Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. * Chia sẻ * retweet * Email * In ra Nội dung liên quan * Tài sản cá nhân được tôn trọng ngay khi thảm họa đang thảm khốc - Ảnh: Telegraph Tài sản cá nhân được tôn trọng ngay khi thảm họa đang thảm khốc - Ảnh: Telegraph * Người Nhật xếp hàng mua dầu hỏa - Ảnh: AP Người Nhật xếp hàng mua dầu hỏa - Ảnh: AP * Bé gái sống sót thần kỳ trong sóng thần * Sự cố ở lò phản ứng 4, 5, 6 Nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 * Nhật Bản dịch chuyển 4 mét, trái đất quay nhanh hơn TTO - Từng làm cả thế giới phải trầm trồ thán phục về cuộc “Minh Trị duy tân” hay những bước tiến thần kỳ kể từ sau Thế chiến thứ 2, giờ đây Nhật Bản lại khiến người ta ngạc nhiên về tính kỷ luật phi thường, bất chấp cảnh tượng kinh hoàng do động đất và sóng thần. Trước tiên là thảm họa xảy ra, sau đó là hôi của - một diễn biến đã trở nên quá quen thuộc trong những thảm họa gần đây. Trong trận lụt ở phía tây nước Anh năm 2007, những kẻ hôi của đã đập vỡ cửa kính của những xe hơi bị bỏ lại và cướp giật những chai nước uống cứu trợ. Tại New Orleans năm 2005, Chính phủ Mỹ đã phải đưa quân đội tới để giải quyết cảnh hỗn loạn trong thành phố - các vụ đọ súng, cướp của diễn ra thường xuyên đến độ người ta đã không cho những người tình nguyện đến hỗ trợ vì quá nguy hiểm. Còn ở Haiti, cho đến bây giờ người ta vẫn còn ghi nhận các vụ hãm hiếp và cướp bóc tại những khu vực đổ nát mà chính phủ chưa thể dọn dẹp, một năm sau khi động đất xảy ra. Thế nhưng tại Nhật Bản, không có ai bất chợt “để mắt” đến những đống đổ nát dù tình hình thật sự tuyệt vọng. Tại tỉnh Miyagi - một trong những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của trận động đất, người dân đang trải qua cảnh thiếu thốn lương thực và nước uống. “Đường ống gas và nước đã ngừng hoạt động ở Miyagi và thành phố Sendai. Ở vài nơi thì điện cũng không có - một nhân viên cứu hộ nói với RIA Novosti - nhưng không có cảnh hoảng loạn trên đường phố và cửa hàng”. CNN ghi lại cảnh người dân đứng xếp hàng trật tự bên ngoài những cửa hàng không còn cửa chính cũng như cửa sổ do bị trận động đất tàn phá. Tại một cửa hàng khác đã tan hoang vì động đất, người ta thấy một máy ATM và nhiều thùng lương thực bên trong vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù xung quanh không có ai bảo vệ. Không hề có tình trạng đầu cơ - các siêu thị giảm giá và các chủ máy bán nước tự động phát không nước uống cho mọi người - tất cả cùng đoàn kết để tồn tại, tờ Telegraph ghi nhận. “Hiện tượng” này đang gây ngạc nhiên khắp thế giới. Nhà phân tích Ed West đặt câu hỏi trên tờTelegraph: “Tại sao không có hôi của ở Nhật Bản?”. Trang web tìm kiếm Google cho thấy có 2.770.000 người đã đặt ra vấn đề tương tự như ông West. “Tinh thần đoàn kết của người Nhật thật mạnh mẽ. Sức mạnh của xã hội Nhật Bản có lẽ gây ấn tượng còn hơn cả sức mạnh công nghệ của họ” - ông Ed West viết trên tờ Telegraph. Còn tổng biên tập báo Bangkok Post Pichai Chuensuksawadi đã phải thốt lên: "Chẳng phải đã bao nhiêu lần chúng ta thấy cảnh hôi của, cướp giật và bạo lực sau một thảm họa thiên nhiên đó sao?". Tinh thần tập thể cao độ “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có một từ để mô tả chính xác hành động này” - Gregory Pflugfelder, giáo sư nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại học Columbia (Mỹ), nhận định. Giáo sư Pflugfelder, người có mặt tại Nhật Bản vào thời điểm xảy ra thảm họa, kể với CNN về những dòng người xếp hàng trật tự tại các ga tàu điện đã đóng cửa trong nhiều giờ do thảm họa. Hiện tượng này có cội rễ từ nền văn hóa Nhật Bản, theo ông Pflugfelder, bởi mỗi người Nhật Bản đều cảm thấy mình có trách nhiệm trước hết là đối với xã hội. Nền tảng văn hóa Nhật, theo ông, được xoay quanh một tinh thần cộng đồng cao độ, “có vẻ như được phát huy còn tốt hơn ngay cả khi có thảm họa”. “Người Nhật tuân thủ nghiêm ngặt mệnh lệnh của cộng đồng và nhóm, bởi họ coi đó là cách duy nhất để cân bằng nhu cầu của cá nhân” - ông Pflugfelder phân tích. Mặt khác, CNN dẫn lời ông Pflugfelder, “Trật tự xã hội và kỷ luật đã được tập thành thói quen ngay trong cuộc sống bình thường, nên người Nhật Bản không thấy trở ngại tiếp tục thói quen này khi có thảm họa xảy ra”. Merry White, giáo sư nhân chủng học tại Đại học Boston (Mỹ), nói hôi của xuất phát từ sự phân hóa xã hội và khoảng cách giàu nghèo. Xã hội Nhật Bản không phải là không có hiện tượng đó, tuy nhiên “bạo lực và giành giật từ tay người khác đơn giản là không được chấp nhận trong văn hóa Nhật”. Tôn giáo Đa số người Nhật theo Thần đạo và Phật giáo, và theo như giáo sư John Nelson thuộc Đại học San Francisco, người Nhật sử dụng tôn giáo để đối mặt với các tình huống khác nhau trong cuộc sống. “Khi gặp sự việc tính cực thì người Nhật tìm đến các nghi thức của Thần đạo, nhưng khi gặp tai họa hay thảm kịch thì họ hướng về Phật giáo”, theo ông Nelson. Khác với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo và Thần đạo của người Nhật không quá tập trung vào nguyên nhân xảy ra thảm họa mà chỉ dạy cách ứng xử của người dân trước thảm họa. “Đối với người Nhật, quan trọng nhất là phản ứng một cách tích cực và kiên trì mỗi khi đối mặt với khó khăn, điều đó phản ánh qua tôn giáo của họ” - giáo sư Bocking thuộc Đại học Cork nói với CNN. XUÂN TÙNG
  2. Bát Quái và chữ khoa đẩu Tôi sưu tầm được một trang cổ thư của người Việt vùng Giang Nam, là một vuông chữ khoa đẩu ngoẳn ngoèo có 56 chữ, giống như các bản chữ khoa đẩu chúng ta đã gặp, tiếc rằng tôi không biết cách đưa hình lên. Cạnh đó là một bản chữ nho, cũng gồm 56 chữ, hẳn là của người đời sau còn giữ hiểu được chữ khoa đẩu dịch lại, như sau: 一 歲 兩 歲 三 歲 參。 Nhất tuế, lưỡng tuế, tam tuế tham. 一 正 兩 劃 分 頭 辦 Nhất chính, lưỡng hoạch phân đầu biện 正 寺 上 下 靈 九 天。 Chính tự thượng hạ linh cửu thiên. 半 字 兩 遺 流 八 川。 Bán tự lưỡng di lưu bát xuyên. 潛 字 左 右 留 一 萬, Tiềm tự tả hữu lưu nhất vạn, 遺 字 前 後 留 五 千。 Di tự tiền hậu lưu ngũ thiên. 八 卦 倒 傳 乾 坤 定, Bát quái đảo truyền , càn khôn định, 天 圖 地 方 才 算 完。 Thiên đồ địa phóng tài toán hoàn. Phải chăng ý người xưa muốn nhắn rằng: Phải bỏ công liên tục nhiều năm để học cho hiểu ký tự một vạch kẻ, hai vạch kẻ của Bát Quái vì nó rất linh nghiệm tới chín tầng trời. Người xưa đã di lưu lại nền văn minh ở tám dòng sông. Người xưa đã dấu lại khoảng một vạn năm nghìn con chữ ẩn náu (chắc là những văn bản bằng chữ khoa đẩu). Phải đổi ngược lại vị trí của Bát Quái thì mới đúng với qui luật của trời đất, và lúc đó cái bản đồ vũ trụ và trái đất mới coi là xong hoàn toàn (?) Bên cạnh đó còn có một bài chữ nho, như sau: 三 皇 五 帝 春 秋 史, Tam hoàng Ngũ đế Xuân Thu sử 萬 歲 天 秋 北 鬥 尊。 Vạn tuế thiên thu Bắc Đẩu tôn. 天 外 兩 星 露 中 見, Thiên ngoại lưỡng tinh lộ trung kiến 人 間 七 子 同 時 生。 Nhân gian thất tử đồng thời sinh. Phải chăng ý người xưa muốn nhắn rằng: Cứ theo như sử thời Xuân Thu thì muôn đời tôn thờ sao Bắc Đẩu như là một vật bất biến. (Thực ra sao Bắc Đẩu đang biến đổi hình dạng của nó nhưng với vòng chu kỳ rất to, bao trùm hết các vòng chu kỳ nhỏ khác của các hành tinh khác) (?). Riêng câu thứ ba và bốn thì chưa hiểu được ý của “Sấm” nói về cái gì sẽ xảy ra trong vũ trụ hay trong xã hội loài người đây (?). Kèm theo có đánh dấu sự thay đổi vị trí các sao trong chùm sao Bắc Đẩu, như sau: (có đúng như vậy không? phần này hẳn là do người đương thời vẽ đánh dấu, tại sao lại là chu kỳ 96000 năm ? ) + + + + + + + ( 96000 năm trước) + + + + + + + ( hiện tại ) + + + + + + + ( 96000 năm sau ) Theo tôi nghĩ, có phải thoạt tiên người Việt gọi sao Bắc Đẩu là sao Bảy Đầu ? Theo tư duy ngôn ngữ thì con người dùng vật mốc làm định hướng, lấy tên cái mốc đó làm tên hướng, như “hướng cây gạo”, hướng cầu ao”, “hướng sao mai”, rồi sau mới biết đến tư duy hướng địa lý. Người Việt đi biển căn theo chùm sao có bảy ngôi ấy nên lúc ban đầu gọi nó là “hướng Bảy Đầu”, sau biến âm thành “hướng Bắc Đẩu” ( QT: Bảy Đẩu=Bắc Đẩu), rồi về sau gọi tắt là “hướng Bắc”, khi đã có tư duy địa lý (?).
  3. " ... Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh, Loài bất bình tranh cạnh hung hăng. Một cơn sấm dậy đất bằng, Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh. Lược thao văn vũ tài tình, Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng. Tam công gặp hội vui mừng, Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông. Bỏ khi chém rắn vẽ rồng, Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù. Bỏ khi kẻ Việt người Hồ, Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường...". Đọc đoạn thơ trên làm tôi nhớ câu Sấm... Truyền thuyết Việt gọi những tộc du mục ở Bắc Hoàng Hà là “Rợ Hồ”, tức “bọn người Hồ to con” như tộc Hung Nô, Tác Ta, Mông Cổ, Khiết Đan, Thác Bạt, Kim, Mãn v.v., nền văn minh du mục của họ thấp hơn văn minh nông nghiệp của người Việt. Sự đụng độ giữa hai nền văn minh ở vùng Hoàng Hà thời cổ đại cũng đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong bài Bình Ngô Đại Cáo ở câu: “Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Truyền thuyết Hoa cũng kể rằng thời cổ đại họ gọi những tộc du mục ở Tây và Bắc Trung Quốc ngày nay là “người Hồ”. Từ “hồ” là do lướt của từ “họ bò”=(lướt)= “hồ”, mà ngày nay từ “hồ” còn lại trong Hán ngữ là “cái bìu da dưới cổ con bò”, tiếng Việt gọi là “cái yếm bò”. Đó là vì văn minh nông nghiệp ngạc nhiên khi thấy văn minh du mục suốt ngày ngồi trên lưng con vật, di chuyển bằng bốn chân của con vật, nên gọi họ là “họ bò” chứ không phải là họ đi. Họ lại ăn bốc, chứa nước trong cái nồi làm bằng da ngựa, gọi là “nồi da”, đựng rượu trong cái bong bóng làm bằng dạ dày con cừu, chứ không có bát đũa và nậm rượu hồ lô tao nhã như của người Việt. Nhưng khi nhảy vào chiếm Trung Nguyên thì tộc du mục đã thống trị, gây nên cảnh “nồi da xáo thịt”, mà truyền thuyết Hoa gọi một giai đoạn lịch sử ấy là thời “Ngũ Hồ loạn Hoa”. Mặc dù vậy, nhưng do văn minh du mục quá thấp so với văn minh nông nghiệp nên người Hồ bị mất luôn gốc cơ bản của mình. Câu Sấm dân gian Việt Nam nói lên điều đó, quả là câu Sấm ứng nghiệm nhiều lần. Đó là câu: “Bò Đái Thất Thanh Nam Đàn Sanh Thánh”. Ứng nghiệm lần thứ nhất là : Người Hồ (bò) to con (đái) nhưng bị mất tiếng tức mất hẳn ngôn ngữ (thất thanh) vì người Nam sống quần cư thành làng(đàn) sản xuất nông nghiệp trồng trọt (sanh) có nền văn minh cao hơn (thánh). Ứng nghiệm lần thứ hai là : Khe Bò-Đái trên rú Đụn mất tiếng (thất thanh) róc rách vì mất nước, thì ở huyện Nam-Đàn sẽ xuất hiện Thánh nhân để dẫn dắt dân tộc cứu nước. Ứng nghiệm lần thứ ba là: Những kẻ còn mang tư tưởng rợ du mục sẽ bị tắt đài (thất thanh) vì diễn đàn người Nam có Thánh ( các ngành khoa học chứng minh sự thật lịch sử). Câu trên mới chỉ là một vế của câu đối, còn một vế nữa cơ, cũng nhắc lịch sử cổ đại đã ứng nghiệm , và tương lai sắp tới sẽ ứng nghiệm thật tuyệt vời cho dân tộc Việt Nam.
  4. Đất “Mê Linh” chính tên gọi của nó là đất “Mế Lành”, là cái tên dân gian đặt ra gọi vùng đất rộng lớn và giàu có mà bà mẹ của Hai Bà Trưng, thuộc dòng dõi nhà Hùng, cai quản; vùng ấy gọi là Kẻ Lói, ở Sơn Tây thuộc Hà Nội ngày nay. Theo gia phả dấu kín trong chùa vùng Sơn Tây có ghi họ tên thật của Bà. Nhưng do Bà là người cai quản vùng, rất hiền hậu, hay đem gạo cho người cơ nhỡ thập phương , nên dân gian gọi vùng đất ấy của Bà cai quản là đất Mế Lành và có câu tục ngữ : “Đói thì vào Kẻ Lói mà xin”. Về sau chữ dịch nghĩa gọi bà Mế Lành là bà Man Thiện. Chữ Phong Châu cũng là nguyên gốc Việt, chỉ vùng đất Sơn Tây thuộc Hà Nội ngày nay. Phong có nghĩa là vùng rộng lớn, Phong Châu=Vùng Chậu=Vùng Chúa=Vùng của Vua ( Phong =Động =Đùng= Vùng, Chậu= Chúa= Chủ= =Chu=Châu). Về sau do Hán hóa nên người ta cứ nghĩ Phong Châu là “Huyện đất đá Ong”, người đời sau bị mờ lịch sử , mới “Việt hóa” lại , đặt thành vè: “Bà Trưng quê ở Châu Phong; Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên; Chị em nặng một lời nguyền; Đuổi phường Tô Định thay quyền tướng quân…”. Vùng Lĩnh Nam thuộc Trung Quốc ngày nay còn hàng ngàn tên địa danh các vùng rộng lớn có chữ đầu là “Phong”, đó là những cái tên Lạc Việt. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là lan rộng khắp Văn Lang xưa, bao gồm Việt Nam và Giang Nam nay thuộc Trung Quốc, di tích và cứ liệu mà bác sĩ Trần Đại Sĩ đã sưu tầm được bên Trung Quốc chứng minh rõ điều đó, chứ không phải cuộc khởi nghĩa Hai Bà xưa chỉ lan rộng đến Hữu Nghị Quan là hết. Người Choang ngày nay sống chủ yếu ở Quảng Tây và bộ phận ở Quảng Đông , Qúi Châu và Vân Nam, dân số 17 triệu người, là một bộ phận còn lại của dân Nam Việt, còn giữ khá nguyên vẹn bản sắc. Ngôn ngữ của họ là do phát triển từ ngôn ngữ Việt cổ. Tên các địa danh đều là tên Lạc Việt, đều cấu trúc xuôi như tiếng Việt Nam, trái với cấu trúc ngược của Hán ngữ, tiếng đầu của các địa danh thường biểu hiện thực thể địa lý tự nhiên hoặc khu vực, như sau: 1.“Nà 那” nghĩa là ruộng nước. ( Vùng Giang Nam từ vĩ tuyến 24 vào vĩ tuyến 21 có đến 90% tên các địa danh bắt đầu bằng chữ “Nà”, chủ yếu nằm ở vùng thung lũng có sông và vùng đồng bằng lưu vực như ở các vùng 廣 西 廣 泛, 粤 西,瓊 雷) 2.“Động 洞,峒,垌” nghĩa là Vùng, chỉ nơi thung lũng hẹp có sông nhỏ, sau nghĩa mở rộng hơn chỉ quần thể dân cư cùng huyết thống (như ở Việt Nam thì ở Quảng Bình có Đồng Hới=Động Hới=Vùng Hời là nơi người Hời xưa, cũng thuộc tộc Việt sinh sống). Chữ Động 洞này không phải là Hang như giới sử học Việt Nam giải thích. Chữ Hang là bộ thủ gọi là bộ “Hãn厈”, một trong các nét cấu trúc cơ bản của chữ nho của người Lạc Việt. 3.“Phong 封” nghĩa là Vùng lớn. Nếu theo nghĩa này như của tiếng Choang, thì phủ Khai Phong ở Trung Nguyên vốn nguyên thủy nó phải là phủ “Phong Khơi”, tức “Vùng lớn Mới” , vì so lịch sử thì nó vẫn là mới hơn Phong Châu ở Việt Nam hay Phiên Ngung ở Quảng Đông. Khai Mới=(lướt)=Khơi , đi biển khi ra Khơi thì càng ra càng Mới. 4.“Phu 夫,扶” nghĩa là Núi 5.“La 羅” nghĩa là Lúa 6.“Xung 冲” nghĩa là Sông 7.“Lại 瀨” nghĩa là Bãi 8.“Mãnh 猛” nghĩa là Mảnh 9.“Bằng 馮” nghĩa là Bằng 10. “Bộ 步” nghĩa là Bờ. Cũng giống như Chợ Bờ ở Hòa Bình. 11. “Biên 邊” nghĩa là Bến. Chợ Kim Biên là chợ Bến Vàng, chữ Biên ấy dù là mượn chữ Biên nghĩa là ranh giới nhưng nghĩa của nó là ở cái âm chứ không phải ở biểu ý của chữ, nó đồng bộ với chợ Bến Thành. 12. “Lan 欄” nghĩa là Lán, Lều, chỉ nơi có chợ. 13. “Vân 雲” nghĩa là Vạn, tức vạn chài, Vân tiếng Choang còn có nghĩa là Dân tức người. Còn hàng trăm chữ nữa, làm tên đầu địa danh, đều là tên Lạc Việt. (Những chữ ấy là do thư lại người Hán đời sau mượn chữ nho để ghi âm lại tên địa danh Lạc Việt, chứ theo biểu ý của chữ thì nhiều chữ chẳng khớp gì với nghĩa của âm tiếng Choang tức tiếng Việt cả) . Hàng vạn tên làng ở Quảng Đông , Hồ Nam, Qúi Châu, Quảng Tây đều có tên Lạc Việt, vẫn tồn tại đến tận ngày nay bắt đầu bằng chữ Kẻ (chứ không bị đổi thành tên khác như ở Việt Nam, vì cho rằng Kẻ là tên Nôm, từ tục tĩu, xấu). Chữ Kẻ ấy được ghi bằng âm chữ nho là chữ Cổ 古 hoặc chữ Kê 鷄 ( học giả Trung Quốc cho rằng dùng chữ Kê 鷄 gọi tên làng vì người Quảng Phủ nước Nam Việt xưa, mà ngày nay vẫn nói Việt ngữ 粤 语 ,có tục coi bói bằng chân gà, không phải như vậy, Kê 鷄 là phiên âm chữ Kẻ, còn tục coi bói bằng chân gà thì người Việt Nam vẫn có từ cổ đại đến tận ngày nay)
  5. Ngày đầu Xuân Tân Mão khai bút viết bài Thời Giờ Ngày xưa cách nay 400 năm, người Việt gọi cái Thời phải sống chung với lắm cái gian là “Thời Gian”. Tôi cứ vào cái “ ngàn năm “Bia Miệng” vẫn còn trơ trơ” của người Việt Nam để viết bài này chứ không cứ vào cái “bia mồm” của thiên hạ. Vì người Việt Nam đã nói rằng “Mặc ai nói ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Trơ Trơ=Trôi Trôi= Trời Trời= Thời Thời=Đời Đời. Người nông dân Việt Nam là người đầu tiên làm ra nền “Văn minh Lúa nước” đầu tiên cho nhân loại. Mọi khái niệm trừu tượng, người nông dân của nền “văn minh lúa nước” đều lấy tên những vật cụ thể mình mắt thấy tay sờ để đặt thành tên khái niệm. Vỏ là cái bao bọc tất cả những gì bên trong nó, bao bọc lâu gọi là “ấp ủ”. (Ai là người gọi mẹ là U đầu tiên và đến nay vẫn gọi?). Cái “VỎ bao la ấp Ủ hết thảy trong nó”, người Việt đã lướt thành “VỎ ấp Ủ”, rồi lướt nữa thành VŨ, là khái niệm để chỉ Bầu không gian. Người Việt cổ đại làm “nông nghiệp trồng trọt” là đã văn minh, biết rõ Trời luôn luôn ấp ủ một cái gọi là Thời. “Trời ấp Ủ”, người Việt lướt thành Trụ, là khái niệm để chỉ Thời. Chữ nho của người Việt viết là VŨ TRỤ 宇 宙, nghĩa là “không gian và thời gian”. Người nông dân Việt Nam vẫn nói “Thời Giờ là vàng bạc”. Người Việt cổ đại tính thời giờ căn cứ Trời. Vì Trời luôn Trôi trong dòng Thời cũng như Tuổi luôn Trôi trong dòng Đời. Có Trời mới có Thời, có Thời mới có những khoảng Giữa của ngày đêm. Những khoảng Giữa để đo Thời đó người Việt chia ra gọi là khoảng Giữa Chờ vì nó đang chờ cho Thời đang Trôi đi. Giữa Chờ đã lướt thành Giờ. Vì Thời có trước là do Trời làm ra, còn Giờ có sau do người đặt ra, nên cái khái niệm Thời để dùng cho người khi tính toàn làm ăn, gọi bằng từ ghép Thời Giờ. Hai khái niệm Thời và Thời Giờ là hai khái niệm khác nhau trong tư duy Việt, Thời là của Trời, Thời Giờ là của người làm việc ( Nhưng Thời Giờ = Thai Mờ = “Time” cho thấy tư duy người Việt luôn đi đầu, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Chỉ mới một từ Thời Giờ này đã cho thấy người Việt cổ đại đã tiên đoán “hội nhập Đông Tây” như đang diến ra ngày nay. Cũng như “Không” tiếng Việt cố ở dòng Cả vùng Bản Cũ nói là “Nỏ”, tiếng Anh viết “No” đọc là “Nâu”). Thời của Trăng là Thời Trăng, lướt thành Tháng. Người Việt là người đầu tiên làm ra Lịch Trăng dùng cho nông nghiệp, “ nhà Nông dùng Lịch ấy” lướt thành “Nông Lịch”. Từ “Lịch” cũng do lướt mà ra. Theo tư duy của người Việt thì Trôi là cách đi của Trời, cũng như dân Việt của văn minh lúa nước nói Lội là cách đi của Người (Lội bước, Lội bộ, có Lội mới tìm ra được Lối là hướng tư duy, và làm ra được Lộ là cái phương tiện cụ thể để đi). Thời mà người đ lấy để dùng cho tính toán thì nó cũng phải đi theo cách đi của người, tức nó cũng phải “Lội chầm chậm như Dịch từng bước”, lướt thành Lội Dịch, lướt nữa thành Lịch. Thời đã Qua lướt thành Thời Qua, lướt nữa thành Thưở. “ Thưở trời đất nổi cơn gió bụi…”. Người nông dân Việt hiểu “Thời Giờ là vàng bạc” vì phải luôn luôn nắm bắt cái mà Thời nó Tiết ra gọi là Thời Tiết để mà làm cho kịp mùa vụ. Từ khi người Việt sáng tạo ra Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, để lại cho nhân loại phát minh ấy, ghi trên một cái Bằng là cặp “Bánh Dấy Trên Trốc Bánh Chưng” tức Dầy/Chưng, mà Tôi gọi là cái Bằng Vô Ngôn, chẳng nói năng gì, nhưng là khi người Việt đã tiên đoán cho nhân loại biết rằng: Thiên niên kỷ thứ 3 là Thiên niên kỷ con Người (=Ngôn) hiểu biết tường tận Vũ trụ (=Vô). (Đó là khẳng định của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương tại Hội thảo quốc tế đầu tiên về Việt Nam học do Đại Tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì tại Hà Nội năm 1998). Nếu không hiểu minh triết Dầy/Chưng của người Việt thì Chưng sẽ thành Chẳng=0=zero và Dầy sẽ thành Dóc=0=zero. Muốn tránh được hậu quả đó thì phải bằng Người=Ngôn=Đối Thoại, để giữ được trái đất Xanh (cái bánh Chưng) và bầu trời Sạch (cái bánh Dầy). Nếu không thì tất cả sẽ Sạch Sành Sanh=0.Cái bánh Chưng Vuông là Đất phải Xanh để giữ cho cái bánh Dầy là Trời ở Trên được Sạch và Vững như Vuông, vì ở Vuông loài người đã có luật Lạc Hồng=Luật Rộng nhưng rất Nền Nếp( cái Nền bằng Nếp của bánh Chưng), vì Luật đó đã qua Luộc bánh , nên nó là Luộc Chín=Luật Chính. Dân tộc Việt Nam ngót vạn năm trước đã biết tế Thần bằng thực phẩm Chín là đã văn minh đến nhường nào rồi.