Lãn Miên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
595 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
19
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lãn Miên
-
Mỗi chuyện cổ tích Việt đều có tính minh triết, như chuyện bánh chưng bánh dầy. Nhưng mỗi ngôn từ của tiếng Việt cũng có tính minh triết vậy, cứ như nó sinh ra đã là như vậy. Luận về con người, người ta thường viết là “luận về cái Ngã” hay “bản Ngã”, còn nếu dùng từ Việt thì một chữ Tôi đã cho thấy hết, khỏi phải luận: Tôi chính là Tâm. Người=Ngôi=Tôi=Tâm. Nếu Tôi mà hành xử không trong sáng, làm cái gì cũng cứ Lạm cho riêng tư bất chính, thì Lạm tức nặng, nên Tôi nặng thành Tội, đánh vần là “Tôi nặng Tội”, đó là Tôi có Tội. Nếu Tôi không thấy thực tế thời đại, cứ giáo điều vào lý tưởng hão huyền, thì đánh vần là “Tôi huyền Tồi”, đó là Tôi Tồi, tôi thua kém người dân các nước tiên tiến. Nếu Tôi chỉ ham sắc đến quáng cả mắt để nhãn quan không nhìn xa trông rộng, không biết giữ thể diện cá nhân và dân tộc, thì đánh vần là “Tôi sắc Tối”, đó là Tôi ngu tối. Mọi việc Tôi làm, cho kết quả hay hoặc dở đều là do Tâm của Tôi mà ra cả, tức là từ cái “Lõi của Tôi”=(lướt)= “Lỗi”, đó chính là tiền đề của cái câu viết bằng chữ nho là “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Lỗi là do từ Lõi của Tôi, nên Tôi phải biết nói câu cửa miệng là “Xin lỗi” khi lỡ phương hại đến bất cứ ai dù lớn tuổi hay nhỏ tuổi hơn mình. Đúng như Đạo Phật dạy rằng: Tâm ta xoay đổi thường xuyên, Cũng thể thành Phật cũng liền Tà ma. Thiên đường, Địa ngục đó mà . Suy ra muôn việc cũng là do Tâm. Chân tơ kẽ tóc Phật răn. Mong người giác ngộ để làm sáng Tâm. Để học tiếng Việt được nhanh và đúng (cả đối với người Việt và người nước ngoài) chắc là phải bắt đầu từ học cái minh triết của mỗi ngôn từ tiếng Việt.
-
Tiếng Nghệ Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Chưa ghé nỏ biết chi mô Quê choa giọng nói líu lô tức cười Con người thì van “con ngài” Con ruồi lại gọi “con ròi” đó nghe Cà dài là “trấy dái dê” Con bê lại gọi “con me” của bò Con trâu thì gọi “con tru” Bồ câu lại gọi “cù cu” đó nờ “Ẻ” hố xí - xuống “chuồng chồ” Chê giòi nhiều biểu là đồ “lắm troi” “Mọi” là con muỗi, đừng cười Xơi cá quả lại gọi xơi “cá tràu” Đường xa- “đàng ngái” đi lâu “Cái trôốc” là nói cái đầu đó mi Tiếng quê choa hắn ra ri: “Trôốc cha mi khái cạp”- đầu bố thì hổ tha Con gà thì gọi “con ga” “Mả cha” là mộ của ba mi nờ “Nói mớ” là nói nằm mơ “Mả ôông cha mi xéo!” là bố mày cút đi! Vớt tép thì gọi “cất te” Khuỷu chân lại gọi “lặc lè” mới hay Ngượng thì lại bảo là “rầy” Ngứa thì van “ngá” cho mầy biết thêm Gốc cây gọi cái “cộc cơn” Bàn tre thì gọi “cái mươn”, chớ ngồi “Đi nhởi” là nói đi chơi Ra sân lại gọi “ra cươi” nhởi hầy “Đọi nác” như bát nước đầy “Rú” là cái núi, “hói” này chỉ mương “Hun” là hôn hít khi thương “Cặp mui”chúm chím “ngó” thường “sọi”- xinh Trên em có “ả” có anh Mợ thì gọi “mự”, cô thành gọi “o” Quả bầu thì gọi “trấy bù” Con giun thì lại gọi như “con trùn” Chổi sể thì gọi “chủi cùn” Lười làm lại gọi “nhác mần”chảy thây Chúng mày lại gọi “tụi bây” Tôi-“tui”, tối-“túi” ra vầy “hom hom” “Ruốc” là tên gọi mắm tôm Muối gói lại bảo “mói đùm” biết chưa Nướng-“náng, luộc- “lọc” cho vừa Tán gái lại gọi “đi cưa” hết ngày Váy lại gọi “mấn” mới hay Anh “chộ” là thấy em này thương thương Anh thích lại bảo anh “sèm” Nhúng lại gọi “trụng” đừng đem ra cười “Giáp đít” là cái rế nồi Ngồi mòn đít lại bảo “ngồi mòn khu” Trai đầu, cha chức “ông Cu”, “Ông Hoe”, “ông Đĩ” là dù gái thôi “Xay ló”- xay lúa mà coi “Đâm gấu”-dã gạo một hồi trắng phau “Vò trôốc” là nói gội đầu Choa nói tiếng Nghệ với nhau quen rồi Ghé quê choa nhởi đôi hồi Khắp làng xởi lởi tiếng cười râm ran.
-
Giải thích những chữ nho viết theo kiểu “hội ý” Những chữ nho kiểu “hội ý” là ghép các chữ khác nhau lại thành một chữ để diễn đạt một ý, không có thành phần biểu âm mà lại đọc được thành một âm chẳng liên quan gì đến âm của các chữ cấu thành nó. Phân tích âm đọc ấy lại thấy nó chỉ đúng là âm của tiếng Kinh, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán-Việt” cả . < Nghĩa của chữ lấy trong cuốn “Từ điển yếu tố Hán-Việt thông dụng” Viện ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội-Hà Nội 1991> 1/ Chữ Vũ 武 (Từ điển giải thích là: 1. Sức mạnh làm cho người khác phải nể sợ (vũ thuật, vũ lực, uy vũ) 2. Thuộc về quân sự (vũ khí, vũ trang) 3. Dũng mạnh (vũ phu) Viết bằng chữ nho một chữ Vũ 武 này nhưng trong tiếng Việt thì Vũ và Võ là hai chữ có nghĩa khác nhau. Những nghĩa trên chỉ là những nghĩa mà về sau được Hán ngữ dùng, khi nó đã thành từ hàn lâm rồi. Chữ Vũ 武, người Hán phát âm là “vủ” (wu), người Việt phát âm là “ Vũ”. Nghĩa nguyên thủy của nó nằm trong biểu ý của nó, vì nó là chữ cấu thành kiểu “hội ý”. Cấu tạo của nó gồm chữ Chỉ 止( dừng) và chữ Qua 戈 (dáo), phát âm tương ứng của người Hán là “trử”(zhi) và “cưa” (ge), phát âm tương ứng của người Việt là “Chỉ” và “Qua”, không hề có một chữ biểu âm nào (để có cách phát âm) thêm vào trong cấu tạo của nó, thế mà nó lại được đọc là Vũ. “Trử” với “Cưa” thì lấy đâu ra âm “Vủ”? Nhưng “Chỉ” và “Qua” thì có cho thấy ý. Âm “Chỉ” là do Giao Chỉ, âm “Qua” là cái Dáo bằng đồng, là cái dáo kim loại đầu tiên trong lịch sử. Âm “Vũ” là do “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”. Nguyên thủy chữ Vũ武này nghĩa là Giao Chỉ. Giao Chỉ tức là Việt Cũ. Vì theo QT: Ở=Đỗ=Đậu=Đứng=Đình=Đừng=Dừng=Giao=Giữa=Chứa=Chợ=Chỗ=Chỉ=Chơi=Bời=Bội=Hội=Họp=Góp=Gom=Nhóm=Nhau=Nhao=Dáo=Trao= =Chào=Choa=Qua < “chúng ta”=(lướt)=” “choa” >. Trong nôi khái niệm lớn này có những từ đôi Ở Chợ, Họp Chợ, Chơi Bời, thì cũng có từ đôi Chỉ Qua. Hai chữ ấy ghép lại với nhau là cảnh sinh hoạt ở chợ của người Giao Chỉ trao đổi khí cụ bằng đồng với kẻ thập phương đến đất Giữa. Từ cặp từ đối nguyên thủy Ù/U mang nghĩa Đi/Ở, theo QT: U=Vu=Vợ=Vũ=Việt (nói về dòng Mẹ). Phát âm tiếng Kinh chữ Vũ, nghĩa nguyên thủy của nó là hình ảnh cái “ Chợ bán dáo” (thời đồ đồng), các nhà nho gọi nó là chợ “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”. Sôi động của cái chợ Việt cũ của người Giao Chỉ diễn tả trong nôi khái niệm lớn: Dáo=Giao=Chào=Trao=Ồn-Ào=Nhốn-Nháo=Xôn-Xao=Tào-Lao=Lạo-Xạo=Rào-Rào=Thao-Thao=Bát-Nháo=Rộn -Rạo=Lảo-Đảo, là khung cảnh trao đổi, giao lưu, chơi bời đến say sưa mới chia tay. Về sau mới có từ Vũ Khí là chỉ cái khí cụ của người Việt cũ, rồi sau mới thành từ hàn lâm là “vũ khí”, “vũ trang”. Cái dáo bằng đồng ấy không phải là dùng để đâm nhau, nó chỉ là đồ trang sức cho trai tráng, người ta biểu diễn, chào nhau, trao nhau, đều coi nhau là chúng ta. Chợ là chỗ đứng, chỗ dừng, chỗ chứa của mọi người, là chỗ người ta đừng nghĩ gì khác ngoài trao đổi và vui chơi với nhau. Chợ là Chơi nên có Hội, từ Hội Chợ là một từ đôi, ở hội chợ trai tráng thi thố với nhau kỹ năng thể lực, gọi