằng ước lượng. VD nói “Tiễn anh đi một Đỗi đường” thì tình cảm hơn hẳn là nói “Tiễn anh đi một Đoạn đường” , vì một đằng là số đo thời gian (muốn kéo dài thêm), một đằng là số đo đường dài. Già Cỗi là già rồi mà còn già tiếp theo thời gian trôi. Cằn Cỗi là đã cằn rồi còn cằn mãi theo thời gian trôi. Kiếp là chỉ thời gian của hồn luân hồi, kỳ này nó ở cơ thể sống này, kỳ tiếp nó ở cơ thể sống khác, những kỳ tiếp như vậy gọi là bằng lướt “Kỳ Tiếp”=Kiếp. Hán ngữ dịch từ Một Kiếp của tiếng Việt là Nhất Sinh, chứ không có khái niệm luân hồi là “Kỳ Tiếp”=Kiếp. Thời là một khoảng thời gian, nhấn ý dài thì dùng từ đôi Thời Đại. Còn trong ý ngắn mà muốn nhấn dài thêm chút thì dùng từ lặp Thời Thời, mà lướt từ lặp thì biến thanh điệu phải theo đúng thuật toán nhị phân, lướt “Thời Thời”=Thơi, 1+1=0, “Thơi Thơi”=Thới=Thái. Thời gian rảnh thì gọi lướt “Thời Rảnh”=Thảnh, ghép lại có Thảnh Thơi là có nhiều thời gian rỗi để nghỉ ngơi. Lúc con người ta đang Thảnh Ở = “Thảnh Ư”=Thư, và Thư Cả tức Thư hoàn toàn thì “Thư Cả”=Thả. Nên Thư Thái, Thư Thả đều có từ nguyên là Thảnh Thơi. Phần 1: Tranh luận về từ Hán Việt để quyết định i ngắn hay y dài “vẫn chưa ngã ngũ” thật là mất thời gian vô ích, thời gian đó để mà chế ra từ Việt mới thì còn có thể chế ra cả tỷ từ đều là thuần Việt hết, vì nhị phân chỉ có hai con số 1 và 0 (mà chỉ ngôn từ Việt mới có) có thể đẻ mãi không cạn trứng. Ngôn ngữ NÔI khái niệm của Việt nó sinh ra tất cả, như Trời sinh ra tất cả: NÔI=Cội=CÀN=Cả=Cự=Cồ=Lồ=Lõi=Nòi=NÔI, vì nó là cái Nòi cội nguồn nhất, là Cồ nhất, là khổng Lồ nhất ở phương đông cổ đại, đó là nòi Việt. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Đinh Tiên Hoàng Đế khi lập lại nước Việt đã đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 1986 GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN có xuất bản cuốn “Việt Nam cội nguồn Bách Việt, chưa thấy tái bản. NÔI=Nài=Ai=Ngài=Người, loài người là chỉ huy trên trái đất này. Nài có nghĩa là chỉ huy, như Nài voi còn gọi là quản tượng. Người khác động vật là có Ý Nghĩ, có Ý Chí, giải thích theo từ nguyên thì là vì: Ai=Óc=Ý, người đứng thẳng nên óc ở vị trí cao nhất, Óc=Nóc=Não, “Người có Ý”=Nghĩ, “Chủ suy Nghĩ”=Chí志. Kẻ theo đuổi mục đích do mình suy nghĩ ra gọi là kẻ có Chí志. Cái NÔI sinh ra sự sống và sự chết, tức là sự hoạt động và sự dừng, như là nhị phân 1 và 0: NÔI=Chồi=Chắc=1, và NÔI=Chối=Chết=0. Sự sống thì: NÔI=Sôi (sôi động)=Son=Sòn=Són=Sỏn=Sản=Sinh. Son có nghĩa như là tế bào đực hay cái nguyên vẹn ban đầu (ca dao “Anh còn son, em cũng còn son”). Nhưng Son và Son tức Son Son sẽ cho ra ba đáp số: Son Son=Són, 0+0=1; Son Son=Sòn, 0+0=1; Son Son=Sỏn, 0+0=1. Són là đẻ, Sòn Sòn là đẻ dày, tức cái Mau nó Ngắn, “Mau Ngắn”=Mắn, tức mắn đẻ. Sỏn=Sản nghĩa là đẻ. Có được sự sinh Sôi này là do hai cái Son đực/cái, tức do có đôi dương/âm: NÔI=Đôi=Động=Đi=Đẻ. Nhấn mạnh ý đẻ cho trang trọng thì dùng từ đôi “Đẻ Sản”=Đản (Phật Đản=Phật Sinh). Con có cha có mẹ tức hai người hợp pháp đẻ ra thì dùng từ đôi “Đẻ Sinh”=Đinh (bất kể là gái hay trai), lớn lên sẵn sàng bảo vệ Tổ Quốc: “Lớn Đinh”=Lính (tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”). Lướt cả câu “Bắt buộc đi nghĩa vụ làm Lính”=Binh .Tất cả các từ hình thành như đã dẫn ở trên có từ nào là từ gốc Hán không ?, hay là toàn gốc Việt hết ? Tiếng Việt có từ Lính và từ Binh, cùng nôi khái niệm, nhưng sắc thái khác nhau, không hoàn toàn đồng nghĩa nhau. Hán ngữ chỉ mượn một chữ Binh của Việt nho để dịch từ Lính và cả từ Binh của tiếng Việt. Binh Lính là từ đôi, số nhiều, mang nghĩa cả quân chính qui, cả quân tự nguyện (mà Hán ngữ phải gọi là “dân binh”, vì chỉ có một từ mượn là chữ Binh). NÔI của sự tận cùng là: NÔI=Chối=Chót=Tót=Tốt=Tột=Tuyệt=Tận=Chấn=Chung=Cung=Cuối=Cứng=Dừng= =Chựng=Chí至=Chết=Hết=Kết. Chết Cứng=Chết Kết là hết cựa quậy. Tót Vời=Tuyệt Vời. Chung Kết=Cuối Cùng, Chối Chết=Chí Chết. Chí Tôn là Tột Cùng của sự Tôn Kính. Chót Vót=Chối Vọt, không thể vượt cao hơn được nữa. Từ Đi trong tiếng Việt còn dùng để khẳng định, mệnh lệnh thức, nghĩa là “làm”, “hành”, “được”. VD: Ăn Đi !, Ngủ Đi !, Về Đi ! Do vậy nó tạo ra rất nhiều từ khác khi lướt: “Thử Đi”=Thí 試 (trong từ thi cử, thí nghiệm; “ Thơ Đi”=Thi 詩 (trong từ thi nhân, tức là người làm thơ, nói “bài thơ của thi nhân…”, trong tiếng Việt từ Thơ và Thi không đồng nghĩa nhau, Hán ngữ chỉ mượn có một chữ Thi詩. Nếu cho rằng từ Thi詩 là từ Hán Việt như từ điển giải thích, đồng nghĩa với từ Thơ của tiếng Việt thì đừng bắt lỗi chính tả câu viết “bài thơ của thi nhân…tức là bài thi của thơ nhân…”; “Thành Đi”=Thi 施 (trong từ thi hành, thực thi); “Cho Đi”=Chi 支 (trong từ chi phí); “Cho Đủ”=Chu (trong từ chu cấp)=Thù (trong từ thù lao); “Cho Dân”=Chẩn (trong từ phát chẩn, khi có nạn đói). Mặt khác Đi=Di移=De= Dời=Dịch易= Xịch=Xê=Xe=Xa車. Di trong từ di tích, di sản lại là một từ do lướt “Dẫn Qúi”=Di遺, bản thân chữ Việt nho đã nói lên cái lướt đó, đó là bộ Chân=Dẫn và bộ Qúi, lướt “Dẫn Qúi”=Di遺, tức dẫn cái quí lại cho đời sau. Ngay cả những từ “cao siêu” như Phép Tắc, Nguyên Tắc có nghĩa là thuộc phía lẽ phải, cũng chỉ là từ ruộng mà ra, con trâu nó còn hiểu được trái phải khi nghe lệnh Rì/Tắc (Bắc Bộ) = =Dí/ Thá (Nam Bộ). “Mày là cái thá gì ?” có nghĩa là “mày không thuộc lẽ phải”. Trong Óc ( Óc=Nóc=Não) sinh ra Ý , trong các loại Ý có Ừ (tức đồng ý), Ừ=Ầy=Hầy, từ Hầy này là dùng chung trong các ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Việt Đông, tiếng Nhật (nghĩa là đồng ý). Hầy=Hài (trong từ Hài Lòng, tức đồng ý). Hài=Phải (phải ! , phải rồi ! , tức đồng ý). Hài=Hãy. Hãy là mệnh lệnh thức, khuyên phải làm vì đồng ý mình. Hán ngữ không có từ Hãy này, thay bằng chữ Nhượng như mệnh lệnh thức. Mệnh lệnh “Hãy hoàn thành một công việc” thì cái Đề của câu này là “Hãy Thành”=Hành, và chữ Hành mang nghĩa là “Làm cho có kết quả”. Đó là từ nguyên của chữ Hành đấy, từ trong cái nôi Việt. Hai cái mệnh lệnh thức, đặt trước câu hoặc sau câu, đều là gốc Việt, và có tác dụng tạo ra rất nhiều từ mới: Hãy Thành là mệnh lệnh thức, khuyên làm cho có kết quả, lướt “Hãy Thành”=Hành. Thành Đi là mệnh lệnh thức, khuyên làm cho có kết quả, lướt “Thành Đi”=Thi. Hành cũng là làm, Thi (thi công) cũng là làm, từ đôi Thi Hành, mà lướt “Thi Hành”=Thành, đó là kết quả. Thi hay Hành đều nghĩa là làm, do từ cái động tác lao động giản đơn là Gánh, nâng ý lên là Gánh trách nhiệm, gánh trách nhiệm trong thời gian qui định thì là Canh, gánh trách nhiệm cho có kết quả thì là Hành, của nền hành chính, của thị trường là Hàng, của doanh nghiệp là Hãng. Bao nhiêu là “từ Hán Việt” vậy mà từ nguyên của chúng chỉ là cái từ Gánh của đồng ruộng Việt. Do Làm mà người ta Ham nên càng làm nhiều, “Làm Làm”=Lam, 1+1=0; “Thành Ham”=Tham; từ đó mà có từ Tham Lam. Hán ngữ mượn từy,dùng đúng nghĩa như vậy, phát âm là “than lán”. Khẳng định từ Tham Lam là một từ gốc Việt, vì Hán ngữ không có từ Ham, thay bằng Hỉ Hoan nghĩa là thích, và không có từ Làm, thay bằng từ Tố hay Tác. Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ,NXB KHXH HN 1991 cho rằng 70% thích là từ Hán Việt. Đây là cuốn từ điển biên soạn bằng tài trợ nước ngoài. Nếu bây giờ có nước ngoài tài trợ cho dự án nghiên cứu ngôn từ Việt, chắc họ sẽ chứng minh được 100% từ vựng Việt là có gốc Hán. (Khác gì dự án “Học chữ đầu tiên là chữ E”, trong khi câu đầu tiên trong sách truyền bá quốc ngữ của GS Hoàng Xuân Hãn là “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”, đủ thấy cái n-Ô-i khái niệm Việt là cái Ổ đẻ ra tất cả). Theo cái lý âm dương thì có đôi mới đẻ được ra nhiều, nên Làm nhiều tức “Làm Làm”=Lam, 1=1=0 (“tham công tiếc việc”, “hay lam hay làm”); “Làm Làm”=Lãm, 1+1=0 (chăm chú, “giàu đôi con mắt, có đôi bàn tay”); “Làm Làm”=Lạm, 1+1=0 (tham quá mức độ có thể tham, lạm phát là phát tiền ra lưu hành quá mức. Đến cái từ Lạm rành rành ra thế mà còn được giải thích là “từ Hán Việt”, trang 227 từ điển đã dẫn, làm quá, ăn quá thì gọi là lạm, cố ý phải lạm thì gọi là phạm, “Phải Lạm”=Phạm, mà đã “Chắc Phạm” tức là Chạm thật sự rồi, chạm vào của công thì gọi là tham nhũng, “Phạm vào cái nguyên Bản” thì lướt thành ra Phản, tội cứ như thế mà tăng dần mức độ lên. Giải thích từ Lạm là từ Hán Việt cũng bằng chửi bố từ Làm). Mẹ quát đứa bé con: “Đừng có ham gánh vọc đi !” đó là không đồng ý cái hành vi của đứa bé con, “ Ham Gánh”=Hành, “Vọc Đi”=Vi; tức không đồng ý với cái việc làm sai trái của đứa nhỏ; Làm=Lấn=Mần=Mần-Miếc=Việc=Vọc=Vụ=Vi, vi phạm là làm phạm , đơn giản của Việt là thế chứ có gì mà “cao siêu”, cổ súy cái gọi là “từ Hán Việt” qua các cuộc hội thảo cấp nhà nước chỉ làm rắc rối vấn đề không đáng để mất thời gian.
-
NÔI của phát triển NÔI khái niệm là cái NÔI của sự phát triển ngôn từ. mà chỉ có trong tiếng Việt viết bằng chữ quốc ngữ mẫu tự Latin mới dễ nhìn thấy. NÔI là cái Ổ tạo ra mọi khái niệm Âm (N-Negative) và mọi khái niệm Dương (I-Innegative). Bất cứ một ngôn từ của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể đưa về đến NÔI khái niệm Việt bằng các Qui Tắc tạo ngôn từ Việt, phải qua “gia công” nhiều hay ít mà thôi. Ví dụ: (1) từ Vois (tiếng Mỹ nghĩa là “tiếng nói”), dùng QT Vo thấy ngay cái lõi “Oi”, lại dùng QT Tơi-Rỡi thì có Oi = Nói = NÔI; (2) từ CTPAHA của tiếng Nga nghĩa là “đất nước”, qua QT Vo thì còn âm “Na” (tiếng Nga phát âm chữ “HA” ở cuối của từ CTPAHA), mà Na = Nước = NÔI; (3) từ Ga là gốc từ tiếng Pháp, ghép thành từ Nhà Ga, nhưng Nhà Ga theo QT Tơi-Rỡi thì là cùng nôi khái niệm, Nhà = Ga, Ga là sắc thái riêng cái nhà của ngành đường sắt, Nhà = Ga = Gối (gối đầu tức tăng-bo)= Nối (nối tuyến đường ray)= NÔI; (4) từ Hobenhof tiếng Đức nghĩa là nhà ga, nếu QT Vo thì được từ “Ho” nếu là vo lệch, “Ho” tiếng Đức phát âm là Hô, qua QT Tơi-Rỡi thì thấy Hô = Đỗ = Đợi = Nơi = Nôi, hoặc được từ “Ben” ở cái lõi giữa nếu là vo đều tay, mà theo QT Tơi-Rỡi thì Ben = Bến = Nền = Nơi = NÔI, đều là những từ thuộc khái niệm “nhà ga” từ NÔI khái niệm Việt; (5) từ Gác là gốc tiếng Pháp, ghép thành từ Canh Gác, nhưng từ ghép này cũng đồng thời là từ đôi trong NÔI khái niệm Việt mà thôi, Canh trong “canh gà Thọ Xương” là chỉ khoảng thời gian trách nhiệm nhất định, như con Gà đến giờ là nó gáy báo hết đêm, là một ca trách nhiệm của nó, cái nôi khái niệm ấy là NÔI = =Cối (tiếng điểm canh bằng gõ cối đồng) = Ca = Canh = Gánh (gánh trách nhiệm trong ca) = Gà (điểm giờ hết ca đêm) = Gáy= = Gọi = Gõ = Gác. (Cối Đồng, viết theo ngữ pháp Hán là Đồng Cổ, do từ Cối Vỗ = Cổ Vũ)... Người Việt đẻ con ra đặt nằm trong NÔI để trong cái Gióng có bốn tao treo lên để vừa an toàn (tục ngữ “chó treo mèo đậy”), vừa lúc lắc cho con dễ ngủ, vừa hát ru gieo vào tiềm thức con tình yêu con người và yêu đất nước. Hán ngữ gọi cái nôi là cái làn lắc (“yáolán 摇 篮”), cái cụm từ “nôi cách mạng” trong tiếng Việt thì Hán ngữ gọi là cái “làn lắc cách mạng” (“gémìng de yáolán 革 命 的 摇 篮”). NÔI đựng đứa trẻ sơ sinh thì nó chính là NÔI sinh ra ngôn ngữ cho cả đời nó là đúng logic. NÔI chỉ là vật chứa một cái “đầu tiên, động, mà hơn”, tức là cái So (con So là con đầu tiên), So = Sọ = Đọ (nghĩa là hơn)= Đồ = Đứa = Đầu = Thẩu (đồ gốm để đựng cơm, hình giống cái Sọ, “có thực mới vực được đạo”)= Thủ. Cái Đứa ấy từ NÔI lớn lên, phát triển, có thể trở thành “đồ thông minh” để làm thủ trưởng, cũng có thể trở thành “đồ mất dạy” để tham nhũng. Từ cái NÔI là một sự động, có thể là động vật, có thể là thực vật, do là NÔI=Nuôi=Nuông=Nang=Nàng=Nương=Ương=Ươm, NÔI ấy là mảnh ruộng (Nương), là cái túi như của kanguru đựng con (Nang), là người mẹ (Nàng) để Ương mầm cho sự phát triển. Thời hiện đại người ta dùng cụm từ “Nôi cách mạng” để chỉ “Đất trung ương”. Mọi “từ Hán Việt” đều bắt nguồn từ cái NÔI tre của Việt Nam, NÔI là để cho ra khái niệm, tre là để làm thẻ tre viết chữ, rồi làm giấy viết, Giấy=Gió=Nỏ=NÔI (giấy phải phơi khô mới viết được), từ đôi Khô Nỏ.Khái niệm của ngôn ngữ là từ cái Trứng = T Rưng = “Tưng Từng Tưng”= =Tiếng = Miệng = Mồm = Mở = Nở = NÔI. Ngôn ngữ bắt nguồn từ cái NÔI khái niệm của tiếng Việt, từ cái NÔI tre của Việt Nam: Để chỉ sự phát triển của tộc người thì NÔI = Nòi = Nọi (tiếng Lào)= Nống (“Nở Rộng” = Nống) = Giống = Dòng = Trong (không có lai tạp) = Trung (là Chỗ Giữa = Giao Chỉ) = Chủng 種. Để chỉ sự phát triển của tư duy thì NÔI = Nỗi = Niềm = Liêm 廉(sự minh bạch) = Lẽ = Lý 理. Để chỉ sự phát triển của ngôn ngữ thì NÔI = Na (Nôm Na, ha-Na-xư tiếng Nhật nghĩa là “nói” ) = Nói = Gọi = Gí (tiếng Đài Loan)= Gô (tiếng Nhật)= Vồ-Vập = Van = Và (tiếng Việt Đông) Để chỉ sự phát triển năng lượng thì NÔI = Năng 能 = Nổ = Nở = Vỡ = Vã = Ra = Nã 拿 = Xạ 射 = Đả 打 = Phá 破 = Phát 發 = =Pháo 炮 = Bạo 爆 = Bục = Bộc 爆 = Bắn = Bung = Bùng = Súng = Tung = Tóe = Tạc 炸 = Tùng = Đùng = Đoàng = Đạn 彈 。 Các từ đôi, láy, ghép như Nở Bung, Nổ Bùng, Nổ Lục Bục ( “Lắm tiếng Bục”= Lục, từ đôi Lục Bục), Bộc Phá 爆 發, Tạc Đạn 炸 彈, Tùng Tùng, Đùng Đoàng, Tung Tóe, Bạo Tạc 爆 炸. Hán ngữ dùng từ Bạo Tạc 爆 炸 chỉ ý Nổ, dùng từ ghép Xạ Kích 射 擊 chỉ ý Bắn. Nước Văn Lang cổ đại cách nay 5000 năm là một cái NÔI của văn minh nhân loại. NÔI=Nước=Được=Đất=Điền=Biển. Biển Đông là cái NÔI của Việt, cổ Hán thư gọi Biển Đông là “Giao Chỉ Dương 交 址 洋”. Chiến lược phát triển vào trong biển của dân Lạc Việt nước Văn Lang đã có từ thời cổ đại. Truyền thuyết Trăm Trứng có câu “Nàng là giống Tiên, đem 50 con lên Rừng=Rú=Rậm=Lâm 林, ta là giống Rồng, thủy tộc, đem 50 con xuống biển”. Đông=Động. Biển = Bàng-Bái 滂 湃 (nghĩa là nước trào cuồn cuộn)= Hải 海 = Hồ 湖 = Hố = Ổ = Nổ = NÔI. Con Rồng cháu Tiên coi Biển Đông là cái Ổ của Rồng, tức cái ”Lỗ Rồng“ = Long. Hạ Long là đẻ nhiều Rồng. NÔI=Nở=Đỡ=Đẻ=Sẻ=Sạ=Hạ. “Sạ Kinh” = Sinh, “Sạ Đán” = Sản. Do là dân biển, giao lưu rộng, người Việt cổ đại luôn có “đột Phá trong tư duy để Đạt được mục tiêu”, gọi tắt là “Phá Đạt “= Phát 發, 1+0=1, sớm biết “Dò Biển” = Diễn 衍, 1+1=0, để mà phát vào “Trong Biển” = Triển 展, 0+1=1. Nghe chữ Phát Triển 發 展 đã thấy nó còn hàm ý là dựa vào biển mà phất lên giàu mạnh. Tư duy ấy đã có ở người Việt nuớc Văn Lang từ thời cổ đại, nhờ đó mà làm nên nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử. Giao thương hàng hải có sớm nhất là ở người Việt. Xuồng = Thuồng ( con thuồng luồng cổ đại) = Thương = Thuyền. Một=Mua, Hai=Lái, Ba=Buôn, Bốn=Bổn, đó là bốn Ven của cái lỗ Vuông của đồng tiền (tục ngữ “một vốn bốn lời”) của Văn Lang = Vuông Lớn.
-
Mấy Trong “Dự thảo sửa đổi hiến pháp” có câu đầu tiên: “LỜI NÓI ĐẦU - Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.” Cụm từ “dựng nước và giữ nước” tức là kể từ khi hình thành quốc gia độc lập. Quốc gia độc lập của người Việt Nam có từ khi nào? Đầu câu đã trả lời một cách khẳng định “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử”. Mấy là một khái niệm “tù mù có giới hạn”. Trong tiếng Việt từ “Mấy ?” là một dấu hỏi, nhưng rõ ý là trả lời của dấu hỏi đó sẽ là “một vài” hay “vài ba”, tức nó là tù mù có giới hạn từ 1 đến 3. Đi chợ hỏi mớ rau rẻ tiền, người ta chỉ hỏi “Mấy nghìn ?”. “Mấy ? “ là chỉ có giới hạn lẻ “vài ba” mà thôi, phát âm miền Trung thì hỏi “Nấy ?, nấy đó ?”, phát âm tiếng Tày thì hỏi “au Nẩy” nghĩa là “ưng Mấy ?”. Hỏi mua món hàng đắt tiền , không ai dám hỏi “ mấy ?”, vì sợ bị nghĩ rằng mình chê là hàng rẻ tiền, nên phải hỏi là “Bao nhiêu ?” nghĩa là “Bao gồm Nhiều tiền không ?”. “Mấy nghìn năm” là từ không có độ mở cho nghiên cứu chiều sâu, nó gần như khẳng định chính xác giới hạn là từ 1 đến 3 nghìn năm. Chính xác giới hạn nghĩa là không chính xác, vì nó không có con số nào trong cụm từ đó cả. Từ đầu những năm 40 của thế kỷ trước Hồ Chí Minh viết về sử nước nhà: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Trải năm hơn 4 nghìn năm. Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa. Hồng Bàng là Tổ nước ta. Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”. Nước ta tức quốc gia của dân Việt Nam, quốc gia đầu tiên ấy là Văn Lang. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (chính sử) ghi: “Nước Văn Lang, bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn”. Cụm từ “hơn 4 nghìn năm” là một khái niệm rất khoa học vì nó có điểm chính xác là con số “4 nghìn năm”, kèm theo là từ “hơn”, là độ mở cho nghiên cứu chiều sâu về hướng Xưa, mà hướng Xưa thì cứ nghiên cứu đi Nữa cũng vẫn là Chưa đến cùng, “hơn 4 nghìn” thì 5 nghìn cũng là hơn, 7 nghìn cũng là hơn, 1 vạn năm của văn minh lúa nước thời văn hóa Hòa Bình cũng là hơn. Còn ngôn từ Việt thì không biết nó bắt đầu có từ bao giờ. Nên chính xác nhất là định nghĩa nó bắt đầu từ tình yêu của Mẹ: Yêu=Ái=Ai=Ngài=Người. Ai=Gái=Nái=Nữ 女. Con người Việt sinh ra thì cái ngôn từ đầu tiên của nó là khi chui ra khỏi bụng mẹ, là từ Oa Oa. Cho nên Nữ Oa 女 娲 là một bà mẹ Việt , nghĩa là người đàn bà đầu tiên (nếu là của Hán thì phải viết theo ngữ pháp Hán là “Oa Nữ”). Từ Oa Oa ấy không phải là tiếng khóc mà không có nghĩa. Nghĩa của nó là do lướt một câu khẳng định (từ cái NÔI của các khái niệm trong ngôn ngữ) là “O Tròn là Trời đã sinh ra Ta”= “O…Ta” = Oa, nhưng O Ta (tiếng miền Trung) lại có nghĩa là Cô Ta, tức là Mẹ Ta. Cô=Cơ. Tức đứa bé ra đời là đã khẳng định ngay mẹ ta là Mẹ Cơ, tức Mẹ Âu Cơ, mà lướt “Mẹ Âu”=Mẫu. Khi đứa bé ra đời nó tự xưng là Oa, như thiên thần nhỏ tự khẳng định “O Tròn là Trời đã sinh ra Ta”. Lúc ấy mẹ nó nghĩ thầm là “Tao mới chính là người thay trời để sinh ra mầy, sức mấy mà mầy tự xưng Oa !”. Thế là đứa bé hiểu ra và chập nhận thêm cái “T” vào cuối tên Oa để thành “Oa tờ oắt”= Oắt, và gọi là đứa Oắt Con. (Tiếng Nhật phát âm là “Oa Kai” nghĩa là “oắt con”). Đứa bé Việt ra đời, tự xưng Oa, nó là người, tức Ai, nên Oa Ai=Oải, 0+0=1, chữ nho Oải 矮 chỉ ý thấp bé như đứa oắt con. Người Nhật tự xưng mình là “Oa Nin” viết bằng chữ nho Hòa Nhân 和 人, nghĩa là dân lúa nước. Tiếng Việt thì Ai nghĩa là Người, nhiều người thì dùng từ lặp để nhấn ý nhiều là Ai Ai, lướt thỉ “Ai Ai”=Ải, 0+0=1, đúng thuật toán nhị phân cho biến thanh điệu khi lướt từ lặp, nghĩa là đông người; đánh trận mà phải vượt qua chỗ đông quân địch thì gọi là “vượt qua cửa Ải”. Ải cũng nghĩa là thấp bé, nho viết bằng chữ Oải 矮, vì người Việt vóc dáng thấp bé hơn người Hán. Từ cổ Ải nghĩa là thấp, Thấp=Sấp, nên cày xới cho miếng đất lật Sấp xuống để lộn lớp dưới lên phơi nắng thì gọi là “cày Ải”. Hán ngữ cũng dùng chữ Oải 矮 (phát âm đúng “ải” như tiếng Việt) nghĩa là thấp, và có từ “ải tun tun 矮 墩 墩” nghĩa là thấp lùn lùn, là dùng của tiếng Việt. Người Hán gọi người Nhật là Oải Nhân 矮 人 tức người lùn. Nhật Bản có chính sách dinh dưỡng cải tạo giống nòi nên ngày nay vóc dáng họ cao lớn hơn. Việt Nam ngày nay dinh dưỡng cũng khá hơn nên thế hệ thanh niên ngày nay vóc dáng cao lớn hơn. Một người Đài Loan sau 10 năm lại sang Việt Nam, gặp lại, nói với tôi: “Chỉ cách có mười năm mà thấy VN thay đổi nhanh thật, nhìn ngoài đường đa số là thanh niên, mà vóc dáng cao đẹp hơn so với thấy mười năm trước, ăn mặc cũng đẹp hơn”.
-
Wiki.zupulu.com Tần thị tộc phổ Viết: Một nguồn gốc thứ ba của họ Tần là thời cổ đại, người Đại Tần đến Trung Quốc, có số dựa vào Tần lấy làm họ cho mình. Đại Tần tức đế quốc La Mã. Thời Đông Hán, Tấn từng có sứ của Đại Tần đến Trung Quốc giao hảo, rồi lưu cư không về nữa, nhận là họ “Tần”. Thời đó tây vực gọi Trung Quốc là Tần, sau các nước Tây phương gọi Trung Quốc là China, tức sự biến âm của “Tần”. 3、古代大秦人来中国,有的就以"秦"为氏。大秦即罗马帝国。东汉、晋朝时大秦皆曾遣使来中国通好,有留居不归者,以"秦"姓传也。古时西域称中国为秦,后来西方国家通称中国为支那,即"秦"音之变。 Giải thích như mạng trên không thể chính xác bằng giải thích của Việt: Thời cổ đại ấy, như nói ở trên, đất Việt nếu đi đến tận cùng về phía Tây Bắc là gặp đất Tần, tức đến cái ranh đó là chấn rồi, bước sang bước nữa là đất Tần. Người Việt mới gọi cái nước bên kia ranh ấy là Tây Chấn. Nói lướt thì “Tây Chấn”=Tần, 0+1=1; hoặc “Tây Tận”=Tần, 0+0=1; diễn biến thanh điệu đều đúng thuật toán nhị phân. Cái vị trí Tây Bắc ấy theo Dịch học của người Việt, được đánh dấu bằng số 9, nên người Việt cũng gọi cái nước ở vùng Tây Bắc ấy là nước Chín. Người Ấn Độ phiên âm chữ Chín là China, người phương Tây theo đó gọi TQ là China. Cái nước Chín ấy Quan thoại phát âm là “Qín”, nhưng âm “qín” này trong Quan thoại không hề có liên quan ý nghĩa gì với số 9, vì Quan thoại phát âm số 9 là “jiu”. Chứng tỏ cả cái Dịch học cũng không phải là của người Quan thoại. Tần Thủy Hoàng có họ tên thật là gì ? Zhidao,baidu,com/que stion/12816682 : 秦始皇的真实姓名叫什么? 2006-09-19 17:17 Là Doanh Chính (259-210 BC), là trung tử 中子của Tần Trang Tương Vương, vì sinh ở Hàm Đan đất Triệu nên còn gọi là Triệu Chính. Năm 247 BC Trang Tương Vương chết, Doanh Chính mới 13 tuổi lên thay vị Tần Vương 嬴政,下面中间是个“女”,不是“贝” 嬴政(前259~前210年)即秦始皇帝,秦庄襄王的中子。因出生于赵地邯郸,亦称赵政。公元前247年庄襄王死,13岁的嬴政代立为秦王 Gia phả của Tần Thủy Hoàng ? http://wenwen.soso.com/z/q269367247.htm: 秦始皇的家谱 有知道的不? 他的爸和爷爷 祖爷爷都是谁 2011-03-01 10:55 满意答案 好评率:100% Tần quốc 4 đời đầu không rõ. Đời 5 là Tần Trang Công, tại vị 44 năm (821-776 BC)… Đến đời áp trước Tần Thủy Hoàng là Tần Trang Tương Vương, tại vị 2 năm (249-247 BC). Doanh Chính lên ngôi từ 246-220 BC, tại vị 26 năm là Vương. Từ 221-210 trong vòng 10 năm thôn tính được hết lục quốc, lập nên đế quốc , xưng là Tần Thủy Hoàng Đế. Đời sau là Tần Nhị Thế, tại vị 2 năm (209-207 BC), rồi Tử Anh, năm 207BC, tại vị 8 tháng 秦国: 秦嬴 不详 不详 ,秦侯 不详 不详 ,公伯 不详 不详 , 秦仲 不详 不详 秦庄公 前821-前776 44 , 秦襄公 前777-前766 12 , 秦文公 前765-前714 51 , 秦宁公 前715-前702 13 , 秦出公 前703-前696 7 , 秦武公 前697-前676 21 , 秦德公 前677-前674 3 , 秦宣公 前675-前662 13 , 秦成公 前663-前660 3 , 秦穆公 前659-前619 40 , 秦康公 前620-前609 11 , 秦共公 前608-前602 6 , 秦桓公 前603-前577 26 , 秦景公 前576-前537 39 , 秦哀公 前536-前501 35 , 秦惠公 前500-前491 9 , 秦悼公 前490-前477 13 , 秦共公 前476-前443 33 , 秦躁公 前442-前429 13 , 秦怀公 前428-前425 3 , 秦灵公 前424-前415 9 , 秦简公 前414-前400 14 , 秦惠公 前399-前387 12 , 秦出子 前386-前385 1 , 秦献公 前384-前362 22 , 秦孝公 前361-前338 23 , 秦惠文王 前337-前311 26 , 秦悼武王 前310-前307 3 , 秦昭襄王 前306-前251 55 , 秦孝文王 前250 1 , 秦庄襄王 前249-前247 2 , 秦王(嬴政) 前246-前220 26 . 秦帝系表 (公元前221 至 公元前206年): 秦始皇 前221-前210 11 , 秦二世 前209-前207 3 , 子婴 前207 8个月 Câu đối 李核 出五蘝趙 嗣和刀天 應瑞 Lý hạch xuất ngũ liễm, Triệu tự hòa đao, thiên ứng thụy 蓮花開八葉結成木子地鐘靈 Liên hoa khai bát diệp, kết thành mộc tử, địa chung linh. Câu đối này nghĩa đen chỉ là: Hột mận (cây Lý) ra 5 liễm (một loài cây có rễ làm thuốc), hậu duệ họ Triệu dừng binh đao, thì trời ứng cho mọi sự tốt đẹp. Hoa sen nở 8 cánh, kết thành một cây, thì đất hòa bình vang tiếng chuông thiêng. Vấn đề là câu đối này xuất xứ ở đâu, thời nào, thì mới tìm ra được mật ngữ ẩn trong nó. Còn đơn giản, suy diễn chung chung thì nội dung là cầu mong thiên hạ thái bình. Nhưng cái thái bình ấy chỉ có được khi công nhận Ngũ Hành là của dân Man (mận=man) có từ thời Thần Nông (cây liễm có rễ làm thuốc – Đến cả châm cứu còn có từ thời Thần Nông), hậu duệ (chữ Tự) của cái đế quốc Tần (gốc từ Triệu Chính) phải dừng gây chiến tranh (Hòa Đao). Và công nhận cái Bát Quái là của dân Sóc (sóc=sen), đã từng tạo thành một lý thuyết gốc cho sự phát triển cuộc sống và sự sáng tạo trên trái đất (Mộc Tử, là một cây - một lý thuyết gốc, cho sự sáng tạo, vì Mộc=Mọc – “Thuyết văn giải tự” từng giải thích Mộc là “mọc từ đất lên” tức cái Khôn cho sự sáng tạo là từ loài người ở Trái Đất, Đất=quẻ Khôn).
-
李核 出五蘝趙 嗣和刀天 應瑞
Lý hạch xuất ngũ liễm triệu tự hòa đao thiên ứng thụy
蓮花開八葉結成木子地鐘靈
Liên hoa khai bát diệp kết thành mộc tử địa chung linh.
Dịch nghĩa đen là:
Hột cây lý mọc ra 5 cây liễm (rễ để làm thuốc), hậu duệ họ Triệu dừng đao binh thì trời cũng ứng cho điều tốt đẹp
Hoa sen nở ra 8 cánh lá kết thành một cây thì đất cũng nổi chuông thiêng.
Nghĩa bóng thì k...