( Chẳng thế mà chuyện cổ tich Việt Nam nói ,Vua Hùng đòi dâng cho Vua phải là “ voi Chín ngà, gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao” tức phải bằng sản phẩm của cái lao động Chính đáng của mình, chứ không phải là của ăn cướp của người khác, không phải là của “đạo văn” hay của “tầm chương trích cú”). Người Việt Nam đã xưng mình là Việt từ thuở khai thiên lập địa. Tư tưởng Việt là tư tưởng văn minh đầu tiên của nhân loại, nảy sinh được do nền văn minh “nông nghiệp trồng trọt” xuất hiện đầu tiên trên thế giới ở Vuông đất ĐNÁ. (Chứ không phải từ nền “văn minh du mục”). “Trồng” mới là thuận “Trời”, bởi nó Vững mãi, như cấu thành ngữ của người Việt “Đứng như Trời Trồng”, chứ “Du” chỉ dẫn đến Mục, như những khái niệm “du côn”, “du đãng” trong ngôn ngữ Việt. Nền văn minh “nông nghiệp trồng trọt” trải qua hàng vạn năm , dẫn đến nền “văn minh lúa nước”. Duy nhất trên thế giới này chỉ có người Việt Nam gọi xứ sở mình là Nước.Vì người Việt Nam vẫn giữ nguyên cái Bằng Vô Ngôn=(lướt)=Bổn, do họ là hậu duệ đích tôn của tộc Việt cổ đại đã sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch. (Ở Việt Nam có biết bao nhiêu là chùa Ông Bổn). Nền văn minh “nông nghiệp lúa nước” của người Việt cổ đại trải ngót vạn năm là nền Văn minh Văn Lang Lạc Việt hiến cho nhân loại , nên người Việt gọi là Văn Hiến.Câu thơ của Vua Minh Mạng đề ở điện Thái Hòa: “Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu”, Tôi dịch là: “ Nước Văn hiến ngót vạn năm. Tinh hoa trải rộng khắp vùng gần xa. Hồng Bang xưa lập quốc gia. Dân Nam mở mặt con nhà Thuấn, Nghiêu”. Văn minh Văn Lang Lạc Việt đã từng rực rỡ 5000 năm trước ở bờ nam sông Dương Tử. Tư tưởng của người Việt cổ đại là tư tưởng văn minh sớm nhất của nhân loại, thể hiện ở Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch của người Lạc Việt. Văn minh Văn Lang là “Người Ta là hoa của đất”, thể hiện trong tư duy ngôn ngữ của người Việt như sau: Mẹ=Máu=Mạng(cũng là internet)=Mắt=Bắt=Biết=VIỆT=Viết=Biệt=Bút=Bụt=”Bít”=Bè=Bánh=Xanh=Mạnh=Minh=Mênh Mông=Mãi Mãi=Mẹ. Đó là cái BẦU bao la mà người Lạc Việt đã vẽ ra, là cái “Bầu biểu tượng Âm Dương”. Tư duy ngôn ngữ kiểu đó là theo trình tự hệ quả, logic Nhân-Quả: Có Mẹ mới có Máu, có Máu mới có Mạng, có Mạng mới có Mắt, có Mắt mới nắm Bắt, có Bắt mới có Biết, có Biết mới là người VIỆT, có Việt mới biết Viết, có biết Viết mới biết phân Biệt, có biết phân biệt mới thành cây Bút (trên mảnh đất Việt Nam chỗ nào mà chẳng có tháp bút), cây Bút chứa nặng tri thức thì thành Bụt, (Bút Viết mang nặng tri thức thì thành Bụt Việt, chuyện cổ tích nào của người Việt Nam mà chẳng có Bụt),nhưng Bụt chỉ là cái “Bit” của công nghệ thông tin ngày nay, sáng tạo ra mọi văn minh cho nhân loại tương lai, mà người Việt đã có cái “bít” ấy từ thời cổ đại ở hệ đếm nhị phân của người Lạc Việt với con số Mô/Một=0/1, nếu không thì làm sao có được “nhị nguyên sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh 64 quẻ dịch”), có “Bit” của công nghệ thông tin mới giúp nhân loại xích lại gần nhau kết thành cái Bè, cái Bè ấy mới thành cái Bánh chưng xanh , cái Bánh chưng là biểu tượng mong trái đất Xanh, trái đất có Xanh mới thành Mạnh, có Mạnh mới hiểu cái Minh của minh triết, cái Minh triết mới là Mênh Mông, cái Mênh Mông lại là như lòng Mẹ, chỉ có Mẹ mới còn Mãi Mãi, đó là cái đạo Mẫu của người Việt cổ đại (đã có ở người Việt Nam hàng ngót vạn năm trước Phật Giáo). Cùng khi với thờ Mẫu, người Việt Nam còn thờ Thần, Thần là ông tượng trưng tính nhân bản của người Việt, vì “Thần” là từ lướt của “ Thầy Thấy Dân” =(lướt)=Thần,( đâu phải ai cũng thấy được ở dân là muôn trí tuệ, câu của Hồ Chí Minh: “ Dễ trăm lần không dân, cũng chịu. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong”); Và thờ Thánh, Thánh là ông tượng trưng cho đức tính người Việt luôn ngưỡng mộ tinh hoa của mọi dân tộc, “Thánh” là từ lướt “Thấy Thật Thành Mạnh”=(lướt)=Thánh. Bởi vậy một cá nhân nhưng là kết tinh tiêu biểu cho tinh hoa của bất cứ dân tộc nào, người Việt Nam đều tôn là Thánh: Thánh Khổng Tử, Thánh Găng Đi, Thánh Trần Hưng Đạo. Chữ viết của người Việt xuất hiện từ thời cổ đại cũng theo qui luật chu kỳ Trôi của Trời : chữ tượng hình (có di tích) rồi đến chữ ký âm (chữ Nòng-Nọc. Thưở dùng chữ Nòng-Nọc, người Việt đã đánh vần y như ta đánh vần bây giờ, ví dụ : “Mẹ Âu Mâu Là Mẫu”. Bởi vậy chuyện cổ tích người Việt có mẹ Âu, bố Cơ ở dòng sông Cả, do tư duy đạo Mẫu nên ngôn ngữ Việt có kết cấu “ Mẹ Cha”, “Vợ Chồng”, nên “Âu Cơ” là “mẹ Âu, bố Cơ”, người Việt là người biết nói câu “Lady First” đầu tiên của nhân loại, và đã tiên đoán “hội nhập toàn cầu” vì người Việt cổ đại đã từng có mẹ Âu), rồi đến chữ tượng hình (chữ nho), rồi lại đến chữ ký âm (như ta dùng ngày nay). Cũng theo tư duy ngôn ngữ của người Việt, có: Việt=Phiệt=Phật. Thời Đông Tấn (trước công nguyên), ông Hứa Thận trong sách “Thuyết văn giải tự” đã giải thích: Việt=Vương Phiệt, mà trong tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam thì “Vương Phiệt”= “Vùng đất Phát triển minh Triết”. Do đạo Mẫu của người Việt Nam có trước Phật Giáo nên khi đi đền chùa niệm Thần, Thánh hay Phật, câu niệm thầm đầu tiên vẫn là, như thứ tự các chữ sau: “Nam (1) Mô (2) Hương (3) Vân (4) Cái (5) Bồ (6) Tát (7)”! Nghĩa là: Người Việt Nam (1) khi Mở (2) Làng (3) vẫn Nói (4) tiếng Mẹ (5) đẻ nguyện giữ cái Bổn (6) để mà Phát (7) triển mãi mãi. (4): “Vân” nghĩa là “nói”, nay hay dùng trong văn viết là “vân vân”. Người dòng Cả vẫn nói là “ Van” ví dụ: “ Ai van chi rứa hầy”. Người Lưỡng Quảng tức Quảng Tây, Quảng Đông nói là “Và”, đó là tiếng Pạc Và= Bạch Thoại. (6) “Bổn” tức cái Bằng Vô Ngôn, là minh triết thể hiện qua biểu tượng cặp “bánh Dầy trên trốc bánh Chưng”, Dầy/Chưng=Vô/Ngôn=Trời/Người. Tư tưởng của văn minh Văn Lang là: NGƯỜI TA HOA CỦA ĐẤT, câu đó chính là 5 chữ của tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam là: VIỆT=HIỆT=HIỆP=HÒA=HOA , thể hiện bằng 5 chữ nho của người Việt là: Việt 越 = Dẫn đầu tư tưởng, Hiệt 黠 = Tài giỏi xuất chúng, Hiệp 協 = Đoàn kết giúp nhau, Hòa 和 = Sống lành như lúa, Hoa 華 = Tinh hoa nhân loại. Đó là 20 chữ vàng (không hề đồng âm đồng chữ ) mà người Lạc Việt đã có từ cổ đại. Chính tư tưởng “Người là hoa của Đất” ấy của người Lạc Việt mới làm cho Văn Lang có được Vuông rộng mênh mông, với hàng trăm sắc tộc nối vòng tay lớn quay chung quanh một chữ Đồng là cái Trống Đống, chứ làm gì có chế độ nô lệ hay chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Bởi vậy dòng Cả mới sinh ra hàng trăm dòng Thứ tức lắm dòng Thứ Hai=Chư Hầu, gọi là Bách Việt. Năm chữ nho trên thì “cứ Việt mà xài” tức phải cứ cái “bia miệng” Việt nói ra Tiếng Việt, vạn năm vẫn còn Trơ Trơ = Trôi = Trời = Thời = Đời Đời sẽ thấy đúng nghĩa của 20 Chữ Vàng là như trên, còn nếu cứ “bia mồm” thì không luận ra được mà lại trôi tuột hết.( Nghĩa của mỗi chữ biểu ý ấy đều có trong ca dao, đồng dao cổ của người Việt Nam, tôi không dẫn ra trong bài này).
  6. Câu 2 : Tinh hoa trải tựa trăng rằm gần xa
  7. Posted Image Bức tranh dân gian về ông Táo Tranh ông Công Posted Image Cảm ơn bạn cung cấp hai tranh dân gian Việt Nam thật là hay, rò ràng Ông Thổ Thần và Ông Táo không dính dáng gì nhau. Tranh Ông Táo (Đầu Rau=lướt=Táo) có hai ông hai bên và giữa là bà. Hoành phi là chữ “Táo Quân Vị” (Vị là Người=Ngài=Ngôi=Mối=Mùi=Vui=Vị).Câu đối hai bên là “Tháng Biến Bất Hoa”, “Năm Từng Bần Qúi” là lời răn: Trong tháng có thay đổi, lúc chẳng được gì, lúc được nhiều; trong năm cũng từng khi nghèo, từng khi sang;(người nhà liệu mà cư xử). Tranh Thổ Thần có hoành phi là “Thổ Công Vị”, câu đối là “Thổ phần phù trợ; Trạch thượng bình an” tức có Thần Đất giúp thì nhà ở trên được bình yên. Cái hay là Thổ thần có bà ngồi bình đẳng bên cạnh, rõ ràng là bà vợ chứ không phải nàng hầu. Tư duy Việt quả là tự do bình đẳng, dù là Thần cũng có vợ, tất phải đẻ con như dân thường.
  8. Con Rồng Lạc Việt Có đi kiếm khắp đất Trung Quốc ngày nay cũng không thấy đâu có thờ cặp sinh thực khí mà có tên gọi là cặp Nõn-Nường như ở Phú Thọ Việt Nam. Nhưng chính cặp Nõn-Nường đó lại sinh ra cặp Yôn Ni-Linh Ga của người Chăm. Theo QT mà giải thích thì Nõn-Nường là do một cái tế bào là tế bào Nòi. Nòi đang nở ra theo kiểu tự tách đôi, khi hai nửa đang còn Dính nhau thì nó là Nõn-Nường.(Mà Dính , theo tuần tự ngược thì là Dính=Giao=Chào=Cheo=Chéo=Lẹo=Đéo=Đụ, cho nên đám cưới phải có “nộp Cheo cho làng” trước đã rồi thì muốn Dính=Đính=Được là mới được cấp phép). Cặp sinh thực khí dù có gọi tên nó bằng nhiều tên khác nhau tùy vùng, nhưng nguyên thủy của nó vẫn là cặp Cái/Cộc. Cặp này do một tế bào là tế bào Kẻ. Kẻ đang nở ra theo kiểu tự tách đôi. Khi đang còn là hai nửa dính nhau thì nó là Cắc-Cớ (nghĩa của “cắc-cớ” như từ điển giải thích là “sự oái- oăm dùng-dằng trong tình duyên” , mà Oái-Oăm=Ôm, Dùng-Dằng=Dính), rồi nó mới tách hẳn ra, Anh ra đằng anh là Cộc, Ả ra đằng ả là Cái. Cộc là con Dương: Cộc=Cặc=Cứng=Cương=Nường=Lường=La Gương (theo qui tắc “phiên” mà Hứa Thận thời Đông Tấn nêu trong “Thuyết văn giải tự” để đọc đúng âm Việt), La Gương=(lướt)=Lường, La Gương=La Ginh=(nói lái)=Linh Ga (qui tắc nói lái, Hứa Thận gọi là qui tắc “phản thiết”). Cái là con Âm: Cái=Mái=Nái=Nõn=Nồn=Rốn=Ruột=Rỗng=Rồng=Lồng=Lòng=Long= =Tỏng=Tim=Tâm=Tạng=Tràng=Trường=Thường=Thịt=Bít (=từ “beef” của tiếng Anh)=Biết=Việt. Bởi vậy mới nói con cháu dòng Rồng tức dòng Long là Việt Thường, là Ruột Thịt, là cái Rốn của thiên hạ (vì Rốn=Trộn=Trong= =Trung). Tiếng Việt thì, biết “Tường tận trong Lòng”=(lướt)= biết “Tỏng” . Còn Nõn=Nồn=Ni Yôn, Ni Yôn=(lướt)=Nồn , Ni Yôn=Yôn Ni (theo qui tắc “phản” của Hứa Thận). Trong bài “QuanThánh Đế Quân giáng bút chân kinh” ở chùa Ông có câu “龍 恨 毒 心 狼 婦 Long hận độc tâm lang phụ: Lòng giận thứ đàn bà tâm sói ác độc”. Rõ ràng là Lòng Ruột=Long Rồng. Chuyện truyền thuyết, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là dòng Rồng, nàng là dòng Tiên…”. Có người giải thích từ “Lạc Long Quân” căn cứ theo chữ, nghĩa là “vua Rồng của người Lạc Việt”, có người giải thích “Lạc Long Quân” là do biến âm của từ “Nọc Nòng Quần”, nghĩa là “tộc người thờ sinh thực khí, hay gọi là dân Chầy-Cối”. Chắc cũng đều đúng cả. Cứ theo QT giải thích, gốc từ Kẻ cho ra cặp Cộc/Cái, thì nếu lần ngược lại sẽ có Long=Lòng=Rồng=Ruột=Rốn, mà nơi “chôn rau cắt rốn” là ở Cái tức ở Mẹ, tức là ở dòng của Ả, mà dòng “Của Ả”=(lướt)=dòng “Cả”. Biểu tượng con Rồng là linh vật thờ của người Lạc Việt , là giải thích duy nhất chính xác, người Lạc Việt vốn là dân sông nước, cũng chính xác. Nhưng… Nhưng nhiều giải thích nói rằng, người Việt cổ do kính phục con cá sấu, nên đã nghệ thuật hóa con cá sấu thành hình tượng con Rồng là con vật không có thật để tôn thờ, giải thích này chưa thỏa đáng, cái hình tượng chỉ là cái biểu hiện nghệ thuật bên ngoài mà thôi. Tôi cho rằng người Việt thờ Rồng là ý muốn nói họ thờ chính cái Tư Duy của mình. Người Việt vẫn quan niệm rằng tinh hoa là ở tính Âm, ở Trăng, ở Đất là những cái tính Âm so với Trời tính Dương, nên trong “Ấu học quỳnh lâm” là bài đồng dao thời cổ đại được các học giả thời Tùy sưu tầm ghi lại, có câu giải thích sự hình thành vũ trụ 氣 之 輕 清 上 浮 者 為 天,氣 之 重 濁 下 凝 者 為 地 Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, Khí chi trọng trọc hạ nghĩ giả vi Địa : Khí nhẹ trong Nổi thành Thiên(Nổi=Trồi=Trôi=Trời=Thời=Thiên). Khí Nặng đục Lắng kết nên Địa mà(Nặng=Lắng=Đặng=Đặc=Đất=Địa) và câu 日 為 眾 陽 之 宗,月 乃 太 陰 之 象 Nhật vi chúng dương chi tông, Nguyệt vi thái âm chi tượng : Trời là tông chủ Thái Dương. Trăng Thái Âm lại tượng trưng tinh thần, rồi câu 月 裡 蟾 蜍,乃 皜 魄之 精 華 Nguyệt lý thiềm thừ, nãi hạo phách chi tinh hoa: Thiềm Thừ là Cóc giữa Trăng. Do tinh hoa của trăng trong tụ thành. Mà trống đồng của người Lạc Việt có các tượng cóc hoặc cặp cóc cõng nhau ở tang trống, và có câu “con cốc là cậu ông trời” với lại tranh “thầy đồ cóc”. Tiếng Việt lại có câu thành ngữ “người Ta là hoa của đất”. Nên người Việt tôn thờ coi trọng nhất là cái Tư Duy của chính mình. Con Rồng của Việt là do lấy từ hình tượng Dòng Sông, nó uốn khúc quanh co, nó bồi đắp màu mỡ cho đồng ruộng để có sự sống và tư duy của muôn loài. Cũng đồng thời, con Rồng là do lấy từ hình tượng bộ Ruột, nó lồng lộn lòng vòng như con sông, nó hấp thụ dinh dưỡng chuyển thành máu nuôi cơ thể. Người Việt thờ Rồng chính là thờ Lòng mình. Mà theo QT thì Lòng=Bọng=Bụng. Nhiều người cứ chê cười rằng, các dân tộc khác thì tư duy bằng Óc, còn người Việt thì lại tư duy bằng Bụng. Nhưng chính người Việt mới là kẻ nói chính xác đến tận gốc. Không có Khí lấy gì Nghĩ ?, (QT:Khí=Nghĩ). Không có Khí thì bộ óc cũng tê liệt mà thôi. Mà Khí là cái vô hình giúp mọi cơ quan của cơ thể con người hoạt động được, lại là do từ Đan Điền ở Bụng đưa lên. Cho nên người Việt mới nói “mình nghĩ Bụng” tức mình đang tư duy định làm cái gì, lại nói “nó thì Lòng nghĩ thế nọ thế kia” tức nó đang tư duy thế nọ thế kia. Mà cái Tư Duy lại là Ruột=Rồng=Long mà người Việt nghệ thuật hóa lên thành hình tượng con Rồng uốn khúc lòng vòng như con Sông, như bộ Ruột. Ruột cũng là Ruột Thịt, là chính Lòng mình và là chính đích thực Tổ Tiên của mình đang tồn tại trong cái Khí của cơ thể mình.
  9. Từ "Chào" đến "Văn" Chữ Văn được cổ thư giải thích là bốn nét tạo hình Vuông nhưng viết lệch đi, biểu thị bằng đường chéo, người Triều Châu đến nay vẫn đọc chữ ấy là “Vuông”, người Quảng Đông đến nay vẫn đọc chữ ấy là “Mảnh”, người Việt Nam ngoài từ “Vuông” và “Văn” còn có thêm từ dính “Vuông-Vắn” và có từ “Vuông Ruộng” tức “Mảnh Ruộng” đồng nghĩa nhau. Sở dĩ biểu thị chữ Văn 文 bằng đường Chéo là vì chéo là hai nét gặp nhau, “Chéo” gốc do từ “Lẹo” là sự gặp gỡ giữa con Đực và con Cái (Cộc/ Cái) trong tư duy phồn thực của người Việt cổ: Lẹo=Chéo=Chào=Giao 交( Quan Thoại mượn rồi phát âm là “cheo 交 ”)=Giao=Giữa =Vừa(“vừa lòng nhau”)=Vuông=Vuông-Vắn=Văn ( đúng là từ cuộc sống thực tiễn sản xuất dẫn đến văn minh của cuộc sống tinh thần, “phú quí sinh lễ nghĩa”, thể hiện rõ ràng trong qui tắc tạo từ của ngôn ngữ Việt). Chỗ=Chí=Chỉ 址 =Chốn=Chợ. “Chỗ Giao 址 交” là nói xuôi theo ngữ pháp Việt, là nơi gặp gỡ của hàng trăm chư hầu Bách Việt, chữ ấy về sau đã bị cưỡng bức bằng ngữ pháp Hán theo nói ngược là “Giao Chỉ 交 址”. Chữ Chào thật là cao sang long trọng, “lời chào cao hơn mâm cỗ” trong giao tiếp Việt, vậy mà nguyên thủy nó cũng chỉ là từ quan sát động tác “Lẹo” của hai con ngài nơi dân nuôi tằm của nền văn minh lúa nước là dân Việt mà thôi. Chỉ cần nói một tiếng “Chào!” với nét mặt tươi tắn đủ hiểu ý là muốn gặp gỡ nhau khi nhìn thấy mặt nhau hay muốn gặp nữa khi chia tay nhau cũng vậy, giống như từ “Chiao !” của tiếng Ý, là đủ văn minh lịch sự lắm rồi, mà nó còn hàm ý “ Chào=Giao Chỉ=Văn Lang ”, chứ đâu cần phải nói “Xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại !”, dài dòng gấp 3 lần thời gian nói và gấp 8 lần ký tự viết, như trên VTV nói ngày nay . Chắc là do thấy mình không dùng từ “tái kiến”= “chai chen” văn minh (!) như tiếng Tàu (mà thực ra từ ấy chỉ là từ cộc lốc “gặp lại” không còn hàm thêm ý gì cao đẹp khác), nên Viện ngôn ngữ học VN mới đặt cho VTV câu chào khi chia tay là “Xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại !” dài lê thê như vậy, chứ người Việt thì người ta quen nhau, nhớ nhau bởi chỉ một tiếng “Chào!”, vì Chào=Nhao-Nhao= =Nhau=Nhường. “Nhao-nhao” là sự ồn ào nhiệt tình xởi lởi cởi mở vồ vập với nhau trong lời nói,(“Quen nhau trên một quãng đường, Về nhà nhớ mãi ta nhường cho nhau”).
  10. Bài kinh giáng bút của Quan Vân Trường ( dịch bài “Quan Thánh Đế giáng bút chân kinh” , ở chùa Ông ) Quan Công Thánh Đế là ta Sắc dụ quần chúng liệu mà nghe cho Thế gian mọi sự nhỏ to Dựa lòng chân thực mà lo ở đời Quang minh, bất khuất sáng ngời Tử sinh thuận nghịch là đôi ngả đường Ta hay giáng thế như thường Anh em Hoàng Thúc đường đường ba ngôi Vườn Đào xưa nổi tiếng rồi Ngọn đao, bó đuốc đời đời vẫn thiêng Đến , đi đều rõ mọi miền Xả thân Ngô, Thục diệt phường Ngụy gian Trời thương trung hiếu, gian nan Cho Ta phân xử trắng đen dưới trời Sai Ta đi khắp mọi nơi Dò xem mọi kẻ ở đời nịnh, trung Mọi lũ gian xảo tham tàn Tội đền quả báo, Ta làm thẳng tay: Văn nhân lười học tối ngày, Hoạn quan xu nịnh lại hay lạm quyền, Dối cha lừa mẹ bề trên, Dửng dưng chẳng giúp láng giềng một tay. Giàu nghèo phải kết bạn bầy Đã rằng kết bạn, điều này ngũ luân Lòng thành bình đẳng nhân quần Sao gây rối rắm gian truân cho người ? Tào Tháo nham hiểm một đời Nay đang chịu tội phải ngồi âm ty Khổng Minh trung thực, nghĩa nghì Cõi âm được xếp hàng vi Thánh Hiền Lòng ngay được hưởng phúc tiên. Mưu gian đem lại cho liền họa tai. Tội ngầm vẫn rõ như ngày. Vô tư trời đất bắt tay đồng quần. Gái mà ngoa ngoắt ngông cuồng Đến đâu quỉ cũng phải nuông phải sầu. Trai mà ngó trộm gái lầu, Tính tình dâm đãng đi đâu cũng cuồng, Tắt mắt trộm của xóm làng, Rượu chè chìm đắm vào trong sòng bài, Ganh nhau đọ thắng thi tài, Càng hèn thì lại một mai càng nghèo ! Tu tâm cho tỉnh lại mau Lơ lơ càng lún, càng sâu, càng tồi Phạt cho ba kiếp luân hồi Nghìn năm nghe chửi muôn đời khó tha Bút phê thêm giảm chăng là Lưỡi gươm phạt chém đầy nhà cho ngang! Vợ mà lòng dạ sói lang Ngoắt ngoa điếc bẩn xóm làng người ta, Xúi chồng chửi cụ, chửi bà Ta nay thấy vậy lòng đà giận sôi ! Vung đao mổ tượng đang ngồi Chém lìa đứt mạng cái nòi con hư Để vui lòng kẻ hiếu từ Sớm hôm làm lụng kiếm dư đồng tiền. Rồi ta nhảy phắt ngựa lên Cần lao vạn dặm trên đường ruổi rong. Muốn cầu sống mãi dạy con Phải mau ngừng giết, phải còn phóng sinh, Thịt trâu, thịt chó chớ ăn Thì sẽ miễn được vào ngăn tù hình. Nghe lời ta dạy phân minh Gặp nguy, ta sẽ xuống trần giúp cho Trói ma, trục quỉ ra trò Ngọn đao sấm sét giương là máu tuôn Giúp nước không kể trăm đường Giúp mi thêm tước lại thường công huân Đời rộng phú quí vĩnh hằng Yên bình sống thọ chẳng màng rủi ro. Nghĩ xằng, phá phép, liệu mà Ta coi như thể cũng là lưu manh Không cho sống ở trên trần Mà đầy địa ngục thân bần rên la Bấy giờ hối đã muộn mà Hãy mau tuân phục như là pháp văn Quay đầu bỏ ác, bỏ xằng Khoan hồng hướng thiện sống lành dài lâu !