là “Việt Đọ”=‘Vật Đọ”=(lướt)=Võ, trai ra Đọ gọi là Đô. 2/ Chữ Việt 越 mà tôi gọi là chữ “Việt 越 đi” (khi người Việt 越 đò qua Trường Giang ra khai phá vùng Hoàng Hà). Chữ Việt 越 gồm bộ Tẩu 走, bộ Cổn 丨và bộ Qua 戈, Hán ngữ phát âm tương ứng “Yue 越”, “Zou 走”, “ Gun 丨”, “Ge 戈”. “Zou 走” và “Gun丨” với “Ge 戈” làm sao lại đọc là “Yue” hay là “Việt” được?. Nhưng trong tiếng Việt thì chữ nho ấy có nghĩa là Nhảy Qua, Nhảy Qua tức là Vượt, mà Vượt=Việt. Nó là do QT: Ù=Vù=Việt=Vượt. Cổn=Cuồn-Cuộn (sóng nước). “Vù qua sông bằng cách dùng đò mà Lướt”=(lướt)= “Vượt”. < Nguyên từ cặp từ đối nguyên thủy Ù/U của nghĩa Đi/Ở >. Chạy=Nhảy=Nhanh=Nhẩu=Tẩu走. Vậy chữ Việt 越 này là đã được đọc nguyên thủy là “Việt”, là một âm tiếng của người Kinh, và chữ nho ấy của người Việt nói lên lịch sử của người Việt. 3/ Chữ Việt 粤 mà tôi gọi là chữ “Việt 粤 ở” (dân bản địa). Chữ Việt 粤 này gồm bộ Thái 采, Hán ngữ phát âm là “xai” (Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái=Chá=Cháy=Chói: là dân mặt trời), bộ Vi 囗 , Hán ngữ phát âm là “wei”, (“Vuông Li”= “Vi”), và hình cái cày thêm dưới. Không có âm nào để nó thành “yue” như Hán ngữ đọc chữ Việt粤 ở. Nhưng vì là của tiếng Việt nên theo QT: U=Ư于=Ở=Vợ=Vu于=Vũ 武=Việt 粤 (là dân của dòng Mẹ = dòng Lửa = dòng Chim = dòng Tiên). Tiếp, U=Ư于=Ở=Ổ=Đỗ=Đậu逗=Đứng=Đình停=Đừng=Dừng=Giao交= =Giữa=Chứa=Chợ=Chỗ=Chỉ止=Chơi=Bời=Bội=Hội=Họp (hình thành những từ đôi như Chỗ Giữa, Chỗ Chứa, Ổ Chứa, Chỗ Đỗ, Chỗ Dừng, Chơi Bời, Giao Chỉ , Ở Chợ, Họp Chợ,Hội Họp, từ ghép Hát Bội là hát ở chợ). Người “Việt 粤 ở” này cũng chính là người Giao Chỉ . < Hát biểu diễn Việt Kịch có từ xưa ở vùng Lĩnh Nam TQ, còn ở Việt Nam gọi là Hát Bội. Hát Bội thường lấy nội dung những chuyện xưa, tức Tích Chương 昔 章là văn chương cổ tích, “Tích Chương”(lướt)= “Tuồng”, người không thấu từ Việt lại gọi là “tuồng cổ” thành ra thừa chữ cổ. > < Vũ 武 cũng nghĩa là Giao Chỉ. Việt 粤 cũng nghĩa là Giao Chỉ. Vậy ông Hạ Vũ là ai ? Hạ là cái ông Hời Ạ=Hời Dã=Hời Là, “Hời Ạ”=(lướt)= “Hạ”. Vũ là “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”. Ông Hạ Vũ là ông “Hời Việt cũ”. Người Hời là người Việt cũ ở Quảng Bình, địa danh Động Hời=Đồng Hới=Vùng Huế, gọi là Huế (giọng người Đồng Hới là giọng vùng sông Ròn, Ròn=Dòn=Dinh=Gianh, nghe cũng đài các như giọng Huế, khác giọng các vùng quê xung quanh). Những nhánh nhỏ người Hời như người Rục, Kháng, Mày, Nguồn,Sách ở trong rừng sâu Trường Sơn là những nhánh nhỏ lẻ người Hời thoái hóa do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy bị sống biệt lập trong rừng sâu> 《Tham khảo chữ khoa đẩu viết về Hạ Vũ ở bia thờ: Chữ Khoa Đẩu ở đầm Nhật Nguyệt: Ngày 1-9-1959 ông Hoắc Bồi Hoa trước trú ở thị trấn Vĩnh Hòa Đài Bắc cùng vài người bạn đi thăm danh thắng đầm Nhật Nguyệt, phát hiện một số mảnh đá vỡ cạnh lều cỏ. Sau khi tìm hỏi và ngả giá xong ông mua hai tấm lớn nhất đem về cất ở nhà. Khoảng 1966 có tiệm “đặc sản Đài Loan”ở đầm Nhật Nguyệt thu mua văn vật miền núi, từng có dân miền núi đem những hòn đá có khắc chữ vằn vện đến ký gửi. Lâu không thấy ai mua, họ lại đến lấy về, từ đó mất tăm luôn. Hai tảng đá mà ông Hoắc Bồi Hoa mua về có khắc chìm chữ Khoa Đẩu. Sau nhiều nghiên cứu mà cũng chưa ai giải mã được. Sau đó trong buổi nói chuyện của giáo sư Vệ Tụ Hiền giới thiệu cuốn sách của ông “Quan hệ đồng bào miền núi Đài Loan và Việt Mân” trong đó có một tiêu bản điêu khắc chữ Khoa Đẩu ở bia đá Vũ Vương trong lục địa mà chữ tương tự như chữ ở đầm Nhật Nguyệt, mà bia Vũ Vương thì đã có cách nay 4200 năm. Chữ trên bia Vũ Vương là loại chữ đặc hữu của Hoành Sơn nên người ta lấy tên đỉnh cao nhất của Hoành Sơn là Câu Lâu để gọi loại chữ này là Câu Lâu văn 》 4/ Chữ Phong 封. Từ điển giải thích: 1. Ban cấp đất đai, bổng lộc 2. Tặng danh hiệu 3. Bịt kín, gói kín Nghĩa nguyên thủy của nó theo “hội ý” là gồm hai bộ Thổ 土 viết chồng lên nhau, ý là nhiều đất (vì theo QT: hai thành phần thì như 0+1=1=nhiều, hay 1+0=1 nhiều), bộ Thốn 寸(tấc) ý là có đo đạc, Hán ngữ phát âm tương ứng “thủ 土”, “xun寸” làm sao thành “phâng 封” như họ phát âm được?. Vậy âm “Phong封” là do tiếng Kinh, có nghĩa là Vùng, tiếng Choang thì “Phong 封” cũng có nghĩa là Vùng (xem mạng zhuangzu zai xian 壮 族 在 线), người Hán về sau mượn chữ đó và phát âm lơ lớ là “phâng”. Vì theo QT: “Phát cho nhiều đất trong cái Vòng”=(lướt)= “Phong” (giải thích xong 1 và 2 của Từ điển), vòng đây là cái vòng biên giới, và phải có đo đạc từng tấc đất (bộ Thốn寸). “Phải ở bên Trong”=(lướt)= “Phong”, nghĩa là bịt kín, như phong bánh khảo (giải thích xong 3 của Từ điển). Tuy nhiên Từ điển thì cho rằng cứ từ nào có viết băng chữ nho thì đó là “từ Hán Việt”. < Từ chữ Phong 封 này thử hỏi Vua Chu xưa từng phong đất cho những thần tướng có công, để mở mang mãi ra phía bắc thành Bách Việt, ông Vua Chu ấy là người ở đâu ? Chưa kể những cấp bậc của cái chức được phong đều có tên bằng tiếng Việt là Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男, mà Hán thư về sau dùng chữ nho để ký âm (kiểu “giả tá”), nghĩa chữ không logic tí nào, chỉ có cái âm là còn na ná tiếng Kinh: Công=Rộng (“công chúng” tức quần chúng rộng rải) là cấp chức được phong đất rộng nhất. Hầu=Hai, Bá=Ba, Tử=Tư, Nam= Năm. (Nghĩa của chữ nho mà Hán thư dùng ký âm không logic với nghĩa của âm tiếng Việt: Công 公 là ông, Hầu 侯 là đợi, Bá 伯 là bác, Tử 子là con, Nam 男 là trai (theo nghĩa chữ). Có thứ tự nào lại là “Ông, Đợi, Bác, Con, Trai” như vậy không?. Các nước Chư Hầu 諸 侯 đều là những nước thứ Hai (Thứ Hai=Chư Hầu) hình thành nên xung quanh vùng đất của Ông Chúa (Chu 周 Công 公, ở Việt Nam đền thờ Chu Công 周 公 có ở nhiều nơi), Vùng Chúa từng gọi là Phong Chậu=Phong 封 Châu 州 (Chậu=Chúa=Chủ=Chu 周=Châu 珠,州. Đồng bằng Châu Giang 珠 江 ở Quảng Tây 廣 西 và đồng bằng Chu Giang 周 江 ở Quảng Đông 廣 東cổ xưa là địa bàn của người Giao Chỉ, sau Hán thư gọi là xứ Lưỡng Việt 两 粤, ngôn ngữ của dân bản địa ở đó gọi là Việt ngữ 粵 語, đến thời Tần, Hán thì bắt đầu bị Hán hóa) >. 