-
Sức mạnh niềm tin Đọc sách “Sức mạnh niềm tin” ( Của Claude M. Bristol, Xuất bản năm 1948) Niềm tin- sức mạnh ẩn tiềm Không ham đón nhận, nó chìm đâu đâu Nhân loại từ thủa ban đầu Đã có khoa học nhu cầu tư duy Tiềm thức quả thật diệu kỳ Nó tự đáp ứng những gì ta mong Khi còn nghèo khó long đong Ta phải nuôi dưỡng ước mong nhiều tiền Đó là khởi động đầu tiên Để ta giải phóng sức tiềm bên trong Khi đang thất nghiệp long đong Hãy mơ cụ thể việc làm ta mong Tiềm thức sẽ vận cõi lòng Tự nhiên việc đến trong vòng không lâu Miệt mài công việc chuyên sâu Không ngừng mơ ước bắc cầu sang ngang Việc mới tự đến rõ ràng Lại được cơ hội đàng hoàng hơn xưa Tưởng tượng là cái không thừa Thích tiền cứ viết nháp mua chữ Tiền Ghi lên bìa sổ thường xuyên Thật là kỳ diệu bỗng tiền đến luôn Uớc thèm một món ăn ngon Uớc thì cứ hỏi có còn hay không Tâm thức sẽ vận cõi lòng Tự nhiên gặp thật mà không phải chờ Người đem quà ấy lại cho Dù không thân thích, thành cơ thân tình Thuyền trưởng trong cuộc hành trình Mơ cập đúng bến, rước rinh đúng người Uớc mơ dai dẳng không thôi Quả nhiên điều đó tuyệt vời xảy ra Tin ắt sẽ có ấy mà (“Cầu được ước thấy”) bởi là niềm tin Dù khi nằm bịnh liệt giường Nìềm tin giúp sẽ chóng lành ngay thôi Hi vọng mạnh mẽ không thôi Trở thành động lực giúp đời thành công Cua rụng cẳng lại mọc chân Người cụt không mọc bởi không mong chờ Tư duy - thay đổi ước mơ Sẽ thành sự thật bất ngờ không xa Người khác ám thị cũng là Tạo nên thần diệu cho ta tự lành Nhiều người sử dụng niềm tin Làm tăng thu nhập gấp lên nhiều lần Theo đuổi ý nghĩ trong tâm Đến khi đáp số hoàn thành mới thôi Mỗi đoạn kế hoạch trong đời Số tiền mình ước sẽ thời thành chân Kiên định tạo ra niềm tin Tinh thần đúng đắn, quyết tâm thi hành Thế là mọi sự đều thành Lo sợ tan biến chẳng tranh đường đời Ý thức Vũ Trụ tuyệt vời Khai tâm mở trí cho đời ta đi Lòng tốt , trí sáng diệu kỳ Trí huệ đem lại những gì ta mong Biết bao đế chế thành công Biết bao đế chế diệt vong cũng nhiều Nhân quả như Phật đã nêu Nhân nào quả nấy là điều tự nhiên Ý nghĩ - hành động tinh thần Nó là một lực vạn năng phi thường Khi nhìn mọi vật xung quanh Trước là ý nghĩ rồi thành hình dung Tưởng tượng quí báu vô cùng Cùng con người gắn chữ đồng - tư duy Thân xác là nước chứ gì Con người thực - chính tư duy của mình Tư duy - bí quyết thành công Đừng theo khuôn cũ, hãy mong phá rào Dáng đi quả quyết ngẩng đầu Đó là người biết tin vào bản thân Tự tin phản ánh ra Thần Nghĩ sao thì cái bản thân y xì Ý nghĩ quyết định đường đi Tính cách, nghề nghiệp, những gì của ta Vũ Trụ do ai sinh ra ? Vô biên trí tuệ, bao la loài người Đông Phương Lý Học tuyệt vời Cái Không Vô Định là Trời bao la Ý nghĩ là ở tự ta Phản ứng là cái người ta ám vào Nhân loại suy nghĩ thế nào Nhân loại sẽ được địa cầu y chang Ý nghĩ thường bị buộc ràng Bởi những luận thuyết của hàng ngàn năm Chỉ khi thiền định vào tâm Ta tìm ý nghĩ của riêng chính mình Đừng để Xưa ám rối ren Đừng để Ngoại ám làm thêm vấp tà Mọi thứ đều ở trong ta Cái gốc sức mạnh, đó là Thần tinh Mỗi người có cuộc sống riêng Trở thành giàu có là quyền của ta Tinh thần, ấy chính vàng mà Tự do khi đã tìm ra mình đầu Kinh tế: qui luật cung cầu Chỉ là vật chất - bản sao tinh thần Lịch sử đã chứng minh rằng Kỳ tích vĩ đại - tinh thần tạo ra Nước Mỹ hùng mạnh chính là Mỗi người khẳng định tự ta làm giàu Sức tưởng tượng mạnh nhiệm màu Đã làm nước Mỹ hoang nghèo mà lên Mỗi người hiểu rõ chính mình Làm chủ ý nghĩ là rinh của về Tư duy sáng tạo tràn trề Niềm tin kiên định cặp kè một bên Hành động theo cái niềm tin Là ta tự dẫn đi lên cuộc đời Khát khao cháy bỏng không thôi Gắn với mục đích là lời: Thành Công Đừng để ý nghĩ chung chung Phải nêu mục đích, hình dung rõ ràng Mục tiêu cụ thể hẳn hiên Và phải giữ vững nó luôn trong đầu Uớc muốn mới mẻ dù lâu Nó vận tâm thức, ngõ hầu đi lên Gọi là giá trị tăng thêm Thay đổi đời bạn là điềm dĩ nhiên Khát khao cháy bỏng một niềm Sẽ thúc động lực ẩn tiềm trong ta Ý nghĩ - vật chất đó mà Tư duy - sự sống thổi ra thành tiền Trẻ con chơi nằng triền miên Không nghĩ cảm nắng thì liền chẳng chi Chẳng sợ bất cứ cái gì Thì mình sẽ được như y mình nguyền Thói quen: gây rối triền miên Không thể một lúc mà liền rũ xong Ý nghĩ kiểm soát khoảng không Sức mạnh kinh ngạc nằm trong điểm này Ý nghĩ có sức mạnh thay Dời non lấp biển điều này cũng nên Ý nghĩ như sóng truyền tin Bê tông, vách gỗ, mái tôn chẳng nề Ý nghĩ mạnh sẽ chẳng chê Chơi bài là thắng tràn trề đó thôi Ý nghĩ tác động liên hồi Sẽ làm vật thể ngoài trời lung lay Ý nghĩ huyền bí lắm thay Không phải truyền điện người này người kia Mỗi một sinh vật riêng chia Có trường năng lượng phát tia ra ngoài Liên hệ Vũ Trụ như hài Cái trường năng lượng mỗi người mỗi riêng Chiếc lá cũng có riêng trường Khi lá khô héo thì thường yếu đi Trường bàn tay cũng như y Trường mạnh chữa bệnh, bệnh thì phải lui Cũng giống cơn sóng thủy triều Là do động đất cách nhiều đại dương Mọi vật dao động khi thường Do sự tương tác các trường với nhau Nhìn, nghe, ngửi được do đâu ? Cảm được do bởi cái cầu động dao Khi ta suy nghĩ thế nào Tập trung càng mạnh nó trào càng nhanh Lấn át dao động xung quanh Người suy nghĩ yếu sẽ thành bị lây Tập trung tưởng tượng càng hay Sức mạnh sáng tạo hiện ngay rõ ràng Cầu nguyện phải thúc tự tâm Những lời học thuộc làm nhàm chẳng linh Mọi người chung một niềm tin Thành tâm cầu nguyện, diệu huyền sẽ ra Linh hồn vốn có đấy mà Nó là sức mạnh đẻ ra ý mình Nó là tiềm thức anh minh Nó là sức mạnh của mình tự thân Nó tự sáng kiến ra mần Chấp hành ý nghĩ để thành công ngay Quên đồ đạc chớ có rầy Nhắm mắt tự hỏi, nhớ ngay tức thì Đó là tiềm thức nó ghi Có lệnh thì nó tức thì lục ra Những chuyện xuất hiện tình cờ Do bạn từng có những giờ dệt thêu Những ai gần gũi thiên nhiên Sử dụng tiềm thức tốt hơn mọi người Cho nên ta phải đi chơi Tìm nơi yên tĩnh, tìm nơi tịnh thiền Ý nghĩ được giữ triền miên Hệ thống tiềm thức sẽ liền động ngay Tiềm thức đến chỉ một giây Nếu như quyết định gần ngay tức thì Gặp người khó tính một khi Phải tưởng tượng trước, ta thì gặp may Ông ta niềm nở thế này Mình thì thẳng thắn thế này thế kia Bức tranh tưởng tượng một khi Tiềm thức nhận lệnh tức thì nghiệm linh Tưởng tượng tham gia giao thông Mình luôn luôn gặp đèn xanh đi đường Thế là ứng nghiệm phi thường Cái may mắn đó trên đường mình đi Nghe lời khuyên dọa, gạt đi Tự tin, ta giữ những gì tư duy Tưởng tượng giúp ích diệu kỳ Tưởng tượng mình thắng, nó thì xảy ra Chú tâm tiềm thức ấy mà Là ta ám thị cho ta như nguyền Ước muốn mãnh liệt phi thường Sẽ ghi dấu ấn tâm huyền của ta Vấn đề chưa có lối ra Ta cứ suy nghĩ xem ta thế nào Tưởng tượng phương án xem sao Tự nhiên cảnh thực hiện vào giúp ta Điềm may nó đến đấy mà Do ta suy nghĩ thiết tha mấy giờ Một khi trắc trở cái gì Đừng nghĩ đút lót, nào đi bằng tiền Tưởng tượng mình đáng ưu tiên Đến gặp đối tác thấy liền ứng linh Dáng xấu cũng mạnh dạn lên Ăn mặc cho đẹp, tự khen chính mình Thế là vẫn gặp ứng linh Do vẽ tưởng tượng bức tranh tinh thần Dùng trò lạc hướng phân tâm Cũng có hiệu quả khi cần với ai Cũng phải chú ý điều này Đừng để cảnh xấu ám ngay vào mình Xây dựng bức ảnh tinh thần Mình là người mới, đã thành ra sao Nuôi dưỡng ảnh ấy dài lâu Tự nhiên thành thật, biết đâu có ngày Tưởng tượng phải hợp tầm tay Chứ đừng mơ mộng nọ này viển vông Tưởng tượng là sức hình dung Sẽ không thành thật xảy trong đời thường Bởi vậy đột phá tinh thần Tư duy đổi mới là cần cho ta Khát vọng - động lực bao la Ta không có nó , đi xa chẳng thành Hãy vẽ cụ thể niềm tin Nó là phác họa bức tranh tinh thần Chiếu lên tiềm thức - màn hình Giúp bạn loại bỏ linh tinh rầy rà: Lấy vài danh thiếp cầm ra Vào phòng yên tĩnh để mà nghĩ suy Của ta khát vọng là gì ? Trả lời xuất hiện, bạn thì ghi ngay Vắn tắt vào mấy thẻ này “Ngôi nhà” ? “công việc” ? hoặc hay “nhiều tiền” ? Thẻ hai, ba cũng viết liền Thẻ đặt bàn viết (1), cạnh giường (2) của ta Còn riêng cái thẻ thứ ba Bạn kẹp vào ví (3) để cho theo người Chân dung (4) hoặc cái gương soi (5) Chỗ nào có thẻ, nó thời nhắc ta Chỉ một khát vọng thôi mà, Giao cho tiềm thức, tha ta nghĩ nhiều Tự nhiên nó gợi những điều Bắt ta thực hiện mục tiêu đã đề: Bỗng nhiên nhớ bạn ở quê Vớ cái điện thoại đề huề vài câu Báo thì không đọc đã lâu Bỗng nhiên tìm đọc hoặc chầu Email Chợt gì bạn cứ làm theo Tâm thức nó khiến . nó điều ta đi Nhiều khi đang ngủ li bì Sáng kiến bỗng nảy, tức thì dậy ghi Luôn sẵn một cái bút bi Một tệp giấy nhỏ để ghi vào liền Đừng để tới sáng lại quên Bao người thành đạt, gặp hên nhờ vầy Điều bạn ghi những thẻ này Bạn phải giấu kín đừng bày với ai Nếu mà nó lộ ra ngoài Sẽ gặp thảm họa dài dài cho coi Suy nghĩ dao động đấy thôi Vô thức, đố kỵ nó trồi lên ngay Vô hiệu hóa ước mơ này Thế là hỏng việc an bài bấy lâu Sắp được lên chức cầm đầu Bạn phải giữ kín, chớ tâu chớ bày Nếu không sẽ bị hoãn ngay Ai lường vạ gió tai bay vào mình Do bạn bày tỏ linh tinh Làm suy nguồn lực trong mình đấy thôi Liên kết tiềm thức mất rồi Cái họa xảy đến đó thời tại tâm Thần chú, khẩu quyết thì thầm Lặp đi lặp lại là ngầm ám ta Tiềm thức rất dễ tiếp thu Bất kể lệnh đúng hay dù lệnh sai Đúng sai thì cũng vậy thôi Sẽ xảy ra thật trong đời của ta Bởi vậy ta tự ám ta Bằng câu dễ hiểu, ngắn mà đọng cô Đang bịnh tự ám đơn sơ “Tôi khỏe, tôi khỏe…” cứ mà lặp đi Tinh thần trạng thái chuyển di Đem lại tốt đẹp là vì cho ta Lặp đi lặp lại ấy mà Khắc vào tiềm thức của ta sâu vào Tiềm thức sẽ có lực trao Chỉ cách nhanh nhất lối nào đường đi Đóng đinh cũng vậy khác gì Nhát đầu chỉ bởi để vì găm đinh Nhát nữa, nhát nữa đóng đinh Nhát tiếp, nhất tiếp theo trình tự đi Milo nuôi một chú Bê Ngày nào cũng bế tung hê lên trời Thế rồi ngày tháng cứ trôi Milo vẫn nhấc bổng trồi Bò lên (Ngô Thị Tuyển bé cỏn con Hai thùng đạn kẹp nặng còn gấp đôi Ý nghĩ, tiềm thức tuyệt vời Vác hai thùng đạn lên đồi băng băng) Bất kỳ ý nghĩ lăng nhăng Không chen vào được bên trong tí nào Không gian tâm trí đầy trào Toàn là tích cực , xấu nào chen vô ? Thường xuyên bạn phải nhớ cho Nuôi dưỡng tâm thức toàn là thiện lương Ngàn năm triết học nêu gương Tâm trí đừng để rảnh rang lúc nào Khả năng làm việc càng cao Tình yêu mãi mãi tuôn trào trong ta Đó là hạnh phúc đấy mà (Hành Hành sinh Hạnh đó là nhị phân *) Tâm trí mà thật tập trung Bức xạ có hại sẽ không đường rời Thích gì thư giãn cứ chơi Tiêu cực chẳng chỗ chen mời được ta Mọi quá khứ hãy khép qua Sống với hiện tại đó là tương lai Sự vật, hiện tượng bên ngoài Thông qua ý nghĩ nó lai vào mình Thế là mình nảy ước mong Mình phải ấp ủ trong lòng khát khao Tiên đoán sẽ được dù lâu Tin vào tiên đoán, trong đầu sẽ in Dạ dày lỡ có rối ren Bạn phải nhắc nó “đường hoàng lại ngay” Bạn muốn dậy đúng giờ này Trước ngủ bạn nhắc, lệnh ngay được hành Tiềm thức bị dạy ngàn năm: “Con người đến tuổi sáu lăm là già” Khuôn ấy ta phải phá ra Nhắc với tiềm thức: “Ta là trẻ trung” Phải dạy tiềm thức biết mần Đừng có tiếp nhận những phần xấu xa Ý nghĩ là chính mình ta Nghĩ sao thành vậy đó là luật chung Ám thị người khác cũng dùng Từ nhỏ mẹ đã ung dung ru hời Bao nhiêu khát vọng sáng ngời Gieo vào tiềm thức trong người đứa con Triệu người chung một lời nguyền Ám thị gì đó tất liền hiển linh Người khác nghĩ xấu cho mình Lặp đi lặp lại sẽ thành họa tai Đánh gục ý chí bạn ngay Phải lấy tích cực mà bày tấn công Tích cực mình giữ trong lòng Thì mọi ý xấu khó hòng lọt vô Ta bị ám thị là do Mọi thói quen cũ mẹ cha an bài Cả xã hội cũng vậy thôi Thói đời, lối sống nó thôi miên hoài Vậy phải biết bỏ ngoài tai Còn gì ta muốn, ta hoài hoài theo Chú tâm luyện phép đã nêu Sẽ sống năng động, mở trào tiềm năng. Tư tưởng mạnh mẽ vô cùng Biến thành hành động như dòng thác tuôn Niềm tin không động mà im Là niềm tin chết, nó chìm mất toi Tinh thần mà kín trong nồi Không đem hành động, để chơi trang hoàng Đó chỉ là ý tưởng hoang Niềm tin phải biết truyền sang mọi người. Bạn dùng kỹ thuật gương soi Giải phóng tiểm thức ngời ngời bên trong Tiềm thức nó biết kết minh Hành động tích cực để trình lối đi Làm thành phương tiện chứ gì Vẽ ra cho bạn bước đi công thành Bạn đừng há miệng chờ sung Làm việc ! và giữ trong lòng mục tiêu Tiết kiệm ! dù ít dù nhiều Mỗi đồng dành dụm sẽ chiều lòng ta Bạn sẽ phát đạt đấy mà Càng biết tích lũy càng ra nhiều tiền Tiền đó bạn phải dùng liền Đầu tư sinh lợi – ưu tiên hàng đầu Tiền càng lớn, phát càng mau Những cơ hội tốt tự đâu bất ngờ Hãy tìm tư vấn thật thà Để biết dùng vốn dù là một xu Người nghèo có một cái nhà Dành gian cho trọ đó là kinh doanh Tích lũy dần, vốn trưởng thành Bán nhà, mua mới, kinh doanh đổi nghề Nhiều cơ hội đến , gặp thì Tích cực làm tới, bước đi đàng hoàng Từ nghèo đến được giàu sang Là do năng động, biết làm, giữ tin Ý tưởng nào nó khả thi Dễ kiếm tài trợ một khi tiến hành Sẽ hiếm khi gặp khó khăn Tuy nhiên ý tưởng phải rành với ta Trước khi thuyết phục người ta Người ta có thuận mới cho vay tiền Chính kiến là cái ưu tiên Chỉ nghe kẻ khác là phiền cho ta Lương cao – trí thức đó mà Làm công – là bởi tự ta nghĩ lười Hãy nhìn phuơng pháp gương soi Sự thực chứng kiến một người đang say Trước gương ông cố đứng ngay Lẩm bẩm tự nói rằng: “Mày, thằng ngu Đối tác chuốc rượu mày nhừ Để hòng mua rẻ suy tư của mày” Thế là năm phút qua ngay Ông ta chợt tỉnh, hết say hồi nào Thương thảo tiếp, lợi làm sao Ý tưởng ông bán được cao vời vời Trước khi tiếp thị một nơi Trước gương hãy sửa dáng người mình đi Tưởng tượng sẽ nói những gì Trước mặt đối tác một khi vào hành Tự tin thuyết phục được nhanh Thế là sự việc xảy thành như y Ta là người bán chứ gì Hàng thì sản phẩm, hàng thì cá nhân, Ý tưởng, tư cách, đều cần Quan hệ, dịch vụ, đều mần hàng luôn Ta phải thuyết phục bản thân Cũng như thuyết phục cá nhân bất kỳ Gương không lớn lắm làm chi Vừa người đứng thẳng ngắm vì trong gương Thở sâu bốn lượt như thường Cảm thấy quyết đoán nó đương trong mình Kế tiếp nhìn thẳng mắt hình Nói rằng bạn sắp hoàn thành điều mong Mong gì, phải nói rõ ràng Thấy môi mình mở, âm thanh lọt mình Cứ vậy thực tập thường xuyên Sáng và chiều cứ hai phiên trong ngày Với cách luyện tập như vầy Sẽ khiến cho bạn có ngày ngạc nhiên Mong gì, cô đọng vài dòng Dán vào gương để tập trung ý mình Ba ngày thực tập chương trình Bạn sẽ thấy rõ quả mình tự tin Trong khi thực tập trước gương Bạn phải khẳng định thành công rõ ràng Trao cho tiềm thức nghĩ suy Nó sẽ thực hiện copy ngoài đời Tuy nhiên chớ lộ cho người Bị họ chế nhạo bạn thời mất tin Mắt ta có một tâm hồn Mắt là biết nói cho tròn nghĩ suy Trước gương bạn thấy những gi ? Mắt có sức đốt, cháy gì chẳng xong Dùng gương bạn tự nhủ lòng Tự tin, trung thực, sẽ thành đạt ngay. Trực giác linh cảm rất hay Tri thức tích lũy ngày ngày mà nên Phát minh từ cổ chí kim Đều do tiềm thức làm nên ấy mà Trực giác thường chợt nảy ra Hãy lệnh tiềm thức, đó là hàng đêm Trước khi ngủ luyện thói quen Việc chưa xong hãy nói lên với lòng Ta ngủ, tiềm thức vẫn trông Nhận lệnh, nó tự giải xong một thì Ta sực tỉnh ấy là khi Đáp số đã được nó ghi trong đầu Mau mau ngồi dậy ghi mau Giải quyết gấp rút hôm sau, đừng nhàm Theo trực giác chớ có tham Đỏ đen, chứng khoán lại càng không nên Tâm trí – sức mạnh vô biên Nó vật chất hóa những điềm nghĩ ra Ý tưởng, hành động chính là Làm bùng ngọn lửa để mà thành công Mỗi tuần phải có một lần Đẻ ý tưởng mới, chấp hành thực thi Đơn giản , phức tạp bất kỳ Có ý tưởng mới là thi hành liền Yêu thích công việc của mình Tự nhiên ta khiến trí mình tập trung Mình nghĩ người khác lung tung Chính kẻ thù ấy do mình tạo ra Mình nghĩ người khác thật thà Tự nhiên mình được người ta thật tình Muốn có người khác giúp mình Mình phải giúp đỡ thật tình ai ai Gieo gì gặt nấy đấy thôi Cái lý đơn giản trên đời xưa nay Bạn nghĩ đến chó hàng ngày Tự nhiên nó biết mừng ngay bạn về Bạn muốn giàu có đề huề Tìm người giàu có đề huề mà chơi Những người năng động thức thời Sẽ tư vấn bạn những lời khuyên hay Sách tốt là bạn hàng ngày Càng đọc nhiều sách càng hay tầm nhìn Tư duy nhanh nhậy tinh anh Con người hoạt động hình thành tự nhiên Bạn có hấp dẫn hay không Hình thức quần áo có trông hợp màu ? Hình ảnh xã hội ra sao ? Giọng nói quyền quí khác nào có uy Lịch lãm mang lại tự tin Khiến nhiều người khác muốn xin gặp mình Tưởng tượng mình có tỏa linh Thế là chẳng sợ khi mình lâm nguy Tin bùa, thánh giá hộ trì Cũng giúp cơ thể tỏa vì hào quang Xung động của kẻ xung quanh Nhiễm vào chính bản thân mình đấy thôi Cho nên chọn bạn mà chơi Chủ sao chó vậy nhiễm lây tính tình Cơ quan, tổ chức rõ rành Những kẻ tiêu cực tạo thành lực xung Tự nhiên có hại vô cùng Dù nhóm tích cực cố vùng thành công (Xưa nay “gần mực thì đen Gần đèn thì rạng” đã nên tín điều) Tư duy bạn tích cực nhiều Tránh bọn tiêu cực nói nhiều nhàm tai Tránh kẻ than vãn, kêu nài Nào là kể bệnh, nào khai cảnh nghèo Nghe nhiều tâm thức bạn theo Tự nhiên bạn cũng bệnh, nghèo, chẳng mong (“Một ngày tựa mạn thuyền rồng Còn hơn chín tháng ngồi trông thuyền chài”) Đó là ám thị bên ngoài Tiêu cực nó ám, họa tai đến dần Cho nên bài trí văn phòng (Phong Thủy Lạc Việt) thịnh hưng, kiêu hùng Sẽ gây tích cực trong lòng Hài hòa ấm áp lây trong mọi người Lãnh đạo dám đứng lẻ loi Còn thì những kẻ theo đuôi thường nhiều Một khi rắc rối xảy điều Nếu chậm giải quyết càng nhiều rối ren Phải ra quyết định nhanh lên Dù chưa chính xác vẫn tin vào mình Sợ sai thì phạm sai lầm Trực giác quyết đoán, thành công tới liền Phụ nữ là chúa thánh hiền Hễ muốn là được như nguyền xưa nay Thich nghi, uyển chuyển, rất hay Biết dùng tiềm thức thành tay cao cường Tiềm thức không có tuổi vàng Trung tâm trực giác nó làm rất chăm Chứa đựng nguồn lực vô ngần Càng dùng đến nó, nó tăng càng nhiều Một khi nhận lệnh bạn nêu Một thời gian ngắn nó đều làm xong Biến thành hiện thực thành công Chỉ cần bạn có niềm tin vô bờ.
-
Đất Nước Rừng vàng Biển bạc Từ Đất/Nước kết cấu như cặp đối Dương/Âm. Chỉ có người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước, hàm nghĩa là một “Môi trường sinh thái cân bằng”. Anh ngữ chỉ gọi xứ sở là Land, Hán ngữ gọi xứ sở là Quốc Thổ hay Lãnh Thổ. Cặp đối Đất/Nước (Dương/Âm) tương tự cặp đối Trời/Đất. Kết cấu của các cặp từ đối ấy tự nói lên rằng sự sinh ra Vũ Trụ là Dương có trước Âm, Dương sinh ra Âm, như thành ngữ “Trời Tròn Đất Vuông”, “Mẹ Tròn con Vuông”. Ghép Tròn với Vuông theo đúng Dương Âm là Tròn Vuông = Trọn Vẹn, chỉ sự hoàn hảo, cũng là “Cân bằng sinh thái”. Qui hoạch cái gì, từ qui hoạch một thành phố, qui hoạch một doanh nghiệp , qui hoạch một việc nhỏ đều là: muốn được Trọn Vẹn phải theo đúng Âm Dương Ngũ Hành, tức phải dùng cái nhìn của Phong Thủy Lạc Việt. Khi biểu thị Trái Đất bằng hình Vuông là người Việt ám chỉ Đất ấy là đất đã có loài người khai thác (do Ruộng = Vuông = Văn文 = Vành - Vạnh = Mảnh. Chữ 文 người Triều Châu đọc là “vuông”, người Quảng Châu đọc là “mảnh”) , tức trái đất đã có văn minh, đời sống xã hội loài người đã có quốc gia, chia nhau mỗi quốc gia một Mảnh trên trái đất. Từ hai âm tiết Trái Đất (sẽ chứng minh nó là từ đôi, tức Trái=Đất), Trái Đất nếu mà theo ý “cái đầu tiên” thì gọi tắt là Trái, đúng với cặp đối Dương/ Âm nguyên thủy của Trời/Đất là Trời/Trái (cặp đối nguyên thủy là hai từ trong cặp đó phải là cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi). Từ đôi Trái Đất nếu mà theo ý “cái nhiều hơn” thì gọi tắt là Đất, vì loài người sinh ra và nhiều dần lên là ở trên mặt đất, chứ không phải là ở dưới nước như loài đơn bào đầu tiên của sự sống, ý “nhiều” là loài người nhiều lên đồng thời khai thác cũng nhiều lên đối với trái đất. Cặp đối nguyên thủy của Đất/Nước là cặp Đất/Đức. Đất=Thật (thành ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng”). Đức=Thực (người có Đức là người chân thực). Như vậy Đất/Nước = Đất/Đức = Thật Thực, đó chính là cái môi trường sinh thái lý tưởng nhất vì nó còn chân thực, còn Trọn Vẹn (tức là một sinh thái có Đức), chưa bị tàn phá, ô nhiễm để biến thành một sinh thái Đểu. Chữ Đức 德 của Việt nho ( từ Việt nho dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ ở đây có nghĩa là “từ của Tiếng Việt viết bằng chữ nho của người Việt” ) viết ra có nghĩa là sự đầy đủ, chu đáo đối với thiên hạ, gọi là sống có Đức. Nguyên gốc của nó chỉ có nghĩa là nước , trong nôi khái niệm Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đủ=Đầy=Đen=Đác=Nác=Nước=Nam=Nậm=Âm=Lầm=Thâm=Than=Thủy. Các từ Đen, Lầm, Thâm, Than, Thủy là chỉ màu Ngũ Hành của Nước, sau lấy dùng chỉ vật tương ứng: Than thay cho từ Mun , Thủy thay cho từ Nước; Lầm, Thâm để chỉ tên hai loại vải màu sẫm. Túc=Tức=Đức=Đủ=Đầy, là bản chất của nước, bản chất ấy là Đầy=Đẩy vì nước là luôn có xu hướng Nống=Nở Rộng, ra mọi phía (thấm, lan, tràn, bốc hơi, nở khi đóng băng). Nói Đất Nước Việt Nam có nghĩa là xứ sở tên là Việt Nam, nhưng riêng từ Đất Nước đã bao hàm ý nghĩa là nơi sinh thái cân bằng, là nơi chân thực, nơi đó nhân dân thuần phác và nhân hậu. Các ngôn ngữ khác không thể có được cái “ý tại ngôn ngoại” này vì họ không dùng từ Đất Nước để chỉ xứ sở của mình. Cặp đối Trời/Đất nguyên thủy là Trời/Trái. Ta thường nói “Dương và Âm như haì mặt Phải và Trái”, thì đúng như vậy, vì Trời=Trải=Phải, đương nhiên Đất=Trái, từ Trái Đất là một từ đôi, Trái là nói khi địa cầu đang còn nguyên thủy, Đất là nói địa cầu khi đã được con người khai thác bề mặt để làm Ruộng, từ buổi bình minh của nền nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, là của người Việt, cách nay hàng vạn năm, Ruộng=Vuông= Văn=Vẹn=Vành-Vạnh=Mảnh, là nền văn minh lúa nước của dân Việt nước Văn Lang ở nam Dương Tử, cách nay 5000 năm. Nếu nói về hành tinh Trái thì người Việt biểu diễn nó bằng hình Tròn giống như Trời và Trăng, là những cái có Trước (hình tượng Trời bằng chiếc bánh Dầy hoàn toàn trong trắng không có áo gói, câu “Khí trong nhẹ nổi nôi Trời, khí trọc nặng lắng thành nôi Trái mà” của bài Ấu học giải thích về sự hình thành Vũ Trụ, trong quyển Ấu Học Quỳnh Lâm được sưu tầm từ ca dao truyền miệng của người Việt ghi lại thành sách viết bằng chữ nho thời nhà Tùy). Còn nếu nói về Trái với ý là hành tinh, có lẽ là duy nhất, có con người đã khai thác thì người Việt biểu diễn nó là Đất bằng một hình vuông, từ đôi Trái Đất đã tự nó nói lên ý xưa (Trái) và nay (Đất) của chính nó, tức cái hình thành Trước và cái hình thành Trễ, bằng cái “ý tại ngôn ngoại”. Biểu tượng Đất bằng hình Vuông của bánh chưng vuông hay bằng đá vuông như Yoni là nói rằng Đất Nước văn minh, khi đã thừa biết các hành tinh do Vũ Trụ sinh ra đều là những cái có Trước, như Trời=Trăng=Trái= (đều là) = Tròn=Còn, cái nôi khái niệm nói lên sự tồn tại vĩnh cửu của chúng là Còn=Tròn=Trời=Trăng=Trái=Mãi, tức chúng luôn luôn là Già. Từ nguyên của từ Giời Già (giọng Kinh Đô) là từ Trời Tra (giọng Nghệ). Từ Vũ+Trụ có nghĩa là Không Gian+Thời Gian (giải thích của Từ điển Hán-Việt, nhưng lại cho rằng đó là “từ Hán- Việt”). Vũ Trụ là một từ gốc Việt cổ xưa nhất. Vì: (1) Vũ là do lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng QT Thanh điệu: 1+1=0 của thuật toán nhị phân); (2) Trụ là do lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng QT Thanh điệu: 1+1=0 của thuật toán nhị phân). Hai từ Vũ và Trụ là cùng nôi khái niệm “thuộc Trời” vì vậy khi nguời Việt bỏ chữ khoa đẩu chuyển sang viết bằng chữ nho thì hai chữ đó đều có chung một cái Tơi là bộ thủ Miên宀 đặt phía trên (Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên 宀; Trời=Trải=Phải=Mái=Miên 宀). Ủ là một sự chuyển động, cũng giống như sự lên men vậy. Hai chữ Vũ Trụ nho viết bằng ghép chữ biểu ý, đọc chỉ cần lướt các bộ ghép là ra: (1) Do Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên 宀; Ủ=Ứ=Ư 于 nên Vũ 宇 được ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và bộ thủ Ư 于, thành chữ Vũ 宇, đọc bằng lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng dấu 1+1=0); (2) Do Trời=Trải=Phải=Mái=Miên 宀; Ủ=Du 游 =Do 由 nên chữ Trụ ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và bộ thủ Do 由, thành chữ Trụ 宙 , đọc bằng lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng dấu 1+1=0). Bộ thủ là của Việt, từ “Bộ Thủ” 部 首, nghĩa là “bộ đầu” là cái bộ ở vị trí đầu chữ (tức cái Tơi của lời), ghép theo ngữ pháp Việt ( nếu là của Hán thì đã ghép theo ngữ pháp Hán là Thủ Bộ 首 部). Thủ=Tu (xúc tu là tay của loài côn trùng)=Tay=Tơi. Rõ ràng là xét về dấu thanh điệu (mà chỉ ở tiếng Kinh mới tìm ra được QT Thanh điệu mà Lãn Miên nêu: “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1) thì Vũ=1+1=0, Trụ=1+1=0. Vậy Vũ Trụ bắt đầu là từ một “Cái Không Vô Định” (giống như Thiên Sứ khẳng định: “Không có hạt của Chúa”). Nhưng “Cái Không Vô Định” ấy lại là cái Có, vì Vũ=0, Trụ=0; Vũ Trụ=0+0=1 (đúng thuật toán nhị phân). Đúng là Sắc Sắc Không Không. “Cái Không Vô Định” đó gọi là Trời (Hán ngữ phải gọi là Thiên Không). Người Việt than vãn“Trời ơi” là ám chỉ cái Không (không rõ nguyên nhân), còn “Cái của Trời ơi” là chỉ cái của cải bỗng nhiên mà có, không biết do đâu đem lại. Ủ là thuộc tính của tự nhiên, là một sự chuyển động của tự nhiên, giống như lên men , thì phải có Đủ thời gian mới thành. Ngày nay văn minh công nghiệp (lấn át văn minh nông nghiệp) dùng công nghệ để rút ngắn quá trình Ủ, muối cá là có ngay nước mắm chứ không phải cất nước nhĩ một hai năm; rượu mới nấu xong cho qua máy là có thể thành ngay rượu bằng rượu cất 5 năm hay 15 năm. Tuy nhiên công nghệ ấy cũng chẳng Đọ được với Trời, chỉ cho ra hàng dởm mà thôi, chất lượng không thể nào bằng Ủ tự nhiên được, cũng giống như thịt heo nuôi bằng thuốc tăng trọng hay bằng thuốc tăng nạc. Trà đen Phổ Nhĩ của người Thái ở Vân Nam theo cách Ủ cổ truyền là càng Ủ lâu năm thì cho ra chất lượng trà càng tốt, càng có giá cao. Hệ đếm nhị phân là từ qui tắc Dương/Âm, hệ đếm chỉ có hai con số, số thứ nhất là 1, số thứ hai là 0. Cặp đối 1/0 tương đương cặp đối Trời/Đất. Vì: Trời=Trụ=Chủ=Chúa=Chậu=Chắc=Chốt=Cột=Một, là con số thứ nhất, tức số 1của hệ nhị phân. Cho nên người Việt mới có tục trồng cột Nêu tế Trời ngày mồng 1 Tết. Đất=Đồng=Hồng=Hai=Trái=Vài=Vuông, là con số thứ hai , tức số 0 của hệ nghị phân, (Đồng là đồng ruộng, Hồng 洪là rộng, “Đất Rộng”=Đồng, 1+0=1; “Đồng Đồng”=Động 洞 , 1+1=0, ý chỉ một vùng lớn. Người Việt ví Đất đã có loài người khai thác là hình Vuông (Ví là lời so sánh : Ví= Ví-Von=Van = Vân= =Ngân= Ngâm-Nga = Ngữ = Ngôn = Ngợi= Lời). Ruộng=Chuộng=Vuông=Vốn=Bốn=Bổn 本 = Bản 本. Hình vuông chỉ có chính xác là Bốn cạnh. Ruộng là cái Vốn quí nhất của nhân loại từ buổi bình minh của văn minh nông nghiệp hàng vạn năm trước cho đến ngày nay. Người Việt ham chuộng hình vuông ( áo cổ vuông của thủy thủ, trang trí hình vuông trên ngực áo hay lưng áo của các sắc tộc) vì chuộng Ruộng và chuộng cái lỗ Vuông là đồng tiền, tức ham chuộng cái Tư Bổn từ trong ngôn từ cổ đại. Cái Vốn=Bổn=Bốn là gồm: Nhân tài, Tiền tài, Khí tài, Nghệ tài. Do chuộng hình vuông nên quốc gia đầu tiên của nguời Việt cách nay 5000 năm ở nam Dương Tử đặt tên là Văn Lang 文 狼 = Vuông Lớn (chữ Văn 文 theo Hứa Thận giải thích trong Thuyết Văn Giải Tự là: bốn nét của Vuông 口viết lệch đi), có cờ cũng là cờ hình vuông (như vẫn còn thấy ngày nay ở các đình chùa). Vuông Lớn là của người Việt, vì người Việt thích Ruộng tức thích Vuông, nên nói bằng cách dùng từ Vuông đại diện cho từ Việt thì là Văn Lang = Vuông Lớn = Việt Lớn = Đại Việt, đó là một quá trình phát triển liên tục dài 5000 năm từ Văn Lang đến Đại Việt. Do ví Đất là Vuông nên người Việt mới chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa, với nghĩa Tròn Vuông = Trọn Vẹn (tức giao dịch phải sòng phẳng), bằng hình ảnh Tròn/ Vuông = Trời /Đất (tức giao dịch có Trời Đất chứng giám), đó là chữ Tín. (Chữ Tín 信 là do chữ Tin, nhấn ý hai bên giao dịch phải tin nhau thì dùng từ lặp Tin Tin, nhưng lướt thì “Tin Tin” = Tín, đúng dấu thanh điệu 0+0=1 của thuật toán nhị phân của người Việt. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN1991 cho rằng từ Tín 信 là “từ Hán-Việt”, trang 415). Đồng tiền cổ nhất của người Hán là hình tròn có lỗ tròn ở giữa. So với lỗ tròn thì lỗ vuông nó ma sát sắc hơn với sợi dây xâu các đồng tiền, dở thế, vậy mà người Việt vẫn chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa như hình ảnh Trời/Đất, chứng tỏ người Việt coi trọng cái ý nghĩa hơn cái thực dụng ( thành ngữ Việt “Lễ mọn lòng thành”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Người Việt coi trọng đồng tiền do đổ mồ hôi mà có. Vốn xưa người Việt chế đồng tiền bằng vỏ Bối 貝để làm phương tiện trao đổi. Sự đổi của người Việt rất là thật thà ( thành ngữ “Khôn ngoan chẳng đọ thật thà”) kể từ khi còn là hình thức vật đổi vật (những tục như chợ Viềng ở Nam Định hay chợ “ma” họp ban đêm ở các nơi khác còn đến ngày nay), trẻ con thường Đổi những vật chúng kiếm được cho nhau mà không hề so đo giá trị ( bởi vì ở cái nôi khái niệm “sự chân thật nguyên thủy” thì: Trời=Trải=Phải=Trái=Trội=Đổi=Đất=Thật ). Cái đổi thật thà ấy mới là Đổi=Bối = Báu = Bảo . Từ Báu sinh ra là từ khi người Việt biết dùng vỏ Bối ại gidiện á trị trao đổi, người ta chế tiền bằng cách trau chuốt vỏ Bối cho thật đẹp, lướt “Bối Trau” = Báu, dùng Bối 貝 làm đối làm phương tiện trao đổi thì lướt “Bối Trao” = Bảo 寶. Từ đôi Bảo Bối hay Báu Bối ám chỉ cái quí là sự chân thật trong trao đổi qua phương tiện vỏ Bối. (Ngày nay ngành ngoại giao dùng cụm từ “Trao đổi công hàm” cũng hàm ý quí báu như trao đổi trong giao dịch mua bán vậy). Sau, người Việt chế đồng Tiền (như Cam Pu Chia gọi là đồng Riên) bằng đồng, rồi bằng Bạc, gọi là đồng Bạc (như Thái Lan gọi là đồng Bạt), đồng tiền kỷ niệm thì làm bằng Vàng. Bạc và Vàng đều là kim loại quí nên từ ghép Vàng Bạc đại diện cho nghĩa Qúi Báu (nguyên thủy của từ Qúi Báu là từ Qui Bối, vì người Việt cổ đại dùng mai rùa - Qui để viết chữ và dùng vỏ Bối để làm đồng tiền. Giáp cốt văn chính là của người Việt, là chữ khắc trên mai rùa. Rùa là con vật đi chậm chạp, Rùa=Rù Rà=Rù Rì=Rì=Qui (“nó đi chậm Rì”). Qui Bối = Qúi Báu. Bản thân từ đôi Qúi Báu đã nói lên cái “ý tại ngôn ngoại “ của nó là Sĩ – kẻ viết chữ (lên mai Qui) và Thương – kẻ đi buôn (dùng đồng Bối) đều được người Việt cổ đại coi trọng như nhau vì đều là thành phần Qúi Báu trong xã hội). Cặp đối Rừng/Biển đại diện cho nghĩa Đất/Nước, bởi Đất/Nước hàm ý là “Sinh thái cân bằng” thì nó phải có Rừng và có Biển. Đất và nước là yếu tố đầu tiên cho nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà người Việt có sớm nhất nhân loại. Kỹ thuật canh tác lúa nước là “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống” cho thấy là người Việt cổ đại đã biết làm nền nông nghiệp bền vững, biết nuôi cây, đồng thời biết nuôi đất, nên mới hiểu được là Đất=Thật và Đức=Thực. Nông nghiệp có hai khu là Trồng Trọt và Chăn Nuôi, cả hai khu ấy như Âm/Dương, phải song hành và hỗ trợ cho nhau, tự chúng Dưỡng nhau và đều đòi hỏi con người Dưỡng chúng. Tất cả những khái niệm ấy đều do Tiếng Việt của người Việt , chủ nhân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên nhân loại, làm ra: Cặp đôi đối nguyên thủy nói lên công việc ChănNuôi/Trồng Trọt là Nuôi/Nuông, tức đều phải cần Ruộng (Cứ đổ cát lấp Ruộng đi mà làm công nghiệp !, văn minh công nghiệp đang lấn át văn minh nông nghiệp, trên phạm vi toàn cầu). Nôi khái niệm chung là Ruộng=Nuông=Nuôi=Nấng=Nà=Nương=Dưỡng 養. Từ đôi Nuôi Nấng, Nuôi Dưỡng, từ ghép Nuông Chiều là vừa Nuông vừa Chiều. Từ Nà là tiếng Tày-Thái chỉ Ruộng, như vùng Xịp Xoong Bản Nà của người Thái ở Vân Nam. Hai khu Trồng Trọt và Chăn Nuôi của nông nghiệp đều cần có đất và nước, tức cần Đất/Đức với nội dung của chúng là Thật Thực. Nuông và Nuôi bằng hóa chất chỉ là do văn minh công nghiệp lấn át văn minh nông nghiệp. Câu tục ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng” đủ thấy người Việt cổ đại hiểu rằng đối xử với đất và nước bằng thái độ như thế nào thì đất và nước cũng sẽ đối xử lại bằng thái độ như vậy. Giao dịch với đất và nước cũng phải như giao dịch mua bán qua đồng tiền Tròn Vuông, nghĩa là phải Trọn Vẹn (sòng phẳng), có Trời/Đất chứng giám, bởi vậy chẳng ai dám làm ô nhiễm môi trường. Năm nghìn năm trôi đi, trên cùng một mảnh “ruộng mật bờ xôi”, hột nếp trồng ra vẫn thơm dẻo như nếp gói bánh chưng thời Vua Hùng. Đất Nước Rừng vàng Biển bạc là câu người Việt chỉ xứ sở mình với nghĩa chính yếu là “Môi trường sinh thái cân bằng còn nguyên rừng , nguyên biển, là cái quí báu nhất sánh ngang bạc, ngang vàng”. Văn minh công nghiệp chắc không cần ý đó nên ngày nay người ta có thể qui hoạch hoành tráng cho dân cả một quận sống trong chỉ một chung cư vĩ đại cao mấy trăm tầng (sống như những robot), toàn bộ nước thải sẽ dùng công nghệ đắt tiền xử lý lại trở thành nước uống. Những người không hiểu nghĩa chính yếu vừa nêu của câu “Đất Nước Rừng vàng Biển bạc” thì chê bai rằng: Nước ta tài nguyên ít ỏi, khai thác đã gần cạn kiệt, còn đâu mà cứ dạy trẻ con ca tụng mãi câu “Đất nước rừng vàng biển bạc”. Nghĩ như họ là do họ có thói ăn sẵn, họ có thể vô cảm qui hoạch lấy cát san lấp ruộng mật bờ xôi để làm khu công nghiệp hay sân gôn, mà không chọn những nơi sỏi đá vì sợ tốn công san ủi. Tư duy ăn sẵn vốn có xuất xứ từ dân du mục cổ đại phương Bắc, chứ không phải xuất xứ từ dân nông nghiệp trồng trọt cổ đại phương Nam. Nôi khái niệm của nước là: Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đen=Đác=Nác=Nước=Nam=Nậm=Lầm=Thâm =Thủy. Chữ Đức 德 vốn là nước (là “tức” trong tiếng Khơ Me). Đức=Đủ=Đầy=Đẩy (là bản chất cái Năng của nước). Cái Tế Vi , lướt “Tế Vi”=Tí . Cái Tí của Vũ Trụ đã theo QT Nở mà thành cặp đối Dương/Âm là Tá/Té (=Hỏa/Thủy), cũng như cái Năng của Vũ Trụ đã theo QT Nở mà thành cặp đối Nắng/Nước (Nắng=Nướng=Dương; Nước=Nậm=Âm). Con người là một tiểu Vũ Trụ, nên cái Năng trong cơ thể cũng là một năng lượng vô hình như cái Năng của Vũ Trụ, nó vô hình vì Năng= Chăng = Khăng = Không. Trong cơ thể thì cái Năng này có phải là cái Khí như đông y gọi ? Khăng=Không nên Khăng+Khăng=0+0=1 theo thuật toán nhị phân, đúng như lướt từ lặp “Khăng Khăng”=Khẳng, đúng dấu theo thuật toán nhị phân 0+0=1, là khẳng định . (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 giải thích Khẳng 肯là có, nhưng coi là “từ Hán-Việt, trang 201). Từ lặp là nhằm mục đích nhấn ý “nhiều” cho nghĩa của từ được lặp, VD : người người là nhiều người. Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, theo đúng QT Biến thanh điệu phù hợp thuật toán nhị phân (0+0=1, 1+1=0, 0+1=1, 1+0=1). Thanh điệu nhóm 0 là “không”, “ngã”, “nặng”. Thanh điệu nhóm 1 là “sắc”, “hỏi”, “huyền” ) bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bằng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều” = Nhiêu 饒, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài” = Ngoại 外, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Từ điển Yếu tố Hán-Việt Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 trong Lời nói đầu có nói: “Quá trình giao lưu ngôn ngữ đã lưu lại trong tiếng Việt một khối lượng lớn từ ngữ gốc Hán, mà các nhà Việt ngữ học thường gọi là từ Hán-Việt. Các tài liệu nghiên cứu cho biết khoảng 60% vốn từ tiếng Việt hiện đại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Ở nhiều lĩnh vực khác như Chính trị, Kinh tế, Luật pháp tỉ lệ này còn cao hơn (70-80%)”. Phân tích từ: Từ Ngoại Giao , Ngoại là “nhiều ngoài” do lướt từ lặp “Ngoài Ngoài” = Ngoại, 1+1=0 , Giao=Trao là sự trao đổi, như nói “trao đổi công hàm”. Kết cấu ngữ pháp Ngược thì dùng từ Ngoại Giao. Kết cấu ngữ pháp Xuôi thì dùng từ Trao Ngoại, tức trao đổi với nhiều ngoài, nếu chỉ với một đối tác cụ thể, có thể dùng Trao Ngoài. Từ Trao Ngoại quả là thật chính xác như đã dẫn (lại còn phù hợp với cụm từ Trao Đổi công hàm), khi đó lướt “Trao Ngoại” =Trái=Phải=Trải=Trời (theo dấu thanh điệu thì tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái minh bạch phải trái, trải theo theo thời gian). Nếu dùng theo ngữ pháp Ngược thì là từ Ngoại Giao, khi đó lướt sẽ cho ra kết quả duy nhất không thể khác được , là lướt “Ngoại Giao”= Ngáo = Láo = Tráo = Đảo (theo dấu thanh điệu tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái dọa dẫm ngáo ộp lắt léo tráo trở thì đổ). Ngôn từ và Qui Tắc tạo từ tiếng Việt nó làm thành như thế đấy. Các nhà thơ còn tự tạo ra từ mới bằng cách dùng nói lái để nói xỏ, ví dụ từ “lộn lèo” của cụ Nguyễn Khuyến, từ cũ của nó là “lộn tùng phèo” tức là “lộn xộn đi cùng cái phèo (lòng lợn khi mổ bụng nó ra)- khi mổ bụng lợn ra thì ruột nó “Phòi Theo”=Phèo”,1+0=1; “lộn tùng phèo” lái lại là “lẹo tùng phồn” tức “lẹo đi cùng phồn thực”. Từ Luật 律 chẳng qua nó cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra”, gốc của nó là cái Lạt dang để buộc bánh chưng (thành ngữ “Lạt mềm buộc Chặt”=Luật). Lạt ấy qua luộc (tương đương với “luận”, phê bình kiểm điểm nhau người ta còn gọi là “luộc nhau”) Chín rồi thì nó thành Lạt Chín, mềm dẻo hơn; Lạt Chín=Luật Chính, ngữ pháp ngược thì gọi Luật Chính là Chính Luật. Gọi là Chín vì thời cổ đại trong khi nhiều tộc khác còn ăn sống thì đại tộc Việt đã có văn minh biết ăn chín uống sôi, ăn uống đều gọi chung là In ( thành ngữ “nhớ như In”). “Cho In”=Chín, 0+0=1. Chín đến hoàn hảo gọi là “Chín Kinh”=Chính, 1+0=1. Từ Luật Chính mà lần trở lại khi đang còn “gia công” thì nó là “Cho In Chín Kinh”, hiểu nghĩa đen là: “Cho ăn uống chín như người Kinh” ; hiểu nghĩa bóng là “hãy nhớ Cho như In cái Chín Cung của người Kinh”. Kinh là tộc đông dân nhất trong đại tộc Việt cổ đại từ thời Kinh Dương Vương, gọi là Kinh Chúng; Kinh Chúng lái lại là Cung Chính, cái cửu cung (nhắc nhớ trên cái bánh chưng) phải là chính nguyên gốc như tổ tiên người Việt đã làm ra nó thì mới ứng dụng đúng, làm đảo lộn đi, sinh ra nhiều trường phái, cãi nhau (“tranh minh 爭 鳴” rất hùng biện) mấy ngàn năm nay mà ứng dụng vẫn sai. Luật Chính nó đúng là “từ Ruộng mà Ra”, từ cái Lạt Chín của bánh chưng mà thôi, theo Ngược thì sai bét cả. Trong từ đôi Nhiều Nhặn (Việt nho viết bằng chữ Nhiêu Nhiên 饒 然) thì Nhặn nặng ý “nhiều” hơn là Nhiều. Chín Nhặn là chín nhiều, lướt “Chín Nhặn”=Chắn, 1+0=1, Chắn nặng ý “chín” hơn là Chín, ghép thành từ đôi Chín Chắn ( người trưởng thành thì đến độ Chín Chắn). Chín cũng là con số 9. Trùng âm nhưng cũng là do có quan hệ ý nghĩa. Gọi là hệ số thập phân có con số 10 là khi số học đã có dùng số 0. Thời cổ đại để đếm thì chỉ đếm từ 1 đến 9 rồi quay vòng lại số 1 (Khơ Me chỉ đếm đến số 5 rồi quay lại số 1, gọi là hệ ngũ phân). Cho nên đếm đến 9 là xong, là hoàn hảo, “gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao” là quí nhất, vàng còn đòi tới bốn số Chín mới coi là vàng Chắn (ngược lại chỉ là vàng Chành tức vàng giả,vàng tây). Kéo quả cân cho đến vạch mà cán cân thăng bằng nhất , tức đã đúng trọng lượng vật cân thì gọi là Chấn Cân . Khi bán hàng mà phải cân thì hai người bán và mua cùng coi cân để xem đã Chấn Cân chưa, hai người cùng chứng giám cái Chấn đó thì là “Chấn Chấn”=Chân 真,1+1=0, đó là sự cân bằng hoàn hảo (rồi dùng ghép thành từ Chân Thật, có Chân thì mới là bán Thật thà, ngành tư pháp còn dùng cái cân làm biểu tượng ngành). Khi đã có cái “thành phẩm” từ là từ Chân 真(bản thân nó vẽ cũng cân đối khi bổ đôi theo chiều dọc) chỉ sự cân bằng hoàn hảo thì người ta chỉ dùng từ Chân 真 mà “qua cầu rút ván” cái “phôi gia công” đang là cái “sản phẩm dở dang” là Chấn Chấn. Chữ Cân 巾 của Việt nho để chỉ cái Cân 巾, cũng đại diện cho cái Khăn 巾, vì khăn đội trên đầu của đàn ông, đàn bà người Việt hay người Chăm đều rất cân đối (nhìn cái khăn mỏ quạ của người quan họ thì rõ, đến mái tóc con gái còn rẽ đường ngôi giữa. Người Hãn cổ đại du mục đội mũ lông cừu chứ không có cái kiểu khăn đó, trong khi người Việt lúc đó đã biết ươm tơ dệt lụa, thương lái bán sang cho cả xứ Ả Rập. Để mà “hầu hết” nói rằng chữ Cân là “từ Hán-Việt”, rồi người Việt mới biết đặt tên cho cái khăn (?). “Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của từ tiếng Việt” ! ? ). Hán ngữ dùng chữ Xứng 稱 là chữ sau trong từ đôi Cân Xứng để gọi cái cân, phát âm là “chen”. Hán ngữ không có từ Cân Xứng. Vậy chữ Xứng 稱 cũng là từ Việt, có nghĩa như Cân, để ghép thành từ đôi Cân Xứng. Chữ Xứng 稱 này cũng là chữ Xưng 稱, hai người đối thoại cùng Xưng thì “Xưng Xưng”=Xứng , 0+0=1, nghĩa đen là bằng nhau , không ai cướp lời ai (thành ngữ “xứng đôi vừa lứa”) , còn nếu một bên lấn át bên kia thì gọi là Xưng Xỉa. Cân 巾 Bằng 平Kinh 京 - Cân = Kinh, (nhìn ba chữ của Việt nho thấy nó vẽ nên sự cân bằng như thế nào). Khen “món ăn này ngon kinh” tức món ăn này ngon đến độ hài hòa cân bằng do nêm nếm chứ không phải là ngon đến mức “kinh tởm”. Hán ngữ dùng chữ Cân 巾chỉ cái khăn, phát âm là “jin”, còn thì không hiểu cân là cân bằng, ý “cân bằng” Hán ngữ dùng chữ Bình 平, hay Bình Hành平 衡. Nhưng từ Bình cũng vẫn là từ Việt, “Bằng 平 Kinh 京” = Bình 平,1+1=0 (chẳng phải là ba chữ này đều vẽ cân bằng đó sao?). Kinh 京 sở dĩ cân bằng vì đường kinh mạch trong cơ thể chia dọc cơ thể là đối xứng cân bằng. Hán ngữ lại dùng chữ Kinh 經 là đường kinh (sợi dọc) trong dệt vải để gọi kinh mạch, chúng lấy cái gì làm trục để mà đối xứng ? Kinh 京 và Kinh 經 nguyên thủy đều chỉ là từ cái âm Kinh Lạch chỉ những dòng nước chảy dài trên đồng ruộng lúa nước của người Việt, cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra”. Kinh Lạch=Kinh Lạc, là đã mượn âm, nâng nghĩa khoa học thành để chỉ hệ thống mạch kinh lạc trong cơ thể (GS Nguyễn Tài Thu nói: “Châm cứu đã được người Việt phát minh và ứng dụng từ thời Thần Nông, lúc đó kim châm cứu là mài chuốt bằng đá”). Cân để biết trọng lượng một vật mà đến Chấn vạch trên cán cân cho cân bằng là Kịch=Cực, quá nữa thì dư, dư thì bán lỗ. Số 9 đã chỉ rõ vị trí địa lý của nước Tần theo Dịch học của người Việt là ở tận phía Tây của đất Việt, đến đó là Chấn rồi, “Tây Chấn”= Tần 秦, 0+1=1, là cái tên mà người Việt đặt để gọi nước đó. Vì vị trí địa lý của Tần ở số Chín theo Dịch học của người Việt, nên người Việt cũng gọi nó là nước Chín (Hán ngữ phát âm là “chín”- pinyin “qín”, nhưng âm tiết “qín” này trong Hán ngữ không có nghĩa là số 9). Từ Chín này người Ấn Độ phiên âm là China, phương Tây cũng theo đó gọi là China. Xưa đồ sứ Giang Tây của người Việt bán sang phương Tây khi người phương Tây còn chưa biết đến làm men sứ, cho nên phương Tây gọi đồ sứ là “china”. Từ Ơi nghĩa là cái tín hiệu gọi đối tượng đến với mình. Hán ngữ không có từ Ơi tín hiệu này, nhưng ở các ngôn ngữ của Việt Nam, Cam Pu Chia, Lào , Thái Lan thì từ Ơi dùng hàng ngày. Nguyên thủy nó là từ Ời của Tiếng Việt, lặp thì là Ời Ời (như câu ca dao cổ: “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa van cha ời ời. Cha thì cắt cỏ trên trời. Mẹ thì cưỡi ngựa đi mời quan lang”), lướt thì “Ời Ời”=Ơi, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Ơi là muốn đưa về mình, nôi khái niệm đó là Mời=Ơi=Ăn=Uống=Ẩm=In=Ấn=Nhấn=Nhận=Nhồi=Nhét=Nhịn=Kin (là ăn, uống của tiếng Tày Thái)=Nín=Xin=Thín=Thỉnh 請 của cái nôi khái niệm chung là “đưa vào mình”. (Nhặn là nhiều, cặp đối Nhặn/Nhẵn, Nhẵn là không còn gì, Nhẵn Thín là “không còn gì đưa vào mình” nữa, “ăn hết nhẵn thín rồi”). Hán ngữ dùng từ Thỉnh 請 với nghĩa là đưa về mình, tức là Mời=Ơi. Nói lịch sự thì dùng từ đôi để nhấn mạnh ý là từ Xin Mời, hoặc dùng từ lặp Mời Mời, lướt thì “Mời Mời”= Mơi, đúng dấu 1+1=0 của thuật toán nhị phân. (Từ điển đã dẫn giải thích Thỉnh 請 là một từ Hán-Việt”). Người Thái đã mượn cái từ Mơi lịch sự này nên người Việt nhường hẳn từ đó cho người Thái, tiếng Thái nói Mơi nghĩa là Mời. Người Việt hay Mời, có ăn thì “Mời khắp Sóc” = “Mời…Sóc” = Mọc, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Thành từ đôi Mời Mọc nghĩa là hay mời, đó là cái quan hệ tình làng nghĩa xóm của dân ăn trầu, “ăn ở với nhau như đọi nước đầy”. Sóc là một từ Việt cổ dùng chỉ cụm dân cư nhỏ ở rải rác (vẫn còn dùng trong tiếng Khơ Me). Sóc=Hóc=Ngóc=Chóc=Chòm=Xóm=Thom=Thôn 村= (Hán ngữ phát âm lơ lớ “xun 村” để gọi cái Xóm, vì không phát âm được những âm ngậm). Ở thành cụm dân cư hẻo lánh thì gọi là ở Chóc Ngóc, hay ở Hóc Bò Tó. Dân ở “Thành Xóm” = Thom, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân . Nhiều Thom thì dùng từ lặp “Thom Thom”=Thỏm, 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân, Thỏm tức lọt thỏm vào đâu đó, rất rải rác. Ở thành Xóm , Thom tức rất rải rác nên Sóc=Sưa=Sót=Lọt=Lạc 落. Chữ Thôn Lạc 村 落 của người Việt là chữ mà Hán ngữ mượn dùng, phát âm lơ lớ là “xun lua 村 落” để chỉ Xóm Sóc. Lớn hơn đơn vị Xóm Sóc thì người Việt gọi là Làng. Làng=Hạng 巷 (con hẻm)=Hương 郷. Đơn vị dân cư cấp cơ sở mà Hán ngữ dùng đều là của Tiếng Việt. Dân thì thường gọi từ cấp nhỏ lên cấp to hơn là: Xóm, Làng, Xã, Tổng. Quan thì hay gọi từ cấp trên xuống theo lộ trình đi kinh lý của quan là : Tổng, Xã, Làng , Xóm, nho viết Làng Xóm bằng chữ Hương Thôn 鄉 村. Muốn gọi lại với mình, tức Muốn Ơi, mà lướt thì “Muốn Ơi”= Mời, dấu 1+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Muốn có của cải tức Muốn Của thì lướt “Muốn Của” = Mua, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, (Muốn Của=Mua , đẳng thức này nói lên rằng từ trong tư duy, người Việt rất sòng phẳng); và lướt cả câu “Muốn có của Cải”= “Muốn… Cải” = Mãi 買, 1+1=0. Từ Mãi 買 này nó là một từ gốc Việt , Hán ngữ mượn của Việt để dùng với nghĩa là mua, phát âm là “mải 買”. Mua nhiều thì dùng từ lặp là Mua Mua, lướt thì “Mua Mua” = Múa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Hoạt động mua nhiều của thương nhân là lướt cả câu “Múa đi bán Lái”= “Múa…Lái” = Mại 賣, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, Lái đây là Lái Buôn, là Thương Lái. “Múa đi bán Lái” nghĩa là “Mua nhiều rồi đi bán cho Thương Lái”. Thương Lái là gọi tắt cụm từ “Thương hồ lái buôn”, người Việt cổ đại là đi buôn bằng phương tiện thuyền bè, “thương hồ” chỉ xuồng đi sông biển (Xuồng=Thuồng=Thương=Thuyền, nó giống như con Thuồng Luồng đi trên nước), phải lái xuồng đi buôn nên gọi là “lái buôn”. Xuồng=Thương mới là người chủ, Lái chỉ là thằng hai làm thuê cho chủ Xuồng. Thương Mại là từ Việt, có nghĩa là cái hoạt động “Thương hồ mua nhiều (múa) rồi đi bán cho lái buôn khác”. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 253, từ Mãi 買là mua, từ Mại 賣là bán, là “từ Hán-Việt” ! ?). Hán ngữ mượn chữ rồi ghép lại thành từ Mãi Mại 買 賣 để nói ý Mua Bán, dùng chữ Mại chỉ với ý là bán thì làm sao đủ ý như từ Mại 賣 vốn là của Tiếng Việt được, làm sao họ giải thích được nghề Thương Mại là cả mua và bán? Lùi về “cổ Hán ngữ” thì còn thấy từ Bán của Tiếng Việt, viết bằng chữ nho Phán 販 ; Hán hóa ngữ pháp thì có từ ghép Tiểu Phán 小 販 chỉ người bán nhỏ; còn Buôn thì vì Hán ngữ không có vần “uôn” nên phải ghép hai chữ là chữ Bán 販 và chữ Mại 賣 để chỉ ý Buôn, đó là chữ “Pán Mại 販 賣”. Trong kinh doanh,Tiếng Việt đã chỉ rõ: Thằng Một là thằng Mua (Một=Mua) tức người tiêu dùng là ưu tiên số Một, là thượng đế. Thằng Hai là thằng Lái (Hai=Lái), là Lái xuồng cho chủ buôn, tức hệ thống giao thông. Thằng Ba là thằng Buôn (Ba=Buôn), tức hệ thống đại lý. Thằng Bốn là thằng Bổn (Bốn=Bổn), tức thằng có Vốn để sản xuất ra hàng hóa. Chữ Bốn=Bổn=Vốn là người Việt ám chỉ “cái bốn cạnh” tức cái Vuông, nó có thể là Ruộng (“thế chấp sổ đỏ”), nó có thể là đồng tiền lỗ Vuông. Bốn là con số nói lên sự Vẹn như Vuông của lỗ đồng tiền. Qua bốn con số Một, Hai, Ba, Bốn đủ hình dung được mạng lưới kinh doanh: Tức là muốn kinh doanh thì thứ Một là nắm nhu cầu người tiêu dùng, thứ Hai là hình dung mạng lưới phân phối bằng đuờng sông hay đường bộ, thứ Ba là nắm các đại lý để họ buôn hàng của mình, thứ Bốn mới là quyết định dồn vốn để sản xuất cái gì. Từ thời cổ đại người Việt đã biết làm kinh doanh như vậy nên trống đồng đã có bán khắp nơi từ ba nghìn năm trước. Khi ấy người Hán phương Bắc chưa vượt được qua sông Dương Tử (Dòng Cả) để mà “nam hạ”. Trong khi thời tiền sử, người Việt đã khai thác nông nghiệp Ruộng Vuông đến tận hạ du, trung du Hoàng Hà, đến thời Xuân Thu gọi là Bách Việt. Đến chữ Thỉnh 請nghĩa là mời mà Hán ngữ còn phải mượn của tiếng Việt (phát âm lơ lớ là “xỉng”), trong khi người Kinh (dòng Lạc Long) và người Thái (dòng Âu Cơ) đã chia sẻ nhau từ Mời hàng vạn năm trước, như tiếng đầu lưỡi của dân ăn trầu (“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, nôi khái niệm cho cái hồn của câu này là: Tiếng=Miệng=Miếng=Mời, người Việt khi ăn cơm đều nói “Mời” hoặc “Xin Mời” với người cùng mâm). Mua nhiều tức lặp Mua Mua, khi lướt còn có một đáp số nữa là lướt “Mua Mua”= Mùa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Cái đẳng thức lướt này cho thấy rõ ràng người Việt có thái độ sòng phẳng cả với đất và nước chứ không phải thái độ cướp bóc, có đổ mồ hôi và phân bón cho cây và đất mới có thu hoạch kết quả của cây trồng đại trà là Mùa, đó là Mùa lúa, Mùa bưởi, Mùa cam v.v. Sự thu hoạch (củ và quả) của nông nghiệp trồng trọt là Mùa=Vua=Vụ=Củ=Quả=Của=Của-Cải=Quý 貴, chữ Qúi đây là quí báu, Mùa là một sự quí báu, con người phải biết quí của cải do mình đổ công sức làm ra. Nhưng Mùa Vụ cũng chiếm thời gian, thường là ba tháng cho một vụ hoa màu nên Mùa=Của=Qúi 季 , chữ Qúi này là một quí thời gian bằng ba tháng, nhưng nó cũng mang nghĩa là phải quí thời gian đã cho một Mùa thu hoạch. Hán ngữ mượn cả hai chữ này nhưng lại không hiểu ý tứ Việt trong liên hệ của hai chữ Qúi 貴 và Qúi 季, nên chữ Qúi 貴(quí báu của cải do một Mùa làm ra) thì phát âm là “quây”- pinyin “gui”, còn chữ Qúi 季( quí báu cái thời gian ba tháng dành cho một Mùa hoa màu) thì phát âm là “chì”- pinyin “ji” , khái niệm “Mùa của hoa màu” và khái niệm “ba tháng thời gian” đều chỉ dùng có một chữ “Chì 季” là quí ba tháng, ví dụ mùa lê thì gọi là “lê quí” . Các nhà Quốc ngữ của VN rất hiểu hai chữ nho Qúy 貴 báu và Qúi 季 thời gian của Việt nho nên đã qui định viết Qúy báu bằng y dài vì của cải thì phải đổ mồ hôi lâu dài mới có), còn Qúi thời gian bằng i ngắn. (vì thời gian thì bao giờ cũng là trôi qua rất nhanh nên phải quí nó). Sau, gần đây “cải cách chữ viết” qui định dùng i ngắn tất cho nó tiện dụng chứ không cần Trọng Nghĩa như người xưa, cho nên chữ Lý Luận có thể viết là “ní nuận”, không cần cái thâm ý là muốn có Lý phải đi tìm tòi rất lâu dài mới ra được chân lý. Mùa=Vua=Vụ nên còn có từ đôi Mùa Vụ, gọi là Mùa thu hoạch hay gọi là Vụ thu hoạch đều được. (Diễn biến âm này cũng giống như Mần=Vận=Vụ務 là làm nhiệm vụ, làm là phải vận động chân tay hoặc trí não, người Nhật đọc chữ Vụ 務 này là “Màn”= Mần). Từ cái nôi Mùa=Của=Qúi 季 thấy rõ rằng hoạt động nông nghiệp trồng trọt của người Việt cổ đại đã đẻ ra lịch thời gian, mùa thu hoạch đã cho ra từ Qúi 季 để chỉ 3 tháng một, một năm chia thành 4 quí, đồng thời hàm ý là quí cái thời gian. Hán ngữ mượn chữ Qúi 季 này để chỉ 4 quí trong năm, cũng dùng luôn chữ Qúi 季 này để chỉ Mùa của cây trồng, ví dụ mùa thu hoạch lê thì Hán ngữ gọi là “lê 梨 quí 季”, chứng tỏ cái nông nghiệp trồng trọt của họ có sau của người Việt mấy ngàn năm. Quả Bí Đỏ còn gọi là Bí Ngô. Nước Ngô xưa ám chỉ là Nước Đỏ của dân Kẻ Lửa=Quẻ Ly là người phương Nam, theo Dịch học. Người Hán gọi quả bí đỏ là “nam 南 qua 瓜” tức loại dưa của người Nam. Cổ đại , tộc Việt là dân Lửa, ở nhà sàn. Kẻ Lửa=Quẻ Ly. Nhìn quẻ Ly cũng giống hình tượng trưng cái nhà sàn: dưới là một kẻ kín như cái nền nhà, trên là một kẻ kín như cái mái nhà, giữa là kẻ hở tượng trưng sàn nhà (vì ghép bằng nứa hay gỗ nên không thể kín đến độ nước không rò được. Đồng bào Tày gọi kiểu nhà sàn có bếp lửa đặt giữa sàn là “nhà quẻ Ly”. Thời Tam Quốc ba nước Ngụy , Thục, Ngô thì nước Ngụy là của Hán tộc, Thục và Ngô là gốc Việt. Ly=Lý=Lê=Lò=Lô=Lữ=Lâm v.v. vốn là dân Kẻ Lửa của phương Nam. Tộc phả của TQ ghi họ Lê có gốc thủy tổ là ở ấp Kinh Triệu (Thiểm Tây, đất gốc của nhà Tần). Nhưng người họ Lê ở TQ tập trung đông nhất lại là ở vùng Lĩnh Nam. Nhiều bạn mạng TQ cãi lại rằng: “Họ Lê là đặc trưng nhất cho người phương Nam từ vóc dáng, da dẻ đến khuôn mặt, là đặc trưng của dân lúa nước nên không thể thủy tổ ở Thiểm Tây được, có thể cổ đại có ông họ Lê nào đó làm quan to cho nhà Tần ở Thiểm Tây (cũng giống như Lý Ông Trọng là người Việt làm tướng cho nhà Tần- Chuyện “Lý Ông Trọng” trong Lĩnh Nam Chích Quái). Gia phả các họ thường qui về một danh nhân nào đó tôn làm thủy tổ cho có danh giá, nên gia phả cũng không đáng tin, vì không tìm rõ đến tận cội nguồn”. Phả của tộc Trung Hoa lại viết thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là ông Hoàng Đế, ông Hoàng Đế đẻ ra ông Đế Thần Nông, ông Đế Thần Nông đẻ ra ông Thiếu Hạo… cứ thế liên tục một mạch sinh ra bách tính của dân tộc Trung Hoa liên tục 5000 năm. Đọc nghe thấy quá “pha học”. Nếu tôi dịch bài trên mạng internet “Tổng hợp các bài văn tế Hoàng Đế tại lăng Hoàng Đế ở Thiểm Tây” của các lãnh tụ và lương dân TQ từ cổ chí kim thì sẽ được một cuốn sách hay, những bài thơ, phú tuyệt đẹp về văn học. Nhưng “ông” Hoàng Đế là “ông” Đế Hoàng= “ông” Đế Vàng = ”ông” Nước Vàng, lại là của người Việt như Dịch học chỉ rõ, mà màu Vàng ấy là ở Trong Cung = trung “quốc” = Trong “của Nước”, đó là đất Giữa, là Chỗ Giữa = Chỗ Giao, mà Hán ngữ theo ngữ pháp của họ đã viết Ngược là Giao Chỉ. Tóm lại để cho tiện thì ngắn gọn gọi ngữ pháp Hán là Ngược, ngữ pháp Việt là Xuôi. Do nhiều từ, nhất là các từ ghép, dùng cái Ngược áp đặt vào Tiếng Việt , nên mới bị gọi là “từ Hán Việt” . Nhưng Xuôi=Chuôi=Chắc, vì vậy dựa vào Tiếng Việt thì sẽ tìm được từ nguyên của ngôn từ Hán là trong “cổ Hán ngữ”, mà từ nguyên của “cổ Hán ngữ “ lại là trong Tiếng Việt. Ví dụ Trăng là chỉ hành tinh, Nguyệt là chỉ cái sáng của hành tinh đó, vì ánh sáng thì như nhau: Trăng=Trời=Ngời=Nguyệt. Hán ngữ mượn chữ Nguyệt 月để chỉ trăng, viết ngược Trăng Sáng là Minh 明 Nguyệt 月, còn khẩu ngữ dân gian gốc Việt trên đất TQ vẫn nói theo xuôi là Nguyệt 月 Lượng 亮 ( do Nguyệt Sáng = Nguyệt Láng = Nguyệt Lượng 月亮). Văn minh nhân loại bắt đầu từ văn minh nông nghiệp trồng trọt, khi con người bắt đầu khai thác lớp thổ nhưỡng bề mặt của Trái (Trái=Tròn). Nền văn minh Việt, nền văn minh sông Nin, nền văn minh sông Hằng đều thế cả. Khi Trái ( là có Trước như Trời, Trăng) còn nguyên sơ, gọi cây là Mọc, giống như mặt trời cũng mọc. Mọc=Mộc 木 (Thuyết Văn Giải Tự giải thích chữ Mộc 木 là: chui từ đất lên – tức là Mọc !) gọi thổ nhưỡng là Thó. Thó=Thổ. Khi biết khai thác bề mặt của Trái để Trồng Trọt là lúc con người bắt đầu ra tay. “Ra Tay”=Rấy, “0+0”=1, nhiều Rẩy thì gọi bằng từ lặp Rẩy Rẩy. “Rẩy Rẩy”=Rẫy, đó là thời đốt cỏ, chọc lỗ, trỉa hột. Đến khi biết làm lúa nước thì biết Đắp bờ giữ Đác làm thành “Rẩy Vuông”=Ruống”, 1+0=1. Nhiều Ruống thì “Ruống Ruống”=Ruộng, “1+1”=0. (Những từ như Rẩy, Ruống là những từ trong quá trình “gia công dở dang”, trong sản xuất thì gọi là “sản phẩm dở dang”, vì vậy nó không xuất hiện nữa trong ngôn ngữ thường dùng). Ruộng=Vuông. Do phải đắp bờ giữ Đác làm lúa nước trên bề mặt của Trái nên mới gọi Trái là Đất (hàm ý đã có khai thác thành Ruộng Vuông), tác động để giữ được Đác trên Đất là Đào, Đắp. Đất đã có Ruộng Vuông nên ví Đất là Vuông (hình tượng bánh chưng Nền Nếp Vuông, hình tượng Yoni bằng đá Vuông). Từ đó có từ đôi Trái Đất (có xưa mới có nay), cũng giống như có Tổ mới có Tôi, có Họ mới có Tên, viết Họ trước Tên sau theo ngữ pháp Xuôi (Hán ngữ cũng viết Họ trước tên sau, trong khi ngữ pháp Hán ngữ là Ngược, như ngôn ngữ phương Tây, đáng lý phải viết Tên trước Họ sau như phương Tây). Từ đôi Đất Thó (có mẹ mới có con), sau , từ “đất thó” dùng chỉ tên riêng loại đất nguyên chất mịn màng lớp sâu dưới mặt ruộng không lẫn tí mùn nào, có thể dùng nặn đồ gốm, sâu nữa là lớp đất sét màu trắng có thể nặn đồ sứ. Dân nông nghiệp ham Ruộng nên ví Đất là Vuông. Ba tác nhân trên ruộng là Kẻ, Cây, Con (“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Kẻ cày, kẻ cấy, con trâu đi bừa”). Trồng Cây nên phải Cày, phải Cấy. Cây là Mọc từ Mầm hột nên chữ Mọc=Mộc 木 đại diện cho Cây, người Nhật đọc chữ Mộc 木 này là Ki với nghĩa của Nhật ngữ là “cây”. Kẻ, Cây, Con là ba tác nhân trên Ruộng. Các làng Việt đều có tên với chữ đầu là Kẻ. Tình yêu thiên nhiên là thái độ sòng phẳng của Kẻ Việt đối với Đất, Nước, Cây, Con : có Mua nhiều thì mới được Mùa (“Mua Mua”=Mùa, 0+0=1), Mua bằng đầu tư công sức và tiền bạc mới có được Mùa. Nền nông nghiệp của năm tác nhân Kẻ, Đất, Nước, Cây, Con dưới qui luật “thuận theo Trời” hình thành nên khái niệm Ngũ Hành. Trong văn minh nông nghiệp, Kẻ là chủ tể, rất sòng phẳng với bốn tác nhân kia, chứ không phải là thái độ ăn sẵn như thời nguyên thủy sống bằng hái lượm. Sòng phẳng ấy thể hiện bằng Nuôi bốn tác nhân kia và cả chính thân tâm mình: Nuông Cây, Nuôi Con, Nuôi Nuông Đất, Nuôi Nuông Nước, Dưỡng người và thân tâm mình (chung nôi khái niệm là: Nuôi=Nấng=Nâng=Niu=Nuông=Nương=Dưỡng). Đối với Đất và Nước thì phải Nuôi Nuông để giữ cho chúng được màu mỡ (Màu Mỡ=Giàu Có) và không bị ô nhiễm. Đối với Con thì phải Nuôi Nấng. Động vật như cá, gà, vịt thường có động tác “Nâng mồi rồi nuốt Xuôi”=Nuối, “0+0”=1. Gia súc gia cầm đều ăn nhiều, nên “Nuối Nuối”=Nuôi, 1+1=0. Thức ăn cho Nuôi gọi là Thức Nuôi (mà không cần phải dài dòng là “thức ăn chăn nuôi”. Đối với Cây thì phải Nuông Nương, vì Cây hấp thụ chậm chạp và đòi hỏi Chìu Chuộng và Nâng Niu (đỡ Cây đổ rạp khi gió lớn), các loại phân bón cho cây gọi chung là Thức Nuông. Đối với người (kể cả thân tâm mình thì phải Dưỡng bằng Thức Ăn). Người=Ngài=Ai=Ăn (“Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”). Người cũng ăn nhiều như động vật, nên “Ăn Ăn”=Ắn, “0+0”=1. Ắn cùng Rỡi với Cắn. Đói thì phải Ắn (ăn nhiều). “Phải Ắn” = Phạn 飯, 1+1=0, chữ Phạn 飯 nghĩa là Cơm, vì đói thì cái Phải Ắn nhiều là Cơm. (Người thừa dinh dưỡng thường ăn rất ít cơm). Người ăn còn biết vừa ăn vừa thưởng thức, tức thưởng ngợi các thức ăn, bình phẩm, hàm ơn, nên Ăn=Uống=In=Ẩm=Phẩm=Nhấm=Nhậu=Nhằn=Nhai=Lai Rai. Trong nôi khái niệm này từ In mới là từ gốc đầu tiên. In là đổ đầy cho cái khuôn dạ dày (làm bánh đổ khuôn cũng gọi là bánh In). Khi mổ con gà thì thấy rõ ràng thức ăn chứa trong cái Diều ( “Dạ chứa Nhiều”=Diều) của nó in hình khuôn cái diều của nó (từ đó mới sinh ra từ In của nghề in chữ từ bản khắc gỗ, In thì phải Ấn xuống nên gọi là In Ấn, Hán ngữ mượn chữ Ấn 印 này để gọi ngành in là Ấn Loát 印 刷. In dùng chung cho cả ăn và uống. In vốn là của Tày-Thái (dòng Âu Cơ). Chế độ mẫu hệ là có trước nên con biết nói theo mẹ trước, “ăn” nó gọi theo mẹ là In. Năm mươi con theo mẹ lên Rừng, đi về phía Tây tận hết vùng Đoài Miến, lướt “Đoài Miến”=Điện, “1+1”=0, nhiều vùng Điện là “Điện Điện”=Điền, “0+0”=1, tức Vân Nam về sau. (Vân Nam=Việt Nam, từ Việt Nam là có từ thời cổ đại, là tên chỉ địa phương của người Việt phương Nam, QT Tơi-Rỡi diễn biến âm ra vô cùng nhiều địa phương gọi là Việt Nam, song do đã biến âm nên chúng không bị trùng nhau. Ví dụ người Đài Loan gọi Việt Nam là “Oát Lâm”. Oát Lâm=Quát Lâm=Qúi Lâm=Quế Lâm – nơi có cột đồng Mã Viện, vậy Quế Lâm cũng là Việt Nam, căn cứ vào cái biến âm, không căn cứ vào cái chữ đã ghép Ngược là “rừng quế”. Việc lấy từ Việt Nam đặt tên nước là mãi sau này, thời Nguyễn, thay cho Đại Nam, Đại Việt, Đại Cồ Việt… Văn Lang). In là của dòng Âu Cơ, In là từ tổ, vì nó trực tiếp từ cái NÔI tổ mà ra, chữ I là bên Dương (Innegative), chữ N là bên Âm (negative). Nghĩa của In là “ăn uống”. In nghĩa chung là ăn uống, là từ cổ nhất của Việt, thể hiện trong câu đầu lưỡi “Nhớ như In” tức là nhớ như ăn uống ( hễ khát thì nhớ uống, hễ đói thì nhớ ăn, cái nhớ ấy là dễ nhớ nhất và lâu bền nhất ). Năm mươi con theo Lạc Long xuống biển là dòng Kinh-Mường, từ tổ In của mẹ Âu Cơ đã tách ra từ chi là Ăn riêng, Uống riêng. Đoài Miến vẫn giữ từ tổ là In chung cho “ăn uống”. Người Thái Lan dùng từ Kin chung cho ăn uống ( giống như Cắn cùng Rỡi với Ăn, Kin cùng Rỡi với In, Rỡi còn mang nghĩa là Ruột Rà. Người Thái Lan gọi uống nước là “Kin Nam”, ăn cơm là “Kin Khao”, tức ăn Gạo, người Việt gọi là ăn Cơm, người Nhật lại phát âm Cơm là Kô Mê chỉ gạo, nho viết bằng chữ Mễ 米, người Hán đọc chữ Mễ 米 là “mỉ” chỉ gạo. Ăn uống nhiều thì dùng từ lặp “In In”= Ỉn, 0+0=1 , vẫn nghĩa chung là ăn uống, con lợn nó ăn uống nhiều nên còn gọi nó là con Ỉn, giống lợn Ỉn vùng đồng bằng Bắc Bộ có lịch sử lâu đời hàng vạn năm (người Mỹ mua về Mỹ, nuôi trong nhà chung với người, sạch sẽ như nuôi chó, họ thích nó vì nó là giống gen quí). Ỉn=Ẩm ( QT Tơi-Rỡi, chúng có cái chung là “vắng tơi”) cũng vẫn là chung ăn uống. Ăm Thực thì mọi Thức tất cả là đều In vào dạ dày (nhiều Thức thì “Thức Thức”=Thực, 1+1=0). Người Việt Đông sau dùng chữ Ẩm 飲 chỉ nghĩa riêng là “uống” (Quan Thoại gọi uống bằng mượn từ Hớp nước của Việt, viết chữ nho là chữ Hát喝 , họ phát âm lơ lớ là “hưa”, vì tộc quan không có âm ngậm). Thức ăn nhiều thì “Thức Thức”=Thực 食, “1+1=0, Thực có nghĩa là rất nhiều thức ăn phong phú. Người Việt Đông sau dùng chữ Thực 食cho ý riêng là “ăn” , ám chỉ đã ăn thì phải nhiều thức ăn phong phú (Quan Thoại mượn chữ Cắn=Ăn=Ngắn=Ngật 吃 = Ngốn=Thôn 吞 – là thôn tính cái thức ăn - của Việt nho, gọi ăn bằng chữ Ngật 吃 phát âm là “sư”). Ẩm Thực 飲 食 rất xứng đáng đi kèm với từ văn hóa, là văn hóa ẩm thực, tức “Ăn Uống nhiều Thức”, không thể thay bằng “văn hóa ăn uống” được. Chửi nhau “ăn” nọ ăn kia, không hề có ai chửi “thực” nọ thực kia, vì Thực 食 trong tiếng Việt có nghĩa là “nhiều loại thức ăn phong phú”. Ẩm Thực 飲 食 sở dĩ là từ đẹp, lịch sự vì nó là từ gốc của Việt từ thời mẹ Âu Cơ, nó đẹp vì đã qua “gia công” nhiều lớp như đã dẫn ở trên bằng QT của Lãn Miên nêu, phù hợp với thuật toán nhị phân (số học nhị phân là do nhà bác học người Đức nêu ra từ thế kỷ 17, sau khi dã đọc Kinh Dịch, ngày nay thì các nhà khoa học nói “ toán nhị phân làm ra tương lai của nhân loại”). “Hầu hết” lại bảo từ Ẩm Thực 飲 食 là “từ Hán- Việt” (Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng Viên ngôn ngữ , NXB KHXH 1991, trang 19 giải thích Ẩm 飲 là uống, trang 402 giải thích Thực 食 là ăn. Nó chỉ đúng với tiếng Việt Đông ( tiếng Quảng Đông, TQ gọi là Việt ngữ 粵 語 chứ không phải là Hán ngữ 漢 語), không đúng với tiếng Việt Nam. Nếu Ẩm là uống , Thực là Ăn thì “du lịch ẩm thực” đổi lại là “du lịch ăn uống” cho nó “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt” ). Người Việt Đông dùng chữ Ẩm 飲 cho ý riêng “ăn”, và chữ Thực 食 cho ý riêng uống, nhưng vẫn hiểu hàm ý Ẩm Thực 飲 食 là “ăn uống nhiều thức phong phú”. Cho nên ẩm thực Quảng Châu nổi tiếng xưa nay. TQ có câu thành ngữ “Ăn Quảng Châu (ẩm thực phong phú), ở Hàng Châu (phong cảnh đẹp, đất Cối Kê xưa, nổi tiếng gái đẹp), chết Liễu Châu (nhiều gỗ tốt đóng quan tài đẹp). Sài Gòn có câu thành ngữ “Ăn quận năm (có thêm ẩm thực phong phú của người Hoa), nằm quận ba ( kiến trúc Pháp đẹp và qui hoạch Pháp phù hợp mật độ dân cư và hài hòa thiên nhiên). VN có câu thành ngữ “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”. Nhưng muốn ở nhà Tây cho đúng nghĩa sướng thì qui hoach phải hiểu tường tận câu Đất Nước Rừng vàng Biển bạc, tức phải ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt. Người Việt cổ đại đẻ con ra đặt nằm trong Nôi, Nôi đan bằng tre và mây, hình tròn như cái thúng, sau người ta vẫn có thói quen đặt con trong cái gùi tròn đeo sau lưng khi đi rẫy hay đặt con ngồi trong thúng gánh ra ruộng. Từ khi sinh ra đặt trong Nôi hình tròn , đứa trẻ sơ sinh đã hiểu rằng nó sống và lớn lên “thuận với Trời” ( Trời=Trụ=Chủ=Chúa, do đó mà có từ “Chúa Trời” ) và biết phân biệt Phải/Trái (Trời=Trải=Phải). Hán ngữ gọi cái Nôi là cái “yáo lán” tức cái “làn lắc” ý nghĩa của từ ấy chỉ là một đồ dùng cụ thể mà thôi. Các ngôn ngữ khác tôi không biết họ gọi bằng gì. Trời (Vũ Trụ) thì luôn luôn là Phải. ( “Lưới trời lồng lộng không sót một ai”). Trời/Trái chỉ là phản ánh hai mặt Dương/Âm. Nhưng khi đã là Trái Đất (do sự khai thác của con người) thì có thể xảy ra Đất hành động trái luật Trời. Nằm trong cái Nôi tròn, đứa trẻ sơ sinh bắt đầu hiểu ngữ pháp Xuôi của tiếng Việt, tư duy Xuôi (có Trời mới có Trái, có Trước mới có Trễ, có Tổ mới có Tôi, có Họ mới có Hô) , tức nhìn cái tổng thể trước rồi mới xác định được làm cái gì chi tiết, cụ thể. Đó là câu “Lý của người Việt là Nước”( GS Cao Xuân Huy). Nước khi rót vào chậu tròn, nó đã nhìn thấy cái tổng thể là cái chậu tròn ấy, và biết rằng nó phải theo cái khuôn tròn ấy; khi rót vào cái bể xây hình vuông, nó đã nhìn thấy cái tổng thể là bể vuông, và biết rằng nó phải theo cái khuôn vuông ấy. Tổng thể hay “đại cục” là luật quốc tế, là cái khuôn, thì Nước cũng phải biết rằng nó phải theo cái khuôn ấy. Trong Lời nói đầu của cuốn Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng, Viện ngôn ngữ, NXB KHXH HN 1991, có viết: “…. Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của từ tiếng Việt. Đó là các từ như: dân, số, đoàn, toán, vv…” Giải thích gốc Việt của mấy từ “như: dân, số, đoàn, toán”. Dân là từ thuần Việt.: Từ NÔI khái niệm mà để cho ra cái nôi nhỏ hơn là Nôi khái niệm “người” thì bắt đầu từ Ổ, là cái lõi của NÔI. Ổ=U=Ai (U chỉ mẹ, Ai là từ xuất hiện đầu tiên để chỉ người, rồi cũng dùng đó làm từ nhân xưng ngôi thứ hai ( “Ai đi có nhớ Ta chăng. Ta về ta nhớ hàm rằng ai cười”), sau mới có Ai=Ngài=Người. Nhiều người thì dùng từ lặp Người Người). Từ Ai là từ đầu tiên của tiếng Việt chỉ người, nhiều người thì dùng từ lặp là Ai Ai. Con của người thì lướt “Con của Ai”=Cái , 0+0+1, (sau dùng Cái riêng để gọi mẹ hoặc dùng Cái riêng để chỉ Gái; con gọi mẹ là U hay Cái) . Theo QT Tơi Rỡi, diễn tả sự biến âm của các từ cùng Nôi khái niệm “người”: U=Ai=Cái=Cả=Con=Cần (tiếng Tày)=Nhân人= Rấn 人(Hán ngữ hiện đại, “ren”)=Dân 民=Dằn (tiếng Quảng Đông)= Mằn (tiếng Quảng Đông)= Mín 民(Hán ngữ hiện đại, “mín”). Nhiều người thì dùng từ đôi : Nhân Dân (tiếng Việt)=Dằn Mằn (tiếng Quảng Đông, TQ gọi là Việt ngữ 粤 语)=Rấn Mín (Hán ngữ hiện đại, “ren min”). Nhân là người, Dân cũng là người, Nhân Dân là một từ đôi, nghĩa là nhiều người. Thẻ Căn Cước là “Căn cứ vào cái Cước- vân đầu ngón tay” để phân biệt cá nhân (Thẻ ID phân biệt cá nhân ). Hán ngữ gọi là Thẻ Thân phận chứng, cũng chính xác vì thân mỗi người khác nhau, phận mỗi người cũng khác nhau . Viện ngôn ngữ học đặt tên cho cái Thẻ căn cước là Thẻ “Chứng minh nhân dân” , nghĩa ngôn ngữ học là thẻ “chứng minh nhiều người” để cấp cho mỗi người. Số là một từ thuần Việt, trong Dịch học. (Hán ngữ hiện đại thì con số gọi là Số, đếm cũng gọi là Số). Chữ Đoàn là một từ thuần Việt: Bầy vịt khi về chỗ nhốt thì chúng cụm lại đông lắm, lướt “Đông Lắm”=Đám, 1+0=1. Nhưng khi đi ăn ngoài đồng thì chúng tan ra thành từng cụm nhỏ, lướt “Đám Tan”=Đàn, 1+0=1. Từng đàn rải rác ngoài đồng vậy mà cũng không loạn, lướt “Đàn không Loạn”=Đoàn, 1+1=0. Từ Đoàn trong tiếng Việt dùng chỉ riêng cho trường hợp có đông cá thể nhưng không rối loạn. Hán ngữ dùng từ Đoàn cho cả trường hợp có rối loạn, dùng từ Quần cho nghĩa của từ đôi “bầy đàn”. Nhưng Quần lại là từ Việt 100%, nó là từ nôi khái niệm Con=Quan=Quân chỉ cá thể người, nhiều người thì lướt “Quân Quân”=Quần, 0+0=1. Từ Quân của Việt, Hán ngữ phát âm là “Jun”, nếu nói nhiều “Jun” thì lặp là Jun Jun, rồi lướt thì “Jun Jun”=Jún , 0+0+1(làm sao thành Quần được? Và Hán ngữ lại không có cái âm “Jún” quái lạ này; Hán ngữ đọc chữ Quần là “Qún”). Chỉ có từ Việt thì mới lý giải được sự đúng trong tạo từ , có biến thanh điệu đúng với thuật toán nhị nhân . Nội điều đó cũng cho thấy từ Toán là một từ của Việt. Từ Quần là từ Việt chỉ đông người, còn từ Quần Chúng là từ đôi, chỉ ý rất đông người , là từ của tiếng Việt mà Hán ngữ mượn dùng mà thôi. Từ Chúng là do từ Chung, Chung là khi nói có vài người ở chung với nhau, nhiều cái chung ấy thì lặp là Chung Chung, lướt “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1, để nói ý nhiều người, nho viết bằng ghép ba chữ nhân với nhau để biểu ý đông người, đó là chữ Chúng 众. Hán ngữ có từ “tóng” để đọc chữ Đồng cho ý là “chung”. Nếu lặp cho ý nhiều và lướt thì “tóng tóng”= “tong”, 1+1=0, âm “tong” này trong Hán ngữ có nghĩa là “thông”, trong từ giao thông, làm sao ra được từ Chúng mà Hán ngữ phát âm là “zhòng” được?. [ Vậy là ở đây không hề có “từ Hán-Việt” ]. “Việt Nam cội nguồn Bách Việt” là cuốn sách của GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN xuất bản năm 1986, nay chưa thấy tái bản. Trong sách đó có nêu chữ vuông là chữ của người Việt. Bản thân ngôn từ của tiếng Việt là Lời (từ)=Láy (từ láy)=Lặp (từ lặp)=Lái (từ nói lái)=Lắp (từ ghép), Lóng (từ nói lóng)=Lưỡng (từ đôi)=Lộn (từ đối lộn ngược âm dương)=Lồng (từ lồng đảo vị trí). Với QT Tạo từ của tiếng Việt, đủ chứng minh tiếng Việt đã sinh ra ngôn ngữ Bách Việt (vẫn giữ nguyên ngữ pháp Xuôi), ngôn từ của ngôn ngữ Bách Việt là nền tảng của ngôn ngữ Quan Thoại (ngữ pháp đã đảo thành ngữ pháp Ngược, âm vận chỉ còn là lơ lớ , và rất nghèo âm vận). Vì cổ đại, nền văn minh nông nghiệp của phương Nam nó cao hơn nhiều so với văn minh du mục của phương Bắc, ngôn từ phong phú hơn. Làm nông thì phải “Trông Trời, trông Đất, trông Mây. Trông Mưa, trông Nắng, trông Ngày, trông Đêm. Trông cho Chân cứng, Đá mềm. Trời yên, Biển lặng mới yên tấm lòng. Coi sóc hết thảy Côn Trùng. Trên Cây, dưới Đất mới mong được Mùa”. “Quan tộc” (thiểu số thống trị, làm quan) đã phải từ bỏ ngôn từ của chính tộc mình là ngôn ngữ chắp dính, đa âm tiết để sử dụng ngôn từ của “Dân tộc” là ngôn ngữ đơn lập, đơn âm tiết, Quan chỉ giữ cái “sức mạnh mềm cốt lõi” là ngữ pháp Ngược của mình, dần dần biến ngôn ngữ Việt thành Quan Thoại. Khổng Tử nói : “Chúng ta phải học cái văn minh của phương Nam (Nhã ngữ - nho Nhã) là vậy. Việt Nam là cội nguồn của Bách Việt thì tiếng Việt là cội nguồn của ngôn ngữ Bách Việt. Mà ngôn từ của Bách Việt lại là nền tảng của ngôn từ trong tiếng Quan Thoại. Vậy phải tìm ngọn nguồn để xem có phải là “từ Hán-Việt” hay không. Dẫn một câu thành ngữ chỉ có ba từ của Tiếng Việt, là câu đầu lưỡi mà người VN thường nói là “Nhớ như In”. Từ In là từ gốc cổ, dùng chung cho ăn uống, ăn cũng gọi là In, uống cũng gọi là In. Thay cái Tơi “K” cho cái Tơi ‘Vắng tơi” của từ In thì được Kin, tiếng Thái Lan dùng từ Kin này chung cho ăn uống, “Kin Khao” là ăn Gạo, “Kin Nam” là uống nước. Nhưng In=Ẩm, đã thay Rỡi, hai từ còn cái chung là cùng “Vắng tơi”. Ẩm 飲 Thực 食 nghĩa là “Ăn Uống nhiều Thức”. Thực là do lướt từ lặp Thức Thức (nghĩa là nhiều Thức, như từ Ai Ai, Người Người), lướt “Thức Thức”=Thực食, 1+1=0. Người Việt Đông sau dùng chữ Ẩm 飲 cho nghĩa riêng là ăn, dùng chữ Thực 食 cho nghĩa riêng là uống. In=Kin=Ăm, đều là dùng chung cho ăn uống, nhưng chỉ có người Việt là có câu thành ngữ “Nhớ như In”. Người Việt là chủ của thuyết ADNH, nên từ In đã theo QT Nở mà tách đôi ra thành Ăn và Uống (đều có chung là cái “Vắng tơi”). Ăn mang tính dương ( ăn vào thì nóng người, “nam thực như hố, nữ thực như miu”). Uống mang tính âm (uống nước vào thì mát người). Vậy trong các hậu duệ của Bách Việt là Việt Nam, Việt Đông và Thái Lan, đâu là Tổ ? “Nhớ như In” chỉ có ở tiếng Việt, dễ nhớ và nhớ lâu suốt đời, vì con người ta hễ khát thì nhớ uống, hễ đói thì nhớ ăn. Từ In, chung cho ăn uống, khi mổ vịt thấy thức ăn tích đầy diều nó, lấy ra đúng hình cái khuôn là vỏ diều của nó. Do đó mà từ In sau nâng lên thành từ khoa học công nghệ, từ hàn lâm là từ chỉ cái nghề In Ắn, nho viết bằng một chữ Ân 印, vì In=Ấn, đã in là in nhiều, nên phải dùng từ đôi là In Ấn, Hán ngữ dùng hai chữ ghép là Ấn Loát 印 刷 để chỉ nghề In Ấn. Vậy cái Ấn 印của Hoàng Đế Trung Hoa là “từ Hán-Viết”? . Chữ Kin mà người Thái dùng có cái Rỡi cùng Ruột Rà với từ In của Việt. Ăn uống thì phải nhiều, nên Kin Kin mà lướt thì “Kin Kin” =Kín, 0+0=1, Kín là vì thức thức đã nuốt hết vào bụng. Quan Thoại dùng khác tiếng Việt Đông (gọi là Việt ngữ 粵 語), Quan Thoại dùng chữ Ngật 吃 cho ý ăn, phát âm là “sư”; dùng chữ Hát 喝 cho ý uống. phát âm là “hưa”. Nếu chỉ căn cứ vào cái phát âm của người Quan tộc (người Hán) thì khó tìm ra gốc gác vì nó chỉ lơ lớ ( Quan Thoại rất nghèo âm vận, không có các âm ngậm và âm tắc). Nhưng nếu căn cứ vào cái “âm mà người Việt đọc chữ nho của Việt” (vẫn đọc như vậy cho đến nay) thì sẽ thấy gốc Tổ của hai chữ Ngật 吃 và Hát 喝 là của tiếng Việt, QT Tơi-Rỡi trong tạo từ Việt đã chỉ rõ điều này: Ăn=Cắn=Ngắn=Ngật吃 =Ngốn=Thôn 吞 (thôn tính là dùng chữ nho thay cho từ ăn cướp) [ Ngôn từ Việt thì mỗi âm “tiết” là một “từ” có nghĩa, nó là danh từ hay động từ hay tính từ là khi nó ở vị trí chức năng của nó trong câu. Nói “cái này Ngắn” và “Hãy Ngắn cái này lại” đó là hai chức năng khác nhau của Ngắn. Khi Ăn thì phải Cắn để Ngắn cái mồi trước khi nuốt ]; Uống=Tuống=Tợp=Hớp=Hát 喝 (Tuống là một từ do lướt “Tọng xuống”=Tuống, sau khi đã tham gia làm phôi cho gia công xong rồi thì Tuống không còn xuất hiện trong ngôn ngữ thường dùng nữa. [ Nếu biết lấy cái âm tiết Tuống cũ kỹ này để tạo ra từ mới khác bằng lướt hay bằng ghép v.v. thì “quay lại như cũ lại thành ra đổi mới”, là sáng tạo]. Cái “âm mà người Việt đọc chữ nho” là có từ khi người Việt cổ đại bỏ dùng chữ khoa đẩu, làm ra chữ vuông. Cái “Vuông chữ nho nhỏ” đã theo QT Vo cổ xưa mà vò rụng âm tiết đầu là “vuông” và âm tiết sau là “nhỏ”, giữ lại cái lõi giữa còn hai âm tiết là “chữ nho”, là cách nói gọn của “vuông chữ nho nhỏ”. Ví dụ về QT Vo điển hình là từ XaCaNa của dân biển cổ đại răng đen ăn trầu là Nhật Bản, nghĩa là Cá. Người Việt đã dùng QT Vo mà vò (vo nhiều là “Vo Vo”=Vò, 0+0=1, vo lần một rụng âm tiết đầu, vo lần hai rụng âm tiết đuôi) rụng đầu rụng đuôi còn lõi giữa là Ca (không dấu, đúng như nhận định của cụ Xuyền, tiếng Việt thủa ban đầu là không có thanh điệu). Nhưng Ca thì nhiều lắm, dưới biển dưới sông, nên phải lặp Ca Ca, mà lướt thì “Ca Ca”=Cá, 0+0=1. Người Thái gọi là con Pá, “Pá đẹc” là cá đã muối thành mắm ở Lào. Cái “âm mà người Việt đọc chữ nho” đến thời Hứa Thận viết cuốn từ điển đầu tiên cho Trung Hoa là cuốn Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm, vẫn còn nguyên vẹn như người Việt đọc chữ nho ngày nay ( “thiết” theo hướng dẫn của Hứa Thận như Việt đọc thì trúng, mà “thiết” như Quan Thoại đọc thì trật), các chùa ngày nay vẫn dạy chữ nho và đọc như vậy, gọi là “học chữ Nam”. Tiếng Việt chính là cái NÔI , là gốc Tổ. Cái NÔI khái niệm ấy có cốt lõi là cái Ổ. “Tự Ổ”=Tổ, 0+1=1. Quan Thoại sử dụng ngôn từ là trên nền tảng của ngôn từ Việt, chỉ có khác là ngữ pháp Quan Thoại là ngữ pháp Ngược, ngữ pháp Việt là ngữ pháp Xuôi. Phương hướng thời gian trong tiếng Việt là Xưa-Xuôi. Về hướng quá khứ là Xưa, tìm về Xưa thì cứ tìm Nữa cũng chưa đến vô cực. Về hướng tương lai là Xuôi, tìm về hướng Xuôi thì cứ Đuổi mãi cùng chưa đến được vô cực. Về hướng Xưa tức về hướng Âm, các từ thường có dấu thanh điệu nhóm 0. Về hướng Xuôi tức về hướng Dương các từ thường có thanh điệu nhóm 1 ( VD: hướng vô Nội là “Tâm Ngoi”, hướng ra Ngoài là “Tầm Ngắm”, đường đi vô Xưa là “Xa”, đường đi ra Xuôi là “Ngái”, thời gian theo Xưa là “Dai”; thời gian theo Xuôi là “Dài”). Theo ngữ pháp Xuôi của ngôn ngữ Bách Việt thì “có Tổ mới có Tôi”, nên “có Họ mới có Hò”, vì vậy viết Họ trước tên sau. (Hò là tên gọi, gọi đò ngang vì không biết tên người chèo đò nên người ta chỉ gọi “Đò ơi”. Mà “gọi đò” vẫn thường nói là “hò Đò”, bà đi cấy mắng con: “Mày đi chơi lêu lổng những đâu mà để mẹ mày réo mày như hò đò vậy cà”. Hò thì nho viết bằng chữ Hô 呼 . Xưng 稱 là nêu tên mình, Hô 呼 là nêu tên người đối thoại. Hò=Hô呼 = Hanh 亨. Hanh là vì cái tiếng gọi nó lan tỏa đi không bị cản trở gì cả. Hò=Hô 呼 =Hanh 亨 =Danh 名( Quan Thoại tương ứng: “Hu”- “Hâng” – “Míng” ). Hò=Hô=Hanh toàn là từ Việt hết. Quan Thoại phát âm chữ Danh là “míng”, là do từ xưa người Kinh tự xưng là Mình, gọi người đối thoại là Mày (theo chiều Xưa thì Mày=Mai=Hai), người Thái gọi ngôi thứ hai là Mừ. Riêng một từ “Mới” cũng đủ thấy Tiếng Việt là Tổ kể cả cho tiếng Quan Thoại, đồng thời cũng cho thấy lịch thời gian tính theo trăng là do người Việt làm ra , người Hán sử dụng nó mà thôi: Thuật toán nhị phân chỉ có Hai con số, số thứ Nhất và số thứ Hai, đương nhiên theo thứ tự đếm thì số thứ Hai là số Mới hơn số thứ Nhất, cũng như đối thoại xưng Mình thì người đối thoại là Mới hơn so với chính mình, từ con số Hai mà ra Hai=Mai=Mày=Mừ=Mới=Mạy (tiếng Lào nghĩa là “mới”)=Máy (tiếng dân tộc thiểu số , nghĩa là “mới”)=Mai (tiếng Thái Lan nghĩa là “mới”)=Míng (tiếng Quan Thoại, nhưng dùng chỉ riêng để chỉ ngày Mới tức ngày Mai, gọi là “míng tian” dùng chữ nho Minh Thiên 明 天, ngữ pháp Ngược, chỉ là mượn chữ Minh 明 ký âm cho Mới mà người Quan tộc phát âm lơ lớ là “míng”). Tiếng Việt vẫn nói ngày Mai là ngày Mới, ngày Mới là ngày Tới. Bản thân chữ Minh 明 của Việt nho viết hoàn toàn biểu ý, gồm chữ Nhật 日 ghép với chữ Nguyệt 月, chẳng có âm “inh” mà vẫn đọc là Minh 明. Nhưng cái tá âm của nó là ẩn: Nhật=Thật. Ánh sáng mặt trời (chữ Nhật 日) là cái có thật, và cũng chẳng có ai thật thà bằng Trời. Nguyệt=Việt. Ánh sáng mặt trăng (chữ Nguyệt 月) là cái ưu việt nhất để người Việt làm ra lịch trăng cho nông nghiệp, Ngày giữa tháng ánh trăng "Rạng Lắm"= Rằm, 0+1=1, đêm rằm tâm lý con người thổn thức, con cua nó lột xác, thịt con cua chưa lột thì óp). Cái “Thời của ánh sáng trăng trong vòng 29 ngày thay đổi độ Sáng”= “Thời…Sáng”= Tháng. Tiếng Việt dùng chi ly rõ ràng: thiên thể là Trăng, ánh sáng của trăng là Nguyệt, thời của ánh trăng trong vòng 29 ngày là Tháng. Quan Thoại chỉ mượn một chữ của Việt nho là chữ Nguyệt 月, chỉ thiên thể cũng Nguyệt, chỉ tháng cũng Nguyệt, chỉ ánh trăng thì mượn luôn cả từ ghép theo Xuôi của Việt, là từ Nguyệt Sáng = Nguyệt Láng = Nguyệt Lượng 月 亮 (phát âm lơ lớ là “yue liang”. (Tìm đâu ra “từ Hán-Việt” ?). Chữ Minh 明 ấy Việt nho không để chỉ cái Mới, mà là để nhấn mạnh ý “ánh sáng tỏ tường” như Nhật 日 Nguyệt 月 và còn ám chỉ từ Mình, do lướt “Một Kinh”= Mình, 0+0=1 (người Kinh tự xưng là Mình). Mình ấy là “tấm lòng trong sáng” [ Ý tưởng “trái tim thủy tinh” của thủ tướng Võ Văn Kiệt ], lại cân bằng dương âm như Nhật với Nguyệt trong bản thân mình. “Có Họ mới có Hò”, đã thành “có Họ mới có Danh” rồi do gì nữa mà lại có “có Họ mới có Tên”? Người Việt chỉ yêu cái sáng, cái minh bạch chứ không yêu cái tù mù. Bản thân từ Tên cũng do cái sáng mà ra. Hàng trăm loài côn trùng gần gũi với nông nghiệp đều có tên gọi bằng từ dính, như tế bào đang tự tách đôi: Đòng - Đong, Cân - Cấn, Nòng-Nọc, Niềng-Niễng, Châu-Chấu, Đom-Đóm v.v. Ban đêm chỉ có con Đóm-Đóm là biết khoe mình sáng, tức hơn cả, nên trẻ con Việt thích chơi Đom-Đóm. Số lượng Đom Đóm thì nhiều, “Đom Đóm”=Đỏm, 0+1=1, nghĩa là khoe. Đỏm=Đốm=Lốm-Chốm=Chấm. Ngôi sao như một chấm sáng, như có cái gì đâm vào bầu trời đêm làm tóe sáng. Chấm=Đâm=Điểm=Điếm=Tiệm 店 =Tên. Quá trình gia công từ cái tên con Đom Đóm hay làm Đỏm khoe mình sáng hơn người là cái nôi khái niệm (lược bớt những từ phục vụ gia công là “sản phẩm dở dang” đi) là: Đỏm=…=Điếm=Tiệm店=Tên (trong nôi khái niệm này cũng có những từ viết bằng chữ nho, nhưng làm gì có “từ Hán-Việt” ở đây?). Cái Tên là một sự khoe (sự khoe là Đỏm, “đỏm dáng” là khoe dáng, nhưng thằng bé con mới có vài tuổi thì nó Đỏm dái là khoe dái, Dái=Giống, “To đầu mà dại, bé dái mà khôn”, “Nó bé nhưng Dé nó to”, ngôn ngữ nào là Tổ đây? Bây giờ đang tìm). Nhưng khoe bằng Tên đây là khoe cái sáng, như con đom đóm khoe nó sáng hơn các côn trùng khác trong đêm, nó còn hơn cả đèn (“Đèn khoe đèn tỏ hơn Trăng, đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn”). Cho nên chẳng có ai muốn đặt tên mình xấu cả, vì ai cũng muốn khoe sáng để làm đỏm. Tiệm buôn cũng vậy, nào là đặt tên cho thật kêu, vẽ biển quảng cáo thật đẹp để cho đỏm. Điếm canh cũng vậy, cái tên phải kêu và cái kẻng phải kêu khác tiếng kẻng khác để được quan trên chú ý và dân còn hiểu hiệu lệnh mà ứng cứu. Còn gái mại dâm thì gọi là gái Điếm, tức “ Đỏm thì mới Kiêm”= Điếm, 1+0=1, không phải là vì hay ngủ ở điếm canh, tuy cũng có, mà là hay làm đỏm, nào là tên phải nghe dễ thương, nào là số di động phải dễ nhớ, nào là son phấn với đỏm dáng bằng mặc nghèo thì mới kèm được khách. Một từ Tên mà phải gia công bằng qui trình sản xuất dài như vậy chứ không đơn giản, không phải là viết không dấu để rồi khi điểm danh lại đọc cái dòng đầu tiên và ngơ ngác hỏi “ai là Ho Va Ten đây ?”