Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. Quá trình Hán hóa tiếng Việt Khu tam giác châu Chu giang vùng Lĩnh Nam 嶺 南 tồn tại ngôn ngữ hệ Quảng Phủ (tức tiếng Quảng Đông) , xưa nó là vùng tiếng Việt cổ, gọi là Nam Việt ngữ 南 越 語. Sau đó Nam Việt ngữ diễn biến thành tiếng Choang 壯 ngày nay, người Choang chính là người Việt cổ. Sách cổ “Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư 天 下 郡 國 利 病 書” của ông Cố Viêm Vũ 顧 炎 武 có nói: “ Quảng Đông có hai tộc người là người Choang 壯 và người Dao 瑤, người Dao 瑤 là người Kinh 荊, Man 蠻 (chữ “kinh 荊” này = “canh” = “cây lanh” cho sợi lanh dệt vải chứ không phải chữ “kinh 京” là kinh đô như đang dùng để phiên âm chỉ dân tộc Kinh hiện nay), còn người Choang là người Việt cũ”. Những “ người Việt cũ” này chính là một bộ phận tiên nhân của người hệ ngữ Quảng Phủ 廣 府 系. Họ sử dụng Nam Việt ngữ 南 越語, mà âm, nghĩa , từ vựng và kết cấu ngữ pháp không thể lý giải được bằng Hán ngữ, như “nà” là ruộng nước( tiếng Tày), “nặm” là nước (tiếng Tày), “bản”, “xư”(xóm), “đô” (đồn”), “vân” (vạn chài) đều nghĩa là thôn lạc 村落 (村落 đọc là “xun lua” tiếng Hán = “phum sóc” tiếng Khơ Me. Do dân du mục đồng cỏ phương bắc thời cổ đại không sống theo làng như dân nông nghiệp định cư phương nam, nên trong ngôn ngữ của họ không có khái niệm phum sóc, họ mượn chữ nho phiên âm từ “ phum sóc” thành “xun lua”. Ai bảo từ “thôn” là “từ Hán – Việt " ? Nó là do “phum” = “chùm” = “chòm” = “xóm” = “xúm” = “xun” tiếng Hán = “thôn” tiếng Việt. “Thôn” qua mấy ngàn năm lại quay về với “phum” như cháu đích tôn quay về với ông nội của nó vậy. “Cá nhà mình nhảy sang ao nhà người ta - đương nhiên là nó lớn lên ở đó một thời gian dài - , người ta bắt được bán lại cho mình, mình lại gọi là cá của người ta sao?” - Lời Bác Hồ nhắc chiến sĩ cận vệ của Bác năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc, khi Bác tập võ quật ngã được anh chiến sĩ, anh ta liền khen “ Bác đánh võ Tàu giỏi thật !”), từ “khách nhân” họ gọi là “nhân khách” (= người khách, kết cấu ngữ pháp Việt), “công kê” họ gọi là “kê công” (= gà trống, kết cấu ngữ pháp Việt) v. v. đó là nền tảng văn hóa cho việc hình thành Việt ngữ 粵 語 tức tiếng Quảng Đông ngày nay. Thời Đường ,Tống người Hán xuống vùng Lĩnh Nam 嶺 南 ngày càng nhiều, trở thành chủ thể cư dân ở đó. Họ đem từ Trung Nguyên xuống qui phạm ngữ pháp và âm đọc, bắt buộc những người học chữ phải theo. Nhưng đến thời Nam Hán vì chính quyền cát cứ nên phương ngữ Việt粵 方 言( tức tiếng Quảng Đông) có cơ hội phát triển ổn định không bị chèn ép, hấp thụ nguồn rất lớn thành phần của Việt ngữ 越 語 cổ (tức tiếng Việt), phát triển theo hướng ngược với hướng phát triển của Hán ngữ, hình thành một ngôn ngữ độc lập, chấm dứt giữa chừng sự đồng hóa của Hán ngữ. Đến thời Tống lại thực hiện chính sách mềm nắn rắn buông nên quan hệ địa phương với trung ương lỏng lẻo, Việt ngữ 粵 語 lại càng có cơ hội phát triển độc lập. Thời đó một dịch giả người Hán là thư lại bộ Lễ khi so sánh Hán ngữ với Việt ngữ粵 語 ( tức tiếng Quảng Đông), nói rằng: “Âm vận của họ toàn là theo âm Giao Chỉ ngữ 交 趾 語 ( họ có là con đẻ của dân Giao Chỉ thì âm vận mới theo âm vận của “Giao Chỉ ngữ” chứ chẳng lẽ người Việt đẻ ra lại nói theo âm vận của tiếng Anh ?), chữ thì từng chữ của họ đều khác chữ Hán” (vì họ dùng chữ Nôm Quảng Đông ! ) chứng tỏ rằng thời Tống âm vận của phương ngữ Việt 粵 ( tức tiếng Quảng Đông) khác xa âm vận tiếng Hán ở Trung Nguyên, nó đã định hình thành một ngôn ngữ riêng. Sau thời Tống ngôn ngữ Việt 粵 語 (tức tiếng Quảng Đông) ấy vẫn tiếp tục phát triển theo qui luật riêng của nó, tuy có không ít biến dị nhưng cơ bản vẫn như lúc nó đã được định hình thời Đường, Tống. Ngày nay ngôn ngữ ấy là một phương ngữ lưu hành ở vùng tam giác châu Chu giang 珠 江, vùng lưu vực Tây giang 西 江 và khu vực Đông giang 東 江 thuộc Quảng Đông và Quảng Tây. Riêng về tiếng Khách Gia thì vào thời Đường, tiên nhân người Khách Gia ở Lĩnh Nam số lượng mới chỉ có hạn nên chưa hình thành được một hệ ngữ riêng, phương ngữ Khách Gia cũng chưa hoàn thành quá trình phân hóa khỏi Hán ngữ Trung Nguyên. Đến cuối thời Đường hàng loạt tiên nhân người Khách Gia đổ xuống định cư vùng Lĩnh Nam, chủ yếu tập trung ở đông và đông bắc đất Việt 粵 (đông Quảng Đông và nam Phúc Kiến ngày nay), có đất để ổn định phát triển, dần dần hình thành một hệ ngữ độc lập, hoàn thành quá trình phân hóa khỏi Hán ngữ Trung Nguyên, phát triển theo một hướng độc lập. Đến thời Tống, Nguyên lại có số lượng lớn người Khách Gia chạy khỏi Trung Nguyên xuống Lĩnh Nam nhập vào số đến trước, hình thànhquần thể lớn cư dân có hệ ngữ hoàn chỉnh, thoát ly hẳn Hán ngữ, chín mùi thành một phương ngữ độc lập là tiếng Khách Gia. Nguồn trích: http://www.chinareviewnews.com
  2. " Đất hiếm của Trung Quốc – Ai làm chủ tài nguyên của chúng ta?" Tham khảo tin ( theo http://www.chinareviewnews.com 2010-10-24 00:07:28 ) Đất hiếm của Trung Quốc – Ai làm chủ tài nguyên của chúng ta? Tuy Trung Quốc là nước có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới nhưng lượng xuất khẩu so với trữ lượng chiếm tỷ lệ cao hơn tỷ lệ của thế giới quá nhiều. Theo bình luận viên của bổn báo Bắc Kinh 24 tháng 10 thì trên thế giới đang thổi làn sóng ép Trung Quốc phải tăng cường xuất đất hiếm hơn nữa. Đại sứ Nhật tại Trung Quốc đã triệu tập các đại sứ Mỹ , Anh, Pháp, Đức, Hàn thảo luận nhằm đồng thuận trong việc yêu cầu Trung Quốc giảm các hạn chế trong xuất khẩu đất hiếm.Đối với vấn đề này, người phát ngôn bộ thương mại Trung Quốc tuyên bố, Trung Quốc thi hành các biện pháp đối với khai thác, gia công và xuất khẩu đất hiếm là phù hợp với qui phạm quốc tế và qui phạm mậu dịch, Trung Quốc không lấy việc xuất khẩu đất hiếm là thủ đoạn phong tỏa. Thủ tướng Ôn Gia Bảo khi thăm châu Âu đã chỉ rõ, Trung Quốc phải khống chế và quản lý đối với đất hiếm, nhưng đồng thời chiếu cố đến nhu cầu của thế giới, sẽ không dùng đất hiếm làm công cụ mặc cả, điều này chứng tỏ Trung Quốc dùng các biện pháp tất yếu theo pháp luật Trung Quốc để quản lý nguồn tài nguyên đất hiếm, đồng thời tôn trọng cục diện cung cầu đất hiếm đã hình thành trên thế giới từ trước tới nay, chiếu cố lợi ích của nhiều bên. Mặc dù nhiều nước chỉ trích Trung Quốc nhưng cái đó đồng thời nhác chúng ta cảnh giác điều thực hư trong vấn đề này, không để mắc mưu thay đổi trắng đen. Điều khẳng định đầu tiên là đất hiếm là tài nguyên chiến lược, có ứng dụng rộng rãi trong kỹ thuật cao và trong quân sự, là nguyên tố không thể thiếu trong chế tạo vũ khí có điều khiển chính xác. Mà đối với tài nguyên chiến lược thì các nước đều có thực thi sự quản lý và khống chế ở các mức độ khác nhau, không chỉ tài nguyên chiến lược dùng trực tiếp cho quân sự như đất hiếm, đến tài nguyên chiến lược dùng gián tiếp cho quân sự như dầu khí cũng đã có tổ chức như OPEC để hạn chế sản lượng, nâng cao giá bán, coi đó là vũ khí trong thương thảo chiến lược .
  3. Thiên hạ họ Hùng- nguồn gốc họ Nguyễn Người họ Nguyễn ở Trung Quốc có 81 vạn người, đông thứ 162 trong các họ, chiếm 0,065% dân số. Họ Nguyễn phân bố chủ yếu ở vùng ven biển đông nam và đông Trung Quốc, riêng bốn tỉnh Triết Giang, Hồ Bắc, Quảng Đông, Phúc Kiến chiếm 50% số người trong họ, trong đó nguyên Triết Giang chiếm 15% số người trong họ; thứ đến năm tỉnh Hà Nam, Thiểm Tây, Giang Tây, Sơn Đông, Giang Tô chiếm 26% người trong họ. Điều này cho thấy rằng người họ Nguyễn còn lại đông nhất là ở địa bàn các nước Bách Việt thời cổ đại, mà đông nhất là ở nước Việt xưa của Việt vương Câu Tiễn là vùng Triết Giang. Nhưng các nước Bách Việt chỉ là sự phục hồi vào giai đoạn Xuân Thu của tộc Họ Hùng dòng giống Việt thời thượng cổ, có không ít họ của dòng Hùng đã lui về phía nam khỏi lưu vực Hoàng Hà trước áp lực của các tộc du mục phương Bắc. Họ Nguyễn đông chỉ ở miền nam Trung Quốc . Ma kao phát âm là “Un”, Hồng Kông phát âm là “Yuén”, Đài Loan phát âm là “Chuen”, mà ở tiếng Mân Nam - Đài Loan “choen” còn có nghĩa là tiếng xưng hô “tôi” giống như từ “choa” trong tiếng Nghệ An, từ “Việt Nam” người Hoa phát âm là “Yue nán” cũng lướt thành “Yuén, người Căm Pu Chia gọi là “Yuôn” hay “Duôn”, tiếng phổ thông Trung Quốc phát âm là Roản.Tiếng phổ thông Trung Quốc mới chỉ xuất hiện 400 năm nay, do phát minh của người Mãn (về phát âm và về ngữ pháp, chỉ có chữ thì vẫn dùng chữ nho cổ truyền).Tại sao người phương Bắc lại phát âm là Roản, có mấy thuyết cho rằng: Hoặc do kết quả của việc chính phủ triều đình Mãn Thanh chèn ép triều Nguyễn của Việt Nam. Hoặc vào thời nhà Nguyên của các “Khan” Mông Cổ trước kia người họ Nguyễn phải kỵ húy chữ Nguyên. Hoặc do khi nhà Nguyên kết thúc, người Mông Cổ gặp phải sự tẩy chay của người Hoa nên người họ Nguyễn, để tránh vạ lây với người Nguyên, mà phát âm là Roản. (Theo http://www.baike.baidu.com/view/569974.htm) Theo sách sử Trung Hoa thì thời Chu cứ lấy đất phong hầu thành một nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, nên số lượng các họ gia tăng. Trước thời Hạ, Thương, các bộ lạc là thị tộc thì “thị” vốn là “con cháu của rồng” vẫn cùng tồn tại sinh sôi nảy nở trên mảnh đất thiên hạ nhà Chu, các nước lớn nhỏ đều lấy tên nước làm họ. Những nước con con như vậy kỳ thực là những thị tộc bộ lạc. Có tất cả 64 nước. Phong nhiều nước chư hầu như vậy nhưng vị thế các nước ấy không như nhau, cũng có thứ bậc là “ Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男” ( theo ý chữ thì tương ứng thì là “Ông”, “Hầu”, “Bác”, “Con”, “Trai” , thật chẳng có nghĩa gì về cái “tước” được phong cả, mà cũng chẳng theo cái “chục con”= “thập can” như là đếm thứ tự gì cả, kỳ thực đấy chỉ là do người đời sau dùng chữ nho dịch lại những âm tiếng Việt là “Chắc”, “Hai”, “Ba”, “Tư”, “Năm” mà thôi, nó mới ra thứ bậc tương ứng là 1 – 2 – 3 – 4 – 5 ). Kẻ được phong nước có dân đông thì đều là môn đệ quyền thế ngoại thất của vua Chu hoặc là công thần của vua Chu, còn những tiểu bang tiểu quốc thì nhiếu như rừng. Chế độ phong 5 đẳng cấp ấy sản sinh ra 5 cấp “Hầu” là Quốc Hầu 國侯, Ấp Hầu 邑侯, Quan Hầu 闗侯, Hương Hầu 鄉侯 và Đình Hầu 亭侯. Lễ chế nhà Tây Chu 西周 qui định cứ 1250 hộ họp thành một hương 鄉, một hương quản 10 đình 亭, một đình quản 10 lý 里. Do vậy lại xảy ra khi dân số càng đông lên, lại lấy tên các đơn vị hành chính làm họ, số họ trong thiên hạ càng ngày càng nhiều. Có thuyết nói nguồn gốc họ Nguyễn là từ họ Cơ 姬. Theo “Xuân Thu công tử phổ 春秋公子譜” thời Xuân Thu 春秋 có công tử nước Trịnh 郑国 là một nước của họ Cơ 姬, tên là Phong Hựu Đại Phu 豐又大夫 tên tự là Thạch 石, con cháu về sau lấy tên tự làm họ gọi là họ Thạch 石氏. Đến đầu thời Đông Tấn 東晉 con cháu họ Thạch phải chạy loạn đến vùng Nguyễn Tích 阮厝 của nước Sở 楚国 (nay là Cụ Châu 衢州 tỉnh Triết Giang 浙江, cũng có thuyết nói nay là Hạ Môn 厦門 tỉnh Phúc Kiến 福建), rồi lấy tên nơi cư ngụ mới là vùng Nguyễn Tích 阮厝làm họ gọi là họ Nguyễn 阮. Sau đó họ chạy dần về nam là đất Giao Chỉ thành họ Nguyễn ở Việt Nam. Còn một họ Nguyễn khác ở Trung Quốc là hậu duệ dòng Thác Bạt. Thác Bạt là quí tộc của tộc Tiên Ti là một sắc dân du mục phía bắc Hoàng Hà, tới thời Hiếu Văn Đế họ Thác Bạt đổi thành họ Nguyên 元, về sau lại ghi là Nguyễn 阮. Lại nữa, thời thượng cổ có dân du mục Trung Á tiến nhập lưu vực Hoàng Hà, họ có cây đàn bốn dây giống cây đàn “nguyệt”, dân gọi là đàn “nguyễn 阮”. Về sau họ cũng thành người mang họ Nguyễn 阮. Họ Nguyễn ở Việt Nam là một trong 5 họ đông nhất trong dân số ( Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%). Tại sao người họ Lý ở Việt Nam ít ? Có thuyết nói rằng khi nhà Trần thay nhà Lý thế kỷ 12, vua Trần viện cớ rằng họ Lý vốn xưa có gốc là họ Nguyễn nên lệnh cho người họ Lý toàn quốc đổi sang họ Nguyễn, làm gia tăng “cơ học” dân số họ Nguyễn. Điều này còn phải chờ ý kiến xác minh của các nhà sử học Việt Nam. Nhưng sau thời Lý không phải chỉ có Hoàng tử Lý Long Tường và bộ hạ vượt biển sang Hàn Quốc lập thành dòng họ Lý ở Hoa Sơn, mà còn một Hoàng tử nữa của họ Lý cũng vượt biển sang Hàn Quốc và lập nên một dòng họ Lý khác ở Hàn Quốc.( Họ tên người Hàn Quốc cũng là ba tiếng và kết cấu là họ trước tên sau như ngữ pháp tiếng Việt, chính trước phụ sau. Đó là vì người Hàn Quốc đã sử dụng chữ nho từ thời ông Tề Công ở nước Tề truyền bá sang cho họ. Thời nhà Đường ba lần sang bình định Hàn Quốc mà không được, nước Hàn Quốc vẫn là nước độc lập, dù dùng hoàn toàn chữ nho. Quân Nguyên Mông xâm lăng Hàn Quốc bị thua, trong đó cũng phải kể đến công lao kháng chiến của người họ Lý ở Hoa Sơn dưới sự lãnh đạo của Hoàng tử Lý Long Tường. Đến thế kỷ 13 một vị vua anh minh của Hàn Quốc mới sáng tạo ra chữ vuông chứa các ký tự ghi âm gom thành ô vuông là chữ Hàn Quốc ngày nay, nhưng bộ giáo dục Hàn Quốc đến nay vẫn bắt buộc trẻ em từ mẫu giáo phải học thuộc 1800 chữ nho nguyên thủy, Nhật Bản thì bắt buộc phải học thuộc 2500 chữ nho. Chứ tiếng Hàn Quốc là ngôn ngữ chắp dính đa âm tiết, ngữ pháp là phụ trước chính sau, thời thượng cổ họ vốn là dân du mục từ Trung Á sang, ngôn ngữ họ gần gũi với ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ). Một lý do “cơ học” nữa là thời nhà Nguyễn nhiều người họ khác khi được làm quan thì đổi sang họ Nguyễn. Ví dụ một họ Nguyễn ở Sơn Tây có gia phả nói rằng họ vốn là họ Hà ở Quảng Yên Quảng Ninh đến định cư ở Sơn Tây, do triều Nguyễn tuyển người có học vào “biên chế” chức hương lại nên quan sở tại khuyên họ đổi sang họ Nguyển để dễ được xét tuyển, sau 1945 con cháu họ lại lấy lại là họ Hà. Kỳ thực thời thượng cổ họ Lý và họ Nguyễn đều có cùng gốc tổ là họ Cơ. Tiên tổ họ Nguyễn là Cao Đào 皋陶 được phong đất Yên 偃. Đất Yên thời thái cổ là đất vùng Ôn 温 nhiệt tức xứ nóng gần xích đạo, ở phía nóng “bức” hơn đất Giữa là Giao Châu, nay là vùng Trung Bộ Việt Nam và Lào, mà người Căm Pu Chia gọi đất Yên ấy là Yuôn hay Duôn. Sử sách Trung Hoa về sau gọi nước đó là Lâm Ấp hay Việt Thường tức ấp quốc ở phía “lam” tức phía “nam”, Lâm Ấp còn một biến âm là Chăm Pa hay nước Chàm, nước Chiêm Thành. Từ An Nam 安南 (an nan) có về sau như sử sách Trung Hoa gọi, cũng là do âm Yên 偃 (yan) thời thái cổ ra mà thôi. Vì tên nước là An Nam nên thế kỷ 15 các nhà truyền giáo phương Tây (sau khi đã đặt chân đến Philipin, Đài Loan, Ma Cao rồi mới biết đến nước An Nam) gọi người nước An Nam là “An Nam mít” theo nghĩa tiếng Tây là “người An Nam”, các cụ nho nghe từ “mít” đồng âm với “mít đặc” nên bảo là nó gọi thế để miệt thị dân mình, đó chỉ là sự suy diễn, có miệt thị chăng chỉ là ở chỗ bọn thực dân cướp mất chủ quyền quốc gia để độc quyền khai thác khoáng sản tài nguyên bóc lột thuộc địa. Nhưng từ An Nam vì thế mà chịu “ấn tượng ngôn ngữ” thành tiếng xấu . Về sau Nguyễn Phúc Ánh kiến lập triều Nguyễn đổi quốc hiệu “An Nam” thành “Việt Nam” là chữ có từ thời ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng, chữ Việt này người Hoa phát âm là Yuê, phiên âm Anh ngữ là Yuen, tương tự như Nguyễn. Hậu duệ họ Cơ 姬 tức là con cháu Họ Hùng được phong đất Yên lấy tên đất làm họ gọi là họ Nguyễn. Dùng chữ nho để ghi âm tên đất như tên Yên (Yan 偃) chẳng hạn chỉ là của sách sử về sau. Tuy vậy chữ nho “Nguyễn 阮” gồm bộ “ấp” và chữ “nguyên 元” tức đầu tiên nên nó có nghĩa là “ấp đầu tiên”, cũng giống chữ “Trần 陳” gồm bộ “ấp” và chữ “đông 東” có nghĩa là “ấp phía đông” tức ven biển, mà ta quen gọi Trần là Đông A tức ấp phía đông, hay chữ Lê thời cổ viết là gồm bộ hòa 禾 nghĩa là cây lúa + chữ hắc 黑 là màu đen tương ứng nước theo ngũ hành + nét của chữ "bao" trong có một nét của chữ "nhân" nghĩa là người bao dung hiền hòa, thành chữ 黧, về sau nhà nho thay chữ hắc 黑 màu đen theo ngũ hành tương ứng nước bằng chữ thủy 水 ở dưới + chữ nhân 人 ở giữa, thành chữ 黎, hai chữ đều có nghĩa biểu thị là “cư dân lúa nước hiền hòa”. Truy ngược lại, như phát âm của người Hoa, “yan” (Yên 偃) chỉ là âm lướt của “ yue nan” (Việt Nam 越南), mà “yue nan” (Việt Nam 越南) cũng còn lướt thành “yuan” (Nguyễn 阮). Bởi vì các qui tắc chủ đạo tạo ra từ đơn âm tiết trong ngôn ngữ Bách Việt là : Vo, Tách đôi Âm Dương (bao gồm cả Láy), Lướt, vẫn diễn ra rất tự nhiên trong ngôn ngữ dân gian ( từ “mấy dẩu” = "không” trong tiếng quan thoại, người Quảng Đông lướt thành “mẩu”= “không” vì họ còn nhớ từ “mô” = ”không” của tiếng Việt, nên họ hay bị người quan thoại nhạo vì cái từ “mẩu” này), còn qui tắc Ghép từ chỉ là có về sau khi ngôn ngữ đã thành hàn lâm. Ví dụ Vuông = Miếng = Mánh (Nghệ An) = Mảnh (Quảng Đông), nhưng từ “Mảnh” của từ mảnh ruộng vào cái thời thấy sự cần thiết phải “dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất” để có nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đã xuất hiện một cách tự nhiên sự chia Âm Dương nó ra để có từ “Manh-Mún” và người dân cũng đã lấy ngay từ “Mún” để đặt tên tạm thời cho bé gái sơ sinh gọi là “con Mún” quả là tinh ý và nhạy bén cực kỳ. Qui luật chia Âm Dương để luôn tạo ra từ mới này không thể nào tìm thấy trong tiếng phổ thông Trung Quốc. Để tạo từ mới thời hiện đại, ngôn ngữ phổ thông Trung Quốc chỉ xoáy vào mỗi một qui tắc là Ghép từ, tất nhiên ghép hai chữ Hán từ kho tàng chữ Hán đồ sộ đã có sẵn cũng tạo ra được vô cùng nhiều khái niệm mới hoặc dùng để dịch khái niệm mới của phương Tây, nhưng nếu tiếng Việt cứ ăn sẵn từ “Hán-Việt” để bưng của họ về dùng thì sẽ làm loạn từ tiếng Việt mất, và sự hiểu sai do lẫn lộn vì từ đồng âm sẽ xảy ra càng nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
  4. Thiên hạ họ Hùng - Nguồn gộc họ Khương 姜 và họ Hứa 許 1. Hậu duệ họ Khương 姜 ghi trong gia phả : tương truyền rằng họ Khương là lấy tên dòng sông Khương 姜, thời cổ đại hơn hai nghìn năm trước công nguyên, xã hội là xã hội mẫu hệ, có khoảng 20 họ gồm họ Khương 姜, họ Cơ 姬, họ Uy 媙 v.v.(theo “Nguyên hòa tính thị 元和姓氏”, “Thuyết văn giải tự 說文解字”, Tân Đường thư 新唐書”, “Thủy kinh chú 水經注”), trong đó họ Khương 姜 là hậu duệ đích tôn của Viêm đế Thần Nông thị 炎帝神農氏 , cùng với 6 họ khác nữa cũng là hậu duệ của Viêm đế Thần Nông thị là họ Tề 齊, họ Bồ Thân 甫申, họ Lữ 吕, họ Kỷ 紀, họ Hứa 許, họ Hướng 向. Hậu duệ của họ Khương là một trong 7 nước Hùng Quốc 雄國. ( “Viêm đế 炎帝” tức “vua xứ nóng” lấy hiệu là “Thần Nông thị 神農氏” vì là chế độ mẫu hệ, “vua xứ nóng” chỉ vị trí địa lý cư ngụ của nó là ở phương “bức”, chữ nho viết mượn âm bằng chữ “bắc” 北. Bởi vậy trong cổ thư chữ Hán, chức quan “Hỏa Chính 火正” cũng song hành viết là “Bắc Chính 北正” của vị “thần” cổ đại được cử ra quản việc giữ lửa là “Hỏa Chính quan” hay “Bắc Chính quan” có hiệu là “Chúc Dung thị 祝融氏” .Từ đường các dòng họ Trung Hoa có nhiều câu đối thể hiện điều này, có họ có câu “Bắc Chính danh tông thế trạch trường 北正名宗世澤長”, có họ lại là câu “Hỏa Chính danh tông thế trạch trường 火正名宗世澤長”, nói lên rằng họ đều là hậu duệ của thần Chúc Dung quản về lửa ở phương nóng bức, tức của “ dân kẻ Lửa” cả. “Bức” tức gần “xích” đạo, là vị trí địa lý của nước gọi là nước “Xích Quỉ ” 赤鬼國 nghĩa là “kẻ màu đỏ”, “xích” 赤 = “màu đỏ” theo nghĩa, “quỉ” 鬼 = “kẻ” theo mượn âm, vì màu đỏ là màu tương ứng của lửa nên “xích quỉ ” tức là “kẻ Lửa”= “kẻ Lả”, hay còn gọi là “quẻ Ly”. Chữ “quái Ly 卦離” trong bát quái chỉ là chữ nho để phiên âm, chứ chữ Ly 離 ấy nghĩa là ly khai, chẳng mang nghĩa gì liên quan đến “ Lửa” tương ứng “màu đỏ” như ý nghĩa của quẻ trong tám quẻ của Lạc Việt ấy cả. Trong tiếng Việt thì “bức” = “nực”= “nóng”= “nắng”= “dương”, lại có “nực”= “rực”, “lả”= “nỏ”= “rỡ”, từ ghép “rực rỡ” là chỉ hệ quả của ánh sáng do lửa hoặc do mặt trời; ngược với Lửa là Nước, “nước”= “nặm” tiếng Tày= “nam” tiếng Thái Lan= “khẳm”= “khảm”= “râm”= “âm” đều là những biến âm của ngôn ngữ dòng Việt. Trong tiếng Việt, và trong tiếng nói của các hậu duệ khác cùng dòng Việt như người Quảng, người Tiều, người Đài Loan, lại có hiện tượng L và N chuyển đổi được cho nhau nên hay “nẫn nộn”, cũng dễ hiểu, vì Lửa và Nước vốn cùng một gốc sinh ra khi hình thành vũ trụ. Tìm trong cái “nôi khái niệm” là cái hình cầu biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt sẽ thấy đúng khái niệm “nước” chuyển dịch dần dần để biến hẳn thành lửa và khái niệm “lửa” đồng thời chuyển dịch dần dần để biến hẳn thành nước, mà tôi không dẫn ví dụ về ngôn ngữ ấy ra trong bài này, nước lửa biến thành nhau đúng như ta đang ngày càng thấy rõ trong khoa học ngày nay. Mai mốt chắc chỉ cần đổ nước lã chạy xe, như người Việt cổ đại chỉ đi bằng thuyền độc mộc, chết chôn mộ hình thuyền và trước khi hạ huyệt có hò đưa linh, vẫn còn ngày nay, chỉ cần ra khỏi nội thành Hà Nội đến đất Sơn Tây là sẽ bắt gặp, trong đám ma trước khi hạ huyệt có làm lễ đưa linh mất khoảng 30 phút, nhưng cũng có thể kéo dài cho đến khi đứa con cháu về trễ nhất còn có thể kịp dự phút chia ly cuối cùng, âu cũng là một nét rất nhân văn Việt, có hai cụ bà cầm hai mái chèo chèo rất khoan thai, trên cạn, cầm chịch cho các cụ hát bài kinh hò khoan, tiễn đưa vong người quá cố về nơi mát mẻ). 2. Gia phả họ Hứa 許 lại ghi, đến thời Nghiêu 堯,Thuấn 舜 thì bốn chi của họ Khương 姜 đã phát triển thành một bộ lạc lớn gọi là bộ lạc Tứ Phương 四方có thủ lãnh là Tứ Nhạc 四岳. Bộ lạc họ Khương nầy liên minh với bộ lạc họ Cơ 姬 đánh bại vua Trụ 紂 bạo ngược của nhà Thương 商, thành lập nên nước Tây Chu 西周 của họ Cơ 姬. Đến thời vua Chu Thành Vương 周成王, vua đem đất đai nhà Thương cũ chia cho một số chư hầu họ Cơ 姬 và họ Khương 姜, còn họ Hứa 許 thì được chia đất cũ của họ Khương để làm nước chư hầu, có thủy tổ là ông Hứa Văn Thúc 許文叔. Đến thời Xuân Thu 春秋, Hứa quốc xưng là chư hầu của nước Sở 楚, nhưng về sau lại bị chính nước Sở 楚 diệt, con cháu vẫn xưng là họ Hứa, đó chính là họ Hứa chính tông. Nhưng cũng có thuyết nói, xưa hơn, thời Nghiêu, Thuấn có ông cao sĩ hiền nhân tên là Hứa Do 許由 ở vùng núi Ky Sơn 箕山, khi mất chôn ở núi ấy , dân gọi là núi Hứa Do. Hậu duệ của ông thành người họ Hứa. Vùng chân núi Ky Sơn 箕山 là lưu vực sông Dĩnh Thủy 穎水, đó là đất của Hứa quốc ngày xưa. ( Gia phả các dòng họ Trung Hoa đều dựa theo truyền thuyết để đa số qui về là hậu duệ của Hoàng đế 黃帝, ở đây trong gia phả hai họ Khương và Hứa này lại thấy qui về là hậu duệ của Viêm đế Thần Nông thị 炎帝神農氏 tức còn sớm hơn nữa, họ thì là lấy tên các dòng sông mà đặt, điều này có nhân tố sự thật, đó là do đặc điểm của cư dân Đông Nam Á là định cư làm ruộng lúa nước, ở thành làng ven dòng sông. Cổ thư chữ Hán thì giải thích các họ Trung Hoa đều có gốc thủy tổ là ở Thiểm Tây 陝西Trung Quốc, điều này có yếu tố vô lý, Thiểm Tây là đất nước Tần 秦國 của Tần Thủy Hoàng 秦始皇, về thời gian thì thời Tần muộn hơn thời Nghiêu Thuấn cả chục ngàn năm, xứ băng tuyết giá lạnh, địa lý cách Tây Chu những 5000 km, làm sao có Viêm đế là vua xứ nóng ở đó? Vậy Viêm đế Thần Nông 炎帝神農 ở đâu mà tên lại vừa là vua xứ nóng lại vừa là dân nông nghiệp chứ không thể hiện là dân du mục xứ băng tuyết ? và kết cấu “thần nông” lại là kết cấu ngữ pháp Việt, viết theo chính trước phụ sau là thần nông chứ không viết là nông thần?. Theo tên các dòng sông trong truyền thuyết mà các gia phả nói là tương truyền, thì chỉ có thể đoán định sông Khương 姜 chính là dòng Mê Kông, mà dân cư vùng Nam Lào gọi là “mè nặm Khoỏng”, tộc Khương cổ đại chính là dân cư ở đó và ở cả vùng nam Trung Bộ Việt Nam, nơi cội nguồn của nền văn minh cổ thời kim khí Sa Huỳnh có phạm vi ảnh hưởng bắc tới Hà Tĩnh nam tới Binh Dương cách nay 3000 năm, đã phát lộ. Tộc Cơ 姬 cổ đại chính là dân cư vùng sông Cả Nghệ An, nơi cội nguồn của nền văn minh cổ Quỳnh Văn, đã phát lộ. Còn họ Hứa 許 hơn 4000 năm trước, như gia phả họ nói, chính là người Hời tức người Chăm cổ ở Đồng Hới, nơi lưu vực con sông Gianh mà cổ thư chữ Hán ghi là Dĩnh thủy 穎水, còn núi Ky Sơn 箕山 có thể là vùng Kỳ Anh của Hà Tĩnh có đèo Ngang vậy).