5,, 6, 7, 8/ Chữ Sơn 山 (từ điển giải thích là Núi), chữ Đồng 同 (từ điển giải thích là Cùng Như nhau), chữ Nhục 肉( từ điển giải thích là Thịt), chữ Bằng 朋 (từ điển giải thích là Bằng Hữu 朋 友 là Bạn) .Tôi giải thích nguồn gốc Việt của các chữ này qua bài viết “Bài sử vỡ lòng ngoại khóa” : Kỳ thi tuyển vào đại học, điểm sử không đạt yêu cầu, nhiều thí sinh vì không thích sử nên bỏ bài, thà lãnh điểm 0, tin vào điểm các môn khác sẽ gánh bù. Nếu học sử Việt 5000 năm văn hiến chắc học sinh sẽ không chán môn sử. Hãy nghe bài sử (kể chuyện) ngoại khóa cho học sinh cấp một trường làng: Các dân tộc trên đất nước Việt Nam gọi chung là người Việt, là con từ trăm trứng của Cha Rồng Mẹ Tiên. Hàng vạn năm trước người Việt viết chữ bằng Kẻ những vạch thẳng, như các con chơi bó Que đánh chắt, cũng có lúc lấy que xếp thành hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình ông sao v.v. Đếm thì từ 1 đến 10. Phép tính cộng thì 0+1=1 hay 1+0=1, thành 1 thì là Nhiều hơn 0, hay 1+1=2, có 2 cũng đã là Nhiều. Có từ 2 trở lên là càng nhiều. Có nhiều người cùng nhau thì như một bó đũa, khó mà bẻ gãy được. Như một cái Bè kết bằng nhiều cây nứa, càng nổi hơn, chở được nhiều hơn. Nên mới có câu ca dao : “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Một cây nứa thì cũng thẳng như một cái Que. Người xưa viết bằng một Kẻ đứng, thêm hai Kẻ đứng hai bên nữa thành ba, giống hình ngọn núi rồi, nhưng chưa vững vì chưa có đế. Thêm một nét kẻ ngang bên dười nữa như mặt đất bằng, thế là có đế rồi, vững rồi, đó là chữ Núi 山 Núi=Non=Son=San=Sơn. Núi có nhiều thứ quí tặng cho con người, gọi là “San sẻ cho Con”=(lướt)=Son. Nhiều thứ quặng quí trong núi như đá đỏ, rồi nhiều thứ đất có màu nâu , đỏ, vàng, tím v.v.người ta lấy về nghiền làm màu ve, màu sơn, gọi là Son, như thỏi son cũng làm thành hình nhọn như trái núi, có thỏi son màu đỏ, có thỏi màu hồng, màu nâu, màu thâm v.v. Vậy là Núi luôn làm ơn cho người, gọi là San tức san sẻ. “Sẻ Ơn”=(lướt)=Sơn. Năm chữ Núi=Non=Son=San=Sơn, xưa chỉ viết bằng một chữ Sơn山. Có hai cái cộng với nhau mới sinh ra nhiều. Người cũng vậy, có hai là cha và mẹ mới sinh ra được người. Người Việt lấy hai Kẻ thẳng xếp lại thành chữ Người人, đó là chữ Nhân人, vì Người=Ngài=Ngôi (cũng như là một ngôi sao)=Nối=Dõi=Dân=Nhân. Có hai thì thành nhiều nên Người Dân là nhiều người, Nhân Dân là nhiều người, Nối Dõi là nhiều người của nhiều đời. Thiên nhiên rất rộng rãi với con người, cho con người nhiều thứ cần thiết, người Việt gọi đó là trời Ban cho (Ban là cho không, nếu có dấu sắc thì thành Bán, và Sắc=Mắc, tức là còn Bán Mắc nữa). Người Việt đi tìm chỗ đất bằng phẳng để trồng lúa. Chỗ đất bằng phẳng thuận lợi cho trồng trọt đó là trời Ban cho. Nên người Việt lấy tên Ban đặt cho loài hoa trắng muốt nở đẹp nhất rừng là hoa Ban. Nơi đất bằng người Việt xúm lại ở để làm ruộng gọi là Xóm Bản. Mọi người trong Bản thân thiết nhau như Bạn, gắn bó nhau như nứa cùng Bè nên gọi là Bạn Bè. Đã là Bạn Bè thì kết nhau thành một Băng, cả làng cả nước gắn bó nhau thành một Bang. Mỗi khi có việc làm ăn hay gặp thiên tai thì dân Bản đem việc ra Bàn. Bàn kỹ cho mọi nhẽ trắng ra, phẳng ra, không còn vướng gợn gì nữa, gọi là Bàn Bạc. Bạc là màu trắng sạch sẽ của vôi, “bạc như vôi”. Kim loại quí nhất có Vàng là màu vàng, Bạc là màu bạc, dùng để làm đồ trang sức và làm đồng tiền. Người Việt hay đeo vòng Bạc từ nhỏ đến già để tránh gió. Bàn Bạc là để cho phẳng mọi việc nên cái để ngồi viết, ngồi uống nước chè và Bàn Bạc gọi là cái Bàn, cái ghế dài để cho cả Bang ngồi hai bên cái bàn gọi là ghế Băng, chữ Bàn thêm “g” của ghế thì thành Băng. Mọi việc Bàn Bạc phăng phăng cho phẳng rồi thì ai cũng gật đầu. Thêm “g”của gật đầu vào chữ Bàn của Bàn Bạc thì được chữ Bằng là Bằng lòng. Ai cũng bằng lòng như mình thì có “Bằng lòng như Mình”=(lướt)=Bình. Ai cũng lòng Đồng bụng Bằng như mình cả rồi thì “Đồng Bằng”=(lướt)=Đẳng. Thế là có từ Bình Đẳng, là ai ai trong Bang cũng có quyền như nhau. Ai ai cũng Bình Đẳng. <Ban=Bản=Bạn=Bè=Bàn=Bình=Bang=Băng=Đẳng > Có đất bằng để dựng Bản, có đất bằng để làm ruộng, đời sống no ấm, Tết đến người Việt vui chơi. Người Việt lấy Đồng làm ra nhạc cụ gõ gọi là Cồng. Gọi là Cồng vì phải “Cặm cụi gò Đồng”=(lướt)=Cồng. Gõ Cồng là để mời Ông trời, Ông trăng về dự lễ hội nên người Việt coi Cồng là vật linh thiêng của chung như Trời, gọi là “Của Ông”=(lướt)=Công, Công thành từ chỉ của chung. Cồng ấy nặng tình nặng nghĩa nên thay dấu nặng thành Cộng, nên có từ Công Cộng cũng là của chung. Còn nếu Cồng để đem biếu thì thay dấu sắc của biếu thành Cống, Cống tức là biếu cho < Ban là cho không, Biếu là “Ban để tỏ lòng Hiếu”=(lướt)=Biếu, người lớn tuổi cho người nhỏ tuổi gọi là Ban, người nhỏ tuổi cho người lớn tuổi gọi là Biếu) >.Hễ gõ Cồng là dân bản đều “Đến coi Cồng”=(lướt)=Đông. Đông người thì chỗ ấy nặng nên có Đông nặng Động, là chỗ ấy rất sôi động. Mọi người đụng tay nhau múa hát, đụng Cồng cho nó vang, “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng, “Cồng Đụng”=(lướt)=Cùng, “Đụng Cồng Rung” = (lướt)=Đùng là tiếng vang to , nên hay nói là to đùng. Về sau người Việt còn giỏi hơn biết gò là biết đúc để làm ra nhạc cụ treo để gõ, cũng là của chung nên gọi là cái Chung, nó treo úp xuống Vuông = xuống Ruộng, tức xuống đất, nên “ Chung úp xuống Vuông”=(lướt)=Chuông. Rồi lại làm cái giống Cồng nhưng có núm nhỏ ở giữa như cái chuông con, nhưng gõ thì treo nghiêng chứ không treo úp như chuông, gọi là cái “Chuông Nghiêng”= (lướt)=Chiêng. Cồng Chiêng thành một bộ nhạc cụ tuyệt vời của người Việt. Người Việt sống trong Bản Làng, cùng làm, cùng chơi, gọi là Cùng Chung. Điệu múa Quay Chung quanh đống lửa được người Việt dùng các Kẻ thẳng viết thành “Quay Chung”=(lướt)=Cung, nghĩa của chữ Cung là “Xòe Ra”=(lướt)=Xa. Bên trong có một Kẻ ngang bên trên như đường chân trời, ý rằng đó là Trời tức ngọn Lửa; bên dưới có bốn Kẻ thẳng xếp thành hình vuông như cái bánh chưng, ý rằng đó là Đất. Điệu múa Xòe ấy mọi người cùng đụng tay nhau vừa quay tròn vừa hát vừa Đụng Cồng cho vang thành “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng 同, “Cồng Đụng”=Cùng, đó là chữ Đồng 同. <Đồng=Cồng=Công=Cống=Cộng=Cùng=Chung=Chuông=Chiêng=Chiềng=Chạ=Chợ > Là con từ bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người Việt sống thân thiết với nhau như ruột thịt. Khi còn trong bụng mẹ đó là cái Thai, Thai là Thịt, Thịt ấy lớn dần có hình dáng gọi là Thể, rồi thành hẳn Thân, lớn được trong bụng mẹ nhờ ruột nó nối liền với ruột của mẹ để lấy thức ăn, cái cuống “Ruột nối với Nhau”=(lướt)=Rau=Nhau, nên cái Thân đang trong bụng mẹ gọi là “Thân Ruột”=(lướt)=Thuộc. Ta có từ Thân Thuộc là Cùng Bọc=Đồng Bào. Thịt là Thuộc ấy trong bụng mẹ nó mềm, ấn vào thì nó Thụt, nên gọi là Thục. (Đất đã cày sâu bừa kỹ cho nhuyễn để gieo mạ gọi là đất thục). Cái cuống Rau=Nhau, “Nhau Thục”=(lướt)=Nhục, nó cũng là Thịt, nhưng là Thịt của Thai đang trong bụng mẹ, tức cái cuống Nhau ấy là cuống chung của cả hai mẹ con đang dính nhau, “Cuống Chung”=(lướt)=Cung. Nên người Việt viết chữ Nhục 肉 bằng chữ Cung bên trong có hai chữ nhân tức là của hai mẹ con cùng chung nhau, một chữ Nhân thò cả ra ngoài đó là mẹ, một chữ Nhân ở hẳn bên trong đó là con thai. Người Việt dùng chữ Nhục 肉 này để chỉ cái Rau thai, phát âm là Rau=Nhau=Nhục. Người Hán mượn chữ Rau 肉 này, phát âm là “râu” và dùng để chỉ Thịt. Khi Thai đã ra đời thì dù là anh hay chị hay em thì cũng cùng với các trẻ khác là bà con trong Bản Làng đều là Bạn Bè , vì cùng là đồng bào. Người Việt lấy hai chữ Nhục 肉肉 ghép lại với nhau thành chữ Bạn Bè, ý nói gắn kết nhau như cuống Rau nối hai mẹ con, Bạn Bè thì luôn Bằng lòng với nhau, nên sau viết đẹp lại thành chữ Bằng 朋. Những chữ viết