  11. Thời của Việt vương Câu Tiễn, dân Lạc Việt ( Các nác 洛 Việt越 = “Lắm nác” Việt = “Lạc” Việt) ở đó vẫn nói tiếng Việt như người Việt Nam, hậu duệ đích tôn của Lạc Việt , ở đất Việt Nam bây giờ. Chữ nho của người Lạc Việt khi đó phải đọc như người Việt đọc thì mới hiểu được. Ví dụ cụ thể như câu mệnh lệnh huấn quân của Câu Tiễn mà người Hán ghi lại thời Xuân Thu, mà Nhạn Nam Phi cung cấp, người Hán theo biểu ý chữ mà luận đều không hiểu gì cả, đọc theo âm quan thoại càng không ra ý nghĩa gì: -“維 甲” 修 “內 矛” : “Duy-giáp” tu nội mâu = “Xáp” tụ lại mau ! - 方 舟 航 治 “須 慮” : Phương xuồng hàng trị “tu-lự” = Phóng xuống hàng trật “tự” ! - 習 之 “于 夷”: Tập chi “ư-di” = Tập cho “giỏi” ! - 宿 之 “于 萊” : Súc chi “vu-lê” = Sống cho “vẻ” ! - 致 之 “于 單”: Chí chi “vu-đan” = Chết cho “vang” ! Những câu đó hoàn toàn theo ngữ pháp Việt. Thế giới Lạc Việt có hàng trăm nước , đều gọi là Việt cả, phân biệt nhau chỉ bằng biểu ý của chữ nho, mà vuông chữ nào cũng có mặt trời trong đó cả, vì dân Lạc Việt là dân thờ mặt trời trên trống đồng. Tất cả các chữ Việt của thế giới Bách Việt đó đều nằm trong nôi khái niệm Trời, theo QT: Trời=Ơi=Ư=Âu=U=Vu=Tu=Tươi=To=Rõ(nướcLỗ)=Rọi=Rực=Rỡ=Sở(nướcSở)=Soi=Sáng=Lãng=Lang=Mang=Mân=Minh=Đỉnh=Đông=Đường= =Thường=Dương=Duôn=Diên=(nướcYên)=Dịch=Dạ=Hạ=Hẹ=Huê=Nghệ=Ngô(nướcNgô)=Ngời=Ngài=Ngôi=Ngoi=Chói(nước Tề)=Chín(nước Tấn)=Chiếu(nước Nam Chiếu)=Chỉu=Rìu=Rượt=Vượt=Viêm=Vic ( “Victory”)= Vid (“Vid” là tên tiếng Phạn của kinh “Vệ Đà” là bộ kinh “những điều hay của cuộc đời”, Vệ Đà= Việt Đời) =Việt=Nhiệt=Nhật. Theo như nôi khái niệm này mà suy ra thì “Văn Lang” có nghĩa là “Vuông đất của dân thờ mặtTrời”= “Vuông Trời”= “Đất Trời”, nghĩa là vùng đất có văn hóa cao, “Đất Trời”= “Đất Trên”= “Đất Thiêng”= “Đất Thượng”, vì vậy mà có tên gọi “Việt Thường”. Đất=Vắt=Việt=Vịm, là dụng cụ gốm đầu tiên. Đất=Đá=Cà=Vá=Vẹt=Việt, là công cụ đá cuội mài đầu tiên là cái Vá để đào đất và cái Vẹt để chém cây phát ra tiếng kêu Rèn-Rẹt nên còn gọi là cái Rìu, tức cái rìu đá mới. Đó là những sản phẩm văn hóa Việt cách nay hàng chục vạn năm. Bởi vậy cái tên “Việt” mà tộc này tự gọi mình là có từ hàng chục vạn năm trước nữa, khi con người biết Chọi đá vào đá để cho nó Vọt (=Việt) lửa ra, mà họ gọi là Cháy=Chói=Lọi=Ly=Lả=Lửa, trở thành “đám người có lửa” gọi là Họ Lửa=(lướt)=Hỏa.(Do đó về sau Thần Lửa được sử viết là Hỏa Thần, còn Thần Cháy Nung thì sử lại viết là Chúc Dung Thần). Rồi người Việt mới Viết ký tự gạch kẻ lên cái Vịm bằng Đất Vắt cách nay hàng chục vạn năm, rồi hàng nghìn năm sau mới là ghi ký tự trên đồ đồng. Chữ Việt bộ “tẩu” (Chạy=Nhảy=Nhanh-Nhẩu= “Tẩu”, đều là từ Việt hết) đọc theo kiểu Việt của thời Việt vương Câu Tiễn là : Chạy 走Rìu戈 =(lướt)=Chiêu=Chậu=Chúa=Chủ, cho nên nó mang nghĩa là “Tư tưởng dẫn đầu”, mà chữ Dẫn 足, là cái dò (Dò=To=Túc), ghép với chữ Đầu 首nghĩa là “Đầu dẫn Tao”=(lướt)=Đạo道, Đạo mới là cái dẫn chân người Ta đi mở đường văn hóa, vậy Đạo của Trang Tử tức Đạo Lão cũng là của người Lạc Việt. Chữ Đạo道 và chữ Việt 越đều có logic như nhau, một đằng là chân dẫn với cái đầu, một đằng là chân dẫn với cái rìu, đều là để đi mở mang lãnh thổ văn hóa. Chữ Việt bộ tẩu越này nghĩa là “Rượt theo mặt trời” của dân trống đồng, là “Vượt”, là nhảy Vọt, là “ưu việt” chứ không phải ý xấu như giải thích khác, nên chữ Việt 越bộ tẩu này rõ ràng là đã dùng trước thời Xuân Thu, và về sau dùng để chỉ tên đất vùng Triết Giang越. Còn chữ Việt khắc trên cây gươm của Việt Vương Câu Tiễn là chữ tên riêng nên đã thay bộ tẩu bằng bộ kim là Việt鉞. Nếu bình thường viết tên và chức thì người ta vẫn viết làViệt越Vương王Câu勾Tiễn践. Còn gươm là của riêng Vua dùng nên tên và chức vẫn phát âm như vậy, nhưng chữ thì phải là “tên riêng”, người xưa gọi là tên chữ, thường là do ông tiên chỉ làng viết cho khi khai sinh đặt tên. Ví dụ tên là Bình nhưng viết tên thì không phải chữ Bình thường dùng, mà tùy người đó mệnh gì thì đổi hay thêm vào bên trái chữ bộ thủy hay mộc hay kim…, nhiều khi thấy ba chữ họ và tên như Hồ Văn Tèn chẳng hạn, trong đó các bộ thủ tạo nên ba chữ này chưa có đủ “mầu” của ngũ hành thì người ta tự ý thêm vào bên trái chữ nào đó bộ thủ cần thiết cho đủ “mầu”ngũ hành, thành ra những chữ tên riêng thường chỉ đúng âm đọc, còn theo biểu ý thì vô lý, nhưng người có tên đó thích vậy hoặc nghe theo tư vấn như vậy thì cũng phải chịu thôi.( Ngày nay vẫn còn mê tín đó, cho nên giáo viên điểm danh học sinh, dù nghe thì hiểu, nhưng vẫn phải hỏi lại chữ họ tên học sinh đó viết như thế nào cho đúng). Cụm “Việt Vương Câu Tiễn” khắc trên gươm thì nó đã là cụm “tên riêng” nên người khắc đã phải đổi bộ thủ bên trái cho nó đủ mầu ngũ hành, vì vậy mà có chữ Việt bộ kim 鉞 trên gươm, chứ không phải là chữ này có trước chữ Việt 越bộ thủ công dụng. Có người tên “ Việt” còn viết thay bằng bộ thủy vì ông ta thích tên riêng mình phải là chữ như thế, với lý do tôi thích tôi là Việt 泧 nước tức nước Việt vì tính tôi nhu như nước. Cứ theo QT mà dẫn thì mỗi nôi khái niệm của Việt ngữ có từ chục đến vài chục từ đơn âm tiết không đồng âm, mà trong đó Hán ngữ chỉ mượn có một âm và tất cả các chữ nho, do vậy Hán ngữ có từ đồng âm dị nghĩa quá nhiều, có muốn latin hóa để ký âm cũng chịu. Ví dụ thời Việt Vương Câu Tiễn, dân Việt vốn là dân biển, dân sông nước, nói xuôi trong cấu trúc ngôn từ, vì luôn “xuôi chèo mát mái” tức chèo xuôi và có gió thổi mát cánh buồm, giỏi buôn bán trên bến dưới thuyền, nên có các từ của sôi động giao dịch là: Tới Lằn=(lướt)=Tấn 濒, nghĩa là sát mép nước; Tiếp Bạn=(lướt)=Tân 宾 =Khẩn-Khoản=Khách, nên còn có từ “tiếp tân” hay “tiếpkhách”; Bờ Lên =(lướt) =Bến=Bân= Tân; Bận Rộn= (lướt)= =Bộn=Tốn=Tân 缤; Bẽn=Bân 彬 ( ý nói người trong Rừng 林sâu ra giao dịch thường bẽn lẽn, từ tốn, chậm chạp nhưng có lòng tốt, nên từ ấy còn có nghĩa là lịch sự ,nho nhã, và có chuyện Rét nàng Bân đan áo cho chồng); Phô Vân=(lướt)=Phân 玢 (là loại đá ngọc đem ra trao đổi). Vậy mà tất cả các chữ nho ấy người Hán mượn, chỉ phát có một âm không chuẩn là “bin”. Còn đặt tên con thì người Việt mong muốn cái tố chất của nó tức cái Bổn của con phải có cả Vũ 武cả Văn文 , nên “Bổn Vũ Văn”=(lướt)=Bân斌, và chữ Bân này chỉ viết bằng ghép hai chữ Vũ 武và Văn文 thành Bân 斌, nó chẳng có nghĩa gì cả, chỉ nhìn chữ mới biết ý mà thôi, nhưng nó chính là thằng Bờm=Bân. Thằng Bờm chỉ có cái Quạt Mo tức cái Mo Quạt=Mỏ Qúi. Nó chỉ muốn đổi cục xôi tức cái Nền Nếp mà thôi, mà Mỏ Qúi với Nền Nếp đều là của nội địa Văn Lang cả. Cỗ cúng nào của người Việt chẳng có cái Thủ Lợn đặt trên mâm xôi , ý là Thủ Lĩnh phải trên cái Nền Nếp thì mới Lãnh Đạo được.
  12. Vế sau của câu Sấm ấy là: “Song Ngư Liền Địa Nghi Lộc Phát Vương”. Ứng nghiệm thời tiền sử: Hai tộc bản địa ĐNÁ là Indonesien và Melanesien (song ngư) đã hòa huyết thành đại chủng tộc Việt cách nay 70.000 năm. Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (song ngư) cùng toàn bộ biển Đông lúc đó còn là một đồng bằng (liền địa) mênh mông mà khoa học gọi là đồng bằng Sunda Land. Thời băng đá tan 16.000 năm trước nước biển dâng thêm 150 m, tộc Việt di tản bằng bè mảng đi khắp nơi trên thế giới quanh Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, tại đất liền ĐNÁ tộc Việt làm nên nền văn hóa Hòa Bình cách nay 15.000 năm. Đế Nghi (nghi) và Lộc Tục (lộc) đều là con Đế Minh, chia nhau phát triển (phát) văn minh nông nghiệp từ vịnh Thái Lan đến sông Hoàng Hà, gọi là văn hóa làng của nền văn minh Văn Lang (vương). Ứng nghiệm trong tương lai không xa: Văn minh phương Đông và văn minh phương Tây (song) sẽ hội nhập trên mảnh đất ĐNÁ (ngư. Ngư=cá=Cả ĐNÁ=(lướt)= Cá. Hiện ĐNÁ vẫn tồn tại cả nghìn ngôn ngữ của các sắc tộc bản địa, trong khi người Hồ đã mất gần hết, chỉ còn lại vài ngôn ngữ. Trong khi đa số người ĐNÁ lại đang sử dụng ký tự Latin của phương Tây làm ký âm cho ngôn ngữ bản địa của mình, chứ không dùng chữ cổ). ĐNÁ hải đảo và ĐNÁ lục địa liên kết (liền) thành một khối( địa), dân số có cả tỷ (người cả tỷ=(lướt)=nghi) , liên kết các tộc=(lướt)=lộc, để cùng nhau phát triển (phát) văn minh Văn Lang (vương) ở một trình độ cao hơn.
  13. Tư liệu bạn hoangnt cung cấp về Câu Đối là đúng,người nông dân cũng kể với tôi như vậy.Nhưng treo câu đó , người nông dân ngẫm rằng nội dung của câu đó là hệ quả đương nhiên, vì còn hiểu ở câu đó một điều khác: Văn minh Việt là nền văn minh sớm nhất, bởi vậy đã từng làm nên “nền văn minh nông nghiệp lúa nước” sớm nhất. (Chữ Thần của “Thần Nông” và chữ “Vũ Trụ” trong câu ấy nhắc họ điều đó, cả hai từ ấy đều là kết cấu theo ngữ pháp Việt)). Xin nhắc lại là : Các khái niệm trừu tượng trong ngôn ngữ Việt đều từ tên những vật cụ thể mắt thấy tay sờ của nông dân nền văn minh lúa nước mà ra. Ví dụ hai từ trừu tượng to tát nhất là “ Vũ Trụ” và “Hòa Bình”. Tiếc rằng cả hai từ này của người nông dân Việt Nam từ thời cổ đại, đến nay vẫn được các nhà ngôn ngữ học, các nhà sử học Việt Nam say sưa (!) giải thích đó là “từ Hán -Việt”. Vũ trụ hòa bình là tâm niệm của nhân loại văn minh ngày nay. Vũ Trụ là từ thuần Việt: VỎ là cái bọc kín những gì của nó chứa. Bọc kín lâu gọi là Ủ. Cái “ VỎ Ủ” nói lướt thành cái VŨ. Người Việt dùng từ VŨ này để chỉ cái Bầu đang ủ không gian, nên VŨ=Bầu không gian. TRỜI cũng đang Ủ cái Thời. Cái TRỜI Ủ nói lướt thành TRỤ. Người Việt dùng từ TRỤ này để chỉ thời gian. “Vũ Trụ”= “Không gian và thời gian”. Hòa Bình là từ thuần Việt: Từ “hòa bình” nguyên là từ lướt của câu “Hột lúa Ta trồng ở ruộng Bằng của Mình”. Lúa Ruộng Bằng thì nó có động hại gì đến ai đâu mà chẳng “Hòa Bình”, vì lúa nuôi sống người mà chẳng lấy lại gì kể cả cọng rơm , gốc rạ. Nếu trồng trên dốc còn sợ tuột đất làm hại đến kẻ khác. Nhưng ở triền đồi dốc người Việt lại làm ruộng bậc thang, cấy lúa trong cái “Khuông” chứa nước “Nằm” im. Cái “Khuông nước Nằm”=(lướt) = “Khảm”. Nền Vuông= nền Ruộng=nền Khuông đất để trồng lúa nước phải Bằng, còn phải bỏ công trang kỹ cho thật Bằng như mặt nước, để có được cái “Bằng như ý Mình”=(lướt)= “Bình”. Chữ Bình ấy người Việt viết cách điệu bằng 5 nét kẻ của quẻ Khảm, cũng có ý nghĩa là “ruộng nước”: ___ ___ ________ 平 bình ___ ___ Từ “Hột Lúa” =(lướt)=Hùa. Từ “hùa” là từ trừu tượng trong ngôn ngữ Việt, có nghĩa là “cùng đồng ý và cùng hành động như nhau”. Nhìn đống lúa hột có ngọn ngoài sân thì hột nào chẳng giống hột nào, nên tiếng Việt có câu thành ngữ “Im như thóc” tức chúng đồng ý với nhau, chúng cùng có giá trị như nhau, nên còn có câu “Im lặng là gật đầu”. Nhưng hột lúa này là lúa của Ta chứ không phải lúa của Tàu hay của Tây, nên “Hột lúa Ta”= =(lướt)=Hòa. Người Việt lấy 5 nét kẻ của quẻ Khảm để viết cách điệu thành chữ Hòa, vì chỉ có nước mới là chất “hòa tan” chất khác thành công bằng (nước mắm mà hòa tan trong bát nước thì chấm ở góc nào của bát nước chấm ấy chẳng có mùi vị nước mắm công bằng như nhau). Chữ Hòa 5 nét cách điệu ấy như sau: ___ ___ _______ 禾 lúa, lúa phải trồng ở Ruộng, nên thêm Vuông là 和 ___ ___ Chữ Hòa 和 ấy biểu ý rõ ràng là “Hột Lúa ruộng Ta”=(lướt)=Hòa . Cả hai chữ Hòa Bình 和 平 chỉ có nghĩa theo biểu ý của bộ Thủ là: Lúa Ruộng Bằng, và theo biểu ý của nét kẻ của Bói Quẻ(=Bát Quái) là: Nước Ruộng Nước. “ Nước Ruộng Nước” thì nó ở trong Khuông Phải , tức chịu theo Khuôn Phép là cái Khung Pháp của luật chứ chẳng Xăm Lướt đi đâu mà gọi là Xâm Lược. Thứ nữa nó lại không tự nổi sóng nên rất yên bình. Mà “Nước Ruộng Nước” 和 平 lại chính là Nước Việt Nam, từ vùng núi cao đến vùng biển chỗ nào cũng có ruộng nước.
  14. Phồn thực trong Lời nói Việt Mùa Xuân ấm áp là mùa hưng phấn của muôn loài, cho nên nói chuyện phồn thực. Phồn thực trong Lời nói Việt là do tôi nghiệm thấy trong lời nói của người nông dân Việt ,như tự nhiên, thành “qui tắc tạo từ Việt” ,tôi gọi tắt là QT, chứ tôi không phải người nghiên cứu ngôn ngữ. Đương nhiên đề cập đến thì phải mổ xẻ nên mong các bạn đọc mạng đừng chấp những lời tôi nói ra. Những từ cần chú ý, tôi sẽ không đánh dấu thanh điệu. Người Việt là cư dân “văn minh lúa nước” nên toàn lấy những vật cụ thể mắt thấy tay sờ được, làm thành những khái niệm trừu tượng. Trái Bù Rợ=Bù To=Bù Họ=Bù Tổ=Bù Đỏ=Bù Đầu=(lướt)=Bầu, nên có khái niệm Bầu Trời, nhưng cái Bầu chỉ Trời ấy lại là Bầu=Bắt Đầu. Thời Đông Tấn, ông Hứa Thận lấy những qui tắc mà người nông dân Việt vẫn nói một cách tự nhiên, coi là qui tắc “thiết” và “phiên thiết” để giải thích cách đọc chữ nho cho đúng giọng Việt, trong sách đó còn nêu qui tắc “nói lái”, mà người Việt vẫn nói tự nhiên như ngày nay, thậm chí còn lái cả lái , ví dụ: “lái dú” để đùa trong ý phồn thực. Thời cổ đại cách nay hàng chục vạn năm, người Việt thờ sinh thực khí, lấy ví dụ một địa phương cụ thể, như ở Ninh Thuận người Chăm thờ cặp Yônni-Lingga (người La. Lingga=La=Lứa Ả= Lả= Lửa=Ly), ở Phú Thọ thờ cặp Nõn-Nường của người Kinh (người Canh. Lingga=Kẻ Ing=Kinh =Kẻ Anh=Canh=Cành=Cánh). Như vậy là từ cái đầu tiên của tạo hóa là Dương, mới có loài người đầu tiên là chế độ mẫu hệ, có Ả trước rồi mới có Anh. Cũng giống như sinh vật thì con Ả dậy thì trước mới kích động được con Anh động dục. Dòng Canh đã đi Ra ( khái niệm phương hướng “Về nam Ra bắc” của người Việt khác khái niệm “Lên bắc Xuống nam” của người phương Bắc) đến dòng sông Rum bên dãy Ngàn Hống(“ Ngàn” do từ tiếng Khơ Me là Pnom=Non=Ngọn=Ngàn, “ Hống” do Rộng=Hống=Hồng. “ Hồng mà đều là của Chung”=(lướt)= “Hùng”. Họ Hùng nghĩa là “ lắm người và đất rộng” tức để chỉ tộc Việt cổ đại). Định cư nông nghiệp lúa nước bên dòng nước, dân đông lên, đi tiếp ra bắc, để lại dòng Rum cho Ả, gọi là dòng Của Ả=(lướt)= dòng Cả. Dòng Cả mới sinh ra lắm dòng Thứ = Chư (như “có Muôi rồi mới có Tê”= “có Nếp rồi mới có Tẻ”= “có Nhất rồi mới có Thứ”= “có Một rồi mới có Mai=Hai=Hầu. Các dòng Thứ Hai=dòng Chư Hầu). Từ “nước” để uống, lại chính là do Yonni= Âm mà ra: Yônni đã Vo trong cái Vỏ là “Bầu biểu tượng Âm Dương”, lộn tùng phèo thành Ni-Yôn=( lướt)= =Nôn, rồi trong bầu ấy nở-nang ra “từ dính” là Nắc-Nẻ. Nắc Nẻ là cái con trừu tượng, chẳng biết nó là con gì. Nhưng mẹ nông dân mắng bọn nít, con trai, con gái đùa dỡn vật nhau ngã chổng kềnh chồng đống ngoài sân, câu: “Chúng mày làm gì mà như con Nắc-Nẻ thế, đú đởn nó vừa vừa chứ”. Nắc ấy chính là Nác, là Đắc, là Nước. Có Đắc mới có Đẻ, có Nắc mới có Nẻ ( giống như động vật , con cái dậy thì, nó tiết nước, mới làm con đực động dục) nên người nông dân lại có câu mắng: “ Mày ở lỗ Nẻ nào chun ra mà ăn nói thế hả” và câu trách: “ Điện đóm gì thiệt bực mình, đang coi thì nó tắc, đang Nắc thì nó sáng, làm mất cả hứng”. Cái Nõn-Nường=Nôn-Lường= Nàng-Lang=Néng-Láng ( tiếng Hoa). Có Nôn=Lôn nên mới nở ra “từ dính” là Lẳng-Lơ rất trừu tượng mà khi dương quá nó thành Lửa là lửa tình,còn khi âm quá nó thành Lãnh là lãnh đạm. Có cặp Nôn-Lường nên mới có từ ghép Lường Gạt. Có cặp Néng-Láng mới có từ Léng Phéng. Những từ Lẳng-Lơ, Lường Gạt, Léng Phéng đều là những cái hay xảy ra trong quan hệ tình dục. Văn minh ngày nay có công nghệ thời trang gọi là Sex chẳng qua chỉ là từ lướt của câu bằng lời Việt là “Sinh Em Xinh-đẹp”=(lướt)=Sex.
  15. Lì xì một Đồng Chữ Đồng 同có cái vòng hở ở ngoài là một bộ thủ gọi là bộ “cung”, “cung” là từ lướt của hai từ “quay” “chung”= “cung”, lướt là một trong các qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Cái vòng quay chung ấy hở để hễ có người nữa vào thì lại “nối vòng tay lớn” cho vòng chung càng được rộng ra nên bộ thủ “cung” có ý nghĩa là xa, càng thêm người nối tay tiếp vào thì cái vòng quay chung càng rộng ra tức càng “xa”, càng có nhiều người vào “cùng” thì ta càng đi được xa, cũng tức là càng có nhiều người đồng thuận thì sự nghiệp của ta càng thăng tiến xa . Cái vòng “quay chung”= “cung” ấy là một Vuông = Văn 文, Văn ở đây lại là Văn minh Lạc Việt 洛 越 vì nó là Văn minh mở cửa để cho càng nhiều người vào “nối vòng tay lớn”, ta thấy rõ điều đó qua hình thức cái Vuông ở đây không phải là một vuông kín mà hở. Vì Văn minh Lạc Việt là văn minh mở nên người Lạc Việt gọi là Văn hiến, tức là “Văn minh người LạcViệt hiến cho nhân loại”. Tôi dám chắc đây là Văn hiến vì tôi đã nhìn thấy bên trong cái vòng quay chung đang mở ấy là cặp bánh Dầy ở trên bánh Chưng : một nét ngang ở trên là cái gạch Dương của Dịch học Lạc Việt tức là mặt Trời, được tượng trưng bằng cái bánh Dầy, một ô vuông ở dưới là cái bánh Chưng tượng trưng cho Đất. Văn minh Việt mở cửa là để cho toàn nhân loại vào hưởng cái minh triết tỏa ra từ cái tượng đài vĩ đại độc đáo mà Lang Liêu con trai Vua Hùng đã ý tưởng và thi công: một chiếc bánh Dầy đặt trên một chiếc bánh Chưng. Từ 5000 năm trước mà Tổ Tiên ta đã đưa ra tư tưởng mở cửa và hội nhập toàn cầu chỉ bằng một chữ ĐỒNG. Chữ đồng ấy nó đã diễn ra trong đời sống dân Việt trong suốt 5000 năm qua và còn hiện diện ngày nay thể hiện ở chỗ điệu múa nắm tay quay chung quanh đống lửa, chỗ nào cũng có trên mảnh đất Việt: Cái vòng “quay chung”của chữ Đồng 同 là đoàn người già trẻ trai gái nắm vòng tay chung nối vòng tay lớn chung quanh đống Lửa là cái lõi của chữ Đồng 同,chính là Quẻ Ly của Lạc Việt được viết cách điệu thành một Kẻ và một Vuông tượng trưng bánh Dầy bánh Chưng, nhưng chính một Kẻ và một Vuông ấy cũng là năm_________ ____ ___ nét của Quẻ Ly _________ khi đổi sang như bên Cả cái "Tượng đài bánh Dầy bánh chưng mở cửa" vốn gốc của người Kinh, cả điệu múa "Nắm tay chung nối vòng tay lớn quay chung quanh đống lửa" vốn gốc của người Tây Nguyên, người Thái lại biểu hiện thành một chữ Đồng là trống Đồng, mà trên trống đồng có biết bao nhiêu là vòng của biết bao nhiêu là người, vật quay chung quanh một mặt Trời là Ly, là Lửa, là Lói, là Chói Lọi, lại là cái từ Blời nguyên gốc của người Mường. Mừng Xuân Tân Mão xin lì xì một Đồng 同 đến tất cả mọi người.