  5. Họ và Tên Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, đến cái thời gọi là kỷ nguyên băng hà xa xưa thì các giống người vượn, trong đó cả “người vượn Bắc Kinh” đều đã bị tuyệt diệt. Chỉ còn lại giống người “trí nhân” ở Châu Phi và chính họ là thủy tổ của các quần thể người nguyên thủy không cùng chủng tộc, là tổ tiên của nhân loại ngày nay, khoa học về DNA đã phát hiện cho thấy như vậy. Một dòng người “trí nhân” đen lùn từ Châu Phi men theo bờ biển đến Đông Nam Á, họ là Thủy tổ của chủng tộc Đông Nam Á và thổ dân Maori ở Châu Úc ngày nay. Chủng tộc Đông Nam Á này đã khai phá nông nghiệp, văn minh nông nghiệp lúa nước, từ nam dần lên bắc đến tận lưu vực sông Hoàng Hà (Truyền thuyết sử Việt thì đó là “50 con lên núi tức lục địa và 50 con xuống biển tức hải đảo” của dòng giống con rồng cháu tiên). Một dòng người “trí nhân” khác từ Châu Phi đã đi lên vùng Trung Á, chuyên sống bằng chăn thả đại súc trên thảo nguyên, rồi cũng đặt chân đến muộn hơn vào vùng lưu vực sông Hoàng Hà ( truyền thuyết sử Trung Hoa gọi chủng tộc Trung Á này là tộc Di). Từ đó diễn ra sự tranh chấp đất đai giữa hai chủng tộc Bắc và Nam tức chủng tộc gọi thủ lãnh là “Khan” tức người Hãn và chủng tộc gọi thủ lãnh là “Lang= Vương” tức người Nam ( thực chất là tranh chấp giữa nền văn hóa du mục của người Hãn và nền văn hóa nông nghiệp định cư của người Nam) bắt đầu ở lưu vực sông Hoàng Hà , kéo dài hàng ngàn năm (Truyền thuyết sử Trung Hoa thì nói tộc Di tranh chấp với tộc của Viêm đế và tộc của Hoàng đế là hai tộc đã định cư ở thượng du Hoàng Hà và với tộc Cửu Lê của thủ lãnh là Xuy Vưu đã định cư ở hạ lưu Hoàng Hà. Cuối cùng bộ tộc Viêm đế và bộ tộc Hoàng đế lại liên minh với bộ tộc Di để đánh bại bộ tộc Cửu Lê ở hạ du Hoàng Hà vốn có binh khí tinh xảo tiên tiến hơn . Thủ lãnh bộ tộc Cửu Lê là Xuy Vưu bị tử trận trong trận quyết chiến cuối cùng là trận Trác Lộc ở tỉnh Hà Nam, là trung tâm của vùng về sau gọi là Trung Nguyên . Gia phả các dòng họ Trung Hoa đều xưng là “ tử tôn Viêm, Hoàng”, nhưng có ý kiến cho rằng phải nói là “tử tôn của Viêm, Hoàng, Xuy” thì mới đầy đủ vì Xuy Vưu là thủ lãnh tuy đã chết nhưng bộ tộc Cửu Lê thì vẫn tồn tại trên đất Trung Hoa, không là máu đằng bố thì cũng là máu đằng mẹ của các dòng họ Trung Hoa). Trung Quốc có 5000 năm lịch sử văn minh là nói bao gồm cả “thần thoại sử”, đó là “thời đại Hoàng Đế trong truyền thuyết”. Nhiều nhà sử học cứ khăng khăng rằng cuốn “Sử ký” đã chẳng ghi về vương triều nhà Hạ, còn nghi ngờ gì nữa? Nhưng ông Tư Mã Thiên viết cuốn “Sử Ký” sống sau nhà Hạ những 2000 năm, ghi những sự việc ông ta chưa từng thấy mà lại không cho nghi ngờ ư? Nếu tính từ cái gọi là nhà Hạ 2000 BC đến năm 2000 thì cũng chỉ có 4000 năm. Cái mà “văn minh Hoa Hạ” để lại chẳng qua là những mảnh vụn mà thôi, đến cái trang phục dân tộc cũng chẳng có..Nói “văn minh Trung Hoa là văn minh duy nhất liên tục” vậy nó để lại được cái gì? Mọi dân tộc đều có trang phục dân tộc, người Trung Quốc (Hán tộc) có trang phục dân tộc của mình ư?( bộ đồ trung sơn lại càng chẳng phải vì nó vốn là đồng phục học sinh của Nhật Bản sửa đổi thành). Qua hơn một nghìn năm, đặc biệt là vài trăm năm gần đây bánh xe lịch sử nghiền nát, cái gọi là “văn minh Hoa Hạ” chỉ còn là những mảnh vụn , mà lại là những mảnh vụn khó hình dung. So với các nền văn minh cổ trên thế giới thì chính nền văn minh bị tiêu vong nhiều nhất là ở Trung Quốc, ngoài một cái còn là chữ Hán thì Trung Quốc chẳng còn cái gì từ cổ đại. Văn minh cổ Hoa Hạ chân chính đã bị tiêu vong từ sau thời Tống rồi. ( theo mạng Trung Quốc http://culture.163.com/05/1230/10/267BSL1200280004.html ) Để giải thích cho cái băn khoăn về “nền văn minh cổ Hoa Hạ” mà mạng trên nêu thì hy vọng các nhà sử học Trung Hoa và các nhà sử học Việt Nam đi sâu nghiên cứu nền văn minh Văn Lang và nền văn minh Bách Việt sau nó, nhất là nền văn minh Văn Lang cổ đại, thì chắc mới sáng tỏ được để đưa cái giai đoạn “sử truyền thuyết” trong sử Hoa và cả trong sử Việt thành chính sử được. Tôi chỉ là bạn đọc nghiệp dư thích tìm hiểu cội nguồn dân tộc. Nhưng tôi thấy cái bóng Việt sừng sững 5000 năm nay trong ngôn ngữ phổ thông Trung Quốc, đó là họ tên người Trung Hoa là họ tên Việt ,vì kết cấu ngữ pháp của nó hoàn toàn là kết cấu ngữ pháp tiếng Việt : chính trước phụ sau nên có họ trước tên sau như tiếng Việt, trong khi kết cấu ngữ pháp tiếng phổ thông Trung Quốc là phụ trước chính sau giống ngôn ngữ phương Tây, đáng lý như vậy thì kết cấu họ tên cũng phải là tên trước họ sau như ngôn ngữ phương Tây chứ? Kính mong các bậc thức giả giải thích giùm .tại sao nó tồn tại như vậy 5000 năm nay. Logic mà nói thì kết cấu họ trước tên sau chỉ đúng như ngữ pháp Việt bất biến từ 5000 năm nay chứ không đúng với ngữ pháp tiếng phổ thông Trung Quốc hiện nay. Thứ nữa trong truyền thuyết Hoa,cũng như truyền thuyết Việt , các ông vua cổ đại toàn chỉ gọi bằng tên như đế Viêm, đế Hoàng, vua Nghiêu , vua Thuấn , giống như người Việt vẫn gọi người bằng tên vậy, chứ không gọi người bằng họ? Gia phả họ Đinh người Hoa ghi rằng họ Đinh ở miền nam Trung Quốc là hậu duệ họ Cơ 姬của Chu Văn Vương 周文王. ( Mà Chu Văn Vương=Chúa Văn Lang, ông ấy là vua nhà Chu ở vùng sông Chu giang Quảng Tây, là một trong những cái nôi trống đồng Lạc Việt, sông ấy sau bị đổi tên thành sông Tứ giang, nhưng chẳng “đổi” được các di tích trống đồng chôn dưới đất của người Choang. Cổ sử Trung Quốc nói : nước Văn Lang xưa gồm Trung, Bắc bộ Việt Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang, Hồ Nam, Giang Tây. Lại nói Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ của vua Hùng. Vua nhà Chu mà họ Cơ 姬 thì thủy tổ ông ấy phải là vùng sông Cả Nghệ An. Người Việt cổ sống định cư từng làng theo các con nước để trồng lúa nên lấy tên con nước do mình đặt ra làm họ. Gia phả họ Lê người Hoa thì nói rằng thủy tổ Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành là ở huyện Dương Sóc Quế Lâm Quảng Tây, cùng nước Văn Lang xưa cả thì cũng chẳng có gì là lạ). Gia phả họ Đinh ở Trung Quốc còn nói rằng có một nguồn khác cũng gọi họ Đinh nhưng không phải là người Nam mà là của người tộc Trung Á sau khi tiến nhập vào lưu vực sông Hoàng Hà thì bị Hoa hóa , và họ của họ là do phiên âm mà trùng âm là Đinh (người Hãn rặc thì họ tên của họ theo ngữ pháp tiếng nói của họ là phụ trước chính sau nên theo logic đó họ có kết cấu tên trước họ sau). Trường hợp này được ghi trong gia phả như sau: Do người Tây Vực (Tân Cương ngày nay) họ tên đa âm tiết mà đa số có tiết cuối cùng là “ding”, sau khi vào Trung Nguyên họ bị Hán hóa (tức Hoa hóa) dần, giữ lại mỗi tiết cuối của tên là “ding” làm họ Đinh 丁. Như “Linh Sơn phòng tập Cao Sĩ truyện 靈山房集高士傳 ” viết: “ Hạc Niên (Hu-a-ni-ans-tan) là người Tây Vực , tằng tổ tên là A-Lão-Đinh (A-las-tan), ông nội tên là Khổ-Tư-Đinh (Khus-tan), bố tên là Ô- Lục- Đinh (U-lus-tan), anh tên là Sĩ- Nhã- Mạc- Đinh ( Sư-y-a-mos-tan). Hạc Niên biết từ tằng tổ trở xuống tên đều có đuôi là “đinh” (stan) mà không biết nó nghĩa là gì cả, hậu thế coi Hạc Niên là họ Đinh, gọi ngược lại theo cú pháp họ tên người Hoa (thực tế nó là cú pháp Việt, chính trước phụ sau, họ trước, tên lót, rồi tên sau) là Đinh Hạc Niên (biến thành người Hoa có họ tên Việt luôn là Đinh Hạc Niên). Xin chia sẻ để các bạn thích sử tham khảo.
  6. Nét Việt Bài “Bản thông điệp của một nền văn hiến” mà Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tuyên đọc tại buổi đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội làm cho tôi thấm thía vì tự lý giải được cho mình hai mục theo dõi thấy đang trao đổi trên diễn đàn là “người Việt Nam có thông minh không” và “ánh hào quang rực rỡ của hơn bốn nghìn năm lịch sử” nằm ở chỗ nào?. Và tôi nhớ lại câu của Bác Hồ năm 1946, khi sắp bước lên máy bay đi nước ngoài đàm phán, dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền chủ tịch nước là “ dĩ bất biến ứng vạn biến !”. Câu ngắn gọn đó bao quát thuyết Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt. Năm 1954 kháng chiến thắng lợi, trước khi bộ đội về tiếp quản thủ đô, tại đền thờ Vua Hùng ở Phú Thọ, Bác dặn bộ đội là “ các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước !”. Câu này cũng thể hiện hai vế là “dĩ bất biến” và “ứng vạn biến”. Trong huyết quản mỗi con người Việt Nam, dù là người có học vấn tiến sĩ hay là người nông dân dân tộc thiểu số vùng hẻo lánh không biết chữ, đều có một bổn tính cố hữu là: - Tính bảo thủ cực kỳ vững chắc của lòng tự tôn là dân tộc con Rồng cháu Tiên trên mảnh đất Lạc Hồng bất khả xâm phạm từ ngàn xưa. Tính này như một tính Dương, tĩnh, mà mạnh mẽ. Bởi vậy mà người dân Việt không hề khuất phục trước bất kỳ kẻ xâm lăng cường bạo nào. - Tính năng động cự kỳ nhạy bén của cái lý Việt là “ nước”, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Tính này như một tính Âm, động , mà uyển chuyển. Bởi vậy người Việt tiếp thu chắt lọc được mọi giáo lý có trên thế giới để dung hòa được với lối sống Việt, đồng thời có năng lực tiếp thu được mọi khoa học kỹ thuật thực nghiệm của thế giới để phát triển kinh tế xã hội của mình. Hai tính đó trong bổn tính một con người Việt như là hai nửa Âm Dương của một cơ thể. Có được cái hồn cốt đó phải là do dân tộc ấy đã có lịch sử lao động văn minh hàng chục ngàn năm, nó giữ cho dân tộc ấy tồn tại độc lập, với ngôn ngữ riêng, bản sắc riêng đến ngày nay, là một dân tộc cổ đại, mà lại được thế giới gọi là một dân tộc trẻ. Hai tính trên như là một cái tổng thể gồm cái “bất biến”(Dương) và cái “ biến”(Âm). Còn trong mỗi tính của hai tính trên lại cũng chứa hai yếu tố “bất biến” và “biến” như cái Dương con và Âm con ở trong chính mỗi nó. Giả sử hai tính trên, nếu chỉ có mỗi tính Dương không thôi thì dân tộc ấy đã mất từ lâu rồi như nhiều dân tộc cổ đại khác trên thế giới. Nếu chỉ có mỗi tính Âm không thôi thì hậu duệ dân tộc ấy đã nói ngôn ngữ khác rồi và nhận tổ tiên mình là người dân tộc đã đồng hóa mình rồi. Ví dụ để chứng minh hai tính trên thì nhiều vô cùng, trong lịch sử và ở nhiều lĩnh vực. Đơn cử một ví dụ ở cái tính Âm (năng động) ở lĩnh vực ký tự để chuyển tải ngôn ngữ dân tộc: Người Việt trong lịch sử đã thay đổi nhiều lần ký tự của mình, miễn là nó bảo đảm được cái “bất biến” là bảo lưu nguyên vẹn được tiếng nói của dân gian, bằng loại ký tự nào bất kể từ đâu đến, thể hiện được sự tiện lợi hơn trong sử dụng và phổ cập. Chính nhờ vậy mà nay tuy kinh tề Việt Nam còn kém nhiều nước khác nhưng tỷ lệ biết đọc biết viết trong dân cư so với số dân lại cao hơn nước có nền kinh tế phát triển hơn mình. Thực tế ký tự của chữ quốc ngữ đang dùng ngày nay là ký tự ghi âm nhưng người Việt Nam khi đọc vẫn là bằng kỹ năng nhận dạng, dù chữ có nhiều ký tự chắp thành dài hay ít ký tự chắp thành ngắn thì người Việt vẫnchỉ cần lia mắt nhận dạng là đọc ngay thành một âm tiết của chữ đó như là đọc chữ nho ngày xưa vậy chứ không phải “đánh vần” từng ký tự như các ngôn ngữ chắp dính phương Tây. Bởi vậy đến khi công nghệ và kinh tế phát triển đến mức mỗi người dân có thể mua một điện thoại di động dùng phím cảm ứng với giá bằng mua một củ khoai thì giới phần mềm người Việt sẽ tạo ra ký tự nhận dạng mới cho tiếng Việt, miễn là vẫn giữ cái “bất biến” là lời nói Việt với phong phú vần và thanh điệu tuyệt vời của nó.
  7. Dã sử và chính sử Trích bài của Hà Tùng Long, trên báo Gia đình Xã hội cuối tuần số 40 ngày 7 – 10 – 2010: Theo các cụ cao niên làng Thịnh Liệt thì nơi tọa ngự của gò Đống Đa ngày nay, xa xưa thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các chiến trường trong trận Hoàng Đế Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Sau chiến thắng như vũ bão,quân Tây Sơn giải phóng kinh thành Thăng Long, khu vực Đống Đa xác giặc chết ngổn ngang khắp nơi. Vua Quang Trung cho thu nhặt lại chôn thành 12 gò, sau gọi là “kình nghê quán” (gò chôn xác giặc dữ như cá kình cá nghê ngoài biển). 12 gò xưa nằm rải rác từ làng Thịnh Quang đến làng Nam Đồng và ở trong khu vực có tên là “xứ Đống Đa”. Điều này còn được ghi lại khá rõ trong bài thơ “Loa sơn điếu cổ” (viếng núi Ốc) của thi sĩ đương thời Ngô Ngọc Du: “Thành Nam thập nhị kình nghê quán, chiếu điện anh hùng đại võ công” (mười hai gò xác giặc phía nam thành, ngời sáng chiến côngcủa bậc anh hùng). Đến năm 1851 do mở đường, mở chợ, quá trình đào xẻ thấy có nhiều hài cốt giặc,người dân đã thu nhặt chôn vào một hố to sau đó đắp to lên thành gò cạnh núi Ốc (Loa Sơn). Dần dần ngôi gò mới này được đắp rộng và cao thêm ,dính liền vào núi Ốc và cũng dược gọi là gò Đống Đa. Sau khi chiếm thành Hà Nội, thực dân Pháp đã bạt đi tất cả 12 chiếc gò, chỉ còn lại gò ở núi Ốc. Do đó gò Đống Đa hiện nay thực chất là chiếc gò thứ 13 còn sót lại. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vĩnh Phúc cũng cho rằng, dưới thời vua Minh Mạng, ông Đặng Văn Hòa – tổng đốc Hà Nội xưa – khi mở vùng Nam Đồng, Thịnh Quang đã đào được rất nhiều hài cốt. Ông cho lính khiêng hài cốt đắp lên một gò cũ đà tàn. “Nguyên sơ ở vùng đó có 12 gò và gò còn lại là gò thứ 13. Đó là gò duy nhất may mắn còn giữ lại được cho đến ngày nay” – ông Phúc nhấn mạnh. Ông Phúc còn cho biết thêm, ông Đặng Văn Hòa từng cho xây một ngôi chùa bên phía đông của gò, gọi là chùa Đồng Quang vì nằm trên đất chung của hai làng Nam Đồng, Thịnh Quang. Cạnh ngôi chùa này trước kia còn có một nghĩa địa chung, trong nghĩa địa có một bàn thờ gọi là “nghĩa chủng”- nơi thờ cúng các cô hồn không nơi bám víu. Cụ Lê Hữu Đáp (86 tuổi) nhà ở phố Nguyễn Lương Bằng (thuộc khu Nam Đồng) cho biết ,khi còn nhỏ cụ thấy gò Đống Đa cũng chỉ còn lại một gò. Tuy nhiên ông bà của cụ vẫn kể lại rằng ngôi gò còn sót lại là gò chôn xác giặc Thanh. Hàng năm, đến ngày 5 tháng Giêng người dân hai làng Nam Đồng, Thịnh Quang vẫn thường tổ chức “ giỗ trận” – tức giỗ những người bị tử trận. Có ý kiến cho rằng người tử trận ở đây là quân Thanh, người làm giỗ cho họ là những người đã làm nên chiến thắng Kỷ Dậu, điều đó thể hiện tấm lòng khoan dung, độ lượng của một dân tộc vốn ưa chuộng hòa bình (chuyện khác xưa hơn, sự tích trả gươm cho rùa ở hồ MặcThủy để về sau thành cái tên là hồ Hoàn Kiếm cũng nói lên điều này). Một điểm đáng lưu ý là cố giáo sư Trần Quốc Vượng không cho rằng gò Đống Đa là nơi chôn xác giặc Thanh trong trận Ngọc Hồi Đống Đa. Theo cố giáo sư, các gò ở Đống Đa không phải là “ kình nghê quán” gì cả, bởi nó đã có từ trước năm 1789 . Những gò này có liên quan đến trường thi Bắc cử vào thời Hậu Lê. Theo cố giáo sư, khoảng năm Thiệu Trị (1840 – 1847) tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa sai thu táng những di hài ở đầu đường, cuối ngòi lại thành 12 gò, lấy công điền của hai trại Thịnh Quang và Nam Đồng (khoảng 12 mẫu) để làm mộ địa. Quan bố chính Nguyễn Cửu Trưởng bói ngày làm nền tự đàn (nơi tế lễ các vong hồn). Tổng đốc Đặng Văn Hòa cho lấy nửa số ruộng đất đó (cày cấy quanh 12 gò mộ) để làm ngân phí sắm đồ tế lễ hàng năm. Đây chính là tự đàn lộ thiên giữa khu mộ địa lớn nhất trong vùng. Đến năm Tự Đức thứ 4 ( 1851) . Quan Nguyễn Đăng Giai khi mở đường , mở chợ mới ở vùng này thấy nhiều xương khô quá nên sai đắp thêm một gò mộ nữa. Vậy là có 13 gò mộ. Như vậy sau trận Ngọc Hồi Đống Đa hơn nửa thế kỷ, dưới thời Tự Đức, các gò tự nhiên mới được có tro cốt đắp lên. Số tro cốt này được mặt sau của bia Đồng Khánh 1888 “giải mã” là năm 1886 quan tri huyện Thọ Xương cho di chuyển 2 đến 3 vạn mộ ở phía tây chùa Đồng Quang rồi mới bẩm lên quan trên. Và cũng đến năm 1888 tự đàn lộ thiên trong vùng mới được lợp ngói và hương khói thường xuyên. Độ “vênh” giữa dã sử và chính sử là cái dễ nhận rõ không phải chỉ trong sử thời cận đại mà còn trong sử cách nay 5000 năm. Chỉ có điều chắc chắn là ký ức của nhân dân chẳng bao giờ sai. Nếu vì “ húy” thì họ lưu giữ bằng các hình thức nghệ thuật truyền miệng như kể “ trường ca” hay “chuyện cổ tích”, thành ngữ, ca dao v.v. và bằng các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ chân chính đầy tài năng và sáng suốt như tượng, đền thờ, chùa , tích tuồng v.v.Như chùa Bộc gần gò Đống Đa, trong suốt thời triều Nguyễn chắc chẳng ai biết là chùa thờ vua Quang Trung, đến năm 1961 các nhà sử học nghiên cứu mới phát hiện sau lưng chân tượng có khắc dòng chữ “năm… tạc Quang Trung tượng”. Bức tượng là một vị hoàng đế ngồi trên ghế tay ngai, một chân trong hài , một chân để trần dẵm trên chiếc hài, để nói người anh hùng áo vải đã lên làm vua, không những đã thống nhất đất nước mà còn đánh tan quân xâm lược, để lại niềm kính trọng muôn đời trong lòng dân. Có lẽ chẳng có từ điển ngôn ngữ nào trên thế giới có từ “ giỗ trận” như ở tiếng Việt. Nó là một tình tiết văn hóa đầy tính nhân bản của tâm hồn Việt. Tục ấy đã có truyền thống từ xa xưa. Đơn cử tục “giỗ trận” ở vùng bên sông Bạch Đằng Quảng Ninh có từ thời Trần: Ở đoạn quốc lộ 10 từ nhà máy kẽm Quảng Yên ra miếu Vua Bà thuộc địa phận xã Yên Giang huyện Yên Hưng Quảng Ninh có một gò đất lớn nằm phía bắc bãi cọc lim, gọi là gò mả Ngụy. Chuyện xưa kể rằng trận đánh năm 1288 , giặc Thát sa vào bãi nhử đầy cọc lim sắc nhọn của ta, khi nước rút, bị quân dân nhà Trần tấn công bất ngờ, thuyền của chúng xô nhau chạy đâm vào cọc vỡ tan hoang, xác giặc chết ngập dòng nước. Sau trận thắng, quân dân ta thu gom xác giặc chôn không xuể phải tấp bên doi đất cổ có con đường mòn đi ra bến đò, đổ đất lấp thành gò, nên gò ấy gọi là gò Mả Ngụy. (Quân Nguyên Mông vốn là dòng giống của tộc Hãn cổ đại, là tộc đã lập nước Ngụy của Tào Tháo xưa ở phía bắc Hoàng Hà, mà dân ta vẫn quen gọi là nước “ Tàu”, thời tam quốc đánh giành đất đai của hai nước Ngô và Thục ở phía nam là dân thuộc tộc Hữu Hùng Thị . Trần Hưng Đạo vẫn gọi giặcThát là giặc Ngụy vì lý do đó). Ông Lê Hữu Lịch, hội viên hội văn hóa nghệ thuật Quảng Ninh có hai bài thơ về địa điểm lịch sử và về tục “giỗ trận” ở địa điểm lịch sử đó, trong tập thơ “Nắng và sóng” NXB VHNT, xin giới thiệu bạn đọc . Gò Mả Ngụy Gò Mả Ngụy cái tên nghe kinh dị Bởi ngày xưa xác giặc lấp ngang dòng Mùi xú uế bay lên đen ngọn gió Tấp nên gò nên đống máu xương khô Đêm hè về chập chờn bầy đom đóm Sương mùa đông phủ lạnh buốt cành gai Trăng thu sáng cũng úa bờ cây ráng Gió xuân làm run rẩy bụi trầm hôi Xương giặc Thát chất chồng bao oan khuất Hồn Toa Đô tơi tả đám hoa tàn Ta đốt cháy câu thơ chiều bỏng rát Buông tàn rơi xuống cỏ tím gò hoang. Ngày giỗ trận Ngày chiến thắng Bạch Đằng giang Ông bà ta gọi là ngày giỗ trận Ngày Tám tháng Ba khí thiêng bất tận Sóng xuân bát ngát sóng xô bờ Ngày tưởng niệm cha ông giữ đất Sao xót thương mấy kiếp hoang hồn? Dẫu trăm năm ngàn năm không mất Nỗi đau xương trắng chân cồn Lừng lững nước sông trong ngày giỗ Lăng lăng ngọn sóng trắng màu thương Trống giục cờ bay trời nổi gió Non sông rộn rã khách hành hương Đến độ giao mùa ta lại về giỗ trận Bến sông quê đầy nắng Bạch Đằng giang Mặt nước rưng rưng khói hương chầm chậm Tro vàng bay lấp nẻo sa trường!
  8. Thiên hạ họ Hùng – dân Kẻ Lửa họ Lê (Nguồn trích : http://www.hakkasky.cc/wiki/doc.php?action...d=287&id=3) Họ Lê ở Trung Quốc tập trung đông nhất là ở Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây ( chiếm 67% dân số họ Lê ở TQ), là họ đông dân thứ 92 trong các họ ở TQ (= 0,9% dân đa số cả nước ) Đặc điểm dòng họ Lê là: 1. Tập trung chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, họ là điển hình của người miền nam. 2. Danh nhân nhiều, lưu truyền điển cố, giai thoại rộng. Như giai thoại giữa Lê Tử Vân với Tô Đông Pha thời Tống. 3. Tên chữ họ Lê các đời thế thứ rất nghiêm cẩn. Chữ chọn ý sâu.Ví dụ trong cuốn “Lê thị gia phổ” của ông Lê Tuyên Sinh 黎宣生 thời nhà Thanh viết về chi họ Lê ở Đông Nguyên Quảng Đông 广东东莞 có câu văn : “thế đốc trung trinh, thanh hòa vận viễn, gia truyền hiếu hữu, trạch tuấn nguyên trường 世笃忠贞,声和韵远,家传孝友,泽浚源长。” Nguồn gốc họ Lê có 4 nguồn: 1. Là hậu duệ của Cửu Lê 九黎. Cửu Lê là một trong những chủng tộc bản địa rất lớn ở phía nam Trung Quốc (theo “Phong tục thông nghĩa 风俗通义”) tương truyền là chư hầu của Thiếu Hạo- Kim Thiên thị 少昊 - 金天氏 ( truyền thuyết nói là thủ lĩnh của Đông Di 东夷 thời cổ đại). Lê từng được phong là Hỏa Chính Quan 火正,cũng gọi là Bắc Chính Quan 北正 (tức thần Chúc Dung - lửa = bức = xích = bắc) nắm quản dân sự, hậu duệ lấy chữ làm họ , xưng là họ Lê 黎. 2. Là hậu duệ của Lê Quốc. Lê Quốc là một nước chư hầu của nhà Thương, ở vị trí nay là huyện Trường Trị tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Nhà Thương cuối đời bị Chu Văn Vương 周文王tiêu diệt (trong cuộc chinh phạt vua Trụ tàn ác hoang dâm vô đạo của nhà Thương). Một vị trí khác của Lê Quốc là chỗ nay là phía tây huyện Quân Thành tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Con cháu của Lê Quốc ở hai nơi này sau lấy tên nước làm họ gọi là họ Lê. Còn theo “Phong tục thông nghĩa” thì hai nước Lê Quốc này là hậu duệ của bộ lạc Cửu Lê. 3. Là hậu duệ của Đế Nghiêu 帝尧. Theo “ Nguyên Hòa tánh tập 元和姓纂” thì Lê Quốc bị Chu Văn Vương 周文王 diệt khi tiêu diệt nhà Thương, sau đến khi Chu Vũ Vương 周 武王 phong các chư hầu, có phong cấp cho các hậu duệ của Đế Nghiêu, nên lại được phong tước hầu, đồng thời vẫn giữ nguyên tên Lê Quốc, sau đổi là Lê Hầu Phong Thư. Đến thời Xuân Thu thì Lê Quốc dời đô về Lê Hầu thành ở phía đông bắc huyện Lê Thành tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Về sau Lê Quốc bị nước Tấn (miền nam tỉnh Sơn Tây TQ ngày nay) tiêu diệt, con cháu Lê Quốc về sau vẫn lấy tên nước làm Họ, xưng là họ Lê. Còn theo sách “Lộ sử 路史” thì sau khi Lê Quốc bị Chu Văn Vương bình định, đến khi Chu Vũ Vương dựng lại xong nhà Thương bèn đem Lê Quốc , sau gọi là Lê Hầu Phong Thư (Phong Thư 丰舒sau được lấy làm tên hiệu từ đường của họ Lê) cấp cho hậu duệ của Thương Thang (Thương Thang là ông vua nhân đức của nhà Thương đã tiêu diệt vua Kiệt bạo ngược của nhà Hạ trước kia). Con cháu của họ có hai dòng họ Lê là Lê bộ “thử”- tức “thơm” 黎氏 và Lê bộ “cày” 犁氏. Lê bộ “thử” là hậu duệ của Đế Nghiêu nên sử gọi là họ Lê chính tông, về sau thành bộ phận chủ yếu của gia tộc họ Lê, tức là họ Lê ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. 4. Là nguồn do các dân tộc thiểu số đổi họ lấy tên là họ Lê. Theo sách “Ngụy thư- quan thị chí 魏书•官氏志” thì thời Nam Bắc triều ở nước Ngụy có tộc Bắc Tiên Ti đã đổi tên gọi họ của mình thành họ Tố Lê 素黎氏 ( đây là vì người Hán thường phiên âm một chữ Nam là Lê thành hai âm tiết là Tố Lê), tiếp đó , sau khi Hiếu Văn Đế của nước Ngụy dời đô về Lạc Dương thì họ mới giản lược chữ đi, gọi một chữ là họ Lê 黎氏, đó chính là họ Lê ở Lạc Dương tỉnh Hà Nam Trung Quốc. (Họ Lê này là người Hán đổi họ, Trung Nguyên lúc này không còn là Trung Nguyên của người Nam tức Bách Việt nữa mà đã thành Trung Nguyên của người Hán.Trường hợp người Khách Gia- Hakka cũng trong số bỏ chạy xuống Mân – Phúc Kiến khi nước Tống bị diệt, họ vốn xưa là dòng họ danh gia vọng tộc ở Trung Nguyên, nhiều đời sau họ có đoàn doanh nhân từ Mân Việt về thăm lại Phủ Khai Phong thì thấy dân ở đó nói tiếng khác rồi, không còn hiểu được nữa, dân ở đó bèn gọi họ, hậu duệ của chủ nhân xưa ở Khai Phong dòng dõi Việt tộc, là “khách gia”, nên họ cũng trào lộng mà nhận luôn tên tộc mình là “ Khách Gia” từ đó). Tại sao lấy tên Thủy tổ là Phong Thư丰舒 (nên các từ đường họ Lê đều có hoành phi bốn chữ là Lê Tộc Phong Thư).? Số là Lê Quốc là một nước chư hầu của nhà Thương. Cuối thời Thương, ông Tây Bá Cơ Xương 西伯姬昌 chinh phạt Thương, diệt luôn Lê Quốc. Chu Vũ Vương sau khi dựng lại nhà Thương bèn phong cho rất nhiều chư hầu, đem đất Lê Quốc phong cho hậu duệ của vua Thành Thang nhà Thương xưa, chức là Hầu Tước, sau là Lê Hầu Phong Thư như là tên nước mới. Về sau con cháu lấy tên nước làm họ, xưng là họ Lê, tôn chữ Phong Thư làm tên thủy tổ. Ngoài hiệu từ đường là Phong Thư, họ Lê còn các hiệu từ đường khác là: Kinh Triệu đường ( của họ Lê ở Tây An tỉnh Thiểm Tây TQ), Tống Thành đường, Tân An đường, Lễ Tục đường,v.v, Cửu Chân đường ( của họ Lê ở quận Cửu Chân từ năm 111 trước công nguyên thuộc nước Nam Việt của Triệu Đào – tức chúa đất Đào hay gọi là Hồng Bang, nay là vùng Thanh Hóa Nghệ An Hà Tĩnh của Việt Nam), Tải Tửu đường ( do thời Tống anh em Lê Tử Vân 黎子云 nhà nghèo hiếu học. Tô Đông Pha 蘇東坡 từng đi phỏng vấn nhà họ. Tử Vân và em trai cũng thường đem rượu theo đến thăm Tô Đông Pha, mời ông đến dạy học.Tô Đông Pha bèn viết một biển treo trên cửa nhà anh em Tử Vân ba chữ “Tải Tửu Đường 載酒堂”. Về sau con cháu họ lấy ba chữ đó làm hoành phi nhà thờ để kỷ niệm. Lê Tử Vân là người Nghiêm Châu thời Tống , nay là huyện Nghiêm tỉnh Quảng Đông TQ). Một trong số rất nhiều danh nhân họ Lê ở Trung Quốc là Lê Giá Xương 黎庶昌 người huyện Tuân Nghĩa tỉnh Qúi Châu 贵州省遵义 TQ, là một nhà văn, nhà ngoại giao cuối thời Thanh, từng làm tham tán tại bốn nước Anh, Pháp, Đức, Nhật cuối cùng làm đại sứ Trung Quốc ở Nhật Bản. Ông đã sáng tác cuốn tản văn “Quật tuân viên tùng cảo 拙尊园丛稿” và biên soạn cuốn “Tục cổ văn từ loại tập 续古文辞类纂”.