. Những từ chỉ bộ phận cơ thể người là những từ gốc nhất trong ngôn ngữ của mọi dân tộc. Trẻ vài tháng tuổi người ta đã dạy nó nghe và chỉ đúng bộ phận cơ thể. Mặt đâu, Má đâu, Mắt đâu, Mồm đâu, Mép đâu, Môi đâu, Mũi đâu, Tai đâu, Tay đâu, Chân đâu, Chim đâu, Bướm đâu. Mắt thì nho viết bằng chữ Mục目, Nhìn thì nho viết bằng chữ Nhãn眼. Hán ngữ mượn chữ Nhãn 眼để chỉ mắt. Mặt thì Hán ngữ gọi là Liễn 臉. Các dân tộc cổ đại , kể cả Ai Cập , vẽ thiên thể bằng hình con mắt. Tiếng Việt có từ Mặt Trời, Mặt Trăng chỉ thiên thể. Nhưng những từ chỉ bộ phận cơ bản nhất cấu tạo nên cơ thể (vật chất, thực vật và động vật) trong tiếng Việt lại là do Trời. Trời=Thơi=Thể. Thảnh Thơi là được như Trời, không bị áp đặt hay chỉ đạo.. Mọi Thể đều tự tại, ung dung với cái tự do của nó. (Đó là tư tưởng của đạo Lão có trước đạo Phật. Lâu=Lão=Dão=Già, đó là dẫn từ âm đến dương, từ ngôn từ cũ đến ngôn từ mới, từ dấu nhóm 0 đến dấu nhóm 1. Cái ông sống “Lâu rồi nên thành Cụ”= “Lâu…Cụ”, nói gọn, viết tắt là Lâu Cụ=Lão Tử ( Cu=Cụ=Tu=Tử. “Tu” là tiếng Tày-Thái-Việt Đông dùng ). Gọi Lão Tử là vì vậy chứ không phải tên tục ông ấy là Lão Tử, chỉ biết rằng ông ấy là một người Việt. Nghĩa thông tục đối với người không tu Thiền thì “Lâu Cụ”=Lú, 0+0=1, Lú nhiều thì là “Lú Lú”=Lụ, 1+1=0, hình thành từ Lụ Khụ, theo công thức toán thì là: < Lụ+ (“Khá Lú”=Khụ) = Lụ Khụ >, chứ không phải là giải thích “lụ khụ không phải là từ láy, chưa biết gọi nó là từ gì, những từ hai âm tiết kiểu như vậy thường là có một âm tiết , như ở đây là Khụ , chưa rõ nghĩa, có thể là một từ ở trạng thái chờ, chưa sử dụng”- như các nhà Việt ngữ học giải thích ). Từ khi mới là bắt đầu cái mầm sống, con người cũng là một Thể tự do tự tại. Ai=Ngài=Người (nhiều người là Ai Ai, Người Người, Nhân Dân). Để bắt đầu cái mầm sống là con người thì phải do tình yêu của cả hai người trai và gái, tình yêu đó là của Trai, Trai=Ai=Ái=Ôm=Ẵm=Nam 男, và của Gái, Gái=Ai=Ái=Nái (tức phải có trứng)= Nữ 女 [ chưa thấy “từ Hán-Việt” ở đâu cả]. Yêu = Ái 愛. Hai người yêu nhau thì “ Ái Ái”= Ai, 1+1=0, đó là lại sinh ra con người. Tình dục do tình Yêu của thể Trai và thể Gái đã sinh ra cái “Thể Ái”=Thai, 1+1+0, là sự bắt đầu của mầm con người [ vẫn chưa thấy “từ Hán-Việt” nào], nhưng nó còn là cái Thai 胎, chưa ra đời, nên theo khía cạnh thời gian thì cũng gọi cái Thai là cái Chưa. Chưa là một từ hoàn toàn chỉ ý thời gian. Thời gian của Thai 胎 trong bầu là dài, nên nó là “Chưa Chưa”=Chửa, 0+0=1. Người ta nói về các bà bầu là “có Thai” (tức đang mang cái mầm), là “có Chửa” (tức đang mang cái chờ thời gian khá dài để đẻ), nên người ta vẫn nói là “lịch chửa đẻ” chứ không gọi là lịch mang Thai, nhưng đến kỳ khám thì gọi là khám Thai, chứ không gọi là khám Chửa [ vẫn không thấy “từ Hán-Việt” nào” ]. Chưa Chưa=Chửa, chửa là cái thời gian nhiều hơn Chưa ( VD: “Việc này tôi làm chưa xong anh ạ. Việc khó quá, tôi làm mãi mà Chửa xong”). Cái ống nối đưa dinh dưỡng từ thể Mẹ cho Thể con còn gọi là cái cuống Ruột, đầu cuối đến thai gọi là cuống Rốn. Cái ống ấy là cái ống “Ruột nối hai thể với Nhau” = Rau. Rau=Nhau=Nhục, chữ Nhục 肉 của Việt nho chỉ cái Rau, viết biểu ý bằng hai chữ Nhân (biểu ý mẹ và con) trong một cái cung có cửa (để con còn chui ra khi đẻ). Quan Thoại mượn chữ Nhục 肉 này chỉ ý là Thịt. Vậy lý giải như thế nào, là hai người trong cung đều là Thịt, hay là người ăn Thịt người? Cái Thể của thực vật hay động vật là do Trời sinh ra. Trời=Thơi=Thể. Thể ấy theo QT Nở sinh ra cho thực vật là Thớ (Thớ=Xơ=Xenlulo), và sinh ra cho động vật là cái Thỉ 豕 (bộ thủ có tên là Thỉ 豕 có từ giáp cốt văn của người Việt). Cái Thỉ 豕 ấy sinh sản trong cơ thể từ ít đến nhiều. “Thỉ Ít”=Thịt, 1+1=0 , người trưởng thành rồi là khi Thỉ nhiều lên, “Thỉ Thỉ” = Thi 屍. Thi 屍 = Thây = Thân 身 , dùng cho các sắc thái khác nhau [ chưa thấy “từ Hán-Việt nào” ]. Tim và Tâm cũng là hai bộ phận của con người. Tim thì có hình hài, là thịt. Tâm 心 thì vô hình, là Tâm Hồn, nó cũng là năng lượng. Ở bệnh viện thì khoa Tim với khoa Tâm là hai khoa khác nhau. Hán ngữ mượn dùng chữ Tâm 心 để chỉ cả hai. Vì Tâm 心 là năng lượng, như ngọn lửa nên Việt nho viết bằng cách điệu bốn nét của quẻ Ly thành hình tượng trưng cái vòng kiềng với ba ông đầu rau của bếp lửa, lại còn thi vị hóa lên là “Ba sao với một trăng trong. Trọn đời giữ một Tấm Lòng sắt son”. Sách dạy tiếng Nhật của Mỹ lại giải thích Tâm 心 chỉ có một ý nghĩa thịt là Tim, vẽ bằng hình tượng (để dễ hình dung và dễ nhớ) là một con dao găm cong cong đâm vào tim làm chảy ra ba giọt máu. Người Việt yêu sự trong sáng, minh bạch nên còn ví Tâm với ánh sáng Trăng, hồn người sau khi chết là lên ở cung Trăng (ý này cũng có trong Ấu Học Quỳnh Lâm). “Hồn gửi cung Trăng”= Hằng, 1+0=1, là tồn tại mãi mãi. Nên cũng ví ánh sáng của Trăng là chị Hằng, “người chị hiền mãi mãi”, cũng còn ví ánh trăng nó sáng đẹp như là “Người con gái nết Na “ = “Người…Na” = Ngà. Gọi Trăng Ngà là vừa thiên thể (Trăng) vừa ánh sáng (Ngà), chứ không phải là ví mặt trăng nó quí như cái ngà voi. Nhưng cái ánh trăng là Ngà này thì nó lâu dài mãi mãi tức nhiều, nên “Ngà Ngà” = Nga, 1+1=0, nên còn gọi ánh sáng Trăng là Hằng Nga 姮 娥. Ví ánh trăng là Ngà, là Nga đó là cách ví von của người Việt, nên cái Nga ấy là “Ngà Việt”= Nguyệt, 1+0=1. Nguyệt là chỉ cái ánh sáng của thiên thể Trăng. Ngà=Nga=Nguyệt là chỉ ánh sáng của Trăng, cái căn cứ để làm nên lịch trăng. Cái Thời mà ánh Sáng của trăng thay đổi trong vòng 29 ngày là có nhiều Thời, nhiều Sáng trong vòng một năm. Cho nên “công thức” để “tính” xem cái Thời đó gọi là gì là: {(“Thời Thời”=Thơi) + (“Sáng Sáng” =Sang) = “Thơi Sang”=Tháng }, diễn biến thanh điệu tương ứng là: { (1+1=0) + (1+1=0)= 0+0=1, đó là 1 Tháng }. Quan Thoại mượn chữ Nguyệt 月 và chữ Nga 娥, gọi trăng là Nguyệt Nga 月 娥, nhưng lại là để chỉ cái thiên thể. Một chữ Nguyệt 月, mà Hán ngữ mượn của Việt, lại dùng để chỉ cả ba, chỉ thiên thể trăng cũng là chữ Nguyệt 月, chỉ tháng, cũng là chữ Nguyệt月, còn ánh sáng trăng thì mượn từ ghép của Việt còn nguyên ngữ pháp Xuôi, là Nguyệt Sáng=Nguyệt Láng=Nguyệt Lượng 月 亮. Ấu Học Quỳnh Lâm 幼 學 瓊 林 là những bài văn vần truyền miệng trong dân gian kể về sự hình thành vũ trụ , địa lý đất nước và lịch sử, phong tục. Đến đời Tùy thì được các nhà nho sưu tầm ghi lại thành sách. Tên sách là Ấu Học Quỳnh Lâm, là viết gọn, cú pháp Xuôi, nghĩa là: “Trẻ con (chữ Ấu 幼) tự học (chữ Học 學) thì sẽ thành ngọc đẹp (chữ Quỳnh 瓊) và hiểu biết nhiều Lắm (chữ Lâm 林)”. [Cách đặt tên sách của người xưa quả là hay, hoàn toàn dành chủ động cho học sinh, chẳng phát hiện ra tí áp đặt nào, kiểu như “Sách Dạy trẻ em mẫu giáo”, “Sách Hướng Dẫn học sinh cấp một”, “Sách Chỉ Đạo sinh viên làm luận án tốt nghiệp”] Chữ Lâm 林 thường lấy làm đại diện cho chữ Lắm (vì rừng thì lắm cây). Làng nào có nhiều người trí thức thì gọi là làng Hạnh Lâm 杏 林, tức là Hên Lắm đấy, sẽ gặp nhiều may mắn. Hên = Hanh 亨 = Hành 行, làm cái gì cũng trôi chảy. Làm nhiều thì gặp nhiều hạnh phúc. “Hành 行 Hành 行” = Hạnh 幸, 1+1=0. Theo QT Tơi-Rỡi thì Lắm=Trăm=Chăm-Bẵm=Bẫm=Bách 百, đều có nghĩa là nhiều, nhiều thì phải là Lớn. Lớn= Lang 狼 = Lãnh 領. Nên Bách Việt 百 越 = Lắm Việt = Lớn Việt = Lái Việt = Đại Việt 大 越. Chữ Đại 大 làm đại diện cho chữ Lớn, vì Đại là To, thằng to đầu thì làm thằng Lái thuyền, nên Lái=Đại. Chữ Đại 大 cũng đọc là To (Quan Thoại đọc chữ Đại 大 là “tà”- pinyin “dà”). Đại Việt là có sau, Vuông Lớn = Văn Lang , là có trước, là quốc gia văn minh cách nay 5000 năm. Văn Lang = Vuông Lớn hàm ý là “Trái Đất có người khai thác và rất lớn”.[ Hết đoạn này mà vẫn chưa thấy “từ Hán- Việt” nào ]. Hạ Long 下 龍 là Đẻ nhiều Rồng. Hạ là từ đứng sau trong từ đôi Sinh Hạ, nguyên thủy là từ Sinh Sạ, là cách đẻ của cá, mỗi lần nó đẻ là rớt hết cả vạn trứng cùng một lúc. Sạ lúa giống cũng vậy. Từ Sôn đã theo QT Nở mà tách đôi ra thành từ Sinh (đẻ ít) và từ Sạ (đẻ nhiều), sau khi hoàn thành gia công thì Sôn không thấy xuất hiện nữa trong ngôn ngữ thường dùng. Sôn chính là cái tế bào, nó “Sôn ra Đông”= Sống, 0+0=1, là cơ thể sống gồm rất đông tế bào, từ một tế bào ban đầu mà sinh ra. Cách đẻ của tế bào là từ một tế bào sẽ tự tách đôi thành hai tế bào như nhau, sự đẻ kiểu ấy là “Sôn Sôn” = Sồn, 0+0=1. Sồn nghĩa là đẻ, đẻ nhiều là Sồn Sồn. Tế bào khi chưa đẻ tức chưa tự biến đổi, đang nguyên, thì nó là Sôn Còn, lướt “Sôn Còn”=Sòn, 0+1=1. Nhưng tế bào nguyên trong cơ thể thì nhiều lắm , nên phải dùng từ lặp Sòn Sòn (giống như Người Người). Lướt “Sòn Sòn” = Son. Em còn Son là em chưa rớt cái trứng nào. Nhưng vợ chồng Son cũng lại là vợ chồng “Sẽ có Con” = Són, 0+1=0. Son là cái tế bào nguyên sơ, nhưng nó cũng lại là do Trời sinh ra: Trời=Tròn=Hòn=Hồn=Sôn=Son (“Một Hòn máu đỏ nên Người”. Sắt Son giữ trọn một đời thuận thiên). Có thuận thiên thì mới có Sống để mà Sinh Sạ. Chống lại thiên, làm ô nhiễm hủy hoại môi trường thì chết. Người Việt cổ đại đã biết là không thể “bẻ nạng chống trời”, nên đã làm ra cái thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Cho nên trải 5000 năm người Việt vẫn giữ được “Nền Nếp” của nông nghiệp bền vững. Phá Ruộng là phá Vuông, phá Vuông thì mất Việt. [ Vẫn chưa thấy có “từ Hán- Việt” nào]. Có thể lấy quan điểm ngôn ngữ là “từ Ruộng mà Ra” để giải thích ngôn từ Việt. Ví dụ từ Lăng 稜, Việt nho viết là chữ Lăng 稜 nghĩa là cái cạnh của góc. Lăng có cùng Tơi “L” với Lúa, nên chữ Lăng 稜 có bộ thủ Lúa 禾 là chữ Hòa 禾 ("Hột lúa Ta"=Hòa,0+0=1). Cái hình tam giác không đặt tên theo góc như Hán ngữ hiện đại gọi là “tam giác hình”, mà gọi tên theo cạnh là cái Tam 三 Lăng 稜 (tức cái ba ven). Nếu từ một điểm vẽ ra ba đường thẳng thì được hình cái ngã ba. Các bà thợ cấy khi đi thăm bà đẻ ai chẳng khen đứa bé gái mới sinh là “Cái mặt nó giống cha mà cái ngã ba nó giống mẹ”. Nếu vẽ ba đường thẳng khép kín thì được cái hình tam giác. Tụi con nít chưa đi học vẫn biết vẽ bậy cái hình tam giác lên tường để trêu nhau. Các cụ Việt nho khi dạy hình học đã từ nhưng cái cụ thể gần gũi là bộ phận của cơ thể để đặt ra từ khoa học thích hợp rất logic, nhưng thành những từ đẹp đẽ, thậm chí rất thi vị, gọi là ngôn từ nho nhã. Về sau Hán ngữ dùng, nên lại gọi là “từ Hán- Việt”. Thậm chí các cụ Việt nho còn dùng chữ để ghép biểu ý đặt ra từ mới chưa hề có, rồi mới phổ biến dần dần trong dân gian. Ví dụ lấy cái cười Hì Hì để đặt ra chữ Hỉ 喜 (Tiếng Việt dùng từ Vui Vẻ, viết bằng hai chữ Du Duệ 愉 悅. Hán ngữ dùng từ Khoái Lạc 快 樂, và còn ghép Hỉ Hoan 喜 歡 chỉ nghĩa “thích”). Hoặc ví dụ lấy từ Già để đặt ra chữ Gia 嘉 nghĩa là khen ngợi. Vì con người ta sống càng Già càng được khen ngợi, càng tự hào vì được “kính lão đắc thọ”. Già nhiều thì là “Già Già”= Gia, 1+1=0, lấy chữ Gia 嘉làm đại diện cho ý “khen ngợi”. Đặt chữ Gia 嘉bằng cách ghép chữ Hỉ 喜 ở trên với chữ Gia 加 (nghĩa là thêm, ngụ ý thêm tuổi) ở dưới. Gia 加 và Thêm 添 là hai từ Việt, Hán ngữ dùng, phát âm là “jia” và “tian” coi như hai từ đồng nghĩa. Nhưng trong Hán ngữ Gia 加 và Thiêm 添 không có liên hệ ý tứ gì với nhau (vì là từ mượn ). Còn trong Tiếng Việt thì Gia và Thêm có liên hệ ý tứ với nhau, đúng là đồng nghĩa. Bởi các bộ phận cơ thể con người chỉ có Da là thấy được nó luôn luôn được Thêm, đi nắng một ngày thì nó thêm đen, lớn lên thì nó thêm lông, về già thì nó thêm nếp nhăn, thêm đồi mồi. Cho nên từ Da được lấy làm đại diện cho ý thêm, nho viết là chữ Gia 加 , ngụ ý ăn 口 Thêm cho có sức 力( Hán ngữ gọi Da là chữ Bì 皮. Tiếng Việt còn dùng Da đại diện cho cái vỏ bọc ngoài. Da=Giấy=Gió=Vỏ=Váy). Từ Lăng 稜 do các cụ Việt nho đặt ra chỉ cái cạnh góc khi dạy hình học, sau có các từ dùng trong cả Hán ngữ như Lục Lăng, Lăng Trụ, Lăng Kính. Nhưng gốc của từ Lăng khoa học và hàn lâm này lại là cái cạnh của bộ phận cơ thể là từ Ven L. (cạnh của cái tam giác) sau thành từ Tam Lăng (ba ven). Ven=Bẹn=Bên=Biên=Bờ= Bang 邦 =Băng=Lăng稜, là “cái ở một bên”. Ven=Bẹn là cái cạnh của góc dưới của cơ thể. Góc=Hóc=Hang. Ở cơ thể nguời thì cái Hang dưới ấy nó có ở hai bên, tức có hai cái, nên “Hang Hang” = Háng, 0+0=1. Nói “dạng háng ra” chứ không ai nói dạng bẹn ra, vì Bẹn=Ven, chỉ là cái cạnh của góc. Hai góc ở phần trên của cơ thể thì nó giống của con gà, vẫn dùng che chở ấp ủ gà con, nên Góc=Nóc=Nạch, vì có hai cái, nên “Nạch Nạch” = Nách, 0+0-1. Cạnh của con sông thì gọi là Ven sông hay Bờ sông. Đánh trận giả thì chia hai Bên hay hai Bang hoặc hai Băng. Để chứng minh từ hàn lâm Lăng 稜 cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra” thì hãy nghe các bà thợ cấy nói, các bà ấy có học thuật toán nhị phân hồi nào đâu mà nói rất chính xác: “Lớn rồi mà không chịu đi mần ăn, cứ ở nhà làm gà què ăn Quẩn cối xay mãi à?”. Đó là mắng con. Nhưng Con = Quan 官 = Quân 君. Nhiều Quân thì là Quân Quân. Lướt thì “Quân Quân”= Quẩn, 0+0=1. Nhiều con tức nhiều Quân thì là Quân Quân, lướt sẽ cho ra ba đáp số: (1) “Quân Quân”= Quần, là Quần Chúng. Vài người cùng ở với nhau là cái Chung, nhiều cái chung ấy thì là “Chung Chung” = Chúng, 0+0=1. Quần Chúng là số đông , nghĩa thông thường là Nhân Dân. (2) “Quân Quân” = Quấn, 0+0=1. Đó là đông con mà chúng chưa có ý thức tự lập, “cứ Quấn mẹ hoài”. (3) “Quân Quân” = Quẩn, 0+0=1. Đó là đông con mà chúng dốt nát, không tìm được hướng lập nghiệp, nên “cứ ăn Quẩn cối xay”. Quẩn nhiều thì là “Quẩn Quẩn” = Quẫn, 1+1=0. Là càng bế tắc, không có lối ra. Mắng vậy mà con vẫn chưa chịu đi làm, điên tiết bả còn chửi dữ dằn hơn: “ Thiệt là cái đồ Lăng Loàn (truy về gốc thì là từ Ven L.), con với cái, lớn xác rồi mà không chịu đi mần ăn, cứ ở nhà ăn Vèn L. mẹ mày mãi à?”. Bà thợ cấy không biết chữ, bà có học thuật toán nhị phân hồi nào đâu mà nói chính xác ngôn từ như vậy? Vèn là hai Ven, tức hai Bẹn. (1) “Ven Ven” = Vèn, 0+0=1, (ý chỉ hai cạnh ở hai bên). (2) “Ven Ven”=Vén , 0+0=1, (ý chỉ cái động tác dùng cho hai cái cạnh. Ví dụ: Vén váy. Chỉ cần nói Vén là hiểu ngay có hai tay xách hai bên váy lên, hiểu cả cái phần không cần phải nói là “để nhìn vào trong”. (3)“Ven Ven” = Vẻn, 0+0=1, (ý chỉ động tác dùng cho cạnh xung quanh. Ví dụ: “Cơm chỉ Vỏn Vẹn chừng ấy thôi, mày Vẻn nốt mà ăn cho no”. Vỏn Vẹn là chỉ còn ở Ven. Vẻn=Vét là vét đáy nồi. Thuật toán nhị phân với hai con số 0 và 1 cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra”. Nghe ông chăn vịt thả đồng gọi vịt là thấy ngay . Ổng gọi “Vịt Vịt” = Vít, 0+0=1. Rồi lại gọi “Vít Vít” = Vịt, 1+1=0, cứ vậy gọi hoài, cho đến khi gọi “Vít Vìn Vịt, Vìn Vịt , Vìn Vịt …là bầy vịt về đông đủ. Quần chúng của Văn Lang cổ đại là văn minh, đất rộng dân đông, đã Quần rồi lại còn đông hơn nữa là “Quần 群 Quần 群” = Quận 郡, 1+1=0. (Hán ngữ phát âm chữ Quần là “qún”, phát âm chữ Quận là “jun”, lơ lớ do mượn chữ của Việt, không ra thuật toán nhị phân, “Jun Jun = Qún , trật lấc). Đông người ở thành “Quần Quần” = Quận, 1+1=0 như vậy mà vẫn không(0)hề có ô nhiễm môi trường như quận của đô thị hóa ngày nay. Cho nên muốn đô thị hóa, để có “Quần Quần” = Quận, đúng 1+1=0 , là không ô nhiễm môi trường, thì khi qui hoạch phải ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt. [ Tất cả các chữ nho trong bài, Hán ngữ hiện đại đều có dùng. Nhưng nếu theo phát âm của Hán ngữ hiện đại thì thấy chúng không còn theo QT tạo từ như nêu, không có đúng theo thuật toán nhị phân . Bởi vậy thấy rõ rằng không có “từ Hán-Việt” nào ở đây cả, toàn là từ gốc Việt ]. Tóm tắt lại: Văn minh nông nghiệp trồng trọt là buổi bình minh của văn minh nhân loại. Hệ đếm ngũ phân cổ xưa và năm tác nhân trên Trái Đất của nền văn minh nông nghiệp: Người, Đất, Nước, Cây, Con có liên quan gì đến sự ra đời của thuyết Âm Dương Ngũ Hành ? Tư tưởng ấy đã từ Nam ra Bắc phát triển rực rỡ thành nền văn minh Văn Lang ở nam Dương Tử cách nay 5000 năm. Theo “Qui Tắc tạo ngôn từ Việt” của LM nêu thì: Người tiêu dùng là số Một=Mua, giao thông là số Hai=Lái, phân phối là số Ba=Buôn, nguồn lực là số Bốn=Bổn. ( Tục ngữ “Một vốn bốn lời”. Bổn cũng có lời, Buôn cũng có lời, Lái cũng có lời, Mua cũng có lời. Có phải đó là Win – Win ?). Từ Thương Lái vậy mà quan trọng.Thương Lái=Thằng Lái=Thằng Hai (giao lưu toàn cầu, tự do hàng hải). Giao lưu toàn cầu và tự do hàng hải (“hoành tráng”) chỉ là bắt đầu từ cái Ruột = cái Rau (cái Rau của bà đẻ). Ruột = Rồng (“Con Rồng cháu Tiên”) Quá trình phát triển của văn minh nông nghiệp trồng trọt ( của tộc ăn rau, không phải của tộc ăn thịt ): Rồng Lái = =Ruộng Lái = Xuồng Lái = Thuồng ( con thuồng luồng) Lái = Thương Lái. Lái Tàu = Lái Đầu = Lãnh Đạo. Lái=Lớn=Lang=Lãnh. Văn Lang=Vuông Lớn. Lớn=Lang=Lãnh=Lắm. Trăm=Chăm-Bẵm=Bẫm=Bách. Bách Việt: Prăm Việt = Trăm Việt = Lắm Việt = Lớn Việt = = Lái Việt = Đại Việt. Đại tộc Việt bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ Tình Yêu. Tình Yêu đến là từ cái nhìn đầu tiên (“Lúng Liếng là Lúng Liếng ơi, mắt người Lúng Liếng như sao trên trời”- dân ca quan họ Bắc Ninh. Hình ảnh Thần Tình Yêu trong truyện cổ tích phương Tây). Lúng Liếng là hai cái nhìn thiện cảm gặp nhau. Khi còn trong Tâm thì chúng là Lung Liêng. Hai Tâm thì là “Tâm Tâm”=Tấm, 0+0=1, Lung Liêng đã từ Trong ra Ngoài thì thành Lúng Liếng. Kết quả của cái Lúng Liếng là dẫn đến cái Lẹo. Trai=Ai=Ái=Ôm=Ẵm=Nam. Gái=Ai=Ái=Nái=Nữ. Yêu=Ái=Ai. Lẹo=Theo=Thể. “Thể Ái”=Thai, 1+1=0. Thai=Thon=Hòn. Trời=Tròn=Hòn=Hồn. Hồn ấy vào cái Hòn, và cái Thai lớn dần. “Hòn máu đỏ thành Ngài” = “Hòn…Ngài”= Hai, 1+1=0. “Ái Ái”=Ai, 1+1=0. Ai=Ngài=Người . “Hòn máu là chung của ai với Ai”= “Hòn…Ai”= Hài, 1+0=1. “Hài lớn lên nên Ngài”= “Hài…Ngài”= Hai, 1+1=0. (Đứa con đầu của tình yêu mang tên là Hai. Chọn tên là Hai là sự đồng thuận của cả hai vợ chồng - xem phần chữ nghiêng dẫn trên có hai đáp số cho tên Hai: “Hòn máu đỏ thành Ngài”=Hai, “Hài lớn lên nên Ngài”=Hai ) . Đó là cái Thể. Còn cái ngôn ngữ là bắt đầu từ cái Lẹo. “Lẹo sinh thai, thai ra con, con cất tiếng chào Đời”= “Lẹo…Đời” = Lời. Tên là ánh sáng từ con “Đom Đóm” = Đỏm, 0+1=1; Đỏm=Điểm=Tiệm=Tên, là sự khoe sáng nói chung và cả của đứa tên là Hai. Hai ấy là “Một Kinh” = Mình, 0+0=1. Mình ấy mang gen của hai người yêu nhau, nên “Mình Mình” = Minh 明, 1+1=0. Minh明ấy là ánh sáng của trời (là Nhật 日) hòa quyện với ánh sáng của trăng (là Nguyệt月), cân bằng dương âm trong mình, Minh 明 ấy là trái tim thủy tinh. “Tim thủy Tinh” = Tính, 0+0=1. Hai tính là “Tính Tính”=Tinh, 1+1=0. Hai người cùng tinh là “Tinh Tinh”=Tỉnh,0+0=1. Hai người cùng tinh là “Tinh Tinh”=Tình, 0+0=1. Hai họ sui gia là một cái tình (thành ngữ “Làm dâu một nhà, sui gia cả họ”). Bách tính chỉ trong một cái tình ( tiếng đờn của Việt Nam nó kêu “tính tình tang…tính tình tang…). “Trái tim thủy tinh” là cái Tình, cũng là cái Tỉnh ( ý tưởng tượng đài “Trái tim thủy tinh” của thủ tướng Võ Văn Kiệt ) Lẹo là ở trong (dấu thanh điệu nhóm 0), là động tác tình dục trong tình yêu của hai người yêu nhau, sinh ra cái ở ngoài do hai người sinh ra là “Lẹo Lẹo” =Lèo, 0+0=1. Lèo là người Lèo của đất nước Lèo ( tục ngữ “Nó bé nhưng Dé nó to”). Ngọc phả Hùng Vương lưu tại Đền Hùng (Phú Thọ) ghi rằng: “Tổ tiên ta đến từ Tây Vực, gọi là nước Tây Phương Cực Lạc, đặt bước chân đầu tiên đến núi Ba Vì, cách nay đã 7000 năm” (Ba Vì = Ba Vua, hình ảnh của quẻ Ly có một âm hai dương, hình ảnh ba ông đầu rau của bếp lửa). NÔI đầu tiên của đại tộc Việt là vùng lục địa ĐNÁ, là cái Ổ nằm giữa 2 cái Hồ . Đó là Nước , là H2O ( vùng có lượng mưa nhiều nhất trên trái đất). Ổ = Hố = Hồ 湖 = Hải 海 = Bái 灞 (nghĩa là tràn trề nước)= Biển. Hồ phía Đông là Biển Đông, Hồ phía Tây là Biển Ấn Độ ( Hồ Tây = Hồ Tôn). Đất Tổ ấy của Bách Việt còn lưu giữ đậm đặc dấu tích văn hóa của nền văn minh Văn Lang, một thời rực rỡ ở nam Dương Tử. Mảnh đất Tổ ấy đang bị uy hiếp bởi các ngôn từ “hoành tráng” như “tăng cường khai thác khoáng sản”, “đẩy mạnh phát triển thủy điện” bằng những cuộc khai thác ào ạt cùng hàng trăm thủy điện từ thượng nguồn Mê Kông đến miền Trung VN. Chỉ có sức mạnh mềm của Lý Học Đông Phương – thuyết Âm Dương Ngũ Hành mới hãm bớt được cái ào ạt ấy lại, để cái NÔI ấy của văn minh nhân loại khỏi bị tổn thương.
-
Từ Ruộng mà Ra Văn minh nhân loại bắt đầu từ văn minh nông nghiệp trồng trọt, khi con người bắt đầu khai thác lớp thổ nhưỡng bề mặt của Trái (Trái=Tròn). Nền văn minh Việt, nền văn minh song Nin, nền văn minh song Hằng đều thế cả. Khi Trái ( là có Trước như Trời Trăng) còn nguyên sơ, gọi cây là Mọc, giống như mặt trời cũng mọc. Mọc=Mộc; gọi thổ nhưỡng là Thó. Thó=Thổ. Khi biết khái thác bề mặt của Trái để Trồng Trọt là lúc con người bắt đầu rat ay. “Ra Tay”=Rấy, “0+0”=1, nhiều Rẩy thì gọi bằng từ lặp Rẩy Rẩy. “Rẩy Rẩy”=Rẫy, đó là thời đốt cỏ, chọc lỗ. trỉa hột. Đến khi biết làm lúa nước thì biết Đắp bờ giữ Đác làm thành “Rẩy Vuông”=Ruống, “1+0=1. Nhiều Ruống thì “Ruống Ruống”=Ruộng, “1+1”=0. (Những từ như Rẩy, Ruống là những từ trong quá trình “gia công dở dang”, trong sản xuất thì gọi là “sản phẩm dở dang”, vì vậy nó không xuất hiện nữa trong ngôn ngữ thường dùng). Ruộng=Vuông.Do phải đắp bờ giữ Đác làm lúa nước trên bề mặt của Trái nên mới gọi Trái là Đất (hàm ý đã có khai thác thành Ruộng Vuông), tác động để giữ được Đác trên Đất là Đào, Đắp. Đất đã có Ruộng Vuông nên ví Đất là Vuông (hình tượng bánh chưng Nền Nếp Vuông, hình tượng Yoni bằng đá Vuông). Từ đó có từ đôi Trái Đất (có xưa mới có nay), cũng giống như có Tổ mới có Tôi, có Họ mới có Tên, viết Họ trước Tên sau theo ngữ pháp Xuôi (Hán ngữ cũng bắt chước vậy viết Họ trước tên sau, trong khi ngữ pháp Hán ngữ là Ngược, như ngôn ngữ phương Tây, đáng lý phải viết Tên trước Họ sau như phương Tây). Từ đôi Đất Thó (có mẹ mới có con), sau từ “đất thó” dùng chỉ tên riêng loại đất nguyên chất mịn màng lớp sâu dưới mặt ruộng không lẫn tí mùn nào, có thể dùng nặn đồ gốm, sâu nữa là lớp đất sét màu trắng có thể nặn đồ sứ. Dân nông nghiệp ham Ruộng nên ví Đất là Vuông. Ba tác nhân trên ruộng là Kẻ, Cây, Con (“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Kẻ cày, kẻ cấy, con trâu đi bừa”). Trồng Cây nên phải Cày, phải Cấy. Cây là Mọc từ Mầm hột nên chữ Mọc=Mộc đại diện cho Cây, người Nhật đọc chữ Mộc này là Ki với nghĩa của Nhật ngữ là “cây”. Kẻ, Cây, Con là ba tác nhân trên Ruộng. Các làng Việt đều có tên với chữ đầu là Kẻ. Tình yêu thiên nhiên là thái độ sòng phẳng của Kẻ Việt đối với Đất, Nước, Cây, Con : có Mua nhiều thì mới được Mùa (“Mua Mua”=Mùa, 0+0=1), Mua bằng đầu tư công sức và tiền bạc mới có được Mùa.Nền nông nghiệp của năm tác nhân Kẻ, Đất, Nước, Cây, Con dưới qui luật “thuận theo Trời” hình thành nên khái niệm Ngũ Hành. Trong văn minh nông nghiệp, Kẻ là chủ tể, rất sòng phẳng với bốn tác nhân kia, chứ không phải là thái độ ăn sẵn như thời nguyên thủy sống bằng hái lượm. Sòng phẳng ấy thể hiện bằng Nuôi bốn tác nhân kia và cả chính than tâm mình: Nuông Cây, Nuôi Con, Nuôi Nuông Đất, Nuôi Nuông Nước, Dưỡng người và than tâm mình (chung nôi khái niệm là: Nuôi=Nấng=Nâng=Niu=Nuông=Nương=Dưỡng). Đối với Đất và Nước thì phải Nuôi Nuông để giữ cho chúng được màu mỡ (Màu Mỡ=Giàu Có) và không bị ô nhiễm. Đối với Con thì phải Nuôi Nấng. Động vật như cá, gà, vịt thường có động tác “Nâng mồi rồi nuốt Xuôi”=Nuối, “0+0”=1. Gia súc gia cầm đều ăn nhiều, nên “Nuối Nuối”=Nuôi, 1+1=0. Thức ăn cho Nuôi gọi là Thức Nuôi (mà không cần phải dài dòng là “thức ăn chăn nuôi”. Đối với Cây thì phải Nuông Nương, vì Cây hấp thụ chậm chạp và đòi hỏi Chìu Chuộng và Nâng Niu (đỡ Cây đổ rạp khi gió lớn), các loại phân bón cho cây gọi chung là Thức Nuông. Đối với người (kể cả thân tâm mình thì phải Dưỡng bằng Thức Ăn. Người=Ngài=Ai=Ăn (“Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”). Người cũng ăn nhiều như động vật, nên “Ăn Ăn”=Ắn, “0+0”=1. Ắn cùng Rỡi với Cắn. Đói thì phải Ắn (ăn nhiều). “Phải Ắn”=Phạn, 1=1+0, chữ Phạn nghĩa là Cơm, vì đói thì cái Phải Ắn nhiều là Cơm. (Người thừa dinh dưỡng thường ăn rất ít cơm). Người ăn còn biết vừa ăn vừa thưởng thức, tức thưởng ngợi các thức ăn, bình phẩm, hàm ơn, nên Ăn=Uống=In=Ẩm=Phẩm=Nhấm=Nhậu=Nhằn=Nhai=Lai Rai. Trong nôi khái niệm này từ In mới là từ gốc đầu tiên. In là đổ đầy cho cái khuôn dạ dày (làm bánh đổ khuôn cũng gọi là bánh In). In dùng chung cho cả ăn và uống. In vốn là của Tày-Thái (dòng Âu Cơ). Chế độ mẫu hệ là có trước nên con biết nói theo mẹ trước, “ăn” nó gọi theo mẹ là In. Năm mươi con theo mẹ lên Rừng, đi về phía Tây tận hết vùng Đoài Miến, lướt “Đoài Miến”=Điện, “1+1”=0, nhiều vùng Điện là “Điện Điện”=Điền, “0+0”=1, tức Vân Nam về sau. (Vân Nam=Việt Nam, từ Việt Nam là có từ thời cổ đại, là tên chỉ địa phương của người Việt phương Nam, QT Tơi-Rỡi diễn biến âm ra vô cùng nhiều địa phương gọi là Việt Nam, song do đã biến âm nên chúng không bị trùng nhau. Ví dụ người Đài Loan gọi Việt Nam là “Oát Lâm”. Oát Lâm=Quát Lâm=Qúi Lâm=Quế Lâm – nơi có cột đồng Mã Viện, vậy Quế Lâm cũng là Việt Nam, căn cứ vào cái biến âm, không căn cứ vào cái chữ đã ghép Ngược là “rừng quế”. Việc lấy từ Việt Nam đặt tên nước là mãi sau này, thời Nguyễn, thay cho Đại Nam, Đại Việt, Đại Cồ Việt… Văn Lang). In là của dòng Âu Cơ, In là từ tổ, vì nó trực tiếp từ cái NÔI tổ mà ra, chữ I là bên Dương (Innegative), chữ N là bên Âm (negative). Nghĩa của In là “ăn uống”, là khái niệm Dương (“Nam thực như Hổ, nữ thực như miu”). Năm mươi con theo Lạc Long xuống biển là dòng Kinh-Mường, từ tổ In của mẹ Âu Cơ đã tách ra từ chi là Ăn riêng, Uống riêng. Đoài Miến vẫn giữ từ tổ là In chung cho “ăn uống”. Người Thái Lan dùng Kin chung cho ăn uống ( giống như Cắn cùng Rỡi với Ăn, Kin cùng Rỡi với In, Rỡi còn mang nghĩa là Ruột Rà, uống nước là “Kin Nam”, ăn cơm là “Kin Khao”, tức ăn Gạo, người Việt gọi là ăn Cơm, người Nhật lại phát âm Cơm là Kô Mê chỉ gạo, nho viết bằng chữ Mễ, người Hán đọc chữ Mễ là “mỉ” chỉ gạo. “In In”= Ỉn, 0+0=1 vẫn nghĩa chung là ăn uống, con lợn nó ăn uống nhiều nên còn gọi nó là con Ỉn, giống lợn Ỉn vùng Quảng Ninh có lịch sử lâu đời hàng vạn năm (người Mỹ mua về Mỹ nuôi trong nhà chung với người sạch sẽ như nuôi chó, vì nó là giống gen quí). Ỉn=Ẩm cũng vẫn là chung ăn uống. Người Việt Đông sau dùng chữ Ẩm 飲 chỉ nghĩa riêng là “uống” (Quan Thoại gọi uống là chữ Hớp 喝 phát âm là “hưa”, vì tộc quan không có âm ngậm). Thức ăn nhiều thì “Thức Thức”=Thực 食, “1+1=0, Thực có nghĩa là rất nhiều thức ăn phong phú. Người Việt Đông sau dùng chữ Thực 食 cho ý riêng là “ăn” (Quan Thoại gọi ăn là chữ Ngật 吃 phát âm là “sư”). Ẩm Thực 飲 食 rất xứng đáng đi kèm với từ văn hóa, là văn hóa ẩm thực, tức “Ăn Uống nhiều Thức”, không thể thay bằng “văn hóa ăn uống” được. Chửi nhau “ăn” nọ ăn kia, không hề có ai chửi “thực” nọ thực kia, vì Thực 食trong tiếng Việt có nghĩa là “nhiều loại thức ăn phong phú”. Ẩm Thực 飲 食 sở dĩ là từ đẹp, lịch sự vì nó là từ gốc của Việt từ thời mẹ Âu Cơ, nó đẹp vì đã qua “gia công” nhiều lớp như đã dẫn ở trên bằng QT của Lãn Miên nêu phù hợp với thuật toán nhị phân (số học nhị phân là do nhà bác học người Đức nêu ra từ thế kỷ 17, sau khi dã đọc Kinh Dịch, ngày nay thì các nhà khoa học nói “ toán nhị phân làm ra tương lai của nhân loại”). “Hầu hết” lại bảo từ Âm Thực 飲 食là “từ Hán- Việt” (Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng Viên ngôn ngữ , NXB KHXH 1991, trang 19 giải thích Ẩm 飲 là uống, trang 402 giải thích Thực 食 là ăn. Nó chỉ đúng với tiếng Việt Đông ( gọi là Việt ngữ 粵 語 chứ không phải là Hán ngữ 漢 語), không đúng với tiếng Việt Nam. Nếu Ẩm là uống , Thực là Ăn thì “du lịch ẩm thực” đổi lại là “du lịch ăn uống” cho nó “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt). Người Việt Đông dùng chữ Ẩm 飲 cho ý riêng “ăn”, và chữ Thực 食 cho ý riêng uống, nhưng vẫn hiểu hàm ý Ẩm Thực 飲 食là ăn uống nhiều thức phong phú. Cho nên ẩm thực Quảng Châu nổi tiếng xưa nay. TQ có câu thành ngữ “Ăn Quảng Châu (ẩm thực phong phú), ở Hàng Châu (phong cảnh đẹp, đất Cối Kê xưa, nổi tiếng gái đẹp), chết Liễu Châu (nhiều gỗ tốt đóng quan tài đẹp). Sài Gòn có câu thành ngữ “Ăn quận năm (có thêm ẩm thực phong phú của người Hoa), nằm quận ba ( kiến trúc Pháp đẹp và qui hoạch Pháp phù hợp mật độ dân cư và hài hòa thiên nhiên). VN có câu thành ngữ “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”. Nhưng muốn ở nhà Tây cho đúng nghĩa sướng thì qui hoach phải hiểu tường tận câu Đất Nước Rừng vàng Biển bạc, tức phải ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt.