  16. Họ Hồ trong thiên hạ Họ Hùng Thủy tổ họ Hồ được cho là Hồ Công Mãn 胡 公 满, sống cách nay hơn ba ngàn năm. Hậu duệ về sau lấy thụy hiệu của ông tổ là chữ Hồ Công làm họ, gọi tắt là họ Hồ. Chữ Hồ Công Mãn nghĩa là ông tên Mãn có thụy hiệu ( tức danh hiệu của vua hay quan sau khi chết) là Hồ Công. Chữ Công nghĩa là Ông thì mọi người đều đã rõ. Còn chữ Hồ nghĩa là gì thì thụy pháp (tức phép đặt tên hiệu cho vua hay quan sau khi chết) thời nhà Chu giải thích trong cuốn “Dật Chu thư. Thụy pháp giải 逸 周 書。謚 法 解” có về sau, viết rằng: “Di niên khảo lão viết Hồ 彌 年 考 老 曰 胡” cho thấy ý nghĩa chữ Hồ 胡 là “niên cao lão thọ”. Bản thân chữ Hồ 胡 gồm chữ Cổ 古tức là cũ, già và chữ Nguyệt 月tức là thời gian năm tháng nghĩa là lâu, lão. Người Hán phát âm chữ Hồ Công 胡 公 là “hú cung”, so sánh với giải thích của “Dật Chu thư. Thụy pháp giải 逸 周 書。謚 法 解” ta cũng thấy được cái phát âm “hú cung” ấy là do âm “cụ ông” của tiếng Việt mà ra. Vậy Hồ Công Mãn chính là “Cụ Ông tên là Mãn” của tiếng Việt, đọc đúng theo cấu trúc câu của Việt ngữ. Còn chữ Hồ ấy trong Hán ngữ hiện đại giải thích là thời thượng cổ người Trung Hoa gọi các dân tộc Mông Cổ, Hung Nô, Khiết Đan ( thực ra Khiết Đan là phiên thiết của từ “Khan”).v.v. là người Hồ, là các tộc người sống ở vùng Tây và Bắc Trung Quốc ngày nay; một nghĩa nữa của chữ Hồ trong Hán ngữ hiện đại là “cái bìu da dưới cổ con bò” mà tiếng Việt gọi là cái yếm bò. Và còn dùng chữ Hồ để chỉ các sản vật ngoại lai như “hồ cầm”, “hồ tiêu” , “hồ lô bô” là củ cà rốt v.v. Ông Mãn có làm quan và sống rất thọ nên khi chết Ông được đặt thụy hiệu là Hồ Công ( Cụ Ông). Đến thời Xuân Thu mà những văn bản chữ nho như bài “ Việt nhân ca” của dân gian hay bài “Quân huấn lệnh” của Câu Tiễn còn được các học giả ngày nay dẫn giải được ra nó nguyên văn là lời Việt, đọc đúng chỉ bằng âm Việt, thì trước đó như trong “Dật Chu thư 逸 周 書” (tức sách thời nhà Chu đã bị thất truyền) cũng có thể dẫn giải được ra đúng nếu bằng âm Việt vậy. Bản thân ông Mãn có họ là Vị, vì ông sinh ra ở vùng Vị Thủy 渭水 tỉnh Hà Nam TQ ( Hán thư nói, người Việt cổ sống theo các con nước, lấy tên con nước làm họ và gọi xứ sở mình là nước). Truyền thuyết nói Vị Mãn là cháu đời thứ 34 của đế Ngu Thuấn . Vậy Ông không thể là người Hồ 胡 tức tộc người vùng Tây và Bắc TQ. Mặc dù vào cái thời mà trong lịch sử gọi là thời “Ngũ Hồ loạn Hoa” tức năm tộc người Hồ vào xâm chiếm Trung Nguyên , xong họ đua nhau đổi họ của mình sang gọi là họ Hồ. (Ngày nay người có họ Hồ đông thứ 13, chiếm 1,31% dân số TQ). Ngu Thuấn theo truyền thuyết là người có tài có đức nên được Đường Nghiêu để ý, thử thách cử đến khai phá vùng Vị Thủy về sau hậu duệ của Thuấn lấy tên sông làm họ gọi là họ Vị, trong đó có Vị Mãn. Truyền thuyết nói thời hồng hoang cư dân vùng Đông TQ thờ chim, giống chim thân xanh đầu trắng tựa như con chim trĩ, cư dân ấy về sau sử gọi là người Đông Di 東 夷. Mạnh Tử viết : Thuấn người Đông Di, hai mắt có ba con ngươi vì vậy còn có tên là Trọng Hoa 重 華, Trọng Minh 仲 明. Mẹ Thuấn là Ác Đăng 握 登 nhìn thấy cầu vồng to mà sinh ra Thuấn ở đất Diêu 姚 ( chứng tỏ chẳng biết bố Thuấn là ai, vì thời đó còn là thời mẫu hệ). Thuấn được Đường Nghiêu thiền nhượng (thay hiền bằng cách nhường ngôi cho người tài đức chứ không phải cha truyền con nối) ngôi cho, trở thành đế Thuấn. Bộ hạ của Thuấn như Cao Đào 皋 陶, Khiết 契 ( cũng đọc là Khế), Ích 益 v.v. là người Đông Di. Thuấn là chuyên gia làm gốm từ nhỏ, đế Thuấn được coi là ông tổ nghề gốm. Ông Khiết được coi là ông tổ của khế thư tức chữ khắc trên gốm. ( Chữ khắc trên mu rùa hay trên xương thú thì gọi là Giáp cốt văn, được coi là di chỉ đời Ân Thương tức sau khi nhà Thương đã dời đô đến đất Ân, phát hiện khai quật đầu tiên là thời Quang Tự nhà Thanh cuối thế kỷ 19 tại tỉnh Hà Nam TQ. Trau chuốt đồ gốm mộc khi làm gần xong thì Việt ngữ có các từ kỹ thuật là “khắc”, “khoét” và “khót” là nạo trong lòng. Cái “chum”, “chĩnh”, “vại”, “thóng” bằng gốm để lại hình dáng cho cái “ chuông”, “chiêng”, “vạc”, “đỉnh” tương ứng bằng đồng, cũng như cái “cối” đá để lại hình dáng cho cái “cổ” bằng đồng, chữ “đồng cổ 铜 鼓” là chữ nho Hán hóa nghĩa là “trống đồng” mà ở Hà Nội có đền Đồng Cổ là đền thờ trống đồng ở đường Thụy Khê ven hồ Tây). Con trai của Thuấn được phong đất Ngu Thành 虞 城 tỉnh Hà Nam, về sau được chuyển đổi phong ở đất Thương 商, trở thành tổ tiên của người Thương. Thời Chu Vũ Vương diệt xong vua Trụ nhà Thương bèn phong tước cho hậu duệ của Nghiêu và hậu duệ của Thuấn trong đó có Vị Mãn. Ngoài ra thời nhà Chu có hai nước Hồ đều gọi là Hồ tử quốc 胡 子 國 ( nước Hồ được phong tước “ tử 子” là hàng thứ tư, cũng còn lớn hơn tước “nam 男” là hạng năm cuối cùng, viết phiên âm bằng chữ Tử 子 là “con” và chữ Nam 男 là “trai” chẳng có nghĩa gì với tư và năm cả, chắc thời Chu vẫn còn đậm dấu ấn đếm theo hệ ngũ phân như tiếng Khơ Me?), một nước Hồ là của họ Cơ người Đông Di và một nước Hồ là của họ Qui cũng người Đông Di, đều là tộc người Đông Di thờ chim, mà Hán ngữ phiên âm là con chim Đột Hồ 突 胡, có khi viết tắt là chim Đột 突 鳥, có khi viết tắt là chim Hồ 胡 鳥 ( phát âm chữ Đột Hồ 突 胡 là “thu hú” theo chữ , chứ cũng chẳng biết nó là con chim gì, có phải nó là con chim “tu hú” của tiếng Việt ? ). Về sau hai nước Hồ này đều bị nước Sở diệt, con cháu hai nước đó về sau lấy tên nước làm họ, gọi là họ Hồ. (Đại chủng Việt thời cổ đại vì cứ “uýnh” nhau loạn xà ngầu nên cứ bị ngoại tộc xâm lấn dần và thống trị, sau thời “Ngũ Hồ loạn Hoa” thì bị thống trị và phải cống nạp nên mới xuất hiện từ “cống Hồ” nghĩa là phải cúng sản vật cho người Hồ. Nhà văn Nhật Siba Hirôtarô viết dí dỏm rằng: “ Thời các nước Ngô, Sở, Việt ở Trường Giang họ là những nước giàu mạnh hơn Trung Nguyên nhiều vì đông dân và lắm gạo, họ nói tiếng ngữ tộc Đông Nam Á khác xa với tiếng Trung Nguyên…Do họ ăn gạo rau là chủ yếu , ít ăn thịt, nên họ phải ăn thêm muối mắm nhiều, bởi vậy họ rất “xung”, hay cãi nhau và đánh nhau…”. Tuy vậy dù đánh nhau như Ngô và Thục đánh nhau để rồi bị Ngụy của Tàu Tháo thôn tính, người dân vẫn nhận thức được rằng ác nhất vẫn là bị ngoại tộc xâm lăng thống trị, nên mới có câu “Giặc bên Ngô chưa ( ác độc và thâm hiểm) bằng bà cô bên Tàu”. Quả bí đỏ ta còn gọi là bí Ngô, mà Hán ngữ gọi là “nán qua” nghĩa là dưa của người Nam, từ Việt cổ gọi là “bù rợ” mà có học giả cho rằng nó là khởi nguyên của từ “Phục Hy” , thời con người đã biết trồng bầu bí và khoai sọ như ở di chỉ văn hóa Hòa Bình cách nay một vạn năm có dấu tích, và mới có câu ca dao Việt “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” . Chuyện cổ tích của người Khơ Mú ở Tây Bắc, chủng Môn Khơ Me, kể rằng thuở xưa loài người sinh ra từ trong một quả bầu, lấy dùi nung đỏ để khoan lỗ chui ra, người Khơ Mú ra đầu tiên nên da bị muội đen, cứ thế người ra sau ít bị đen hơn, người Thái, người Kinh ra sau cùng nên da trắng hơn . Nói chuyện Tam Quốc Diễn Nghĩa, người Hoa từ xưa chỉ thấy thờ ba vị “ Đào viên tam kiệt” là ba anh hùng kết nghĩa vườn đào, nhất là thờ Quan Vân Trường nghĩa khí nên dù ở chỗ nào trên thế giới họ cũng có chùa Ông. Một thời có trào lưu các học giả TQ đòi xét lại Tào Tháo phải được coi là một nhân vật chính nghĩa và “phê” Khổng Tử là tư tưởng lạc hậu. Đến bây giờ lại hội thảo về Khổng Tử khá nhiều, kể cả hội thảo quốc tế ở bên Nga, in lại sách, lại tôn vinh “vạn thế sư biểu”. Ở Việt Nam từ xưa vẫn thờ Chu Công và Khổng Tử. Từ thời trung đại người Việt ở trong nước và nước ngoài đều thờ Đức Thánh Trần. Tôi có đọc bài của một tác giả Trung Quốc trên một tạp chí TQ vài năm trước, quên ở tạp chí nào chưa tìm lại được, viết về Trần Hưng Đạo, nói rằng, ba lần đánh tan quân Nguyên Mông vẫn còn chưa phỉ sức tài của Trần Hưng Đạo, tài thao lược ấy mà được làm vua một nước lớn như nước TQ thì mới phỉ sức Ông. (Nếu có vậy sớm hơn chắc đã không thể có nhà Nguyên trong lịch sử Trung Hoa). Họ Hồ ở Việt Nam trong gia phả mới chỉ nghiên cứu ngược đến trạng nguyên Hồ Hưng Dật cách nay 10 thế kỷ. (Do ảnh hưởng Nho giáo, các họ khi lập gia phả thường chỉ tìm về đến ông nào làm quan to nhất thì coi là thủy tổ họ mình, rồi thôi không tìm ngược trước nữa). Theo gia phả họ Hồ biên ghi từ năm 1660, do tiến sĩ Hồ Sĩ Dương chép thì ông Hồ Hưng Dật người Bách Việt nước Ngô, quê huyện Vũ Lâm tỉnh Triết Giang, đậu trạng nguyên năm thứ hai đời vua Hán Ẩn Đế thời Hậu Hán ( 947- 951). Thời đó trong lịch sử Trung Hoa là thời Ngũ Qúi còn gọi là Ngũ Đại gồm có: Hậu Lương ( 907- 923), Hậu Đường (925 - 935), Hậu Tấn ( 935 - 947), Hậu Hán ( 947- 951), Hậu Chu ( 951- 960). Việt Nam lúc đó là nước độc lập dưới cờ Ngô Quyền ( 939 – 965) tương ứng đời Hậu Tấn, Hậu Hán. Bởi vậy không thể có chuyện ông Hồ Hưng Dật được vua Hậu Hán cử sang Giao Châu làm Thái thú ở đất Diễn Châu như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết. Còn đúng thì như Quốc sử triều Nguyễn viết rằng, ông Hồ Hưng Dật trôi dạt sang Việt Nam (vì lúc đó đất Ngô Việt đã bị Hán hóa), ông được vua Việt Nam cử làm quan ở châu Diễn ( là vùng mấy huyện bắc Nghệ An ngày nay). Làm quan vài năm, ông xin lui về ở hương Bào Đột (vùng đồi huyện Quỳnh Lưu giáp Nghĩa Đàn của Nghệ An ngày nay) sống nghề canh tác nông nghiệp. Theo ông Hồ Sĩ Hinh thì đó là khoảng năm 960. Vì họ Hồ là hậu duệ Ngu Thuấn nên nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi Quỳnh Lưu Nghệ An có câu đối : “ CỔ NGUYỆT MÔN CAO HỆ XUẤT THẦN MINH NGU ĐẾ TRỤ”. Thời làm quan châu Diễn ông Hồ Hưng Dật là bạn đồng liêu với Đinh Công Trứ là thân sinh của Đinh Bộ Lĩnh. Khoảng năm 965, Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp các sứ quân, khi tuyển quân ở châu Diễn có đến gặp Ông hỏi xem Ông có ý dấy binh hay không, Ông nói rằng chỉ mong làm tròn phận sự người dân và giơ gươm thề rằng “vạn đại vi dân”, ông lo làm trang trại, không chỉ ở Bào Đột mà còn kéo dài lên tận Đường Khê Thượng thuộc tả ngạn và hữu ngạn con sông Hiếu huyện Nghĩa Đàn ngày nay. Năm 1844 tiến sĩ Hồ Sĩ Tuần làm đôi câu đối ở nhà thờ trạng nguyên Hồ Tông Thốc tại xã Thọ Thành huyện Yên Thành Nghệ An viết là : TRIẾT GIANG THỬ ĐỊA NGÔ TIÊN THẾ, HOAN DIỄN DO TỒN ỨC VẠN NIÊN nghĩa là “ Triết Giang đất ấy cụ tổ ta, Hoan Diễn đang còn mười vạn năm”. Câu sau là mượn ý câu thơ của vua Trần Nhân Tông “ Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” ( Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ, Hoan Diễn đang còn mười vạn quân; ý nói Cối Kê đất Việt xưa đã bị mất rồi, nay muốn giữ được đất gốc của Lạc Việt thì phải dựa vào dân) . Họ Hồ hương Bào Đột đã thành hai tông phái, như bức hoành phi ở nhà thờ họ Hồ xã Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu Nghệ An do tiến sĩ Hồ Sĩ Tuần đề : NHẤT BẢN NĂNG SONG CÁN nghĩa là một gốc hai cành. Tông phải trưởng ở châu Diễn,có Hồ Hồng ở Quỳnh Đôi là võ quan cao cấp chỉ huy 2000 quân đời Trần, con là Hồ Hân liên kết anh hùng hào kiệt trong vùng theo Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh, Hồ Hân tiến cử Nguyến Bá Lai, Nguyễn Xí, Nguyễn Biện ( tổ thứ 10 của Nguyễn Phước tộc) ra giúp Lê Lợi. Hồ Hồng khi công cán trong Nam lấy vợ người An Cựu sinh ra dòng Hồ Đắc ở Thuận Hóa. Cháu đời thứ 13 của Hồ Hồng là nữ sĩ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, nét thơ ấy nhiều đời sau lại có ở họ Hồ hậu duệ của Tuấn sĩ Hồ Trọng Kỳ lập nghiệp ở Hà Nội, là nhà báo Hồ Trọng Hiếu tức nhà thơ trào phúng Tú Mỡ. Cũng cháu đời thứ 13 của Hồ Hồng là Hồ Thơm ở Tây Sơn Bình Định lấy họ mẹ (họ Nguyễn) là anh hùng Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung đã thống nhất đất nước và đập tan quân xâm lược Mãn Thanh. Hồ Tá Bang trong phong trào duy tân là người sáng lập công ty nước mắm Liên Thành và trường Dục Thanh ở Phan thiết , nơi Nguyễn Tất Thành từng đến dạy học. Hồ Học Lãm (1883 – 1943) tham gia phong trào Đông du của Phan Bội Châu, tốt nghiệp trường võ bị của Nhật và Trung Quốc, làm giảng viên trường quân chính Hoàng Phố ở Quảng Châu, là biên sự sứ Việt Nam cách mạng đồng minh hải ngoại. Hồ Sĩ Hạnh tức Hồ Vĩnh Long từng qua Nhật, Trung Quốc, được Phan Bội Châu cử lãnh đạo Bản Thẩm ở Thái Lan. Hồ Sĩ Thiên dạy học ở Bắc Giang có ba người con, trai đầu là An, hai gái sau là Bắc và Giang. Cả nhà tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái Học , Bắc và Giang đều bị xử tử hình cùng Nguyễn Thái Học tại Yên Bái. Sau này ta gọi là Cô Bắc, Cô Giang vì đều chết trẻ chưa từng lấy chồng, được đặt tên cho đường phố ở Sài Gòn tại quận Nhất và quận Phú Nhuận. Tông phái thứ của họ Hồ là ở châu Hoan tức đất Thanh Hóa. Vào khoảng thế kỷ 13 , cháu 12 đời của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại nay là xã Hà Đông huyện Hà Trung tỉnhThanh Hóa, làm con nuôi cho Tuyên phủ sứ Lê Huấn, đổi thành họ Lê là Lê Liêm. Cháu 4 đời của Lê Liêm là Lê Qúi Ly, sau trở lại họ Hồ là Hồ Qúi Ly (1334 – 1407). Hồ Qúi Ly có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông tuyển vào cung, bà thứ nhất là bà hoàng phi Minh Từ sinh ra vua Trần Nghệ Tông, bà thứ hai là bà hoàng phi Đôn Từ sinh ra vua Trần Duệ Tông. Hồ Qúi Ly được vua Trần Nghệ Tông gả cho em gái là công chúa Ninh Huy, được cử giữ chức Đồng binh chương sự (Tể tướng). Con gái trưởng của Hồ Qúi Ly là vợ của vua Trần Thuận Tông. Năm Ất Hợi, Quang Thái thứ 8, vua Trần Thuận Tông giao cho Hồ Quí Ly chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình Chương quân quốc trọng sự Tuyên trung vệ Đại Vương. Năm Canh Thìn (1400) Hồ Qúi Ly ép vua Thiếu Đế nhường ngôi cho mình lập ra nhà Hồ, đổi quốc hiệu là Đại Ngu (khẳng định Việt tộc là hậu duệ của đế Ngu Thuấn). ( Đế Thuấn, vua Thuấn, còn viết là Ngu Thuấn, cũng còn viết là Hữu Ngu Thuấn , thực ra chữ Hữu ở đây là phiên âm của chữ “họ”, mà trong Việt ngữ thì “họ” hay “chúng” nghĩa là rất đông người hay gọi là “cộng đồng dân cư”, bởi vậy Hữu Ngu Thuấn hiểu là “cộng đồng dân cư thời Ngu Thuấn”, cũng như Họ Hùng hiểu là cộng đồng dân cư thời Hùng Vương. Chữ Hán viết là “Hữu” Hùng Quốc hiểu là “họ” Hùng Quốc tức là “cộng đồng dân cư” của nước của vua Hùng. Mà chữ Hùng 雄 ấy nguyên thủy trong từ Hùng Vương 雄 王của sử Việt viết chữ Hùng 雄 là chữ biểu ý và biểu âm gồm bộ “ hồng 厷” nghĩa là đất rộng lớn và bộ “chuy 隹” nghĩa là chim, vì cư dân đó có vật tổ - totem là con chim. Chim chiếm đất rộng lớn chỉ có thể là con chim đầu đàn, chim đầu đàn chỉ có thể là con chim Trống. Mà chữ nho dùng chữ Hùng 雄 ấy viết Hùng điểu 雄 鳥 nghĩa là Con chim Trống, Hùng kê 雄 雞 nghĩa là Con gà Trống. Con chim Trống, đồng nghĩa với con chim đầu đàn thì chỉ có thể nó là con chim Lạc trên Trống đồng của người Lạc Việt ấy mà thôi. “Trống” nghĩa là “đầu đàn” ấy mới sinh ra từ “Gióng”, mà trong Việt ngữ từ “gióng trống” là chỉ động tác của người chỉ huy đánh trống dồn dập để kêu gọi thần linh trong cuộc tế lễ hay thúc giục quân lính trong cuộc chiến đấu. Vốn là cái “ Cối” đồng lấy hình dáng cái cối đá úp ngược, nhưng khi dùng cái “ Cối” ấy để “Gọi” thần linh hay “Gọi” quân sĩ thì phải “Gõ” hay “Vỗ” mà cái âm tiết “ Cối Vỗ” ấy đã sinh ra từ “Cổ Vũ 鼓 舞” của chữ nho, và chữ Cổ 鼓 ấy được lấy để phiên âm cái Cối đồng, và chữ nho viết nó là cái Cổ Đồng 鼓 銅 hay Đồng Cổ 銅 鼓theo cấu trúc câu Hán. Còn tại sao người Lạc Việt làm hình cái trống đồng lấy dáng hình lộn ngược của cái cối đá ? Thì cũng như cái Chuông đồng là dáng hình lộn ngược của cái Chum gốm đấy thôi ! Bởi vì chính người Lạc Việt sáng tạo ra thuyết Âm Dương nên họ thừa hiểu thế giới Âm là lộn ngược của thế giới Dương. Mà Cối đồng và Chuông đồng là những khí cụ linh thiêng chỉ dùng để gõ gọi thần linh thế giới Âm về phù hộ nên hình dáng chúng là hình dáng “âm” là đúng lý. Dùng họa tiết trống đồng Lạc Việt để trang trí thì quả là tao nhã nhắc nhớ cội nguồn, còn không ít kẻ trọc phú bỏ cả triệu đô thuê đúc nguyên bản trống đồng để chưng trong nhà cho thế giới Dương thì quả là xúc phạm đồ thờ mà không biết sợ các cụ về “vật” cho. Vì người Lạc Việt là người tạo ra cái hình tròn biểu tượng Âm Dương nên họ thừa hiểu rằng con Âm hết thời đại của nó thì nó đã lộn ngược lại thành Con Dương, mặt của Cối đá tức thời đại đồ đá là đáy của cái Trống đồng tức thời đại đồ đồng là sự tiếp nối đương nhiên của lịch sử. Rồi sẽ đến lúc cái cuối cùng của cái mới nhất sẽ là cái đầu tiên của cái cũ nhất đã từng có trong lịch sử loài người, cứ nhìn chỉ riêng trong lĩnh vực môi trường sinh thái thì sẽ thấy quá rõ điều này, loài người sẽ đổi mới lại như cũ. Cái Cối đồng đang trong trạng thái hoạt động tức đang gõ ấy thì cái Cối đồng được gọi là Trống đồng vì nó đang làm vai trò đầu đàn chỉ huy , tức đang Gióng lên thật Hùng để thúc quân xông trận. Trống đồng mà đã gióng lên vang dội thì quân xâm lược bạt vía kinh hồn , như đôi câu đối trong đền thờ Vua Bà ở tỉnh Hồ Nam TQ mà bác sĩ Trần Đại Sĩ đã đến tận nơi sưu tầm được : Tích trù Động Đình uy trấn Hán. Phương lưu danh sử lực phù Trưng ( Quân đông bạt Hán Động Đình. Lưu thơm danh sử dốc lòng phù Trưng). Bởi vậy Mã Viện quyết triệt phá cho bằng hết trống đồng của người Lạc Việt. Cối đồng mà đã Gióng lên thì nó là cái Trống , tiếng Trống ấy là trống không, không nhìn thấy nhưng nó là Có đấy vì nó tương tác vào vong linh của thế giới Âm và Cổ Vũ người của thế giới Dương. Giáo sư Linh mục Lương Kim Định nói, người Lạc Việt gọi cái trống đồng là cái “Trống”, tiếng Việt có từ “trống không”, chính là cái triết lý Không Sắc của Phật giáo có sau, vì trống đồng Lạc Việt có trước Phật giáo 600 năm. Về từ “trống” hay “hổng” thì giáo sư Cao Xuân Hạo có kể một chuyện vui : Ở Pari sau thế chiến 2 các em nhi đồng đi nhặt sắt vụn nộp cho người lớn thu gom, đây là hoạt động yêu nước tình nguyện của mọi người nên không có tính công xá, không phải cân. Các em học sinh nộp chỉ đếm số tấm phế liệu của cá nhân để ghi thành tích cho trường. Hai đứa bé trạc 6 tuổi đem đến nộp mỗi em ba tấm, đương nhiên thành tích như nhau. Một em cãi với cô thu gom : như vậy không được, cô còn phải đếm cả các lố hổng trên tấm nữa chứ, của cháu cũng ba tấm nhưng thêm với nhiều lỗ hơn , vậy thành tích của cháu phải hơn chứ. Cô thu gom bảo lỗ hổng là trống không, có gì đâu. Em bé cãi:Trống không sao còn gọi là “cái” lỗ hổng, lại còn đếm được? Nó cũng là “Có” đấy chứ!”