  9. Thiên hạ họ Hùng Gia phả họ La (nguồn trích: http://www.fineartfile.idv.tw/lo/cnlo.asp ) Thủy tổ gia tộc họ La 羅 là Chúc Dung thị 祝融氏thời thượng cổ. Chúc Dung thị có tên là Trọng Lê 重黎 ,kê theo các đời thì lại là chắt của vua Chuyên Húc 顓頊帝 , mà Chuyên Húc là chút của vua Vàng 黃帝 tức Hoàng đế (chút là cháu năm đời, còn gọi là huyền tôn, của Hoàng đế). Cách nay 4487 năm (tức 2514 BC) Chuyên Húc kế vị ngôi vua của Cao Dương th ị高陽氏, dựa vào kỷ quan ngũ hành, phái chắt của mình là Trọng Lê đảm nhiệm chức hỏa chính quan 火正官 , tức là Chúc Dung thị, về sau xưng hiệu là Họ Hùng (Hữu Hùng thị 有熊氏). Cũng giống như quá trình phát triển của đại đa số các họ của người Hoa, hậu duệ của Trọng Lê từ thượng cổ xưng hiệu là Họ Hùng (hữu Hùng thị 有熊氏), đến về sau vẫn lấy Hùng 熊 làm họ của mình. Thời đầu nhà Chu 周 , gia tộc này đời nào cũng có nhân tài nên rất nổi tiếng, có Châu Hùng 鬻熊 từng làm thầy dạy của Chu Văn Vương 周文王. Đến thời Chu Vũ Vương 周武王 trong hậu duệ của Châu Hùng 鬻熊 có một vị tên là Hùng Dịch 熊繹 do có công với Vũ Vương 武王 nên được phong tước vị là chúa nước tại Đan Dương Hồ Bắc 湖北丹陽, trở thành một vị chư hầu của Chu thiên tử, đó là khởi đầu của nước Sở 楚國, từng diệu vũ dương uy một thời kỳ dài trong lịch sử thời nhà Chu. Sớm hơn khi Hùng Dịch 熊繹 được phong tước, trong hậu duệ của họ Hùng còn có một vị tên là Khuông Chính 匡正 do có công giúp nhà Chu chinh phạt vua Trụ 紂 tàn ác của nhà Thương, nên vào năm Vũ Vương 武王thứ ba (tức 1118 BC) được phong chúa nước ở Nghi Thành 宜城 , tước vị một nước, đó chính là La Quốc 羅國, một chư hầu trong vô số chư hầu của nhà Chu những năm đầu, đó cũng là khởi nguyên của việc hậu duệ chi này của họ Hùng lấy chữ La 羅 làm họ (theo một trang trong công phả họ La có ghi : Khuông Chính 匡正, người khai sáng La Quốc, là cháu đời thứ 65 của vua Vàng tức Hoàng đế 黃帝, cháu đời thứ 60 của Chúc Dung thị 祝融氏). Năm Tây Chu 西周 352, nhà Chu có phong tước chúa nước cho 72 nước , trong đó có nước La Quốc, Khuông Chính được tôn là Tổ đời thứ nhất của họ La. Tại sao lại lấy quốc hiệu là La? Nguyên do là Khuông Chính do phò Chu diệt Trụ có công mà được phong nước ở Nghi Thành (tức thành La Xuyên , phía tây huyện Nghi Thành tỉnh Hồ Bắc ngày nay), thời đó , ở cách Nghi Thành 80 dặm có con sông La 羅, nên mới lấy tên đó làm quốc hiệu). Sau khi Khuông Chính lập quốc, do người đời sau rất trọng thị, nên tư liệu về tình hình truyền thế được bảo tồn rất nguyên vẹn. Trong những năm thái bình ở Nghi Thành Hồ Bắc, kể từ Khuông Chính trở đi, tên tuổi các thế tổ truyền lại theo thứ tự như sau: đời 1 là Khuông Chính 匡正,đời 2 là Dịch Phương 奕芳,三đời 3 làTường 祥,đời 4 là Giáp Ứng 甲應,đời 5 là Văn Ba 文波, đời 6 là Đức 德, đời 7 là Thao 操,đời 8 là Tiến Hiền 進賢,đời 9 làThận 慎,đời 10 là Toàn 璇,đời 11 là Liên 輦,đời 12 làTán 贊,đời 13 làTịnh 靜,đời 14 là Hồng Thống 洪統. Suốt thời gian dài liên tục phát triển trong yên ổn, con cháu La Quốc ngày càng đông đúc và thịnh vượng. Nhưng từ đời thứ 15 thì cuộc sống yên ổn của gia tộc họ La đi đến kết thúc do chính người láng giềng của mình là nước Sở đầy dã tâm. Như trên đã nói, La Quốc và Sở Quốc đều là một huyết thống Họ Hùng 有熊氏 cổ đại, là những bang anh em, lại ở sát nách nhau (nước Sở ở huyện Tỉ Qui 姊歸縣 tỉnh Hồ Bắc ngày nay) lẽ ra phải giúp đỡ nương tựa nhau như môi với răng, thế mà sự thật diễn ra lại không phải như vậy. Lúc đó nước Sở với ý đồ tranh bá, cái lợi che mất cái trí, nên thường gây chiến với nước La, bức nước La phải thiên di từ Nghi Thành Hồ Bắc đến Chi Giang 枝江, sau lại xuống Trường Sa Hồ Nam tận Tương Âm 湘 陰, Điên Bái 顛沛 một giai đoạn rất dài. Nước Sở khinh thị , lấn lướt những nước yếu. Gia tộc họ La phải chạy lánh nạn khắp nơi, là một cái họa, nhưng trong họa có phúc, người họ La đã phát triển rộng rãi khắp nơi thành một đại gia tộc. Lịch sử kháng chiến lâu dài của La Quốc chống Sở Quốc đã trở thành sử xanh được đời đời sau ngưỡng mộ. Cuối cùng La mất nước vì Sở vào năm Chu Định Vương 周定王 thứ 11 ( tức 524 BC, cách nay 2498 năm). Sau khi mất nước, hậu duệ của La Quốc có nhiều đời ẩn náu sâu trong núi rừng, kinh qua các đời thế tổ thứ 25 tên là Thương 蒼, đời 26 là Loạn 亂, đời 27 là Lợi Đạt 利達, đời 28 là Tú Dương 秀揚, đời 29 là Học 學, đời 30 là Trình Chính 呈正, đều có ghi liên tục. Đến đời 31 là Lăng Phủ Công 凌甫公 mới phục hưng được La Quốc đã bị diệt vong một thời gian lâu 230 năm. Sở dĩ họ La có được gia phả ghi chép đầy đủ như thấy ngày nay hoàn toàn là do công lao của ông Lăng Phủ 凌甫. Bởi vậy Lăng Phủ không chỉ là một nhân vật tài giỏi của họ La mà còn là một vị công thần của gia tộc họ La, gọi là “phục quốc nhất thế tổ 復國一世祖”. Lăng Phủ 凌 甫,tên húy là Thặng 諱乘 là một người rất có chí khí, uất hận nước La bị nước Sở diệt, cháy lòng suy nghĩ, đắn đo tình thế, xem thế cuộc đương thời ai là kẻ mạnh nhất, thì thấy rằng chỉ có duy nhất nước Tần 秦國 mới có thể là đối thủ của nước Sở, thế là ông đi sang nước Tần làm việc, sau nhiều cố gắng bền bỉ, cuối cùng cũng đạt được sự tôn trọng của Tần Vương 秦王. Năm Chu Hiển Vương 周顯王thứ ba (366 BC, cách nay 2340 năm) Tần Vương cấp cho ông đất Long Tây 隴西 làm thái ấp, nhưng ông một mặt uyển chuyển tạ ơn, một mặt khẩn thiết xin Tần Vương giúp ông phục quốc. Kết quả dưới sự giúp đỡ của đại quân nước Tần, ông Lăng Bồ đã giành lại được Nghi Thành từ tay nước Sở. Sau phục quốc là nhanh chóng ra tay kiến quốc. Ông Lăng Bồ nhận thấy vị trí Nghi Thành ở vùng núi hẻo lánh không tiện làm trung tâm chính trị nên ông quyết đoán dời đô đến Chi Giang phía nam (nay là huyện Chi Giang tỉnh Hồ Bắc). Đến nay ở Chi Giang vẫn còn di tích La Quốc 2300 năm trước. Sau đại sự dời đô, ông Lăng Bồ bắt tay vào một đại sự khác không kém phần quan trọng. Số là ông nhận thấy các dòng của gia tộc họ La đã di tản tứ tung, đa số quên gốc tích, bởi vậy ông truy tìm cội nguồn, lấy được tư liệu thượng tổ Chúc Dung nhậm chức Hỏa Chính 上祖祝融居火正, Khuông Chính được phong Nghi Thành lấy tên nước là La 羅 làm họ, dò ra thứ tự các đời, lập thành gia phả để truyền hậu thế. Chính nhờ đó mà họ La có gia phả ghi chép từ cách nay hơn 2300 năm, rõ ràng mạch lạc như vậy không có gì là lạ. Đại công thần của gia tộc họ La , ông Lăng Bồ tạ thế năm Chu Hiển Vương 周顯王 thứ 28 (372 BC) hưởng thọ 97 tuổi, lăng mộ ông ở phía bắc thành Chi Giang Hồ Bắc . Con trai Lăng Bồ là Đồ Nam 圖南 tuy biểu hiện không có gì đặc sắc nhưng đã giữ được sự nghiệp của cha, truyền cho con trai là Thủ Long 守隴. Đến đời này họ La lại có biến động là thiên di từ Chi Giang 枝江 Hồ Bắc xuống Trường Sa Hồ Nam 湖南長沙. Ở đây gia tộc họ La đã tồn tại những năm tháng huy hoàng nhất, ở phía đông Tương Âm 湘陰 có La Thành 羅城, có sông Cốt La 汨羅 nổi tiếng trước kia gọi là La Nhuế 羅汭 , đều là do sự phồn vinh của họ La mà có những tên gọi đó. Sau khi gia tộc họ La thiên di đến Trường Sa Hồ Nam, các thế tổ từ Thủ Long 守隴 trở xuống truyền cho Chân 真, Hoằng 弘, Khoa Bính科屏, Diên Vinh 廷榮, Phúc Nhậm 復任, Duy Hàn 維翰, Thiên Triều 天朝, cảnh vật đều đổi dời khi đến thời kỳ Tần 秦, Hán 漢. Trong các đời kể trên ở Hồ Nam có Duy Hàn 維翰 từng là cửu khanh, Thiên Triều 天朝 từng là quan bái hàn lâm học sĩ, đều là những người đỗ đạt cao cả. Duệ tôn La Sĩ Cảnh 羅士景 soạn (bài văn tại nhà thờ họ La lấy đường hiệu là “Dự Chương Đường 豫章堂” ở Quan Tây 關西, huyện Tân Trúc 新竹縣 Đài Loan, trích năm 2000 từ cuốn “Thiết khanh La thị gia thạnh 鐵坑羅氏家乘” của tác giả La Sĩ Cảnh, dày hơn 400 trang xuất bản năm 2000, phân phát cho 88 chi phái họ La, hơn 4 vạn người) Ghi chú: 1. Theo nghiên cứu của các nhà sử học Trung Quốc, từ thời cổ đại “người Chăm Pa đã đem giống lúa chịu hạn truyền bá lên vùng nam Trường Giang”. 2. Trích dẫn của Nhật Nguyên: Bài 8 - Dịch học và thời lập quốc họ HÙNG. Dịch học là ánh sáng của người họ HÙNG nên không có gì nằm ngoài nó,lịch sử cũng vậy, người họ Hùng đã kiến taọ lịch sử của mình trên cơ sở HÀ THƯ và NGŨ HÀNH, ta nhìn lại Hà thư và những vận dụng của ngũ hành: Đối chiếu với Hà thư. 1 - Thời tiền lập quốc. Tóm lược những thông tin rút ra được từ sách Lã thị xuân thu của Lã bất vi: -Phương số 3-8 Hà thư là :Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng với màu xanh hành mộc ( xem các nút số ở hình trên ) - Phương số 2-7 Hà thư là : Viêm đế- thần nông vua của phương viêm nhiệt ứng với màu đỏ hành hoả. - Phương số 4-9 Hà thư là : Thái hạo vua của phương tây ứng với màu trắng hành thổ. - Phương số 1-6 Hà thư là :xuyên húc vua của phương u huyền ứng với màu đen hành thủy. Ta thấy ngay cổ nhân Trung hoa đã kiến lập lịch sử buổi ban đầu của dân tộc mình theo HÀ THƯ. Ở đây 2 phương đông và tây đã rõ ràng chỉ cần minh định 2 phương bắc và nam; theo Lã thị xuân thu phương viêm nhiệt là phương nam là sai ; viêm nhiệt là nóng bức, bức =bắc qúa rõ, liên quan tới nóng và lửa ta còn nhiều từ khác như : hỏa viêm thượng nghĩa là lửa thì bốc lên ; ta lưu ý từ viêm và bốc, nhẹ như bấc; số 2 trong hà thư đọc là nhị chính là biến âm của nhẹ từ Việt như vậy ta thấy từ bắc nằm trong cụm từ bắc-bức- bấc-bốc là những biến âm dùng diễn tả những gì liên quan tới ngọn lửa. Vùng trời này được gọi là Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực địa thì không thể có sự chỉ định nào khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới, ngược với viêm thiên là huyền thiên hay phương nam,phương màu đen tiếng Việt còn gọi là Mun, người Tàu ký âm thành Man và chính người Tàu cũng đã xác định đấy là phương nam qua từ kép NAM MAN tức nam mun. Một chứng lý nữa : trong vương chế Trung hoa vua luôn luôn quay mặt về hướng nam nếu là buổi thiết triều thì để nghe lời của hiền thần còn noí chung là để lắng nghe nguyện vọng của dân chúng; như vậy khi vua nhìn về hướng nam thì bản thân vua phải ở hướng bắc, quần thần và dân chúng chầu về hướng bắc, ở Trung hoa xưa vua được xem như mặt trời vậy, nên chầu vua tức chầu mặt trời tức là quay mặt về hướng xích đạo tóm lại hướng mặt trời là hướng Bắc. Tới đây đã đủ bằng chứng để kết luận : phương bắc và nam đã bị lật ngược đây là việc làm có chủ đích , có hệ thống vì không phải chỉ có phương nam bắc mà toàn bộ những thông tin cơ bản của dịch lý đều bị đảo lộn như âm dương, vạch đứt -vạch liền, các phương vị của Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng chung số phận; nói chung CÀN KHÔN đã bị người Hán phá nát, những điều này dần dần khi đi sâu tìm hiểu địch học họ HÙNG chúng ta sẽ nhận ra. Các cặp số của Hà thư cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên. 4 phương tượng trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời tiền lập quốc và trung nguyên là nơi hoà hợp –thống nhất các thị tộc thành dân tộc, thời gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là liên minh thị tộc và kết thúc là hình thành quốc gia. Quốc hiệu đầu tiên của dòng giống HÙNG là Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG QUỐC, chữ hữu ở đây là ký âm chữ họ của Việt ngữ ̣( người Tàu cố tình nhập nhèm coi chữ HỮU là trợ từ ), quốc hiệu này biểu thị rất rõ thời lưỡng tính trên vì mang trong bản thân cả hữu lẫn quốc . - căp số ( 3-8 ) Trong hà thư chỉ phương đông phương mặt trời mọc hay mùa xuân; ý chỉ buổi bình minh của dân tộc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT ; THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc , phương đông cũng là phương của màu xanh và tình thương , sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ. Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ , điều này kiện chứng thêm cho sự ấn định trên. - cặp số ( 2-7 ) Số( 2-7) chỉ phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH cháu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đả mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ańh mặt trời. - cặp số (4-9) Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc nhưng nay đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng hay khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử đông á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO. Ở trên ta đã biết khương hay cương có nghĩa là cứng rắn không thay đổi, đấy là đặc tính của phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG ngày nay.., sách ‘Đại nam thực lục’ gọi sông Khang là Khung giang là sự chỉ dẫn đích xác nhất về địa danh này . _ Cặp số ( 1-6) Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thấy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương 1-6 này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển ngữ thành Xuyên húc hay Hắc Tóm lại : thời tiền lập quốc người xưa đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này đã tham gia vào việc cấu thành dân tộc họ HÙNG. 2 - Thời lập quốc. Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc CẢ nghĩa là tộc đứng đầu cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ đánh bại XUY VƯU vua của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm số 4 còn cửu là số 9. Sau đó ở trận Trác Lộc Hiền vương đánh bại VIÊM ĐẾ thủ lãnh thị tộc phương ‘nóng’ thống nhất 3 tḥị tộc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , vũ chỉ là ký âm hán tự chữ vua của việt ngữ, lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch thành GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, chữ giữa ký âm YUÊ không hiểu sao Việt nho đọc thành VIỆT. Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đả ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tục : Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương. Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN. Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa. LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ? Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn: Ai ơi chớ lấy KẺ LA. Cái dưa thì khú cái cà thì thâm. Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học. Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai . DI_LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư. Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?. Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay. Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia... Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận. Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá.
  10. * Tin mới nhất Âm vang cuộc tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức Thanh Niên Online - Thứ Sáu, 24/9 Âm vang cuộc tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức (TNTS) Bồ tát Thích Quảng Đức (1897 – 1963) tự thiêu cách đây đã 47 năm, nhưng ánh lửa từ bi cùng trái tim bất tử của Ngài vẫn còn tỏa sức sống trong lòng đạo pháp và dân tộc. Nhân dịp khánh thành tượng đài Thích Quảng Đức tại TP.HCM, TNTS xin nhắc lại sự kiện lịch sử quan trọng này. 1. Ngọn lửa và trái tim bất tử Mùa Phật đản năm 1963, tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo. Để phản đối, đồng bào Huế xuống đường biến lễ rước Phật ngày 14 tháng tư Quý Mão (nhằm 7.5) thành cuộc biểu tình. Đến đêm ấy, cả vạn người kéo về Đài Phát thanh Huế yêu cầu phát chương trình chào mừng Phật đản như mọi năm. Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó tỉnh trưởng nội an tỉnh Thừa Thiên, đưa xe thiết giáp và cảnh sát đến giải tán, nổ súng, ném lựu đạn vào đám đông, khiến 8 phật tử bị chết, 4 người bị thương. Sự kiện tang tóc đó châm ngòi cuộc đấu tranh chống chế độ Diệm bùng nổ tại Huế, rồi lan rộng khắp các đô thị. Tại Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức tuyệt thực và gửi Tâm thư ngày 27.5.1963 đến Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo xin tự thiêu để “cúng dường tam bảo, giác ngộ chính quyền”. Đến đêm 10.6, Ủy ban Liên phái chấp nhận nguyện vọng trên và hòa thượng Thích Quảng Đức lễ tạ Phật, viết thư thức tỉnh tổng thống Diệm trước giờ ra đi. Sáng hôm sau 11.6, Ngài bước lên chiếc xe dẫn đầu gần 1.000 tăng ni, phật tử trong cuộc diễu hành rước di ảnh các Thánh tử đạo về chùa Xá Lợi. Đến ngã tư đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám – Nguyễn Đình Chiểu), xe dừng lại để Ngài bước xuống, ung dung tự tại tiến đến bên lề đường, ngồi kiết già giữa hàng nghìn tăng ni, phật tử đang nhanh chóng quay quần lần cuối hướng về Ngài. Xăng đã tẩm ướt áo và Ngài cầm bật lửa lên tự bật. Chớp mắt, lửa bùng lên phủ kín thân, Ngài vẫn ngồi yên như một bông sen nở bừng bừng trong lửa. Quá xúc động, nhiều tăng ni bật khóc, phật tử nước mắt chảy ròng. Hơn 10 phút sau, Ngài cúi nhẹ đầu như để vĩnh biệt mọi người, rồi nhẹ nhàng ngã ra sau, tay vẫn kiết ấn tam muội. Liền đó, đoàn phật tử võ sinh do hai võ sư Tâm Giác và Phạm Lợi điều động lập tức ùa tới bảo vệ nhục thân Ngài, đề phòng cảnh sát đem xe bọc thép đang đậu phía Ngã sáu Sài Gòn chạy đến cướp xác. Một đoàn phật tử khác do Ủy ban Liên phái bố trí sẵn từ bên kia đường mang một lá cờ Phật giáo dài hơn 5m đến trải lên vỉa hè để cung thỉnh nhục thân Ngài về chùa Xá Lợi. Tiếng niệm Phật, tiếng khóc, tiếng kêu thương vang lên suốt quãng đường. Cảnh sát Diệm - Nhu tung ra dày đặc, vây các đường dẫn đến chùa, nhưng đồng bào khắp nơi vẫn nườm nượp đổ về kính lễ Ngài. Chứng kiến giây phút bất tử của Ngài, có mặt phóng viên các hãng thông tấn nước ngoài như Macolm Browne của AP, Simon Michaud của AFP, Neil Sheehan của UPI (và cả tướng Mỹ Harkins nữa). Họ kinh ngạc và xúc động đưa tin để khắp thế giới biết ngay hôm ấy. Riêng Macolm Browne chụp bức ảnh độc nhất vô nhị (đoạt giải Pulitzer) cho thấy Ngài đang ngồi an nhiên trong lửa đỏ và được Trung Quốc in hàng triệu bản gửi khắp các quốc gia Á Phi: “Tôi cũng được biết lúc Henry Cabot Lodge đến gặp Tổng thống Kennedy về việc được bổ nhiệm đại sứ tại Việt Nam, Kennedy đã có một bức hình tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức trên bàn giấy” (M.Browne). Ký giả Nữu Ước thời báo (New York Times) David Halberstam tường thuật: “Tôi thấy thân hình chìm trong lửa đỏ thật đáng kinh ngạc. Phía sau, tôi nghe tiếng khóc những người đang lần lượt kéo đến. Tôi cũng quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi một câu nào đó, quá bối rối không kịp suy nghĩ nữa... Dẫu chìm trong biển lửa nhưng hòa thượng vẫn ngồi bất động, không nhúc nhích, không một tiếng rên la, toát lên vẻ trầm tĩnh khác hẳn với những người đang đứng xung quanh òa khóc”. “Tin tức và hình ảnh Bồ tát Quảng Đức ngồi an nhiên trong ngọn lửa tự thiêu đã được lan truyền khắp thế giới (...). Nhiều tổ chức Phật giáo biểu tình phản đối và kêu gọi chính phủ Diệm chấm dứt cuộc đàn áp Phật giáo. Đặc biệt là tiếng nói của ông U Thank, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ (1963), cũng đã phản đối việc bắt bớ và tàn sát dã man của chính phủ Diệm đối với tăng ni và phật tử. Và ngay cả Ngoại trưởng của chế độ Diệm là giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo tóc để hành hương sang Ấn Độ nhằm chiêm bái và kêu gọi nhân dân thế giới phản đối chế độ độc tài Nhu - Diệm. Chẳng những tín đồ Phật giáo, mà các tôn giáo khác và các dân tộc yêu chuộng hòa bình đã đồng loạt ủng hộ phong trào tranh đấu của Phật giáo Việt Nam”. Hòa thượng Thích Trí Quảng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (Phát biểu tại lễ khánh thành Công viên tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức – TP.HCM sáng 18.9.2010) Sau hơn một tuần quàn tại chùa Xá Lợi, Ủy ban Liên phái tổ chức lễ rước nhục thân Ngài về An dưỡng địa làm lễ Trà tỳ vào 20.6: “Trong lò thiêu nóng đến 4.0000C, xương thịt cháy tiêu hết, duy chỉ có trái tim của Ngài vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy” như tài liệu lưu trữ của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ghi nhận. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết “Lửa từ bi” (bị mật vụ Diệm Nhu đến nhà bắt), có những câu: Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc, / Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi! / Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác / Trong vô hình sáng chói nét từ bi / Rồi đây, rồi mai sau, còn chi? / Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre gần mục nát / Với thời gian lê vết máu qua đi / Còn mãi chứ! Còn trái tim Bồ tát / Gội hào quang xuống tận ngục A Tỳ... Tại chiến khu, ngay hôm sau 12.6, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam long trọng tổ chức lễ truy điệu. Từ Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng công bố trên đài phát thanh và báo chí hai câu đối kính viếng hòa thượng Thích Quảng Đức: * Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt. * Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà (Vì pháp thiêu thân, muôn thuở hùng uy trời nhật nguyệt - Lưu danh bất tử, trăm năm chính khí đất sơn hà - Phan Duy Nhân dịch). Ngày 13.6, báo Nhân Dân đăng xã luận tôn vinh gương hy sinh của Ngài. Khắp các thành phố, thị xã và vùng nông thôn miền Bắc, từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh, đều tổ chức mít-tinh ghi nhớ công đức Ngài và lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khẩn đến Ủy ban quốc tế ở Việt Nam yêu cầu xem xét tính chất phi pháp của chế độ Diệm đối với Phật giáo. Cùng lúc, nhiều tờ nổi tiếng trong làng báo thế giới như Washington Post (Mỹ), Le Monde (Pháp), La Gezette de Lausanne hoặc Journal de Genève (Thụy Sĩ), cũng như dư luận và các tổ chức tôn giáo tại các quốc gia có người theo đạo Phật như Ấn Độ, Nhật Bản, Miến Điện (Myanmar), Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan, Nam Hàn (Hàn Quốc), Campuchia, Lào... đều lên tiếng chỉ trích Diệm - Nhu. Từ Vatican, Đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ lục gửi thông điệp đến Việt Nam biểu lộ “sự chú tâm, đau đớn khi theo dõi các biến cố bi thảm đang giày vò người dân Việt, cầu nguyện để tất cả mọi người tái lập tình tương thân huynh đệ và tôn trọng các quyền tự do chân chính”. Nhưng thông điệp trên bị chính quyền Diệm ngăn cấm, không cho phổ biến và phong trào đấu tranh càng bùng lớn hơn với sáu cuộc tự thiêu nối theo: 1. Đại đức Thích Nguyên Hương (Bình Thuận), 2. Đại đức Thích Thanh Tuệ (Quảng Trị), 3. Ni cô Thích Nữ Diệu Quang (Ninh Hòa), 4. Thượng tọa Thích Thiện Huệ (Thừa Thiên – Huế), 5. Đại đức Thích Quảng Hương (Sài Gòn), 6. Đại đức Thích Thiện Mỹ (Sài Gòn). Nữ sinh Mai Tuyết An chặt đứt tay mình tại chùa Xá Lợi để chống chế độ Diệm và nữ sinh Quách Thị Trang 15 tuổi bị cảnh sát Diệm bắn chết trước chợ Bến Thành. Làn sóng đấu tranh bất khuất dâng cao cho đến ngày chế độ Diệm bị lật đổ hoàn toàn bởi Hội đồng quân nhân do tướng Dương Văn Minh đứng đầu. 2. Dựng tượng đài kỷ niệm Từ năm 2004, Thành ủy và UBND TP.HCM đã chỉ đạo xây tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức ở nơi Ngài tự thiêu vào 47 năm trước và đầu năm 2005 chọn xong mặt bằng rộng 1.848m2 góc đường Cách Mạng Tháng Tám -Nguyễn Đình Chiểu để thực hiện. Năm 2007 kết thúc cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài và phù điêu với giải chính thức trao cho hai tác giả: Võ Công Chiến - Võ Công Thắng. Công trình khởi công từ 6.11.2007, hoàn thành 17.9.2010, tổng đầu tư hơn 23 tỉ đồng. Tượng Bồ tát và phù điêu đúc bằng hợp kim đồng. Tượng cao 6m, đường kính 4m, đúc theo mẫu của các tác giả đoạt giải nêu trên. Phù điêu cao 3m, dài 12m, mô tả khái quát lịch sử đấu tranh cách mạng của phật tử và các tầng lớp nhân dân. Công viên có sân lễ, hồ sen, thảm cỏ, cùng một số công trình phụ khác xây bằng các vật liệu bền vững như đá xanh, đá trắng chở từ các tỉnh về. Tại lễ khánh thành hôm 18.9, ông Lê Tôn Thanh - Phó giám đốc Sở Văn hóa thông tin và Du lịch đã nhấn mạnh: “Đây là công trình trọng điểm đặc biệt của thành phố, đưa vào sử dụng nhằm phát huy giá trị văn hóa, lịch sử, phục vụ nhân dân thành phố cũng như đồng bào và phật tử cả nước”. Giao Hưởng
  11. Từ vựng “Huyền Khung” Chữ nho dùng từ “huyền khung” chỉ bầu trời huyền bí mà con người chưa hiểu biết hết được. Hai chữ đó cứ theo âm mà xét đều là từ dân gian của nông dân Việt mà ra: Chữ nho “khung” 穹nghĩa là vòm trời. Trong tiếng Việt cái chứa đựng cái khác bên trong nó gọi là cái VỎ, nên mới sinh ra mọi từ mang nghĩa chứa đựng từ cái nhỏ nhất đến cái to nhất là: Mô(chứa tế bào), Ổ(chứa thú), Tổ(chứa chim), Tô, Tộ, Lọ, Lò, Bồ, Rổ, Vó, Bô, Xô…Mỏ(chứa quặng), nhưng cái chứa hết tất cả là cái VŨ mà chữ nho viết là 宇tức bầu không gian, do từ VỎ là từ vựng chung nhất mà ra. (Chữ nho lại viết “trời” thành chữ Trụ宙chỉ thời gian, vì người Việt cắm cây nêu làm cái trụ đo bóng nắng trời mà tính thời gian, rồi ghép thành từ ghép Vũ Trụ 宇宙, nghĩa là không gian và thời gian). Cái VỎ (là Vũ Trụ) ấy chia Âm Dương ra thì có cặp đối nghịch Âm/Dương là VÙNG/VUNG. Vùng là vuông đất (Vùng=Khuôn=KHÔN). Vung là vòm trời (Vung=Khung=Vòm=CÀN), nên mới có câu “coi trời bằng vung” . Chữ “khung” 穹 gồm hai phần, phần dưới là cái “cung” 弓 lấy làm biểu âm (dù nhìn hình tượng của nó đúng là thấy rõ cái cong cong), phần trên biểu ý một cái chứa là cái “huyệt” 穴. Chữ huyệt nghĩa là cái hang, nhưng mà là “hang Việt” nên người Việt nói lướt thành một âm tiết là “huyệt” (tiếng quan thoại thì hang gọi là “động”, người Việt mới ghép “hang động” để nói ý nhiều loại hang, đúng theo qui tắc từ “hang” có trước dùng trước, từ “ động” có sau dùng sau, chẳng nghe ai nói là “động hang” bao giờ). Chữ “huyệt” 穴ấy viết hoàn toàn biểu ý bằng hai bộ thủ : bộ thủ trên là chữ “miên” 宀 nghĩa là cái “mái” nhà, bộ thủ dưới là chữ “bát” 八 nghĩa là “bát quái”. (Tên các bộ thủ của chữ nho thì cứ đọc đúng âm Việt tức âm người Việt Nam nói ngày nay thì mới nghe ra ngay cái nghĩa của nó như nó biểu ý, mỗi bộ thủ chỉ là một âm tiết nhưng là “đơn âm thành nghĩa”, còn nếu phát âm bằng tiếng quan thoại thì cái âm tiết phát ra đó không mang được cái nghĩa như ký tự đó có, đành phải tra từ điển mới hiểu ý nó được, không biết ngày xưa ai đặt ra các bộ thủ làm cơ sở cấu thành chữ nho?). Cái chữ “huyệt” 穴 ấy cũng hiểu được là cái huyệt phát tích văn minh Việt. Nhìn chữ “khung” 穹lại càng rõ hơn vì nghĩa của nó là “ vòm trời là huyệt phát tích của văn minh Việt”, bởi như ngày xưa Hán thư từng viết “Lạc binh làm lạc điền mà mỗi người đều lưng đeo cung nỏ”. (Chẳng thế mà có khai quật cả kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và ở Quảng Tây, Quảng Đông). Chữ “huyền” 玄nghĩa đen là màu đen nhánh, như câu “răng đen nhưng nhức hạt huyền”.(NHỌ là cái VỎ chứa, sinh ra NHEM…NHƯNG-NHỨC…NHÁNH). Nó từ chữ cổ xưa nhất là “mun” = màu đen mà ra. Dân ruộng còn có công nghệ làm ra khói đen gọi là “hun” để bắt chuột đồng và để làm đen nhánh cho bền các dụng cụ bằng tre trên gác bếp. “Hun cho đen tuyền” lướt thành một âm tiết là “huyền”, là màu đen nhánh do đã có gia công nhân tạo, răng đen cũng bởi có gia công nên mới gọi là “răng hạt huyền”, hạt trang sức màu đen cũng gọi là hạt huyền vì đã có gia công. Nghĩa bóng thì “huyền” là sâu kín, huyền bí. Chữ “huyền” 玄là một chữ hoàn toàn biểu ý bằng hai bộ thủ. Bộ thủ trên là chữ “đầu” 亠 nghĩa là đầu tiên (quan thoại dùng chữ khác là chữ “thủ”, như nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu quốc gia), bộ thủ dưới là âm tiết “út” mà chữ nho viết chữ “yêu” 幺. Từ “đầu” tới “út” biểu ý “kín” hay huyền bí, cái gì cũng vậy cả. Một cơ thể sinh ra là lòi từ “đầu” là cái đầu rồi tới “út” cuối cùng là ngón chân út , là một cơ thể “kín” và đương nhiên cũng rất huyền bí. Một vấn đề khoa học từ “đầu” đến “út” cũng là kín kẽ và huyền bí. Chữ dùng trong bài “Ấu học quỳnh lâm” là chữ “huyền khung” 玄穹 chỉ bầu trời một cách văn vẻ. Câu đó là câu: 玄穹彼蒼 悉稱上天 Huyền khung bỉ thương, tất xưng thượng thiên Đen vòm kia xanh, biết rằng trên trời Toàn câu là: 甘霖甘澍, 俱指時雨 Cam lâm , cam thụ, cụ chỉ thời vũ 玄穹彼蒼, 悉稱上天 Huyền khung bỉ thương, tất xưng thượng thiên Đảo ngược dưới trên thì có nghĩa là: Xanh kia=thăm thẳm=trời cao Sương lành, mưa thuận khác nào trời cho.