-
Từ lặp là nhằm mục đích nhấn ý “nhiều” cho nghĩa của từ được lặp, VD “người người” là nhiều người. Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, theo đúng QT Biến thanh điệu phù hợp thuật toán nhị phân (0+0=1, 1+1=0, 0+1=1, 1+0=1. Thanh điệu nhóm 0 là “không”, “ngã”, “nặng”. Thanh điệu nhóm 1 là “sắc”, “hỏi”, “huyền” ) bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bằng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều” = Nhiêu 饒, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài” = Ngoại外, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Từ điển Yếu tố Hán-Việt Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 trong Lời nói đầu có nói: “Quá trình giao lưu ngôn ngữ đã lưu lại trong tiếng Việt một khối lượng lớn từ ngữ gốc Hán, mà các nhà Việt ngữ học thường gọi là từ Hán-Việt. Các tài liệu nghiên cứu cho biết khoảng 60% vốn từ tiếng Việt hiện đại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Ở nhiều lĩnh vực khác như Chính trị, Kinh tế, Luật pháp tỉ lệ này còn cao hơn (70-80%)”. Phân tích: Từ Ngoại Giao , Ngoại là “nhiều ngoài” do lướt từ lặp Ngoài Ngoài” = Ngoại, 1+1=0 , Giao=Trao là sự trao đổi, như nói “trao đổi công hàm”. Kết cấu ngữ pháp Ngược thì dùng từ Ngoại Giao. Kết cấu ngữ pháp Xuôi thì dùng từ Trao Ngoại, tức trao đổi với nhiều ngoài, nếu chỉ với một đối tác cụ thể, có thể dùng Trao Ngoài. Từ Trao Ngoại quả là thật chính xác như đã dẫn (lại còn phù hợp với cụm từ Trao Đổi công hàm), khi đó lướt “Trao Ngoại” =Trái=Phải=Trải=Trời (theo dấu thanh điệu thì tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái minh bạch phải trái trải theo thời gian). Nếu dùng theo ngữ pháp Ngược thì là từ Ngoại Giao, khi đó lướt sẽ cho ra kết quả do lướt là lướt “Ngoại Giao”= Ngáo = Láo = Tráo = Đảo (theo dấu thanh điệu tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái dọa dẫm ngáo ộp lắt léo tráo trở thì đổ). Ngôn từ và Qui Tắc tạo từ của tiếng Việt nó thành ra như thế đấy. Từ Luật 律 chẳng qua nó cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra”, gốc của nó là cái Lạt dang để buộc bánh chưng (thành ngữ “Lạt mềm buộc Chặt”=Luật). Lạt ấy qua luộc (tương đương với “luận”, phê bình kiểm điểm nhau người ta còn gọi là “luộc nhau”) Chín rồi thì nó thành Lạt Chín, mềm dẻo hơn; Lạt Chín = Luật Chính, ngữ pháp ngược thì gọi Luật Chính là Chính Luật. Gọi là Chín vì thời cổ đại trong khi nhiều tộc khác còn ăn sống thì đại tộc Việt đã có văn minh biết ăn chín uống sôi, ăn uống đều gọi chung là In ( thành ngữ “nhớ như In”. In = Ẩm, Ẩm Thực, In = Kin, tiếng Thái Lan dùng Kin chung cho ăn uống). “Cho In”= Chín, 0+0=1. Chín đến hoàn hảo gọi là “Chín Kinh”= Chính, 1+0=1. Chín kinh, cũng như ngon kinh là ngon đến mức hoàn hỏa do nêm nếm, chứ không phải là ngon đến “kinh tởm”. Trong từ đôi Nhiều Nhặn (Việt nho viết bằng chữ Nhiêu Nhiên) thì Nhặn nặng ý “nhiều” hơn là Nhiều. Chín Nhặn là chín nhiều, lướt “Chín Nhặn”= Chắn, 1+0=1, Chắn nặng ý “chín” hơn là Chín, ghép thành từ đôi Chín Chắn ( người trưởng thành thì đến độ Chín Chắn). “Cho In”= Chín , 0+0=1, “Chín Kinh”= =Chính,1+0=1 một từ Chính 正 của tiếng Kinh 京 mà phải qua gia công lâu thế, nếu lấy khi đang gia công dở dang thì sẽ được cụm từ “Cho In Chín Kinh”, cái mật mã này là vốn nằm trong hình thức của cái Bánh Chưng, tượng đài “không cần hoành tráng” để người Việt tìm thấy lại đúng cội nguồn. “Cho In Chín Kinh” giải nghĩa là: “Hãy nhớ Cho như In cái Chín Cung của người Kinh có từ thời Kinh Dương Vương”. Thời đó Kinh là tộc đông dân nhất trong đại tộc Bách Việt, gọi là Kinh Chúng (vài nhóm ở cùng nhau gọi là Chung, nhiều cái Chung ấy với nhau thì dùng từ lặp Chung Chung, mà lướt thì “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1, Việt nho viết chữ Chúng 众 bằng ba chữ nhân 人, “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Kinh Chúng mà nói lái lại thì là Cung Chính. Cửu Cung mà lạt chia ra trên cái bánh chưng đã nhắc nhở người Việt rằng: Phải nhớ như in Chín cái Cung ấy là phải Chính, chính xác như tổ tiên người Việt xưa đã xếp vị trí các con số, thì ứng dụng nó mới đúng. Còn bọn Ngược làm sai vị trí số của chín cung, nên mới sinh ra lắm trường phái, cãi nhau ( “tranh minh 爭 鳴” hùng biện) mấy ngàn năm nay mà ứng dụng vẫn sai. Chín cũng là con số 9. Trùng âm nhưng cũng là do có quan hệ ý nghĩa. Gọi là hệ số thập phân có con số 10 là khi số học đã có dùng số 0. Thời cổ đại để đếm thì chỉ đếm từ 1 đến 9 rồi quay vòng lại số 1 (Khơ Me chỉ đếm đến số 5 rồi quay lại số 1, là hệ đếm ngũ phân). Cho nên đếm đến 9 là xong, là hoàn hảo, “gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao” là quí nhất, vàng còn đòi tới bốn số Chín mới coi là vàng Chắn (ngược lại chỉ là vàng Chành tức vàng giả,vàng tây). Kéo quả cân cho đến vạch mà cán cân thăng bằng nhất , tức đã đúng trọng lượng vật cân thì gọi là Chấn Cân . Khi bán hàng mà phải cân thì hai người bán và mua cùng coi cân để xem đã Chấn Cân chưa, hai người cùng chứng giám cái Chấn đó thì là “Chấn Chấn”=Chân 真,1+1=0, đó là sự cân bằng hoàn hảo (rồi dùng ghép thành từ Chân Thật). Khi đã có cái “thành phẩm” từ là từ Chân 真chỉ sự cân bằng hoàn hảo thì người ta chỉ dùng từ Chân mà “qua cầu rút ván” cái “phôi gia công” đang là cái “sản phẩm dở dang” là Chấn Chấn. Chữ Cân 巾của Việt nho để chỉ cái Cân 巾, cũng đại diện cho cái Khăn 巾, vì khăn đội trên đầu của đàn ông, đàn bà người Việt hay người Chăm đều rất cân đối (nhìn cái khăn mỏ quạ của người quan họ thì rõ, đến mái tóc con gái còn rẽ đường ngôi giữa). Hán ngữ dùng chữ Xứng 稱 là chữ sau trong từ đôi Cân Xứng để gọi cái cân, phát âm là “chen”. Hán ngữ không có từ Cân Xứng. Vậy chữ Xứng 稱 cũng là từ Việt, có nghĩa như Cân, để ghép thành từ đôi Cân Xứng. Chữ Xứng 稱 này cũng là chữ Xưng 稱 , hai người đối thoại cùng Xưng thì “Xưng Xưng” = Xứng , 0+0=1, nghĩa đen là bằng nhau , không ai cướp lời ai (thành ngữ “xứng đôi vừa lứa”) , còn nếu một bên lấn át bên kia thì gọi là Xưng Xỉa. Cân 巾Bằng 平 Kinh 京 - Cân = Kinh, (nhìn ba chữ của Việt nho vừa nêu thấy nó vẽ nên sự cân bằng như thế nào). Khen “món ăn này ngon kinh” tức món ăn này ngon đến độ hài hòa cân bằng do nêm nếm chứ không phải là ngon đến mức “kinh tởm”. Hán ngữ dùng chữ Cân 巾 chỉ cái khăn, phát âm là “jin”, còn thì không hiểu cân là cân bằng, ý “cân bằng” Hán ngữ dùng chữ Bình 平, hay Bình Hành 平 衡. Nhưng từ Bình cũng vẫn là từ Việt, “Bằng 平 Kinh 京” = Bình 平, 1+1=0 (chẳng phải là ba chữ này đều vẽ cân bằng đó sao?). Kinh 京 sở dĩ cân bằng vì đường kinh mạch trong cơ thể chia dọc cơ thể là đối xứng cân bằng. Hán ngữ lại dùng chữ Kinh 經 là đường kinh (sợi dọc) trong dệt vải, chúng lấy cái gì làm trục để mà đối xứng ? Kinh 京 và Kinh 經 nguyên thủy đều chỉ là từ cái âm Kinh Lạch chỉ những dòng nước chảy dài trên đồng ruộng lúa nước của người Việt. Kinh Lạch = Kinh Lạc, đã mượn âm, nâng nghĩa khoa học thành để chỉ hệ thống mạch kinh lạc trong cơ thể (GS Nguyễn Tài Thu nói: “Châm cứu đã được người Việt phát minh từ thời Thần Nông, lúc đó kim châm cứu là mài chuốt bằng đá”). Cân để biết trọng lượng một vật mà đến Chấn vạch trên cán cân cho cân bằng là Kịch=Cực, quá nữa thì dư, dư thì bán lỗ. Số 9 đã chỉ rõ vị trí địa lý của nước Tần theo Dịch học của người Việt là ở tận phía Tây, đến đó là Chấn rồi, “Tây Chấn”= Tần, 0+1=1, là cái tên mà người Việt đặt để gọi nước đó. Vì vị trí địa lý của Tần ở số Chín, nên người Việt cũng gọi là nước Chín (Hán ngữ phát âm là “chín”- pinyin “qín”, nhưng âm tiết này trong Hán ngữ không có nghĩa là số 9). Từ Chín này người Ấn Độ phiên âm là China, phương Tây cũng theo đó gọi là China. Xưa đồ sứ Giang Tây của người Việt bán sang phương Tây khi người phương Tây còn chưa biết đến làm men sứ, cho nên phương Tây gọi đồ sứ là “china”.
-
Đúng như thế, Nếu nói về hành tinh Trái thì người Việt biểu diễn nó bằng hình Tròn giống như Trời và Trăng là những cái có Trước (hình tượng Trời bằng chiếc bánh Dầy hoàn toàn trong trắng không có áo gói, câu “Khí trong nhẹ nổi nôi Trời, khí trọc nặng lắng thành nôi Trái mà” của bài Ấu học giải thích về sự hình thành Vũ Trụ, trong quyển Ấu Học Quỳnh Lâm được sưu tầm từ ca dao truyền miệng của người Việt ghi lại thành sách viết bằng chữ nho thời nhà Tùy). Còn nếu nói về Trái với ý là hành tinh, có lẽ là duy nhất, có con người đã khai thác thì người Việt biểu diễn nó là Đất bằng một hình vuông, từ đôi Trái Đất đã tự nó nói lên ý xưa (Trái) và nay (Đất) của chính nó, bằng cái “ý tại ngôn ngoại”. Câu đối cũng hay viết kiểu có “ý tại ngôn ngoại” như vậy. Câu trên phải luận vài chữ: ĐẠI GIA TỰ CỔ TRUYỀN KHOA GIÁP 大嘉自古傳科甲 ẤU HỌC VU KIM HỮU ĐIỂN HÌNH 幼學於今有典型 Chữ Đại: Lớn Lao (rộng Lớn và đã có từ Lâu Lắm rồi). Chữ Gia: Già Lão (=Dài Lâu) đáng tự Hào khen ngợi (“Đi ra hỏi Già, về nhà hỏi Trẻ”) Cổ : Của Tổ=Cổ (Cổ=Cũ. Khi đã khai thác nông nghiệp Ra bắc, mở rộng ra thành Lưỡng Quảng, rồi cứ thế tiếp Ra bắc nữa rộng Ra về phía đông và phía tây, người Việt cổ vẫn nhớ đất Cũ, dấu thanh điệu nhóm Âm, hướng nội, nên những cái Cũ gọi là “Của Tổ”=Cổ, dấu thanh điệu nhóm Dương, hướng ngoại. Việt Nam là mảnh đất cội nguồn của Bách Việt.(Ruộng=Vuông=Văn=Vành-Vạnh=Mảnh. “Vuông” là tiếng Mân đọc chữ Văn, “Mảnh” là tiếng Việt Đông đọc chữ Văn) Truyền: Đưa lại Khoa: Chế độ khoa cử (là chế độ thi tuyển đương thời của người viết câu đối này). Giáp: Chữ đầu của thiên can, dùng đại diện cho ý đầu bảng, hàng đầu Ấu học: Ý nhắc cuốn Ấu Học Quỳnh Lâm (nghĩa là “trẻ con học sẽ thành những viên ngọc đẹp và đông như rừng) Vu Kim: Với nay Hữu Điển Hình: Vẫn là cuốn sách giáo khoa điển hình Cả câu nghĩa đương thời là: Cái lớn lao lâu đời đáng tự hào khen ngợi của Tổ Tiên đem lại cho ta trí tuệ thành đạt đứng đầu trong thi cử. Tư tưởng minh triết của người Việt từ thời Văn Lang vẫn là đúng nhất cho nhân loại ngày nay.
-
Đất Nước Rừng vàng Biển bạc Từ Đất/Nước kết cấu như cặp đối Dương/Âm. Chỉ có người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước, hàm nghĩa là một “Môi trường sinh thái cân bằng”. Anh ngữ chỉ gọi xứ sở là Land, Hán ngữ gọi xứ sở là Quốc Thổ hay Lãnh Thổ. Cặp đối Đất/Nước (Dương/Âm) tương tự cặp đối Trời/Đất. Kết cấu của các cặp từ đối ấy tự nói lên rằng sự sinh ra Vũ Trụ là Dương có trước Âm, Dương sinh ra Âm, như thành ngữ “Trời Tròn Đất Vuông”, “Mẹ Tròn con Vuông”. Ghép Tròn với Vuông theo đúng Dương Âm là Tròn Vuông = =Trọn Vẹn, chỉ sự hoàn hảo, cũng là “Cân bằng sinh thái”. Qui hoạch cái gì, từ qui hoạch một thành phố, qui hoạch một doanh nghiệp , qui hoạch một việc nhỏ đều là: muốn được Trọn Vẹn phải theo đúng Âm Dương Ngũ Hành, tức phải dùng cái nhìn của Phong Thủy Lạc Việt. Khi biểu thị Trái Đất bằng hình Vuông là người Việt ám chỉ Đất ấy là đất đã có loài người khai thác (do Ruộng=Vuông=Văn文=Vành - Vạnh=Mảnh. Chữ文 người Triều Châu đọc là “vuông”, người Quảng Châu đọc là “mảnh”) , tức trái đất đã có văn minh, đời sống xã hội loài người đã có quốc gia, chia nhau mối quốc gia một Mảnh trên trái đất. Từ hai âm tiết Trái Đất (sẽ chứng minh nó là từ đôi, tức Trái=Đất), Trái Đất nếu mà theo ý “cái đầu tiên” thì gọi tắt là Trái, đúng với cặp đối Dương/ Âm nguyên thủy của Trời/Đất là Trời/Trái (cặp đối nguyên thủy là hai từ trong cặp đó phải là cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi). Từ đôi Trái Đất nếu mà theo ý “cái nhiều hơn” thì gọi tắt là Đất, vì loài người sinh ra và nhiều dần lên là ở trên mặt đất, chứ không phải là ở dưới nước như loài đơn bào đầu tiên của sự sống, ý “nhiều” là loài người nhiều lên đồng thời khai thác cũng nhiều lên đối với trái đất. Cặp đối nguyên thủy của Đất/Nước là cặp Đất/Đức. Đất=Thật (thành ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng”). Đức=Thực (người có Đức là người chân thực). Như vậy Đất/Nước = Đất/Đức = Thật Thực, đó chính là cái môi trường sinh thái lý tưởng nhất vì nó còn chân thực, còn Trọn Vẹn (tức là một sinh thái có Đức), chưa bị tàn phá, ô nhiễm để biến thành một sinh thái Đểu. Chữ Đức 德 của Việt nho ( từ Việt nho dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ ở đây có nghĩa là “từ của Tiếng Việt viết bằng chữ nho của ngườiViệt” ) viết có nghĩa là sự đầy đủ, chu đáo đối với thiên hạ, gọi là sống có Đức. Nguyên gốc của nó chỉ có nghĩa là nước , trong nôi khái niệm Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đủ=Đầy=Đác=Nác=Nước. Túc=Đức=Đủ=Đầy=Đầy-Đủ, là bản chất của nước, là Đầy=Đẩy vì bản chất của nước là luôn có xu hướng Nống=Nở Rộng ra mọi phía. Nói Đất Nước Việt Nam có nghĩa là xứ sở tên là Việt Nam, nhưng riêng từ Đất Nước đã bao hàm ý nghĩa là nơi sinh thái cân bằng, là nơi chân thực, nơi đó nhân dân thuần phác và nhân hậu. Các ngôn ngữ khác không thể có được cái “ý tại ngôn ngoại” này vì họ không dùng từ Đất Nước để chỉ xứ sở của mình. Cặp đối Trời/Đất nguyên thủy là Trời/Trái. Ta thường nói “Dương và Âm như haì mặt Phải và Trái”, thì đúng như vậy, vì Trời=Trải=Phải, đương nhiên Đất=Trái, từ Trái Đất là một từ đôi, Trái là nói khi địa cầu đang còn nguyên thủy, Đất là nói địa cầu khi đã được con người khai thác bề mặt để làm Ruộng, từ buổi bình minh của nền nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, là của người Việt cách nay hàng vạn năm, Ruộng=Vuông= Văn=Vành-Vạnh=Mảnh, là nền văn minh lúa nước của dân Việt nước Văn Lang ở nam Dương Tử. Nếu nói về hành tinh Trái thì người Việt biểu diễn nó bằng hình Tròn giống như Trời và Trăng, còn nếu nói về Trái với ý là hành tinh có lẽ là duy nhất có con người đã khai thác thì người Việt biểu diễn nó là Đất bằng một hình vuông, từ đôi Trái Đất đã tự nó nói lên ý xưa (Trái) và nay (Đất) của chính nó, bằng cái “ý tại ngôn ngoại”. Biểu tượng Đất bằng hình Vuông của bánh chưng vuông hay bằng đá vuông như Yoni là nói rằng Đất Nước văn minh, khi đã thừa biết các hành tinh do Vũ Trụ sinh ra như Trời=Trăng=Trái đều là = Tròn=Còn, cái nôi khái niệm nói lên sự tồn tại vĩnh cửu của chúng là Còn=Tròn=Trời=Trăng=Trái=Mãi, tức chúng luôn luôn là Già. Từ nguyên của từ Giời Già (giọng Kinh Đô) là từ Trời Tra (giọng Nghệ). Từ Vũ+Trụ có nghĩa là Không Gian+Thời Gian (giải thích của Từ điển Hán-Việt). Vũ Trụ là một từ gốc Việt cổ xưa nhất. Vì: (1) Vũ là do lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng QT Thanh điệu: 1+1-0 của thuật toán nhị phân); (2) Trụ là do lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng QT Thanh điệu: 1+1=0 của thuật toán nhị phân). Hai từ Vũ và Trụ là cùng nôi khái niệm “thuộc Trời” vì vậy khi nguời Việt bỏ chữ khoa đẩu chuyển sang viết bằng chữ nho thì hai chữ đó đều có chung một cái Tơi là bộ thủ Miên 宀 đặt phía trên (Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên; Trời=Trải=Phải=Mái=Miên). Ủ là một sự chuyển động, cũng giống như sự lên men vậy. Hai chữ Vũ Trụ nho viết bằng ghép chữ biểu ý, đọc chỉ cần lướt các bộ ghép là ra: (1) Do Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên 宀; Ủ=Ứ=Ư 于 nên Vũ 宇 được ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và Ư 于 thành chữ Vũ 宇, đọc bằng lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng dấu 1+1=0); (2) Do Trời=Trải=Phải=Mái=Miên宀; Ủ = Du 游 = Do 由 nên chữ Trụ ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và Do 由 thành chữ Trụ 宙 đọc bằng lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng dấu 1+1=0). Bộ thủ là của Việt, từ Bộ Thủ 部 首, nghĩa là “bộ đầu” là cái bộ ở vị trí đầu chữ (tức cái Tơi của lời), ghép theo ngữ pháp Việt ( nếu là của Hán thì đã ghép theo ngữ pháp Hán là Thủ Bộ 首 部). Thủ=Tu (xúc tu là tay của loài côn trùng)=Tay=Tơi. Rõ ràng là xét về dấu thanh điệu (mà chỉ ở tiếng Kinh mới tìm ra được QT Thanh điệu mà Lãn Miên nêu: “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1) thì Vũ=1+1=0, Trụ=1+1=0. Vậy Vũ Trụ bắt đầu là từ một “Cái Không Vô Định” (giống như Thiên Sứ khẳng định: “Không có hạt của Chúa”). Nhưng “Cái Không Vô Định” ấy lại là cái Có, vì Vũ=0, Trụ=0; Vũ Trụ=0+0=1 (đúng thuật toán nhị phân). Đúng là Sắc Sắc Không Không. “Cái Không Vô Định” đó gọi là Trời (Hán ngữ phải gọi là Thiên Không). Người Việt than vãn“Trời Ơi” là ám chỉ cái Không (không rõ nguyên nhân), còn “Cái của Trời Ơi” là chỉ cái của cải bỗng nhiên mà có, không biết do đâu đem lại. Ủ là thuộc tính của tự nhiên, là một sự chuyển động của tự nhiên, giống như lên men , thì phải có Đủ thời gian mới thành. Ngày nay văn minh công nghiệp (lấn át văn minh nông nghiệp) dùng công nghệ để rút ngắn quá trình Ủ, muối cá là có ngay nước mắm chứ không phải cất nước nhĩ một hai năm; rượu mới nấu xong cho qua máy là có thể thành ngay rượu bằng rượu cất 5 năm hay 15 năm. Tuy nhiên công nghệ ấy cũng chẳng Đọ được với Trời, chỉ cho ra hàng dởm mà thôi, chất lượng không thể nào bằng Ủ tự nhiên được, cũng giống như thịt heo nuôi bằng thuốc tăng trọng hay bằng thuốc tăng nạc. Trà đen Phổ Nhĩ của người Thái ở Vân Nam theo cách Ủ cổ truyền là càng Ủ lâu năm thì cho ra chất lượng trà càng tốt, càng có giá cao. Hệ đếm nhị phân là từ qui tắc Dương/Âm, hệ đếm chỉ có hai con số, số thứ nhất là 1, số thứ hai là 0. Cặp đối 1/0 tương đương cặp đối Trời/Đất. Vì: Trời=Trụ=Chủ=Chúa=Chắc=Chốt=Cột=Một, là con số thứ nhất, tức số 1của hệ nhị phân. Cho nên người Việt mới có tục trồng cột Nêu tế Trời ngày mồng 1 Tết. Đất=Đồng=Hồng=Hai=Trái=Vài=Vuông, là con số thứ hai , tức số 0 của hệ nghị phân, (Đồng là đồng ruộng, Hồng 洪là rộng, “Đất Rộng”=Động 洞 ý chỉ một vùng. Người Việt ví Đất đã có loài người khai thác là hình Vuông (Ví là lời so sánh : Ví=Ví-Von=Van=Vân=Ngân=Ngâm-Nga=Ngữ=Ngôn=Ngợi=Lời). Ruộng=Chuộng=Vuông=Vốn=Bốn=Bổn 本 = Bản 本. Hình vuông chỉ có Vài cạnh, chính xác là Bốn cạnh, chưa đến Dăm cạnh. Ruộng là cái Vốn quí nhất của nhân loại từ buổi bình minh của văn minh nông nghiệp hàng vạn năm trước cho đến ngày nay. Người Việt ham chuộng hình vuông ( áo cổ vuông của thủy thủ, trang trí hình vuông trên ngực áo hay lưng áo của các sắc tộc) vì chuộng Ruộng và chuộng cái lỗ Vuông là đồng tiền, tức ham chuộng cái Tư Bổn từ trong ngôn từ cổ đại, mắc mớ gì mà không theo. Cái Vốn=Bổn=Bốn là gồm: Nhân tài, Tiền tài, Khí tài, Nghệ tài. Có bốn yếu tố cần và đủ ấy để làm sản xuất kinh doanh nên người Việt mới nói câu “Làm ăn thì một vốn bốn lời” (người Hán lại đòi “Nhất bản vạn lợi” ! ). Do chuộng hình vuông nên quốc gia đầu tiên của nguời Việt cách nay 5000 năm ở nam Dương Tử đặt tên là Văn Lang 文 狼 = Vuông Lớn, có cờ cũng là cờ hình vuông (như vẫn còn thấy ngày nay ở các đình chùa). Do ví Đất là Vuông nên người Việt mới chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa, với nghĩa Tròn Vuông=Trọn Vẹn (tức giao dịch phải sòng phẳng), bằng hình ảnh Tròn/ Vuông=Trời /Đất (tức giao dịch có Trời Đất chứng giám), đó là chữ Tín. (Chữ Tín 信 là do chữ Tin, nhấn ý tin thì dùng từ lặp Tin Tin, nhưng lướt thì “Tin Tin”=Tín, đúng dấu thanh điệu 0+0=1 của thuật toán nhị phân của người Việt. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN1991 cho rằng từ Tín 信là “từ Hán-Việt”, trang 415). Đồng tiền cổ nhất của người Hán là hình tròn có lỗ tròn ở giữa. So với lỗ tròn thì lỗ vuông nó ma sát sắc hơn với sợi dây xâu các đồng tiền, dở thế, vậy mà người Việt vẫn chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa như hình ảnh Trời/Đất, chứng tỏ người Việt coi trọng cái ý nghĩa hơn cái thực dụng ( thành ngữ Việt “Lễ mọn lòng thành”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Do trọng nghĩa nên có từ ghép Trọng Nghĩa đều dấu thanh điệu nhóm 0 (nhóm 0 là chỉ cái tư duy hướng trong, chưa ra hành động như nhóm 1. Nói “tôi trọng anh lắm” hay “tôi nghĩa với anh lắm”, như nhau, nhưng mới chỉ là suy nghĩ bên trong, chưa thể hiện bằng hành động cụ thể. Vì Âm là nặng hơn Dương, thủa hình thành Vũ Trụ thì “Khí trong nhẹ nổi thành Thiên, khí Trọc nặng lắng thành nên Đất mà”, nên Trọng Nghĩa đều mang dấu nhóm 0). Người Việt coi trọng đồng tiền do đổ mồ hôi mà có. Vốn xưa người Việt chế đồng tiền bằng vỏ Bối 貝 để làm phương tiện trao đổi. Sự đổi của người Việt rất là thật thà ( thành ngữ “Khôn ngoan chẳng đọ thật thà”) kể từ khi còn là hình thức vật đổi vật (những tục như chợ Viềng ở Nam Định hay chợ “ma” họp ban đêm ở các nơi khác còn đến ngày nay), trẻ con thường Đổi những vật chúng kiếm được cho nhau mà không hề so đo giá trị,(bời vì ở cái nôi khái niệm “sự chân thật nguyên thủy” thì: Trời=Trải=Phải=Trái=Trồi=Đổi=Đất=Thật). Cái đổi thật thà ấy mới là Đổi=Bối =Báu = =Bảo . Từ Báu sinh ra là từ khi người Việt biết dùng vỏ Bối làm đại diện giá trị trao đổi, người ta chế tiền bằng cách trau chuốt vỏ Bối cho thật đẹp, lướt “Bối Trau”=Báu, dùng Bối làm phương tiện trao đổi thì lướt “Bối Trao”=Bảo 寶. Từ đôi Bảo Bối hay Báu Bối ám chỉ cái quí của sự chân thật trong trao đổi. (Ngày nay ngành ngoại giao dùng cụm từ “Trao đổi công hàm” cũng hàm ý quí báu như trao đổi trong giao dịch mua bán vậy). Sau, người Việt chế đồng Tiền (như Cam Pu Chia gọi là đồng Riên) bằng đồng, rồi bằng Bạc, gọi là đồng Bạc (như Thái Lan gọi là đồng Bạt), đồng tiền kỷ niệm thì làm bằng Vàng. Bạc và Vàng đều là kim loại quí nên từ ghép Vàng Bạc đại diện cho nghĩa Qúi Báu (nguyên thủy của từ Qúi Báu là từ Qui Bối, vì người Việt cổ đại dùng mai rùa-Qui để viết chữ và dùng vỏ Bối để làm đồng tiền. Giáp cốt văn chính là của người Việt, là chữ khắc trên mai rùa. Rùa là con vật đi chậm chạp, Rùa=Rù Rà=Rù Rì=Rì=Qui. Qui Bối=Qúi Báu. Bản thân từ đôi Qúi Báu đã nói lên cái “ý tại ngôn ngoại “ của nó là Sĩ – kẻ viết chữ và Thương – kẻ đi buôn đều được người Việt cổ đại coi trọng như nhau vì đều là Qúi Báu của xã hội). Cặp đối Rừng/Biển đại diện cho nghĩa Đất/Nước, bởi Đất/Nước hàm ý là “Sinh thái cân bằng” thì nó phải có Rừng và có Biển. Đất và nước là yếu tố đầu tiên cho nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà người Việt có sớm nhất nhân loại. Kỹ thuật canh tác lúa nước là “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống” cho thấy là người Việt cổ đại đã biết làm nền nông nghiệp bền vững, biết nuôi cây đồng thời biết nuôi đất, nên mới hiểu được là Đất=Thật và Đức=Thực. Câu tục ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng” đủ thấy người Việt cổ đại hiểu rằng đối xử với đất và nước bằng thái độ như thế nào thì đất và nước cũng sẽ đối xử lại bằng thái độ như vậy. Giao dịch với đất và nước cũng phải như giao dịch mua bán qua đồng tiền Tròn Vuông, nghĩa là phải Trọn Vẹn (sòng phẳng), có Trời/Đất chứng giám, bởi vậy chẳng ai dám làm ô nhiễm môi trường. Năm nghìn năm trôi đi, trên cùng một mảnh “ruộng mật bờ xôi”, hột nếp trồng ra vẫn thơm dẻo như nếp gói bánh chưng thời Vua Hùng. Đất Nước Rừng vàng Biển bạc là câu người Việt chỉ xứ sở mình với nghĩa chính yếu là “Môi trường sinh thái cân bằng còn nguyên rừng , nguyên biển, là cái quí báu nhất sánh ngang bạc, ngang vàng”. Văn minh công nghiệp chắc không cần ý đó nên ngày nay người ta có thể qui hoạch hoành tráng cho dân cả một quận sống trong chỉ một chung cư vĩ đại cao mấy trăm tầng (sống như những robot), toàn bộ nước thải sẽ dùng công nghệ đắt tiền xử lý lại trở thành nước uống.. Những người không hiểu nghĩa chính yếu vừa nêu của câu “Đất Nước Rừng vàng Biển bạc” thì chê bai rằng: Nước ta tài nguyên ít ỏi, khai thác đã gần cạn kiệt, còn đâu mà cứ dạy trẻ con ca tụng mãi câu “Đất nước rừng vàng biển bạc”. Nghĩ như họ là do họ có thói ăn sẵn, họ có thể vô cảm qui hoạch lấy cát san lấp ruộng mật bờ xôi để làm khu công nghiệp hay sân gôn, mà không chọn những nơi sỏi đá vì sợ tốn công san ủi. Tư duy ăn sẵn vốn có xuất xứ từ dân du mục cổ đại phương Bắc, chứ không phải xuất xứ từ dân nông nghiệp trồng trọt cổ đại phương Nam. Hai mươi mấy năm trước tôi có đi chơi Tây Đức một lần, thấy họ giữ gìn được cái tinh túy của văn minh nông nghiệp cổ xưa, tức môi trường sinh thái rất tốt. Vào một nhà máy sản xuất điện tử, được nghe giám đốc nhà mãy kể rằng: Nhà máy là do ông chủ tư bổn người Đức từ Mỹ về đầu tư sau thế chiến hai. Khi đó ông thống đốc bang này chỉ cho ông chủ tư bổn thấy cái gò đất sỏi như ốc đảo hoang giữa cánh đồng trồng khoai tây xanh tốt, nói rằng:”Đó, tôi cho anh thuê cái gò đất không trồng được gì ấy mà đặt nhà máy, cho anh thuê đất ở quãng ngắn nhất từ gò ra đường cái để anh làm một con đường nhựa chỉ để đi lọt một xe contenơ. Nhưng cũng bảo cho anh biết một điều bất di bất dịch là, nếu tôi phát hiện ra dù chỉ một giọt nước ô nhiễm của nhà máy anh ra cánh đồng thì tôi sẽ ra lệnh đóng cửa nhà máy anh ngay lập tức”. Nhà máy sản xuất bảng mạch điện tử, xứ lý nặng nề nhất là nước thải từ hóa chất dùng làm ăn mòn mạch in, giá tiền khu xử lý ngang bằng giá tiền xây nhà máy. Vậy mà mấy chục năm hoạt động chưa hề có một giọt nước ô nhiễm nào ra cánh đồng. Tôi đưa mắt ngắm lại lần nữa cánh đồng, vẫn là trồng khoai tây lên xanh mơn mởn, ngẫm rằng ông chủ tư bổn đúng là giữ lời hứa Thật từ khi bắt đầu dự án, nên nhiều thống đốc bang kế nhiệm chưa ông nào phải ra lệnh đóng cửa nhà máy. Còn nhiều lắm những ví dụ tốt đẹp về đất nước tự do rất có kỷ luật này nhưng không kể ra đây vì lạc đề. Tôi chỉ nghiệm được rằng: cách quản lý đơn giản nhất là hiệu quả nhất. Ví dụ bảng ở chỗ ngồi chờ xe búyt không phải là vẽ các quảng cáo màu sắc đẹp cho các loại hàng hóa (do cho thuê quảng cáo để lấy tiền) mà là tấm bản đồ các tuyến xe buýt, rõ ràng tên phố, tên trạm dừng , kể cả thời gian hao từ mỗi trạm đến trạm tiếp theo. Biển tên phố thấy rõ ở ngã tư đường, hình chữ nhật nhưng có viền trong màu trắng nổi bật, ở một đầu ngang , đường viền ấy vẽ thành góc nhọn như mũi tên, rõ là đường ấy là đường một chiều, dưới tên phố còn ghi số nhà từ ngã tư này tới ngã tư tới là từ số mấy đến số mấy; một cái biển đơn giản mà hiệu quả cho nhiều việc của nhiều ngành, hơn là nhiều biển chỉ dẫn. Cổ xưa từ tiếng Việt vốn có Đất/ Nước=Đất Đức=Thật Thực. Băn khoăn cái ước vọng là khi nào thì Đất Nước Ta ngang bằng được với Đất Nước Đức, không biết dành ai trả lời. Nôi khái niệm của nước là: Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đen=Đác=Nác=Nước=Nam=Nậm=Lầm=Thâm=Than=Thủy. Màu ngũ hành của nước là màu đại diện cho nước theo thuyết ÂDNH, không phải là màu thật bản chất của nước. Trong nôi khái niệm trên thì các từ Đen, Lầm, Thâm, Than, Thủy dùng gọi màu ngũ hành của nước. Sau người ta lấy màu ngũ hành gọi tên vật thể có màu như vậy, viết bằng chữ nho, như chữ Thủy 水hiểu là nước, chữ Than 碳 hiểu là Mun (người Việt vẫn nói “lấy bớt tro, mun trong bếp ra”), Lầm, Thâm hiểu là tên riêng chỉ mấy loại vải có màu sẫm đậm. Chữ Đức 德 vốn là nước (là “tức” trong tiếng Khơ Me). Đức=Đủ=Đầy=Đẩy (là bản chất cái Năng của nước). Cái Tế Vi , lướt “Tế Vi”=Tí . Cái Tí của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Dương/Âm là Tá/Té=Hỏa/Thủy, tức cái Năng của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Nắng/Nước (Nắng=Nướng=Dương; Nước=Nậm=Âm). Con người là một tiểu Vũ Trụ, nên cái Năng trong cơ thể cũng là một năng lượng vô hình như cái Năng của Vũ Trụ, nó vô hình vì Năng= Chăng = Khăng = Không. Trong cơ thể thì cái Năng này có phải là cái Khí như đông y gọi ? Khăng=Không nên Khăng+Khăng=0+0=1 theo thuật toán nhị phân, đúng như lướt từ lặp “Khăng Khăng”=Khẳng, đúng dấu theo thuật toán nhị phân 0+0=1, là khẳng định . (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 giải thích Khẳng 肯là có, nhưng coi là “từ Hán-Việt, trang 201). Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bẳng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều” = Nhiêu 饒, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài” = Ngoại外, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. “Hầu hết” đều cho rằng từ Ngoại Giao 外 交 là từ Hán-Việt. Thực ra nó chỉ là từ Việt đã bị Hán hóa theo ngữ pháp của Quan Bắc Thoại, không còn giữ theo ngữ pháp Tiếng Việt. Nguyên gốc của từ Ngoại Giao là từ Trao Ngoài, mà Trao Ngoài tức giao tiếp với người khác thì phải như lướt “Trao Ngoài”=Trái=Phải=Trải=Trời, tức phải minh bạch phải trái như Trời. Trao Ngoài = Giao Ngoại, ngược theo ngữ pháp Hán thì Giao Ngoại=Ngoại Giao. (Vậy Ngoại Giao là phải minh bạch phải trái như từ gốc Trao Ngoài, hay Ngoại Giao là lươn lẹo nói một đàng làm một nẻo?). Từ Ơi nghĩa là cái tín hiệu gọi đối tượng đến với mình. Hán ngữ không có từ Ơi tín hiệu này, nhưng ở các ngôn ngữ của Việt Nam, Cam Pu Chia, Lào , Thái Lan thì từ Ơi dùng hàng ngày. Nguyên thủy nó là từ Ời của Tiếng Việt, lặp thì là Ời Ời (như câu ca dao cổ: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa van cha ời ời. Cha thì cắt cỏ trên trời. Mẹ thì cưỡi ngựa đi mời quan lang), lướt thì “Ời Ời”=Ơi, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Ơi là muốn đưa về mình, nôi khái niệm đó là Mời=Ơi=Ăn=Uống=Ẩm=In=Ấn=Nhấn=Nhận=Nhồi=Nhét=Nhịn = Kin (là ăn, uống của tiếng Tày Thái)=Nín=Xin=Thín=Thỉnh 請 của cái nôi khái niệm chung là “đưa vào mình”. (Nhặn là nhiều, cặp đối Nhặn/Nhẵn, Nhẵn là không còn gì, Nhẵn Thín là “không còn gì đưa vào mình” nữa, “ăn hết nhẵn thín rồi”). Hán ngữ dùng từ Thỉnh 請 với nghĩa là đưa về mình, tức là Mời=Ơi. Nói lịch sự thì dùng từ đôi để nhấn mạnh ý là từ Xin Mời, hoặc dùng từ lặp Mời Mời, lướt thì “Mời Mời”= Mơi, đúng dấu 1+1=0 của thuật toán nhị phân. Người Thái đã mượn cái từ Mơi lịch sự này nên người Việt nhường hẳn từ đó cho người Thái, tiếng Thái nói Mơi nghĩa là Mời. Người Việt hay Mời, có ăn thì “Mời khắp Sóc” = “Mời…Sóc” = Mọc, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Thành từ đôi Mời Mọc nghĩa là hay mời, đó là cái quan hệ tình làng nghĩa xóm của dân ăn trầu, “ăn ở với nhau như đọi nước đầy”. Sóc là một từ Việt cổ dùng chỉ cụm dân cư nhỏ ở rải rác (vẫn còn dùng trong tiếng Khơ Me). Sóc=Hóc=Ngóc=Chóc=Chòm=Xóm=Thom=Thôn 村=(= “xun 村” như Hán ngữ gọi lơ lớ từ Xóm). Ở thành cụm dân cư hẻo lánh thì gọi là ở Chóc Ngóc, hay ở Hóc Bò Tó. Dân ở “Thành Xóm”=Thom, dấu 1+1=0 đúng thuật nhị phân . Ở thành Xóm Thom tức rất rải rác nên Sóc=Sưa=Sót=Lọt=Lạc落. Chữ Thôn Lạc 村 落 của người Việt là chữ mà Hán ngữ mượn dùng, phát âm lơ lớ là “xun lua 村 落” để chỉ Xóm Sóc. Lớn hơn đơn vị Xóm Sóc thì người Việt gọi là Làng. Làng=Hạng 巷 (con hẻm)=Hương 郷. Đơn vị dân cư cấp cơ sở mà Hán ngữ dùng đều là của Tiếng Việt. Dân thì thường gọi từ cấp nhỏ lên cấp to hơn là: Xóm, Làng, Xã, Tổng. Quan thì hay gọi từ cấp trên xuống theo lộ trình đi kinh lý của quan là : Làng Xóm, nho viết bằng chữ Hương Thôn 鄉 村. Muốn gọi lại với mình, tức Muốn Ơi, mà lướt thì “Muốn Ơi”=Mời, dấu 1+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Muốn có của cải tức Muốn Của thì lướt “Muốn Của” = Mua, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, (Muốn Của=Mua , đẳng thức này nói lên rằng từ trong tư duy, người Việt rất sòng phẳng); và lướt cả câu “Muốn có của Cải”=”Muốn… Cải” = Mãi買. Từ Mãi買này Hán ngữ dùng với nghĩa là mua, phát âm là “mải 買”, nhưng nó là một từ gốc Việt. Mua nhiều thì dùng từ lặp là Mua Mua, lướt thì “Mua Mua” = Múa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Hoạt động mua nhiều của thương nhân là lướt cả câu “Múa đi bán Lái”= ”Múa…Lái” = Mại 賣, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, Lái đây là Lái Buôn, là Thương Lái. Thương Lái là gọi tắt cụm từ “Thương hồ lái buôn”, người Việt cổ đại là đi buôn bằng phương tiện thuyền bè, “thương hồ” chỉ xuồng đi sông biển (Xuồng=Thuồng=Thương=Thuyền, nó giống như con Thuồng Luồng đi trên nước), phải lái xuồng đi nên gọi là “lái buôn”. Thương Mại là từ Việt, có nghĩa là cái hoạt động “Thương hồ mua nhiều (múa) rồi đi bán cho lái buôn khác”. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 253, từ Mãi 買là mua, từ Mại 賣 là bán, là “từ Hán-Việt”). Hán ngữ mượn từ Mãi Mại 買 賣 để nói ý Mua Bán, làm sao đủ ý như từ Mại 賣 vốn là của Tiếng Việt được. Lùi về “cổ Hán ngữ” thì mới còn từ Bán của Tiếng Việt, viết bằng chữ nho Phán 販 ; Hán hóa ngữ pháp thì có từ ghép Tiểu Phán chỉ người bán nhỏ小販; còn Buôn thì vì Hánngữ không có vần “uôn” nênphải ghép hai chữ là chữ Bán 販 và chữ Mại 賣 để chỉ ý Buôn, đó là chữ “Pán Mại 販 賣”. Trong kinh doanh,Tiếng Việt đã chỉ rõ: Thằng Một là thằng Mua (Một=Mua) tức người tiêu dùng là ưu tiên số Một, là thượng đế. Thằng Lái buôn là thằng hai (Hai=Lái); thằng ba là thằng tư Bổn (Ba=Bổn). Tức là muốn kinh doanh thì thứ Một là nắm nhu cầu người tiêu dùng, thứ Hai là hình dung mạng lưới phân phối bằng đuờng sông hay đường bộ, thứ Ba mới là dồn vốn để sản xuất cái gì. Đến chữ Thỉnh 請 nghĩa là mời mà Hán ngữ còn phải mượn của tiếng Việt (phát âm lơ lớ là “xỉng”), trong khi người Kinh (dòng Lạc Long) và người Thái (dòng Âu Cơ) đã chia sẻ nhau từ Mời hàng vạn năm trước, như tiếng đầu lưỡi của dân ăn trầu (“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, nôi khái niệm cho cái hồn của câu này là: Tiếng=Miệng=Miếng=Mời, người Việt khi ăn cơm đều nói “Mời” hoặc “Xin Mời” với người cùng mâm). Mua nhiều tức lặp Mua Mua khi lướt còn có một đáp số nữa là lướt “Mua Mua”=Mùa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Cái đẳng thức lướt này cho thấy rõ ràng người Việt có thái độ sòng phẳng cả với đất và nước chứ không phải thái độ cướp bóc, có đổ mồ hôi và phân bón cho cây và đất mới có thu hoạch kết quả của cây trồng đại trà là Mùa, đó là Mùa lúa, Mùa bưởi, Mùa cam v.v. Sự thu hoạch (củ và quả) của nông nghiệp trồng trọt là Mùa=Vua=Vụ=Củ=Quả=Của=Của-Cải=Quýb貴, chữ Qúy đây là quí báu, Mùa là một sự quí báu, con người phải biết quí của cải do mình đổ công sức làm ra. Nhưng Mùa Vụ cũng chiếm thời gian, thường là ba tháng cho một vụ hoa màu nên Mùa=Của=Qúi 季 , chữ Qúi này là một quí thời gian bằng ba tháng, nhưng nó cũng mang nghĩa là phải quí thời gian đã cho một Mùa thu hoạch. Hán ngữ mượn cả hai chữ này nhưng lại không hiểu ý tứ Việt trong liên hệ của hai chữ Qúi 貴 và Qúi 季, nên chữ Qúy 貴, (quí báu của cải do một Mùa làm ra) thì phát âm là “quây貴”, còn chữ Qúi 季( quí báu cái thời gian ba tháng dành cho một Mùa hoa màu) thì phát âm là “Chì 季”, khái niệm “Mùa của hoa màu” và khái niệm ba tháng thời gian” đều chỉ dùng có một chữ “Chì 季” là quí ba tháng, ví dụ mùa lê thì gọi là “lê quí” . Các nhà Quốc ngữ của VN rất hiểu hai chữ nho Qúy báu và Qúi thời gian của Việt nho nên đã qui định viết Qúy báu bằng y dài, còn Qúi thời gian bằng i ngắn, vì muốn có của cải thì phải làm lâu nên dùng y dài, còn thời gian thì luôn là ngắn nên dùng I ngắn. Sau, gần đây “cải cách chữ viết” qui định dùng i ngắn tất cho nó tiện dụng chứ không cần Trọng Nghĩa như người xưa, cho nên chữ Lý Luận có thể viết là ní nuận, không cần cái thâm ý là muốn có Lý phải tìm rất lâu mới có được, nên phải dùng y dài. Mùa=Vua=Vụ nên còn có từ đôi Mùa Vụ, gọi là Mùa thu hoạch hay gọi là Vụ thu hoạch đều được. (Diễn biến âm này cũng giống như Mần=Vận=Vụ 務 là làm nhiệm vụ, người Nhật đọc chữ Vụ 務 này là “Màn”). Từ cái nôi Mùa=Của=Qúi 季 thấy rõ rằng hoạt động nông nghiệp trồng trọt của người Việt cổ đại đã đẻ ra lịch thời gian, mùa thu hoạch đã cho ra từ Qúi 季 để chỉ 3 tháng một, một năm chia thành 4 quí. Hán ngữ mượn chữ Qúi 季 này để chỉ 4 quí trong năm, cũng dùng luôn chữ Qúi 季 này để chỉ Mùa của cây trồng, ví dụ mùa thu hoạch lê thì Hán ngữ gọi là “lê 梨 quí 季”, chứng tỏ cái nông nghiệp trồng trọt của họ có sau của người Việt mấy ngàn năm. Quả Bí Đỏ còn gọi là Bí Ngô. Nước Ngô xưa ám chỉ là Nước Đỏ của dân Kẻ Lửa=Quẻ Ly là người phương Nam, theo Dịch học. Người Hán gọi quả bí đỏ là “nam 南 qua 瓜” tức loại dưa của người Nam. Cổ đại , tộc Việt là dân Lửa, ở nhà sàn. Kẻ Lửa=Quẻ Ly. Nhìn quẻ Ly cũng giống hình tượng trưng cái nhà sàn: dưới là một kẻ kín như cái nền nhà, trên là một kẻ kín như cái mái nhà, giữa là kẻ hở tượng trưng sàn nhà (vì ghép bằng nứa hay gỗ nên không thể kín đến độ nước không rò được. Đồng bào Tày gọi kiểu nhà sàn có bếp lửa đặt giữa sàn là “nhà quẻ Ly”. Ly=Lý=Lê=Lò=Lô=Lữ=Lâm v.v. vốn là dân Kẻ Lửa của phương Nam. Tộc phả của TQ ghi họ Lê có gốc thủy tổ là ở ấp Kinh Triệu (Thiểm Tây, đất gốc của nhà Tần). Nhưng người họ Lê ở TQ tập trung đông nhất lại là ở vùng Lĩnh Nam. Nhiều bạn mạng TQ cãi lại rằng: Họ Lê là đặc trưng nhất cho người phương Nam từ vóc dáng, da dẻ đến khuôn mặt, là đặc trưng của dân lúa nước nên không thể thủy tổ ở Thiểm Tây được, có thể cổ đại có ông họ Lê nào đó làm quan to cho nhà Tần ở Thiểm Tây (cũng giống như Lý Ông Trọng là người Việt làm tướng cho nhà Tần). Gia phả các họ thường qui về một danh nhân nào đó tôn làm thủy tổ cho có danh giá, nên gia phả cũng không đáng tin, vì không tìm rõ đến tận cội nguồn. Phả của tộc Trung Hoa lại viết thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là ông Hoàng Đế, ông Hoàng Đế đẻ ra ông Đế Thần Nông, ông Đế Thần Nông đẻ ra ông Thiếu Hạo… cứ thế liên tục một mạch sinh ra bách tính của dân tộc Trung Hoa liên tục 5000 năm. Đọc nghe thấy quá “pha học”. Nếu tôi dịch bài trên mạng internet tổng hợp các bài văn tế Hoàng Đế tại lăng Hoàng Đế ở Thiểm Tây của các lãnh tụ và lương dân TQ từ cổ chí kim thì sẽ được một cuốn sách hay, những bài thơ, phú tuyệt đẹp về văn học. Nhưng “ông” Hoàng Đế là “ông” Đế Hoàng=”ông” Đế Vàng=”ông” Nước Vàng của người Việt, mà màu Vàng là ở Trong Cung=trung quốc = “Trong của Nước”, theo dịch học, đó là đất Giữa, là Chỗ Giữa=Chỗ Giao, mà Hán ngữ viết ngược là Giao Chỉ. Tóm lại để cho tiện thì ngắn gọn gọi ngữ pháp Hán là Ngược, ngữ pháp Việt là Xuôi. Quan Bắc Thoại đã dùng cái Ngược áp đặt vào Tiếng Việt , nên “hầu hết” mới gọi là “từ Hán Việt” . Nhưng Xuôi=Chuôi=Chắc, vì vậy dựa vào Tiếng Việt mà tìm được từ nguyên của ngôn từ Hán là trong “cổ Hán ngữ”, mà từ nguyên của “cổ Hán ngữ “ lại là trong Tiếng Việt. Ví dụ Trăng là chỉ hành tinh, Nguyệt là chỉ cái sáng của hành tinh đó, vì ánh sáng thì như nhau: Trăng=Trời=Ngời=Nguyệt. Hán ngữ mượn chữ nguyệt để chỉ trăng, viết ngược Trăng Sáng là Minh Nguyệt, còn khẩu ngữ dân gian gốc Việt trên đất TQ vẫn nói theo xuôi là Nguyệt Lượng = Nguyệt Láng = Nguyệt Sáng. Trăng là còn mãi mãi như “Hồn người gởi ở cung Trăng= “Hồn…Trăng”= Hằng, nên người Việt gọi Trăng là chị Hằng. Chị Hằng đẹp như “Người con gái nết Na”= “Người… Na”= Nga, nên còn gọi Trăng là chị Hằng Nga. Người Hán bắt chước gọi là Nguyệt Nga, và chỉ hiểu Nga là “người con gái đẹp”, như chữ nho của “cổ Hán ngữ” viết. Muốn biết tại sao Tiếng Việt lại là cái Xuôi=Chuôi=Chắc thì hãy nắm các QT Tạo từ Việt, để thấy Lời của Việt phong phú như thế nào: Lời = Lái = Láy = Lặp = Lưỡng (từ đôi)= Lóng = Lắp (từ ghép)= Lộn (từ đối)= =Lồng (từ ghép xen đảo ngược), đều chỉ là từ cái Lưỡi mà ra, nhiều dân tộc trên thế giới đều gọi ngôn ngữ là “Lưỡi”, kể cả Hán ngữ dùng Thuyết ( nói) là do cái Thiệt (lưỡi).
-
Đất Nước Rừng vàng Biển bạc Từ Đất/Nước kết cấu như cặp đối Dương/Âm. Chỉ có người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước, hàm nghĩa là một “Môi trường sinh thái cân bằng”. Anh ngữ chỉ gọi xứ sở là Land, Hán ngữ gọi xứ sở là Quốc Thổ hay Lãnh Thổ. Cặp đối Đất/Nước (Dương/Âm) tương tự cặp đối Trời/Đất. Kết cầu của các cặp từ đối ấy tự nói lên rằng sự sinh ra Vũ Trụ là Dương có trước Âm, Dương sinh ra Âm, như thành ngữ “Trời Tròn Đất Vuông”, “Mẹ Tròn con Vuông”. Ghép Tròn với Vuông theo đúng Dương Âm là Tròn Vuông= =Trọn Vẹn, chỉ sự hoàn hảo, cũng là “Cân bằng sinh thái”. Qui hoạch cái gì, từ qui hoạch một thành phố, qui hoạch một doanh nghiệp , qui hoạch một việc nhỏ đều là: muốn được Trọn Vẹn phải theo đúng Âm Dương Ngũ Hành, tức phải dùng cái nhìn của Phong Thủy Lạc Việt. Khi biểu thị Trái Đất bằng hình Vuông là người Việt ám chỉ Đất ấy là đất đã có loài người khai thác (do Ruộng=Vuông=Văn=Vành -Vạnh=Mảnh) tức trái đất đã có văn minh, đời sống xã hội loài người đã có quốc gia, chia nhau mối quốc gia một Mảnh trên trái đất. Từ hai âm tiết Trái Đất (sẽ chứng minh nó là từ đôi, tức Trái=Đất), Trái Đất nếu mà theo ý “cái đầu tiên” thì gọi tắt là Trái, đúng với cặp đối Dương/ Âm nguyên thủy của Trời/Đất là Trời/Trái (cặp đối nguyên thủy là hai từ trong cặp đó phải là cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi). Từ đôi Trái Đất nếu mà theo ý “cái nhiều hơn” thì gọi tắt là Đất, vì loài người sinh ra và nhiều dần lên là ở trên mặt đất, chứ không phải là ở dưới nước như loài đơn bào đầu tiên của sự sống, ý “nhiều” là loài người nhiều lên đồng thời khai thác cũng nhiều lên đối với trái đất. Cặp đối nguyên thủy của Đất/Nước là cặp Đất/Đức. Đất=Thật (thành ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng”). Đức=Thực (người có Đức là người chân thực). Như vậy Đất/Đức=Đất/Nước=Thật Thực, đó chính là cái môi trường sinh thái lý tưởng nhất vì nó còn chân thực, còn Trọn Vẹn (tức là một sinh thái có Đức), chưa bị tàn phá, ô nhiễm để biến thành một sinh thái Đểu. Chữ Đức của Việt nho viết có nghĩa là sự đầy đủ, chu đáo đối với thiên hạ, gọi là sống có Đức. Nguyên gốc của nó chỉ có nghĩa là nước , trong nôi khái niệm Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đủ=Đầy=Đác=Nác=Nước. Túc=Đức=Đầy-Đủ, là bản chất của nước, là Đầy=Đẩy vì bản chất của nước là luôn có xu hướng Nống=Nở Rộng ra mọi phía. Nói Đất Nước Việt Nam có nghĩa là xứ sở tên là Việt Nam, nhưng riêng từ Đất Nước đã bao hàm ý nghĩa là nơi sinh thái cân bằng, là nơi chân thực, nơi đó nhân dân thuần phác và nhân hậu. Các ngôn ngữ khác không thể có được cái “ý tại ngôn ngoại này” vì họ không dùng từ Đất Nước để chỉ xứ sở của mình. Cặp đối Trời/Đất nguyên thủy là Trời/Trái. Ta thường nói “Dương và Âm như haì mặt Phải và Trái”, thì đúng như vậy, vì Trời=Trải=Phải, đương nhiên Đất=Trái, từ Trái Đất là một từ đôi, Trái nói khi địa cầu đang còn nguyên thủy, Đất là nói địa cầu khi đã được con người khai thác bề mặt để làm Ruộng, từ buổi bình minh của nền nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, là của người Việt cách nay hàng vạn năm, Ruộng=Vuông= Văn=Vành-Vạnh=Mảnh, là nền văn minh lúa nước của dân Việt nước Văn Lang ở nam Dương Tử. Biểu tượng Đất bằng hình Vuông của bánh chưng vuông hay bằng đá vuông như Yoni là nói rằng Đất Nước văn minh, khi đã thừa biết các hành tinh do Vũ Trụ sinh ra như Trời=Trăng=Trái đều là = Tròn=Còn, cái nôi khái niệm nói lên sự tồn tại vĩnh cửu của chúng là Còn=Tròn=Trời=Trăng=Trái=Mãi, tức chúng luôn luôn là Già. Từ nguyên của từ Giời Già (giọng Kinh Đô) là từ Trời Tra (giọng Nghệ). Từ Vũ+Trụ có nghĩa là Không Gian+Thời Gian (giải thích của Từ điển Hán-Việt). Vũ Trụ là một từ gốc Việt cổ xưa nhất. Vì: (1) Vũ là do lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng QT Thanh điệu: 1+1-0 của thuật toán nhị phân); (2) Trụ là do lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng QT Thanh điệu: 1+1=0 của thuật toán nhị phân). Hai từ Vũ và Trụ là cùng nôi khái niệm “thuộc Trời” vì vậy khi nguời Việt bỏ chữ khoa đẩu chuyển sang viết bằng chữ nho thì hài chữ đó đều có chung một cái Tơi là bộ thủ Miên đặt phía trên (Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên; Trời=Trải=Phải=Mái=Miên). Ủ là một sự chuyển động, cũng giống như sự lên men vậy. Hai chữ Vũ Trụ nho viết bằng ghép chữ biểu ý, đọc chỉ cần lướt các bộ ghép là ra: (1) Do Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên; Ủ=Ứ=Ư nên Vũ được ghép bằng bộ thủ Miên và Ư thành chữ Vũ, đọc bằng lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng dấu 1+1=0); (2) Do Trời=Trải=Phải=Mái=Miên; Ủ=Du=Do nên chữ Trụ ghép bằng bộ thủ Miên và Do thnhà chữ Trụ, đọc bằng lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng dấu 1+1=0). Bộ thủ là của Việt, từ Bộ Thủ ghép theo ngữ pháp Việt ( nếu là của Hán thì đã ghép theo ngữ pháp Hán là Thủ Bộ). Thủ=Tu (xúc tu là tay của loài côn trùng)=Tay=Tơi. Rõ rang là xét về dấu thanh điệu (mà chỉ ở tiếng Kinh mới tìm ra được QT Thanh điệu mà Lãn Miên nêu: “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1) thì Vũ=1+1=0, Trụ=1+1=0. Vậy Vũ Trụ là một “Cái Không Vô Định” (giống như Thiên Sứ khẳng định: “Không có hạt của Chúa”). Nhưng “Cái Không Vô Định” ấy lại là cái Có, vì Vũ=0, Trụ=0; Vũ Trụ=0+0=1 (đúng thuật toán nhị phân). Đúng là Sắc Sắc Không Không. “Cái Không Vô Định” đó là Trời (Hán ngữ phải gọi là Thiên Không). Người Việt nói “Trời Ơi” là chỉ cái Không (không rõ nguyên nhân), còn “Cái của Trời Ơi” là chỉ cái của cải không biết do bỗng nhiên mà có, không biết do đâu đem lại. Ủ là thuộc tính của tự nhiên, là một sự chuyển động của tự nhiên, giống như lên men thì phải có Đủ thời gian mới thành. Ngày nay văn minh công nghiệp dùng công nghệ để rút ngắn quá trình Ủ, muối cá là có ngay nước mắm chứ không phải cất nước nhĩ một hai năm; rượu mới nấu xong cho qua máy cỏ thể có ngay rượu bằng rượu cất 5 năm hay 15 năm. Tuy nhiên công nghệ ấy cũng chẳng Đọ được với Trời, chỉ cho ra hàng dởm mà thôi, chất lượng không thể nào bằng Ủ tự nhiên được, cũng giống như thịt heo nuôi bằng thuốc tăng trọng hay bằng thuốc tăng nạc. Trà đenPhổ Nhĩ của người Thái ở Vân Nam theo cách Ủ cổ truyền là càng Ủ lâu năm thì cho ra chất lượng trà càng tốt, càng có giá cao. Hệ đếm nhị phân là từ qui tắc Dương/Âm, hệ đếm chỉ có hai con số, số thứ nhất là 1, số thứ hai là 0. Cặp đối 1/0 tương đương cặp đối Trời/Đất. Vì: Trời=Trụ=Chủ=Chúa=Chắc=Chốt=Cột=Một là con số thứ nhất tức số 1của hệ nhị phân Cho nên người Việt mới có tục trồng cột Nêu tế Trời ngáy mồng 1 Tết. Đất=Đồng=Hồng=Hai=Trái=Vài=Vuông, là con số thứ hai tức số 0 của hệ nghị phân, (Đồng là đồng ruộng, Hồng là rộng, “Đất Rộng”=Động chỉ ý một vùng. Người Việt ví Đất đã có loài người khai thác là hình Vuông (Ví là lời so sánh: Ví=Ví-Von=Van=Vân=Ngân=Ngâm-Nga=Ngữ=Ngôn=Ngợi=Lời). Do ví Đất là Vuông nên người Việt mới chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa, với nghĩa Tròn Vuông=Trọn Vẹn (tức giao dịch phải sòng phẳng), bằng hình ảnh Tròn/ Vuông=Trời /Đất (tức giao dịch có Trời Đất chứng giám), đó là chữ Tín. (Chữ Tín là do chữ Tin, nhấn ý tin thì dùng từ lặp Tin Tin, nhưng lướt thì “Tin Tin”=Tín, đúng dấu thanh điệu 0+0=1 của thuật toán nhị phân của người Việt. Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN1991 cho rằng từ Tín là “từ Hán-Việt”, trang 415). Đồng tiền cổ nhất của người Hán là hình tròn có lỗ tròn ở giữa.So với lỗ tròn thì lỗ vuông nó ma sát sắc hơn với sợi dây xâu các đồng tiền, dở thế, vậy mà người Việt vẫn chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa như hình ảnh Trời/Đất, chứng tỏ người Việt coi trọng cái ý nghĩa hơn cái thực dụng ( thành ngữ Việt “Lễ mọn lòng thành”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Còn tiếp
-
Người Việt coi trọng đồng tiền do đổ mồ hôi mà có. Vốn xưa người Việt chế đồng tiền bằng vỏ Bối 貝để làm phương tiện trao đổi. Sự đổi của người Việt rất là thật thà ( thành ngữ “Khôn ngoan chẳng đọ thật thà”) kể từ khi còn là hình thức vật đổi vật (những tục như chợ Viềng hay chợ ma họp ban đêm ở các nơi khác còn đến ngày nay), trẻ con thường Đổi những vật chúng kiếm được cho nhau mà không hề so đo giá trị,(bời vì ở cái nôi khái niệm “sự chân thật nguyên thủy” thì: Trời=Trải=Phải=Trái=Trồi=Đổi=Đất=Thật). Cái đổi thật thà ấy mới là Đổi=Bối =Báu = =Bảo . Từ Báu sinh ra là từ khi người Việt biết dùng vỏ Bối làm đại diện giá trị trao đổi, người ta chế tiền bằng cách trau chuốt vỏ Bối cho thật đẹp, lướt “Bối Trau”=Báu, dùng Bối làm phương tiện trao đổi thì lướt “Bối Trao”=Bảo 寶. Từ đôi Bảo Bối hay Báu Bối ám chỉ cái quí của sự chân thật trong trao đổi. (Ngày nay ngành ngoại giao dùng cụm từ “Trao đổi công hàm” cũng hàm ý quí báu như trao đổi trong giao dịch mua bán vậy). Sau, người Việt chế đồng Tiền (như Cam Pu Chia gọi là đồng Riên) bằng đồng, rồi bằng Bạc, gọi là đồng Bạc (như Thái Lan gọi là đồng Bạt), đồng tiền kỷ niệm thì làm bằng Vàng. Bạc và Vàng đều là kim loại quí nên từ ghép Vàng Bạc đại diện cho nghĩa Qúi Báu (nguyên thủy của từ Qúi Báu là từ Qui Bối, vì người Việt cổ đại dùng mai rùa-Qui để viết chữ và dùng vỏ Bối để làm đồng tiền, Sĩ và Thương đều coi trọng như nhau vì đều là Qúi Báu của xã hội). Cặp đối Rừng/Biển đại diện cho nghĩa Đất/Nước, bởi Đất/Nước hàm ý là “Sinh thái cân bằng” thì nó phải có Rừng và có Biển. Đất và nước là yếu tố đầu tiên cho nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà người Việt có sớm nhất nhân loại. Kỹ thuật canh tác lúa nước là “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống” cho thấy là người Việt cổ đại đã biết làm nền nông nghiệp bền vững, biết nuôi cây đồng thời biết nuôi đất, nên mới hiểu được là Đất=Thật và Đức=Thực. Câu tục ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng” đủ thấy người Việt cổ đại hiểu rằng đối xử với đất và nước bằng thái độ như thế nào thì đất và nước cũng sẽ đối xử lại bằng thái độ như vậy. Giao dịch với đất và nướccũng phải như giao dịch mua bán qua đồng tiền Tròn Vuông, nghĩa là phải Trọn Vẹn (song phẳng), có Trời/Đất chứng giám, bởi vậy chẳng ai dám làm ô nhiễm môi trường. Năm nghìn năm trôi đi, trên cùng một mảnh “ruộng mật bờ xôi”, hột nếp trồng ra vẫn thơm dẻo như nếp gói bánh chưng thời Vua Hùng. Đất Nước Rừng vàng Biển bạc là câu người Việt chỉ xứ sở mình với nghĩa chính yếu là “Môi trường sinh thái cân bằng còn nguyên rừng nguyên biển là cái quí báu nhất sánh ngang bạc ngang vàng”. Văn minh công nghiệp chắc không cần ý đó nên ngày nay người ta có thể qui hoạch hoành tráng cho dân cả một quận sống trong chỉ một chung cư vĩ đại cao mấy trăm tầng (sống như những robot), toàn bộ nước thải sẽ dùng công nghệ đắt tiền xử lý lại trở thành nước uống.. Những người không hiểu nghĩa chính yếu vừa nêu của câu “Đất Nước Rừng vàng Biển bạc” thì chê bai rằng: Nước ta tài nguyên ít ỏi, khai thác đã gần cạn kiệt, còn đâu mà cứ dạy trẻ con ca tụng mãi câu “Đất nước rừng vàng biển bạc”. Nghĩ như họ là do họ có thói ăn sẵn, họ có thể vô cảm qui hoạch lấy cát san lấp ruộng mật bờ xôi để làm khu công nghiệp hay sân gôn, mà không chọn những nơi sỏi đá vì sợ tốn công san ủi. Tư duy ăn sẵn vốn có xuất xứ từ dân du mục cổ đại phương Bắc, chứ không phải xuất xứ từ dân nông nghiệp trồng trọt cổ đại phương Nam. Hai mươi mấy năm trước tôi có đi chơi Tây Đức một lần, thấy họ giữ gìn được cái tinh túy của văn minh nông nghiệp cổ xưa, tức môi trường sinh thái rất tốt. Vào một nhà máy sản xuất điện tử, được nghe giám đốc nhà mãy kể rằng: Nhà máy là do ông chủ tư bổn người Đức từ Mỹ về đầu tư sau thế chiến hai. Khi đó ông thống đốc bang này chỉ cho ông chủ tư bổn thấy cái gò đất sỏi như ốc đảo hoang giữa cánh đồng trồng khoai tây xanh tốt, nói rằng:”Đó, tôi cho anh thuê cái gò đất không trồng được gì ấy mà đặt nhà máy, cho anh thuê đất ở quãng ngắn nhất từ gò ra đường cái để anh làm một con đường nhựa chỉ để đi lọt một xe contenơ. Nhưng cũng bảo cho anh biết một điều bất di bất dịch là, nếu tôi phát hiện ra dù chỉ một giọt nước ô nhiễm của nhà máy anh ra cánh đồng thì tôi sẽ ra lệnh đóng cửa nhà máy anh ngay lập tức”. Nhà máy sản xuất bảng mạch điện tử, xứ lý nặng nề nhất là nước thải từ hóa chất dùng làm ăn mòn mạch in, giá tiền khu xử lý ngang bằng giá tiền xây nhà máy. Vậy mà mấy chục năm hoạt động chưa hề có một giọt nước ô nhiễm nào ra cánh đồng. Tôi đưa mắt ngắm lại lần nữa cánh đồng, vẫn là trồng khoai tây lên xanh mơn mởn, ngẫm rằng ông chủ tư bổn đúng là giữ lời hứa Thật từ khi bắt đầu dự án, nên nhiều thống đốc bang kế nhiệm chưa ông nào phải ra lệnh đóng cửa nhà máy. Còn nhiều lắm những ví dụ tốt đẹp về đất nước tự do rất có kỷ luật này nhưng không kể ra đây vì lạc đề. Tôi chỉ nghiệm được rằng: cách quản lý đơn giản nhất là hiệu quả nhất. Ví dụ bảng ở chỗ ngồi chờ xe búyt không phải là vẽ các quảng cáo màu sắc đẹp cho các loại hàng hóa (do cho thuê quảng cáo để lấy tiền) mà là tấm bản đồ các tuyến xe buýt, rõ ràng tên phố, tên trạm dừng , kể cả thời gian hao từ mỗi trạm đến trạm tiếp theo. Biển tên phố thấy rõ ở ngã tư đường, hình chữ nhật nhưng có viền trong màu trắng nổi bật, ở một đầu ngang , đường viền ấy vẽ thành góc nhọn như mũi tên, rõ là đường ấy là đường một chiều, dưới tên phố còn ghi số nhà từ ngã tư này tới ngã tư tới là từ số mấy đến số mấy; một cái biển đơn giản mà hiệu quả cho nhiều việc của nhiều ngành, hơn là nhiều biển chỉ dẫn. Cổ xưa từ tiếng Việt vốn có Đất/ Nước=Đât/Đức=Thật Thực. Băn khoăn cái ước vọng là khi nào thì Đất Nước Ta ngang bằng được với Đất Nước Đức, không biết dành ai trả lời. Nôi khái niệm của nước là: Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đen=Đác=Nác=Nước=Nam=Nậm=Lầm=Thâm=Than=Thủy. Màu ngũ hành của nước là màu đại diện cho nước theo thuyết ÂDNH, không phải là màu thật bản chất của nước. Trong nôi khái niệm trên thì các từ Đen, Lầm, Thâm, Than, Thủy dùng gọi màu ngũ hành của nước. Sau người ta lấy màu ngũ hành gọi tên vật thể có màu như vậy, viết bằng chữ nho, như chữ Thủy hiểu là nước, chữ Than hiểu là Mun (người Việt vẫn nói “lấy bớt tro, mun trong bếp ra”), Lầm, Thâm hiểu là tên riêng chỉ mấy loại vải có màu sẫm đậm. Chữ Đức vốn là nước (là “tức” trong tiếng Khơ Me). Đức=Đủ=Đầy=Đẩy (là bản chất cái Năng của nước). Cái Tế Vi , lướt “Tế Vi”=Tí . Cái Tí của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Dương/Âm là Tá/Té=Hỏa/Thủy, tức cái Năng của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Nắng/Nước (Nắng=Nướng=Dương; Nước=Nậm=Âm). Con người là một tiểu Vũ Trụ, nên cái Năng trong cơ thể cũng là một năng lượng vô hình như cái Năng của Vũ Trụ, nó vô hình vì Năng= Chăng = Khăng = =Không. Trong cơ thể thì cái Năng này có phải là cái Khí như đông y gọi ?.Khăng=Không nên Khăng+Khăng=0+0=1 theo thuật toán nhị phân, đúng như lướt từ lặp “Khăng Khăng”=Khẳng, đúng dấu theo thuật toán nhị phân 0+0=1, là khẳng định (từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 giải thích Khẳng 肯là có, nhưng coi là “từ Hán-Việt, trang 201). Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bẳng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều”=Nhiêu, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài”=Ngoại, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. “Hầu hết” đều cho rằng từ Ngoại Giao là từ Hán-Việt. Thực ra nó chỉ là từ Việt đã bị Hán hóa theo ngữ pháp của Quan Bắc Thoại, không còn giữ theo ngữ pháp Tiếng Việt. Nguyên gốc của từ Ngoại Giao là từ Trao Ngoài, mà Trao Ngoài tức giao tiếp với người khác thì phải như lướt “Trao Ngoài”=Trái=Phải=Trải=Trời, tức phải minh bạch phải trái như Trời. Trao Ngoài=Giao Ngoại, ngược theo ngữ pháp Hán thì Giao Ngoại=Ngoại Giao. (Vậy Ngoại Giao là phải minh bạch phải trái như từ gốc Trao Ngoài, hay Ngoại Giao là lươn lẹo nói một đàng làm một nẻo?). Từ Ơi nghĩa là cái tín hiệu gọi đối tượng đến với mình. Hán ngữ không có từ Ơi tín hiệu này, nhưng ở các ngôn ngữ của Việt Nam, Cam Pu Chia, Lào , Thái Lan thì từ Ơi dùng hàng ngày. Nguyên thủy nó là từ Ời của Tiếng Việt, lặp thì là Ời Ời (như câu ca dao cổ: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa van cha ời ời. Cha thì cắt cỏ trên trời. Mẹ thì cưỡi ngựa đi mời quan lang), lướt thì “Ời Ời”=Ơi, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Ơi là muốn đưa về mình, nôi khái niệm đó là Mời=Ơi=Ăn=Uống=Ẩm=In=Ấn=Nhấn=Nhận=Nhồi=Nhét=Nhịn = Kin (là ăn, uống của tiếng Tày Thái)=Nín=Xin=Thín=Thỉnh. (Nhặn là nhiều, cặp đối Nhặn/Nhẵn, Nhẵn là không còn gì, Nhẵn Thín là không còn gì đưa về mình nữa, “ăn hết nhắn thín rồi”). Hán ngữ dùng từ Thỉnh 請 với nghĩa là đưa về mình, tức là Mời=Ơi. Nói lịch sự thì dùng từ đôi để nhấn mạnh ý là từ Xin Mời, hoặc dùng từ lặp Mời Mời, lướt thì “Mời Mời”=Mơi, đúng dấu 1+1=0 của thuật toán nhị phân. Người Thái đã mượn cái từ Mơi lịch sự này nên người Việt nhường hẳn từ đó cho người Thái, tiếng Thái nói Mơi nghĩa là Mời. Người Việt hay Mời, có ăn thì “Mời khắp Sóc” =”Mời…Sóc”=Mọc, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Thành từ đôi Mời Mọc nghĩa là hay mời, đó là cái quan hệ tình làng nghĩa xóm của dân ăn trầu, “ăn ở với nhau như đọi nước đầy”. Muốn gọi lại với mình, tức Muốn Ơi, mà lướt thì “Muốn Ơi”=Mời, dấu 1+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Muốn có của cải tức Muốn Của thì lướt “Muốn Của”=Mua, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, và lướt cả câu “Muốn có của Cải”=”Muốn… Cải”= Mãi 買. Mua nhiều thì dùng từ lặp là Mua Mua, lướt thì “Mua Mua”=Múa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Hoạt động mua nhiều của thương nhân là lướt cả câu “Múa đi bán Lái”= ”Múa…Lái”= Mại 賣, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, Lái đây là Lái Buôn, là Thương Lái. Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 253, từ Mãi 買là mua, từ Mại 賣 là bán, là “từ Hán-Việt”. Đến chữ Thỉnh 請 nghĩa là mời mà Hán ngữ còn phải mượn của tiếng Việt (phát âm lơ lớ là “xỉng”), trong khi người Kinh (dòng Lạc Long) và người Thái (dòng Âu Cơ) đã chia sẻ nhau từ Mời hàng vạn năm trước, như tiếng đầu lưỡi của dân ăn trầu (“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, nôi khái niệm cho cái hồn của câu này là: Tiếng=Miệng=Miếng=Mời, người Việt khi ăn cơm đều nói “Mời” hoặc “Xin Mời” với người cùng mâm). Mua nhiều tức lặp Mua Mua khi lướt còn có một đáp số nữa là lướt “Mua Mua”=Mùa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Cái đẳng thức lướt này cho thấy rõ ràng người Việt có thái độ sòng phẳng với đất và nước chứ không phải thái độ cướp bóc, có đổ mồ hôi và phân bón cho cây và đất mới có thu hoạch kết quả của cây trồng đại trà là Mùa, đó là Mùa lúa, Mùa bưởi, Mùa cam v.v. Quả=Của=Của-Cải=Quý 貴. Mùa=Của=Qúi 季 (hai chữ Quí này viết khác nhau vì ý nghĩa khác nhau, thời trước quốc ngữ hướng dẫn viết như vậy, sau “cải cách chữ viết” gần đây mới qui định chỉ dùng toàn i ngắn thôi, như Lý Luận thì viết là Lí Luận). Mùa=Vụa=Vụ nên còn có từ đôi Mùa Vụ, gọi là Mùa thu hoạch hay gọi là Vụ thu hoạch đều được. (Diễn biến âm này cũng giống như Mần=Vận=Vụ 務 là làm nhiệm vụ, người Nhật đọc chữ Vụ 務 này là “Màn”). Từ cái nôi Mùa=Của=Qúi 季 thấy rõ rằng hoạt động nông nghiệp trồng trọt của người Việt cổ đại đã đẻ ra lịch thời gian, mùa thu hoạch đã cho ra từ Qúi 季 để chỉ 3 tháng một, một năm chia thành 4 quí. Hán ngữ mượn chữ Qúi 季 này để chỉ 4 quí trong năm, cũng dùng luôn chữ Qúi 季 này để chỉ Mùa của cây trồng, ví dụ mùa thu hoạch lê thì Hán ngữ gọi là “lê 梨 quí 季”, chứng tỏ cái nông nghiệp trồng trọt của họ có sau của người Việt mấy ngàn năm. Quả Bí Đỏ còn gọi là Bí Ngô. Nước Ngô xưa ám chỉ là Nước Đỏ của dân Kẻ Lửa = Quẻ Ly là người phương Nam, theo Dịch học. Người Hán gọi quả bí đỏ là “nam 南 qua 瓜” tức loại dưa của người Nam. Cổ đại , tộc Việt là dân Lửa, ở nhà sàn. Kẻ Lửa = Quẻ Ly. Nhìn quẻ Ly cũng giống hình tượng trưng cái nhà sàn: dưới là một kẻ kín như cái nền nhà, trên là một kẻ kín như cái mái nhà, giữa là kẻ hở tượng trưng sàn nhà (vì ghép bằng nứa hay gỗ nên không thể kín đến độ nước không rò được. Đồng bào Tày gọi kiểu nhà sàn có bếp lửa đặt giữa sàn là “nhà quẻ Ly”. Ly=Lý=Lê=Lò=Lô=Lữ=Lâm v.v. vốn là dân Kẻ Lửa của phương Nam. Tộc phả của TQ ghi họ Lê có gốc thủy tổ là ở ấp Kinh Triệu (Thiểm Tây, đất gốc của nhà Tần). Nhưng người họ Lê ở TQ tập trung đông nhất lại ở vùng Lĩnh Nam. Nhiều bạn mạng TQ cãi lại rằng: Họ Lê là đặc trưng nhất cho người phương Nam từ vóc dáng, da dẻ đến khuôn mặt, là đặc trưng của dân lúa nước nên không thể thủy tổ ở Thiểm Tây được, có thể cổ đại có ông họ Lê nào đó làm quan to cho nhà Tần ở Thiểm Tây (cũng giống như Lý Ông Trọng là người Việt làm tướng cho nhà Tần). Gia phả các họ thường qui về một danh nhân nào đó tôn làm thủy tổ cho có danh giá, nên gia phả cũng không đáng tin, vì không tìm rõ đến tận cội nguồn. Phả của tộc Trung Hoa lại viết thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là ông Hoàng Đế, ông Hoàng Đế đẻ ra ông Đế Thần Nông, ông Đế Thần Nông đẻ ra ông Thiếu Hạo… cứ thế liên tục một mạch sinh ra bách tính của dân tộc Trung Hoa liên tục 5000 năm. Đọc nghe thấy quá “pha học”. Nếu tôi dịch bài trên mạng internet tổng hợp các bài văn tế Hoàng Đế tại lăng Hoàng Đế ở Thiểm Tây của các lãnh tụ và lương dân TQ từ cổ chí kim thì sẽ được một cuốn sách hay, những bài thơ, phú tuyệt đẹp về văn học. Nhưng “ông” Hoàng Đế là “ông” Đế Hoàng=”ông” Đế Vàng=”ông” Nước Vàng của người Việt, mà màu Vàng là ở Trong Cung = trung quốc theo dịch học, đó là đất Giữa, là Chỗ Giữa = Chỗ Giao, mà Hán ngữ viết ngược là Giao Chỉ.