bằng các Kẻ thẳng người Việt viết xếp trong một ô vuông cho đẹp, gọi là Vuông Chữ Nho Nhỏ. Người Việt lại hay nói vo, nên dần dần vo rụng “Vuông” ở đầu và “Nhỏ” đuôi thành còn hai chữ giữa là “Chữ Nho”, nên thứ chữ vuông ấy gọi là Chữ Nho. Đây là việc cách nay 5000 năm. Lúc đó người Hán còn du mục lang thang trên đồng cỏ. Họ chưa có chữ viết. Gặp gỡ người Việt, thấy người Việt làm ruộng, làm ra vải vóc và nhiều đồ trang sức đẹp , lại có chữ nho cũng đẹp, nên họ xin kết bạn, họ mượn chữ nho của người Việt để dùng. Sống chụng với người Việt họ hiểu rằng Bạn Bè thì phải hữu nghị với nhau. Nên về sau họ ghép thêm chữ Hữu 友 vào sau chữ Bằng 朋, và họ gọi Bạn Bè là Bằng Hữu 朋 友. Nếu có người Việt nào nói với các con rằng, những chữ Sơn 山, Nhân 人, Dân 民, Đồng 同 , Công 公 , Cộng 共 , Cống 贡 , Chung 鐘, Thể 體 , Thân 身, Thục 屬, Nhục 肉, Bàn 盤, Bằng 朋, Bình 平, Đẳng 等 v.v. là từ Hán Việt thì đừng có tin. Những người ấy chẳng qua là đã quên mất gốc Việt. 9/ Chữ Thể 體 (từ điển giải thích là toàn bộ con người). Chữ này ghép “hội ý” bằng chữ Cốt 骨(Hán ngữ phát âm là “củ”) và chữ Phong 豐 (Hán ngữ phát âm là “phâng”). Chữ Cốt骨nghĩa là Xương, nó rõ ràng cả âm cả ý đều là của tiếng Việt, vì Xương=Cương=Cứng=Cột=Cốt, “Cái cọc Một”=(lướt)= “Cột”, “Cứng làm Cột”=(lướt)= “Cốt” cũng như “Cột Lót”= (lướt)= “Cốt”, Cột bằng Sắt (tức Cột dấu nặng đổi dấu Sắc, Sắt=Sắc nên mới dùng nó để rèn dao) thì nó cũng làm cái Cốt. Chữ Phong 豐 cũng hoàn toàn là cái âm nói ra cái ý là của tiếng Việt, “Phải bọc cái bên Trong”=(lướt)=Phong. Chữ Thể 體biểu ý từ cái âm Việt là: phải bọc cái xương bên trong, thì đó là chức năng củaThịt (người Việt gọi con thú săn được là Con Thịt, gọi con người không có trí tuệ là Bị Thịt), thịt của Kẻ (Kẻ tức con người) thì “Thịt của Kẻ”=(lướt)= “Thể”. Chữ Thể là một chữ cả âm cả ý là của tiếng Việt. Người Hán mượn chữ Thể 體 này của người Việt, phát âm bắt chước lơ lớ là “thỉ”, chứ bản thân âm “ củ” và âm “phâng” của họ không thể cho ra âm “thỉ” được, còn nếu họ dựa theo biểu ý của chữ càng sai tợn, vì ở đây dùng chữ Cốt là xương và chữ Phong là phong phú tức nhiều, ghép lại thành ý xương nhiều thì làm sao ra ý là “toàn bộ con người” như Thể biểu ý được?con người thì phải có cả phần xương cả phần thịt. Chỉ có dựa vào âm của tiếng Việt thì mới đúng là Thể được. Vậy chữ ấy là chữ của người Kinh. Chữ giản thể của Hán ngữ viết Thể 体 gồm Nhân 亻 (phát âm là “rấn”) và Bổn 本 (phát âm là “pẩn”) cũng không thể cho ra âm “thỉ” được. Chữ Phong 豐 để ghép tạo nên chữ Thể ở đây là chữ “Phần thịt bọc cái xương bên Trong”=(lướt)= “Phong” < nó khác với chữ “Phong đất” là “Phát cho nhiều đất trong một Vòng”=(lướt)= “Phong 封”. Hai chữ Phong 豐và Phong 封đồng âm dị nghĩa nhưng viết thì chữ nho viết khác nhau >. Chữ Phong 豐 là “Phần thịt bọc phần xương bên Trong”, nó mang nghĩa là Phong Phú vì phần thịt là nhiều thứ gồm cơ bắp, lục phủ, ngũ tạng . Chữ Phú nghĩa là giàu vì nó cũng là do trong cùng một nôi khái niệm từ chữ Ổ mà ra. Ổ là cái đầu tiên chứa đựng tất cả, đương nhiên là phong phú (kể cả cái Ổ là vũ trụ hay cái Ổ là Chỗ Ở của động vật hay con người), đối với động vật hay đối với con người thì đều là cứ về đến Ổ là đỏ nhất, là may mắn nhất: Ổ=Ở=Ư 於 =Nư=No=Đỏ=Đủ=Phú 富 =Dụ 裕 =Dư 余 =Giàu, chỉ có vài chữ là được viết bằng chữ nho. > 10/ Chữ Bình 平 (Từ điển giải thích là bằng, ngang, thường, vừa phải, yên ổn). Chữ Bình này là “Bằng với Mình”=(lướt)= “Bình”. Người Việt trồng lúa nước nên sau khi cày sâu bừa kỹ rồi còn phải trang đất cho nó bằng như mặt nước, cho nó “Bằng như ý Mình”=(lướt)= “Bình”, nên đã cách điệu hóa năm nét Kẻ của Quẻ Khảm nghĩa là nước thành năm nét tạo nên chữ Bình 平, nếu công nhận quẻ Khảm là của tiếng Việt thì chữ Bình 平 này cũng là của tiếng Việt mà thôi. 11/ Chữ Đẳng 等 (từ điển giải thích là “số lượng, trình độ tương đương, ngang bằng nhau). Chữ này của người Việt, do “Đồng Bằng”=(lướt)=Đẳng. Đồng=Cồng=Cùng=Bụng=Bằng (chức năng của “bụng” thì ở ai cũng như nhau, nên có câu thành ngữ “suy bụng ta ra bụng người”). Đồng và Bằng là đồng nghĩa nhau nên có từ đôi Đồng Bằng. Hai người Đồng nhau, hay Bằng nhau, hay Đồng Bằng nhau tức Cùng Đẳng nhau. Người Việt đã viết chữ Đẳng là một chữ biểu ý gồm chữ Trúc 竹 <“Tre giống ngắn Khúc”=(lướt)= “Trúc” > và chữ Tự 寺 là cái chùa, ý là lên chùa thì ai cũng bình đẳng như nhau. Âm “đẳng” trong tiếng Việt còn có nghĩa là “lâu dài từ xa xưa”. (Như cây tre và mái chùa là gắn bó với người Việt từ xa xưa. Thủa xa xưa con người sinh ra đều là có quyền bình đẳng như nhau). < Đẳng 等 =Đằng-Đẵng=Đợi=Đãi 待 =Đời=Đại 代 =Dài=Dằng-Dặc=Lắc=Lâu=Lão 老 =Luôn=Lâu-Lắc=Luôn-Luôn, chỉ có vài chữ được viết bằng chữ nho >
-
Chữ Vũ 武 Lang thang trên mạng đọc được bài: 发表时间: 2011-07-08 17:11:31 [ 发短信 ] [ 回复 ] [ 树状 ] 据7月2日出版的《环球时报》. Nội dung: Hoàn cầu thời báo 08-07-2011: Bắc Kinh còn đợi đến lúc nào lau sáng gươm, Trung Quốc phải thông qua một cuộc chiến tranh để thu hồi Biển đông. Gần đây Việt Nam , philiplin liên tục khiêu chiến ở Biển Đông, nước Mỹ cũng nhào vào quạt gió châm lửa thừa cơ để cướp, thế cục nóng lên cấp tốc. Trước tình cảnh này Trung Quốc không thể khoanh tay, phải tuốt kiếm ra với Biển Đông, có biện pháp ứng đối hữu hiệu thực tế. Từ lâu nay TQ một mực thi hành chính sách ngoại giao hòa bình, nhưng lại bị hòa bình trói tay, biến thành khất cầu hòa bình hoặc một mình tình nguyện hy vọng các nước thi hành hòa bình, đây quả là hành mà không thông. Ví dụ TQ trường kỳ khất cầu hòa bình từ Nhật, thậm chí bỏ qua cả đòi bồi thường chiến tranh, nhưng Nhật lại không hề cảm ơn mà lại còn tăng cường hành động xâm chiếm đảo Điếu Ngư của TQ. Vấn đề Biển Đông là thế này, TQ hy vọng tất cả các nước “gác lại tranh chấp, cùng chung khai thác”, nhưng lại quên béng nguyên tắc (đầu tiên) là “chủ quyền thuộc tôi”( phương châm của Đặng Tiểu Bình). Đưa mắt mà nhìn Việt Nam. Philiplin và các nước đang rút ruột biết bao nhiêu là dầu và khí đốt từ Biển Đông, thật không thể nhịn được! Mặt khác, một số truyền thông của TQ thì lại mù quáng lạc quan, luôn luôn tuyên truyền “ quốc lực tổng hợp của nước ta không ngừng tăng lên”, trong khi đó những sự kiện tàn khốc như tàu chiến TQ và Mỹ đụng độ nhau,đại sứ quán TQ bị đánh bom… không ngừng xảy ra, đến những nước nhỏ như Việt Nam, Philipin cũng khinh thị hạ nhục TQ, vỗ tay ghẹo kẻ đang khất cầu hòa bình là TQ, thật không thể nhịn được nữa ! Biển Đông vốn là lãnh hải của TQ , căn bản không thể tồn tại cái gì gọi là “cùng chung khai thác”, nếu cho phép các nước khác “cùng chung khai thác” thì trước hết họ phải thừa nhận Biển Đông là lãnh hải của TQ. Gần đây TQ coi trọng phát triển kinh tế, một mực cầu ổn, coi nhẹ việc uy hiếp bằng sức mạnh quân sự, đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho vấn đề Biển Đông càng ngày càng nâng cấp. Chúng ta phải nhớ lại bài học thời nhà Tống, thực