  12. Kẻ Lửa, bài 2 Khoa học gen chỉ ra rằng người Homo Sapient bắt nguồn từ Đông Phi, khoảng 80.000 năm trước một nhóm trong số họ men theo bờ biển Ả Rập thiên di về bờ biển Ấn Độ phía đông. Khoảng 60-70.000 năm trước họ đã đến trú ở ven biển Đông Nam Á. Một chi đi về đông nam đến Indonexia, khoảng 50.000 năm trước họ đến Châu Úc thành tổ tiên của người bản địa Maori ở Úc. Một chi khác men theo bờ biển Đông vào vùng Hoa Nam sau đó mới lên phía bắc cư trú ở lưu vực sông Hoàng. Báo “Di truyền học Trung Quốc” năm 1991 đưa ra so sánh gen nhân chủng người Trung Quốc, phát hiện người Mân Nam Trung Quốc (nghiên cứu ở Hạ Môn Phúc Kiến,Sán Đầu Quảng Đông), người Khách Gia ( nghiên cứu ở Mai Huyện Quảng Đông) về chủ thể huyết hình đều là Việt tộc phương nam ( gen chiếm 75% đến 90% trở lên), gần gũi nhất với người Đông Nam Á; người Quảng Châu càng ít huyết thống phương bắc hơn cả người Mai Huyện. Mân Nam là tên chỉ vùng Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Đài Loan và Hải Nam, chung hệ ngữ gọi là Mân Nam ngữ. Thời cổ đại ngôn ngữ Bách Việt là một ngôn ngữ cộng thông tính. Phân tích của giáo sư Lâm Ma Lợi林媽利 viện nghiên cứu huyết thống của Đài Loan vào năm 2007 chỉ rõ người Đài Loan có 48% là đến từ Phúc Kiến, 52% còn lại là từ dân miền núi bản địa Đài Loan, dân đảo Đông Nam Á và dân các vùng khác của châu Á. Về gen thì 85% người Đài Loan có gen của dân bản địa Đài Loan và dân đảo Đông Nam Á, đồng thời hơn 90% người Đài Loan là có gen của Việt tộc. Các phó giáo sư Trầm Kiến Đức, Hứa Minh Châu của đại học Trung Hưng khi nghiên cứu tính chân thực trong tộc phả của người Hà Lạc Đài Loan đã nhận định rằng người Hà Lạc Đài Loan thực chất là người Bình Bồ (bản địa Đài Loan) đã bị người Hà Lạc di cư từ Phúc Kiến ,Quảng Đông sang đồng hóa chứ không phải là người Hán thuần chủng từ Trung Quốc đến Đài Loan. Ngôn ngữ của dân Đài Loan là tiếng Ho Ló, sử gọi là tiếng Hà Lạc 河洛Người Đài Loan còn gọi là người Hà Lạc (Ho Ló), còn có các tên gọi khác là người Phước Lào, Hạc Lào, Học Lão, dân số 17 triệu người, phân bố ở Đài Loan và ở hải ngoại. Người Hà Lạc tức người nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Hà Lạc, bao gồm người Bình Bồ bản địa đã bị Hà Lạc hóa, người Việt đã bị Hán hóa, người Khách Gia đã bị Hà Lạc hóa. Họ là hậu đại của cư dân ven biển nam Trung Quốc di cư sang Đài Loan hỗn huyết cùng dân Bình Bồ bản địa. Thời xưa di dân từ Trung Quốc sang là dân Chương Châu漳州 và Tuyền Châu泉州 của Phúc Kiến và sau hơn là dân Triều Châu潮州, Sán Đầu 汕頭của Quảng Đông là những sắc dân Việt tộc đã bị Hán hóa. Về ngôn ngữ Hà Lạc Đài Loan thì ở những vùng khác nhau của Đài Loan có giọng nói khác nhau chút ít nhưng đều giao tiếp được. Đài Loan có bốn dân tộc lớn, người Hà Lạc Đài Loan chiếm 73,3%(16.572.000 người). Người Khách Gia ở Đài Loan được gọi là Hà Lạc Khách vì ngôn ngữ của họ đã hầu như thất truyền, nhiều người vẫn nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Khách Gia nhưng lại tự xưng mình là người Hà Lạc, nhiều nhân sĩ người Khách Gia kể cả nguyên tổng thống Lý Đăng Huy tiên tổ là người Khách Gia ở Giang Châu Phúc Kiến thì đến đời tổ phụ của họ đã là không còn nói được tiếng Khách Gia. Giải thích từ vựng Hà Lạc河洛 Để giải thích nguồn gốc của từ vựng này, vốn chỉ một tộc người ngày nay nói thứ tiếng đó là tiếng mẹ đẻ của họ, thì phải dùng mẫu tự Latin ký âm đúng như người Đài Loan gọi là “ Ho Ló”. Chữ Mân là chữ thời Tần chỉ dân tộc bản địa toàn bộ vùng Đông Việt và Nam Việt , ngày nay thành cái tên chỉ vùng bao gồm toàn bộ tỉnh Triết Giang, toàn bộ tỉnh Phúc Kiến, Triều Châu và Mai Châu của Quảng Đông. Thời Đông Hán học giả Hứa Thận trong cuốn sách “Thuyết văn giải tự “của mình đã giải thích chữ Mân là chỉ Việt tộc thờ rắn vùng Đông Nam, lấy bộ thủ “môn” làm chú âm, bộ thủ “trùng” làm phù hiệu nghĩa. Mân Việt tộc là tộc Việt vùng Đông Nam thờ rắn. Năm 1984 ở Phúc Kiến đã khai quật được Cổ Việt thành là thành của vua nước Mân Việt. Thực ra cổ đại thì Mân là từ ký âm chỉ người Mun,da ngăm ngăm hơn người Hán, mà người Hán còn gọi là người Man蠻 với ý khinh thị. (Từ “mun” là từ Việt cổ chỉ màu đen, có lẽ nó có từ thời lục địa “Mu” , tự nó cũng đã nói lên nguồn gốc châu Phi của loài người, từ “mun” ấy nay trong tiếng Việt chỉ còn ở “cây gỗ mun”, “con mèo mun”, “con chó mực”, “mực tàu” mà thôi, còn thì phổ biến dùng từ “đen” thay thế). Danh từ “Bách Việt” đến thời Xuân Thu Chiến Quốc mới xuất hiện trong Hán thư để chỉ Việt tộc nói chung, chứ còn âm tiết “việt” thì nó đã có trước đó hàng ngàn năm. Văn hiến đời Thanh ghi rằng người Khách Gia ở Phúc Kiến gọi những người nói tiếng Hà Lạc ở Phúc Kiến là “ Hà Lão” hay “Phúc Kiến Lào” , gọi tắt là “Phúc Lào”, tiếng Khách Gia phát âm là “ Phuk Lò”, tự gọi mình là “Khách Gia Lào”. Còn người Hà Lạc gọi chính mình là “Ho Ló”. Âm tiết “Ló” và “Lò” trong tiếng Hà Lạc hay tiếng Khách Gia có nghĩa là “người” , sử thư viết là “ Hà Lạc nhân” tức “người Hà Lạc” là viết thừa chữ người, làm cho người đọc cứ tưởng Hà Lạc là tên một địa phương nào đó nên người xuất xứ từ đó gọi là người Hà Lạc.Tuy vậy ngày nay từ “Hà Lạc”mà chính sử dùng và giải thích là “do nguồn gốc từ lưu vực Hoàng Hà và Lạc Thủy tức Trung Nguyên”, nghiễm nhiên thành từ chỉ tộc người cũng như chỉ ngôn ngữ của họ. Trung Quốc sở dĩ tồn tại tới 7 phương ngữ không thể giao tiếp với nhau được là do nguồn gốc của chúng không đồng nhất.Tiếng Ho Ló là một ngôn ngữ bắt nguồn từ phương Nam. Khi người Hán tránh xâm lăng của Hồ, Di mà chạy về Giang Nam thì họ chỉ là dân tị nạn, thiểu số so với dân bản địa ở đó từ xưa. Ngôn ngữ Ho Ló cổ là tiếng mẹ đẻ của người Phúc Kiến. Sau do người Hán di cư đến và ảnh hưởng của chữ Hán tạo nên ngôn ngữ Ho Ló có diễn biến Hán hóa, nhưng không thể vì cái yếu tố Hán hóa này mà nói rằng tiếng Ho Ló bắt nguồn từ lưu vực Hoàng Hà, cũng giống như người Hàn, người Nhật, người Việt Nam từ xưa vẫn học và đọc chữ Hán nhưng không thể nói tiếng các dân tộc đó là bắt nguồn từ lưu vực Hoàng Hà. Lại nữa, người Hán ở phương Bắc do bị người Hồ thống trị nên ngôn ngữ của họ bị ảnh hưởng, nhưng không thể nói ngôn ngữ họ là tiếng Hồ được. Trong tiếng Khách Gia nói “Lò” và tiếng Hà Lạc nói “Ló” có nghĩa là “người” ,vậy nó chính là từ tiếng Việt nói “Lòi” cũng gọi là “Nòi” (do tiếng Việt “N”và “L” chuyển đổi được cho nhau nên hay bị lầm lẫn với từ đồng âm dị nghĩa,vì tiếng Việt còn có từ “nòi” = “giống”, bởi vậy mới cần đến ngữ pháp hàn lâm để qui ước chặt chẽ), tiếng Lào nói “Nọi” hoặc “Neo”, tiếng Quảng Đông nói “lào” đều có nghĩa là “người”. Tiếng Việt “con người” còn nói là “con nòi” , xứng đáng là “con nòi” ý là xứng đáng là người để làm giống, do chơi chữ nòi=người, đồng âm dị nghĩa với nòi=giống. “Nòi” có biến âm là “Mòi” cũng nghĩa là người, mà trong tiếng Việt con người cổ xưa nhất tức xuất hiện đầu tiên trên trái đất thì gọi là “Mọi” (chứ không phải như trong nhà trường vẫn giải thích “mọi” là từ “do thực dân Pháp sang ta nó đặt ra để gọi miệt thị dân ta”). “Mòi” là cá nhân một con người tức “Mỗi”, phân biệt được với nhau từ cái mong manh nhất là “Mùi” nên con chó nó mới đánh hơi phân biệt được. Biến âm “Mùi” ở giới hạn khái niệm này cũng nghĩa là “con người cá nhân” mà chữ nho viết là “Vị” 位mà gốc dân gian của nó từ thuở đầu tiên là “Lòi”. Từ vựng “Lòi” ấy Quan Thoại đọc là “wây” (của chữ Vị), L- đã biến sang V- tương tự như Lang đã biến thành Vương mà Quan Thoại đọc là “Wáng” cũng như “Lửa” tức chữ nho Liệt烈 (“rực”) đã biến thành Việt 越,粤mà Quan Thoại đọc là “Duê”. (“Duê”, “Yuê” còn biến âm thành “Huê” 華, “Hoa” 華, người Hoa cũng là do Việt tộc mà ra). Chư vị=các vị=các người=các ngài. Còn từ vựng “mùi” ở khái niệm là cái ngửi được thì chữ nho cũng viết bằng một chữ “Vị” khác là 味 (cũng còn đọc là “mùi”) mà Quan Thoại đọc là “wây” chứ trong Quan Thoại không có âm tiết “mùi”. Trong tiếng Việt thì cái mà ngửi được là “mùi”= “vị”= “mùi vị”, từ ghép “mùi vị” là ghép “mùi” của dân gian có trước với “vị” của chữ nho đồng nghĩa có sau để chỉ “nhiều mùi”, trong cách ghép đó “mùi” đứng trước vì nó ra đời trước, mà không hề có ghép ngược là “vị mùi”, đúng như qui luật của tiếng Việt. “Ngửi mùi” để nhận biết chính mình đã cho ra từ “Người” đồng nghĩa với “Lòi” ban đầu, mà tiếng Đài Loan từ mang nghĩa là “người”, họ phát âm là “nghìn”. Từ vựng “Mòi” nghĩa là “người” ấy trong tiếng Mân Nam có từ vựng “Mằn” cũng là “người”, mà chữ nho viết là “Dân”; trong tiếng Quảng Đông thì còn có từ vựng “Dành” cũng là người, mà chữ nho viết là “Nhân”, còn tiếng Tày thì gọi là “cần”. Từ “nhân dân” là một từ ghép hai từ đồng nghĩa “nhân”= “dân”= “người” để mang ý “nhân dân” là nhiều người, đúng như qui tắc của tiếng Việt, “nhân dân” thì Quảng Đông-Phúc Kiến nói là “dành mằn”, Quan Thoại nói là “rấn mín”.Tiếng Huế có từ “tình cảm mằn mòi” nghĩa là tình cảm “mằn” với “mòi” tức người với người, nó hẳn là sâu sắc và nó mang nghĩa ngọt ngào chứ không phải là “mặn mòi” tức “mặn mói” = “đậm muối” = cho quá nhiều muối. Tiếng Việt từ vựng “Lòi Người” là một từ ghép hai từ đồng nghĩa con người để tạo ý nhiều người, đúng qui luật từ “Lòi” ra đời trước nên đứng trước, “Lòi Người” sau phát âm là “Loài Người” (chắc do từ tiếng Huế, “nói” phát âm thành “noái”, “thói” phát âm thành “thoại”, chứ ở vùng quê Nam Bộ “đối thoại” người ta vẫn phát âm là “đối thọi”). Từ ghép “giống lòi” trong tiếng Việt chỉ có duy nhất một nghĩa là “giống người” nhưng hàm ý còn hẹp hơn, đó là “giống lòi Việt”, “giống Việt”, nhưng do hàn lâm quen nói “N”, chê nói “L” là nói ngọng, nên dùng “giống nòi Việt”, câu “giống nòi Việt Nam” là một câu thiêng liêng, tuy vậy nó bị đồng âm thành ra nhạt ý, vì “giống” = “nòi” nên “giống nòi” = nhiều giống = nhiều nòi, đã nói Việt thì chỉ có một giống tức một nòi chứ làm gì có nhiều? “Loài người” nghĩa là “nhiều người”, cũng tương tự như vậy, từ “mọi” nghĩa là “ người” có từ ban đầu cũng được ghép đứng trước từ “người” để có từ “Mọi Người” nghĩa là nhiều người. Còn có từ ghép “ Mọi Nhân” = nhiều Người , mà “Mọi Nhân” đã lướt thành “Muôn” để chỉ con số, Muôn (Việt) = Mưn (Tày) = Man (Nhật Bản), chữ nho viết là Vạn萬, quan thoại đọc là “wan”. Lòi Người = Mọi Người = Loài Người = nhiều Người theo đùng qui tắc của tiếng Việt là: hai từ đồng nghĩa ghép với nhau thì thành một từ ghép có hai âm tiết cũng đồng nghĩa nhưng mang ý là nhiều, trong thứ tự ghép thì từ xuất hiện trước đứng trước, từ xuất hiện sau đứng sau. Đây chính là do tư duy “ lưỡng hợp” của người Việt, kẻ đã phát minh ra thuyết Âm Dương, hai từ đồng nghĩa tức cùng gốc từ Một, nhưng là hai âm tiết khác nhau như một tiếng Âm và một tiếng Dương, cùng hợp với nhau chúng sẽ cho ra “nhiều”. Từ “Lòi” nguyên thủy trong tiếng Việt nghĩa là “người” ấy cũng chính là từ mà người Việt nguyên thủy dùng gọi “Mặt trời” là “Blời”,rồi vo thành “Lời”, rồi lại biến âm thành “Trời” (Trống đồng có hình mặt trời là sản phẩm đặc trưng của người Việt cổ). Con “Lòi” tồn tại dưới mặt “Lời” từ khi nó “lòi” ra khỏi bụng mẹ, rồi nó “lớn” lên, đến khi nó “lằm” xuống là hết một “đời”của nó, từ “Đời” chữ nho viết là “Đại” 代 mà Quan Thoại đọc là “tai” (vậy thử hỏi chữ “Đại” ấy là từ Hán-Việt hay từ Việt-Hán? Tiếng Hán gọi là “thế”, “thế hệ”).Từ “Con” do từ “Kẻ” mà ra , “con người” = “con lòi” = “kẻ lòi”. Cũng cùng logic như đời người ( Lòi ra, Lớn lên, Lằm xuống), sự tồn tại của mặt trời là “Lời” trong một ngày cũng là từ “Lòi” ra lúc bình minh,lên “ Lửa” lúc giữa trưa, cho đến “Lặn” xuống lúc hoàng hôn là hết một “Ngày”, rõ ràng là từ “Ngày” rất có logic với từ “Ngài” = “Người”. Chính “Lòi” nghĩa là “người” đã biến âm thành “Lửa” bởi người nguyên thủy đã biết tự gọi mình là người bằng tiếng “Lòi” từ khi còn chưa phát hiện ra lửa, khi loài người tìm ra được lửa họ mới thực sự là “người” và làm chúa tể muôn loài. Khi người nguyên thủy vô tình cọ xát đá sinh ra lửa cháy họ đã hô lên “lòi !” để gọi nhau đến “coi”. “Lửa” đã có tên gọi do “Lòi”, và logic tồn tại của Lửa cũng tương tự logic tồn tại của “đời người” hay logic tồn tại của “ngày trời” là Lửa đã từ “Lòi” ra khi nảy ra từ đá , lớn lên thành ngọn là Liệt (rực) nhất rồi giảm dần cho đến lúc “Lụi” đi khi đã ngốn hết củi đun. Người Việt cổ đã tự gọi mình là “Kẻ Lòi” mà lúc đầu là “Kẻ” hay “Lòi” đều có nghĩa là “người”. “Lửa” đã sinh ra do từ “Lòi” là người vì chính con người tìm ra lửa và làm ra lửa nên người Việt cổ cũng còn gọi mình là “Kẻ Lửa” là một từ đại diện để phân biệt với những kẻ khác là động vật không biết làm ra lửa. Rồi người Việt sáng tạo ra dịch lý, gọi Kẻ Lửa là Quẻ Ly, xác định phương nơi mình sống là phương của quẻ ly là phương xích đạo ấm (chữ nho là “Ôn” 温) là phương nóng bức, từ đó “Quẻ Ly”= “Kẻ Lửa”= “Kẻ Lả”= “Kẻ La”= “Kẻ Ly” đều là tên người Việt tự gọi mình. Chẳng thế mà nhà sàn có đốt bếp lửa ở giữa sàn như còn thấy ở vùng Tây Nguyên hay miền núi phía bắc, đồng bào miền núi phía Bắc Việt Nam đến ngày nay vẫn gọi là “nhà quẻ ly”, đó chính là nhà của dân Kẻ Lửa tức dân Việt. Chuyện cổ tích của người Ba Na kể rằng thời xưa loài người nói chung một thứ tiếng, sau vì cùng nhau dựng một cái nhà rông quá rộng,mài nhà quá lớn quá cao, khi lợp mái người ngồi lợp các phía mái chẳng thấy được nhau, đến khi lợp xong xuống thì không còn hiểu nhau được nữa vì tiếng nói đã bị khác nhau mất rồi. Cái mái lá của nhà rông cong bốn phía và võng trên nóc để lại dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc đền chùa miếu mạo của khắp vùng Phúc Kiến, Quảng Đông,Việt Nam và Trung Hoa mà hoàn toàn không phải là dấu ấn của kiến trúc của dân du mục đồng cỏ Mogoloit. Nhà sàn “quẻ ly” ấy thời cổ đại tồn tại phổ biến ở Quảng Đông mà sử thư gọi là nhà “sào cư 巢居tức nhà cách đất trên cọc như tổ chim, ở Việt Đông”, và phổ biến ở Phúc Kiến mà cổ thư gọi là nhà cách đất tức “nhà can lan 干欄 ở Mân Việt”, do phiên chữ một âm tiết là “sàn” mà thành chữ “can lan”. Quẻ Ly là “Lửa” được người Việt ghi bằng ký tự kẻ vạch của dịch lý bằng ba kẻ vạch là : một kẻ vạch liền là Dương ở dưới cùng, một kẻ vạch đứt là Âm ở giữa, một kẻ vạch liền là Dương ở trên cùng, logic biến của nó từ hào dưới là vạch dưới cùng lên hào trên là vạch trên cùng cũng là logic biến từ tĩnh (Dương) đến động (Âm) rồi lại đến tĩnh (Dương), cũng hợp logic biến của “Lòi” là con người từ “Ló” ra đến “ Lớn” lên rồi “Lằm” xuống, cũng là logic trong một ngày trời của “Lời” là mặt trời từ “Ló” ra đến “Liệt”(rực) nhất lúc giữa trưa rồi cũng đến “Lặn”. Ba kẻ vạch của quẻ ly là một nét dài dưới, hai nét ngắn giữa, một nét dài trên, tất cả là bốn nét. Bốn nét ấy đã được cách điệu thành chữ nho là bộ Hỏa 火 hay灬đều chỉ gồm bốn nét . Lại do Lửa là từ đại diện chỉ người nên chữ nho có chữ Nhân 仁bốn nét là lòng nhân tức chữ nhân viết hoa, và có chữ Tâm心 bốn nét là từ đại diện chỉ con người, mà hình ảnh của chữ Tâm心 là ba ông đầu rau và cái vòng kiềng chỉ cái bếp, lửa trong lòng người cũng như cái bếp ở giữa sàn nhà sàn là nơi quây quần gia đình. Quẻ Ly cũng như các tên quái khác trong bát quái rõ ràng là những cái tên Việt ở Việt Nam, thời mà người Việt sáng tạo ra Bát Quái thì đã ghi bằng ký tự của dịch lý, rồi sau chắc là có ký âm bằng chữ khoa đẩu mà đã bị thất truyền, chữ nho chưa kịp đặt chữ cho chúng theo đúng âm và đúng biểu ý, để cho về sau người Mongoloit vốn chỉ quen dùng âm tiết chắp dính chứ không quen chữ biểu ý nên đã dùng những chữ nho có âm tương tự tiếng Việt để ghi âm, thành ra Ly vốn là lửa được họ ghi âm bằng chữ “ly” 離 là ly khai ,chẳng có một bộ thủ nào là hỏa, chữ Cấn vốn là núi ( do “bnâm” = “phnom” = “non” = “cồn” = “cấn” là từ Khơ Me sang Việt) đã được họ ghi âm bằng chữ “cấn”艮 cũng chẳng có một bộ thủ nào là sơn, và các tên của các quẻ khác của bát quái cũng trong tình trạng như vậy cả. Học giả Trần Trọng Kim năm 1945 đã có ý muốn lấy ký tự “Quẻ Ly” trong dịch lý của dân Kẻ Lửa để làm hình tượng biểu trưng cho dân tộc Việt, vì các vạch của Quẻ Ly nếu tô đậmdày nét lên thì nhìn thấy rõ phần trống còn lại của nó là hình chữ “công” 工 nghĩa là người lao động. Ngày nay ta lấy hoa văn mặt trống đồng Đông Sơn làm hình tượng biểu trưng dân tộc Việt, mà như Nhật Nguyên đã giải mã, nó có ý nghĩa lịch sử và văn hóa toàn diện và sâu sắc hơn nhiều. Thời Tần người Hán di cư xuống Mân ngày càng nhiều, nhất là từ thời Tấn và Lục triều thì số người Hán di cư xuống Mân chỉ có ngày càng tăng chứ không giảm, ngôn ngữ Việt tại chỗ dần dần bị đồng hóa, nhất là ngữ pháp. Đến thời Đường Tống thì căn bản đã định hình một thứ ngôn ngữ được gọi là Mân Nam ngữ tồn tại đến ngày nay trong khẩu ngữ mà chỉ có nó mới đọc đúng được vần điệu của những thơ và những từ viết vào thời thời Đường Tống. Tiếng Mân Nam Đài Loan cũng bảo lưu được thanh điệu thời trung cổ này nên đọc và ngâm được đúng thơ Đường. Mân Nam ngữ về khẩu âm sở dĩ được bảo tồn cho đến ngày nay là do khoảng thời Minh các cố đạo Tây Ban Nha ở Manila đã dùng ký tự Latin để phiên âm tiếng Mân Nam phục vụ cho truyền giáo. Người Mân Nam di cư đến Đài Loan vào cuối Minh đầu Thanh, đến cuối thời Thanh thì đã phổ biến toàn Đài Loan. Người bản địa Đài Loan lui lên vùng rừng núi, người Khách Gia định cư ở vùng chân núi Đài Bắc, người Mân Nam ở vùng đồng bằng phía Tây. Tiếng Ngô: lang = người, am = lãnh (= ẵm, người Việt vẫn nói “nó ẵm gọn tiền của người ta rồi”).Tiếng Quảng Đông “lào” 佬 = con trai. Người Khách Gia gọi người Phúc Kiến là “Phúc lào” 福佬 (huk lò) với ý miệt thị, tiếng Khách Gia “lò” 佬 = người, những từ khinh miệt trong tiếng Khách Gia như “tặc lò” 贼佬= kẻ trộm, “á lò” 哑佬 = kẻ câm. Người Trung Nguyên không biết nên viết là Phúc Lào nhân 福佬人 = người Phúc Lào, người đời sau cứ tưởng Phúc Lào福佬 là một tên riêng địa danh hay tộc người, cuối cùng cũng chấp nhận trong chính sử như cái tên riêng là Phúc Lào mà người Khách Gia phát âm là “huk lò”, người Đài Loan phát âm là “ho ló”. Về sau có xuất hiện một cuốn sách là “ Phúc Lào thoại ngữ pháp” không biết tác giả là người Khách Gia hay người Đài Loan. Các âm “phúc”= “học” = “hạc”= “hà” chỉ là biến âm của một từ mà người Mân phát âm là “hok”, “họ”, “hỏ”. Các âm “lào”= “lão”= “lạc” cũng chỉ là biến âm của một từ mà người Mân phát âm là “ló”. Thành ra có các từ dùng chữ nho ghi âm trong chính sử là Phúc Lào福佬, Phúc Lão福老, Học Lào學佬, Hạc Lào鶴佬, Hà Lạc河洛, rồi bảo đó là những tên gọi khác nhau của một tộc người có một hệ ngữ riêng là tổ tiên của người Mân Nam. Những chữ ký âm đó đúng là tam sao thất bản, chẳng có biểu ý gì để chứng tỏ nó là một địa danh hay tộc người cả. (Đó là nhược điểm của văn tự không phải là văn tự ký âm. Nhưng văn tự biểu ý cực kỳ hữu dụng cho những ngôn ngữ có quá nhiều từ đồng âm dị nghĩa như tiếng Hán hay tiếng Nhật. Người Nhật đã vô cùng sáng tạo khi từ chỗ dùng hoàn toàn chữ nho mà họ gọi là kanji đã chế tác thêm ra văn tự ký âm hiragana để ghi những từ gốc Nhật và văn tự ký âm katakana để ghi những từ gốc phương Tây, thành ra trong văn bản tiếng Nhật dùng cả ba loại ký tự.Văn tự biểu ý còn có một lợi thế nữa là khi đã được ngữ pháp hàn lâm bắt buộc nó phải đồng nhất về ngữ pháp thì nó là một công cụ hữu hiệu làm văn viết chung cho các cộng đồng khẩu ngữ không giao tiếp được với nhau có thể thống nhất được với nhau trong một quốc gia, đó là phương thức gọi là bút đàm). Những từ chỉ có “tiếng” mà không có chữ trong ngôn ngữ Mân Nam có nhan nhản, vốn cái tênHà Lạc ấy tự điển cổ ký âm là “hỏ ló”,người đời sau bị Hán hóa bằng chữ viết và bằng ngữ pháp trong văn ngôn và cả văn nói rồi nên lu mờ luôn cũng không còn biết nguyên gốc nó nghĩa là gì, đành chấp nhận là cái tên như chính sử viết về mình là Hà Lạc河洛. Chính sử lại căn cứ vào cái chữ Hà Lạc河洛 là có vẻ có biểu ý hơn cả trong những cái tên trên, nên giải thích là đó là người từ vùng Hà là Hoàng Hà và từ vùng Lạc là Lạc Thủy, tức từ Trung Nguyên tới , là tổ tiên của người Mân Nam. Các bậc túc nho ngày xưa đâu có ngớ ngẩn gì mà viết như vậy? “Hà” là “sông”, Hoàng là tên riêng; “Thủy” là đại diện cho “sông”, Lạc là tên riêng; nếu ghép hai lưu vực đó thành một cái tên vùng chung như một cái tên riêng thì phải lấy hai tên riêng ghép lại với nhau là Hoàng Lạc chứ, tức vùng lưu vực Hoàng hà và Lạc thủy. Rõ ràng là “Hà Lạc” chỉ là mượn chữ nho để ký âm “hỏ ló” mà thôi. Các học giả Trung Hoa đã tìm suốt một trăm năm qua trong thư tịch “Phúc Kiến chí thư” 福建志書 mà không thấy có chữ nào là chữ Hà Lạc河洛 là danh xưng( tên đất hay tên tộc người cả). Còn “ Hỏ Ló” là gì thì phải hỏi người Bách Việt cổ ấy, họ có Nôm na mới hiểu được, nó là chữ “Kẻ Lửa” hay “Kẻ Lòi” tức “nhiều người” hay “bách Việt” cũng vậy. Lòi = Người (Việt) = Lào (Quảng Đông) = Lang (Ngô) = Lò =Ló (Mân Nam) = Lang (=con trai vua Hùng ,như Hán thư đã ghi) = Quan (=con trai vua Hùng, như Hán thư đã ghi) = Dân (=người, địa vị xã hội thấp hơn Quan) = Cần (Tày) = Dành (=nhân, Quảng Đông)= Mằn (=dân, Phúc Kiến). Kẻ = Lả= Tỏ= Đỏ=Hỏ (Mân Nam)= Người ( “dân đen” = “con đỏ” = nhân dân= nhiều người, mà địa vị xã hội thấp hơn Quan tộc). “Lòi Lang” = nhiều Người vì là hai từ đồng nghĩa “ người” ghép với nhau. Còn ý nữa, Lòi Lang = Người + Con trai vua Hùng, nên nó có nghĩa là nhiều người , nhưng là “cộng đồng người có người đàn ông lãnh đạo”, đó chính là “Làng”, do lướt từ “ Lòi Lang” mà thành từ một âm tiết là Làng .( Qui tắc lướt để thành từ một âm tiết là một qui tắc cố hữu tự nhiên trong tiếng Việt do thói quen “đơn âm thành nghĩa” đối với từ hai âm tiết hay đối với cả một câu dài, dù dân gian chẳng biết chữ họ vẫn đặt ra từ lướt một cách tự nhiên. Ví dụ câu “ thợ dũa Lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới” đã lướt thành “thợ Lỡi”, đó là thợ tay nghề cao dù thủ công nhưng không phải ai cũng làm được “thợ Lỡi”, này nay tự động hóa, người ta gọi là “máy mài tự động lưỡi cưa” chứ không biết gọi là “máy Lỡi” như từ “thợ Lỡi “ đã dùng phổ biến ở miền Nam từ xưa, đó là vì từ điển hàn lâm không theo kịp ngôn ngữ dân gian. Hay như câu “đi du lịch kiểu Phóng khoáng Vượt mọi trở ngại tự nhiên và sự bắt buộccủa tua truyền thống” đã được giới trẻ ngày nay chỉ lướt một tiếng là “đi Phượt”).Từ “làng” trong tiếng Việt hàm ý cộng đồng người chứ không hàm ý vùng đất, chỉ có tên riêng đi kèm “làng” mới là địa danh. Ví dụ “làng” Cót là nơi “nhiều người”= “dân làng” làm cót, “làng” Bún là nơi “nhiều người” = “dân làng” làm bún. Khi có người lỡ gặp nạn ở cánh đồng làng Bún, người đó kêu cứu gọi : “bớ làng ơi ! cứu tôi với! ” = “bớ mọi người ơi !...”= “bớ nhiều người ơi!...”= “bớ dân làng ơi!...” = “bớ nhân dân ơi!...”, chứ không phải là gọi “bớ Bún ơi ! cứu tôi với !”. Bởi vậy những từ chỉ người thì “Lang” biến thành( “wáng”)= Vương, Lửa biến thành (“lia”)= Liệt, biến thành Việt; quan thoại là bắt chước tiếng dân gian thì mới có thể giao tiếp quan dân được, lấy luôn cả chữ nho có từ xưa, chỉ có là phát âm theo giọng quan tộc và bắt ngữ pháp phải theo ngữ pháp ngôn ngữ của quan tộc, quá trình ấy gọi là quá trình đồng hóa ngôn ngữ.(Đồng nhất ngữ pháp đã phải hoàn thiện trong hàng ngàn năm để cuối cùng hoàn toàn theo ngữ pháp quan thoại.Thời kỳ đầu cú pháp Việt vẫn chiếm ưu thế. Bởi vậy người quan thoại ngày nay đọc cổ văn chữ Hán dù biết hết mặt chữ mà vẫn không thể dịch ý ra được, phải học qua đại học chuyên về dịch cổ văn thì mới dịch được,cũng như người Việt Nam ngày nay dù có giỏi ngoại ngữ là tiếng quan thoại cũng không dịch nổi cổ văn, phải học qua đại học Hán-Nôm thì mới dịch nổi cổ văn.Ví dụ câu cổ văn viết “thử điềm điềm giả” 此甜甜者 = thử điềm điềm dã” 此甜甜也, không ai hiểu nổi, nhưng rõ ràng nó là câu chữ nho ngữ pháp Việt: “nó ngọt ngọt là”). Từ “ Ho Ló” chính là “Kẻ Lòi” = “Kẻ Lửa” đã bị lịch sử Hán hóa làm lu mờ đi mà thôi.Ta so sánh từ vựng tiếng Ho Ló với từ vựng tiếng Đông Nam Á và tiếng Nam Đảo (Austronesian) thì thấy nhiều từ giống nhau, về thanh âm nó không phải là của tiếng Hán ( xem http://ws.twl.ncku.edu.tw/hak-chia/1/lou-e...ongpah-oat.htm), chứng tỏ nó không phải nguồn gốc Hoàng Hà, mà nó là nguồn gốc Nôm na. Ví dụ: Alnni = nì, nầy (Việt Nam) = ney (Thái) =ini (Mã Lai); dah, doh = đâu (Việt Nam); lut = lọt (Việt Nam) = lu-chut (Mã Lai) = lu-cut (Indonexia); vat, bat = biết (Việt Nam); za, cha = ta, choa (Việt Nam) = tau, cau (Philipin) = cau (Vân Kiều); za bou, cha po = cha bố (Việt Nam) v.v.Tiếng Mân Nam hình thành và tồn tại đến nay đã hai nghìn năm.
  13. KẺ LỬA Chữ “môn” mà người ta cứ giải thích là từ Hán Việt tức từ Việt gốc Hán thực ra nó 100% là từ Việt (về sau Quan Thoại dùng nó đọc là “mấn” là cái cửa,chính là một từ Hán gốc Việt). Hàng chục vạn năm về trước khi con người còn là người nguyên thủy nhưng hơn động vật là biết nói để giao tiếp thì những từ biết đến đầu tiên là chỉ các bộ phận trên cơ thể con người.Tiếng Việt trên “ mặt” có: “mắt”, “mi”, “mày”, “mũi”, “mồm” là những cái chui ra đầu tiên khi mẹ đẻ ra là thấy ngay vì đỡ ra là nó nằm ngửa. Cái “mồm” ấy ở con người vì biết nói “tiếng” có ý nghĩa để giao tiếp nên mới gọi là cái “miệng”, khác với con vật chỉ có mồm (ngày nay có người vẫn lầm lẫn nên vẫn viết là con vật có miệng, tưởng là dùng từ ấy cho nó sang hơn chứ không tục). Cái mồm ấy khi đem “món” ăn bón cho khi còn chưa mọc răng không nhai được,chỉ nuốt , nên gọi là “măm”, còn khi mở mồm “đưa” thức ăn từ trong ra qua mồm thì gọi là “mửa”, chính từ mửa này là tiền đề cho từ “cửa” có sau , khi con người đã biết làm nhà ở. Còn khi đang còn là người nguyên thủy chưa biết làm nhà ở thì cái cửa ấy người ta đã gọi là “môn”. Bởi vì mọi cái cửa đầu tiên mà con người ý thức được là nó ở trên cơ thể con người. Cái cửa đầu tiên có ở con người khi đang còn bào thai trong bụng mẹ là cái cửa duy nhất thông với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng gọi là cái “rốn”.Tiếp đến trên cơ thể thấy các cửa là: cái “nõn”( “nõ”-“lõ”-“linga” ,mà hình tượng nhất là cái “nõ” điếu cày); cái “nồn” ( “yôni”-“nường”-“lường” nên từ “lường gạt” là từ mắng thậm tệ chỉ dùng cho gái điếm thay cho “lừa gạt” nhẹ hơn, cặp sinh thực khí Âm/Dương mà người Việt thời cổ đại thờ là cặp Nõn/Nường hay Lõ/Lường cũng vậy); cái “trôn” (mà Quan Thoại gọi là “hậu môn”, một âm tiết phải dịch ra thành hai âm tiết), cái cửa trong của trôn gọi là cái “dom” vì phải vạch ra “nom” mới thấy. Người nguyên thủy vì ban đầu chưa biết làm nhà nên ở trong hang mà cái cửa hang là một lỗ nhìn vào tối “om om” hay tối “um” (mà về sau Hán ngữ phiên cái từ “đơn âm thành ý” là “um” ấy của tiếng Việt thành từ hai âm tiết bằng hai chữ “u minh”,chữ “u”烏 cũng nghĩa là tối đen, chữ “minh”冥 cũng nghĩa là tối đen) như hang dơi nhưng để con người có chỗ mà “chun” ra chun vô nên thoạt đầu họ gọi nó là cái “mun”,cũng thành từ để chỉ màu đen. Loại gỗ đen chỉ có ở rừng miền Trung Việt Nam là cây gỗ mun, mà ngày nay còn rất hiếm. Cư dân nông nghiệp của nền văn minh lúa nước yêu con mèo hơn con chó vì nó trị chuột , bảo vệ ngũ cốc, họ thích vuốt ve mèo,cho mèo ngủ chung trong chăn với người, còn chó thì chẳng mấy ai ôm và bị đuổi ra sân ngủ chứ đừng nói cho ngủ trên giường với người. Khác hẳn dân du mục đồng cỏ, họ ôm chó trong áo lông, cho chó ngủ chung giường vì nó là bạn chăn cừu và đi săn cùng họ. Con mèo đen gọi là mèo mun. Con chó đen gọi là chó mực cùng từ chữ mun mà ra (chữ “mực” ấy sau dùng chỉ mực là chất lỏng màu đen chế ra để viết trên giấy mà Quan Thoại gọi là “mặc thủy”. Cùng thời với Khổng Tử còn có ông Mặc Tử, cũng viết ra một cái giáo lý riêng của ông ấy gọi là “Mặc giáo”, cổ thư chữ Hán nói cũng chẳng biết ông ấy họ tên gì,sống độc thân ,đi lang thang, gọi là Mặc Tử vì ông ấy da đen trũi , tóc lại quăn -vậy thì ông ấy chính là người dòng Nam Đảo của Việt tộc chứ chẳng lẽ lại là người Hán?). Cái “mun” hỏm hòm hom là cửa hang của người nguyên thủy ấy sau viết chữ nho là chữ “môn”.Thời ở hang của con người thì mỗi hang là một dòng họ, phân biệt bằng cửa hang là “mun” nên gọi là “dòng mun” mà về sau chữ nho viết là “tông môn”, là cửa của một họ. Họ ấy là người một gốc, mà tiếng Choang gốc gọi là “thị”, chữ nho viết là thị氏 tức gốc đằng mẹ, vì chế độ mẫu hệ. Khi con người đã chuyển sang chế độ phụ hệ thì cái “gốc” ấy chữ nho viết là “tộc”族 , “thị” cũng là họ nhưng là họ theo mẹ, “tộc”族 cũng là họ nhưng là họ theo cha, “thị tộc”氏族 là từ chỉ cộng đồng người nguyên thủy, là một từ ghép theo đúng trật tự thời gian từ nào có trước đứng trước và từ nào có sau đứng sau, vì chế độ mẫu hệ là có trước, chế độ phụ hệ có sau. Khi con người biết làm nhà để ở thay cho ở hang thì cái cửa nhà là cái “đưa” con người chun ra chun vô nhưng nó sáng chứ không tối như cửa hang nên gọi là “cửa”. Thời ở hang là thời đại đồ đá cũ ,đến thời đại đồ đá mới kéo dài mấy chục ngàn năm, con người đã biết trồng trọt mà phương thức canh tác đầu tiên là chọc lỗ tra hạt trên đất khô. Hết thời ở hang, người Việt làm nhà sàn để ở. Nền văn minh lúa nước ra đời, và phát triển liên tục hàng chục ngàn năm,gắn bó đồng thời với văn minh nhà sàn và văn minh sông nước ở vùng nhiết đới nóng ẩm và gió mùa của Đông Nam Á. Nền kinh tế ấy cũng đồng thời sản sinh ra văn minh dịch lý để tính toán vũ trụ, thời tiết, nông lịch v.v. phục vụ cho chính nó.Nền văn minh ấy là vào khoảng 20.000 BC-17.000 BC, thời của vua Phục Hy. Người Việt được gọi là Mun ( “ngăm-ngăm”) bao gồm các nhánh Môn, Miên, Chăm, Lùm (Lào Lùm), Mường v. v.mà sử Hán gọi là “Man”, “Nam”, rồi từ ghép theo cú pháp Hán là “Nam Man”, (nếu theo