-
Sức mạnh tiềm thức Ý thức+Tiềm thức=Niềm tin Kho báu nằm ở trong người Ngẫm sâu vào đó đắp bồi niềm tin Vĩ nhân có khắp mọi miền Đều do tiếp xúc mở tiềm thức đi Trước khi ngủ bạn nghĩ gì Tiềm thức của bạn sẽ y chấp hành Tiềm thức thiết kế thân lành Khi ngủ ru “Khỏe” sẽ thành thật chân Ý nghĩ là cái nguyên nhân Lời xưa “Tâm tưởng sự thành” đúng y Bạn muốn sáng tác cái gì Nói với tiềm thức, nó ghi tức thời Nó làm đến chốn đến nơi Nó là trợ lý tuyệt vời chữ Trung Bạn như thuyền trưởng ung dung Ý nghĩ, hình ảnh đáng dùng, lệnh nhanh Tiềm thức y lệnh chấp hành Chỉ đâu đánh đấy trung thành với ta Lời nói, ý nghĩ buông ra Đều được tiềm thức nghe và làm ngay Bạn phải kiêng kỵ điều này: Đừng nghĩ lùi bước, đừng gây lời nhàm Qui luật sống - ấy niềm tin Đừng tin những thứ gây phiền cho ta Hãy tin tiềm thức là nhà Sức mạnh của nó cho ta khỏe, giàu Thay đổi cách nghĩ cho mau Sẽ thay đổi phận, nhiệm màu là đây Nghĩ tốt, tốt sẽ đến ngay Nghĩ xấu, xấu sẽ theo dây theo dài Ngã chính là Nghĩ an bài Nghĩ sao thì sẽ thành Ngài thế thôi Tiềm thức chẳng thể hé môi Đầy tớ chấp nhận mọi lời lệnh ra Ý thức như thể vua cha Tiềm thức chỉ biết lệnh là làm theo Nghĩ giàu khỏe, bỏ yếu nghèo Tiềm thức sẽ khiến cảnh theo như lời Ý thức gác cổng suốt đời Bảo vệ tiềm thức khỏi nơi sai lầm Tin vào tốt đẹp, khỏe thân Tức thì tiềm thức sẽ mần xảy ra Lựa chọn là sức mạnh ta Hãy chọn hạnh phúc, sẽ là giàu sang Mặc ai ám thị, bàn ngang Đừng cho nó phạm để làm hại ta Ám thị sở dĩ có là Do mình nghĩ có, do là mình tin Bởi vậy nghe phải chọn tìm Loại bỏ tiêu cực, giữ gìn lòng ta Tâm thức chẳng có xấu xa Tự nhiên cũng vậy, bởi là tự nhiên Vận dụng sức mạnh thiên nhiên Truyền cho tâm thức những điềm lành ngay Khẳng định công việc hàng ngày Mọi điều ta hễ bắt tay là thành Đừng mê tín , đừng run, ganh Đừng để kẻ khác xâm giành ý ta Ta là thuyền trưởng cơ mà Tiềm thức tuân lệnh của ta suốt đời Chọn sức khỏe, chọn yên vui Tự ta xây dựng phận đời cho ta Ý thức thừa nhận tức là Tiềm thức biến nó xảy ra tức thì Bởi vậy linh hướng đường đi Tin vào hạnh vận là vì chính mi Tiềm thức điều khiển hành vi Biết trả lời mọi vấn đề đời ta Những gì ta đã phác ra Vào trong tiềm thức, nó đã hiện lên Ý thức mà nghĩ xấu, hèn Sẽ thành hiện thực, ấy liền họa tai Tiềm thức hưởng ứng dài dài Mọi nghĩ tốt, xấu an bài trong ta Chớ nên trăn trở, kêu ca Tiềm thức nó sẽ cho ra như lời Sẽ chẳng đổi được cuộc đời Bởi mi tự chặn mất nơi trong lành Hãy để ý thức ngập tràn Những điều tốt đẹp, làm tiềm thức ghi Tiềm thức sẽ vậy mà đi Tự nhiên ta được những gì ta mong Mỗi khi gặt hái thành công Ta phải cảm nhận cho lòng sướng vui Tiềm thức cũng được thúc xui Giúp ta lại gặt nữa rồi thành công Hãy tin sức mạnh của lòng Tiềm thức ắt giải quyết xong mọi điều Bệnh, đau ta chớ có kêu Sức mạnh tiềm thức sẽ đều chữa xong Niềm tin như hạt gieo mầm Lớn lên theo ý như ngầm có gen Nên phải chăm bón niềm tin Gieo vào tâm trí, nó liền đơm hoa Cái trí tưởng tượng bao la Gieo vào tiềm thức, thành là sức trong Tiềm thức – sức mạnh trong lòng Bệnh gì nó cũng chữa lành được ngay Tiềm thức nếu để ghi sai Thi hành lệnh xấu – bệnh hoài do ta Mọi bệnh có thể xảy ra Do tự ám thị hoặc là thôi mien Chữa lành duy nhất – niềm tin Tiềm thức – sức mạnh vô biên hàng đầu Niềm tin thật giả biết đâu Hễ tin là có nhiệm màu xảy ra Tiềm thức đáp lại đấy mà Nó theo ý nghĩ như là đường ray Định hướng đúng đắn là hay Tiềm thức sẽ chữa lành ngay bệnh tình Phải lập kế hoạch cho mình Chuyển đến tiềm thức tâm tình, ước mong Cứ nghĩ điều ước trong lòng Nghĩ tốt tức tạo dựng xong tín niềm Chớ nghĩ bệnh tật , tổn thương Hãy nghĩ mi khỏe, bình thường, thành công Tư tưởng vĩ đại cao sang Trở thành hành động phi thường liệt oanh Cầu nguyện lời, ý của mình Nói ra ước vọng chân thành trong tim Thật tin cầu nguyện, tịnh tâm Sẽ có hồi đáp âm thầm hiện lên “Cầu được, ước thấy” như răn Lời xưa dân Việt ngàn năm dạy truyền Ý thức + Tiềm thức = Niềm tin Lòng tin nhất định làm nên diệu kỳ Bệnh gì cũng tự qua đi Cần gì đến thuốc, cần gì y khoa Cầu nguyện – sức mạnh bao la Cầu cho người khác cũng là, diệu thay Nuôi giữ ước vọng ngày ngày Tâm thức chất chứa vào ngay trong mình Rồi tiềm thức sẽ thi hành Mọi điều ước vọng biến thành thật chân Tưởng tượng là ảnh nội tâm Dù không nhìn thấy, nó ngầm khắc ghi Rồi thành cảnh thật một khi Là do tâm thức thực thi cảnh này Cầu nguyện chớ gượng, chớ rầy Hãy tự ru ngủ , hãy gây mơ màng Giữ vững thái độ tinh thần Quả quyết điều ước sẽ thành như mong Vấn đề chưa giải quyết xong Trước ngủ hãy nhắc cho lòng nó ghi Tiềm thức nhận lệnh tức thì Ta ngủ, nó vẫn thực thi âm thầm Tiềm thức tự giải quyết xong Bỗng nhiên đáp số có trong tỉnh thời Cơ thể tái tạo cuộc đời Giao cho tiềm thức nó thời vẽ nhanh Cứ mười một tháng một lần Tư duy thay đổi là cần cho ta Chớ ganh tỵ, chớ lo xa Hoang mang sẽ tổn những là thần kinh Gây ra đủ bệnh linh tinh Tư tưởng đúng đắn giữ mình khỏe, ngay Ung dung, thư thả ngày ngày Chớ để bức xúc nó gây phiền hà Nhịp điệu sinh học. cho qua ! Tâm thức mới thật chính là quan tâm Trước khi ngủ hãy ước mong Ngủ ngon, thức dậy hân hoan con người Tự mình quyết định giàu thôi Tiềm thức sẽ giúp như lời tự Tôi Tham công, tiếc việc – lỗi thời Tích cóp của cải - để đời mất vui “Giàu, giàu, giàu” niệm một hồi Năm phút trước ngủ, Tiềm thời khắc ghi Ý niệm hóa thật một khi Cảm giác giàu có luôn đi với mình Ý thức, tiềm thức đồng hành Sẽ không xung đột, sẽ thành diệu thay Phải luôn giải quyết từng ngày “Tôi đang phát đạt từng ngày đó thôi” Tiềm thức ghi nhận y lời Đem lại kết quả như đời ta mong Điều gì ta quả quyết xong Đừng phủ nhận nó mà thành uổng công Đồng tiền như thủy triều dâng Khi lên khi xuống phiền lòng làm chi Lệnh cho tiềm thức tức thì Tiền hết lại có, ước chi , được vầy Chê tiền sẽ có hại ngay Tiền sẽ không đến hàng ngày với ta Tiền chẳng phải thánh đâu mà Chỉ là luân chuyển cho qua chẳng buồn Giàu có đích thực – tâm hồn Đừng biến tiền bạc thành nguồn mục tiêu Bần cùng – lòng hẹp, tâm nghèo Phải sống đầy đủ mới gieo mạnh giàu Trọng của cải – tính phải trau Thường xuyên tâm niệm “Thích mau nhiều tiền” Sòng phẳng là tính tự nhiên Không công thì chớ nhận tiền của ai Tư tưởng tích cực an bài Tiềm thức phục vụ cho đời thành công.
-
Sức mạnh tiềm thức Ý thức+Tiềm thức=Niềm tin Kho báu nằm ở trong người Ngẫm sâu vào đó đắp bồi niềm tin Vĩ nhân có khắp mọi miền Đều do tiếp xúc mở tiềm thức đi Trước khi ngủ bạn nghĩ gì Tiềm thức của bạn sẽ y chấp hành Tiềm thức thiết kế thân lành Khi ngủ ru “Khỏe” sẽ thành thật chân Ý nghĩ là cái nguyên nhân Lời xưa “Tâm tưởng sự thành” đúng y Bạn muốn sáng tác cái gì Nói với tiềm thức, nó ghi tức thời Nó làm đến chốn đến nơi Nó là trợ lý tuyệt vời chữ Trung Bạn như thuyền trưởng ung dung Ý nghĩ, hình ảnh đáng dùng, lệnh nhanh Tiềm thức y lệnh chấp hành Chỉ đâu đánh đấy trung thành với ta Lời nói, ý nghĩ buông ra Đều được tiềm thức nghe và làm ngay Bạn phải kiêng kỵ điều này: Đừng nghĩ lùi bước, đừng gây lời nhàm Qui luật sống - ấy niềm tin Đừng tin những thứ gây phiền cho ta Hãy tin tiềm thức là nhà Sức mạnh của nó cho ta khỏe, giàu Thay đổi cách nghĩ cho mau Sẽ thay đổi phận, nhiệm màu là đây Nghĩ tốt, tốt sẽ đến ngay Nghĩ xấu, xấu sẽ theo dây theo dài Ngã chính là Nghĩ an bài Nghĩ sao thì sẽ thành Ngài thế thôi Tiềm thức chẳng thể hé môi Đầy tớ chấp nhận mọi lời lệnh ra Ý thức như thể vua cha Tiềm thức chỉ biết lệnh là làm theo Nghĩ giàu khỏe, bỏ yếu nghèo Tiềm thức sẽ khiến cảnh theo như lời Ý thức gác cổng suốt đời Bảo vệ tiềm thức khỏi nơi sai lầm Tin vào tốt đẹp, khỏe thân Tức thì tiềm thức sẽ mần xảy ra Lựa chọn là sức mạnh ta Hãy chọn hạnh phúc, sẽ là giàu sang Mặc ai ám thị, bàn ngang Đừng cho nó phạm để làm hại ta Ám thị sở dĩ có là Do mình nghĩ có, do là mình tin Bởi vậy nghe phải chọn tìm Loại bỏ tiêu cực, giữ gìn lòng ta Tâm thức chẳng có xấu xa Tự nhiên cũng vậy, bởi là tự nhiên Vận dụng sức mạnh thiên nhiên Truyền cho tâm thức những điềm lành ngay Khẳng định công việc hàng ngày Mọi điều ta hễ bắt tay là thành Đừng mê tín , đừng run, ganh Đừng để kẻ khác xâm giành ý ta Ta là thuyền trưởng cơ mà Tiềm thức tuân lệnh của ta suốt đời Chọn sức khỏe, chọn yên vui Tự ta xây dựng phận đời cho ta Ý thức thừa nhận tức là Tiềm thức biến nó xảy ra tức thì Bởi vậy linh hướng đường đi Tin vào hạnh vận là vì chính mi Tiềm thức điều khiển hành vi Biết trả lời mọi vấn đề đời ta Những gì ta đã phác ra Vào trong tiềm thức, nó đã hiện lên Ý thức mà nghĩ xấu, hèn Sẽ thành hiện thực, ấy liền họa tai Tiềm thức hưởng ứng dài dài Mọi nghĩ tốt, xấu an bài trong ta Chớ nên trăn trở, kêu ca Tiềm thức nó sẽ cho ra như lời Sẽ chẳng đổi được cuộc đời Bởi mi tự chặn mất nơi trong lành Hãy để ý thức ngập tràn Những điều tốt đẹp, làm tiềm thức ghi Tiềm thức sẽ vậy mà đi Tự nhiên ta được những gì ta mong Mỗi khi gặt hái thành công Ta phải cảm nhận cho lòng sướng vui Tiềm thức cũng được thúc xui Giúp ta lại gặt nữa rồi thành công Hãy tin sức mạnh của lòng Tiềm thức ắt giải quyết xong mọi điều Bệnh, đau ta chớ có kêu Sức mạnh tiềm thức sẽ đều chữa xong Niềm tin như hạt gieo mầm Lớn lên theo ý như ngầm có gen Nên phải chăm bón niềm tin Gieo vào tâm trí, nó liền đơm hoa Cái trí tưởng tượng bao la Gieo vào tiềm thức, thành là sức trong Tiềm thức – sức mạnh trong lòng Bệnh gì nó cũng chữa lành được ngay Tiềm thức nếu để ghi sai Thi hành lệnh xấu – bệnh hoài do ta Mọi bệnh có thể xảy ra Do tự ám thị hoặc là thôi mien Chữa lành duy nhất – niềm tin Tiềm thức – sức mạnh vô biên hàng đầu Niềm tin thật giả biết đâu Hễ tin là có nhiệm màu xảy ra Tiềm thức đáp lại đấy mà Nó theo ý nghĩ như là đường ray Định hướng đúng đắn là hay Tiềm thức sẽ chữa lành ngay bệnh tình Phải lập kế hoạch cho mình Chuyển đến tiềm thức tâm tình, ước mong Cứ nghĩ điều ước trong lòng Nghĩ tốt tức tạo dựng xong tín niềm Chớ nghĩ bệnh tật , tổn thương Hãy nghĩ mi khỏe, bình thường, thành công Tư tưởng vĩ đại cao sang Trở thành hành động phi thường liệt oanh Cầu nguyện lời, ý của mình Nói ra ước vọng chân thành trong tim Thật tin cầu nguyện, tịnh tâm Sẽ có hồi đáp âm thầm hiện lên “Cầu được, ước thấy” như răn Lời xưa dân Việt ngàn năm dạy truyền Ý thức + Tiềm thức = Niềm tin Lòng tin nhất định làm nên diệu kỳ Bệnh gì cũng tự qua đi Cần gì đến thuốc, cần gì y khoa Cầu nguyện – sức mạnh bao la Cầu cho người khác cũng là, diệu thay Nuôi giữ ước vọng ngày ngày Tâm thức chất chứa vào ngay trong mình Rồi tiềm thức sẽ thi hành Mọi điều ước vọng biến thành thật chân Tưởng tượng là ảnh nội tâm Dù không nhìn thấy, nó ngầm khắc ghi Rồi thành cảnh thật một khi Là do tâm thức thực thi cảnh này Cầu nguyện chớ gượng, chớ rầy Hãy tự ru ngủ , hãy gây mơ màng Giữ vững thái độ tinh thần Quả quyết điều ước sẽ thành như mong Vấn đề chưa giải quyết xong Trước ngủ hãy nhắc cho lòng nó ghi Tiềm thức nhận lệnh tức thì Ta ngủ, nó vẫn thực thi âm thầm Tiềm thức tự giải quyết xong Bỗng nhiên đáp số có trong tỉnh thời Cơ thể tái tạo cuộc đời Giao cho tiềm thức nó thời vẽ nhanh Cứ mười một tháng một lần Tư duy thay đổi là cần cho ta Chớ ganh tỵ, chớ lo xa Hoang mang sẽ tổn những là thần kinh Gây ra đủ bệnh linh tinh Tư tưởng đúng đắn giữ mình khỏe, ngay Ung dung, thư thả ngày ngày Chớ để bức xúc nó gây phiền hà Nhịp điệu sinh học. cho qua ! Tâm thức mới thật chính là quan tâm Trước khi ngủ hãy ước mong Ngủ ngon, thức dậy hân hoan con người Tự mình quyết định giàu thôi Tiềm thức sẽ giúp như lời tự Tôi Tham công, tiếc việc – lỗi thời Tích cóp của cải - để đời mất vui “Giàu, giàu, giàu” niệm một hồi Năm phút trước ngủ, Tiềm thời khắc ghi Ý niệm hóa thật một khi Cảm giác giàu có luôn đi với mình Ý thức, tiềm thức đồng hành Sẽ không xung đột, sẽ thành diệu thay Phải luôn giải quyết từng ngày “Tôi đang phát đạt từng ngày đó thôi” Tiềm thức ghi nhận y lời Đem lại kết quả như đời ta mong Điều gì ta quả quyết xong Đừng phủ nhận nó mà thành uổng công Đồng tiền như thủy triều dâng Khi lên khi xuống phiền lòng làm chi Lệnh cho tiềm thức tức thì Tiền hết lại có, ước chi , được vầy Chê tiền sẽ có hại ngay Tiền sẽ không đến hàng ngày với ta Tiền chẳng phải thánh đâu mà Chỉ là luân chuyển cho qua chẳng buồn Giàu có đích thực – tâm hồn Đừng biến tiền bạc thành nguồn mục tiêu Bần cùng – lòng hẹp, tâm nghèo Phải sống đầy đủ mới gieo mạnh giàu Trọng của cải – tính phải trau Thường xuyên tâm niệm “Thích mau nhiều tiền” Sòng phẳng là tính tự nhiên Không công thì chớ nhận tiền của ai Tư tưởng tích cực an bài Tiềm thức phục vụ cho đời thành công.
-
Nhiều Từ Nhiều trong Nôi khái niệm nó theo QT Nở mà nở ra lúc đầu là từ dính Nhen-Nhúm (Nhúm rõ là ít và Nhen thì nhiều hơn, rồi từ dính Nhen-Nhúm đó lớn tiếp thành từ dính Nhen-Nhóm, lúc này Nhen lại là ít hơn so với Nhóm), Nhen-Nhóm không phải chỉ là nói về lửa để đến lúc lửa sẽ bùng lên thành nhiều, khi ấy mới có Nhiều = Nhiệt (mà về sau sẽ thấy Hán ngữ có từ Nhiên Liệu để chỉ chất đốt nói chung, bằng nhiều thứ vật liệu hằm bà lằng); mà cả nói về tập hợp lực lượng (ví dụ cùng nghiên cứu một vấn đề, thì cũng sẽ đến lúc Nhen lại nhiều hơn lên thành Nhen = Chen = Chúng). Cuối cùng thì từ trong cái Nôi khái niệm, Nhiều cũng nở ra được hẳn thành hai từ độc lập đồng nghĩa là Nhiêu và Nhiên, ghép thành từ đôi để nhấn mạnh ý nhiều là từ đôi Nhiêu Nhiên, chữ nho viết Nhiêu Nhiên 饒 然 cũng còn đọc là Nhiều Nhặn. Nhưng từ Nhiều không phải là từ đầu tiên. Tế bào gốc của nó cũng là do trong tiếng Việt mà ra, đó là cái Ô giữa của NÔI khái niệm lớn. Cái NÔI khái niệm trong QT Nở thì lúc đầu nó chỉ là một cái Tí = Tế (tế bào), đó là cái Ô tròn vô cùng nhỏ bé. (nằm giữa chữ NÔI). Cái Ô đó theo QT Nở sẽ sinh sản tách đôi thành hai cái nôi khái niệm là Nôi khái niệm “Ít” và Nôi khái niệm “Nhiều” , tạo thành cặp đối Ít/Nhiều như ta đang dùng ngày nay. Nhưng nguyên thủy của nó phải là cặp đối Ỏi/Ối, là do nở trực tiếp từ cái nhỏ bé là cái Ô (cả ba chúng nó Ô, Ỏi, Ối đều giống nhau và đều cùng có chung cái Tơi tên là “vắng tơi” ) Rồi theo QT Tơi-Rỡi (tức thay Tơi hoặc thay Rỡi thì đều tạo ra được từ mới đồng nghĩa) sẽ có được hai nôi khái niệm là Nôi khái niệm Ít (do từ Ỏi sinh ra) và Nôi khái niệm Nhiều (do từ Ối sinh ra) mà hai từ ấy là ở cặp đối nguyên thủy Ỏi/Ối : 1/ Ỏi = Út = Chút = Chốc = Lốc = Lát = Lúc = Túc 宿 = Tấc = Tá = Tạm 暫 = Tí = Ị = Ít = Ỏi = Thỏi = =Thí = Xí = Xị = =Xíu = Thíu = Thiểu 少. Các từ đôi: Ít Ỏi, Tí Chút, Chút Ít, Út Ít, Chốc Lát, Tá Túc. Các từ ghép: Có Ít, Có Tí, Có Chút, Một Chốc, Một Lát, Một Lúc, Một Tấc, Một Tá, Thỏi Son ( rất nhỏ bé ít ỏi), Gió Lốc (chỉ thoáng qua một ít thời gian). Chữ Ký Túc Xá mà Hán ngữ dùng là chỉ cái nhà ở tạm một ít thời gian, cái sự ở tạm ấy tiếng Việt gọi bằng từ đôi Tá Túc, cũng như Hán ngữ dùng chữ Tưởng Nhất Túc 想 一 宿 nghĩa là Nghĩ Một Lúc. Vậy mấy chữ nho Túc 宿, Tạm 暫, Thiểu 少 hẳng phải là từ cái nôi ngôn ngữ Việt mà ra thì là gì ? 2/ Ối = Khối = Khẳm = Lắm = Dăm = Dư 餘 = Dào = Ráo = Nhào = Nhặn = Nhiên 然 = Nhiều = Nhiêu 饒 = Nhồi = Dôi = Diều = =Dồi = Đỗi = Đa 多 (cái Diều của loài chim cũng giống khúc Dồi là cái chứa nhiều thức ăn vụn trong đó). Các từ ghép: Có Ối, Có Khối, Có Lắm, Có Nhiều, Có Dư, Hết Ráo, Khô Ráo. Các từ đôi: Nhiều Nhặn, Nhiêu Nhiên, Dư Dôi, Dồi Dào, Ối Dào, Khẳm Lắm. Từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 viết bằng chữ nho (Hán ngữ mà đọc thì phát âm là “Ráo Rán”) để nói cái ý là Nhiều Nhặn , thì từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 này chỉ còn gặp trong văn viết của “cổ Hán ngữ” ( “cổ Hán ngữ” là theo cách gọi của các học giả TQ chỉ cái âm Việt Nam đọc chữ nho, và họ cho rằng đó là thứ ngôn ngữ thời Đường ở TQ ). Chữ Nhiên 然 nghĩa là “nhiều” lưu lại trong Hán ngữ hiện đại chỉ còn là ở trong các từ ghép như Thiên Nhiên, Tự Nhiên, nhưng những từ ghép ấy lại là ghép theo cú pháp Việt, Thiên Nhiên 天 然 là “trời sinh ra nhiều”, Tự Nhiên 自 然 là “tạo hóa sinh ra nhiều”. Khi “Nhiều” đứng ở vị trí sau trong một từ ghép, nó có tác dụng khẳng định ý của từ đứng trước nó, từ Nhiều này nho viết bằng chữ Nhiên 然 để đọc từ Nhặn (Nhiều = Nhiêu = Nhiên = Nhặn = Nhăn = Răn = Dăn = Dăm = =Lắm = Lăm = Prăm của số 5 là số nhiều nhất trong một vòng đếm của hệ đếm ngũ phân trong tiếng Khơ Me. Cái Nhăn = =Răn = Dăn là nói ý “nhiều vết cong queo” chứ chỉ đơn độc một vết thì lấy vết nào nữa so sánh với nó để mà biết là cái mặt có “nhăn” hay là không?) . Cái sự khẳng định bằng từ Nhiều (=Lắm) ở vị trí sau của từ ghép là khẳng định ý của từ ở vị trí đầu của từ ghép đó, đã tạo ra hàng loạt từ ghép sau đây (mà từ điển “Yếu tố Hán Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 coi là “từ Hán Việt”): Bỗng Nhiên, Công Nhiên, Cố Nhiên, Dĩ Nhiên, Điềm Nhiên, Đương Nhiên, Hạo Nhiên, Hồn Nhiên, Hiển Nhiên, Mặc Nhiên, Ngạc Nhiên, Ngẫu Nhiên, Nghiễm Nhiên, Quả Nhiên, Siêu Nhiên, Thản Nhiên, Thốt Nhiên, Tuyệt Nhiên (trang 288 Từ điển); mà các từ ghép ấy đều là ghép theo cú pháp Việt: ví dụ Tuyệt Nhiên 絕 然 = =Tuyệt Nhiều = Tuyệt Nhặn = Tuyệt Lắm; Hạo Nhiên 浩 然 = Hồng Nhiên 洪 然 = Hồng Nhiều = Rộng Nhiều = Rộng Nhặn = Rộng Lắm (Nếu ghép theo cú pháp Hán thì Tuyệt Nhiên phải ghép là Đa Tuyệt 多 絕, Hạo Nhiên phải ghép là Đa Hạo 多 浩 hay Đại Hạo 大 浩, cũng giống như Tiếng Việt nói Cảm Ơn Nhiều, Ơn Lắm thì Hán ngữ phải nói theo cú pháp ngược lại là Đa Tạ 多 謝). Chữ nho Nhiêu 饒(Hán ngữ phát âm là “Ráo”) thì Hán ngữ cũng chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa về sau của nó là “giàu có” (theo Từ điển đã dẫn, trang 289). Thực ra từ nguyên của nó là một từ gốc Việt là từ Nhiều. Chữ nho Nhiên 然 (mà Hán ngữ phát âm là “Rán” để đọc từ Nhặn, cũng nghĩa là “nhiều”) nếu trong Hán ngữ hiện đại chỉ đứng riêng một chữ Nhiên 然 thì Hán ngữ không còn hiểu ý “Nhiều” trong cái gốc Việt của nó nữa, mà chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa của nó khi nằm trong từ ghép mà thôi, biến nghĩa đó là “như vậy”(theo Từ điển đã dẫn, trang 288). Ví dụ từ ghép Hiển Nhiên 顯 然, là một từ Việt, ghép theo cú pháp Việt, nghĩa là “hiện tỏ nhiều” (Hiện Tỏ = Hiển = Hiện Rõ), Hiển Nhiên 顯 然 là Hiển Nhiều tức khẳng định cho ý “Hiển”. Hán ngữ hiểu từ ghép Hiển Nhiên 顯 然 là “Hiển như vậy” (cũng là khẳng định ý “Hiển”). Vấn đề là sự thực Hán ngữ đã sử dụng vô vàn từ gốc Việt (còn giữ nguyên cả cú pháp Việt trong từ ghép), nhưng tại sao người ta lại gọi những từ đó là “từ Hán - Việt”? Có nghĩa là người ta đã tự ý gạt đi cho người rất Nhiều thứ của Việt ra khỏi Việt để chỉ còn giữ lại di sản rất Ít cho ta.