. Thánh Gióng hay Thánh Trống hay Thánh Hùng cũng chỉ là một nghĩa là người cầm đầu. Chỉ cần nhìn một chữ Hùng 雄 như sử Việt viết trong từ Hùng Vương cũng đủ thấy rõ , bằng biểu ý của nó, là con chim Lạc trên Trống đồng. Ấy vậy mà chữ Hùng ấy về sau lại bị đổi bằng một chữ “ hùng 熊” khác đồng âm, chắc là có từ khi có “Tứ khố toàn thư” của nhà Mãn Thanh cách nay hơn ba trăm năm, chữ “hùng 熊” ấy nghĩa là con gấu, viết Hữu Hùng Quốc 有 熊 国 đã được đổi bằng chữ “hùng 熊” ấy thì theo nghĩa chữ 有 熊 国là “nước có con gấu” , thật không thể hiểu nổi, chắc nước ấy ở Bắc Cực hay Xi Bê Ri ? Cũng như chữ Quốc 國 vốn nguyên thủy của nó thì thấy được là Vuông (Vùng đất hay Mảnh đất) trong nó có qua đồng và mặt trời (thì nó chính là những hình trên Trống đồng Lạc Việt chứ còn gì nữa) , ấy vậy mà về sau bị đổi thành Vuông có Vương 王 ở trong, lý giải là có vua thì mới có nhà nước, về sau thấy vô lý vì thời hiện đại làm gì còn vua, thế là thêm một chấm vào thành chữ Ngọc 玉 ở bên trong, lý giải chữ Quốc 国 là “phạm vi có của báu bên trong gọi là Quốc”. Qua năm sau, Tân Tỵ (1401) bắt chước nhà Trần, Hồ Qúi Ly nhường ngôi cho con để lên làm Thái thượng hoàng. Trong 30 năm làm quan triều Trần và 7 năm xưng Hoàng đế và làm Thái thượng hoàng, Hồ Qúi Ly cải cách rất nhiều về quân sự, học hành thi cử, làm sách, tài chính và thuế, khuyến khích mở rộng chữ Nôm, đặc biệt phát hành tiền giấy thay tiền đồng. Đặc biệt nữa là xây thành Tây Đô ở Thanh Hóa sau gọi là thành nhà Hồ là một công trình bằng đá hoành tráng, những tảng đá vuông vắn nặng mười tấn được xếp cao đến mười mét không biết bằng phương tiện gì, mà công trình ấy hoàn thành chỉ trong vòng ba tháng. Di tích này đang được trình UNESCO xét duyệt công nhận di sản văn hóa thế giới. Triều nhà Hồ ngắn ngủi chỉ có 7 năm. Nhà Minh tấn công xâm lược, kháng chiến chỉ được 6 tháng thì cha con Hồ Qúi Ly bị bắt ở núi Cao Vọng huyện Kỳ Anh Hà Tĩnh.Tông phái ở Thanh Hóa về sau biến mất không biết họ đi về đâu. Theo Minh sử ký sự, con cháu Hồ Qúi Ly bị đày sang Trung Quốc. Hồ Qúi Ly và Hồ Hán Thương phải đi thú ở Quảng Tây. Hồ Nguyên Trừng và cháu là Hồ Nhuế (con Hồ Hán Thương) được tha, nhờ Hồ Nguyên Trừng giỏi nghề chế tạo binh khí và có bí quyết riêng chế súng nên được vua nhà Minh trọng dụng. Từ trước Hồ Nguyên Trừng đã nghiên cứu chế tạo được nhiều loại súng có sức công phá mạnh gọi là súng thần cơ. Súng này có đầy đủ các bộ phận cơ bản của các loại súng thần công của thế giới có ở những thế kỷ về sau. Súng thần cơ có nhiều loại. Loại dùng cho bộ binh cỡ nhỏ bắn xa được 700 mét. Loại cỡ lớn gọi là thần cơ pháo, đặt trên xe kéo hoặc trên thành. Hồ Nhuế sau được bổ làm trưởng ty thuế tỉnh Quảng Tây. Hồ Nguyên trừng được vua Minh cho làm quan bộ Công sau cất nhắc lên chức tả thị lang bộ Binh. Từ đường họ Hồ ở Liêu Châu Quảng Tây, có Hồ Minh Đạo là cháu 11 đời của Hồ Qúi Ly, đậu tiến sĩ , làm bố chánh tỉnh Triết Giang. Cháu 7 đời của Hồ Minh Đạo là Hồ Hán Dân đậu cử nhân niên hiệu Quang Tự (1875 – 1908) đời Thanh Đức Tông, vào năm Tân Hợi (1911) làm phủ đạo nguyên soái, năm 1928 làm Lập pháp viên trưởng, là ủy viên trong chính phủ Trung Hoa dân quốc. Ngoài Hồ Nguyên Trừng, thời Minh còn một danh nhân người Việt Nam nữa đã đóng góp trí tuệ cho văn hóa Trung Hoa , đó là Nguyễn An, người thiết kế và chỉ huy thi công Tử Cấm thành của nhà Minh ở Bắc Kinh. Tôi đã đọc bài của một tác giả Trung Quốc đăng trên một tạp chí TQ cách nay vài năm mà tôi cũng quên rồi vì không lưu lại. Bài đó viết, thời quân Minh sang xâm lược Việt Nam, thấy một đứa bé trai khoảng 12 tuổi ở thành Thăng Long, tên là Nguyễn An, con nhà thường dân mà tướng mạo thông minh dĩnh ngộ, nên đã xin gia đình đó cho đem về bên Trung Quốc, nuôi cho ăn học trong cung vua. Nguyễn An học rất sáng dạ, vẽ và thiết kế rất sáng tạo. Nhưng vì ở trong cung lại không phải hoàng tộc nên đến tuổi thành niên vẫn phải bị biến thành hoạn quan theo tục lệ phong kiến thời đó. Nguyễn An trở thành một kiến trúc sư tài năng, tính dự toán rất nhanh và chuẩn xác. Ông được vua nhà Minh giao trọng trách thiết kế và chỉ đạo thi công công trình xây dựng Tử Cấm thành, cấu trúc hoành tráng còn đến bây giờ như ta thấy ngày nay ở Bắc Kinh. Bài viết đó kết luận, đáng lý ra người có công lao như kiến trúc sư Nguyễn An phải được đúc tượng thờ ở Trung Quốc. (Như binh sĩ nhà Minh về sau mỗi lần trước khi bắn thần công đều có tế Hồ Nguyên Trừng – theo Lê Qúi Đôn) .
  17. Di chỉ Vọng Kinh Lầu nằm ở thị trấn Tân Thôn , cách Trịnh Châu Mới 6 km về phía bắc, gần hồ chứa nước Vọng Kinh Lầu, cách tpTrịnh Châu 35 km về phía Bắc, thuộc tỉnh Hà Nam. Di chỉ được phát hiện vào những năm 60 thế kỷ 20 khi dân địa phương san mặt bằng đào được một lô khí cụ đồng thau và khí cụ ngọc, trong đó có rìu đồng thau 青 铜 钺 là loại lớn nhất ở TQ của thời Hạ Thương.(Do gần hồ chứa nước Vọng Kinh Lầu nên di chỉ mang tên là di chỉ Vọng Kinh Lầu. Vọng kinh lầu thật thì là tòa nhà “ngóng về kinh đô Bắc Kinh” , nó là một di tích lịch sử khác , ở thành phố Vệ Huy tỉnh Hà Nam, được xây dựng thời vua Vạn Lịch nhà Minh, do Lộ Giản Vương bị giáng chức đày tới Vệ Huy nhớ mẹ ở Bắc Kinh mà xây nên tòa nhà rất cao gọi là “vọng kinh lầu”, thời Thanh nhiều địa chủ lắm tiền của cũng xây nhà rất cao to cũng gọi là “vọng kinh lầu”). Năm 2006 di chỉ này được xếp hạng văn vật được bảo vệ của tỉnh Hà Nam, diện tích 12 ha. Tháng 9 năm 2010 được sự phê chuẩn của cục văn vật quốc gia, viện nghiên cứu văn vật khảo cổ thành phố Trịnh Châu đã tiến hành khai quật di chỉ này cho đến hiện nay, trên một diện tích 3000 mét vuông, phát lộ tường thành, kênh bao thành, cổng thành, đường đi, móng nhà, mộ táng v.v. khoảng hơn 200 di tích, trong đó phát hiện di tích thành đời Hạ và di tích thành đời Thương được cho là quan trọng nhất. Do qui hoạch đường cao tốc Trịnh Châu – Tân Thôn đi xuyên qua khu di chỉ nên các chuyên gia đã yêu cầu các cơ quan chức năng tp Trịnh Châu sửa lại qui hoạch đi vòng khu di chỉ để giữ nguyên được khu vực bảo tồn . Ngày 12 tháng 1 năm 2011 toàn bộ diện mạo hai thành Hạ và Thương đã được phát lộ trên khu diện tích 168 ha. Các chuyên gia cho rằng di chỉ thành đời Hạ có thể là một đô ấp của một nước địa phương nào đó thời nhà Hạ, còn di chỉ thành đời Thương có thể là một trấn quân sự trọng yếu thời nhà Thương. Thành đời Thương bảo tồn khá hoàn chỉnh, mặt bằng thành gần như hình vuông, diện tích khoảng 37 ha, cổng thành ở hướng Đông Nam, có đường đi, toàn bộ cổng thành chiếm diện tích 2000 mét vuông, là cổng thành lớn nhất và còn nguyên vẹn nhất được khai quật từ trước đến nay. Cổng thành rộng 4,5 mét hình chữ U, hai bên cổng thành có các công trình kiến trúc phụ kiểu thành phòng ngự thời Chiến Quốc ngược về thời đầu Thương. Thành đời Hạ nằm ở cạnh ngoài thành đời Thương, mặt bằng hình vuông, gần mương bảo vệ thành đời Thương. Có chuyên gia cho rằng nó có thể là đô ấp của Cát Quốc 葛 国 hoặc Tăng Quốc 潧 国. Các chuyên gia của Đại Học Bắc Kinh cho rằng phát hiện hai thành này ở cùng một nơi, rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu văn hóa giai đoạn cuối Hạ đầu Thương. Di vật đào được có hài cốt, đồ gốm như chum, vại v.v. mà các chuyên gia gọi là “đồ gốm nguyên thủy”, trong đó có loại vại có ba chân cao như ba ông đầu rau hay ba chân kiềng (hình ảnh xem trên www.news.cn) trông rất giống cái vạc đồng. (Có nhà nghiên cứu người Việt đã viết, lịch sử đã đi từ đồ đá, rồi đồ gốm, rồi mới đến đồ đồng, thể hiện rất rõ trong ngôn từ Việt : “chum” gốm rồi mới đến “chuông”,”chung” bằng đồng, nhưng hình dáng thì giống nhau; “vại” gốm rồi mới đến “vạc” đồng, nhưng hình dáng thì giống nhau cũng có ba chân). Cái vại gốm có ba chân ở di chỉ Vọng Kinh Lầu này hình dáng nó di truyền lại cho hình dáng ở cái vạc đồng. Tại sao cư dân thời đó lại làm cái vại gốm có ba chân cao? Hẳn là họ đã phải chạy trận lụt kinh hoàng cùng vua Bàn Canh từ Trường Giang lên khai phá vùng Hoàng Hà? (mà bạn Minh Xuân có nêu là di chỉ này có thể là minh họa cho Sử thuyết Họ Hùng của Nhật Nguyên).
  18. Tết trùng dương LÃN MIÊN Tiết trùng dương ngày 9 tháng 9 âm lịch ở Trung Quốc đến thời Đường đã trở thành tập tục phổ biến ở vùng Trung Nguyên, mà nguồn gốc tập tục được coi là từ chuyện thần thoại, kể rằng: Thời Đông Hán ở huyện Nhữ Nam có anh nông dân tên là Hoàn Cảnh, gia đình gồm bố, mẹ, vợ và con cái đông đúc, cuộc sống tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn. Nào ngờ hai bờ sông Nhữ xảy ra ôn dịch, dân làng nhiều nhà bị bệnh chết, chôn không kịp, bố mẹ của Hoàn Cảnh cũng bị mắc bệnh chết. Từ nhỏ Hoàn Cảnh đã được nghe kể chuyện dưới sông Nhữ có một con quỉ, mỗi năm đều lên bờ một lần đi gây hại, đến đâu gieo bệnh ôn dịch tới đó.( Ở ta cũng có câu dọa trẻ con chớ vọc bẩn mà “quan ôn đến bắt”). Hoàn Cảnh quyết tâm đi tìm thầy học cách trừ quỉ, cứu nguy cho dân làng. Nghe nói ở núi Nam có một Đạo tiên tên là Phí Trường Thành tinh thông thuật pháp, anh ta bèn khăn gói ra đi tìm học. Phí Trường Thành trao cho Hoàn Cảnh một thanh long kiếm (tức gươm rồng đúc bằng đồng thau) gọi là kiếm trừ yêu quái, dạy anh ta ngày đêm luyện tập.Thấm thoắt đã được một năm, một hôm đang luyện tập thì Phí Trường Thành đến nói với anh ta: “ Năm nay ngày 9 tháng 9 ôn quỉ sông Nhữ sẽ xuất hiện, con phải về ngay trừ hại, ta cho con một bọc lá châu du 茱 萸 , một bình rượu hoa cúc để chống nhiễm bệnh, con hãy về làng đưa dân làng lánh hết lên núi cao tị nạn”. Đạo tiên nói xong đưa tay vừa chỉ, một con chim nhạn xòe cánh bay đến hạ xuống trước mặt, Hoàn Cảnh cưỡi chim bay về Nhữ Nam. Đến ngày 9 tháng 9 anh đưa vợ con và dân làng lánh hết lên ngọn núi sau làng, đưa cho mỗi người dắt vào mình một nhúm lá châu du 茱 萸 và uống một ngụm rượu hoa cúc, nói là để trừ tà và chống nhiễm bệnh, còn mình anh ta về nấp ở nhà cầm gươm chờ quỉ đến. Một hồi sau nghe sóng sông Nhữ réo, ôn quỉ lên bờ đi vào làng thấy cảnh vắng tanh, ngẩng mặt thấy dân làng đều đang trên sườn núi. Nó ào đến chân núi, ngửi phải hơi rượu và mùi lá sặc sụa, không dám trèo lên nữa, quay về làng. Thấy bóng quỉ, Hoàn Cảnh cầm gươm lao ra, đánh nhau một chặp, quỉ địch không lại bỏ chạy, Hoàn Cảnh rượt theo đâm trúng phổi ôn quỉ, giết chết nó. Từ đó về sau dân hai bờ sông Nhữ được sống yên bình. Mọi người gọi ngày 9 tháng 9 là “ngày lên núi cao tránh họa” về sau trở thành tập tục nhắc nhớ chuyện xưa. (Giải thích nguồn gốc tập tục bằng chuyện do người đời sau đặt ra kể lại, tuy chưa thỏa đáng, nhưng trong nội dung chuyện cũng cho thấy bóng dáng nguồn gốc Bách Việt của tập tục: miền Nam, đồ đồng, Đạo giáo, chữa bệnh bằng cây thuốc, thời cổ đại có lần phải lên núi cao tránh lũ lụt như chuyện cổ tích “ Sơn tinh thủy tinh”. Trong văn chương truyền miệng như “ Ấu học quỳnh lâm” thì nói: Phí Trường Phòng là người thời Tây Chu giỏi toán thuật đo đạc ruộng đất: Thời Nghiêu trăm họ dân quê; Trong lòng tự đắc hát ca làm đồng. Tây Chu phác thực, nghĩa nhân; Ruộng đồng nhường nhịn ân cần làm chung. Thu gọn đất Phí Trường Phòng ; Biết cách trắc đạc lấy gần từ xa.Thời Tần kỹ thuật làm nhà. Biết cách lăn đá đưa ra xây cầu - “ 擊 壤 而 嬉,上 世 之 黎 民 自 得. 讓 畔 而 耕,西 周 之 百 姓 相 推.長 房有 縮 地 之 方.秦 始 皇 有 鞭 石 之 法 ”). Một “cổ tích” khác lại giải thích: Thời nhà Hán trong hoàng cung mỗi năm ngày 9 tháng 9 đều bày lá châu du 茱 萸,ăn bánh ngọt, uống rượu hoa cúc để trường thọ. Sau vụ ái cơ của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Thích phu nhân bị giết hại, cung nữ là Giá Môi 贾 某 bị trục xuất khỏi cung về quê , đem tục này về truyền lại cho dân chúng rồi dần trở thành phong tục dân gian.( Giải thích kiểu này thật vô lý. Đến như nhạc và múa của cung đình cũng là từ dân gian mà ra, được nâng cấp lên mà thành nhạc cung đình và múa cung đình, ẩm thực cung đình cũng vậy, món ăn dân gian được các đầu bếp sành sỏi nghệ thuật nâng cấp lên mà thành đặc sản cung đình như trà cung đình, rượu Minh Mệnh. Đến như bà Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh ở trong cung còn thèm món đầu dê hầm nguyên cả đầu của quê hương bà ta, vốn xuất thân thôn dã vùng quê nghèo, đầu dê để nguyên cả đầu rửa chải sạch lưỡi họng, hầm nguyên cả thủ cho chín rục, dọn nguyên đầu lên vừa ăn vừa gỡ thịt. Do sở thích này của bà ta mà cậu thanh niên khỏe mạnh đẹp trai em chủ quán thịt dê, vốn là đồng hương bà ta lên kinh đô mở quán, cứ bị gọi vào vườn của hoàng cung dâng đầu dê hầm cho bà ta hoài vào buổi tối, bị bà ta ép làm tình cho đến khi gầy xơ xác rồi bị đuổi về quê, giữa đường bị lính do bà ta lệnh đi theo siết cổ chết khi vừa ra khỏi kinh thành. Tuy vậy “cổ tích” này cũng để lộ một sự thật là quan lại người Hán khi được cử đi làm thứ sử ở đất Bách Việt biết học theo cái hay của người Bách Việt rồi truyền lại cho dân Hán chưa biết văn hóa đó để rồi cùng theo. Chuyện cổ tích Việt “Lang Liêu và bánh chưng bánh dầy” mới là phản ánh đúng sự thực là tri thức của dân gian truyền vào cung đình, rồi được “luật hóa” để phổ biến thành truyền thống cho dân cả nước, vậy mà chuyện ấy lại có cách nay hàng bốn ngàn năm! truyền miệng hết đời này sang đời khác). Một thuyết khác về nguồn gốc tục trùng dương nói là: Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa con số 9 là con số Dương cũng là con số Cực, là con số thần bí được sùng bái trong tín ngưỡng, chỉ trời cao gọi “cửu trùng” chỉ đất cực gọi “cửu tuyền”. Kinh Dịch coi số 9 là số dương, số 6 là số âm. Ngày 9 tháng 9 cả ngày và tháng đều là số dương, hai dương trùng nhau , bởi vậy gọi là trùng dương, cũng gọi là trùng cửu, nó chiếm vị trí quan trọng trong thời gian của năm. Ngày trùng dương còn gọi là ngày Đạp Thu, giống như ngày 3 tháng 3 âm lịch gọi là ngày Đạp Xuân. Từ thời Ngụy, Tấn ngày này trở thành ngày mà văn nhân mặc khách ngâm vịnh thơ. Tiết trùng dương 9 tháng 9 có tập tục như một lễ tiết dân gian là từ thời Chiến Quốc. (Có thể hiểu là đến thời Chiến Quốc người Hán mới biết đến phong tục này từ người Bách Việt, còn ở người Bách Việt thì tục này đã có hàng ngàn năm trước rồi - NV). Đến thời Tây Hán phong tục đi lên chỗ cao ngắm cảnh đã có ở kinh đô Trường An. Đến thời Đường tiết trùng dương chính thức được coi là một lễ tiết dân gian và giữ mãi tục này cho đến ngày nay. Tập tục là ngày đó mọi người lên núi cao ngắm cảnh để hưởng không khí trong lành thư dãn. Ở đồng bằng không có núi cao thì người ta làm bánh bằng bột do ngâm kỹ gạo rồi xay thành bột nước, ngào đường miếng, chưng lên gọi là bánh “cao 糕” để tượng trưng là đã lên “cao 高” ( Bánh “cao” thực ra là từ phiên âm của bánh “gạo” tiếng Việt, hay “khao” tiếng Thái mà thôi - NV), ý là lên cao thì tránh được họa, cầu mong được tốt lành. Ngoài ra tiết trùng dương còn thưởng ngoạn hoa cúc nở vì đang mùa rộ vào tiết thu vàng nắng nhẹ trời trong, uống rượu hoa cúc là loại rượu nấu bằng nếp vị ngòn ngọt. Tương truyền rượu nếp nấu bằng gạo nếp ủ men lâu trong vò kín, là loại rượu xuất xứ từ các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc TQ (Không hiểu thời cổ đại vùng Tây Bắc TQ có nhập khẩu nếp hay chưa ? hay là nó là vùng Tây Nam thì đúng hơn. Nếp thì chỉ ở người Việt mới có nếp mà thôi - NV), còn hoa cúc chỉ là một trong các nguyên liệu thêm vào cho rượu đó mà thôi. Có hoa ,có rượu tất có phú thơ, thịnh nhất vào thời Đường; và đề từ, thịnh nhất vào thời Tống. (Đó là do các văn nhân mặc khách đã nâng cao tính văn hóa thành một tập tục rất tao nhã cho một lễ hội thời tiết của dân gian vốn rất mộc mạc của người Bách Việt cổ - NV). Như thời Chiến Quốc nhà thơ Khuất Nguyên từng viết trong “Viễn du” câu “tập trùng dương nhân đế cung hề 集 重 阳 人 帝 宫 兮”. Thời Đường tiết trùng dương rất được coi trọng. Người ta có phong tục đi lên núi cao, cài lá châu du 茱 萸. Nhà thơ Vương Duy có câu thơ: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân. Diệu tri huynh đệ đăng cao sở, thiên tháp tống du thiểu nhất nhân 独 在 异 乡为 异 客,每 逢 佳 节 倍 思 亲。遥 知 兄 弟 登 高 处,遍 插 荣 萸 少 一 人 = Mình ta khách lạ xứ người, Mỗi lần tiết đến ngậm ngùi nhớ ghê . Anh em trèo núi ngắm quê, Cài đầu lá ngải thiếu đi một người”.(Chắc nhà thơ là người miền Nam đang ở xứ Bắc làm quan – NV). Nhà thơ Thiệu Đại Chấn có bài thơ: “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diệu không; Thu thủy thu thiên sinh tịch phong. Hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn; Du nhân kỷ độ cúc hoa tùng 九 月 九 日 望 遥 空,秋 水 秋 天 生 夕 风。 寒 雁 一 向 南 飞 远,游 人 几 度 菊 花 丛 = Trùng cửu lên ngắm trời xa. Mùa thu nước mát đẩy đà gió đêm. Nhạn kia bay mải về nam. Người chơi mấy bận bên lùm cúc hoa”. Riêng ở vùng Nhữ Nam thì còn cả tục cài lá châu du 茱 萸, nhưng ngày nay sau hàng bao nhiêu năm, người ta chẳng còn hiểu biết và hình dung ra lá châu du 茱 萸 là cái thứ lá gì nữa. (Có thể “châu du” hay “châu dâu” , Hán ngữ hiện đại phát âm là “tru dấu”, chỉ là từ phiên âm lá cây “thầu dầu” ?, lá có màu tím đỏ xòe ra như những cái lông cánh gà, cây thầu dầu tía cũng là một cây thuốc, người Việt đi bộ đường xa thường hay giắt vành khăn nhúm lá thầu dầu tía để trừ tà, hoặc có khi là nhúm lá ngải cứu để phòng bịnh - NV).Trong quan niệm phong tục dân gian vì chữ “cửu cửu 九 九” là 9 9 đồng âm với “cửu cửu 久 久” là lâu dài, ngụ ý cầu mong mạnh khỏe trường thọ.(Trong tiếng Việt thì “chín”= “lâu”, như câu “thương nhau chín đợi mười chờ”= “thương nhau chờ đợi lâu”, “lâu ”= “lão” theo qui luật tạo từ cùng nôi khái niệm là bất biến phụ âm đầu mà biến âm vận cuối; Một qui luật khác là bất biến âm vận cuối mà biến phụ âm đầu; “chín lâu” là hai từ đồng nghĩa ghép nhau có ý là càng lâu, theo qui luật lướt để tạo từ đơn âm thì đã lướt thành “cửu”, tiếng Quảng Đông đọc là “cẩu”- NV). Tiết trùng dương đã từ tiết thời gian trong năm diễn biến thành tập tục dân gian, tuy mỗi địa phương có thêm nghi thức tục lệ khác nhau, chung qui vẫn là cầu bình yên hài hòa, nội dung ấy từ hai ngàn năm nay vẫn không thay đổi. Các tập tục ngày trùng dương là: 1. Lên cao. Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến. 2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc. Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương. 3.Cài lá châu du 茱 萸 . Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam.    Giải thích chính xác nhất có lẽ là: Trùng cửu là lúc nông nhàn sau thu hoạch vụ thu, lại là lúc các loại cây cỏ dại, mà đa phần đều là các dược thảo quí, sau một mùa hè chói chang quả đã chín, củ đã đầy, đã đến vụ thu hái, chỉ còn hoa cúc thì lại trái khoáy “ trăm hoa đua nở mùa xuân, cớ sao cúa lại muộn mằn về thu” thì nở rộ vàng rực cả mùa thu, làm cho phong cảnh càng thêm đẹp. Người dân tranh thủ lên đồi, lên núi hái lượm cây thuốc về phơi khô dự trữ phòng khi cần chữa bệnh. Có lẽ tập quán nông nghiệp này có từ thời Thần Nông. Từ tập quán làm ăn đó mới nảy sinh ra chọn một ngày nhất định , có ý nghĩa trong mùa đó làm thành ngày lễ, rồi hóa ra tập tục. Cũng như mùa xuân thì có tục trồng cây. Các nhà văn, nhà thơ đã lợi dụng tập quán đó nâng giá trị văn hóa của nó lên với các nội dung tao nhã làm đẹp thêm nội dung của lễ tiết. Năm 1989 chính phủ TQ chính thức lấy ngày 9 tháng 9 âm lịch làm ngày Tết Người Già của toàn xã hội Trung Quốc, thêm nội dung tinh thần quan tâm người già, kính lão, kính thầy, nâng cao thêm tính nhân văn cho một lễ tiết dân gian truyền thống. ( Điểm lại các ngày lễ của ta. Sao không lấy ngày giỗ kỷ niệm Hai Bà Trưng làm ngày lễ hội văn hóa Phụ Nữ VN, tư tưởng bình đẳng vốn có của dân tộc Việt từ thời cổ đại, nhìn mặt trống đồng là thấy rõ ngay, chẳng có ai là “thiên tử” cả, mọi người mọi vật đều bình đẳng hưởng một mặt trời chung trong sáng, hai vợ chồng cùng cầm chày dã gạo đúng là “thuận vợ thuận chồng biển đông tát cạn”, mà vợ lại trước chồng trong kết cấu từ vựng “vợ chồng” đúng đạo thờ mẫu của người Việt, có lẽ nhờ vậy mới có hiện tượng Hai Bà Trưng trong lịch sử. Sao không lấy ngày họp hội nghị Diên Hồng làm lễ hội văn hóa Ngày Hội Đoàn Kết Toàn Dân Tộc – NV).