cú pháp Việt thì phải đặt ngược lại là Man Nam) vì họ có nước da Nam Đảo-Nam Á ngăm đen chứ không trắng bằng người Hán là chủng Mogoloit. Theo phương dịch lý do mình sáng tạo ra , người Việt gọi mình là Kẻ Lửa (mà ngôn ngữ dịch lý thì gọi là Quẻ Ly, tượng là màu Đỏ, gọi theo ngũ hành là Hỏa) tức người ở phương nóng bức gần xích đạo. (Đồng bào miền núi phía bắc Việt Nam đến tận bây giờ vẫn gọi cái nhà sàn có bếp lửa đốt ở giữa nhà là “nhà quẻ Ly”, đó không phải là nói về cái kiểu nhà ,mà là do ký ức xa xưa nói đó là nhà của dân Kẻ Lửa).Từ KẺ đã có những biến âm trong tiếng Việt là KÒ (tiếng Thanh Hóa)=KÔ (tiếng Nhật Bản)=KU (tiếng Việt)=TU (tiếng Tày)=TỬ ( chữ nho子)=ZỬ (tiếng Quan thoại)=TÍ (chữ nho 子)=CON (tiếng Việt) đều có nghĩa là “con”. Từ KẺ ấy ban đầu viết bằng ký tự kẻ vạch là một kẻ dương (—) là kẻ có đầu tiên( hoa văn kẻ vạch chìm-hoa văn kỷ hà học- trên vỏ đồ gốm thời đại đồ đá mới tìm thấy ở nhiều nơi,kể cả ở Đài Loan và Nhật Bản, điển hình là ở di chỉ Hà Mẫu Độ ở Triết Giang Trung Quốc 7000 năm BC cùng di tích hạt lúa và rơm chất đống được các nhà khoa học Trung Quốcnhất trí nhận định là di tích văn hóa của dân tộc Bách Việt, là một trong những nét đặc trưng để nhận biết là văn hóa của người Bách Việt cổ đại. Hoa văn kẻ vạch ấy còn thấy trên trống đồng , và còn hiện hữu rực rỡ trên nền thổ cẩm của các dân tộc Mường, Dao, Hmông, Chăm,Tây Nguyên đến tận ngày nay. Trong nghề gốm sành ở Nghệ An, các động tác gia công là: kẻ, khắc, khía, khứa, khót-là nạo bên trong lòng vật gia công-mà dụng cụ chỉ là một sợi lạt cật.Trong chuyện cổ tíchVợ chồng An Tiêm (có thể là bà An ông Tiêm) lên thuyền trôi dạt ra đảo,trồng dưa hấu, kẻ khắc ký tự lên vỏ quả dưa gửi trôi theo biển về báo cho cha là Vua Hùng rằng họ còn yên lành và khấm khá, đó là cái đạo hiếu của người Việt, con không bao giờ trách cứ cha mẹ “con cái không chê cha mẹ khó, con chó không chê chủ nghèo”, hòn đảo ấy chắc là đảo Đài Loan, dân bản địa Đài Loan từ cổ gọi nơi họ ở nam Đài Loan là Tuan Uan (có thể là do chỗ của ông Tiêm bà An), mà thành từ “Thái Oan” tức Đài Loan bây giờ, còn chuyện thuyền đánh cá của ngư dân Việt từ miền trung Việt Nam bị bão trôi dạt vào Đài Loan thì đến bây giờ vẫn là cái “chuyện thường năm ở huyện”).Từ LỬA đã có những biến âm trong tiếng Việt là: LẢ (tiếng Bắc Trung Bộ)=LA=LI (trong dịch lý)=LIỆT (chữ nho烈, nghĩa là “rực”), để rồi LIỆT biến âm thành VIỆT, cũng như LANG đã biến âm thành VƯƠNG . Đến thời Xuân Thu Chiến quốc trong Hán thư mới có từ Bách Việt, trước đó người Hán vẫn gọi dân tộc ở phía nam của họ là Man , do từ Mun của người Việt, vì có nước da ngăm đen hơn họ. Đến thời Tam Quốc người Hán vẫn chưa vượt nổi sông Dương Tử nên quân Ngụy của Tào Tháo thua quân Ngô của Ngô Tôn Quyền khi đòi vượt sông.Trận thua “xất bất xang bang” đó sau sử gọi là trận Xích Bích tức húc phải bức tường lửa của dân Kẻ Lửa,chứ chẳng có địa danh nào bên sông Trường Giang gọi là Xích Bích cả. Biết bao làng quê, sông,núi của Việt Nam và cả những vùng đất bao la ở Giang Nam của Trung Quốc ngày nay đều có cái tên (địa danh) chỉ bằng một âm tiết theo đúng nguyên tắc ngôn ngữ Việt mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc nhận địnhnó là yếu tố đặc trưng của tiếng Bách Việt cổ, là “đơn âm thành ý” tức cứ phát ra một tiếng là có mang một ý nghĩa hoàn chỉnh, mà khi phiên ra tiếng Hán phải dùng hai chữ Hán. (Cũng vì nguyên lý này mà lỡ đánh một cái rắm thành tiếng thì người ngồi bên đã phê bình khéo là mày chê cái gì “ít”). Một nguyên tắc đặc trưng khác mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc thừa nhận ở tiếng Bách Việt cổ khác với tiếng Hán là cú pháp tiếng Việt “chính trước phụ sau,ở tiếng Hán thì phụ trước chính sau”.Các địa danh Việt chỉ có một âm tiết. Ở Việt Nam trước thời Bắc thuộc biết bao tên làng , tên sông là Lửa (làng Cầu Lửa tức Kẻ Lửa ở Nghệ An), là La (sông La ở Hà Tĩnh tức con sông của dân Kẻ Lửa), là Liệt ( làng Phương Liệt, tức vuông Liệt ở Hà Nội , là ruộng của dân Kẻ Lửa) . Đến như con sông Mịch La tận bên Giang Nam, nơi nhà thơ Khuất Nguyên trẫm mình là từ do Quan Thoại dùng từ “mi lúa” phiên âm từ “mẹ lửa” của tiếng Việt , là con sông mẹ của người Kẻ Lửa, cũng như người Thái gọi “mè Khoỏng” là “mẹ sông” mà thành tên Mê Kông. Đất nước của dân Kẻ Lửa ấy Hán thư phiên âm theo Quan Thoại là “Quẩy Sử” rồi viết đúng cú pháp Hán là “Sử Quẩy” tức nước “Xích Qủi”, “xích” là đỏ, lấy ý tương tự như “lửa” . Các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc rất tôn trọng đặc điểm đặt tên địa danh bằng một âm tiết ấy của lịch sử nên trong từ điển Hán ngữ đều có chú nguồn gốc xuất xứ của từ. Ví dụ một từ “điền” được giải nghĩa là ruộng, lại chú thêm “Điền” là địa danh gọi vùng Vân Nam thời cổ đại (đó là nước Điền Việt), do vậy đến khi nền văn minh nhân loại có vụ đăng ký biển số ô tô, cục quản lý xe chỉ việc lấy chữ đó làm mã số vùng, không như ta lấy hai con số đầu làm mã số vùng, nhìn qua đều chưa kịp giải mã xem nó là vùng nào. Ví dụ ở Trung Quốc nhìn biển số xe ô tô có chữ Việt粤 đầu biết ngay là xe Quảng Đông, nhìn chữ Quế桂 đầu biết ngay là xe Quảng Tây, nhìn chữ Điền田 đầu biết ngay là xe Vân Nam v.v, mà còn hiểu được cả lịch sử vùng đó xưa là đất Việt .Từ điển tiếng Việt của ta xuất bản thì không hề có chuyện đó. Ví dụ tra chữ “noi” được giải thích là theo gương, không có mục “Noi” là tên làng Việt cổ sát Hà Nội gọi là Kẻ Noi nằm bên bờ sông Noi, mà thời Bắc thuộc Kẻ Noi được phiên âm là Cổ Nhuế, sông Noi được phiên là Nhị Hà, mà dân thì vẫn quen “đơn âm thành nghĩa “ nên gọi là sông Nhuệ; “lừ” được giải thích là phụ từ của lừ đừ,không có mục “Lừ” là tên con lạch cổ ở Hà Nội đổ ra sông Noi, thời Bắc thuộc “lạch Lừ” được phiên âm kèm đổi sang cú pháp Hán nên ngược thành “Lừ lạch” viết là “Tô Lịch”( đoạn cuối sông ấy ở đồng ruộng nhà quê bây giờ nước ô nhiễm đặc quánh và đen ngòm, dân vẫn gọi là con sông Lừ, nó còn lừ đừ hơn là con lạch trong xanh chảy êm đềm vì giữa đồng bằng, mà ngày xưa gọi là con lạch Lừ. (Nhưng từ điển giải thích từ Hán-Việt thì nhiều lắm, nhan nhản đủ kích cỡ, dày mỏng, trong hiệu sách ngày nay). Đến như Thuận Hóa là kinh đô cuối cùng của thời “Hán học” mà dân vẫn chỉ gọi có một âm tiết là Huế, rồi bắt buộc quan hàn lâm phải theo mà thành tên Huế cho đến bây giờ, trở thành thân yêu với bao nhiêu đặc sắc văn hóa hàm chứa chỉ trong một tiếng “Huế” . Người Việt của dân tộc Bách Việt cổ đại đã đem nền văn minh lúa nước lấn-lướt (chữ nho “lăng liệt”凌烈) lên phía bắc bằng đường biển khai phá vùng Giang Nam rồi đồng bằng nam sông Hoàng hàng chục nghìn năm trước công nguyên. Từ khi người Mogoloit tràn xuống chiếm vùng đồng bằng Hoàng Hà là bắt đầu một sự hội nhập và đồng hóa mà dân tộc học gọi là quá trình “vàng hóa” chủng Nam Á- Nam Đảo da ngăm đen trên mảnh đất gọi là Trung Nguyên . Chủng Việt lui dần về nam sông Trường Giang, bảo lưu đặc sắc ngôn ngữ và văn hóa của mình, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc hình thành hàng loạt quốc gia Bách Việt hùng mạnh “ kéo dài từ Giao Chỉ đến Cối Kê hàng 7,8 ngàn dặm”, một trong số đó là Việt Quốc của Câu Tiễn tồn tại 160 năm với 8 đời vua, sau bị Tần diệt.Từ thời Tần Hán mới bắt đầu quá trình Hán hóalần thứ hai, diễn ra ở Giang Nam mà trước tiên là quá trình đồng hóa ngôn ngữ. Đến thời Hán Vũ Đế thì Bách Việt hoàn toàn bị xóa sổ. Những trung tâm chính trị của dân tộc Bách Việt đều bị Hán Vũ đế chinh phục, đổi thành quận huyện của triều Hán.Từ đó về sau cái tên Bách Việt không còn thấy ghi trong sách sử nữa, cái tên dân tộc Việt cũng bị lãng quên trên đất Trung Hoa, chỉ còn dân tộc Việt Nam hậu duệ đích tôn của dân tộc Việt là còn tồn tại như một dân tộc độc lập với ngôn ngữ Việt nguyên vẹn là Nôm na.Tuy rằng ngày nay không còn tìm đâu ra cái tên gọi là dân tộc Bách Việt hay nhóm dân tộc Việt nhưng văn hóa Bách Việt trên thực tế thấu qua muôn ngàn phương thức lưu lại muôn ngàn dấu tích trong văn hóa các dân tộc khác nhau. Đó là những đặc điểm văn hóa mà các nhà khoa học Trung Quốc thừa nhận là đặc điểm riêng để nhận biết cùng nguồn gốc: Gốm hoa văn kẻ vạch chìm đặc trưng của dân tộc này từ thời đồ đá mới; thờ rồng, tự coi mình là cháu con của rồng; tập tục xăm mình; cuộc sống làng gần nước; tập quán nhai trầu và nhuộm răng đen; khí cụ đồng thau tinh xảo, nhất là trống đồng, kiếm đồng,chuông đồng lớn; trồng lúa nước,vấn khăn xếp, bói chân gà, khắc cánh tay kết bạn, ăn nhiều ốc hến hải sản, ở nhà sàn (mà Hán ngữ phải phiên âm “sàn” bằng hai chữ “can lan”干欄), giỏi dùng thuyền và giỏi thủy chiến, thích chọi gà v.v. Mặt khác ngôn ngữ Bách Việt cổ còn đậm dấu ấn trong tiếng nói của hậu duệ người Mân Việt (Phúc Kiến), mà ở Đài Loan vẫn dùng, gọi là tiếng Hà Lạc, mặc dù ở Đài Loan và Phúc Kiến chẳng có địa danh nào gọi là Hà Lạc cả (Quan Thoại phiên âm là “ hứa lua”, nghe còn phảng phất âm “kẻ lửa” ,còn theo chữ dùng ghi âm đó là chữ河洛thì chỉ còn có thể nhận được ở bộ thủy có ở cả hai chữ, để hiểu rằng đó là chỉ thứ tiếng của dân sông nước, đó chính là tiếng của dân văn minh lúa nước, dân Kẻ Lửa) và tiếng Việt粤 của dân Quảng Đông . Sự gần gũi để còn nhận thấy là : ở cách phát âm, ở cú pháp ghép cụm từ là cú pháp Việt trong khẩu ngữ nhất là ở những từ gốc (Ví dụ:曆日(lịch nhật)=lịch ngày, 風颱(phong đài)=bão (quan thoại là đài phong), 人客(nhân khách)=người khách, quan thoại là khách nhân, 鬧熱(náo nhiệt), quan thoại là nhiệt náo, 雞母(kê mẫu)=gà mái, quan thoại là mẫu kê, 雞公(kê công)=gà trống, quan thoại là công kê v.v.); Ở bổ động từ, ví dụ: 看現現(khán hiện hiện=rõ mồn một)、行透透(hành thấu thấu=đi thông thống);食食去(thực thực khứ=ăn ăn đi)、摃走走去(tẩu tẩu khứ=chạy chạy đi) Và ở từ láy , mà ở Kinh Thi gặp rất nhiều, nhưng ghi bằng hai chữ Hán giống nhau nên không rõ được thanh điệu của hai tiếng láy ấy phải là một Âm một Dương như khẩu ngữ nói, ở tiếng Hà Lạc còn có láy ba, ví dụ:甜甜甜(điền điền điền=Ngót ngòn ngọt), 烏烏烏 (u u u= hỏm hòm hom)、鹹鹹鹹 (hàm hàm hàm=Mắn mằn mặn),花花花 (hoa hoa hoa=Hỏe hòe hoe)v .v. Đó là những đặc điểm cực giống tiếng Việt mà ở tiếng Hán không hề có. Về từ láy thì tiếng Việt phong phú vô cùng, láy hai, láy ba, láy bốn, láy xuôi, láy ngược, láy lặp đi lặp lại, mà gốc cơ bản của nó là sự tách đôi một âm tiết trong cái bầu biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt như sự tách đôi tự sinh sản của tế bào, cho ra một từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược. Để thư dãn cuối bài viết ,xin tặng bạn đọc bài thơ khuyết danh: Tai nghe gà gáy te te Ánh dương vừa rọi sân hè chói chang Chập chùng mây núi chon von Hoa năm sắc nở tươi non lập lòe Chim tình bầu bạn tỉ tê Ong chăm nuôi chúa lượm về phấn hoa Lợi danh mặc kệ người ta Mình đây nướng giấc đẫy đà khỏe re. Để thấy rằng đổi qua dùng từ láy ba ,nó sẽ có hẳn một mùi vị khác thật dí dỏm: Tai nghe gà gáy tẻ tè te Bóng ác vừa lên hé hẻ hè Núi một chồng cao von vón vót Hoa năm sắc nở lóe lòe loe. Chim,tình bầu bạn kia kìa kỉa, Ong,nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè Danh lợi mặc người ti tí tỉ. Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe. ( Khi đã dùng đến từ láy của tiếng Việt thì các ngôn ngữ khác khó mà dịch cho ra nổi cái mùi vị của của câu văn và cái cảm xúc của người đọc)
  14. Ngôn ngữ Bách Việt là Nôm na Các nhà khoa học Trung Quốc khi nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc Bách Việt đã nhận định rằng Bách Việt ngữ là ngôn ngữ dính黏著語 (chứ không phải ngôn ngữ chắp dính), nó là “đơn âm thành nghĩa” tức nói ra một tiếng là mang một nghĩa rõ ràng, không giống như Hán Ngữ (Hán ngữ thường là hai âm tiết ghép với nhau mới cho ra một nghĩa), về Bách Việt ngữ cổ , khi dịch một âm tiết Việt thành Hán ngữ thường phải dịch thành hai chữ Hán. Nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc chỉ rõ, sau khi dân tộc Bách Việt đã bị Hán hóa, rất nhiều từ chữ mà họ đã từng sử dụng còn lưu lại nguyên dạng trong từ vựng của không ít ngôn ngữ các dân tộc hiện nay, ví dụ trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số hệ ngữ Choang-Đồng và Miêu-Dao ở TQ, mà vẫn thường được gọi là “phương ngữ miền nam của Hán ngữ”.Thậm chí từ gốc của Bách Việt còn thấy trong ngôn ngữ các dân tộc ở Indonexia, Malaixia, Haiti, Niudilân và các dân tộc Nam Đảo. Ví dụ từ Việt “nhền nhện (nguyên gốc là nền nện”, cũng như “nớn” sau đọc mềm đi là “nhớn”) thì tiếng thổ dân Niudilân là “na nai”, tiếng thổ dân Haiti là “nana nana”, tiếng Khách Gia ở Đài Loan là “la kia”, tiếng Malai-Indonexia là “lawa lawa”; từ Việt “mau lên” tiếng thổ dân Madagatca là “gao len”. Tiếng Nhật Bản cũng có rất nhiều từ là từ ngôn ngữ Nam Đảo. Sở dĩ tiếng Việt chỉ còn là “đơn âm thành nghĩa” vì người Việt đã VO tròn mọi từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính Nam Á trong cái “nôi khái niệm” là cái “hình cầu biểu tượng Âm Dương” của người Lạc Việt, như một cái VÒ là cái VỎ chứa đựng mọi khái niệm cũng như VŨ là bầu không gian của vũ trụ chứa đựng tất cả, để nó bị VÒ rụng mất đầu và đuôi còn lại trọi một âm tiết lõi. Bởi vậy từ vựng tiếng Việt chủ yếu là từ đơn âm tiết và từ láy có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược (nó là do từ một âm tiết sinh ra khi đang tự tách đôi thành hai nửa Âm Dương còn dính nhau trong nôi khái niệm và đang lớn dần lên để biến hình và tách rời hẳn khi nở ra khỏi nôi). Ví dụ khái niệm “đưa một phần tử rời cái tổng thể mà nó vốn gắn bó” tiếng Việt chỉ diễn tả bằng một “tiếng” là “KHỎI”. Từ KHỎI nầy rõ ràng là xuất hiện từ một cái tổng thể là KHỐI, một khối là một tổng thể. Từ KHỐI ở trong nôi khái niệm nó tự tách đôi thành KHÍT-KHAO còn dính nhau, trong nôi ấy “khít” đang trưởng thành dần về phía Âm hơn tức phía ít để rồi nở ra thành KHÉP, “khao” đang trưởng thành về phía Dương hơn là “lao” tức “lào” tức “lão” tức “lãnh” cho đến lớn, như “lồ” của khổng lồ, để rồi nở ra thành KHỎI. Cái nôi ấy là KHÉP…KHÍT-KHAO…KHỎI, đi từ “khép” đến “khỏi” là đi từ “ tĩnh” đến “động”, từ “kín mít” đến “tự do”. Từ KHỎI đã dẫn đến hàng trăm từ đơn âm tiết trong tiếng Việt mà chỉ cần phát âm một tiếng là đủ thấy ý “rời cái tổng thể” , để dùng trong các sắc thái khái niệm khác nhau. Nhưng trong tiếng Hán thì cái từ Việt một âm tiết ấy phải dịch thành một chữ Hán kèm với từ “khai” nữa là hai chữ Hán.Ví dụ tiếng Việt nói “lìa” tiếng Hán phải dịch là “ly khai”, tiếng Việt nói “rụng” tiếng Hán phải dịch là “lạc khai”…Nhưng từ “khai” mới chỉ là một phần khái niệm nhỏ của “khỏi” mà thôi, chỉ khi nào con người đạt đến trạng thái “khỏi” thật sự tức tự do hoàn toàn thì mới phát hiện được tiềm năng của chính mình như Lão Tử từng nói.Cái chuỗi các từ mà từ KHỎI dẫn đến trong tiếng Việt mới chỉ đếm qua loa đã là như sau: KHỎI-khơi-cơi-cời-dời-di-đi-chi-chọi-chói-rọi-cởi-xới-bới-tưới-rưới-rời-sôi-lôi-lái-moi- mổ-sổ-bỏ-trổ-nổ-nở-nã-né-xé-bẻ-rẽ-vẽ-vỡ-rỡ-dỡ-giơ-đổ-xả-ngả-thả-phá-ra-rải-vãi-bày-lấy-lẩy-bẩy-chạy-nhảy-bay-bứng-vung-rụng-tung-bong-tâng-tách-tan-dâng-nâng-tranh-tránh-lánh-lãnh-lĩnh-lỉnh-lan-tràn-đẵn-cắt-chặt-xắt-cất-nhấc-bốc-bóc-móc-róc-dốc-dứt-đứt-rút-tụt-tút-tát-vớt-rắc-lắc-vứt-viết-chiết-vuốt-vuột-bước-tuột-lột-lọc-lọt-rót-rây-sẩy-nẩy-nảy-xảy-sảy-sàng-văng-vần-luồn-tuồn-khuân-chuồn-chuyền-chuyển-chém-ném-nới-tời-xoi-KHỎI. Đủ thấy có độc lập(KHỐI) và có tự do (KHỎI) sẽ đẻ ra tất cả. Độc lập có trước cũng như vũ trụ là MỘT có trước, mới có tự do có sau. Nhưng tiếng Việt cũng có từ hai âm tiết.Ví dụ hai từ hoàn toàn đồng nghĩa với nhau đi ghép với nhau như là một từ hai âm tiết là để chỉ ý nhiều cái cùng chủng loại, như “đồng ruộng” thì “đồng”= “ruộng”= “vuông” là cái diện tích đất nhưng “đồng ruộng” có ý là nhiều diện tích đất, hay “gà qué” thì “gà” là của người Việt nói, “qué” tức “cáy” là của người Tày hay người Hoa nói cùng một con cả nhưng “gà qué” ý là nhiều loại gà, hay “chó má” thì “chó” là của người Việt nói, “má” là của người Tày hay người Lào nói cùng một con cả nhưng “chó má” ý là nhiều loại chó.Trong cách ghép ấy thì qui luật là cứ từ nào có sử dụng trong tiếng Việt trước thì được xếp đứng trước cũng như qui luật bất di bất dịch là chính trước phụ sau. Những kết cấu khác ghép hai hay ba âm tiết thì nó là cụm từ chứ không phải một từ.Ví dụ cụm từ “cu tí” là “con trai”, là do “kẻ”= “cò”= “KÔ”= “con”=“cu”= “tu”= “tí”= “tử”= “ZỬ ” mà chữ nho viết là 子nghĩa là một phần tử, cũng đồng thời mang ý là con trai. Trong các cách phát âm trên của một từ thì “KÔ” là của tiếng Nhật (kodomo là con trai), “tu” là của tiếng Tày (“tu má” là con chó,kết cấu cú pháp chính trước phụ sau), “ZỬ ” là của tiếng Quan Thoại ( “cẩu zử” là con chó, kết cấu cú pháp phụ trước chính sau),còn lại đều là của tiếng Việt.Vậy trong các từ đồng nghĩa ấy cái nào có trước tiên? Rõ ràng là từ “kẻ” có trước tiên vì nó nằm trong biểu ý của chữ nho 子 là một cái KẺ vạch ngang (—) là phần tử Dương, là cái có đầu tiên trong vũ trụ và cái kẻ vạch biểu trưng cho Dương ấy là nét ký tự đầu tiên của người Lạc Việt, còn cái nét 了đó là chữ “rồi” tức “rồi đời” tức “liễu” là kết liễu, kết thúc cuộc đời. Chữ 子 (đọc là “tử” ) biểu ý cho KẺ hay CON thì kẻ nào cũng vậy, con nào cũng vậy, dù là con vật hay con người đều hiện diện từ bắt đầu( — ) cho đến kết thúc(了 )sự tồn tại của nó.Cái âm tiết là “tử” mang lại cái biểu âm cho chữ TỰ mà chữ nho viết là 字 (tức宀 là hình + âm là子 = biểu ý) nghĩa là con (người) ở dưới mái nhà ( mà bộ “miên” 宀 tức từ “mái” nhà của tiếng Việt, tiếng Hán mái nhà gọi là “kai” tức “cài” hay “đậy” là cái nắp úp như lều vải bạt của dân du mục đồng cỏ-kiến trúc nóc bầu tròn như Thiên Đàn ở Bắc Kinh hay các tháp ở Matcơva của Nga là ảnh hưởng văn hóa kiến trúc của dân Tácta Mông Cổ, người Nga là dân Slavơ đã có pha trộn với Tácta, dù dân số đông gấp nhiều lần dân các nước Slavơ khác, người Nga vẫn công nhận mẫu tự Slavơ là do người Slavơ cổ ở Bungari sáng tạo ra, người Bungari là dân Slavơ cổ sau đã có pha trộn với Thổ Nhĩ Kỳ).Con người đã biết làm nhà để ở tức đã văn minh rồi nên mới có chữ. Cũng bởi cái qui luật cụm từ ghép trong tiếng Việt là cái từ có trước đứng trước, cái từ có sau đứng sau nên tôi mới nghi ngờ cụm từ “ông Nam Tào Bắc Đẩu”, rồi “ông Nam Tào” , “sổ Nam Tào” chứ chưa từng nghe thấy từ “ông Bắc Đẩu”, nên mới nêu ra đây để nhờ Thầy Thiên Sứ giải thích giùm. Nghe đến mấy từ ấy ai cũng thấy rờn rợn kính sợ, đúng như “đại uy nỗ” trong tranh ngũ hổ Hàng Trống.Ví dụ nghe bị vào sổ Nam Tào tức hiểu là đã bị vào sổ đen của thần chết. Rồi nghe nói là phải “cúng ông Nam Tào Bắc Đẩu”.Vậy Nam Tào Bắc Đẩu là một ông hay hai ông? hay là Nam Tào=Bắc Đẩu?Tra trong tử điển tiếng Việt thì không thấy có mấy từ đó. Từ điển tiếng Việt (nxb KHXH 1977) có giải thích từ “bắc đẩu” là “chòm sao về phương Bắc,trông như một cái gàu sòng lớn”, từ “nam tào” là “tên một vì sao về phương Nam”, không có từ “ông Nam Tào” và cũng không có từ “ông Nam Tào Bắc Đẩu”.Từ điển Hán Việt (nxb KHXH) có chữ Bắc Đẩu tinh北斗星 là “sao Bắc Đẩu” và chữ Nam Đẩu Tinh南斗星 là “sao Nam Đẩu”. Từ điển bách khoa Việt Nam (nxb từ điển bách khoa Hà Nội 2003) có từ “bắc đẩu” chứ không có từ “nam tào”, và cũng không có từ “ông Nam Tào” hay “ông Nam Tào Bắc Đẩu”. Không biết trong thiên văn học có vì sao “Nam Đẩu” không?mà trong máy tính thì có chữ “bắc đẩu tinh”北斗星, có chữ “nam đẩu”南斗 chứ lại không có chữ “nam đẩu tinh”南斗星, đó là cái mà tôi cần hỏi. Vì “nam tào”= “nam đẩu” thì rõ ràng rồi, đó là do phát âm mà thôi, chữ thì chỉ là một南斗.Còn cái “Ông Nam Tào Bắc Đẩu” như dân gian nói nếu chỉ là một ông là “chòm sao Bắc Đẩu” mà họ thờ một cách kính sợ trong tranh ngũ hổ thì tức là “Nam Tào”= “Bắc Đẩu”, chẳng qua là tên gọi có trước ghép cùng tên gọi có sau mà thôi. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng là thuở xưa người ta dùng la bàn gọi là cái “Kim chỉ Nam” để tìm ra hướng “Nam Tào” là hướng của dịch lý chỉ hướng bắc cực, cái tên Nam sau bị con người đổi cách gọi là Bắc chăng ?chứ trục trái đất thì vẫn thế?
  15. Hùng Vương thứ 12- Hùng Chiêu Vương Các nhà khoa học nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa nhận định rằng nền văn minh Lạc Việt của dân tộc Bách Việt cổ đại mà đặc trưng là văn hóa lúa nước,văn hóa trống đồng,văn hóa hình kẻ vạch,văn hóa mẹ rồng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn minh Trung Hoa và văn minh thế giới. Biểu trưng của Lạc Việt quốc cổ đại là trống đồng. Người Lạc Việt cổ đại thờ mặt trời, rồng, chim lạc; sống gần nước, thích bơi chải và có mộ hình thuyền. Lạc Việt cổ quốc thần bí lưu lại vô số vấn đề hóc búa mà đến nay vẫn chưa lý giải được, trong đó có vấn đề đất tổ của người Lạc Việt và kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc là ở đâu?Những trang sáng lạn của nền văn minh ấy do mưa gió lịch sử và những nguyên nhân con người đã làm cho bị phá vụn,trở nên khó tìm kiếm ký ức xa xưa.Đó là một điều đáng tiếc lớn. Nhưng một dân tộc mất đi ký ức lịch sử thì khó mà cấu thành hiện tại và càng khó nắm định được tương lai. Bởi vậy mà việc tìm hiểu những ký ức lịch sử đã bị mất đi là một tình tiết văn hóa mà một dân tộc không bao giờ tránh né. Do vậy mà từ năm 1974 đến 2007 các nhà khoa học Trung Quốc đã chú trọng khảo sát nghiên cứu lịch sử dân tộc Bách Việt. Ở Quảng Tây đặc biệt chú trọng vùng dân tộc Choang (dân số 17 triệu người, nhóm ngữ Choang-Đồng, tộc ngữ Tày-Thái ) là hậu duệ của người Lạc Việt mà tiền dân của họ đã khai sáng văn minh vùng lưu vực sông Chu Giang (thời nhà Thanh đổi là sông Tây Giang).Trong những vùng có phát hiện trống đồng và khí cụ đồng thau ở Đông Nam Á thì Quảng Tây và Việt Nam là có nhiều nhất, là những nơi có khả năng có kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc. Nhưng cũng có sách như “Dật Chu thư. Vương Hội giải” phân tích: Lạc Việt thời Thương Chu là một quốc gia nên đất tổ cư của họ phải là nơi có nhiều đồ đồng thau niên đại Thương Chu. Qúi Huyện ở Quảng Tây và Hà Nội ở Việt Nam chỉ khai quật được đồ đồng thau niên đại từ Tam Quốc đến Hán,ít có đồ niên đại Thương Chu do vậy hai nơi này không thể là kinh đô sớm nhất của Lạc Việt quốc. Ngày 11 tháng 3 năm 2007 các nhà khoa học Trung Quốc phát hiện được lượng lớn cổ vật văn hóa Lạc Việt ở sườn tây nam núi Đại Minh Sơn大鳴山 huyện Vũ Minh武鳴縣 tỉnh Quảng Tây (đây là vùng tây nam Quảng Tây là vùng gọi là đất Bá 岜trong “Sử thuyết họ Hùng” của Nhật Nguyên ,là quốc gia Lạc Việt 駱越thời Hùng Vương 雄王thứ 12, gọi là Hùng Chiêu 雄召. Chữ Ba岜 nguyên nghĩa tiếng Choang là núi đá. Đất Ba là đất xưa vua Trụ nhà Ân Thương ban cho ông Tây Bá-Cơ Xương tổ nhà Chu bao gồm Qúy Châu và bắc Quảng Tây). Về địa hình,huyện Vũ Minh là một thung lũng bắc giáp núi Đại Minh Sơn,nơi đó có mỏ đồng trữ lượng lớn bằng 1/3 tổng trữ lượng các mỏ đồng ở Quảng Tây.Nơi đây còn phát hiện được những tảng đá có khắc chữ hình rắn. Dân cư có tập tục thờ mẹ rồng từ thời Thương Chu. Văn hóa thờ Long Mẫu là văn hóa tông giáo của Lạc Việt quốc cổ đại. Những di tích đền thờ Long Mẫu ở Đại Minh Sơn có rất nhiều. Để xác định nơi đây có từng là kinh đô Lạc Việt quốc cổ đại hay không, các nhà khoa học đã khảo sát các mặt như sau: Tìm trong chuyện truyền thuyết và ký ức ngôn từ để xác định các địa danh Lạc Việt. Vùng này có thôn Bản Lục, tiếng Choang là Bản Ô nghĩa là xóm đen ( “Ô” 烏Việt sử đọc biến âm là “ Âu” 鷗). Ở đây có miếu thờ Long Mẫu龍母 cúng ngày 1đến 13 tháng 3 âm lịch, xưa kia miếu có 200 mẫu ruộng hương hỏa ,cho thanh niên trong bản 4 năm một lần rút thăm để giành được vinh dự cày cấy.Thôn Lục Tà, tiếng Choang đọc là luegver nghĩa là Lạc Việt. Thôn Mã Đầu,không có nghĩa là đầu núi Mã Sơn như chữ Hán viết馬頭mà là mã đầu (bến cảng)碼頭 ,người Choang vẫn gọi nó là thôn Cổ Lỗ 古魯theo tiếng Choang nghĩa là nơi thuyền đậu ( “Cổ Lỗ” âm Việt là “Cọc Neo”),thôn này cũng có miếu thờ Long Mẫu.Thôn La Bà 罗婆,theo âm nghĩa là “bà lớn” cũng có miếu thờ Long Mẫu. Trên núi Đại Minh Sơn có miếu Đại Minh Sơn thờ Long Mẫu. Tên các con sông vùng này đều gắn ký ức với Lạc, mà các văn nhân xưa ở huyện Vũ Minh đều giải thích rằng “ Lạc” nghĩa là “nước” (Lạc Việt tức là Nác Việt, Nước Việt, mà quan thoại gọi là Lạc Việt quốc). Đời Thanh có văn nhân Hoàng Quân Cụ viết “Vũ Duyên huyện đồ kinh” có nói: “Nước ở huyện Vũ Duyên có ba dòng lớn là Nam Lưu,Đạt Mông,Đại Lãm”. Nam Lưu còn gọi là Hà Lự,viết là Khả Lự,Vị Long,Vũ Ly đều là do âm “Việt Lạc” mà ra (có nghĩa là dòng nác của người Việt). Sông Đông Giang ở Vũ Minh do ba sông Đạt Á Hà, Cổ Lỗ Hà, Ân Long Hà hợp thành.Bên sông Đông Giang có thôn Lục Lâm陸林 mà người Choang giải thích nghĩa theo âm tiếng Choang là khởi nguồn của nước (vậy thì “Lục Lâm” chính là phiên âm của “nóc nặm” nghĩa là đầu nguồn nước). Người Lạc Việt thân thiết với nước. Thời Hán văn nhân Lưu An viết: “Người dân làm việc dưới nước nên họ xăm mình cho giống như thuồng luồng để tiện đi thuyền hay bơi lội khỏi bị hại”.Người Lạc Việt ở lưu vực Vũ Minh cũng vậy. Thời Thương Chu họ chôn người chết trong mộ hình thuyền,còn tìm thấy ở dốc Ngọc Long nơi có bến Cổ Lỗ.Ở đây còn có đền thờ Long Mẫu mà tiếng Choang gọi là miếu Hắc Đạt ( “Hắc Đạt” chính là âm “nác cập” của tiếng Việt ). Như vậy vùng này xưa kia phải là vùng sông nước mênh mang, thuyền bè tấp nập. Nhưng nay thì nó là vùng bình địa, chỉ có từ lâu rồi người dân vẫn đào cát để bán cho các chủ vựa,đào mãi liên miên lộ ra một dòng sông cát dài từ huyện lỵ Vũ Minh đến tận thị trấn La Bà, lòng sông cát rộng đến gấp 4 lần chiều rộng con sông đã đổi dòng đang còn chảy bây giờ, như là một đại công trường khai thác vật liệu xây dựng vậy. Núi Đại Minh Sơn là tên đặt ra về sau, còn người Choang vẫn nhớ và gọi tên cũ là Ba Thị岜是, nghĩa tiếng Choang là núi gốc (cú pháp Nam Á như tiếng Việt,Thái,Khơ Me). Chữ Ba tiếng Choang nghĩa là núi đá (như Pha, Phia, Pra của tiếng Tày-Thái. Ba 岜này chính là đất Bá 岜trong “Sử thuyết họ Hùng” nói tới). Chữ Thị nghĩa tiếng Choang là gốc (âm tiết “thị” trong tiếng Việt là “phải” là “chợ”, lại có quả “thị” trong chuyện Tấm Cám, không biết có phải do nhớ gốc không mà người Việt mở mang đồng bằng sông Mê Kông đặt tên rất nhiều chợ gọi là “chợ cây thị” mặc dù ở đó chẳng trồng được cây thị có quả.Còn chữ “ thị” thì trong tiếng Việt nó cũng nghĩa là gốc nhưng là gốc đằng mẹ, còn từ “ gốc” nghĩa là gốc đằng cha, “gốc” dẫn đến “trốc” là cái đầu bên trong có “óc” vì nó đã bóc rụng hết các râu ria bên ngoài, từ “trốc” ấy người Thăng Long gọi là “chốc” nghĩa là trên hết - “tôi đặt bát nhang lên chốc bàn thờ” -“chốc” ấy là gốc các từ chủ,chu,chúa ,châu, chiêu, tạo,triệu,triều đều mang nghĩa thủ lĩnh cả .Từ “thị gốc” đã biến thành chữ “thị tộc” 氏族là gốc cả hai đằng mẹ và cha. Người Việt nói “vợ chồng nhà ấy thì ông ta là người đằng Dương tộc-họ Dương,bà ấy người bên Âu thị-họ Âu ”,chẳng ai nói bà ấy người đằng Âu tộc cả, bởi vậy đàn bà Việt có tên lót là chữ “thị”氏, còn nhà thờ họ thì người ta viết là nhà thờ Nguyễn tộc,nhà thờ Lê tộc… chứ không dùng chữ thị vì đã là phụ hệ).Trên núi Ba Thị ở đỉnh Long Đầu có thôn Lộc Khẩu có đền thờ Lạc Việt Vương gọi là Đại Minh Sơn miếu, cũng gọi là Chiêu Vương miếu召王庙 ( Hùng Chiêu trong “Sử thuyết họ Hùng”). Tương truyền trong khu miếu có giếng trời mọc một cây khoai sọ (sọ nghĩa là thủ là cái đầu tiên),đẻ ra 99 cây con.Người Lạc VIệt từ đây tỏa đi bốn phương đều mang theo một cây khoai sọ trồng và ở đó lại dựng một miếu thờ Long Mẫu,ở Quảng Tây (đất Bá) có 99 miếu tất cả (khoai sọ còn gọi là khoai môn, có phải là thành ra 99 tông môn?).Miếu này cúng ngày 3 tháng 3 âm lịch. Miếu đã bị phá từ xưa, lụi tàn dưới cỏ dại, chỉ cong vương vất vài cái cối đá niên đại nhà Đường. Cổ thư chữ Hán có nói Ô điền còn gọi là Lạc điền, có thuyết nói đó là ruộng gần hang núi, có thuyết nói đó là ruộng canh tác theo thủy triều lên xuống. Ở đây người Choang giải thích khác: Ngày xưa gặp lũ lụt lớn, đồng ruộng ở đồng bằng sông Uất Giang của người Choang bị nhấn chìm hết, tổ tiên họ phải chạy lên núi Đại Minh Sơn lúc đó còn đầy rừng rậm âm u, không có ruộng mà làm.Tiếng chim Lộ Ô鹭烏 (một giống chim nước lông đen dẫn họ tìm ra được ven suối nên lại có thể làm ruộng nước, vì vậy người Choang sùng bái loài chim nước (chim nác-chim Lạc) nên khắc chim Lạc lên trống đồng, còn ruộng nước của họ gọi là Ô điền烏田. Ở đây từ thôn Tứ Minh thị trấn Mã Đầu huyện Vũ Minh đi thôn Minh Lượng huyện Thượng Lâm có một con đường cổ xếp bằng bậc đá, còn 400 bậc rộng 4 mét,phía đông con đương có một ngọn núi cao 949 mét, tiếng Choang gọi là Ba Bồ nghĩa là núi tổ mẫu. Đường này bắc thẳng đến Liễu Châu, Quế Lâm, nam thông đến Vũ Minh, Nam Ninh, trước thời Minh Thanh là con đường giao thông huyết mạch. Gần thị trấn Lưỡng Giang huyện Vũ Minh có một hang đá vôi gọi là Tổ Công Động, tiếng Choang là Cảm Đạt Công, hang này cũng gọi là miếu Tổ Công, thực ra là thờ Quyết Vĩ Long掘尾龍, mẹ nuôi của Quyết Vĩ Long là Tổ Mẫu, tiếng Choang gọi là Á Bồ婭浦 ( tức “u phò” là mẹ của bố ). Ở thôn Lý Dân thị trấn Cổ Linh huyện Mã Sơn cũng có miếu thờ Long Mẫu có bia gọi là thần Long Mẫu hay Cao Tổ. Những địa danh khác có miếu thờ Long Mẫu đều có tên gốc gác Lạc Việt như Lâm Bồ tiếng Choang nghĩa là sông mẹ (cũng nghe được ra đó là “nặm Phò”, A Động nghĩa là Tổ Mẫu động ( “động A” là âm “hang U”), nay là huyện lỵ Vũ Minh. La Bà Đàm là đầm Đại Tổ Mẫu (“La Bà” nghĩa là “bà lớn”,”bà lên” tức “bà trên” là mẹ của bà nên gọi là Đại Tổ Mẫu),đầm sâu 46 mét ,bên đầm là thị trấn La Bà.Dòng Lâm Bồ chảy từ bắc núi Ba Thị nhập vào Thanh Thủy Hà ở huyện Tân Dương ,thời Tam Quốc nước Ngô đổi tên là huyện Lĩnh Phương,thời Hán thành huyện Lâm Bồ. Lâm Bồ giang thời cổ là thủy đạo quan trọng nối huyện Tân Dương và Thượng Lâm,sông này nay có hồ chứa nước gọi là hồ Long Mẫu.Trong thôn Lâm Bồ còn giếng núi và miếu Sơn Tỉnh (tức giếng núi) thờ Đế Mẫu帝母 mà người Choang hiểu là thờ “mẹ bản địa” (chữ Đế Mẫu là phiên âm,đúng cú pháp phải là Mẫu Đế là âm của từ “mẹ đẻ”,người Choang giải thích là mẹ bản địa chứ không phải giải thích theo chữ Đế Mẫu là mẹ của vua, “mẹ đẻ” thì chắc là thờ bà Âu Cơ). Trống đồng là biểu trưng văn vật của Lạc Việt quốc. “Hậu Hán thư-.Mã Viện truyện”viết: “Viện hiếu kỵ,thiện biệt danh mã,ư Giao Chỉ đắc Lạc Việt đồng cổ,nãi thọ vi mà thức,hoàn ,thượng chi”.Nhưng trống đồng Lạc Việt mà Mã Viện tịch thu đem đúc ngựa cưỡi chơi lúc ấy là trống đồng Lạc Việt thời nào thì không nói,ta chỉ có thể phán đoán đó không phải là những trống đồng niên đại sớm nhất của Lạc Việt.Những trống đồng khai quật được ở Quảng Tây đều là những trống đồng niên đại Tùy hoặc Nam Triều.Lạc Việt quốc diệt vong vào thời thịnh của Hấn Vũ Đế,theo niên đại đó mà đoán thì trống đồng ở Quảng Tây (tìm được tất cả là 600 cái) chỉ là đúc vào thời kỳ muộn của Lạc Việt quốc (đúng thế, bởi vì thời đất Bá là thời Hùng Vương thứ 12 theo “Sử thuyết họ Hùng”).Vậy Lạc Việt quốc thời sớm nhất là ở đâu?Ba cái đặc trưng nhất để nhận biết là trống đồng Lạc Việt là mặt trời ở tâm,vòng chim Lạc đang bay,vòng người hoạt động và thuyền,ba cái đó là quốc trưng của Lạc Việt quốc cổ đại .Ba đặc trưng này trên trống đồng Quảng Tây đều có.Vùng núi Ba Thị còn có truyền thuyết “Ma Lặc du thiên biên” kể rằng năm đó mặt trời chìm mất, toàn cõi tối tăm không cấy trồng gì được,một mẹ chửa quyết đi về phương đông tìm mặt trời.