lực kinh tế nhà Tống khi ấy là nhất thế giới, lực lượng khoa học kỹ thuật khi ấy cũng là không nước nào bì nổi ! Nhưng nhà Tống lại bị đánh đầu tiên, bị nhà Liêu và nhà Kim đánh cho chỉ còn cuốn giá mà về, nguyên nhân chỉ vì chính trị nhu nhược, không trọng thị bồi dưỡng thực lực quân sự vốn đã có. Bởi vậy ngày nay TQ ngoài việc phải ưu tiên quân lực, còn phải dám tuốt kiếm phát động một cuộc chiến tranh tất yếu. Trung Quốc phải biết rõ, đơn phương khất cầu hòa bình, đơn phương tầm cầu hữu nghị chính là bộ mặt bán nước ! Hòa bình không nhất định là cứ phải dùng thủ đoạn đàm phán hòa bình mà giành được, có lúc ngược lại cần phải mượn vũ lực để mà giành lấy hòa bình. Ví dụ: Chữ Hán của TQ có chữ Vũ 武 là do hai chữ Chỉ 止(dừng) và Qua 戈(cái dáo) cấu thành, biểu thị chỉ có dựa vào vũ lực mới có thể cuối cùng đình chỉ được chiến tranh, giành được hòa bình. Đây chính là chỗ kỳ diệu của văn tự TQ, đặc biệt là của văn hóa TQ. Vậy mà ngày nay chúng ta cứ một mực khất cầu hòa bình, quên mất giáo huấn của tổ tiên là vũ lực cuối cùng giành được hòa bình. Cùng với sự phát triển kinh tế của TQ, một bộ phận người TQ sống trong say sưa chết trong mộng mị, đắm chìm trong mê ảo vật dục ! Trung Quốc cũng cần phải có một cuộc chiến tranh để thức tỉnh huyết tính của quốc dân ! Nhân dân TQ là ôn lương cống kiệm mà thiện lương, nhưng thiện lương lại thường bị lợi dụng, cho nên người TQ cũng cần thiết chiến tranh để dụi cho sáng mắt, bỏ cái ảo tưởng thiện lương với các quốc gia khác, bởi vì đã là một quốc gia thì chẳng có mấy ai là thiện lương cả. Trung Quốc cần phải thông qua một cuộc chiến tranh để giành về cái chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông, cho dù Mỹ có nhúng tay vào cũng không tiếc, chỉ cần có đại tinh thần không sợ, Trung Quốc mới có thể duy trì và bảo vệ chủ quyền, sau kết thúc chiến tranh TQ còn phải nên đòi Việt Nam, Philipin bồi thường vô điều kiện tổn thất kinh tế cho TQ, vì họ đã khai thác và bán đi lượng lớn đầu và khí thiên nhiên của Biển Đông của TQ, phải theo giá mà chiết toán, bồi thường không thiếu một giọt. Tôi đọc bài này mà mắc cười cho bọn nhóm lợi ích có đầu óc đại Hán hung hăng, bọn diều hâu khát dầu điên cuồng thành ra khát máu. Người viết bài ấy lại không hiểu chữ Vũ đến ngọn nguồn. Giải thích chữ Vũ 武 Chữ nho một chữ Vũ 武 này nhưng trong tiếng Việt thì Vũ và Võ là hai chữ khác nhau. Chữ Vũ 武 theo cuốn “Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng”- Viện ngôn ngũ học-NXB Khoa học xã hội-Hà Nội 1991 giải thích là: 1. Sức mạnh làm cho người khác phải nể sợ (vũ thuật, vũ lực, uy vũ) 2. Thuộc về quân sự (vũ khí, vũ trang) 3. Dũng mạnh (vũ phu) Những nghĩa trên chỉ là những nghĩa mà về sau được Hán ngữ dùng, khi nó đã thành từ hàn lâm rồi. Chữ Vũ 武, người Hán phát âm là “vủ” (wu), người Việt phát âm là “ Vũ”. Nghĩa nguyên thủy của nó là trong biểu ý của nó, vì nó là chữ cấu thành kiểu “hội ý”. Cấu tạo của nó gồm chữ Chỉ 止( dừng) và chữ Qua 戈 (dáo), phát âm tương ứng của người Hán là “trử”(zhi) và “cưa” (ge), phát âm tương ứng của người Việt là “Chỉ” và “Qua”, không hề có một chữ biểu âm nào (để có cách phát âm) thêm vào trong cấu tạo của nó, thế mà nó lại được đọc là Vũ. “Trử” với “Cưa” thì lấy đâu ra âm “Vủ”? Nhưng “Chỉ” và “Qua” thì có cho thấy ý. Âm “Chỉ” là do Giao Chỉ, âm “Qua” là cái Dáo bằng đồng là cái dáo kim loại đầu tiên trong lịch sử. Âm “Vũ” là do “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”. Nguyên thủy chữ Vũ 武 này nghĩa là Giao Chỉ. Vì theo QT: Đứng=Đình=Đừng=Dừng=Giao=Giữa=Chứa=Chợ=Chỗ=Chỉ Dáo=Trao=Giao=Chào=Choa=Qua < “chúng ta”=(lướt)=” “choa” > Hai chữ ấy ghép lại với nhau là cảnh sinh hoạt ở chợ của người Giao Chỉ trao đổi khí cụ bằng đồng với kẻ thập phương đến đất Giữa. Nghĩa nguyên thủy của nó theo phát âm tiếng Kinh là “ Chợ bán dáo” (thời đồ đồng), các nhà nho gọi nó là chợ “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”, về sau mới có từ Vũ Khí là chỉ cái khí cụ của người Việt cũ, rồi sau mới thành từ hàn lâm là “vũ khí”, “vũ trang”. Cái dáo bằng đồng ấy không phải là dùng để đâm nhau, nó chỉ là đồ trang sức cho trai tráng, người ta biểu diễn, chào nhau, trao nhau, đều coi nhau là chúng ta. Chợ là chỗ đứng, chỗ dừng, chỗ chứa của mọi người, là chỗ người ta đừng nghĩ gì khác ngoài trao đổi và vui chơi với nhau. Chợ là Chơi nên có Hội, trai tráng thi thố kỹ năng thể lực, gọi là “Việt Đọ”= "Vật Đọ”=(lướt)=Võ, trai ra Đọ gọi là Đô. Những chữ nho kiểu “hội ý” đều như vậy cả, không có biểu âm mà lại đọc được thành một âm chẳng liên quan gì đến âm của các chữ cấu thành nó, âm ấy lại chỉ đúng là âm tiếng Kinh. Ví dụ: Chữ Việt 越 mà tôi gọi là chữ Việt 越 đi (khi người Việt 越 đò qua Trường Giang khai phá vùng Hoàng Hà). Chữ Việt 越 gồm Tẩu 走, Cổn 丨và Qua 戈, Hán ngữ phát âm tương ứng “Yue 越”, “Zou 走”, “ Gun 丨”, “Ge 戈”. “Zou” và “Gun” với “Ge” làm sao lại đọc là “Yue” hay là “Việt” được?. Nhưng trong tiếng Việt thì chữ nho ấy có nghĩa là Nhảy Qua, Nhảy Qua tức là Vượt, mà Vượt=Việt. Nó là do QT: Ù=Vù=Việt=Vượt. Cổn=Cuồn-Cuộn (sóng nước). “Vù qua sông bằng cách dùng thuyền mà Lướt”=(lướt)= “Vượt”. Chạy=Nhảy=Nhanh=Nhẩu=Tẩu 走. Chữ Việt 粤 mà tôi gọi là chữ Việt 粤 ở (dân bản địa). Chữ Việt 粤 gồm bộ Thái 采, Hán ngữ phát âm là “xai” (Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái=Cháy=Chói: là dân mặt trời), bộ Vi 囗 , Hán ngữ phát âm là “wei”, (“Vuông Li”= “Vi”), hình cái cày thêm dưới. Không có âm nào để nó thành “yue” như Hán ngữ đọc chữ Việt粤 ở. Nhưng vì là của tiếng Việt nên có QT: U=Ư 于=Ở=Vợ=Vu 于=Việt 粤 (người của dòng Mẹ = dòng Lửa = dòng Chim = dòng Tiên). Tiếp, U = Ư 于 = Ổ = Đỗ = Đậu 逗 = Đứng =Đình 停 = Đừng = Dừng = Giao 交 = =Giữ = Chứa = Chợ = Chỗ = Chỉ 止. Người Việt 粤 ở này cũng là người Giao Chỉ mà thôi. Vũ 武 cũng là Giao Chỉ. Việt 粤 cũng là Giao Chỉ. Vậy ông Hạ Vũ là ai ? Chữ Phong 封. Từ điển giải thích: 1. Ban cấp đất đai, bổng lộc 2. Tặng danh hiệu 3. Bịt kín, gói kín Nghĩa nguyên thủy của nó theo “hội ý” là gồm hai bộ Thổ 土 tức nhiều đất (vì theo QT: hai thành phần thì như 0+1=1=nhiều, hay 1+0=1 nhiều), bộ Thốn 寸(tấc) tức có đo đạc, Hán ngữ phát âm tương ứng “thủ 土”, “xun 寸” làm sao thành “phâng 封” được?. Vậy âm “Phong 封” là do tiếng Kinh, có nghĩa là Vùng, tiếng Choang thì Phong 封 cũng có nghĩa là Vùng (xem mạng zhuangzu zai xian 壮 族 在 线). Vì theo QT: “Phát cho nhiều đất trong cái Vòng”=(lướt)= “Phong” (giải thích xong 1 và 2 của Từ điển), vòng đây là cái vòng biên giới, và phải có đo đạc từng tấc đất (bộ Thốn 寸). “Phải ở bên Trong”=(lướt)= “Phong”, nghĩa là bịt kín, như phong bánh khảo (giải thích xong 3 của Từ điển). Tuy nhiên Từ điển thì cho rằng cứ chữ nào có viết băng chữ nho thì đó là “từ Hán Việt”. Từ chữ Phong 封 này thử hỏi Vua Chu từng phong đất để mở mang mãi ra phía bắc thành Bách Việt, ông Vua Chu ấy là người ở đâu ?