  19. Nghĩa chữ Tiếng Việt KẺ là một con người. Đó là một từ trân trọng, nên tầng lớp được trân trọng nhất trong xã hội , từ xưa đến nay người Việt vẫn gọi là Kẻ Sĩ. Các làng Việt xưa đều có tên bằng chữ Kẻ đầu, như Kẻ La là nơi những người dệt lụa, Kẻ Ngói là làng những người làm ngói, Kẻ Bún là làng những người làm bún, Kẻ Bộng là nơi những người làm nồi đất. Về sau do những đầu óc tư tưởng bị Hán nho hóa nên coi từ Kẻ là quê mùa, nên chỉ dùng từ Kẻ để chỉ những người xấu. Đến thời hợp tác xã nông nghiệp tiến đến cấp cao là hợp tác hóa toàn xã thì nhiều nơi đã đổi cả tên xã cho văn minh như xã Dân Chủ, xã Cộng Hòa, còn làng xóm cấp dưới nó chỉ gọi bằng “ đội” kèm con số, để cho tiện làm báo cáo quản lý hành chính. Nên thời đó thư gởi bưu điện về quê chỉ cần ghi rõ là ở đội mấy, xã, huyện, tỉnh là về chính xác đến nơi. Theo qui luật “phối tố” để tạo những từ có cùng nôi khái niệm thì ở tiếng Việt tồn tại hai cách “phối tố”: 1. Bất biến âm vận cuối, chỉ biến phụ âm đầu. Ví dụ Thở - Nở - Mở - Hở - Vỡ - Bở - Tở … đều là cùng nôi khái niệm về sự nở ra. 2. Bất biến phụ âm đầu, chỉ biến âm vận cuối. Ví dụ Lộ - Lối - Lội - Loạng-Choạng - Lách,- Luồn - Lỏn- Lẻn - Lượn - Liệng - Lùa - Len- Lỏi - Len-Lỏi - Lướt - Lia - Lái - Leo …đều là cùng nôi khái niệm về cách đi và cách điều khiển phương tiện đi. Mỗi từ trong nôi này nếu lại theo cách 1mà làm tiếp thì lại tạo ra một nôi khái niệm mới. Ví dụ Len - Chen ( là Len ở chỗ chật) - Chèn ( là Len vào để chêm cho cao lên) - Chẹn ( là Len vào để làm cho tắc) v.v., Leo -Trèo ( là Leo bằng cả chân và tay) - Chèo ( là điều khiển cho thuyền đi bằng cơ bắp) v.v. Theo qui luật “lướt” để tạo ra từ một âm tiết bằng lướt hai từ đơn âm tiết hay lướt cả một câu dài thì tiếng Việt cũng tạo ra được từ mới, qui luật này vẫn tồn tại trong dân gian từ xưa tới nay. Qui luật “lướt” bằng hai từ đơn âm đã được học giả Hứa Thận thời Đông Hán vận dụng vào cuốn sách công cụ của ông soạn, vừa ghi nghĩa đen của chữ vừa hướng dẫn cách đọc đúng âm điệu của chữ cho hàng vạn chữ nho. Trong cuốn sách ấy các chữ dùng để “lướt” sinh ra từ lướt đúng với nghĩa đen của nó như chữ nho phát âm thì hầu hết là cứ phải dùng âm Việt mà đọc mới thấy trúng y, còn nếu dùng phiên âm latin của Hán ngữ hiện đại mà đọc thì trật. Có lẽ vì cuốn sách đó viết ra vào thời Việt nho chứ không phải vào thời Hán nho về sau(?). Cuốn sách ấy thật là một công trình đáng quí. Dựa vào cách “thuyết văn giải tự” như đúng tên của cuốn sách, kèm với ý của chữ qua ý nghĩa và tên gọi theo âm Việt của những bộ thủ ghép tạo ra nó ta sẽ thấy được hàng ngàn hàng ngàn chữ nho trong từ điển Hán Việt là gốc do từ Lạc Việt chứ không phải là gốc do từ Hán như xưa nay ta vẫn gọi là “từ Hán-Việt”. Thống kê cả cuốn ấy ra thì dài lắm. Nhưng cứ từ từ kiểu kiến tha lâu đầy tổ ta sẽ vỡ lẽ ra nhiều điều cho nghiên cứu cổ sử. Tôi sẽ nêu ví dụ từng chữ như dưới đây: (Chữ viết in to là âm đọc của Việt nho, kèm theo là chữ nho của nó, chữ in nhỏ trong ngoặc đơn là âm đọc của Hán ngữ hiện đại) 1. Chữ GIA 家 (jia) Cái nhà sàn bằng cây có mái tre cong lợp tranh bằng cỏ gianh hay rạ như của đồng bào Tây Nguyên, của đồng bào miền núi ngày nay hay của người Việt xưa hoặc của các dân tộc khác ở vùng Đông Nam Á, tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là nhà “ Sàn” hay “ Sàng” (tiếng Việt ở Nam Bộ), do từ nhà “sàn” ấy mà mới có họ “Sào” trong truyền thuyết Việt-Hoa là ông tổ dạy loài người biết làm nhà, và tiếng Việt còn có từ “Thang” có nghĩa là “cái để leo” , còn tiếng Hoa từ “Thoòng” nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ ĐƯỜNG 堂( táng) trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Người Việt còn “vo” từ “Tanga” của tiếng Indonexia để rụng mất “ tan” còn “ga” thành từ “nhà”; vo từ “Thanggiơ” của tiếng Chăm để rụng mất “Thang” còn “giơ” thành từ “gia” mà chữ nho viết GIA 家 (jia) gồm bộ MIÊN 宀 ( mián) nghĩa là Mái nhà, từ Miên do lướt “Mái Hiên = Miên”. Còn trong Hán ngữ hiện đại mái nhà gọi là “gai”. Nếu chữ nho là của người Hán phát minh đầu tiên thì tại sao bộ MIÊN (mián) không gọi là bộ “gai” mà lại gọi là bộ “miên”?. Và bộ Thỉ 豕 xếp ở dưới mái hiên, nghĩa là con lợn nhà nuôi để lấy thịt (do lướt từ “Thịt Lợn Ỷ = Thỉ ” ). Chữ GIA 家 này chính là hình ảnh người ta vẫn thả lợn nuôi ở chung với người dưới gầm nhà sàn , đó là văn hóa của Đông Nam Á nông nghiệp định cư; người Hán ở đồng cỏ đất khô phương Bắc chỉ có chăn cừu ngựa chứ không chăn lợn du mục. Vậy từ gia có phải là “ từ Hán Việt không, như các nhà hàn lâm xưa nay vẫn nói ? Cả từ nhà lẫn từ gia đều từ cái nhà sàn ở miền Trung Việt Nam mà đi lên Bắc , người Hán mượn dùng. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. 2. Chữ QUỐC 國 (guó) Chữ QUỐC 國 gồm một hình Vuông , hình vuông này nếu trống trơn thì trong Hán ngữ nó chưa là chữ có ý nghĩa gì cả, nhưng trong Việt ngữ thì nó là một Vuông = một Vùng. Bên trong có bộ QUA 戈( ge) là cái qua đồng tức rìu đồng và bộ NHẬT日 (rì) nghĩa là mặt Trời, được viết cho tiện bút là một ô vuông nhỏ có thêm gạch ngang ở dưới cũng đủ bốn nét gạch như chữ NHẬT 日. Bộ QUA 戈 ( ge) và bộ NHẬT日( rì) ghép liền nhau thành chữ HOẶC 或 ( huò). Nghĩa của chữ QUỐC 國 ấy là “ Vùng của dân thờ mặt trời và có rìu đồng”, vậy dân ấy là dân nào? Chính là dân trống đồng, mặt trống đồng có hình mặt trời là đấng tôn thờ của dân Lạc Việt. Người Hán ở bắc Hoàng Hà làm gì có di chỉ trống đồng với rìu đồng. Chữ NHẬT (tiếng Việt ở Nam Bộ nói là NHỰC) là do lướt “Ngày Việt = Diệt = Dịch = Dực = Nhực = Rực = Rực-Rỡ = Rõ ” dẫn đến âm “rư”(rì) của Hán ngữ hiện đại, âm “rư” này trong Hán ngữ hiện đại không hề là một âm biểu thanh thành nghĩa là “sáng”, nó chỉ dùng để chỉ cái tượng hình NHẬT 日 là mặt trời hay ngày mà thôi, vậy nó chỉ có thể là một cái âm gốc Việt vậy. Còn HOẶC là gì? Nó là từ lướt “Họ Lạc = Hoặc” mà trong nghĩa của HOẶC có hai bộ là mặt trời 日 và rìu đồng 戈, biểu trưng của dân trống đồng, nên nó có nghĩa là “ dân cư đông đúc ( từ “họ” trong tiếng Việt nghĩa là nhiều người ) của Nác tức Lạc” . (Hán thư viết “người Việt sống quần cư ven dòng nước nên lấy Nước làm tên gọi xứ sở mình”). Rõ ràng chữ QUỐC theo biểu ý của các tượng hình là Vuông+ Mặt trời + Rìu đồng chỉ có nghĩa = “Vùng dân Lạc Việt”. Chữ HOẶC bằng hai bộ thủ là mặt trời 日 và rìu đồng 戈 phát âm là “hoặc” ấy sau thành từ văn chương ( ý như từ “ or ” của tiếng Anh) với ý là “hoặc” Việt này hoặc Việt nọ đều là của Lạc Việt cả, chứ nếu không gắn với từ Việt mà chỉ khơi khơi ( như ý “or” của tiếng Anh) thì “hoặc” làm sao lại được biểu ý bằng hai bộ mặt trời 日 và rìu đồng 戈 ? Tại sao Việt nho đọc là QUỐC 國 (guó) ? Quốc là do lướt “ Của Nác = Quấc ( như cụ Hồ viết Nguyễn Ái Quấc), hay “ Của Nước = Quốc”, hay “Cơ Lạc = Coọc” ( như người Quàng Đông phát âm, tiếng Quảng Đông “của” là “cơ” ), nên QUỐC còn có nghĩa là “Vùng dân trống đồng của Nác”. Rõ ràng là chữ QUỐC ấy không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói, như biểu ý của nó, nó hoàn toàn là của Lạc Việt. Thời hiện đại mới có từ ghép QUỐC GIA để dịch từ “Govermen” của tiếng Anh, ta dùng từ “quốc gia” ấy coi là “từ Hán Việt” cũng được, nhưng những từ tố “ gia” và “quốc” để tạo nên nó bằng cách ghép từ thì lại là gốc Lạc Việt ! 3. Chữ VIỆT越 (yuè) và chữ LẠC洛 (luò) Chữ VIỆT 越trong từ Bách Việt được Hứa Thận giả thích: VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT (wáng fá = wá; wá trật yuè). Đó chỉ là vận dụng qui luật lướt của tiếng Việt để đọc cho đúng âm của chữ nho. Nhưng nếu xem biểu ý của chữ VƯƠNG PHẠT 王 亻 戈 thì thấy ý là: “ vua ( vương 王) là người ( nhân 亻) cầm rìu đồng (qua 戈) đi “phạt ruộng” = phạt rọng ( tiếng Nghệ An) = phạt rộng (tức “mở vuông” là mở mang bờ cõi ” = vượt , như câu nông dân Việt vẫn nói “vượt đất đắp bờ” ). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu (?). Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. ( Nhưng Lạc Quốc như Hán thư viết nghĩa là gì sẽ giải thích ở dưới). Còn từ Việt thì nó có còn sớm hơn thời Chu Văn Vương nữa cơ, cụ thể trong từ chim VIỆT được Hứa thận giải thích là con chim thần (tức để thờ như hình chim trên trống đồng của người Lạc Việt) VIỆT 鸑 (yuè), nghĩa là chim thần giống phượng, đọc NGŨ 五 GIÁC 角 = NGẠC (wu jiao = wao; wao trật yuè). Chim NGẠC tức con chim VẠC là loài chim nước, hay chim LẠC ( như vậy chim VIỆT và chim LẠC chỉ là một con, là chim thần-chim thờ trên trống đồng Lạc Việt). Còn có một chữ LẠC nữa bộ CHUY 隹 (zhui). Chuy là lướt từ “Chim Quí = Chuy” nghĩa là chim thần, chim thờ, Chuy và Chim chỉ có trong tiếng Việt chứ không thể có trong tiếng Hán) . Chữ LẠC 雒 này, mà nếu “giải tự” ra theo hai bộ biểu ý và biểu âm của chữ này là bộ CHUY 隹 và bộ CÁC 各, thì có lướt “Chuy Các = Chạc”. Chữ này cũng được dùng trong từ LẠC 雒VIỆT 越, có lẽ nó để chỉ một chi người Việt xưa hơn , của cái thời còn dùng ký tự kết thừng ( “chạc” là từ dùng chung trong tiếng Việt, Mường, Thái nghĩa là “dây thừng”). Mà chữ kết thừng cùng nghề đan lưới theo truyền thần thoại là do chim gợi ý cho người nguyên thủy để biết làm. Có một chữ LẠC 絡( luò) nữa chỉ chi Việt làm nghề dệt, biểu ý ra thì cũng hoàn toàn là phát âm của người Việt và cho thấy nghề dệt xuất xứ từ Lạc Việt tức Bách Việt, Đó là chữ LẠC 絡 có bộ MỊCH 糸 (mì) . Mịch là do lướt “Mạng Chằng Chịt = Mịch”, trong đó Chằng = Chăng = Giăng = Căng = TRƯƠNG 張 ( zhang); Chịt = Chạc = Dệt = Chật = CHỨC 織 (zhì) của chữ nho nghĩa là dệt, là nghề mà người nguyên thủy được gợi ý từ công việc của con nhền-nhện ( gốc là nền-nện, giống như từ “nón” có chóp phải là “ nhọn”, tiếng Nam Đảo thì con “nền nện” là: “nana nana” hay “ lakwa lakwa”, từ thổ dân Đài Loan cho đến thổ dân Polinedi đều nói giống dân Việt). Chữ chim VIỆT còn nhiều chữ khác nhau để phân biệt là chim của các chi người Việt khác nhau, nhưng họ đều có hình chim thờ trên trống đồng của mình cả, đó là các chữ 鵒 鸙 鴧 鷸 鷠 鴥鳿, đều có bộ điểu và đều đọc là VIỆT. Còn chữ ĐIỂU 鳥 thì Hứa Thận “ thuyết văn” nó như thế nào? ĐIỂU 鳥 (niao), nghĩa là loài chim có lông vũ dài, đọc ĐÔ 都 LIỄU 了= ĐIỂU ( du liao = diao; diao trật niao). Còn chữ LẠC trong từ LẠC VIỆT lại là chữ LẠC 洛 có bộ thủy, gồm bộ “ THỦY 氵” nghĩa là nước và bộ “CÁC 各” nghĩa là nhiều lắm, như vậy biểu ý của chữ LẠC 洛 này là : “các nước”, LẠC 洛 VIỆT 越 = các nước Việt. Tại sao chữ Lạc 洛 này lại dùng bộ thủ các 各và bộ thủ nước 氵để biểu ý là “các nước” ?, vì nó do lướt từ hai từ “ LẮM NÁC = LẠC” mà ra, mà chữ “lắm” trong tiếng Việt còn có nghĩa là “trăm” tức là rất nhiều, như câu “trăm nghe không bằng một thấy” ( nó do nguồn gốc từ tiếng Khơ Me “prăm” là “năm”, là con số biểu giá trị nhiều nhất trong hệ đếm ngũ phân của người Khơ Me chỉ có 5 con số, mà tiếng Việt thuộc nhánh ngôn ngữ Môn-Khơ Me). Người Hán vào thời Xuân Thu đã dịch từ “trăm” thành “bách” để gọi Lạc Việt là Bách Việt , theo như Hán thư viết “ tên gọi Bách Việt xuất hiện vào thời xuân thu”, như vậy thì rõ ràng từ Lạc Việt đã có trước từ Bách Việt hàng ba ngàn năm, đến thời Xuân Thu thì từ Bách Việt chỉ là từ dịch ý mà thôi. Đến thời Hai Bà Trưng thì chỉ còn các nước Việt từ Lĩnh Nam trở xuống kiên cường chống Hán và vẫn gọi mình là Lạc Việt. Lạc Việt còn lại ấy, các sử gia Hán về sau, với ý đồ đảo ngược lịch sử, giải thích Lạc Việt ấy là một chi hậu duệ của Bách Việt ở nam Trường Giang (đã bị Hán diệt và Hán hóa) là giải thích đi ngược chiều thời gian lịch sử. Nhưng nhân dân ta đã vạch cái sai của họ bằng câu ngạn ngữ cổ xưa dí dỏm là: “( Nói như vậy chẳng hóa ra là) sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông (?)”. Lạc Việt 洛 越 = Các Nước Việt = Lắm Nước Việt = Trăm Nước Việt = Bách Việt 百 越, cũng đồng nghĩa là Bách Việt, nhưng nước Lạc Việt đầu tiên ở Việt Nam là tổ của Bách Việt khi đã phát triển lên một địa bàn rộng lớn hơn gồm nhiều nước Việt khắp Trung Hoa cổ đại. Ngày nay ta dùng chữ latin phiên âm gọi là chữ quốc ngữ nên không phát hiện được biểu ý của chữ Lạc Việt 洛 越 = Các Nước Việt. Sau thời Hán những thành phần ưu tú của Lạc Việt 洛 越 tức Bách Việt 百 越 ở Hoa Nam đã về lại đất Tổ ở Việt Nam cùng với dân Việt cũ ở đó tiếp tục ngăn cản sự Hán hóa, còn dân Việt ở lại đất xưa của Bách Việt vùng nam Trường Giang thì bị Hán hóa dần dần ở các mức độ khác nhau mà thôi. Bởi vậy tuy vẫn cùng một gen Indonesien mà trong số họ còn tồn tại tới 7 phương ngữ khó có thể hoặc hoàn toàn không thể giao tiếp được với tiếng quan thoại.