Đi đường đẻ con ra lại bồng con đi tiếp.Hai mẹ con đem trống đồng gõ gọi trời mọc trở lại…Năm 1974 ở thị trấn Lưỡng Giang dưới chân núi Đại Minh Sơn đào được trống đồng kèm 2 thanh kiếm đồng thau dài 50 cm giống kiếm thời Chiến Quốc.Tháng 3-2004 ở dốc đứng sau xóm Bản Bồ thôn Tam Liên thị trấn Lưỡng Giang khi làm đường lâm nghiệp lại xúc được một trống đồng lớn,không may bị vỡ làm đôi,và một trống đồng nhỏ kèm mootk kiếm đồng thau và một chuông đồng nhỏ chôn trong mộ nằm giữa sông Kiếm và sông Triệu.Vùng này tất cả tìm được 5 trống,cái lớn rộng 80 cm, cao 60 cm, có chim Lạc bay, có 4 tượng cóc quanh mặt trống. Đại Minh Sơn trong cổ thư gọi là Mô Nha Sơn,tương truyền là nơi xưa đúc kiềm hóa rồng nên vùng này còn có nhiều địa danh mang tên kiếm.Ở đây có thôn Mô Nha, thôn Mô Dương (tiếng Choang “dương” nghĩa là kiếm, thì cũng như là “gươm” trong tiếng Việt, “Mô Dương” là âm của“mài gươm”) . Di chỉ An Đẳng Ưowng năm 1985 đào được 85 ngôi mộ cổ, có 15 kiếm đồng thau. Di chỉ Tam Liên Viên Nghệ Trường năm 1974 tìm được một trống đồng và 2 kiếm. Giải mã chữ “Chiêu” chính là “Lạc Việt Vương” Vùng Đại Minh Sơn có thể là một cố đô của Lạc Việt quốc.Nếu là cố đô tất nhiên nó phải có di chỉ của Lạc Việt Vương.Nhưng hậu duệ của người Lạc Việt ở đây hầu như đã mất hết ký ức về Lạc Việt Vương.Khảo cổ các di chỉ ở vùng này không còn phán đoán được đâu là di tích của Lạc Việt Vương.Ngẫu nhiên được thông tin từ bài viết của học giả Hà Chính Bình khi nghiên cứu gia phả của hậu duệ quân đội của Nùng trí Cao ở Vân Nam,phát hiện ra hậu duệ bộ đội của Nùng Trí Cao có cách xưng hô độc đáo với Nùng Trí Cao,đó là họ gọi Nùng Trí Cao là “Nùng Nam Chiêu”.Đời sau của Nùng Trí Cao có các họ Nông,Việt, Đao.Mà Chiêu, Việt, Đao trong tiếng Choang cổ đều có nghĩa là đầu lĩnh.Điều này gợi ý tìm ra di tích của Lạc Việt Vương ở Đại Minh Sơn.Chuyên gia nổi tiếng về lịch sử dân tộc Bách Việt là ông Vi Khánh Ổn韋慶穩 trong bài “Thí luận ngữ ngôn của dân tộc Bách Việt” đã khảo chứng bài “Việt nhân ca” chỉ ra rằng các từ Việt ngữ ghi bằng chữ Hán như Châu州, Chiếu昭, Triều朝, đều có ý nghĩa trong Việt ngữ thượng cổ là Vương Tử王子 hoặc Vương Phủ 王府.Từ Vương thì đã mất trong tiếng Choang ngày nay.Còn lại ở vùng Đại Minh Sơn có rất nhiều địa danh “Chiêu”, “Triệu” “Triều”, “Sào”.Vậy thì các di tích ở vùng này như miếu “Chiêu Vương” chính là miếu Lạc Việt Vương, sông “Triệu” chính là sông của Lạc Việt Vương, miếu “Nam Triều” chính là miếu Lạc Việt Vương, suối “Nam Sào” ở thôn Phụng Lâm chính là suối của Lạc Việt Vương.Đại Minh Sơn miếu có người còn viết là Thương Thốn miếu, điều này là không thể,vì cái tên Đại Minh Sơn miếu là cái tên mới đổi thời nhà Thanh do ông tri phủ Lỳ Ngạn Chương đặt,nếu lúc đó là đang thờ Thương Thốn Vương là một hôn quân bạo ngược tàn dân thì ông quan đó không thể đặt tên cho miếu được,tên bị đổi của miếu phải là Chiêu Vương Miếu hoặc là Thủy Tiên Vương Miếu đều nghĩa là Lạc Việt Vương Miếu uy nghi trên đỉnh Long Đầu của Ba Thị là núi gốc của người Choang.Triệu giang có dòng hợp lưu là Kiếm giang, tiếng Choang là Đạt Ương, “đạt” tiếng Choang nghĩa là nước (cũng như “đắc” của tiếng Ba Na, Mơ Nông hay “nác”của tiếng Việt), “ương” tiếng Choang là Kiếm (cũng như “gươm” của tiếng Việt), vùng này tìm được rất nhiều đồ đồng niên đại Chiến Quốc, ở thượng lưu dòng Kiếm Giang là một mỏ đồng nổi tiếng của Quảng Tây.Dân vùng này vẫn nhặt đá quanawngj đồng dưới lòng sông bán cho các chử vựa quặng.Có thể phán đoán vùng này là nơi xưa Lạc Việt Vương luyện đồng đúc kiếm.Thú vị là ở venTriệu giang và chi lưu của nó là Hán Khê có nhiều hang đá có đá mài, dân đều nói là đó là nơi lính của Lạc Việt Vương mài kiếm.Tất nhiên điều này còn thiếu điển tịch, nhưng nhìn những đá mài ngồn ngang rất giống công cụ thời đồ đá mới cho ta liên tưởng đến hàng vạn quân của Lạc Việt Vương mài kiềm chống trả quân Tần Thủy Hoàng một thời bi tráng.Trong các thôn xóm vùng Triệu giang lưu truyền nhiều chuyện cổ về Lạc Việt Vương.Người ta nói Độc Sơn là do con ngựa của Lạc Việt Vương biến thành.Núi Mã Vĩ ở thôn Tụ Quần là do đuôi ngựa của Lạc Việt Vương biến thành.Năm đó đại quân của Tần Thủy Hoàng truy thì thần Long Mẫu từ trên đỉnh núi quăng xuống hai giải vải đỏ,biến thành hai con đường rộng đón quân của Lạc Việt Vương vào núi .Khi quân Tần đuổi đến nơi thi hai giải vải đỏ đó biến thành hai đỉnh Long Đầu Sơn chặn lại,quân Tần hết đường chỉ còn cách đứng đó mà than.Truyện dân gian lưu truyền chỉ là cái bóng của lịch sử.Nhưng nhiều chuyện lưu truyền chứng tỏ Lạc Việt Vương đã từng sống và chiến đấu ở vùng này và được dân Lạc Việt ở đây che chở.Còn một tình tiết nữa là ở vùng này có Tết “Đạt Vương” tức tết Vua Nước, cũng còn gọi là “Đại Vương Tiết” tổ chức vào ngày 20 tháng 7 âm lịch gọi là ngày giỗ Vua Nước tạ thế.Về cái chết của Đạt Vương tức Vua Nước ,ở vùng Ba Thị có câu ngan ngữ: “17 Đạt Vương bị thương, 18 Đạt Vương chết, 19 làm quan tài, 20 chôn Đạt Vương”,chứng tỏ người Choang nhớ thương Đạt Vương đến mức nào.Đạt Uông tức vua nước còn phải khảo sát xem có phải là Lạc Việt Vương hay không, nhưng mỗi năm ngày13 đến 20 tháng 7 âm lịch người Choang ở Đại Minh Sơn đều làm giỗ vong hồn gọi là “Qủi Tiết” kéo dài đến ngày “Đạt Uông Tiết” là cao trào,lúc đó như là tiết quốc tang cùa người Choang.Các địa danh miếu Đại Vương,bến Đại Vương, núi Đại Vương.có nhiều ở Quang Tây cho thấy Đại Vương tức Đạt Uông tức vua Nước có ảnh hưởng hết sức sâu sắc trong người Choang. Văn vật và cổ kinh thư tiết lộ diện mạo của Lạc Tướng và Lang Binh. Lạc Việt là một nước xưng hùng ở Lĩnh Nam.Trong “Sử ký.Nam Việt úy đà liệt tuyện” Tư Mã Trinh đã viết: “Giao Chỉ có lạc điền theo thủy triều mà làm,người ăn ruộng ấy gọi là lạc nhân,có Lạc Vương, Lạc Hầu, Chư huyện xưng là Lạc Tướng có triện đồng”. Người Lạc Việt có Vương, Hầu, Tướng.Sự thực này sử bất tuyệt thư.Những danh xưng cụ thể này không giống Trung Nguyên.Từ “Vương” người Choang gọi là “Chiêu”, cũng viết thành “Triệu”, “Triều”, “Chu”, “Sào”, “Tạo”, “Đao” nghĩa là “Đầu”.Lạc Việt Vương xưng là Chiêu Hùng,Chiêu Lào ( “hùng” tiếng Choang nghĩa là lớn, đó là âm “hồng” hay “rộng” của tiếng Việt, tiếng Việt còn có từ “rộng lớn”; “lào” tiếng Choang nghĩa là lớn, nó là từ còn trong nôi của Việt ở cái nôi LÉP…LỚN-LAO…LÃNH, lép trong xóm thì không thể hiểu được lãnh thổ văn hóa là nó rộng mênh mông), Từ “chiêu lào” trong tiếng Choang hiện đại nghĩa là “thời viễn cổ”( “chiêu lào” tức “chu-cha lâu” của tiếng Việt).Lạc Việt Vương của Việt Nam , sử thư dịch là Hùng Vương tức Đại Vương.Ở vùng Đại Minh Sơn có bài ca “Xướng cổ thế gian” trong đoa có câu ca rằng: “Ba Thị cao là cao. Công Lang quản thượng phương. Chúng bối song tiễn nỗ. Thủ Công Lang lãnh địa” tức là “Núi gốc cao cao là. Ông Làng quản từ trên. Dân đeo nỏ hai tên. Giữ đất của Ông Làng”. Công Lang trong “Bố lạc đà kinh thi” cũng gọi là Lang Lào tức Vua Lớn.Trong “Kinh Thư”có nói thời cổ có một lần đại hồng thủy tức đại nước rộng ngập hết tất cả chỉ còn núi Lang Lào, núi Ngao Sơn, núi Châu Mi (Ngao Sơn và Châu Mi ở đâu thì không rõ chứ núi Lang Lào chính là vùng Đại Minh Sơn ngay nay.”Lang” tiếng Choang nghĩa là một quẩn thể có liên lạc với nhau ( đó là từ “làng” của tiếng Việt).Công Lang là thủ lĩnh của Lang (tức Ông Làng, người Việt vẫn nói “mày đi mà hỏi ông làng,ông xã ấy,tao không biết”).Lang Lào là đại thủ lĩnh ( tức Ông Làng Lớn, người Việt vẫn nói “sống lâu lên lão làng”). Qua bài “Xướng cổ thế gian” cũng thấy rõ là vùng Đại Minh Sơn diện tích nhỏ, mới chỉ có Công Lang hoặc Lang Lào.Ở đây người Choang có điệu múa “Lạc Động” có người đóng vai tướng quân và người đóng vai nữ thần. Trong Viêt Nam Cổ Sử “Hồng Bang thị truyện”có viết: “Thời cổ ,Lạc Việt tôn Hùng Trưởng làm chúa,hiệu là Hùng Vương,quốc hiệu là Văn Lang quốc,dưới có tướng là Lạc Tướng,vương tử là quan Lang,nữ là Mị Nương”. Vương tử của Hùng Vương gọi là “Quan Lang” đồng âm với “Công Lang” ở Đại Minh Sơn, “Lạc Tướng” đồng nghĩa với “Lạc Động”.Rõ ràng là Lạc Việt dù có thiên đô đi nơi nào thì các tên Vương, Hầu, Tướng, Tương cơ bản vẫn giống nhau.Diện mạo Lạc Động của Lạc Việt ở Đại Minh Sơn thì cổ thư ghi rất thiếu.Nhưng căn cứ vào di vật đào được lượng lớn ở đây và theo truyền thuyết thì có thể đại thể đoán định: Các đồ tùy chôn theo ít,không có mộ lớn của Lạc Việt Vương nhưng khẳng định là có mộ của Lạc Động tức Lạc Tướng. Đáng chú ý là mộ chôn ở hang núi đá vôi ở Lương Giang huyện Vũ Minh có đồ chôn theo bằng đông thau 12 thứ,cách chôn đơn giản,thể hiện dáng mạo là mộ của một Lạc Tướng. Ngày 26 tháng 7 năm 2006 tại Độc Sơn, tiếng Choang là Ba Độc là một ngọn núi lớn,sông Kiếm tử hướng tây bắc chảy qua như con rồng ôm lấy núi.Độc Sơn giống con chiến mã ngoẹo đầu lại bảo vệ Bản Phan thôn Tam Liên,ở đây đào được 5 trống đồng và các đồ khác.Trên núi có miếu Thánh Đường Tự, có bia đá được sửa năm Quang Tự (1898).Trên đường nhỏ lên núi tình cờ phát hiện một rìu đá thời đá mới,như vậy Độc Sơn có tầng văn hóa rất sâu.Năm 1986 ở núi này có phát hiện mộ cổ được 14 vật trong đó có 4 kiếm đồng dài 30 cm,qua đồng,khiên đồng,tên đồng xếp dưới chân chủ mộ,vú khí đã cũ tàn nhưng còn khá sắc,đây chính là mộ của một Lạc Tướng.Trong lời hát của bài “Xướng cổ thế gian” thì dân chúng Lạc Việt quốc vừa là binh vừa là dân làm ruộng,người nào lưng cũng đeo cung nỏ bắn được một lần hai mũi tên,họ gọi là Lang Binh hay lính của Công Lang.Quân đội là tiêu chí quyền lực của quốc gia. Tướng soái Lạc Việt đều tinh thành sùng võ,vũ khí của Lang Binh tinh xảo chứng tỏ quân đội Lậc Việt đương thời có trình độ chính qui hóa rất cao.Đại Minh Sơn có tinh binh cường tướng chứng tỏ đây là một trung khu của vương quốc. Trích: http://www.rauz.net.cn/article/faenzcieng/...200703/327,html Đối chiếu “Sử thuyết họ Hùng” Nhật Nguyên. Tóm tắt: Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang cũng là ông Tây Bá; Cơ Xương , Chu Văn Vương cũng là Lang Liêu, An Dương Vương, cổ Thục và bà Âu Cơ trong truyền thuyết Bọc trăm trứng . Chiêu vương và Chu vương là cận âm rất dễ nhận ra , truyền thuyết chỉ thêm chữ Hùng vào để xác định dòng giống mà thôi. Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của 1 quốc gia và chính là ‘Trung Hoa’ của thiên hạ thời nhà Chu. Bài 24 - Hùng thứ 12: Hùng Chiêu - 1* Nước Cao-Ly hay Cao- Lê của Sùng Lãm. - Hoa văn dịch là nước Sùng , Kinh Thư gọi là nước Lê là phần tây bắc ( xưa) của Hồng bang thời nhà Hạ , cũng là đất Giữa thời lập quốc ngày nay là đất Bắc và bắc trung Việt. - 2 * Nước Đào hay nước Thao., là phần phía đông của Hồng bang thời nhà HẠ còn được gọi là đất Đông Hạ nay là Quảng đông Trung quốc. - 3 * Đất phong của Tây bá Xương thường gọi tắt là đất Bá cổ sử Việt gọi là Âu biến âm của ‘ô’ nghĩa là màu đen , ‘phương Ô’ đồng nghĩa với ‘Huyền phương’ trong cửu thiên tức phương Nam (xưa) nay là tây nam Quảng tây. - 4 * Nước Mật tu ký âm sai của Mặt tây nay là Vân nam Trung quốc. - 5 * Nước Thục còn gọi là đất Quý đất gốc tổ của nhà Chu nay là Quý châu Trung quốc. Hoa sử thường ghép nước Thục với đất Bá ông tây bá Xương thành đất Ba- Thục . - 6 * đất trung tâm của nhà Thương hay ‘trung Hoa’ thời Thương , sử Việt gọi là Việt Thường sau là đất Đường-Ngô nay là Hồ nam và Giang tây Trung quốc. - 7 * Nước Việt , đất dành riêng thờ Sơn tinh quốc chúa hay Hạ vũ nay là Phúc kiến- Chiết giang Trung quốc. - 8 * đất trung tâm của nhà Ân- Thương nay là Hà nam Trung quốc , đây là phần đất cực Nam ( xưa) của Trung –Hoa , nơi có đất Hà nội là mảnh đất duy nhất vượt Hoàng hà về phía bắc (phương hiện nay), nơi đây Trụ vương đã xây biệt đô Triều ca. - 9 * Nước Qủy phương là nước đã được nói đến trong kinh Dịch , chính xác là nước Cửu phương , phương số 9 là phương tây của Hà thư , cửu còn biến âm thành ‘cẩu’ nghĩa là con chó vì dân nhà Tần chọn chó Sói làm thần thú tượng trưng cho tộc mình , Quỷ phương còn được gọi là Xuyên Thục nghĩa là đất tây-nam (xưa) , Hoa sử thường gọi tắt là đất Thục gây ra sự lẫn lộn với Ba thục ;việc này ảnh hưởng rất lớn khi tìm hiểu về lịch sử Trung hoa , đất Qủy phươngnay là Tứ xuyên Trung quốc. ********* Vua khai sáng : – Quốc Tiên Lang dị bản : Lang Liêu lang Danh hiệu khác trong sử Việt : An dương vương , Thục vương tử. Danh hiệu khác trong sử Hoa : Cơ xương , Chu Văn Vương Quốc hiệu : Văn Lang – Âu Lạc Niên đại : cách đây 3.100 năm Lưu tồn vật chất là những hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa Đông sơn sớm ,Việt nam . Theo truyền thuyết dân gian Quốc tiên lang còn được gọi là : Lang Liêu , Cổ Thục. Văn lang đồng nghĩa với Văn vương ; trong thiên khảo luận này đã nhiều lần ban đến , khi ta nói nước Văn lang tức là nói nước của vua Văn , là danh xưng cổ xưa của nước Việt ngày nay. Quốc tiên lang nghĩa là vua khai quốc.
  16. Thông tin thêm về cuốn sách “Bách Việt tiên hiền chí” Thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài từ năm 770 BC đến 221 BC là thời kỳ có rất nhiều học phái gọi là “Bách gia tranh minh” tức trăm nhà đua gáy thể hiện sự năng động hoạt bát trong sáng tạo tư duy của dân Bách Việt, các đạo cùng tồn tại và thỏa sức tranh luận nhau, đó là Nho gia của Khổng-Mạnh-Tuân, Đạo gia của Lão-Trang, Mặc gia của Mặc tử, Pháp gia của Hàn Phi tử, Âm Dương gia của Trâu Diễn, Tung Hoành gia của Tô Tần-Trương Nghĩa, Tạp gia của Lã Bất Vi, Nông gia của Hứa Hạnh, Danh gia của Huệ Thi- Công Tôn Long. Từ Tần Thủy Hoàng bắt đầu bạo hành “đốt sách, chôn Nho sĩ”; sau đó Hán Vũ Đế Lưu Triệt (156 BC-87 BC) lại phản động theo một cực đoan khác là cấm “bách gia”, chỉ độc tôn Nho gia , đề xuất “tam cương”: Thiên tử thụ mệnh ư thiên,Thiên hạ thụ mệnh ư thiên tử, Thân dĩ tâm vi bản, Quốc dĩ quân vi bản, Quân vương vị trung tâm; để nhất nhất phải theo chỉ ý của triều đình mà nói thuyết và hành sự (không như “phép vua thua lệ làng” trong tư tưởng hoạt bát của dân Việt cổ). Từ khi căn bản diệt xong nhà Tống, các triều đại sau kế tiếp nhau từ Liêu, Kim, Nguyên, Minh, Thanh thì bốn trong năm triều đại đó đều là ngoại bang (rợ Khiết Đan) thống trị Trung Hoa. Thời Nguyên, người Mông Cổ chia chức nghiệp ra làm mười bậc: Quan, Sứ, Tăng, Đạo, Y, Công, Thợ, Xướng, Nho, Ăn mày, cho thấy họ đánh giá Nho còn thấp hơn cả xướng kỹ. (Thời nhà Thanh sửa đổi cổ thư còn tệ hại hơn. Lỗ Tấn trong cuốn “Hoa cái tập,này với kia华盖集 这个与那个” đã nói triều Mãn Thanh công nhiên sửa đổi cổ tịch: “ Hiện nay các học giả Trung Quốc và phương Tây hầu như hễ nghe đến danh mục “Khâm định tứ khố toàn thư” đều ngoan ngoãn thán phục và nghe theo, kỳ thực nguyên tác các sách cổ đã bị sửa đổi rồi, thêm vào nhiều chữ sai, thậm chí nhiều đoạn văn bị cạo xóa sửa lại. Rõ ràng nhất như “Lâm Lương bí thất tùng thư 琳琅秘室丛書” trong đó có bản “Mâu đình khách thoại茅亭客話”, nếu lấy bản của Tống so sánh với bản của “Tứ khố” thì sẽ phát hiện ra ngay. Thời Thanh phát hành, mọi người nghĩ ắt thấy ngay, nhưng ai dám công nhiên trách vấn?”). Cho nên cuối Nguyên đầu Minh có năm học giả trứ danh người Lĩnh Nam là Tôn Công, Triệu Giới, Vương Hựu, Hoàng Triết, Lý Đức rủ nhau lập ở Nam Viên thành phố Quảng Châu một Hội thơ nhằm chấn hưng phong nhã. Do năm vị này về học vấn và đạo đức đều có ảnh hưởng rất lớn trong giới trí thức Lĩnh Nam nên người đương thời rất kính trọng và mến mộ họ, gọi họ là “Nam Viên ngũ Tiên sinh”. Đến thời vua Gia Tĩnh triều Minh, học giả Âu Đại Nhậm cùng bốn học giả khác là các ông Lương Hữu Dự, Lê Dân Biểu, Ngô Đán, Lý Thì vì hâm mộ cao phong lượng tiết và thi thư xuất sắc của năm vị tiền bối của Hội thơ xưa nên lại khởi xướng ở Nam Viên một Hội thơ “nhã tập hào ngâm”. Do vậy người đương thời gọi họ là “Nam Viên hậu ngũ tử”. Âu Đại Nhậm tên chữ là Trinh Bá, người huyện Thuận Đức tỉnh Quảng Đông, khi còn trẻ ông đã thi hương (cấp tỉnh) để đậu cử nhân rồi qua tiếp thi hội (ở kinh đô) đậu cống sinh, còn gọi là cống sĩ (chưa đến tiến sĩ), nhậm chức Huấn đạo ở Giang Đô (nay là Dương Châu tỉnh Giang Tô). Không lâu sau đó ông phụng mệnh lên kinh đô Nam Kinh tham gia sửa cuốn “Thế tông thực lục”. Sau lại chuyển về Quang Châu (nay là Hoàng Xuyên tỉnh Hà Nam) làm học chính. Năm Vạn Lịch thứ ba (1575) nhậm chức trợ giáo Quốc Tử Giám, sau thăng lên chức Đại lý thi bình sự. Ông chấp pháp rất ngay thẳng, không khuất phục áp lực của quyền quí nên rất nổi danh. Ông đã phản bác lại rất nhiều án giả, án sai, án oan trong lĩnh vực dân sự. Cuối cùng ông làm quan ở bộ công đến năm Vạn Lịch thứ mười hai thì lấy cớ tuổi cao cáo quan về quê khởi động lại thi đàn, là thành viên của “Nam Viên hậu ngũ tiên sinh”, không cam chịu dính nhơ nhớp trong quan trường thối nát. Ông sáng tác nhiều thơ, tập hợp thành 28 quyển. Nội dung và khí tiết thơ của thi đàn Nam Viên được hậu thế kính trọng và hâm mộ. Sau ông mất, được thờ tại Hương Hiền tự và Tiền Hậu Ngũ Tiên Sinh tự. Tập “Bách Việt tiên hiền chí” của Âu Đại Nhậm gồm bốn quyển, sưu tầm được 120 danh nhân là những học giả trứ danh người Bách Việt từ thời Đông Hán đến thời Minh, đông nhất là thời các nước Việt, Ngô, Sở. Riêng người ở Cối Kê thủ đô của Việt Quốc của Việt Vương Câu Tiễn chiếm đến 30 vị, ở Nam Hải 5 vị, ở Giao Châu 1 vị quê ở Sòng Sơn.
  17. Người Triều Châu Triều Châu là một huyện của tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, bắc giáp Phúc Kiến. Người Triều Châu cổ đại là một phân chi của dân tộc Bách Việt, gọi là người Mân Việt. Theo tương truyền trong gia phả của người Triều Châu ở Phúc Kiến thì tổ tiên họ xưa từ vùng Hoàng Hà (Trung Nguyên ) di cư xuống Phúc Kiến. Huyện lỵ Triều Châu đã hưng thịnh từ rất sớm, thời nhà Tùy là quản hạt của cả Việt Đông ( tỉnh Quảng Đông ngày nay). Người Triều Châu hiện nay có ở Triều Châu, Phúc Kiến, Sán Đầu, Hồng Kông, Áo Môn, Đài Loan và nhiều nơi trên thế giới như Việt Nam,Thái Lan, Sigapo, Malaixia (72-73 vạn người, đứng hàng thứ 4 các sắc dân quốc tịch Malaixia), Indonexia và các nước phương Tây, với tổng số khoảng 20 triệu người và vẫn nói tiếng Triều Châu. Những từ gốc trong tiếng Triều Châu có rất nhiều từ như tiếng Việt (Ví dụ vuông chữ = “vuông dìa”, tắm ướt= “chan ét”, khen= “khẹn”, thím= “thím” …). Người Triều Châu giỏi buôn bán, ở Trung Quốc người Triều Châu được mệnh danh là “Do Thái của Trung Quốc”. Cộng đồng người Triều Châu đề nghị thành lập ngân hàng thương mại cổ phần Triều Châu ở Trung Quốc nhưng chưa được phép vì ở Trung Quốc chỉ có hệ thống ngân hàng nhà nước. Ở Việt Nam thì cộng đồng người Triều Châu có đủ, ngân hàng thương mại, trường học, bệnh viện… và đang xúc tiến lập trường đại học quốc tế. Người Triều Châu di cư ra nước ngoài là từ thời nhà Minh, nhưng ồ ạt nhất là thời nhà Thanh. Sau thời Ung Chính, Càn Long, đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp ở Triều Châu cực kỳ khốn khó, người Triều Châu di cư xuống các nước ĐNÁ làm thuê cho các hầm mỏ đồn điền thực dân, nhiều đến nỗi dân số còn lại ở huyện Triều Châu giảm hẳn, còn 1.405.180 người ( theo thống kê thời Khang Hy 19 , năm 1680, thực tế thì còn khoảng gần 2 triệu người). Đến thời Quang Tự thì dân số ở Triều Châu tăng lên 4.300.000 người. Người Triều Châu có truyền thống trọng chữ Tín, trọng đạo học ( ở Malaixia người Triều Châu thành lập được 39 trường phổ thông, 60% các tác phẩm của người Hoa ở đó là của người Triều Châu), trọng đạo hiếu ( sùng Tổ kính Tiên), một năm có tám Tết lớn để tưởng nhớ tổ tiên: Tết Nguyên Đán có cúng Tổ, ăn tất niên sum họp gia đình, câu đối , đốt pháo, cúng thầy dạy học.Tết Nguyên Tiêu rằm tháng Giêng có treo đèn lồng, thả hoa đăng, dạm mặt, bói đèn.Tết Thanh Minh trong tháng ba.Tết Đoan Ngọ 5 tháng 5 có bánh trôi. Rằm tháng bảy gọi là Tết Phổ Độ ngoài cúng Tổ còn có cúng bố thí cô hồn.Tết Trung Thu gọi là cúng nàng trăng có bánh trung thu, tặng bánh cho thầy dạy học ( “ơn bằng giọt nước, cũng coi bằng suối tuôn mà đáp đền” 滴水之恩, 當涌泉相報 đích thủy chi ân, đương dũng tuyền tương báo) .Tết Đông Chí là một trong 34 lễ thời tiết. Sinh hoạt văn nghệ của người Triều Châu phổ biến nhất là ngâm hát “Triều Châu ca sách”, đã hình thành từ thời Minh, đến nay là 640 năm. Lời ca trong sách chỉ dùng câu 7 chữ (có phải dấu ấn của hệ đếm thất phân từ thời cổ đại?) khi ngâm thì kéo dài âm tiết cuối. Nội dung gồm diễn nghĩa lịch sử, truyền thuyết thần thoại, chuyện dân gian như:Tùy Đường diễn nghĩa,Tam Quốc diễn nghĩa,Thủy Hử truyện, Hàn Tương Tử tam độ Hàn Công Văn,Tô Lục Nương…bài ngắn nhất cũng vài trăm câu, ngâm hát cũng mất 10 phút, bài dài nhất như Song Bạch Yến có tới 29 quyển gồm 4 vạn dòng chứa 30 vạn chữ. Lãn Miên
  18. Từ “THOẠI” là từ Việt gốc Hán hay là từ Việt gốc Huế? Lãn Miên. Ngày nay ta quen dùng từ “đối thoại” mà các nhà hàn lâm nói đó là từ Hán-Việt tức từ Việt gốc Hán. Từ “đối” thì trong tiếng Việt, vì có nhiều lối đếm , trong đó có lối đếm “đếch”=0, “đứa”=1 , “đôi”=2, có đôi (như đôi đũa của nền văn minh lúa nước thì ắt có “đối”, Quan Thoại nói “soang” dép chứ không nói đôi dép, còn đôi câu đối thì nó là sản phẩm của chữ Nho, câu đối hay bài thơ Đường mà đang đọc giọng Việt 越=粤 nghe đúng vần điệu vậy mà nếu đọc như giọng Quan Thoại thì chẳng còn gì là luật âm vận cả) vậy “đối” là gốc Việt rõ ràng (tiếng Quan Thoại tương ứng là “líng”=0, “yi”=1, “ar”=2). Còn từ “thoại”? Muốn tìm nó gốc từ đâu ra trước hết hãy hiểu rằng trong tiếng Việt mỗi âm tiết là một từ có nghĩa và nó không phân biệt nó là động từ, tính từ hay trạng từ như trong tiếng Tây, mà nó gì cũng là cả. Ví dụ: “Bác ấy có nói mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có nói lời mời cụ sang xơi cơm ạ” = “Bác ấy có lời nói mời cụ sang xơi cơm ạ”, tức là NÓI=LỜI=NÓI LỜI=LỜI NÓI chứ không phải phân tích “nói” là động từ,"lời" là trạng từ như ngữ pháp Tây. Ta phải đi từ “NA” nghĩa là “nói”,nó là cổ xưa nhất từ thời cổ đại trong từ NÔM NA nghĩa là người Nam nói, tức người Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử nói, NÔM NA nghĩa là tiếng người Nam tức tiếng Bách Việt. Từ NA ấy trong tiếng Đài Loan thì gọi là LA, ở Việt Nam nhiều vùng cũng gọi là LA, trong tiếng Nhật thì gọi là HA-NA-XƯ nghĩa là nói, mà khi đem nó VÔ trong nôi Âm Dương của người Lạc Việt (giống cái vật chứa là cái VỎ hình bầu, như cái VÒ chứa rượu, như cái VÓ chứa cá, như cái VŨ 宇 là bầu không gian của vũ trụ chứa hết tất cả, như cái VÚ là bầu chứa sữa nơi người mẹ, như cái RỔ, cái RỌ, cái BỒ, cái TÔ chứa canh, cái MO chửa chứa cái nang cau…) để VO thì nó bị VÒ rụng mất đầu HA và rụng mất đuôi XƯ đi còn lại NA là nói của Bách Việt. NA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: NÍN…NẢY-NÒI…NÓI ( NÍN là không nói, NÍN=0, đương nhiên NÓI=1, NẢY-NÒI là khi NA đang tự tách đôi trong nôi, cặp Âm-Dương dính nhau này có nghĩa là “bắt đầu nói”, ví dụ: “mày lại nảy-nòi yêu sách gì đấy?” = “mày lại bắt đầu nói yêu sách gì đấy?”). Vì NA còn gọi là LA, nên LA trong nôi Âm Dương Lạc Việt đẻ ra: LẶNG…LẤP-LỬNG…LỜI (LẶNG là không nói, im lặng, LẶNG=0, đương nhiên LỜI=1, LẤP-LỬNG là chưa rõ vì nó đang còn dính nhau trong nôi, nó chưa hẳn thành lời). LỜI lại đẻ ra: LỊM…LẬP-LỜ…LỐI (LỊM là không nói gì, ngất lịm là ngất không nói gì, LỊM=0, LỐI là "nói rõ ràng từng từ một”, chỉ lối tức chỉ cho rõ ràng từng từ một, đường lối tức đường được nói rõ ràng từng từ một, nói lối hay hát lối là đoạn trong hát trong chèo ,đang hát theo điệu thì đào hay kép chuyển sang nói rõ ràng từng từ một; LẬP-LỜ là nói chưa rõ ràng vì chúng đang còn dính nhau trong nôi, chưa trường thành). Ta có các từ ghép NÓI LỜI=LỜI NÓI= LA LỐI và có từ ghép NÓI LỐI ở khái niệm khác. Nhưng NA còn dẫn đến NHẢ cũng nghĩa là nói, “nhả lời châu ngọc” = “nói lời châu ngọc”. NHẢ đẻ ra: NHỊN…NHẤP-NHỔM…NHẮN (NHỊN là không nói, NHỊN=0, đương nhiên NHẮN=1, NHẤP-NHỔM là đang chuẩn bị nhắn chứ chưa tới nhắn vì nó đang nảy nở trong nôi). NHẮN dẫn đến DẶN đều là các hình thái của nói cả, (chưa kể đến còn NHẮN-NHỦ rồi DẶN-DÒ) và dẫn đến NGÔN viết bằng chữ Nho là 言. NA còn dẫn đến NGẢ nghĩa là nói, “ngả lời chào hỏi” = “nói lời chào hỏi”, “ngả giá bao nhiêu” = “nói giá bao nhiêu”. NGẢ đẻ ra: NGẬM…NGẬP-NGỪNG…NGỎ (NGẬM là không nói, NGẬM=0, đương nhiên NGỎ=1, “ngỏ lời mời” = “nói lời mời”; NGẬP-NGỪNG là rất muốn NGỎ nhưng vì đang còn trong nôi chưa lớn tới NGỎ). NGỎ đẻ ra: NGHẸN…NGỌNG-NGHỊU…NGỮ (NGHẸN là không nói, “nghẹn giọng” là không thành tiếng, “nghẹn lời” là không thành lời, NGHẸN=0, đương nhiên NGỮ=1=nói, NGỌNG-NGHỊU là chưa nói được rõ lời vì nó đang còn nằm trong bọc nôi. NGỎ là nói, nó còn dẫn đến là “GÔ” trong tiếng Nhật, là “GÍ” trong tiếng Đài Loan, là GỌI trong tiếng Việt, và tất cả các âm tiết ấy đều viết bằng một chữ Nho là NGỮ 語. "Ni-hon Go" 日 本 語 là Nhật Bản Gọi tức Nhật ngữ, "Đài Gí" 台 語 là Đài Gọi tức Đài ngữ,cũng còn gọi là "Đài la" 台 罗. Đến đây thì ta thấy rõ là NGÔN NGỮ=LỜI NÓI=NGỮ NGÔN=NÓI LỜI là do từ NA của Bách Việt mà ra, NGỮ NGÔN 語 言 là từ Việt gốc Bách Việt ,chứ không phải là từ Hán- Việt như vẫn quan niệm.(Quan Thoại dùng hai chữ đó 語 言 và phát âm là “ủy yán”). NA còn dẫn đến THẢ cũng là nói, “thả lời ong bướm” = “nói lời ong bướm”. THẢ đẻ ra: THÍT…THẦM-THÌ…THÓI (THÍT là không nói, “nín thít”, THÍT=0, THÓI là nói, “thói hư tật xấu” = “nói thì không đúng, hành vi thì xấu”, “quen tật quen thói” = “quen hành vi và lời nói”, THẦM-THÌ là nói rất nhỏ vì đang còn nằm trong bọc nôi. Từ THÓI nầy người Huế phát âm là “thoái”, cũng như từ NÓI thì họ phát âm là “noái”, lại do giọng nặng nữa nên thành ra “thoái” họ phát âm ra “thoại”. Vào kinh đô Huế đi thi mà thầy phát âm là “thoại” thì trò cũng phải cắn răng mà theo không thì rớt điểm, bởi vậy mới có chữ 話 là lời nói bị phát âm là THOẠI . Đó là một từ Việt gốc Bách Việt mà phát âm theo giọng Huế. THÓI đẻ ra: THIN…THỦ-THỈ…THỐT (THIN là không nói, “im thin thít”, THỦ-THỈ là nói nhỏ vì còn trong nôi, THỐT là nói, “biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”). THỐT đẻ ra: THINH…THẼ-THỌT…THUYẾT (THINH là không nói, làm thinh, lặng thinh; THẼ-THỌT là nói nhỏ vì đang còn trong nôi, THUYẾT là nói dài dòng). Chữ THUYÊT 說 là một từ Việt gốc Bách Việt. Người Quan Thoại dùng chữ THUYẾT THOẠI 說 話 là hai chữ Nho và họ phát âm là “sua họa” nghĩa là nói lời. THUYẾT đẻ ra: THÔI…THỎ-THẺ…THÉT (THÔI là không nói nữa,THÔI=0, đương nhiên THÉT=1=nói to, còn THỎ-THẺ là nói còn nhỏ vì nó đang còn dính trong nôi). Hóa ra những từ mà người ta vẫn gọi là từ Hán- Việt lại là từ do Nôm na mà ra vì chữ Nôm có trước chữ Hán. Trong bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh Trung Quốc có một bản đồ minh họa khởi nguồn văn tự toàn thế giới, trong đó chữ viết sớm nhất là chữ Ai Cập. Chữ Hán đến năm 1300 BC mới có, đến nay mới được 3300 năm, tức là 1300 BC về trước thì mới chỉ là sử tiền sử vì chưa có văn tự. Nhưng chữ Hán là trên nền của chữ Nho. Khổng Tử là người đầu tiên dùng chữ Hán viết nên bộ sách sử đầu tiên gọi là “Xuân Thu”, Ông sinh năm 551BC, mất năm 479 BC, tức Ông sinh ra cách nay khoảng 2600 năm. Ngược về trước,thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Nghiêu, Thuấn … là lịch sử của Bách Việt . Chữ khoa đẩu và chữ rắn thì ngày nay mới sáng tỏ ra là nó có cách nay 5000-6000 năm, sau nó là chữ Nho. Lãn Miên