-
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên tri về năm 2011 Thứ Năm, 03/02/2011 - 10:21 (Dân trí) - LTS: Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha đã dành khá nhiều tâm huyết của cuộc đời mình để nghiên cứu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà tiên tri số một trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Năm 1991, ông đã làm bộ phim tài liệu "Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cây đại thụ rợp bóng 500 năm". Giải thưởng Hội hữu nghị Việt Nhật 1992. Bài viết dưới đây ghi lại những câu sấm truyền nổi tiếng của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho năm 2011. Trong lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình - nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có nhà tiên tri Nostradams (1503-1566) sinh trưởng ở thành phố Saint Re'my thuộc xứ Provence. Toàn bộ sấm ngữ của ông này đã được xuất bản tại Lyon năm 1555 dưới tên gọi Les centurtes (Những thế kỷ). Năm 1966 kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, tác phẩm này được in lại tại Nhà Xuất Bản Pierre Delpont. Trạng Trình sinh trước (1491) và mất sau (1586). Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông: "Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về". Từ đấy, Trạng Trình trở về với thời đại chúng ta thực sự. Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm nay, kỷ niệm 520 năm ngày sinh ông (1491-2011), chưa biết chúng ta sẽ làm gì, nhưng vào dịp cuối năm cũ (2010), cụ đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn của cụ, nhà ngoại cảm đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. Từ nhiều đời nay, những câu sấm tiên tri của Trạng Trình đã giúp cho bao chính khách biết việc mà xuất xử đúng đắn. Nhờ tài kiệt xuất này, ông thật xứng đáng với câu đối đã ghi ở đền thờ tại Bạch Vân Am: "Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng - Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu" (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng - Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu). Sinh thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân (thường gọi là Bùi Công) thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Bùi Công viết vào lòng tay bốn câu ngũ ngôn: "Mộc đinh niên đinh khẩu - Bát đạo nhập mộc văn - Băng tâm đại đức vũ - Thiên hạ bán rã bình" (Phương Đông Mạc lên ngôi - Định đoạt nên danh tiếng - Thì tám hướng sẽ loạn - Những người luôn trung thành - đứng lên cầm vũ khí - Chỉ nửa được thái bình). Còn Trạng Trình thì viết vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt: "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh - Can qua xứ khổ đao binh - Mã đề dương cước anh hùng tận - Thân dậu niên lai kiến thái bình" (Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh - Nạn binh đao ở khắp mọi nơi - Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết - Qua năm khỉ, năm gà sẽ thái bình). Trong lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu (1525) và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi (1527) lập ra triều Mạc. Bốn câu này khi vào tuổi già, Trạng Trình ghép vào trong bài sấm ký dài của mình thì lại được dùng để nhận định vào thời đại của chúng ta từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Ất Dậu (1945). Có người còn nghĩ rằng Bác Hồ từ câu sấm này, so đọ với tình hình Chiến tranh thế giới lần thứ Hai đã tới hồi sắp kết thúc mà quyết tâm cùng dân tộc làm nên Cách Mạng Tháng Tám 1945. Ngay từ khi còn ở Cao Bằng đầu năm Ất Dậu, Bác đã viết: "Ất Dậu ắt thành công". Vào những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc, giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng hai câu thơ: "Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân" (có bản đề là: "Khả dĩ dung thân"). Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại). Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời: "Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật thì ăn oản" (Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc). Trước khi ông mất, nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ: "Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô" (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa). Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật. Có lẽ, do Cao Bằng cũng từng là kinh đô của vua Mạc, nên khi về nước lãnh đạo dân tộc làm Cách Mạng Tháng Tám, Bác Hồ đã chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách mạng. Sau khi ông mất, những lời sấm vẫn được chứng nghiệm ở đời sau. Có giai thoại nói rằng: vào thời Tự Đức, bỗng nhiên quan quân kéo về đập phá nhà thờ Quan Trạng. Hỏi ra mới hay vì Tự Đức quá tức giận bởi câu sấm: "Gia Long tam đại-Vĩnh Lại vi vương". Lời sấm truyền này nói rằng tự Đức không phải dòng giống Gia Long mà là con của Quận Quế- Người Vĩnh Lạc (Vĩnh Bảo hôm nay). Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ - Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất "cao tay" sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: "Bát thập niên tiền khi chung vũ tả - Bát thập niên hậu khí nhập ư trung" (Tám mươi năm trước khí tốt bên trái - Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong). Những giai thoại như trên nhiều và rì rầm ở khắp nơi. Nào là giai thoại cha con thằng Khả đánh đổ bia. Nào là giai thoại thằng Trứ (Nguyễn Công Trứ) phá đền... đều là những câu sấm lẻ Trạng Trình thốt nhiên nói ra. Khi về già, Trạng Trình mới làm hẳn một bài sấm ký dài lưu truyền lại với mục đích như câu cảm đề đã ghi: "Bí truyền cho con cháu- Dành hậu thế xem chơi". Bài sấm ký nói về những biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay. Phần từ đầu đến khi Trạng Trình quy tiên thì không nhiều, chủ yếu là từ sau khi ông qua đời cho đến hôm nay. Bài sấm rất dài nhưng có đoạn gần cuối có vẻ ứng với hai năm tùng bách mộc này (2010 và 2011): "Phân phân tùng bách khởi- Nhiễu nhiễu xuất đông chinh - Bảo Giang thiên tử xuất - Bất chiến tự nhiên thành". Mọi ý sâu xa xin để người đời giải đáp, tức là vào Tết Tân Mão 2011, thiên hạ sẽ thái bình. Nguyễn Thụy Kha Bài sấm rất dài nhưng có đoạn gần cuối có vẻ ứng với hai năm tùng bách mộc này (2010 và 2011): "Phân phân tùng bách khởi- Nhiễu nhiễu xuất đông chinh - Bảo Giang thiên tử xuất - Bất chiến tự nhiên thành". Mọi ý sâu xa xin để người đời giải đáp, Một giải đáp: “Phân phân tùng bách khởi” : Nếu lấy một loài cây làm biểu trưng cho một nước thì cây Tre là biểu trưng Việt Nam, còn cây Tùng là biểu trưngTrung Quốc (tranh thủy mặc nào của TQ cũng có cây tùng). “tùng bách khởi” là ở năm mà cây Tùng ấy được 100 tuổi (1911-2011) thì nó trỗi dậy rần rần (“phân phân khởi”). Nó “nhiễu nhiễu xuất đông chinh” là nó nhiều lần quấy nhiễu đe dọa chiến chinh ở phía đông, bất kể là ở biển Đông Bắc Á , hoặc nhất là ở biển Đông Nam Á. “Bảo Giang thiên tử xuất”: Nếu lấy một con sông chảy qua thủ đô làm biểu trưng cho một nước thì Bảo Giang là Sông Báu tức Sông Giàu, cái nước là Sông Giàu nhất thế giới ấy là nước Hoa Kỳ, là “thiên tử xuất” tức là người cầm chịch cho các cuộc tranh chấp. Nhưng Bảo Giang thì chỉ có ngôn ngữ Việt mới có nói lái, Bảo Giang nói lái là Bang Giao. Cái nước có nhiều Bang nhất thế giới gọi là nước Bang, cũng đồng thời là nước giàu nhất thế giới, với lại nước Giao chỉ tức Việt Nam mà thật lòng Bang Giao với nhau như Bang-Giao thì cái biển Đông mà sử sách Trung Hoa tự cổ đến tận đời nhà Thanh vẫn viết là Giao Chỉ Dương tức biển của nước Giao Chỉ, trong đó Hoàng Sa và Trường Sa thì chỉ riêng có Việt Nam mới có đầy đủ chứng cứ lịch sử chủ quyền đúng pháp lý, sẽ “bất chiến tự nhiên thành”, tức ngoại giao pháp lý đúng luật quốc tế, vì đúng chính nghĩa là Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam , mà sẽ thành chứ không cần phải đánh ( “bất chiến tự nhiên thành”).