  20. CHỮ VÀ NGHĨA VĂN VÀ NGƯỜI Cửa người là cửa văn chương Cửa mình là cửa yêu thương tận lòng Cửa văn lắm sự thẳng cong Cửa mình chỉ một nỗi mong vui vầy Cửa văn lắm sự bầy hầy Cửa mình lấy sự hồn ngây làm đầu Cửa văn thật giả biết đâu Cửa mình đo hết nông sâu nhân tình. Đà Lạt 5g sáng… Bùi Minh Quốc
  21. Tết ta Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á, nhánh Môn - Khơ Me. Hàng vạn năm trước, ngôn ngữ Nam Á là một ngôn ngữ thống nhất của chủng Indonesian trên tiểu lục địa Trung - Ấn trong đó có bán đảo Đông Dương. Khảo cổ và nghiên cứu nhân chủng học cho thấy đây là cư dân bản địa của nền văn minh Đông Nam Á cổ, nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại.Từ đó họ thiên cư “50 con theo mẹ đi lên núi, 50 con theo cha đi xuống biển” khai phá nông nghiệp vùng lục địa Trường Giang, Hoàng Hà (Trung Quốc ngày nay) và vùng đảo Indonexia, Đài Loan, Nhật Bản và các đảo Thái Bình Dương. Ngôn ngữ Nam Á thống nhất ấy lúc đầu là ngôn ngữ đa âm tiết không có thanh điệu. Dần dần chủng tộc Indonesien này phát triển thành nhiều dân tộc, và ngôn ngữ cũng phát triển theo nhiều xu hướng khác nhau, một số đã theo xu hướng đơn âm hóa đương nhiên nảy sinh thanh điệu, như ở tiếng Việt thành ra có 6 thanh điệu, ở tiếng Thái thành ra có 5 thanh điệu, ở tiếng Hoa thành ra có 4 thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay còn ở tiếng địa phương như Đài Loan lại có 8 thanh điệu. Căn cứ để xác định ngôn ngữ có cùng gốc là: qui luật kết cấu ngữ pháp, cách phát âm, sự gần gũi của các từ cơ bản. Ví dụ từ cơ bản tiếng Việt so với từ đồng nghĩa của các sắc tộc khác (trong ngoặc đơn) sẽ thấy rõ cùng cội nguồn: Nước = Đắc (Ba Na) = Lạc (Việt cổ vùng Hoa Nam) = Nác (Việt ở Trung Bộ ) = Nậm (Tày) = Nam (Thái Lan); Sông = Krông (BaNa) = Krong (Chăm) = Không (Mường) = Khoỏng (Thái Lan) = Giang (Hoa) = Sônggai (Mã Lai)= Sông ngòi (Việt); Cá = Kaa (XêĐăng )= Pá (Thái) = Ká (Mạ) = Cả (Mường ) = Aka (Mã Lai) = Xacana (Nhật Bản) = Kán (Chăm - đây chính là gốc các từ Cần, Cờn, Quèn, Còng chỉ địa danh như Cần Giờ, Cần Thơ ở Nam Bộ, cửa Cờn ở Nghệ An, lạch Quèn, chợ Còng ở Thanh Hóa, là các cửa sông, bến cá); Con = Kon (Mạ) = Cón (Mường) = Koon (Ba Na) = Kooon (Xê Đăng) = Kodomo (Nhật Bản) = Côn (Khơ Me) = Coong (Việt ở Nam Bộ); Ruồi = Rooi (Ba Na) = Ròi (Việt ở Nghệ An) = Rhai (Mạ) = Ruuêi (Mường) = Ruy (Khơ Me); Ngày = Ngai (Mường) = Thngay (Khơ Me) = Haai (Xê Đăng) = Tngay (Môn ở Mianma); Mặt Trăng = Mạt Tlăng (Ba Na) = Maht Kăn (Mạ) = Blaăng (Chăm) = Bulăng (Mã Lai) = Đoong Chăn (Lào); Trái cây = Trấy (Việt ở Trung Bộ) = Plây (Ba Na, Xê Đăng) = Blái (Mạ); Chim = Chim (Mạ, Xê Đăng) = Sêêm (Ba Na) = Tiêm ( Khơ Mú ở Tây Bắc – từ Tiêm này sau sinh ra từ Tiên trong chữ nho để thần tượng hóa người biết bay lên trời thành Tiên, tục thờ chim Hạc = chim Lạc đưa hồn người lên trời) = Cầm (Việt cổ ở Hoa Nam – người Hán phiên âm là “Sín” nhưng chỉ dùng để chỉ giống chim nuôi trong nông nghiệp dịch từ “chim nhà” gọi ngược là “gia cầm”, đủ thấy nghề này là từ phương Nam truyền lên, chim trời họ gọi là con “nẻo” tức “điểu” chứ không hề có từ “gia điểu”). Học giả Haudricourt nghiên cứu ngôn ngữ Việt (năm 1953,1954) chỉ ra một trong các đặc điểm tạo từ của tiếng Việt là tạo thêm từ bằng phụ tố như kiểu: Giết - chết, cọc - nọc, kẹp - nẹp. Điều này quá rõ, nếu trích dẫn các từ cùng gốc như vậy ra thì nhiều vô cùng. Vì cái logic ấy cho nên con Ròi thì con của nó phải là con Dòi, con Cóc thì con của nó phải là con Nòng-Nọc, con Ong thì con của nó phải là con Nhộng, con Người hay con Ngài thì con của nó phải là Hài do lớn lên từ cái Thai (mà Hán ngữ mượn dùng từ Hài phải nói là “hài tử” hay “hài nhi” hay “hài đồng” thì mới thành nghĩa “con”), Con Người còn có cái để thể hiện linh khí của nó ra ngoài là Con Ngươi của mắt. Trong thiên nhiên thuở hồng hoang thì con Người cũng như các động vật khác chỉ là con Mồi, chỉ khác là biết đứng thẳng, nên chữ nho viết là chữ Mùi hoàn toàn biểu ý bằng chữ nhân 人 ghép với chữ lập 立 nghĩa là đứng, thành chữ Mùi 位 sau đọc là Vị 位 (Hán ngữ phiên âm là “wei”), các Người = các Ngài = các Vị. Nhưng cái “phụ tố” mà học giả Haudricourt nêu mới chỉ là nói phần âm vận ở cuối chữ tạo nên cái âm lõi như “ết”, “ọc”, “ẹp” ở trên v.v. Người Việt còn cách tạo từ cực kỳ quan trọng, có thể tạo ra hàng vạn vạn từ đơn âm tiết có nghĩa, bằng cách Vo các từ đa âm tiết của ngôn ngữ Nam Á trong cái Vỏ đựng, như cái Vò hình cầu là biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt, như cái Vũ của vũ trụ hình cầu chứa đựng tất cả, để từ ấy rụng đầu rụng đuôi đi rồi còn mỗi lõi giữa là một âm tiết có kèm thêm thanh điệu. Ví dụ từ “O-NA-DI” của tiếng Nhật nghĩa là “giống”, khi bị vo tròn nhưng chưa dứt hẳn nó đã bị rụng mất đầu “O” và đuôi “DI” đi, còn lõi giữa là “NA” nhưng chưa sạch hẳn nên nó thành từ dính, tức láy là hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược, là “NA-NÁ” nghĩa là “hơi giống”. Nhưng cũng có lúc do vo mạnh tay hơn nhưng lại vo không đều tức không tròn trịa nên nó bị rụng mất “O” và “NA” ở đầu đi, còn lại mỗi “DI” ở cuối kèm theo vài mảnh vụn bám vào nên nó thành có đuôi và có thanh điệu thành từ “DỐNG” mà đa số phát âm là “GIỐNG” nên chính tả chấp nhận là “GIỐNG”. Như vậy ở tiếng Nhật chỉ có mỗi “O-NA-DI” nhưng ở tiếng Việt có “NA-NÁ” và “GIỐNG” mang hai sắc thái khác nhau của cùng một nghĩa. Ai có lý giải nào khác về nguồn gốc hai từ này, tôi xin được tham khảo. Việc “vo” này xảy ra hàng sáu bảy ngàn năm trước rồi chứ không phải trong thời cận đại đâu. Lại còn nhờ qui tắc chia đôi Âm Dương một tiếng đơn âm thành từ láy dính hai âm tiết mà trong cách tạo từ của tiếng Việt còn có vai trò của một “phụ tố “ nữa là: cùng phụ âm đầu. Ví dụ từ “Lộ” nghĩa là con đường đi, do có qui tắc phụ tố là cùng phụ âm đầu mà nó đã cho ra biết bao từ trong tiếng Việt cùng gốc phụ âm “lờ” đầu với nó để chỉ các loại đường đi và các cách đi khác nhau: LỐI là đường đi nhỏ trong xóm làng; LỘI là đi bằng chân, lội bộ = đi bộ; LOẠNG-CHOẠNG là đi như muốn ngã; LÁCH, LUỒN, LẺN, LẤN là những cách đi có tính toán; LÙA là xua bầy gia súc gia cầm đi; LEN- LỎI là vừa đi vừa tìm đường; LEN trâu là vừa lùa trâu đi vừa tìm đường trong nước lụt (phim “Mùa len trâu”); LỎI là tìm đường ngoi lên cho hơn người, “sao mày lỏi thế hả đồ khôn lỏi!”; LƯỚT là đi nhanh bằng thuyền; LƯỢT (rượt) là chạy nhanh để đuổi ; LÓN-LÉN (rón-rén) là đi nhẹ tránh phát hiện; LÁI là điều khiển cho phương tiện đi; LEO là đi lên độ cao ( Người Hán dùng từ “lộ” của chữ nho 路 chỉ con đường, nhưng trong tiếng Hán không thấy từ nào khác cùng phụ âm đầu là “lờ” với nó mà có cùng khái niệm đường đi hoặc cách đi cả, có lẽ vì dân trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng chẳng cần phải có đường,chỉ có dân rừng nhiệt đới mới phải len lỏi tìm lộ để đi thành đường mòn. Vậy chữ nho LỘ 路 này nguyên gốc là từ đâu? chữ này có phần biểu ý là bộ túc 足 tức chân đi, và phần biểu âm là chữ các 各, đáng lý phải đọc là Lạc, hiểu ý là “cách đi của Lạc dân”, có phải do người Việt là dân sông nước nên phương tiện đi lại chủ yếu là bằng thuyền trên Nác hay Lạc?). Còn một qui tắc tạo từ nữa trong tiếng Việt là qui tắc “lướt”, từ ghép hay cả câu dài đều có thể lướt thành một âm tiết, như: “hai mươi” = “hăm”; “ba mươi” = “băm”; “TRái cÂY” dân miền Trung lướt thành “TRẤY”, “Hỏi gì đẤY?” lướt thành “HẤY?”; đi “té re” là nói chung đi lỏng, nhưng trẻ sơ sinh “đi Té re làm ƯỚT cả tã do nó không thể tự kềm chế được” người ta lướt thành “đi TƯỚT”, chỉ dùng cho trẻ sơ sinh mà thôi; “THỢ tay nghề cao có thể dũa Lưỡi cưa cho sắc và đúng góc độ như mỚI” gọi lướt là “THỢ LỠI”; “HỖN hợp LẮM thứ BA lăng nhĂNG” lướt thành từ “HẰM BÀ LẰNG”; “tự ĐI du lịch PHóng khoáng VƯỢT qua mọi trở ngại thiên nhiên và chối bỏ sự gò bó của tua truyền thống” gọi lướt thành từ “ĐI PHƯỢT” (từ mới của dân teen trên mạng đã được phương tiện thông tin đại chúng sử dụng) v.v.Qui luật lướt này cũng là đã có từ nhiều ngàn năm trước rồi. Cụ thể là học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã sử dụng qui tắc này để “thiết” tự làm nên cuốn sách công cụ dạy cách đọc chữ nho cho đúng âm, mỗi chữ nho được “thiết” bằng hai chữ nho khác (tức đọc lướt hai chữ nho khác) cho ra âm đúng của chữ cần đọc, đó là cuốn “Thuyết văn giải tự” (nhưng mà khi đọc thì phải đọc đúng như âm Việt của người Việt đọc chữ nho thì mới thấy đúng, chứ nếu đọc theo phiên âm latin như tiếng phổ thông Trung Quốc tức “Hán ngữ hiện đại” thì lại trật, thời Đông Hán ông Hứa Thận viết cuốn này để giải nghĩa hàng vạn chữ kèm cách đọc, chưa có biết đến chữ phiên âm latin). Vài ví dụ như sau: (phiên âm latin của Hán ngữ viết trong ngoặc đơn, dấu “ = ” là để thay cho chữ “lướt thành” TÚC 足 (zú) nghĩa là cái chân , đọcTỨC 即 NGỌC 即 = TÚC ( jí yù = jù ; jù trật zú) HÀNH 行 (xíng) nghĩa là làm, đọc HỘ 戶 CANH 庚 = HÀNH (hù geng = heng, trật xíng) CẬN 近 ( jìn) nghĩa là gần, đọc CỪ 渠 LÂN 遴 = CẬN ( qú lín = qín; qín trật jìn) ĐẬU 逗 (dòu) nghĩa là dừng, đọc ĐIỀN 田 HẦU 侯 = ĐẬU (tián hòu = tòu, tòu trật dòu) VẬN 運 (yùn) nghĩa là chở, đọc VƯƠNG 王 VẤN 問 = VẬN (wáng wèn = wén, trật yùn) NGỘ 遇 ( yù) nghĩa là gặp, đọc NGƯU 牛 CỤ 具 = NGỤ ( níu jù = nù; nù trật yù) TẠO 造 (zào) nghĩa là chế, đọc THẤT 七 ĐÁO 到 = TẠO ( qi dào = qiào; qiào trật zào) QUÁ 過 (guò) nghĩa là qua, đọc CỔ 古 HÒA 禾 = QUA ( gu hé = gé; gé trật guò) TIỀN 前 (qián) nghĩa là trước, đọc TẠC 昨 TIÊN 先 = TIỀN (zuó xian = zan; zán trật qián) CÁC 各 (gè) nghĩa là nhiều, đọc CỔ 古 LẠC 洛 = CÁC ( gu luò = guò; guò trật gè) KHIẾU 叫 (jiào) ,nghĩa là kêu, đọc CỔ 古 ĐIỀU 伄 = KHIẾU ( gu diào = giào, trật jiào) DUY 唯 ( wei) nghĩa là dạ vâng, đọc DĨ 以 THỦY 水 = DUY ( yi shui = yui; yui trật wei) TRIẾT 哲 ( zhé) nghĩa là biết, đọc TRẮC 陟 LIỆT 列 = TRIẾT( zhì liè = zhiè; zhiè trật zhé) NGƯU 牛( níu) nghĩa là trâu, đọc NGỮ 語 CẦU 求 = NGƯU ( yu qíu = yiu; yiu trật níu) NGỮ CẦU = NGẦU (tiếng Quảng Đông) = TRÂU (tiếng Việt) = TRU (tiếng Việt ở Nghệ An) = TLU( tiếng Mường) TIẾN 薦 (jiàn) nghĩa là cử, đọc TẠI 在 ĐIỆN 甸 = TIẾN (zài diàn = ziàn; ziàn trật jiàn) LẠC 落( luò) nghĩa là rớt, đọc LÔ 盧 CÁC 各 = LẠC ( lú gè = lè; lè trật luò) DÂN 珉( mín) nghĩa là cái đẹp của đá, đọc VŨ 武 CÂN 巾 = VÂN ( wu jin = win, trật mín) HÀ瑕 ( xía) nghĩa là đá giống ngọc, đọc HỒ 胡 QUẢI 拐 = CUỘI ( hú guai = huai trật xía) GIAM 瑊 ( jian) nghĩa là đá đẹp như ngọc, đọc CỔ 古 HÀM 函 = CƯỜM ( gu hán = gán; trật jian) - Trang sức như vòng đeo tay hay khuyên đeo tai bằng cuội hay cườm có ở di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh miền Trung Việt Nam. THỤY 瑞 ( rùi) là ngọc làm tin, đọc THỊ 是 NGỤY 偽 = THỤY ( shì wei = shei; trật rùi) VƯƠNG 王 ( wáng) nghĩa là vua , đọc VŨ 雨 PHƯƠNG 方 = VƯƠNG ( yu fang=yang; trật wáng) VINH 榮 ( róng) nghĩa là vẻ vang, đọc VI 為 MỊNH 命 = VINH ( wéi ming = wing; wing trật róng) PHÚC 福 ( fù) nghĩa là được phù hộ, đọc PHƯƠNG 方 LỤC 六 = PHÚC ( fang lìu = fìu; trật fù) THẦN 神 ( shén) nghĩa là thần, đọc THỰC 食 LÂN 遴 = THẦN (shí lín = shín ; trật shén) BÍ 秘 (mì) nghĩa là thần bí, đọc BINH 兵 MI 媚 = BÍ ( bing méi = béi; béi trật mì). VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT(wáng fá = wá; wá trật yuè). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu. Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. Qua đó bạn đọc tự thấy là chữ nho và cách đọc nó đúng như Trung Hoa đọc thời thượng cổ là đã truyền từ Nam lên Bắc hay nó đã đi từ Bắc xuống Nam? Người quan tộc đọc không nổi chữ nho nên thầy Hứa Thận mới phải soạn ra sách “Thuyết văn giải tự” là cuốn sách công cụ để dạy cho họ cách đọc chữ nho cho đúng âm điệu của nó. Qui tắc lướt để tạo từ như nêu ở trên, và thời cổ đại đã được Hứa Thận vận dụng để dạy cách đọc chữ nho , cho ta thấy là chữ QUỐC là hậu duệ trực hệ của chữ NƯỚC. Hán thư viết thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì dân sống theo “thủy” (ý nói dòng chảy, con nước) nên lấy tên “thủy” đó làm tên xứ sở và làm họ. Vậy mà cho đến tận bây giờ cũng chỉ còn có mỗi dân tộc Việt là duy nhất trên thế giới này gọi xứ sở mình là “nước”, vậy họ có phải chính là hậu duệ đích tôn của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy hay không?. Con nước nơi quần cư, thời cổ đại dân Việt gọi là Nác hay Lạc mà Hán phải gọi là Lạc Thủy. Nhiều Nác nhỏ hợp lại thì thành một nền hành chính lớn cấp trên là “Nác Của Nác”. Chữ “Của Nác” ấy đọc lướt theo qui tắc tạo từ của tiếng Việt thì thành Quốc. Của Nác = Quốc( cụ Hồ còn ký là Nguyễn Ái Quấc), nên “Nác Của Nác” thành “Nác Quốc” mà chữ nho viết là Lạc Quốc. Chữ “Của” thì trong tiếng Quảng Đông là “Cơ”, Của Nác họ đọc là Cơ Lạc nên lướt thành Coọc. Chữ nho Quốc 國 là một vuông nghĩa là “ Vùng”, bên trong có chữ "Hoặc 或 ” là âm lướt của hai chữ “Họ Lạc” (" Hoặc" = "Họ Lạc" ), ghép bằng chữ Qua 戈 là cái qua đồng của người Lạc Việt. Hán thư viết, dân thời Tam Hoàng Ngũ Đế sống theo “thủy” lấy “thủy” làm họ, vậy “Họ Lạc” tức dân Lạc lấy Lạc làm họ đó thôi. Chữ Chu 周được ông Hứa Thận thời Đông Hán “giải tự” nghĩa là Mật tức đông đúc, nên Chu Văn Vương 周 文 王 nghĩa là Vua Vùng Đông Đúc, vì chữ Văn 文 tiếng Quảng Đông đọc là Mảnh cũng có nghĩa là Vuông tức Vùng, là một diện tích, như từ Mảnh Ruộng trong tiếng Việt, mà về hìnhchữ Văn 文 thì nó có vạch chéo là cái đường chéo tượng trưng cho hình vuông, cũng có nghĩa là Giao, chữ Giao 交 cũng có hình chéo, tức vùng Giữa, là nơi giao lưu của mọi miền, Chỗ Giữa đọc ngược lại theo cú pháp Hán là Giao Chỉ. Chu Văn Vương tức vua vùng đông đúc mà thôi, chứ không phải ông ấy họ Chu, mà ông ấy lại là họ Cơ 姬, gốc từ vùng sông Cả, tên ông ấy là Cơ Xương姬 昌, được phong đất vùng Tây Bá tức vùng núi đá phía tây ( theo như tiếng Choang “bá” nghĩa là “núi đá” mà ngày nay khai quật được di chỉ trống đồng ở núi Ba Thị tức “núi đá gốc” theo tiếng Choang, nay gọi là Đại Minh sơn ở Quảng Tây, là đất tổ của người Choang, hậu duệ của người Tày cổ tức dân Lạc Việt). Tây Bá tức vùng Qúi Châu và Quảng Tây ngày nay, sau khi được phong đất Tây Bá thì ông Cơ Xương được gọi là Tây Bá Cơ Xương. Chữ 國 ấy người Việt Nam đọc là Quốc, người Quảng Đông đọc là Coọc. Quốc Vương là Vua của Nước, vì “Quốc” = “Của Nước” mà trong chữ Quốc ấy còn rõ cả Họ Lạc và cái qua đồng của dân Lạc Việt thì rõ ràng không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói. Cái từ “Nác của Nác” hay Nác Nác = Lạc Quốc còn hiện diện ở miền Trung Việt Nam trong từ Đắc Lắc, nơi các sắc tộc vẫn còn có cây Nêu trong ngày hội như ở người Kinh có cây Nêu trong ngày Tết, Đắc nghĩa là nước, Lắc cũng nghĩa là Nước, cái “hồ Lắc” là miệng núi lửa xưa ở đó có nghĩa là “hồ Nước”, Đắc Lắc cũng có nghĩa là một Nác Nác = một Lạc Quốc vậy. Ở đó cư dân vẫn còn ở nhà sàn tre mái cong như nhà sàn tre mái cong của người Việt xưa hay ở các vùng khác của Đông Nam Á, mà kiểu nhà ấy tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là “bước lên Thang mới vào được Nhà”, mà từ “Thang” thì có nghĩa là “cái để leo” của tiếng Việt, còn từ “Thoòng” của tiếng Hoa nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ Đường 堂 trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. Cái mái cong bằng tre của nhà rông ấy hiện diện ở khắp Hoa Nam là mái ngói cong, còn lên phía Bắc là mái bầu chóp tròn như cái nậm rượu hồ lô, dư ấn của cái lều vải úp của dân du mục đồng cỏ. Từ qui tắc lướt để tạo từ của tiếng Việt, ta còn thấy nguồn gốc rặc Việt của từ TẾT. Các nhà hàn lâm ở Hà Nội thì giải thích rằng “Tết ta là ăn tết theo tết Tàu, theo lịch Tàu; người Tàu gọi cái lễ đón năm mới ấy là Xuân Tiết, ta mới gọi tắt một tiếng là Tiết rồi đọc chệch đi thành Tết ” (?). Nhưng chính các nhà hàn lâm ấy khi gọi tắt thì vẫn theo qui luật là gọi bằng tiếng đầu bỏ tiếng đuôi, ví dụ đi vô xứ Nghệ An thì nói tắt là đi vô xứ Nghệ chứ không nói là đi vô xứ An, đi vô xứ Quảng Ngãi thì nói tắt là đi vô xứ Quảng chứ không nói là đi vô xứ Ngãi. Ấy vậy mà Xuân Tiết lại không gọi tắt là Xuân mà lại gọi tắt là Tiết kể cũng tài (?). Làm tội các cháu khi du học bên Tây, nghỉ ngày Tết âm lịch, các bạn Tây hỏi ồ sao chúng mày cũng đón Chinese New Year à ? thì không biết trả lời như thế nào. Tục Tết là từ ta đi lên hay từ Tàu đi xuống?. Nguyên thủy nó là từ Té , là té nước trong lễ hội cầu mưa của cư dân nông nghiệp Nam Á, nghi lễ cầu trời gọi là Tế, chữ nho viết là Tế 祭. Lễ lớn nhất trong năm là lễ cúng lúc đón giao thừa kết thúc năm cũ sang năm mới gọi là Tế Hết Năm (Tàu gọi là Quá Niên , cũng còn gọi là Tất Niên là hoàn tất một năm cũ). Do qui luật lướt nên “Tế Hết Năm” đã lướt thành “Tết Năm” (Tế Hết = Tết), cái từ Tết Năm ấy gọi tắt thì theo qui luật lấy tiếng đầu là Tết chứ không lấy tiếng cuối là Năm. Đó là sự hình thành chính xác nhất từ Tết trong ngôn ngữ Việt bắt nguồn từ phong tục cổ xưa nhất của người Việt từ thời Thần Nông cách nay hàng vạn năm. (Tết bắt nguồn từ lễ hội Té nước, nước té rồi thì nó ngã rạp xuống đất, nên người phương nam còn gọi ngã là Té nhưng nó bao hàm cả rớt xuống nước, bởi dân sông nước thì ngã chỉ có nghĩa là rớt xuống nước tức Té, về sau từ Té dùng chung cho cả trên cạn nên ngã xe máy cũng gọi là Té xe máy). Chuẩn bị cho Tết nhất định phải có cây Nêu, là cây tre dựng đứng mà từ thời cổ đại tổ tiên ta đã dùng đo bóng nắng mặt trời để tính ra lịch nông nghiệp gọi là âm lịch, nên cây Nêu phải dựng ngoài sân tức ngoài trời để thờ Trời, tức cây trụ của từ Trụ nghĩa là thời gian trong từ ghép Vũ Trụ, mà Vũ có nghĩa là không gian lại là do từ Vỏ, là cái vỏ mênh mông chứa đựng và vo tròn tất cả . Nội dung Tết Việt là phải đủ như câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, trong đó thấy đủ cả Âm Dương Ngũ Hành, nông nghiệp, công nghiệp và văn học. Tục cây Nêu ngày nay vẫn tồn tại trong các lễ hội và trong Tết. Ở thành phố nhà không có sân để dựng cây Nêu thì người ta đành dựng bên lễ cúng là cây mía còn nguyên cả ngọn tượng trưng cho cây Nêu, vì nó cũng nhiều đốt như cây tre vậy. Trên cây Nêu treo các thứ tượng trưng cho mong ước tốt đẹp, nên từ Nêu là ý đẹp, nêu gương tốt. Nhưng trong đời sống cũng có khi bắt buộc phải nêu gương xấu để răn đe. Cái cây Bắt (phải) Nêu ấy lướt thành cây Bêu, như cây treo con bù nhìn xấu xí để đe chim khỏi phá hạt mới gieo ở ngoài đồng, gọi là cây Bêu. Cũng có khi chẳng phải ý đẹp hay ý xấu mà vẫn buộc phải Bắt Nêu thì người ta đã lướt thành cây Bẹo, đó là cây tre dựng treo các loại trái cây và hàng hóa mẫu để “quảng cáo tiếp thị” gọi là cây Bẹo trên mỗi thuyền bán hàng của chợ nổi vùng sông nước miền tây Nam Bộ. Cây Nêu đã từ Tết đi vào cuộc sống bình thường của người dân. Tìm khắp đất Hoa Bắc chẳng có tục cây nêu từ thượng cổ đến nay mà học giả nước ta lại dám bảo là Tết ta là do từ bên Tàu kể cũng lạ.