  19. Hấy? với Hầy! “Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” Trên chuyến xe lửa du lịch từ Hà Nội vào Huế,tầu đang giảm tốc độ,chắc là sắp chạy qua một ga nào đó dọc đường.Một ông cụ bỗng lo lắng lớn giọng hỏi bà hành khách ngồi cạnh: “Ga ni ga chi ri o?Phại ga Si mô hầy!”(Ga này ga gì đó cô?Phải ga Si không nhỉ!).Mấy sinh viên Nhật đang mải dán mắt qua cửa sổ ngắm cảnh dọc đường, giật mình liếc nhìn ông cụ,có lẽ vì họ nghe mang máng giọng Nhật.Tầu đã chạy chậm hơn lúc nãy,một cậu sinh viên kịp nhìn thấy nhà ga nhỏ bên đường có chữ “Ga Si” to tướng,vội chỉ tay buột miệng: “Hay,ga Si đê-xư!”(Phải,ga Si đấy!), không biết là anh ta khoe với đồng bọn hay là trả lời cụ già, bọn họ chắc là đang học tiếng Việt ở Hà Nội,đang đi chơi thăm Huế.Chỉ một tiếng “hầy!”thường dùng ở Băc Trung Bộ, dùng để khẳng định ấy đã cho thấy là cái “bia miệng” hàng vạn năm nó vẫn còn trơ trơ.Nó là từ cổ nhất vì nó là từ cơ bản ,cũng như con số đếm một hai ba bốn năm,và dùng với tần xuất lớn nhất trong khẩu ngữ của các cộng đồng người.Người Nhật nói “hay!” tức “phải!”.Người Quảng Đông nói “hầy!” tức “phải!”. “ừm hầy!”là “ừ phải!” (Còn từ “hấy” trong tiếng Bắc Trung Bộ nghĩa là “hỏi gì đấy?”,nó một âm tiết tức “nén thông tin” hơn là ba âm tiết).Chỉ một từ “hầy” đã đủ nói rằng ba cộng đồng người trên có cùng gốc tổ thuở xa xưa.Theo di truyền học (kết quả của Viện nghiên cứu gen ở Pari) thì người Kinh,người Khơ Me,người Hoa ở miền nam Trung Quốc,người Bố Y ở Đài Loan,người Tày-Thái, người Hoa ở Singapo,người Hoa ở Thái Lan,người Mân Nam (Phúc Kiến,Triều Châu,Đài Loan),người Khách Gia( chủ yếu ở Đài Loan) là cùng một tộc người.Vậy thì chính họ là dòng giống Bách Việt của nền văn minh Văn Lang cổ đại.Cũng như từ “nô-ê” trong tiếng Nhật nghĩa là con thuyền,còn trong Kinh Thánh thì kể chuyện thời xưa gặp trận Đại Hồng Thủy loài người lên con thuyền NÔ-Ê của Thượng Đế để thoát được lên núi cao,còn trong tiếng bắc Trung Bộ thì con thuyền gọi là cái “nốc”,nhưng bị khinh là “tiếng nhà quê” nên không đưa vào từ điển tiếng Việt.Từ dân dã là có trước rồi từ hàn lâm mới có sau,chứ chẳng lẽ người dân quê không biết chữ ở Nghệ An thời cổ đại lại đợi đến khi có Kinh Thánh rồi mới mượn từ hàn lâm “nô-ê” để gọi con thuyền nan đơn sơ rách mướp của mình là cái “nốc”?.Cái âm tiết “hầy” ấy làm gì có trong tiếng Quan Thoại,nhưng nếu đọc sách Trung Quốc sẽ được giải thich đó là “âm tiết Hán cổ”,có từ thời Đường hay thời Tống.Nhưng thời Đường thì người Hoa nói tiếng “Thoòng wả” mà đến bây giờ người ta vẫn nói tiếng ấy trên khắp thế giới và gọi là “Thoòng wả” mà người Quan Thoại nghe chẳng hiểu được,hàng mấy ngàn năm mà cái “bia miệng” ấyvẫn còn trơ trơ.Nghiên cứu ngôn ngữ thì cũng như nghiên cứu sử,là phải đứng trên nền khoa học chứ không phải trên nền quốc gia.Người Na Uy,Thụy Điển,Đan Mạch nói vẫn hiểu được nhau,gọi là tiếng Na Uy,tiếng Thụy Điển,tiếng Đan Mạch chẳng qua là vì đó là những quốc gia khác nhau mà thôi.Ngôn từ đương nhiên là có từ mới mượn vào,có từ cũ mất đi không còn dùng nữa nhưng “bia miệng” là cái cánh phát âm của miệng và cú pháp trong khẩu ngữ thì nó còn mãi trơ trơ ( cũng giống như tiếng Việt hiện đại,ngữ pháp thì cứ gò nó vào cho đủ chủ ngữ ,vị ngữ ,tân ngữ trong một câu, như ngữ pháp tiếng Pháp,chứ khẩu ngữ thì người ta vẫn nói hàng ngày như cú pháp trong các câu Kiều thôi,làm gì có phân chia chủ ngữ ,vị ngữ ,tân ngữ… “Rằng năm Gia Tịnh triều Minh”…) và chẳng bao giờ nhập mới cả. Ví dụ câu nghe được trên chuyến xe lửa kia thì từ “ga”rõ ràng là nhập từ Pháp,nó thành thuần Việt rồi .Hay như từ “xích” cũng vậy,cũng là từ Pháp,nhưng nó đã thành thuần Việt đến mức mang máu Việt luôn,cũng đẻ được trong nôi Âm Dương như những từ gốc Việt khác,đó là cái nôi khái niệm của XÍCH đẻ ra XIỀNG…XOĂN-XOẮN…XÊN, ró ràng là cũng thành 5 khái niệm,nhưng cùng một gốc: “xoăn-xoắn” là cái hình hài gồm những vòng tròn móc vào nhau thành chuỗi,vì là hình hài đang trong nôi nên chưa có công năng gì vì nó đã ra khỏi nôi đâu,”xích” là cái thông dụng, công năng để kìm giữ có khoảng cách như cái xích chó, “xiềng”là cái như xích nhưng lớn hơn có công năng để trói, “xên” là cái như xích nhưng công năng của nó là nối liền hai bánh răng truyền động như của xe đạp hay xe máy(còn cái vòng đai nối truyền động cho hai bánh đà thì vẫn gọi là cu-roa như nguyên bản Pháp).Ấy vậy mà các nhà hàn lâm ngôn ngữ học Việt Nam không hề đem những từ như “xên” hay “hầy” vào từ điển tiếng Việt đâu vì cho nó là từ “nhà quê”,họ thích dùng từ “Hán Việt” cho nó “sang”.Đến như từ “MỖI” rõ ràng là do từ “MUÔI” là 1 của tiếng Khơ Me (Quan Thoại mượn thôi,đọc là “mẩy”),trong tiếng Việt MỖI mới đẻ ra MÔ…MẬP-MỜ…MỘT là cùng gốc nôi Âm Dương,chứ trong Quan Thoại thì “mẩy” không đẻ được kiểu tách đôi Âm Dương(do vua Phục Hy không dạy cho họ vì thời đó người Hán còn ở rất xa phía bắc Trung Á),tiếng Quan Thoại có “mẩy”-mỗi là một thực thể, “líng”-linh là 0,”yi”-nhất là 1,mấy từ ấy đâu có thấy gì thể hiện cùng gốc Âm Dương?Nhưng MỖI vẫn được các nhà hàn lâm ngôn ngữ học Việt Nam coi là “từ Hán-Việt” cũng như họ nói “70% các từ dùng trong tiếng Việt hiện đại là từ Hán-Việt”.Nhưng người Hán có cái hay là không kỳ thị ngôn từ các dân tộc khác,họ dùng chữ Hán để chú âm lại hết,được nhiều từ đồng nghĩa thì chia ra dùng từ này ở ngữ cảnh này,từ đồng nghĩa kia thì dùng cho ngữ cảnh khác ,càng phong phú câu văn.(Nhưng xưa kia các vị hàn lâm ở thủ đô thì cực ghét giọng địa phương,nên thời Mao Trạch Đông còn là sinh viên trường Bắc Đại rất tích cực phát biểu,được thầy chỉ đứng lên rồi, nhưng nghe giọng Hồ Nam thì thầy là vị giáo thụ lờ đi không thèm trả lời—Đọc trong “Mao Trạch Đông truyện” NXB Thượng Hải năm 2006) .Bởi vậy bây giờ từ điển Hán mới vô cùng phong phú như vậy (ví dụ “thương” là màu xanh da trời,”thanh”là màu xanh của sự trẻ ,”lam” là màu xanh nước biển-nó do từ “rum” của tiếng Việt,sông Lam gọi là sông Rum,”lục” là màu xanh lá cây…),từ nào nó không phải gốc Hán thì nó là “tiếng Hán cổ”.Ví dụ từ ‘nơ-ron” của cái tế bào óc,nó chỉ mới có từ khi Tây y truyền bá sang phương Đông,người Hán chú bằng hai chữ “nang bào” vốn là ngôn từ Việt, họ đọc là “náng pao”nghe cũng tờ tợ như nơ-ron mà về nghĩa chữ thì chuẩn ,vì “nang”trong tiếng Việt là cái bọc sống sẽ nở ra (trong cái nôi Âm Dương:NỎ…NỞ -NANG…NẬY tức của cái NÒI đang từ không tức “nỏ” phát triển dần lên trong nôi là đang” nở- nang” cho đến lớn hẳn tức “nậy”-nậy nghĩa là lớn, tiếng “nhà quê”, mà hàng chục triệu người Việt ở bắc Trung Bộ vẫn nói hàng ngày).Từ “nang”ấy người Việt vốn dùng để chỉ cái buồng hoa cau khi chưa nở (tức đang còn trong nôi),nghĩa là cái từ đó phải có từ trước thời vua Hùng khi mà tục ăn trầu đã phổ biến.Từ “nang”ấy lại là do từ “pơ-nang” trong tiếng Mã Lai nghĩa là cây cau mà Quan Thoại phiên âm là “pin láng”-tân lang( ở Malaixia có thành phố Pênang).Còn từ bào thì đã rõ rồi,chỉ có người Việt và người Hoa mới có từ “đồng bào” nghĩa là con cùng một bọc.Nhưng khi giải thích từ “nang bào” là chữ “ Hán cổ”thì có nghĩa là người Hán đã nghiên cứu tế bào não từ thời cổ đại chứ chưa đợi đến khi có y học của khoa học phân tích của phương Tây mới biết. Lãn Miên
  20. Lối đếm theo hệ nhị phân của người Lạc Việt Kỹ thuật công nghệ cao của nhân loại ngày nay phát triển với tốc độ nhanh đến chóng mặt, tính từng ngày chứ không phải từng năm.Nhưng sự phát triển tư duy của loài người từ khi còn là người nguyên thủy chắc là phải rất chậm chạp.Thể hiện ở đứa trẻ sơ sinh khi bắt đầu tập nói đến khi hiểu và biết đếm từ một đến mười là phải mất dăm tháng.Người Lạc Việt cũng phải trải qua các hệ đếm từ ít con số đến nhiều con số,mà hệ đếm thập phân từ một đến mười là đã có từ rất xa xưa.Các từ chỉ con số trong hệ thập phân là không (nòng), một, hai,ba,bốn,năm,sáu, bảy, tám,chín, mười trong tiếng Việt là những từ thuần Việt.Ở mỗi hệ đếm đã trải qua, dù là ít con số đều để lại dấu ấn của con số nhiều nhất trong hệ đếm đó mang nghĩa là “nhiều”.Ví dụ nếu hệ đếm ban đầu chỉ có 2 con số thì “hai” đã để lại các từ: “bay”(ngôi thứ hai số nhiều), “hăng-hái”, “trống-trải”,bừa-bãi”…,rõ ràng người Việt ai cũng hiểu “hăng-hái”nhiều hơn hăng,”trống-trải”nhiều hơn trống, “bừa -bãi” nhiều hơn bừa.Nếu hệ đếm chỉ có 3 con số thì con số nhiều nhất trong hệ đó là “ba”đã để lại: “cả” là nhiều nhất, là tất cả,tất là hoàn tất tức hết vòng đếm; “đã” cũng là nhiều nhất (ăn “đã”quá rồi,sướng “đã”quá rồi), “chung-chạ”, “vật-vạ”, “la-cà”, “vất-vả”…đều là mang ý nhiều nhất. Nếu hệ đếm chỉ có 4 con số thì con số nhiếu nhất trong hệ đếm đó là “bốn” đã để lại “bọn”, “bộn”, “lổn nhổn”, “lộn-xộn”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm chỉ có 5 con số thì số đếm nhiều nhất trong hệ đó là “năm” ( “prăm” trong hệ đếm ngũ phân của người Khơ Me) đã để lại “dăm”, “lắm”(Từ này trong Quan Thoại phát âm là “rán” nhưng những từ ghép với “rán” thì lại đều là ghép theo cú pháp Việt,tức chính trước phụ sau,như “dư rán”-tự nhiên,nghĩa là tự sinh ra lắm thứ,chỉ vũ trụ; “thian rán”-thiên nhiên,nghĩa là trời sinh ra lắm thứ,chỉ trái đất; “liẻo rán”-liễu nhiên,tức biết lắm; “hoang rán”-hoang nhiên,tức hoảng lắm; “xin xin rán”-hân hân nhiên tức hớn hở lắm…mà chúng chỉ có trong văn viết chứ không có trong khẩu ngữ.Cú pháp Quan Thoại thì phụ trước chính sau,như nói “hẩn hảo” là rất tốt chứ không nói “tốt lắm”như Việt.Người Hoa vẫn nói “théng xẻo tứa”là nghe hiểu được như cú pháp Việt chứ không nói “thing tứa tủng”là nghe được hiểu như Quan Thoại), “nạm”, “nắm”, “mắm”,chăm-chắm,băm-vằm…đều nghĩa là nhiều.Nếu hệ đếm chỉ có 6 con số thì số nhiều nhất trong hệ đó là “sáu”(người Hồ Nam đến nay vẫn nói là “lấu”) để lại: “sau”(cuối cùng tức hết vòng đếm), “nậu”(số nhiều ngôi thứ ba), “nẫu”, “lâu”, “máu”(ham nhiều), “đau-đáu”, “hau-háu”, “láu-táu”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm là có 7 con số thì số nhiều nhất của hệ đó là “bẩy” để lại: “bầy”, “sây”, “bầy-hầy”, “lầy-nhầy”, “tung-tẩy”, chối “đây-đẩy”, “vung-vẩy”,run “lẩy-bẩy”…đều ý là nhiều(“Thời các nước Ngô,Sở,Việt,ở đó người ta đông dân và giàu có hơn Trung Nguyên nhiều vì họ lắm lúa gạo,và tiếng nói của họ thuộc hệ ngữ Nam Á khác xa tiếng Trung Nguyên,họ còn có cả hệ đếm thất phân có 7 con số”-theo nhà văn quá cố Nhật Bản Shiba Ryôtarô-trích tạp chí Xưa và Nay,hội sử học Việt Nam).Nếu hệ đếm có 8 con số thì số nhiều nhất của hệ đó là “tám” đã để lại “ham”, “hám”, “tham-lam”, “đẫm”, “thâm”, “thắm”, “thăm-thẳm”, “lảm-nhảm”…đều ý là nhiều.Nếu hệ đếm là 9 con số thì số nhiếu nhất của hệ đó là “chín” đã để lại: “chùm”, “trùm”, “chòm”, “túm- tụm”, “xỉn”, “bịn-rịn”…đều ý là nhiều(Thời Văn Lang đã có hệ đếm này nên Vua Hùng mới đòi “nhiều”nhất là “voi chín ngà,gà chín cựa,ngựa chín hồng mao”).Hệ thập phân chắc là xuất hiện sau cùng,nhưng cũng thời cổ đại rồi,lúc đó là hệ đếm từ số “chắc” đến số “chục”. “Chắc” là 1,là có,là biết( tiếng Tày “chắc”nghĩa là biết, cặp đối nghịch “bố/chắc” của tiếng Tày tức “không/biết”, tương ứng “0/1”,thì cũng như cặp “nỏ/có” của tiếng Việt hay “no/count” của tiếng Anh là “không/đếm”,có 1 rồi mới bắt đầu đếm được chứ). “Chắc” là hạng nhất,là “number one” nên được hơn cả gọi là “đắc”,đậm hơn cả gọi là “đậm-đặc”,nồng hơn cả gọi là “nồng-nặc”,dài hơn cả gọi là “dằng-dặc”,lâu hơn cả gọi là “lâu-lắc”,sáng vàng hơn cả gọi là “vằng-vặc”….Con số “chục”là con số nhiều nhất của hệ đếm này nên “chục” cũng để lại các từ mang ý nhiều như “lục- đục”, “cậy-cục”, “đông-đúc”, “nhung-nhúc”…Nhưng cổ xưa hơn,do người Lạc Việt đã lấy cái nôi là cái bọc tròn biểu tượng Âm Dương như một phương tiện kỹ thuật do mình sáng tạo ra để VO tròn mọi từ đa âm tiết vốn có từ xưa thành từ đơn âm tiết có kèm thanh điệu nảy sinh (đương nhiên),nên số đếm hệ thập phân của người Lạc Việt lúc đầu nó là từ MÔ đến MƯỜI.( “Mười” là nhiều nhất nên mới có “thời cơ đã chín muồi”, “ru con con ngủ cho muồi” đều là biểu thị ý nhiều cả).Bởi trong tiếng Khơ Me số 1 là “muôi”,là một thực thể,nó là từ “mỗi” trong tiếng Việt ,ở Quan Thoại nó là chữ 每 đọc là “mẩy” rõ ràng là từ mượn của Việt vì nó không đẻ ra các từ cùng gốc “m” trong nôi khái niệm Âm Dương theo cách sinh sản tự tách đôi của tế bào.Còn MỖI trong nôi khái niệm Âm Dương của người Lạc Việt đã đẻ ra MẬP-MỜ, “mập-mờ” là cái phôi đang tự tách đôi trong cái bọc Âm-Dương,nghĩa của nó là “chưa rõ hẳn,chưa biết là 0 hay là 1”,con MẬP là con Âm(như con Nòng của từ dính Nòng-Nọc) nhưng mang tính dương,lớn đủ trong nôi rồi nó tách hẳn ra độc lập là MỘT(là 1 tức Dương);con MỜ là con Dương( như con Nọc của từ dính Nòng-Nọc) nhưng mang tính âm,lớn đủ trong nôi rồi nó tách hẳn ra độc lập là MÔ (là 0 tức Âm,MÔ mới dẫn đến từ VÔ,âm tiết dân dã có trước,hàn lâm có sau nên mới có chữ vô無;viết là “nam vô A di đà Phật南無阿彌陀佛”nhưng lại tụng là “nam mô A di đà Phật”-tất nhiên đây chỉ là những chữ ký âm cho câu tiếng Phạn).Một thực thể MỖI mà trong tiếng Việt đã thành ra bốn khái niệm: “Mỗi”, “Mập-Mờ”, “Mô”, “Một”,nhưng tổng số âm tiết thì lại là có năm âm tiết:MỖI=MÔ…MẬP-MỜ…MỘT,nếu viết bằng chữ Hán thì được sẵn có một chữ MỖI每 (là âm tiết “mỗi” mà Quan Thoại đã mượn của Việt và phát âm là “mẩy”), còn lại bốn âm tiết kia là MÔ,MẬP,MỜ,MỘT rõ ràng là phải viết bằng chữ Nôm.Các nhà Hán-Nôm học nói là “chữ Nôm khó gấp năm lần chữ Hán”chắc chắn là do cái nguyên nhân này. (Về sự VO tròn-PROPRO nghĩa là lăn tròn- từ đa âm tiết để thành từ đơn âm tiết thì không chỉ ví dụ từ ngôn từ Khơ Me sang ngôn từ Việt,mà còn thấy rõ từ ngôn từ Nhật sang ngôn từ Việt,làm cho từ đa âm tiết bị vò rụng đầu rụng đuôi còn lại mỗi âm tiết lõi ở giữa.Ví dụ “Ô-NA-DI”nghĩa là “giống nhau”của tiếng Nhật,vò rụng mất đầu Ô và đuôi DI,còn lại mỗi NA là “na-ná” rồi thành “như”(ở đây cũng thấy rõ là dân dã “na-ná” có trước rồi mới đến hàn lâm “như” có sau,chữ “như” 如thì đã có sẵn chữ Hán lấy từ người Hoa,chứ “na”và “ná”thì phải bằng hai chữ Nôm thôi).Một câu tiếng Nhật như: “Ni-hôn-Gô Ga,Bê-tô-na mư-Gô Ga,Đê-wa Ô-na-di Đê-xư Nế!”( “Nhật ngữ và Việt ngữ, thế mà, giống nhau đấy nhé” ) dịch theo dân dã (chứ không phải giải thích theo ngữ pháp kiểu hàn lâm) mà đúng sát ý từng từ 100% thì câu đó là “Nhật-Bản Gọi Cả,Việt-Nam Gọi Cả,Thế-mà, Na-Ná Đấy Nhé”.Người Việt vẫn nói “tôi cả anh đi chơi nhé” tức là “tôi và anh đi chơi nhé”,từ “cả” là từ cổ hơn của “và”.Có “Na”(mà tiếng Đài Loan gọi là “la”, Đài-ngữ cũng còn gọi là Đài-la,tiếng Việt có từ “la-lối”, “la lối” om sòm nghĩa là “nói lời” om sòm) rồi mới có “Nói” rồi mới đến “Gọi”(đều là từ thuần Việt cả),mà hàn lâm viết âm tiết “gọi” bằng chữ “Ngữ” 語,Quan Thoại đọc là “ủy”,người Nhật đọc là “Gô”,người Đài Loan đọc là “Gí”, “Đài Gí” là “Đài gọi” , “Đài gọi” chẳng là “tiếng Đài Loan” thì là gì?cũng như Nôm Na nghĩa là người Nam nói hay gọi là tiếng Nam cũng vậy). Cái hình tròn biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt ,chỉ xét khía cạnh số, thì nó đúng là một “bit” thông tin,cho ra 2 giá trị là Âm tức 0 và Dương tức 1.Đó là xét trên một mặt phẳng,đã có được một “bit” thông tin.Nhưng vì nó là một cái bầu hình cầu như một giọt nước,trong đó có con Nòng và con Nọc,nên nếu cứ cắt đối xứng tâm theo đủ các hướng thì sẽ có ty tỷ mặt phẳng tức được ty tỷ “bit” thông tin.Trong tin học thì bit thông tin là đơn vị chuyển tải thông tin,8 bit thì bằng 1byte,rồi nhiều tới KB(ki-lô byte),MB(mê-ga byte),GB(ghi-ga byte).Số giá trị của bit là m=2.Lượng bit sử dụng tức độ dài của thông tin là: n bit. Lượng thông tin có thể chuyển tải là: N, lượng này được tính bằng công thức: N=mn . Như vậy khi người Lạc Việt cổ đại dùng 2 ký tự kẻ vạch như hai giá trị của một bit thông tin là (—) tức 1 và (——) tức 0 để đếm theo hệ nhị phân ,và lấy từ trong cái bầu Âm Dương Lạc Việt ra để sử dụng một lượng chưa nhiều bit thông tin,họ đã tạo ra được: Ở bộ Tứ Tượng thì lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=22= =4 tổ hợp (chuyển tải được bốn tổ hợp thông tin,tức tứ cái tượng),ở đây độ dài thông tin là n=2 bit ,được ký hiệu bằng hai hàng kẻ vạch.Ở bộ Bát Quái thì lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn= 23=8 tổ hợp (chuyển tải được tám tổ hợp thông tin,tức tám cái quẻ), ở đây độ dài thông tin là n=3 bit ,được ký hiệu bằng ba hàng kẻ vạch.Nếu cứ như vậy đếm tiếp tất sẽ đến độ dài thông tin n=4 bit, ký hiệu bằng bốn hàng kẻ vạch,cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=24=16 tổ hợp thông tin.Rồi đến độ dài thông tin n=5 bit,ký hiệu bằng 5 hàng kẻ vạch,cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=25=32 tổ hợp thông tin.Nhưng cái sử dụng 4 hàng kẻ vạch và 5 hàng kẻ vạch bị mất tăm tích đâu trong lịch sử ,không còn truyền lại.Nên kế tiếp đến ta còn thấy ngày nay là sử dụng độ dài thông tin n=6 bit, ký hiệu bằng sáu hàng kẻ vạch cho ra lượng thông tin có thể chuyển tải là N=mn=26=64 tổ hợp (chuyển tải được 64 tổ hợp thông tin,tức 64 quẻ dịch).Về con số và hệ đếm nhị phân để chuyển tải thông tin thì chỉ đơn giản vậy thôi,mới dùng đến có 6 bit để chuyển tải được 64 thông điệp,mà thông điệp đầu tiên là 000000 đó là quẻ KHÔN (có 6 bit tức 6 hàng kẻ,mỗi bit ——tức mỗi hàng kẻ mang giá trị là 0 tức Âm) và thông điệp cuối cùng là 111111(có 6 bit tức 6 hàng kẻ,mỗi bit — tức mỗi hàng kẻ mang giá trị là 1 tức Dương).Ngày nay máy tính dùng tới 8 bit (là một byte) để mã hóa con chữ cái Latin,ví dụ chữ A là 01000001,chữ M là 01001101 (tương tự như số điện thoại của anh A và số điện thoại của mụ M,thành phố càng đông hộ dùng càng phải tăng số bit tức số điện thoại càng nhiều con chữ số hơn).Còn bộ nhớ để chứa dữ liệu thì có dung lượng đến hàng trăm GB (Ghigabyte). Dùng 6 bit để chuyển tải được 64 thông điệp (64 quẻ dịch) mới chỉ là dùnglượng bit rất ít,sơ khởi trong công nghệ thông tin (thập niên 60 của thế kỷ trước).Nhưng 64 quẻ dịch của người Lạc Việt lại là có từ thời tiền sử(tức chưa khi còn chưa có chữ viết) cách nay non chục ngàn năm, kể cũng thú vị,nhưng cái thú vị nhất và quan trọng nhất lại là ở ứng dụng từng mỗi thông điệp mà người ta gọi là mỗi quẻ trong 64 thông điệp đó ở khía cạnh triết lý.Về mặt này thì các học giả Trung Hoa hàng mấy nghìn năm qua dùi mài,viết hàng ngàn cuốn sách,thực đáng trân trọng và kính nể.Chứ còn sử dụng có 6 bit thông tin để có 64 thông điệp thì trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ người ta đã sử dụng rồi ( hồi đó tôi cứ ngờ ngợ là sao họ lại lấy 64 quẻ dịch của người Việt trong sách của Nguyễn Hiến Lê để làm phần mềm cho công nghệ mà đem wuýnh người Việt ),có điều là sử dụng công nghệ phần cứng của họ ,rồi vận dụng 64 thông điệp theo cách của họ ,chứ không đếm xỉa gì đến khía cạnh triết lý của từng “quẻ dịch” trong lượng 64 thông điệp đó,mới thành ra là lấy 64 quẻ dịch của người Việt để wuýnh người Việt nhưng lại không tư duy triết lý như người Việt tư duy, nên mới wuýnh không lợi người Việt. Cái nôi biểu tượng Âm Dương có con Âm và con Dương quấn quýt ôm tròn lấy nhau ở bên trong là của người Lạc Việt tạo ra như một công cụ để có nhiều ứng dụng trong nhiều lĩnh vực.Cũng lại người Lạc Việt tạo ra ký tự kẻ vạch để rồi có lối đếm nhị phân.Tên gọi các con số từ một đến mười để lại dấu ấn trong ngôn từ Việt đậm nét như thế nào thì như đã trình bày ở trên rồi.Tương tự như vậy,lối đếm nhị phân của người Lạc Việt cũng lại để lại dấu ấn của nó trong ngôn từ Việt.Ở trên ta đã thấy là 2 tổ hợp là nhị nguyên,gấp đôi lên có 4 tổ hợp là tứ tượng,lại gấp đôi lên có 8 tổ hợp là bát quái,gấp đôi lên nữa có 16 tổ hợp,gấp đôi nữa có 32 tổ hợp,gấp đôi nữa được 64 tổ hợp là những quẻ dịch.Nhị nguyên,tú tượng,bát quái và dịch thì còn đến ngày nay như ta thấy,thế còn tổ hợp 16 và tổ hợp 32 để cho nó liên tục trong phát triển đếm thì nó mất đâu mất rồi?Bụi lịch sử đã phủ chìm nó mất tăm tích hay nền văn minh đó đã bị tàn phá cho sụp đổ.Nhưng một chút xíu le lói của cái 16 tổ hợp (còn 32 tổ hợp vẫn chưa thấy đâu) tôi nhìn thấy trong cách đếm trái cây hay hột vịt lộn bán hàng của người dân miền Tây Nam Bộ ,đó là chục=16.Có người giải thích vì đó là do họ hào phóng (sao không lấy chục là 15? hoặc chục là 17 cho nó hào phóng hơn?).Nó ắt phải có nguyên do lịch sử từ trong tâm thức.Người Việt quen đếm từng đôi,ở miền núi phía Bắc dân bản đi chợ bán gà cứ một rọ nhỏ là nhốt hai con gà, trống mái bất kể,có thể nhiều rọ, nhưng một rọ cứ phải là hai con,để dễ gấp đôi gấp đôi số gà đếm bán.Cách đếm ấy chính là đếm lượng thông tin được chuyển tải,tức đếm N=mn,tức đếm theo lũy thừa của cơ số 2.Lối đếm mà số sau cứ gấp đôi số trước sát nó đã để dấu ấn trong ngôn từ Việt bằng nhiều cách nói khác nhau(nghe thì nó có vẻ như tiếng nói lóng của dân buôn lậu): 0=0=ỡm (ỡm=âm=0) 20=1=ờ (ờ=ừ=có=1 , nói “ỡm-ờ” tức nói không rõ là 0 hay1) 21=2=ơi (tiếng gọi ngôi nhân xưng thư hai) 22=4=ấy (tiếng gọi ngôi nhân xưng thứ tư, “tao,mày ,nó,thằng ấy) 23=8=ôm (một ôm bằng tám bó) 24=16=ắp (đầy ắp là đầy một chục của người miền Tây Nam Bộ) 0=0=ứ (ứ=không,không tin cứ hỏi trẻ sơ sinh mới tập nói coi ) 20=1=ừ (ừ =1=có) 21=2=u (ngôi nhân xưng đầu tiên của trẻ là mẹ nó,mẹ=u) 22=4=ấy (ngôi nhân xưng thứ tư, “tao,mày,nó,thằng ấy) 23=8=um (um=túm=tám) 24=16=úp (đủ chục miền Tây rồi) 0=0=bỏ (bỏ=không đếm cái đó,bỏ=0) 20=1=bênh (đứng về một phe gọi là bênh,bênh=1) 21=2=bè (có người thứ hai làm bạn là bắt đầu thành một bè,bè=2) 22=4=bốn 23=8=bản 24=16=bằng (bằng lòng rồi,đủ chục 16 rồi) 0=0=cóc (cóc có=không có , cóc=0) 20=1=cái (cái=một đơn vị để đếm,lượng từ đếm đồ vật) 21=2=cặp (cặp=đôi=2) 22=4=cụm 23=8=cỡm (cỡm=cớm=râm=tám) 24=16=cọc (đủ chục đồng tiền=16) 0=0=chăng (chăng=không=0) 20=1=chiếc (lượng từ,một đơn vị) 21=2=chẵn (có hai mới chẵn,chẵn=2) 22=4=chắt (ngôi thứ tư, “cha,con,cháu ,chắt”) 23=8=chòm 24=16=chục (chục miền Tây Nam Bộ) 0=0=dóc (nói dóc=nói không có thực,dóc=0) 20=1=dé ( lượng từ cấy lúa,đơn vị nhánh lúa) 21=2=duộc (hai đứa vào một duộc) 22=4=dúm 23=8=dỏ (thứ đựng nhỏ,đựng được 8 dé) 24=16=dành (thứ đựng lớn ,đựng được chục dé) 0=0=đếch (đếch có=không có) 20=1=đứa (lượng từ đếm động vật) 21=2=đôi (đôi=2) 22=4=đúm 23=8=đám (phường bát âm phục vụ các đám có 8 người) 24=16=đàn (đủ bầy,đủ chục) 0=0=gột (gột=sạch=0) 20=1=gút (lượng từ đếm thắt gút) 21=2=gánh (một gánh bằng hai thúng) 22=4=gây (bắt đầu nhân ra nhiều=bộn=4) 23=8=gom 24=16=gang (đủ vòng đếm=đủ chục) 0=0=hổng (hổng có=không có,hổng=0) 20=1=hệt (giống hệt=như có,hệt=có=1) 21=2=hai 22=4=ham (bắt đầu thích nhiều) 23=8=hum (số lớn,con hùm=con cọp lớn) 24=16=hàng (xong hàng=đủ chục) 0=0=không 20=1=khía (“nói về khía cạnh này”= “nói về một cạnh này”, khía=1) 21=2=khua (cầm hai đũa mà khoắng) 22=4=khắt (gò bốn thành bó) 23=8=khóm (khóm mía=8 cây mía) 24=16=khựng (đếm đủ chục rồi ,dừng lại) 0=0=láo (nói láo=nói không có sự thực,láo=0) 20=1=lẻ (lẻ=lẻ-loi=1) 21=2=lứa (“xứng đôi vừa lứa”,lứa=2) 22=4=lượm (bốn nắm được một lượm) 23=8=lẫm (để chứa nhiều) 24=16=lấp (đủ khỏa lấp vòng đếm=đủ chục) 0=0=mất (mất=mô=0) 20=1=một 21=2=mai (mai=ngày thứ hai,mày=ngôi nhân xưng thứ hai) 22=4=mang (bắt đầu sang nhiều=đa mang) 23=8=mường (nơi quần cư nhiều) 24=16=mập (đủ béo=đủ chục) 0=0=nỏ (nỏ=mô=không=0) 20=1=nẻ (nẻ=một kẻ) 21=2=nạnh (có hai người là bắt đầu tị nạnh,nạnh=2) 22=4=nửa (đã ở mức giữa) 23=8=nạm (nạm=nắm=nhiều) 24=16=nẫm (nầm-nẫm=tròn lẳn=hết vòng đếm=đủ chục) 0=0=nhẵn (nhẵn=hết nhẵn=0) 20=1=nhỏ 21=2=như (có cái thứ hai mới so sánh ,như cái trước vừa đếm) 22=4=nhớn (bắt đầu nhiều) 23=8=nhóm 24=16=nhận (đủ vòng đếm=đủ chục=giao hàng) 0=0=ngỏ (bỏ ngỏ=bỏ trống=bỏ không,ngỏ=0) 20=1=người (người=kẻ=1,lượng từ đếm người) 21=2=ngài (gọi ngôi nhân xưng thứ hai) 22=4=ngửa (bắt đầu lật sang phía nhiều) 23=8=ngòm (đen ngòm=đen nhiều,ngòm=nhiều,bát quẻ đến 8 là nhiều) 24=16=ngang (đã đủ=hết vòng đếm-chục) 0=0=phét (nói phét=nói điều không có,phét=0) 20=1=phọt (phọt-phẹt=trình độ còn kém,chưa rõ đâu 0 đâu 1, phọt=1) 21=2=phe (chia phe=chia 2 bên để chọi nhau,phe=2) 22=4=phum (bắt đầu nhiều) 23=8=phường (nhiều) 24=16=phải (đủ chục rồi,hài lòng) 0=0=quái (có quái gì đâu=không có gì đâu,quái=0) 20=1=que (que=kẻ=1) 21=2=quang (quang=hai chiếc gióng để gánh) 22=4=quây (bắt đầu nhiều) 23=8=quần (nhiều,8 quẻ là một quần thể của bát quẻ) 24=16=quả (quả=kết quả=trọn vòng đếm=chục) 0=0=rỗng (rỗng=không có=0) 20=1=rõ (rõ=rõ mồn-một=kẻ=1) 21=2=róng (sóng đôi,song song,róng=2) 22=4=rậm (bắt đầu sang nhiều) 23=8=rám (nhiều) 24=16=rạp (đã đầy nặng=đủ chục) 0=0=suông (nói suông=nói không kèm theo gì khác, suông=0) 20=1=sắt (sắt=chắc=1,son sắt=như đinh đóng cột=khẳng định=1) 21=2=song (song đôi=hai người,song=2) 22=4=son (bắt đầu đỏ nhiều) 23=8=sàng (“đi một đoạn đàng,học một sàng khôn”,sàng =nhiều) 24=16=sảy (công đoạn cuối cùng của xay lúa,sảy=đủ vòng đếm=chục) 0=0=tò (tò=toi=chết=hết=0) 20=1=te (“ngẩn tò te”=ngạc nhiên vì trước đó còn mập-mờ,te=1) 21=2=tí (tí=còn ít) 22=4=túm (bắt đầu nhiều) 23=8=tám 24=16=tá (tá=chục 16) 0=0=thín ( “nhãn thín”= “nhẵn không còn gì nữa”, thín=0) 20=1=thọt ( thọt=chỉ còn một,thọt=1) 21=2=thứ ( bắt đầu từ hai là con thứ) 22=4=thầy ( bắt đầu lên trên) 23=8=thắm ( nhiều) 24=16=thập ( đủ chục) 0=0=trống ( trống=không có gì,trống=0) 20=1=trọi ( trơ trọi=một mình,trọi=0) 21=2=trung ( trung=ở giữa,đếm từ 0 đến 24) 22=4=trưa ( trưa=tra=già=quá nửa) 2=3=8=trắm (đã nặng nhiều) 24=16=trúng (đủ chục,hài lòng) 0=0=vắng (vắng=không có mặt,vắng=0) 20=1=vẻ (tỏ vẻ=tỏ ra là một,vẻ=1) 21=2=vài 22=4=vừa (mức trung bình=4) 23=8=vốc 24=16=vặn (đủ chục) 0=0=xo (ngồi buồn xo=ngồi buồn không biết làm gì, xo=0) 20=1=xiên (cái xiên=cái que=kẻ=1) 21=2=xái (trà nước xái=trà nước thứ hai,xái=2) 22=4=xâu (một xâu bốn con cá) 23=8=xúm (nhiều) 24=16=xong (đã đủ chục) Gom lại để bạn đọc dễ theo dõi: 1. Ỡm-Ờ-Ơi-Ấy-Ôm-Ắp 2. Ứ-Ừ-U-Ấy-Um-Úp 3. Bỏ-Bênh-Bè-Bốn-Bản-Bằng 4. Cóc-Cái-Cặp- Cụm-Cỡm-Cọc 5. Chăng-Chiếc-Chẵn-Chắt-Chòm-Chục 6. Dóc-Dé-Duộc-Dúm-Dỏ- Dành 7. Đếch-Đứa-Đôi-Đúm-Đám-Đàn 8. Gột-Gút-Gánh-Gây-Gom-Gang 9. Hổng-Hệt-Hai-Ham-Hum-Hàng 10. Không-Khía-Khua-Khắt-Khóm-Khựng 11. Láo-Lẻ-Lứa-Lượm-Lẫm-Lấp 12. Mất-Một-Mai-Mang-Mường-Mập 13. Nỏ-Nẻ-Nạnh-Nửa-Nạm-Nẫm 14. Nhẵn –Nhỏ-Như-Nhớn-Nhóm-Nhận 15. Ngỏ-Người-Ngài-Ngửa-Ngòm-Ngang 16. Phét- Phọt-Phe-Phum-Phường-Phải 17. Quái-Que-Quang-Quây-Quần-Quả 18. Rỗng-Rõ-Róng-Rậm-Rám-Rạp 19. Suông-Sắt-Song-Son-Sàng-Sảy 20. Tò-Te-Tí-Túm-Tám-Tá 21. Thín-Thọt-Thứ-Thầy-Thắm-Thập 22. Trống-Trọi-Trung-Trưa-Trắm-Trúng 23. Vắng-Vẻ-Vài Vừa-Vốc-Vặn 24. Xo-Xiên-Xái-Xâu-Xúm-Xong Ta hãy xem những cặp từ đối nghịch tương ứng Âm/Dương,tương ứng biểu thị 0/1tức Không/Có trong tiếng Việt: Ỡm/Ờ (Ỡm=Âm=0 , Ờ=Ừ=1,ỠM/Ờ=0/1)) ; Ứ/Ừ ( Ứ/Ừ=0/1. Ở đây thấy rõ là cùng một âm tiết “ư”,chỉ cần thêm thanh điệu đối nghịch Âm/Dương là trắc/bằng tức sắc/huyền là có được hai khái niệm đối nghịch là Ứ/Ừ.Đây không phải là do nhà ngữ pháp học hàn lâm về sau này đặt ra mà là xuất hiện tự nhiên trong lối nói dân dã từ thời cổ đại,tôi quả quyết từ “Ứ”và từ “Ừ” cũng là những từ cổ,cụ thể đứa trẻ Việt sơ sinh khi bắt đầu biết nói những từ đầu tiên thì đó là những âm tiết lõi không có phụ âm đầu ,đó là những từ U (gọi mẹ) , Ứ (lắc đầu) , Ừ (gật đầu) , Ị (đòi ỉa) , Uống (đòi uống), Ăn (đòi ăn), Ẵm (đòi bồng) đều là những nhu cầu sát sườn nhất của nó cả. Ả/Ạ ( Ả là dấu hỏi,Hả?tức không biết,không biết thì mới hỏi,Ả=0, vâng ạ=vâng có, Ạ=có=1, Ả/Ạ=0/1)) BỎ/BÊNH ( BỎ là do gen của MÔ=NỎ=0 , BỎ là không coi tồn tại,không tính,không đếm, BỎ=0 ;tao bênh mày=tao có đồng ý với mày, BÊNH=CÓ=1, BỎ/BÊNH=0/1)). CÓC/CÁI (CÁI là lượng từ một cái khi đếm, CÓC/CÁI=CÓC/CÓ=0/1) DÓC/DÉ (,nói dóc=nói không, DÓC=O;DÉ là lượng từ đếm dé lúa , DÓC/DÉ=0/1) ĐẾCH/ĐỨA (đếch có=không có, ĐẾCH=0; ĐỨA là lượng từ đếm động vật, ĐẾCH/ĐỨA=0/1) GỘT/GÚT (Đây là khi đếm số thắt gút trên sợi dây thừng,GỘT về sau tồn tại ở nghĩa gột sạch tức xóa sạch không còn gì nữa, GỘT=0, GÚT là lượng từ đếm, GỘT/GÚT=0/1) HỔNG/HỆT (HỔNG là do gen của Nòng=0, lỗ hổng là cái lỗ không có gì vướng bên trong, hổng có=không có, HỔNG=0; HỆT là một sự tồn tại, giống hệt cái gì đó là giống một sự tồn tại của cái gì đó,về sau hàn lâm viết “hệt” bằng chữ “hoạt”活nghĩa là sống, có thì mới sống chứ không có lấy gì sống, HỆT=CÓ=1, HỔNG/HỆT=0/1) KHÔNG/KHÍA (KHÍA là lượng từ khi đếm khắc kẻ vạch,một khía=một kẻ, KHÍA=1, KHÔNG/KHÍA=0/1) LÁO/LẺ (nói láo=nói không, “nhược bằng nói láo nói không,ông lôi ra đánh trượng đồng chẳng tha”, LÁO=0, LẺ là lượng từ đếm khi đong lúa, LÁO/LẺ=0/1) MẤT/MỘT (MẤT là không còn, MẤT=0, MẤT/MỘT=0/1) NỎ/NẺ (NỎ=MÔ=0, nỏ có=mô có=không có, NỎ=0, NẺ=LẺ=0, NỎ/NẺ=0/1) NHẴN/NHỎ ( hết nhẵn=hết không còn gì nữa,NHẴN=0; NHỎ là lượng từ đếm trẻ con, NHẴN/NHỎ=0/1) NGỎ/NGƯỜI (bỏ ngỏ=bỏ không, NGỎ=0; NGƯỜI là lượng từ đếm người, NGỎ/NGƯỜI=0/1) PHÉT/PHỌT (nói phét=nói không, PHÉT=0, nước phọt ra=nước có ra, PHỌT=CÓ=1, PHÉT/PHỌT=0/1) QUÁI/QUE (có quái đâu=có mô mồ, QUÁI=MÔ=0; QUE là lượng từ đếm que trong trò chơi đánh chắt của trẻ em gai Việt, QUE=THẺ=KẺ=1, QUÁI/QUE=0/1) RỖNG/RÕ (RỖNG=TRỐNG=KHÔNG=0, hai năm rõ mười=hai năm có mười, RÕ=CÓ=1, RỖNG/RÕ=0/1) SUÔNG/SĂT (canh suông=canh không có thịt, suông=0; tấm lòng son sắt=tấm lòng trước sau như một, SẮT=1, SUÔNG/SẮT=0/1) TÒ/TE (tẽn tò=gặp cái không như mình ngầm đoán, TÒ=cái không=không=0; TE là lượng từ đếm gọng vó cất tép, TÒ/TE=0/1) THÍN/THỌT (nhẵn thín=nhãn không còn gì, THÍN=0; ông thọt=ông một chân, THỌT=1, THÍN/THỌT=0/1) TRỐNG/TRỌI ( nhà bỏ trống=nhà bỏ không, TRỐNG=KHÔNG=0; việc đồng có trọi em mần=việc đồng có một em mần, TRỌI=1, TRỐNG/TRỌI=0/1) VẮNG/VẺ (vắng mặt=không có mặt, VẮNG=0; tỏ ra vẻ anh hùng=tỏ ra một anh hùng, VẺ=1, VẮNG/VẺ=0/1) XO/XIÊN (nói xỏ xiên=nói không nói có, XO/XIÊN=0/1) Bạn sẽ thấy tại sao trong tiếng Việt lại tồn tại quá nhiều từ chỉ số 0 và quá nhiều từ chỉ số 1 như vậy?Và những từ cặp dính Âm-Dương như Mập-Mờ,Lấp-Lửng,Ỡm-Ờ…thì nhiều vô cùng?Điều này chứng tỏ người Lạc Việt là chủ nhân của thuyết Âm Dương và đã quá thuần thục lối đếm nhị phân từ thời cổ đại.