-
Bài sử vỡ lòng ngoại khóa Kỳ thi tuyển vào đại học, điểm sử không đạt yêu cầu, nhiều thí sinh vì không thích sử nên bỏ bài, thà lãnh điểm 0, tin vào điểm các môn khác sẽ vớt. Nếu học sử Việt 5000 năm văn hiến chắc học sinh sẽ không chán môn sử. Dưới đây là bài sử (kể chuyện) ngoại khóa cho học sinh cấp một trường làng: Các dân tộc trên đất nước Việt Nam gọi chung là người Việt, là con từ trăm trứng của Cha Rồng Mẹ Tiên. Hàng vạn năm trước người Việt viết chữ bằng Kẻ những vạch thẳng, như các con chơi bó Que đánh chắt, cũng có lúc lấy que xếp thành hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình ông sao v.v. Đếm thì từ 1 đến 10. Phép tính cộng thì 0+1=1 hay 1+0=1, thành 1 thì là Nhiều hơn 0, hay 1+1=2, có 2 cũng đã là Nhiều. Có từ 2 trở lên là càng nhiều. Có nhiều người cùng nhau thì như một bó đũa, khó mà bẻ gãy được. Như một cái Bè kết bằng nhiều cây nứa, càng nổi hơn, chở được nhiều hơn. Nên mới có câu ca dao : “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Một cây nứa thì cũng thẳng như một cái Que. Người xưa viết bằng một Kẻ đứng, thêm hai Kẻ đứng hai bên nữa thành ba, giống hình ngọn núi rồi, nhưng chưa vững vì chưa có đế. Thêm một nét kẻ ngang bên dười nữa như mặt đất bằng, thế là có đế rồi, vững rồi, đó là chữ Núi 山 Núi=Non=Son=San=Sơn. Núi có nhiều thứ quí tặng cho con người, gọi là “San sẻ cho Con”=(lướt)=Son. Nhiều thứ quặng quí trong núi như đá đỏ, rồi nhiều thứ đất có màu nâu , đỏ, vàng, tím v.v.người ta lấy về nghiền làm màu ve, màu sơn, gọi là Son, như thỏi son cũng làm thành hình nhọn như trái núi, có thỏi son màu đỏ, có thỏi màu hồng, màu nâu, màu thâm v.v. Vậy là Núi luôn làm ơn cho người, gọi là San tức san sẻ. “Sẻ Ơn”=(lướt)=Sơn. Năm chữ Núi=Non=Son=San=Sơn, xưa chỉ viết bằng một chữ Sơn 山. Có hai cái cộng với nhau mới sinh ra nhiều. Người cũng vậy, có hai là cha và mẹ mới sinh ra được người. Người Việt lấy hai Kẻ thẳng xếp lại thành chữ Người 人, đó là chữ Nhân 人, vì Người=Ngài=Ngôi (cũng như là một ngôi sao)=Nối=Dõi=Dân=Nhân. Có hai thì thành nhiều nên Người Dân là nhiều người, Nhân Dân là nhiều người, Nối Dõi là nhiều người của nhiều đời. Thiên nhiên rất rộng rãi với con người, cho con người nhiều thứ cần thiết, người Việt gọi đó là trời Ban cho (Ban là cho không, nếu có dấu sắc thì thành Bán, và Sắc=Mắc, tức là còn Bán Mắc nữa). Người Việt đi tìm chỗ đất bằng phẳng để trồng lúa. Chỗ đất bằng phẳng thuận lợi cho trồng trọt đó là trời Ban cho. Nên người Việt lấy tên Ban đặt cho loài hoa trắng muốt nở đẹp nhất rừng là hoa Ban. Nơi đất bằng người Việt xúm lại ở để làm ruộng gọi là Xóm Bản. Mọi người trong Bản thân thiết nhau như Bạn, gắn bó nhau như nứa cùng Bè nên gọi là Bạn Bè. Đã là Bạn Bè thì kết nhau thành một Băng, cả làng cả nước gắn bó nhau thành một Bang. Mỗi khi có việc làm ăn hay gặp thiên tai thì dân Bản đem việc ra Bàn. Bàn kỹ cho mọi nhẽ trắng ra, phẳng ra, không còn vướng gợn gì nữa, gọi là Bàn Bạc. Bạc là màu trắng sạch sẽ của vôi, “bạc như vôi”. Kim loại quí nhất có Vàng là màu vàng, Bạc là màu bạc, dùng để làm đồ trang sức và làm đồng tiền. Người Việt hay đeo vòng Bạc từ nhỏ đến già để tránh gió. Bàn Bạc là để cho phẳng mọi việc nên cái để ngồi viết, ngồi uống nước chè và Bàn Bạc gọi là cái Bàn, cái ghế dài để cho cả Bang ngồi hai bên cái bàn gọi là ghế Băng, chữ Bàn thêm “g” của ghế thì thành Băng. Mọi việc Bàn Bạc phăng phăng cho phẳng rồi thì ai cũng gật đầu. Thêm “g”của gật đầu vào chữ Bàn của Bàn Bạc thì được chữ Bằng là Bằng lòng. Ai cũng bằng lòng như mình thì có “Bằng lòng như Mình”=(lướt)=Bình. Ai cũng lòng Đồng bụng Bằng như mình cả rồi thì “Đồng Bằng”=(lướt)=Đẳng. Thế là có từ Bình Đẳng, là ai ai trong Bang cũng có quyền như nhau. Ai ai cũng Bình Đẳng. <Ban=Bản=Bạn=Bè=Bàn=Bình=Bang=Băng=Đẳng > Có đất bằng để dựng Bản, có đất bằng để làm ruộng, đời sống no ấm, Tết đến người Việt vui chơi. Người Việt lấy Đồng làm ra nhạc cụ gõ gọi là Cồng. Gọi là Cồng vì phải “Cặm cụi gò Đồng”=(lướt)=Cồng. Gõ Cồng là để mời Ông trời, Ông trăng về dự lễ hội nên người Việt coi Cồng là vật linh thiêng của chung như Trời, gọi là “Của Ông”=(lướt)=Công, Công thành từ chỉ của chung. Cồng ấy nặng tình nặng nghĩa nên thay dấu nặng thành Cộng, nên có từ Công Cộng cũng là của chung. Còn nếu Cồng để đem biếu thì thay dấu sắc của biếu thành Cống, Cống tức là biếu cho < Ban là cho không, Biếu là “Ban để tỏ lòng Hiếu”=(lướt)=Biếu, người lớn tuổi cho người nhỏ tuổi gọi là Ban, người nhỏ tuổi cho người lớn tuổi gọi là Biếu) >.Hễ gõ Cồng là dân bản đều “Đến coi Cồng”=(lướt)=Đông. Đông người thì chỗ ấy nặng nên có Đông nặng Động, là chỗ ấy rất sôi động. Mọi người đụng tay nhau múa hát, đụng Cồng cho nó vang, “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng, “Cồng Đụng”=(lướt)=Cùng, “Đụng Cồng Rung” = (lướt)=Đùng là tiếng vang to , nên hay nói là to đùng. Về sau người Việt còn giỏi hơn biết gò là biết đúc để làm ra nhạc cụ treo để gõ, cũng là của chung nên gọi là cái Chung, nó treo úp xuống Vuông = xuống Ruộng, tức xuống đất, nên “ Chung úp xuống Vuông”=(lướt)=Chuông. Rồi lại làm cái giống Cồng nhưng có núm nhỏ ở giữa như cái chuông con, nhưng gõ thì treo nghiêng chứ không treo úp như chuông, gọi là cái “Chuông Nghiêng”= (lướt)=Chiêng. Cồng Chiêng thành một bộ nhạc cụ tuyệt vời của người Việt. Người Việt sống trong Bản Làng, cùng làm, cùng chơi, gọi là Cùng Chung. Điệu múa Quay Chung quanh đống lửa được người Việt dùng các Kẻ thẳng viết thành “Quay Chung”=(lướt)=Cung, nghĩa của chữ Cung là “Xòe Ra”=(lướt)=Xa. Bên trong có một Kẻ ngang bên trên như đường chân trời, ý rằng đó là Trời tức ngọn Lửa; bên dưới có bốn Kẻ thẳng xếp thành hình vuông như cái bành chưng, ý rằng đó là Đất. Điệu múa Xòe ấy mọi người cùng đụng tay nhau vừa quay tròn vừa hát vừa Đụng Cồng cho vang thành “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng 同, “Cồng Đụng”=Cùng, đó là chữ Đồng 同. <Đồng=Cồng=Công=Cống=Cộng=Cùng=Chung=Chuông=Chiêng=Chiềng=Chạ=Chợ > Là con từ bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người Việt sống thân thiết với nhau như ruột thịt. Khi còn trong bụng mẹ đó là cái Thai, Thai là Thịt, Thịt ấy lớn dần có hình dáng gọi là Thể, rồi thành hẳn Thân, lớn được trong bụng mẹ nhờ ruột nó nối liền với ruột của mẹ để lấy thức ăn, cái cuống “Ruột nối với Nhau”=(lướt)=Rau=Nhau, nên cái Thân đang trong bụng mẹ gọi là “Thân Ruột”=(lướt)=Thuộc. Ta có từ Thân Thuộc là Cùng Bọc=Đồng Bào. Thịt là Thuộc ấy trong bụng mẹ nó mềm, ấn vào thì nó Thụt, nên gọi là Thục. (Đất đã cày sâu bừa kỹ cho nhuyễn để gieo mạ gọi là đất thục). Cái cuống Rau=Nhau, “Nhau Thục”=(lướt)=Nhục, nó cũng là Thịt, nhưng là Thịt của Thai đang trong bụng mẹ, tức cái cuống Nhau ấy là cuống chung của cả hai mẹ con đang dính nhau, “Cuống Chung”=(lướt)=Cung. Nên người Việt viết chữ Nhục 肉 bằng chữ Cung bên trong có hai chữ Nhân tức là của hai mẹ con cùng chung nhau. Khi đã ra đời thì dù là anh hay chị hay em thì cũng cùng với các trẻ khác là bà con trong Bản Làng đều là Bạn Bè , vì cùng là đồng bào. Người Việt lấy hai chữ Nhục 肉肉ghép lại với nhau thành chữ Bạn Bè, Bạn Bè thì Bằng lòng với nhau nên sau viết đẹp lại thành một chữ Bằng 朋. Những chữ viết bằng các Kẻ thẳng người Việt viết xếp trong một ô vuông cho đẹp, gọi là Vuông Chữ Nho Nhỏ. Người Việt lại hay nói vo, nên dần dần vo rụng Vuông đầu và Nhỏ cuối thành còn Chữ Nho, nên thứ chữ vuông ấy gọi là Chữ Nho. Đây là việc cách nay 5000 năm. Lúc đó người Hán còn du mục lang thang trên đồng cỏ. Họ chưa có chữ viết. Gặp gỡ người Việt, thấy người Việt làm ruộng, làm ra vải vóc và nhiều đồ trang sức đẹp , lại có chữ nho cũng đẹp, nên họ xin kết bạn, họ mượn chữ nho của người Việt để dùng. Sống chụng với người Việt họ hiểu rằng Bạn Bè thì phải hữu nghị với nhau. Nên về sau họ ghép thêm chữ Hữu vào sau chữ Bằng, và họ gọi Bạn Bè là Bằng Hữu. Nếu có người Việt nào nói với các con rằng, những chữ Sơn, Nhân, Dân, Đồng , Công , Cộng , Cống , Chung, Thể , Thân, Thục, Nhục, Bàn, Bằng, Bình, Đẳng v.v. là từ Hán Việt thì đừng có tin. Những người ấy chẳng qua là đã quên mất gốc Việt.