  22. Người Lạc Việt cổ đại ở đảo Hải Nam và ở đảo Đài Loan Các học giả ngày nay nhận định văn hóa phương Nam, đặc biệt là vùng ven biển phương Nam , không phải là “ man hoang” như sách sử xưa nói, mà nó là một nền văn hóa phát triển và đặc sắc, đó là nền văn hóa cổ Đông Nam Á.Theo truyền thuyết thì thời thượng cổ đế Viêm tức Thần Nông có một bộ lạc chư hầu là Xuy Vưu, đó là tên chung chỉ các bộ lạc vùng Đông Nam, mà về sau Hán thư gọi bằng các tên là Nam Man, Bách Việt, Cửu Lê, Tam Miêu, thực chất đó là dân tộc Việt cổ 古 越 民 族chủng tộc Indonesien, là tổ tiên của các tộc người bản địa ở Đài Loan, của tộc Lê 黎 ở đảo Hải Nam, của tộc Miêu 苗, Choang 壯 và các dân tộc thiểu số ở miền nam Trung Quốc ngày nay. Thời thượng cổ bộ lạc Xuy Vưu hay còn gọi là Cửu Lê đã cư trú và canh tác nông nghiệp ở vùng hạ lưu sông Hoàng Hà. Sau trận Trác Lộc (ở tỉnh Hà Nam Trung Quốc ngày nay) bộ lạc Xuy Vưu thua phải rút về phía Nam là vùng lưu vực sông Trường Giang, lập nên hàng loạt quốc gia ở đó, gọi là Bách Việt. Văn hóa cổ Đài Loan có liên quan đến văn hóa cổ Chuân Di 淮 夷, Ngô 吳, Việt 越, Đông, Âu 東, 甄. Nhà khảo cổ học người Úc dr. Peter Bellwood nghiên cứu các sắc dân bản địa Đài Loan nhận định ở Đông Nam Á có 2000 ngôn ngữ Indonesien thì ở Đài Loan hiện còn 333.000 người thuộc cư dân bản địa, là cư dân cư trú sớm nhất ở Đài Loan, nói 14 loại ngôn ngữ Indonesien . Căn cứ khảo cổ nhận định khoảng 5500 năm trước người Việt cổ đã đem nền nông nghiệp lúa nước đến Đài Loan, sau đó khuyếch tán sang Philipin, Malaixia, châu Úc. Các sắc dân bản địa Đài Loan thì ở bắc đảo là người Thái Nhã 泰 雅 và người Trại Hạ 賽 夏, ở nam đảo là người Bố Nông 布 農, Thiệu 邵, Trâu 鄒, Lỗ Khải 魯 凱, Bài Loan 排 灣, Ti Nam 卑 南,A Mỹ 阿 美, Đạt Ngộ 達 悟v.v ,tổng cộng khoảng 20 ngôn ngữ thuộc hệ ngữ Indonesien, trong đó người Thái Nhã là từ các quần đảo hoặc bán đảo Đông Nam Á qua bờ biển nam Trung Hoa đến đảo Đài Loan vào khoảng 3-4 nghìn năm trước công nguyên. Người Thái Nhã 泰 雅 trước thời nhà Hạ là một chế độ xã hội thị tộc nguyên thủy chưa có giai cấp và tư hữu tài sản. Họ là một chi của dân tộc Việt cổ 古 越 民 族 ở vùng Hoa Nam của Bách Việt, họ còn bảo lưu được rất đậm nét đặc chất của văn hóa Việt cổ. Các nghiên cứu nhân loại học nhận định rằng, khoảng 6500 năm trước người Thái Nhã 泰 雅đến Đài Loan trong giai đoạn văn hóa thừng văn và đồ gốm. Trên đảo Hải Nam đã phát lộ di tích cuối thời đá cũ ở hang Lạc Bút 落 筆 gần Tam Á ven bờ biển nam đảo. Người Lạc Việt cổ "古 駱越” Hán thư còn gọi là người Lý “俚”. Khoảng 3000 năm trước (thời Tần, Hán) người Lạc Việt 駱 越 ở Bắc Bộ Việt Nam và Lưỡng Quảng thiên di đến đảo Hải Nam, họ có đặc điểm là xăm mình và đeo vòng tai, họ thành tổ tiên của tộc Lê 黎 ở đảo Hải Nam. Đến thời Nam Bắc triều người Lý 俚 từ Lưỡng Quảng lại ồ ạt theo thủ lĩnh Tẩy Phu 冼 夫 thiên di sang Hải Nam.Theo tư liệu khảo cổ và văn hiến thì người Lý 俚 và người Lê 黎 là có cùng nguồn gốc sâu xa. Tức người Lê 黎 là do người Việt cổ phát triển thành. Quan sát từ phương thức tổ chức xã hội và văn hóa thì người bản địa Đài Loan cũng từ nguồn gốc đó, từ cái nền chung của văn hóa cổ Đông Nam Á. ( Các từ Lê 黎, Lý 俚 trong tên gọi người Lạc Việt, Ly 離 trong quẻ Ly đều có phát âm chung là “ li” , điều này cho thấy là người tộc Lê 黎 và người tộc Lý 俚 tức Lạc Việt đều là dân “Quẻ Ly” tức dân “Kẻ Lửa” ở phương “bức” xứ nóng của đế Viêm tức Thần Nông của nền văn hóa Hòa Bình làm nông nghiệp lúa nước sớm nhất của nhân loại, cách nay 10.000 năm. Chữ Lý gọi người dân tộc Lý 俚 tức người Lạc Việt về sau trong Hán ngữ còn mang nghĩa là quê mùa, nông thôn, bởi ở đô thị thì đã bị Hán hóa hoàn toàn rồi đâu còn Lý, chỉ có ở Việt Nam thì mới còn rặc Việt nên mới có những điệu hát “ lý” rặc Việt). Người Lê khi sang đảo Hải Nam đầu tiên cư trú ở vùng ven sông và cửa biển, sau đó dần dần cư trú khắp đảo, lên cả các vùng núi, đến thời Tần , Hán thì thiên di lên cả phía bắc đảo cho đến ngày nay. Từ thời Tây Hán đến thời Đường thì người Hán cư trú chủ yếu là các vùng thuộc Trung Nguyên, họ di cư đến Hải Nam trú ở ven biển tây bắc đảo. Sau thời Đường thì mới có người Hán từ vùng Triết Giang, Lưỡng Hồ, Phúc Kiến đến. Đến thời Tống thì do đã xuất hiện con đường tơ lụa thông thương sang thế giới Ả Rập nên mới có người Hồi đến cư trú ở Hải Nam, hiện nay họ ở hai thôn Hồi Tân, Hồi Huy thị trấn Dương Cách thuộc thành phố Tam Á. Người Choang ở Quảng Tây di cư sang Hải Nam sớm nhất là người Lâm Cao 臨 高, sau đó thời Tống người Lâm Cao tiếp tục theo Chinh Phu 征 夫 sang Hải Nam. Đến thời Minh thì có binh lính tuyển toàn người Miêu 苗 là những tay thiện nghệ bắn nỏ tên thuốc độc đến đóng quân ở Hải Nam , về sau họ định cư luôn, thành tộc Miêu ở Hải Nam. Thời Minh, Thanh về sau ,cũng là cao trào di dân đông nhất, thì di dân đến Hải Nam chủ yếu là người vùng Mân 閩 và Việt 粵, Quế 桂, Kinh Nguyên 經元, Lưỡng Quảng. Người Thái Nhã 泰 雅 và người Trại Hạ 賽 夏 là những sắc dân trong 10 sắc dân bản địa đến Đài Loan sớm nhất, cư trú chủ yếu ở bắc Đài Trung. Đến thời Minh, Thanh về sau thì người Hán mới ồ ạt di cư sang Đài Loan chủ yếu từ hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông, thời cận đại thì mới có từ các tỉnh khác của Trung Quốc đến, làm thành văn hóa đa quần thể ở Đài Loan. Văn hóa của tộc Lê ở Hải Nam và của các sắc dân bản địa Đài Loan có cùng nguồn gốc gần gũi là phương thức sinh hoạt trên cơ sở kinh tế chế độ thị tộc xa xưa, truyền qua nhiều đời hình thành tâm lý văn hóa dân tộc, sản sinh di truyền văn hóa và phương thức tư duy, di truyền lại phong tục tập quán dân gian thành qui phạm hành vi xã hội duy trì sự bình yên và tiến bộ xã hội: 1. Trọng nam tôn nữ. Từ khi còn là xã hội thị tộc mẫu hệ, người phụ nữ là trung tâm của xã hội nhưng vẫn rất trọng nam, người đàn ông có vị trí nhất định trong xã hội. 2. Đoàn kết hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Hàng nghìn năm sống trong môi trường nhiệt đới gió mùa, canh tác nông ngư nghiệp trên vùng đất đai rộng lớn đã hình thành nên tính cách ôn hòa, trọng huyết thống và tương thân tương ái trong xã hội xóm làng phum sóc, một hộ làm nhà cả làng tự nguyện đến giúp coi là điều vinh dự vẻ vang, một nhà có đám cả xóm đến lo giúp. 3. Cùng hưởng cùng vinh. Đi săn hay bắt cá đều chung cả bản , làm đồng thì vần công, những thực chất văn hóa thuần phác vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay. 4. Chú trọng lễ nghĩa. Đối nội kính già yêu trẻ, đồi ngoại nhiệt tình hiếu khách, cử chỉ lễ phép . 5. Tự do luyến ái. Trai gái người Lê sau 15 tuổi không ở cùng phòng cha mẹ mà làm riêng phòng hoặc chái bên cạnh gọi là “long các”, ở đó tự do giao tiếp với bạn tình ,tâm sự, đàn hát, đến khi tâm đầu ý hợp mới báo cha mẹ xin chuyện hôn nhân, bên trai chọn ngày giờ đến xin đính hôn. 6. Nhiệt tình đãi khách. Người Lê rất hiếu khách, nhiệt tình đãi rượu, thuốc, trầu cau.Thuốc là thuốc lào điếu cày, rượu là rượu cần nấu bằng gạo nếp men lá, chủ và khách quây quần ngồi quanh ché rượu, cũng có uống rượu bằng bát. Trầu cau không thể thiếu trong cưới hỏi, cũng là vật phẩm giao tế, chè uống là chè tươi. 7. Lao động chuyên cần và chất phác. Dù là người già hay trẻ nhỏ đều làm theo sức mình , không có ai chơi không. 8. Kính già yêu trẻ. Đây là phẩm chất thuần phác bảo tồn từ ngàn xưa đến nay. Người Lê khi thưa với cụ ông nói là “Bá ạ - 帕 雅- bá nhã” , thưa với cụ bà nói là “Vãi ạ - 拜 雅- bái nhã” (cũng y chang tiếng người Việt ở Phú Thọ hay tiếng người Trại ở Vĩnh Yên). Người bản địa Đài Loan xưng hô cũng theo thứ bậc lứa tuổi mà xưng là cụ , chú , bác, cô, dì, anh, chị, em… như người Việt chứ không xưng ngộ, nị như người Hán. 9. Văn hóa dân tộc độc đáo. Tục xăm mình. Ăn trầu. Thích ăn chua và sản phẩm lên men. Người Lê ở Hải Nam và người Thái Nhã ở Đài Loan là những cao thủ tinh hoa về ngành dệt vải, người Thái Nhã đứng hạng nhất ở Đài Loan về nghệ thuật dệt . Nguồn trích http://www.home.kimo.tw/bimaten/
  23. Chữ “động” trong từ ghép “hang động” Trích: “Tổ tiên người Việt cổ ở Phú Thọ thời hồng hoang ắt hẳn sống trong các hang động có rất nhiều ở huyện miền núi Thanh Sơn. Phải chăng vì thế mà sau này khi rời hang động ra sống ở ngoài trời, người ta lấy động làm tên gọi điểm tụ cư như người Việt gọi là kẻ, chạ, thôn, làng. Trước đây người Mường thường vẫn gọi điểm tụ cư của mình là động. Triều đình cũng gọi là các động. Ở Phú Thọ cũng có các địa danh gọi là động như động Khuất Lão ở huyện Tam Nông, động Lăng Xương ở Thanh Thủy, thị xã Phú Thọ cũng có thời gọi là Phú An động. Thị trấn Hưng Hóa gọi Hoa Nham động. Làng Cự Đà (Phù Ninh) thời nhà Lý còn gọi là động Cự Đà, v.v.”(Nguyễn Hữu Nhàn) Chữ “động” trong tiếng Việt hay dùng trước địa danh, cũng như chữ “đồng” đều không có nghĩa là “hang” hay xuất xứ từ “hang” mà nó có nghĩa là “vùng”, vì Vuông = Vùng = Đồng = Đoong (tiếng Lào)= Động = Rọng ( tiếng Nghệ An) = Ruộng, có nghĩa là một cái diện tích đất rộng lớn.Từ “hang” chỉ cái hang là một từ Việt , như góc kín của cơ thể thì gọi là “ háng”, lối ngõ sâu hun- hút như cái hang thì chữ nho viết là chữ “hạng 巷” gọi là “hẻm”, từ “hang” tách đôi Âm - Dương thì sinh ra từ dính không thể đảo ngược là “hom - hỏm” nghĩa là sâu và tối, nó dẫn đến từ “hẻm” trong tiếng Việt là cái ngõ sâu như hang và từ “thẩm” trong tiếng Thái nghĩa là cái hang. Từ “động” nghĩa là hang chỉ có từ khi bị Hán hóa, nó đồng âm với từ “động” nghĩa là vùng của tiếng Việt. Nhưng chữ nho của người Việt “động 洞” vốn nghĩa là “vùng” ấy đã bị Hán lấy để tải âm “tung” nghĩa là hang của tiếng Hán.Từ “động” nghĩa 同 là cùng, biểu ý là cùng một nước, lấy âm cùng để biểu đạt cho âm vùng, nghĩa của nó là “vùng nước” tức “một vùng của đất nước” hay là nước nhỏ trong cùng một nước to. Chữ nho “động 洞” ấy người Hán mượn để ký âm từ “tung” trong tiếng Hán là chỗ ở cũng có nghĩa là hang, vì người Hán cổ ở vùng thảo nguyên đất khô, họ làm nhà bằng cách đào hàm ếch vào đồi để ở tránh gió lạnh và tuyết, bây giờ vẫn còn phổ biến trên thảo nguyên mênh mông gió và tuyết, người ta đào một giao thông hào sâu và rộng rồi hai bên đào hàm ếch sâu vào thành những cái “tung” cho từng hộ gia đình ở, về sau cả tòa nhà xây độc lập trong thành phố họ cũng gọi là cái “tung”, ghi mượn bằng chữ nho “đống 棟” của người Việt, gồm bộ mộc 木 là gỗ và chữ đông 東 thay cho âm “chống” có nghĩa là “cái cột nhà bằng gỗ để chống đỡ cái mái”, cái “để chống” gọi lướt là cái “đống”. Về sau do bị Hán hóa nên người Việt cũng dùng chữ “động 洞” hiểu nghĩa là hang như người Hán, nhưng còn có thêm từ ghép “hang động” nghĩa là nhiều hang nói chung, nên từ ghép “hang động” thường chỉ đi sau lượng từ “các” hay “nhiều”, mà ở cái từ ghép đó thì “hang” trước, “động” sau theo đúng trình tự cái nào có trước trong tiếng Việt thì đứng trước trong từ ghép, chứ không ai nói là “động hang” cả. Tai hại của Hán hóa là “động” = “đồng” = “vùng”, cả âm lẫn nghĩa như biểu ý của chữ nho, đã bị biến thành “hang” vì người Hán dùng chữ “động 洞” ấy nhưng bảo nó nghĩa là hang, nên đành phải ừ là “hang động” cho nó huề. Thời thượng cổ người Việt dùng chữ nho vẫn viết theo cấu trúc ngữ pháp Việt cho đến tận thời Đường, nên các địa danh ở Trung Hoa toàn là theo cấu trúc ngữ pháp Việt như Hồ Nam là hồ phía nam, Sơn Tây là núi phía tây, Sơn Đông là núi phía đông. Ở Việt Nam thì Tam Cốc là ba hang, sau bị Hán hóa lại thêm là “động Tam Cốc” thành thừa một chữ hang vì “cốc” đã nghĩa là hang, nó to hơn cái “hốc”.Thời cận đại khi chưa có chữ quốc ngữ, dùng chữ nho, người Việt vẫn đặt theo cấu trúc ngữ pháp Việt như vậy , như Cửu Long là chín rồng vì sông Mê Kông vào Nam Bộ chia thành chín nhánh đổ ra biển; Phú Quốc là “giàu nước” tức ra đảo làm giàu cho đất nước (trước tiên là làm nước mắm) chứ không phải như thông tin đại chúng giải thích Phú Quốc là “mảnh đất giàu có” theo ngữ pháp Hán, bởi không có người đến khai phá thì chẳng mảnh đất nào giàu có cả. Thời Đinh Tiên Hoàng thì xã hội Việt Nam dùng chữ nho đã là văn minh sáng lạn lắm rồi, nhưng Hoa Lư vẫn gọi là động Hoa Lư, có nghĩa là vùng Hoa Lư chứ không có nghĩa là dân ở đó sống trong hang. Biết bao địa danh khác ở đồng bằng mênh mông chẳng có một ngọn núi cái hang nào cả vẫn gọi là “động” bởi vì từ ấy có nghĩa là “vùng” “ Việt sử lược” viết: “Đinh kỷ, tiên vương húy Bộ Lĩnh, tính Đinh thị, Hoa Lư động nhân丁 紀 , 先 王 諱 部 領,姓丁氏,華 閭 洞 人nghĩa là Thời Đinh, vua đầu tên húy là Bộ Lĩnh, họ Đinh, người vùng Hoa Lư” . Viên gạch khai quật trong Hoàng thành Thăng Long là sản xuất ở động Hoa Lư rồi chở thuyền lên Thăng Long, gạch đó từng viên đều có dòng chữ: “Đại Việt quốc quân thành chuyên 大 越 國 軍 城 磚 “ nghĩa là “Made in Việt Nam – gạch xây thành quân sự” chứ không phải như thông tin đại chúng đọc là “gạch xây thành vua Đại Việt”( chữ quân trên viên gạch là chữ quân 軍 sự chứ không phải chữ quân 君 vương, ngày xưa viết hàng chữ nho không có chấm phẩy hay gạch nối gì cả).
  24. Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn (tốt nghiệp bằng tiến sĩ ngành truyền hình tại Liên Xô) đã làm việc tại Đài truyền hình Việt Nam 20 năm, chức vụ phó tổng giám đốc VTV, vừa mới đệ đơn xin Thủ tướng cho thôi chức, và đã được chấp nhận. Tiến sĩ có bài thơ mới viết trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Tôi tình cờ đọc được, thấy rất thông cảm với tâm sự của một công chức nhà nước. Trong bài thơ có chữ CỦA để chữ in hoa, không biết vô tình hay hữu ý, nhưng nó giúp tôi “tóm” được câu thành ngữ mới của tiếng Việt, đó là câu “chút gian khó của”. Thành ngữ tiếng Việt thường có kết cấu hai vế “nhân” và “quả”. Câu “ chút gian khó của” nghĩa là cái gian ít thì khó kiếm được của. Có lẽ đây là nguyên nhân để tác giả đi tìm một môi trường khác để dễ giữ được sạch mình, như những con người chân chính vẫn hằng tâm nguyện suốt cuộc đời . Cảm ơn tác giả về bài thơ. CÓ MỘT NGÀY Có một ngày Rời chậu cảnh, cây ra ngoài đất bãi Đất cằn hơn và bãi rộng hơn Có một ngày Không vui sướng cũng không ngần ngại Tôi rẽ vào ngả đời Gập ghềnh hơn mà thanh thản hơn! Tết này có ai cho rượu ngoại? Càng thấu tình men lá rượu ngô trong Xuân này thôi họp hành lễ lạt Cha dắt con đi chơi non biếc nắng hồng Giờ như bao chú cô bác khác Cha loay hoay tìm việc để nuôi con Chút gian khó CỦA đời cha sẽ nếm Để gần hơn bao thân phận mất còn! Trần Đăng Tuấn Hà Nội, 3-11-2010
  25. Thiên hạ họ Hùng – Họ Ngô Trong số hơn 200 họ của Việt Nam thì họ Ngô cũng là một trong 13 họ có số dân đông, so với tỷ lệ dân số cả nước thì Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%. Họ Ngô ở Trung Quốc đứng thứ 10 dân số các họ. Ngoài số ít dân số là các tộc thiểu số phương Bắc bị Hoa hóa lấy họ là Ngô như tộc Tích Bá 锡 伯, tộc TriềuTiên 朝 鲜, tộc Kha Nhĩ Khắc 柯 尔 克, tộc Hách Triết 赫 哲 v.v.Còn lại hầu hết họ Ngô là có cùng gốc dòng Việt tộc từ thời thượng cổ, chủ yếu tập trung ở miền nam, vùng Triết Giang, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, nguồn gốc chủ yếu là từ họ Cơ 姬 của nước Ngô 吳, là hậu duệ của Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍, hai người này là con của Chu Thái Vương 周泰 王 tức Cổ phụ 古 父( “Cổ phụ” tức “bố Cả”, chữ Cơ 姬 và chữ Cổ 古 đều là phiên âm của chữ Cả trong tiếng Việt cổ, nghĩa là con trai trưởng).Tương truyền Cổ Phụ 古 父 là cháu đời thứ 12 của Hoàng đế Hiên Viên thị 黄 帝 轩 辕 氏.Cổ Phụ lập nên nhà Chu 周, là vua đầu của nhà Chu, hiệu là Chu Thái Vương 周 泰 王. Chu Thái Vương có ba con trai là Thái Bá 泰 伯, Trọng Dung 仲 雍 và Cơ Xương 姬昌, trong đó Cơ Xương 姬 昌sinh ra trông có tướng thánh hơn cả nên Chu Thái Vương có ý truyền ngôi cho. Hai anh biết vậy nên cũng nhượng hiền, khi Cơ Xương 姬 昌lên làm vua hiệu là Chu Văn Vương 周 文 王thì Thái Bá 泰 伯 và Trọng Ung 仲 雍 rủ nhau đi đến vùng người Kinh 荊, Man 蠻 ven biển phía đông lập nghiệp, ở đó họ được dân tại chỗ tôn Thái Bá 泰 伯 lên làm vua, lập nên quốc gia họ Cơ 姬 (năm 1123 BC). Nước họ Cơ này sử viết là Câu Ngô 句 吳 ( do chữ Cơ 姬 này được phiên âm bằng hai âm tiết là Câu Ngô 句吳, chứ thực ra chữ Câu 句 đầu này không có ý nghĩa gì cả), thế là hình thành nước Câu Ngô 句 吳. Khi Thái Bá chết, vì Thái Bá không có con, nên Trọng Ung 仲 雍 thừa kế ngôi vua, là vua đời thứ hai của nước Câu Ngô. Nhà Chu thì đến đời con trai Cơ Xương 姬昌 là Cơ Phát 姬 發 lên ngôi hiệu là Chu Vũ Vương 周 武 王, sau khi diệt xong nhà Thương 商, Cơ Phát 姬 發 bèn phong cho cháu ba đời của Trọng Ung làm chư hầu, đổi quốc hiệu thành Ngô 吳, đồng thời truy phong Thái Bá 泰 伯 là Ngô bá, tức tước Bá ở nước Ngô (5 bậc “ tước” khi nhà Chu phong đất thời đó là: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 tức là: Chắc, Hai, Ba, Tư, Năm; sau tước “Hầu 侯” của “chư hầu” tức “thứ hai” thì đến tước “ Bá 伯” là “chư bá”, nghĩa là sau tước “thứ hai” thì đến tước “thứ ba”, đây hoàn toàn là sự phiên âm từ tiếng Việt cổ). Đến cháu đời thứ 19 của Trọng Ung 仲 雍 là Thọ Mộng 壽 夢 vẫn kế tục làm vua (năm 586 BC) của nước Ngô , đóng đô ở chỗ nay là Tô Châu 蘇 州 tỉnh Giang Tô 江 蘇. Con trai thứ 4 của Thọ Mộng 壽 夢 là Qúi Trát 季 札(576 BC – 485 BC, thọ 92 tuổi) đáng lý kế vị nhưng từ chối, bỏ đến Diên Lăng 延 陵 làm ruộng . Từ đó về sau hậu duệ của vua Ngô là Thọ Mộng壽 夢 chia thành hai chi, một chi phát triển về chính trị dẫn đến đời vua Hạp Lư 闔 閭và đời vua Phù Sai 夫 差v.v. Còn chi hậu duệ của Qúi Trát 季 札 phát triển độc lập ở Diên Lăng 延 陵, đông đúc con cháu thành bộ phận chủ yếu của họ Ngô 吴. Cuối thời Xuân Thu春 秋, nước Ngô 吳 dần dần lớn mạnh lên, vua Ngô là Hạp Lư 闔 閭chọn Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 làm tướng văn, Tôn Vũ 孫 武 làm tướng võ, quyết đánh nước Việt 越. Con ông ta là Phù Sai 夫 差 (lên ngôi năm 496 BC) đánh phá nước Việt 越, đánh bại được quân Tề 齊, tiến lên phía bắc tranh bá với nước Tấn 晉 國, nước Ngô trở thành một nước lớn. Về sau Phù Sa i夫 差 kiêu ngạo tự đại không nghe Ngũ Tử Tư 伍 子 胥 khuyên can, kết quả bị Việt vương Câu Tiễn 越 王 勾 踐 đánh bại, nước mất thân vong (năm 473 BC). Con cháu Phù Sai 夫 差 lưu tán tứ phương, vẫn lấy tên nước làm họ, xưng là họ Ngô. Nước Ngô tồn tại 650 năm qua 25 đời vua, tạo dựng nên nền văn minh Giang Nam, cuối cùng bị diệt vào tay nước Việt, rất nhiều địa danh nước Ngô sau này dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên 司 馬遷 biến thành tên “Ngô hư 吳 墟”. Nhưng con cháu họ Ngô vẫn nêu cao tinh thần của Thái Bá 泰 伯 tiếp tụcphát triển, đời nào cũng có anh tài , cống hiến cho sự tiến bộ của dân tộc Trung Hoa. Sau khi nước Ngô bị Việt vương Câu Tiễn diệt, thái tử con Phù Sai là Ngô Hồng 吳 鴻 bị lưu phóng ở Giang Tây. Ngoài ra hậu duệ của Phù Sai phát triển ở Triết Giang, An Huy, Sơn Đông, Hà Nam và một số nơi khác. Đến thời Tùy, Đường họ Ngô đã phổ biến một vùng rộng lớn bắc Giang Nam. Thời Đường Cao Tông 唐 高 宗 có người họ Ngô làm tả tướng theo cha con Trần Chính 陳 政 và Trần Nguyên Quang 陳 元 光 vào đất Mân 閩 khai phá vùng Chương Châu 漳 州, đến đời Đường Hi Tông 唐 僖 宗 lại có tả tướng họ Ngô theo Vương Thẩm Tri 王 審 知 vào vùng Mân 閩 an cư lập nghiệp ở Phúc Kiến. Thời Tống, Minh về sau thì họ Ngô đã xưng hùng ở đất Đông Nam, trong đó có cháu đời thứ 53 của Qúi Trát 季 扎 là Ngô Tuyên 吳 宣 làm phò mã của nước Hậu Thục 後 蜀, gia tộc hiển hách một thời. Cháu 5 đời của Ngô Tuyên吳 宣 là Ngô Cát Bồ 吳 吉 甫 là thủy tổ của họ Ngô khi vào đất Việt Đông 粤 東. Thời Nguyên có viên ngoại lang bộ lễ là Ngô Quang Đẩu 吳 光 斗 phụng mệnh đem 6000 người từ lục địa lên thuyền sang Đài Loan năm 1291. Cuối thời Minh nhiều dân họ Ngô ven biển Phúc Kiến, Quảng Đông di cư sang Bành Hồ, Đài Bắc, Cao Hùng để mưu sinh lập nghiệp, phát triển đến tận ngày nay. Trong đó có một chi hiển hách nhất là gia tộc của Ngô Bá Hùng 吳 伯 雄, mệnh danh là “toàn Đài đệ nhất gia”. Người họ Ngô di cư sang Nhật Bản khoảng năm 450 BC ( sau khi nước Ngô đã bị diệt năm 473 BC ), trong đó có một chi sau thành hoàng thất của nước Nhật. Cũng khoảng thời gian đó, tức sau khi nước Ngô đã bị diệt , một dòng lớn người họ Ngô theo đường biển chạy xuống phương nam về lại đất Việt Nam ngày nay, trong hậu duệ số đó về sau xuất thế Ngô Quyền 吳 權 là cháu đời thứ 50 của Qúi Trát 季 扎 (điểm này chờ các nhà sử học Việt Nam xác minh). Vào năm 939 Ngô Quyền xưng vương kiến lập nhà nước độc lập đầu tiên của Việt Nam. Họ Ngô di cư sang Hàn Quốc là Ngô Phong 吳 風 thời Đông Hán, phát triển cho đến ngày nay dân số đứng thứ 20 trong tổng số 143 họ của Hàn Quốc. Sau thời Minh thì mới có người họ Ngô di cư sang các nước Đông Nam Á và phương Tây. Ngày nay dân số họ Ngô trên toàn thế giới là hơn 4 triệu người và có nhiều chi thuộc hàng vọng tộc.