  21. Đọc sách sử xưa và nay Các nhân vật viết sách thời nhà Thanh đã viết: Ngụy Nguyên ,trong tập “Thánh Vũ kỷ lược” , ở mục “Khang Hy trùng định Đài Loan ký”,viết : Ung Chính nguyên niên, hoàng đế tức vị ra chiếu viết: “Đài Loan tự cổ bất thuộc Trung Quốc, hoàng khảo Thần Vũ (tức Khang Hy đế) đánh xa mới mở rộng bản đồ”.Và ở mục “Khang Hy kham định Đài Loan ký”,viết: “Năm 1679 (năm Khang Hy thứ 18) Thanh triều đề xuất hòa đàm lần cuối với họTrịnh ở Đài Loan, (Trịnh từng từ đảo Bành Hồ suất quân đánh đuổi người Hà Lan ,giải phóng được Đài Loan,rồi lấy Đài Loan làm căn cứ phản Thanh phục Minh) khi ra điều kiện cũng có nói: “Đài Loan bổn phi Trung Quốc bản tịch…” Thủy sư đề đốc Thi Lương (là quan nhà Thanh từ Phúc Kiến đánh ra cướp đoạt cơ nghiệp họ Triệu ở Đài Loan), trong tập “Tịnh hải ký sự”, ở mục “Phong hầu chế cáo”,viết : “Từ Minh triều đến nay vùng hải ngoại xa thú (chỉ Đài Loan) vẫn nằm ngoài vòng cương tỏa,nay ta phải nhập vào bản đồ”.Và ở mục “ Nhưỡng địa sơ bích thư”,viết : “Thần thấy mảnh đất này ,tự thiên địa khai bích cho đến nay,vẫn chưa được nhập vào bản đồ”. Lam Đỉnh Nguyên trong “Bình Đài ký lược tổng lục”,viết: “Đài Loan cổ vô nhân tri”.Và viết trong “Phúc chế quân Đài Cương kinh lý thư: “Đất Đài thời trướcTống,Nguyên chẳng có ai biết.Đến thời Minh có ba thuyền báu của Đại Lam Vương đi sang bên Tây dương,gặp bão đến đó tránh, mới lần đầu tiên biết đến có đất này) Căn cứ “Đại Thanh nhất thống chí” (Càn Long bản) : “Đài Loan tự cổ dĩ lai,tựu thị hoang phục chi địa,bất thông Trung Quốc”. Đệ nhị đại Hoàng đế Thế Tông của đế quốc Thanh,năm 1723 ban phát chiếu thư,cũng nói: “Đài Loan địa phương tự cổ bất thuộc Trung Quốc,(Thanh)Hoàng khảo thánh lược thần uy,thủ nhập bản đồ”. Đế quốc Mông Cổ cùng với triều Minh từng có thời gian ngắn chiếm hữu Bành Hồ,cũng đều bỏ mặc nó.Minh triều đối với hành vi chiếm lĩnh Đài Loan của Hà Lan cũng chẳng dị nghị gì. Đế quốc Mông Cổ suốt thời nhà Nguyên(Nguyên Thế Tổ 1264-1294, hoặc Thuận Đế 1335-1340) từng đặt tuần kiểm ty ở Bành Hồ.Năm 1367 đế quốc Mông Cổ bại vong.Triều Minh năm 1372 (năm Hồng Vũ thứ 5) phái khiển bộ tướng Dương Tín Quốc tiến hành công lược hải đảo.Khả năng là trong năm đó chiếm lĩnh đảo Bành Hồ.Dương Tín Quốc cho rằng dân Bành Hồ phản phúc vô thường, kiến nghị di dời họ sang các khu vực lân cận, thế là nhà Minh cưỡng chế toàn bộ dân Bành Hồ di dời vào lục địa Trung Quốc, đồng thời dẹp bỏ tuần kiểm ty, làm cho Bành Hồ thành nơi hoang phế, trở thành sào huyệt của bọn cướp biển triều Minh và Nhật Bản. Khoảng hai trăm năm sau,năm 1563 (tức “rằng năm Gia Tịnh triều Minh” thứ 43) lại lập lại tuần kiểm ty. Nhưng không lâu sau đó lại phế bỏ. Đến cuối thời nhà Minh, Bành Hồ đã biến thành sào huyệt cướp biển rồi. Đế quốc Mông Cổ và Nhà Minh tuy đều chiếm Bành Hồ thời gian ngắn và rồi cùng đều bỏ mặc nó. Cho đến thế kỷ 17 thời đại họ Trịnh (Đông Đô) chấm dứt, Đài Loan và Bành Hồ về địa lý và chính trị vẫn không phải là một thể thống nhất. Các vương triều Trung Quốc đều khăng khăng một tâm thái như Trung Nguyên, không coi trọng phát triển vương quốc phong kiến hàng hải. Đế quốc Mông Cổ và triều Minh trước sau chỉ công chiếm được Bành Hồ chứ không chiếm được Đài Loan. Chứng thực như , đế quốc Đại Thanh từng tuyên bố: “Đài Loan tự cổ vô nhân tri…”, “Đài Loan địa phương tự cổ bất thuộc Trung Quốc..”. Liên quan đến những tên chỉ Đài Loan mà trong sách sử có nói như Di Châu,Lựu Cầu,Lưu Cầu thì các học giả về sau cũng chưa có định luận. Sách sử sớm nhất xưa của sử Việt cũng có ghi về Đài Loan, có cái gần như là thần thoại. Những giả thuyết hồi thế kỷ 19 cũng có chỗ mâu thuẫn. Thế kỷ 16 người Bồ Đào Nha hải hành về phương Đông phát hiện hòn đảo này đã thốt lên:Ilha Formosa! Hòn đảo tuyệt đẹp!.Năm1622 (Thiên Khải nhà Minh, năm thứ 2 ) người Hà Lan chiếm lĩnh Bành Hồ. Nhà Minh mất quyền thống trị Bành Hồ,cực lực phản đối, người Hà Lan yếu thế về quân sự nên chấp nhận yêu cầu của nhà Minh, năm1664 rút khỏi Bành Hồ, đổ bộ lên Đài Giang (là vùng gần Đài Nam hiện nay), chiếm lĩnh Đài Loan, không cho nhập vào bản đồ bất cứ nước nào. Nhà Minh đối với hành vi này của Hà Lan chẳng biểu đạt dị nghị gì cả. Khoảng năm 1630 người Hà Lan (ở địa phương là An Bình ngày nay) lập thành phốThục Lan Giá (Zeelandia) làm thủ phủ chính quyền Đài Loan,cử thái thú đến cai quản Đài Loan (Gevernor and Director of the State of Tayouan and Formosa). Khoảng năm 1652 lại dời đô hộ phủ ấy đến Providentia theo tên người Hà Lan đặt, thuộc Đài Nam ,ở nơi mà ngày nay Đài Loan thiết lập thành phố Xích Khảm (là theo giọng phát âm của dân bản địa sở tại , từ thuở xa xưa vẫn gọi tên nơi của họ là nước Xích Khảm). Còn người Tây Ban Nha sau khi đã chiếm Philippin lại chiếm lĩnh Bắc bộ Đài Loan, năm 1626 chiếm đảo Cơ Long Xã Liêu (xưa gọi là Kê Long Xã Liêu,tức đảo Hòa Bình ngày nay), xây thành phố San Sanvador,đặt chức trưởng quan thuộc quản hạt của Tổng đốc ở Manila,nhưng sự thống trị của họ chỉ hạn chế ở khu vực nhỏ thuộc Đông Bắc Đài Loan. Năm 1642 người Hà Lan đánh lên phía Bắc trục xuất người Tây Ban Nha. Năm 1871 (thời vua Minh Trị năm thứ 4 của Nhật Bản) ngư dân O-ki-na-oa phiêu lưu vào Đông Nam Đài Loan bị dân Đài Loan giết hại.Chính phủ đế quốc Nhật Bản kháng nghị đòi nhà Thanh giải quyết thỏa đáng,vậy mà Tổng lý ngọ môn Thanh triều đương thời đáp rằng: “Đất ấy không phục vương hóa,không phụng chính lệnh,vị chi sinh loạn,Trung Quốc đối với ngoài vùng không thèm xử lý”. Nói vậy cũng bằng chủ trương coi Đài Loan là đất vô chủ. Năm 1874 (Minh Trị thứ 7) Nhật Bản xuất binh đánh chiếm Đài Loan, Mãn Thanh bồi thường Nhật Bản. Nguồn trích:http://blog.udn.com/dharma8889/3009380
  22. Sau hòa bình,năm 1958 Hồ Chủ Tịch khi đi thăm vùng có đông người Hoa sinh sống,Bác nói chuyện với họ bằng tiếng Quảng Đông và gọi họ là đồng bào Hoa (thực tế gen họ là người Hoa chứ đâu phải người Hán).Năm 1963 chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sang thăm Việt Nam,tại buổi đón ở sân bay Gia Lâm,trong bài phát biểu,Bác Hồ có nói: "Mối tình thắm thiết Việt Hoa.vừa là đồng chí vừa là anh em",Trung Quốc dịch là: "Việt Trung tình nghị thâm,đồng chí gia huynh đệ 越中情谊深,同志加兄弟“.Chỉ một chữ Trung thay cho chữ Hoa đã không chuyển tải đúng ý của câu nói của Bác.Ta thường nói Việt Nam-Trung Quốc đó là nói hai quốc gia,và hay nói tắt,người Việt Nam hay nói tắt "quan hệ Việt-Trung",người Trung Quốc hay nói tắt "quan hệ Trung-Việt"là nói quan hệ giữa hai quốc gia.Còn câu trên Bác Hồ nói là ý nói quan hệ giữa hai dân tộc.Dân tộc Việt hay dân tộc Hoa cũng là cùng một thủy tổ là từ thời ông Bàn Cổ trong thần thoại rồi tới ông Phục Hy thời tiền sử,nên là anh em là đúng rồi."Hoa"hay "Hoe"hay "Yue" cũng đễu là Việt cả.Câu nói của Bác Hồ cũng có thể hiểu là "Mối tình thắm thiết Việt Hoa,cùng một thủy tổ ắt là anh em"
  23. Dân gốc bản địa Đài Loan có chữ viết không? Theo cách nhìn của các nhà sử học,khảo cổ học,ngôn ngữ học hiện đại thì họ đều khăng khăng một luận điệu rằng không.Nhưng những năm 70,một học giả nổi tiếng chuyên nghiên cứu văn hóa cổ đại Đài Loan là giáo sưVệ Tụ Hiền衞聚賢đã viết cuốn “Quan hệ đồng bào miền núi Đài Loan và Việt Mân”, “Khảo cổ hang dơi của đồng bào miền núi Đài Loan”và nhiều cuốn sách khác.Trong các cuốn sách của ông đã sưu tập được nhiều tiêu bản về ký hiệu ghi sự việc,chữ tượng hình và chữ khoa đẩu của các sắc dân bản địa Đài Loan. 1.Ví dụ ký hiệu ghi sự việc của người Bố Nông: *布農族的符號記事 2.Hoa văn xăm mình của người sắc tộc Bài Loan: *排灣族紋身花紋的圖騰 So sánh với chữ tượng hình của người Lungo Lungo hệ ngữ Nam Đảo cư trú ở hòn đảo cực đông Polinêxia Nam Thái Bình Dương thuộc châu Nam Mỹ(đánh dấu E trong bảng so sánh) cùng chữ tượng hình của người Ấn Độ(đánh dấu I trong bảng so sánh)thì thấy tương tự nhau đến kỳ diệu: *印度文字I與復活節島倫哥倫哥文字E相比較 Nhưng chữ tượng hình của người Ấn Độ rõ ràng tiến hóa hơn theo hướng trở thành ký tự chứ không còn là ký hiệu.Vậy mà văn tự ấy của Ấn Độ có cách nay hơn 4000 năm.Nếu so bảng so sánh này với hình hoa văn vằn thân của sắc tộc Bài Loan bản địa của đảo Đài Loan thì thấy nó cũng lại tương tự với hai loại chữ tượng hình của người Ấn Độ và người Lungo Lungo Polinêxia,có điều là nó còn nặng chất ký hiệu hơn,tức theo logic nó phải có sớm hơn chữ tượng hình của người Ấn Độ,ít nhất nó cũng phải có cách nay từ 6000 đến 12000 năm,vậy mà thứ hình hoa văn đó của người bản địa Đài Loan vẫn tồn tại rất lâu dài,nó chỉ mới bị tiêu diệt cách nay vài trăm năm.Sự tương tự của chữ tượng hình chứng tỏ những tộc người trên đã có giao lưu với nhau qua đại dương,mà thời cổ đại khả năng vượt đại dương thì duy nhất chỉ có người Polinêxia là có thể.Hay họ đã là người đưa ký hiệu của người Đài Loan sang cho người Ấn Độ,để rồi người Ấn Độ nâng cấp lên thành ký tự?Khi nghiên cứu về gien,các nhà khoa học đã cho biết DNA của người Polinêxia minh chứng họ là xuất xứ từ Đài Loan. 3.Chữ Khoa Đẩu ở Đài Đông: Nhà ông Lâm Đăng Thái thị trấn Vĩnh Hòa Đài Bắc có cất giữ rất nhiều bản khắc gỗ của đồng bào miền núi Đài Đông.Ông Thái thời Nhật trị cư trú ở Đài Đông,sau độc lập mới di cư về Đài Bắc dựng vài căn nhà lá và một vườn hoa nhỏ,trong nhà và đình của ông treo và xếp đống rất nhiều bản khắc gỗ của đồng bào miền núi Đài Đông,trong đó có bốn bản khắc chạm nổi loại chữ hình rắn.Do người sắc tộc Bài Loan thờ rắn nên vẫn dùng hình tượng rắn làm thành văn tự vì rắn và nòng –nọc (ấu trùng của ếch)tương tự nhau,cho nên mới gọi là chữ khoa đẩu.Ông Lâm Đăng Thái từng đồng ý cho giáo sư Vệ Tụ Hiền chụp mấy bức ảnh bản phù điêu gỗ dưới đây: *台東排灣族凸刻木雕蛇紋 4.Chữ Khoa Đẩu ở đầm Nhật Nguyệt: Ngày 1-9-1959 ông Hoắc Bồi Hoa trước trú ở thị trấn Vĩnh Hòa Đài Bắc cùng vài người bạn đi thăm danh thắng đầm Nhật Nguyệt,phát hiện một số mảnh đá vỡ cạnh lều cỏ.Sau khi tìm hỏi và ngả giá xong ông mua hai tấm lớn nhất đem về cất ở nhà.Khoảng 1966 có tiệm “đặc sản Đài Loan”ở đầm Nhật Nguyệt thu mua văn vật miền núi,từng có dân miền núi đem những hòn đá có khắc chữ vằn vện đến ký gửi.Lâu không thấy ai mua,họ lại đến lấy về,từ đó mất tăm luôn.Hai tảng đá mà ông Hoắc Bồi Hoa mua về có khắc chìm chữ Khoa Đẩu.Sau nhiều nghiên cứu mà cũng chưa ai giải mã được.Sau đó trong buổi nói chuyện của giáo sư Vệ Tụ Hiền giới thiệu cuốn sách của ông “Quan hệ đồng bào miền núi Đài Loan và Việt Mân”trong đó có một tiêu bản điêu khắc chữ Khoa Đẩu ở bia đá Vũ Vương trong lục địa mà chữ tương tự như chữ ở đầm Nhật Nguyệt,mà bia Vũ Vương thì đã có cách nay 4200 năm.Chữ trên bia Vũ Vương là loại chữ đặc hữu của Hoành Sơn Nên người ta lấy tên đỉnh cao nhất của Hoành Sơn là Câu Lâu để gọi loại chữ này là Câu Lâu văn: *日月潭的蝌蚪文(chữ khoa đẩu ở đầm Nhật Nguyệt) *衡山禹王碑岣嶁文(chữ khoa đẩu ở bia Vũ Vương trên núi Hoành Sơn,loại chữ ấy gọi là Câu Lâu văn岣嶁文vì đỉnh Câu Lâu là đỉnh cao nhất của núi Hoành Sơn) 5.Thái cổ văn ở đảo Cơ Long Xã Liêu: (tên đảo đã cho thấy thuộc hệ ngữ Nam Đảo, “cơ long”là từ chữ “cù lao”, “pulao”mà ra-người trích) còn gọi là đảo Hòa Bình.Ở đảo này khai quật được bia đá có thái cổ văn là loại chữ con dơi,có sớm hơn bia Vũ Vương,tức khoảng 5000 năm trước.Bia này phát hiện được thời Nhật trị nên đã bị thu đưa về trưng bày ở viện bảo tàng đế thất ở kinh đô Nhật Bản. 基隆和平島出土的太古文石碑 Cổ thư chữ Hán có nhắc nhiều đến chữ khoa đẩu.Hậu Hán thư-Lô Thực truyện có nói:Cổ văn khoa đẩu.Nhan Sư ngày xưa đã chú:Cổ văn là sách trong vách nhà Khổng Tử.Văn tự ấy hình nó giống con khoa đẩu(nòng nọc)nên lấy con ấy mà đặt tên,gọi là chữ khoa đẩu.Tấn thư-Vệ Hằng truyện có nói:Thời Hán đế, Lỗ Cống Vương phá nát nhà Khổng Tử,lấy được Thượng thư,Xuân thu,Luận ngữ,Hiếu kinh.Người đương thời không biết khôi phục lại chữ cũ của họ Hùng ,nên họ gọi là chữ khoa đẩu(nguyên văn:時人不知復有古文,謂之蝌蚪文 “thời nhân bất tri phục Hữu cổ văn,vị chi khoa đẩu văn”-ở đây người trích cho rằng chữ Hùng có thể đã bị cạo mất thời nhà Thanh, “Hữu Hùng cổ văn”nghĩa là “chữ cũ họ Hùng”). Trích:Hà Hiển Vinh,hội khoa học Đĩa Bay Đài Loan 6.Tại sao người Đài Loan gọi mình là người Hạc Lào鹤佬 hay người Hà Lạc? 河洛?và tiếng Đài Loan cũng gọi là tiếng Hạc Lào hay tiếng Hà Lạc.Chữ MẪU母(mẩu-giọng Thanh hóa) người Nhật đọc là BÔ lại nói là theo giọng Ngô âm(gô ôn),người Đài Loan đọc là BU và họ gọi mẹ là bu,cũng như người Phú Thọ gọi mẹ là u,bu,bủ. (Trong tiếng Việt “b”biến thành “m”như“bồ hóng”biến thành “mồ hóng”, “buồn”biến thành “muộn”trong từ “sầu muộn”,tiếng dân dã là có trước,tiếng hàn lâm là có sau,đó là qui luật phát triển tự nhiên của mọi ngôn ngữ.Nhưng sách hàn lâm của ta thời nay lại giải thích “buồn”trong tiếng Việt là do chữ Hán “fán”tức phiền mà ra, “buồm”trong tiếng Việt là do chữ Hán “fán”tức phàn mà ra,nếu vậy hóa ra dân Việt biết buồn sau dân Hán?và dân Hán cưỡi ngựa du mục trên đồng cỏ sang dạy cho dân Việt làm buồm để đi thuyền vượt đại dương?Thời các con của Thành Cát Tư Hãn diệt xong nước Kim và nước Liêu phía bắc xong thôn tính nước Tống mới lập nên nước Nguyên,quân Nguyên Mông ba lần định chiếm Nhật Bản mà ba lần đều sợ sóng biển không dám đi,còn ba lần đánh Việt Nam thì cả ba lần đại bại vì thua tài thao lược của người Việt. Tôi quả quyết là “u”có trước “bu”và “bu”có trước “mẫu”.Từ “Âu Cơ”là âm của chữ ,có sau,vốn xưa “ÂU”phát âm là “U”-học giả An Chi có sưu tầm trong từ điển của Hồ Bắc xuất bản 1993 giải thích chữ ÂU xưa có hai âm là U nghĩa là người đàn bà ,và Ủ tức ấp ủ, là ủ cho trứng nở-.Chữ CƠ chính là chữ KỸ ,cũng nghĩa là người đàn bà,mà âm xưa nhất của nó là ĐĨ nghĩa là người đàn bà có khả năng đẻ,ĐĨ nguyên sơ chưa mang nghĩa tục như khái niệm bây giờ .Bởi vậy chữ ÂU CƠ nguyên sơ là U ĐĨ tức người mẹ đẻ.Người Thanh Hóa vẫn hỏi thăm nhau “Mẹ đĩ nhà mày được mấy đứa con rồi?”,đó là một câu thăm thân tình chứ chẳng ai bảo đó là tục.Chửi nhau thì người ta đem mẹ đẻ ra mà chửi,người Nam có tiếng chửi “đĩ mẹ”,cũng biến tướng “đù mẹ”,thực ra cặp đối nghịch ĐỤ/ĐĨ xưa hơn ,với cặp ĐỰC/ĐẺ sau hơn là đồng nghĩa chứ chẳng khác gì nhau.Ca dao Nam Bộ có câu “Con rắn không chưn mà nó đi nổi năm rừng bảy rú,con gà không vú mà nó nuôi nổi chín mười con”là nói sự hợp huyết của bộ tộc thờ rắn và bộ tộc thờ chim thời cổ đại,mà họ đã từng khai phá vùng rộng lớn và vượt đại dương đến những vùng xa xôi,khí phách mãnh liệt ấy họ mới tồn tại được đầy bản sắc văn hóa riêng đến tận bây giờ.Chim thì mới ủ được cho trứng nở,chim mà ấp trứng rắn thì nó cũng nở được vậy). Tiếng Mân Nam còn gọi là tiếng Bạch thoại.Và ở Phú Thọ có địa danh Bạch Hạc.Vậy có quan hệ gì?Con hạc hay con vạc,con diệc(việt) đều là cùng giống chim nước.Xin các bậc thức giả chỉ giáo. Về ký tự thì ngôn ngữ học xác định “ kỷ hà văn” tức “ký tự kẻ vạch” là loại văn tự đầu tiên của nhân loại (thắt gút chưa phải là ký tự).Vậy có phải là từ KẺ đến VẼ,đến VÒNG(những vòng tròn đặc và rỗng trong Lạc Thư và Hà Đồ),đến VẰN VÈO(chữ rắn,chữ nòng nọc) rồi mới đến VUÔNG(chữ nho) không? Từ PROPRO trong tiếng Khơ Me dẫn đến từ VO,VŨ(vũ trụ),kể cả cái RỔ,cái BỒ trong tiếng Việt ,đều là những vật chứa hình bầu cả và lăn tròn chuyển động được chứ không ở yên.Các nhà khoa học Úc mới phát hiện được di chỉ đồ cổ minh chứng nền văn minh tiền sử của nhân loại ở Căm Pu Chia. Ví dụ từ dân dã có trước,từ hàn lâm có sau:Xuất xứ danh xưng Đài Loan Người Hà Lan chiếm cứ Đài Loan là từ ngày 26-8-1624 đổ bộ lên An Bình Đài Nam,tên địa phương này do người bản địa gọi rồi người Hà Lan cũng theo đó mà gọi là Taioan,người Hán cũng theo đó mà gọi là Đại Viên大園.Chú thích,Đại Viên là phát âm theo tiếng Hà Lạc chứ không phải theo tiếng Bắc Kinh. Thời kỳ người Hà Lan chiếm cứ(1624-1662)ở cạnh quảng trường Đại Viên có thiết lập một sở cân,là cơ quan trọng tài chuyên giải quyết các vấn đề về đơn vị đo lường độ dài,trọng lượng,diện tích…bởi vì người Hán từ lục địa tới đem các đơn vị đo lường đều không nhất chí,không theo một tiêu chuẩn nào cả.Thế là người Hà Lan mới qui định thước Đại Viên là một thước mười thốn,cân Đại Viên là một cân mười sáu lượng,đất thì lấy đơn vị giáp mà tính.Sở cân ngoài là cơ quan trọng tài cũng còn là cơ quan kiểm tra để kiểm chuẩn các đo lường của các địa phương trước khi cho sử dụng.Người Hà Lan cũng lấy giáp làm đơn vị đo diện tích đất,vì vậy đơn vị đo diện tích của Đài Loan và của Trung Quốc không giống nhau.Trung Quốc từ xưa vẫn dùng đơn vị là mẫu,6 thướclà một cung,240 cung là một mẫu.Người Hà Lan ở Đài Loan dùng đơn vị qua, đo 4 cạnh,mỗi cạnh đủ 25 qua thì được một giáp(morgan),mỗi qua dài 1 trượng 2 thước 5 thốn.Mỗi giáp tương đương 11,31 mẫu Trung Quốc.Ngày nay Đài Loan dùng mẫu tây,tương đương 0,96992 hectare,bằng14,549 mẫu chợ TQ(bằng 15,786 mẫu cũ),tương đương một mẫu Nhật hay2934 phanh. Sở cân của người Hà Lan ở Đại Viên giữ địa vị quyền uy về đo lường,lấy đó làm tiêu chuẩn giao dịch,gọi là thước Đại Viên,cân Đại Viên.Người Trung Quốc giao dịch đối ngoại cũng lấy đơn vị Đại Viên làm tiêu chuẩn giảm được nhiều phiền phức và cũng công bằng hơn.Lâu dần,từ Đại Viên từ chỗ là cục bộ chỉ một địa phương ở Đài Nam trở thành tên chỉ người ở khu vực mà Hà Lan chiếm.(Năm 1662 Trịnh Thành Công từ Bành Hồ suất binh đánh đuổi người Hà Lan giải phóng Đài Loan,lấy Đài Loan làm căn cứ phản Thanh phục Minh.Năm 1683 đề đốc thủy sư Phúc Kiến là Thi Lương vượt biển đánh đoạt cơ nghiệp họ Trịnh,đưa Đài Loan sáp nhập vào bản đồ nhà Thanh.Từ đó người Hán ồ ạt di cư sang Đài Loan khai khẩn nông nghiệp.Năm 1895 chiến tranh Trung Nhật xảy ra,nhà Thanh thua ,cắt nhượng Đài Loan cho Nhật,thành thuộc địa của Nhật 50 năm cho đến năm 1945.Lịch sử 400 năm cận đại của Đài Loan chỉ ghi những hoạt động của người Hà Lan,người Tây Ban Nha,Người Nhật và Người Hán ở Đài Loan chứ ít đề cập đến khảo cổ,nhưng thực sự mảnh đất Đài Loan là nơi khảo không bao giờ hết cổ).Khi người Hà Lan thua,phải rút khỏi Đài Loan,đơn vị đo Đại Viên không những vẫn sử dụng khắp Đài Loan mà còn sử dụng trong thương nhân vùng ven biển Trung Quốc,vì vậy trong giao dịch họ vẫn đơn giản gọi những người sử dụng đơn vị đo lường Đại Viên là “người Đại Viên”đồng thời gọi hòn đảo đối bờ là đảo Đại Viên,đó là phát âm theo âm Hà Lạc,còn phát âm theo âm Bắc Kinh là “Thái Oan”thành tên Đài Loan臺灣.(Đến như địa danh cũng là do dân dã đặt ra trước rồi mới thành cái tên hàn lâm-người trích-Ngày xưa ở Hà Nội cảnh sát Tây đuổi những người gồng gánh bán hàng rong không cho vào phố Tây,họ chạy dạt về chỗ giáp ven,cuối phố Bà Triệu bây giờ,lại tụ tập ở đó bán hàng,lâu dần thành chợ và họ gọi là Chợ Đuổi,sau thành dãy phố và có tên chính thức hàn lâm là Phố Chợ Đuổi,phố ấy nay không còn tên cũ,chắc đã được thay bằng tên một hàn lâm nào đó rồi). Lãn Miên