-
Sắc và Không Nghiên cứu nền văn minh cổ đại Lạc Việt, ta dùng từ “người Việt” là để nói chung đại tộc Việt. Thông thường, ta nói “người Việt” hàm ý là người Việt Nam bất kể sắc tộc bản địa nào sống trên đất nước Việt Nam (vì thực tế trong gen chỉ ra rằng thời cổ đại đều thuộc đại tộc Việt cả mà thôi, vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam có từ “đồng bào”). Nhưng về ngôn ngữ thì ngôn ngữ chung dùng cho giao tiếp cộng đồng cả nước Việt Nam, ta gọi là ngôn ngữ Việt Nam, mà đó là tiếng Kinh. Người Kinh là sắc tộc đa số ở Việt Nam. Bởi vậy “ngôn ngữ Việt Nam” hay “tiếng Kinh”, ta dùng từ thông dụng gọi là “tiếng việt”. Dùng từ “tiếng Việt” chứ không gọi lộn là “Việt 粤 ngữ 語”, vì từ “Việt 粵 ngữ 語” thì trong Hán ngữ hiện đại dùng để chỉ tiếng Quảng Đông, chữ Việt 粵 này viết bằng chữ “Việt 粵 ở”. Người dân Quảng Đông cũng gọi “tiếng Quảng Đông là “Việt粵 ngữ 語”, món ăn Quảng Đông thì gọi là “cơm Việt 粵”, nó khác với “cơm Triều Châu” hay “cơm Trung Quốc”. Vậy trong lịch sử thì danh từ “người Kinh” có trước hay danh từ “người Việt” có trước? Tôi cho rằng danh từ “người Kinh” là có trước. Trong tiếng Việt thì bất cứ cái gì có tồn tại đều gọi là Kẻ: vật, người đều là Kẻ hết vì chúng đều là có xuất hiện, tồn tại và kết thúc. Theo QT Lướt thì “Có Đẻ”=Kẻ, nó là cái có xuất hiện thành một cuộc đời. Nhưng cái Kẻ chỉ bản thân thì lại là “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”, đó là cách người Kinh tự xưng. Dân tộc nào trên thế giới cũng lấy danh từ tự xưng để chỉ tộc người của mình. Như đã giải thích theo QT: Kẻ=Thẻ=Thể=Thịt=Thân=Thần=Mẫn=Minh=Mình (theo nghĩa mà dịch tương ứng sang Hán ngữ thì có phiên âm: Zi, Pian, Ti, Rou, Shen, Min, Ming, Min. Chúng không thể tạo được QT để có thể nối với nhau bằng dấu =, thể hiện là cùng một nôi khái niệm), lại liên tục từ vô tri như Thẻ hay Thể đến có Thịt rồi có Thần (thần kinh) để có Minh tức là có hồn để thành Mình. Vậy danh từ “người Kinh” là một danh từ đáng tự hào vì nó nghĩa đen là kẻ có hồn tức có tư duy, là người, khác với loài vật. (Vậy mà người ta cứ khăng khăng là trong nôi khái niệm trên, những chữ có viết bằng chữ nho như: Thể 體, Thân 身, Thần 神, Mẫn 敏, Minh 冥 ấy là “từ Hán-Việt”. Chữ Mình không có viết bằng chữ nho, ở trên do tôi phiên âm là Min mà thôi. Khi đã thành danh từ “Kinh” thì gọi phân biệt với các Kẻ khác (tức các sắc tộc khác) là Kẻ Kinh (mà người Tày, người Thái gọi Kẻ Kinh là Cần Keo). Người Kinh lấy vỏ cây Lanh làm sợi dệt ra vải, vỏ ấy phải là vỏ Già=vỏ Dày gọi là Vỏ Cái. “Vỏ Cái”=(lướt)=Vải, có Vải mới có Váy, có Váy mới có Vận=Quấn, cái “Mình Quấn”=(lướt)= “Mấn” ( đó là “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”), cái “Mình Quấn” ấy chữ nho viết là chữ Quần 裙, người Hán phát âm là “xuýn” để chỉ cái Váy. Còn đàn ông thì vận cái “Không cho Lộ”=(lướt)= “Khố”, chữ nho viết là chữ Khố 裤, người Hán dùng chữ ấy, phát âm là “khu”, lại để chỉ cái quần hai ống, vì họ là dân du mục, ngồi lưng ngựa, không mặc váy. Đàn bà người Kinh mặc Váy và Yếm. Sau đến thời kim loại đồ đồng mới làm ra kim để may thì Yếm=Y 衣 =Aó袄 =Bào 袍, yếm thành ra có ống tay để xỏ, nên “Xỏ Yếm”=(lướt)= “Xiêm”, mới có từ đôi là Xiêm Y, Áo Bào. Y phục ngày càng phong phú, nhưng tất cả các thứ đó đều từ cái Yếm của đàn bà người Kinh mà ra cả (Hán ngữ hiện đại không dùng từ Áo 袄, cho rằng đó là “tiếng Hán cổ”, mà dùng từ “thượng y 上 衣” để chỉ cái áo). Cây lấy vỏ làm sợi gọi là cây Kinh 荆 hay cây Sở 楚 (Sợi=Sở), chữ nho viết cây Kinh 荆ấy là chữ Kinh荆 , cũng để chỉ người Kinh 荆 < chữ hoàn toàn là “hội ý” gồm bộ thảo 艹 là cây cỏ+ bộ đao 刂 là dùng dao+ bộ khai 开 là bóc vỏ, chẳng có âm “inh” nào, vẫn đọc là “kinh”, vậy âm gốc của nó phải là “Cây Lanh”=(lướt)= “Canh”= “Kinh”, dùng để chỉ người Kinh thì từ đôi Canh Kinh=Cần Keo mà người Tày và người Thái vẫn gọi >, danh từ người Kinh còn gọi là người Kinh荆 Sở楚 hay người Kinh荆 Man蠻, nước Kinh荊 Sở楚 hay gọi tắt là nước Sở 楚. Về sau không biết từ bao giờ chữ Kinh 荊 chỉ người Kinh 荊 được thay bằng chữ Kinh 京, chỉ là mượn chữ để phiên âm vì trùng âm “kinh” mà thôi. Thời còn là người Kinh ấy, cả vạn năm sau mới thành gọi là người Việt, công cụ để người Kinh tạo ký tự, sau thời dùng thắt nút thừng, là công cụ Cứng để Kẻ nên mới có ký tự là kẻ vạch như biểu tượng bát quái đã thấy, Kẻ=Que=Thẻ=Quẻ=Quái, mà mỗi tên trong bát quái đều là tên phát âm bằng tiếng Kinh, đúng nghĩa mà nó biểu trưng < Ví dụ quẻ Ly là Lửa, người Hán về sau mượn chữ có âm na ná để “giả tá” là chữ Ly 离nghĩa là Lìa, Rời, chỉ được phần âm, còn phần nghĩa của chữ thì chẳng logic tí nào cả. Những chữ trong 12 con giáp cũng vậy, nó là tiếng Kinh, ví dụ Ngọ là chỉ con ngựa, người Hán mượn chữ Ngọ午 là giờ Ngọ tức giờ giữa trưa là lúc của cái giờ “Ngày Rõ”=(lướt)=Ngọ của tiếng Kinh để phiên âm từ Ngựa, chỉ được phần âm còn nghĩa thì chẳng logic gì với con ngựa của tiếng Kinh cả. Ngay cả chữ nho Ngự 御 cũng liên quan đến con ngựa của tiếng Kinh, đó là cái động tác người chủ điều khiển con “Ngựa Dữ”=(lướt)=Ngự 御, mà Hứa Thận hai ngàn năm trước trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự là “từ điển đầu tiên trong lịch sử của Trung Hoa” đã giải thích Ngự 御 là “Sử mã dã !” tức “Sửa (khiến) ngựa ạ !”. Chẳng qua người Hán về sau đã nâng chữ đó lên tính hàn lâm như trong từ “chế ngự”, “phòng ngự” mà được gọi là “từ Hán-việt”(!), phải gọi chính xác nó là từ Việt-Hán, tức nó là tố gốc Việt, phát âm như Việt (thì mới đúng như Hứa Thận dạy phát âm), được Hán ngữ sử dụng, phát âm lơ lớ là “uy” vì người Hán không phát âm được vần “ng” như người Quảng Đông nói Việt 粤 ngữ 語 vẫn phát âm được vần “ng”, ví dụ từ “ngộ” > Thời còn dùng công cụ Cứng để Kẻ ký tự, người Kinh đã tạo các hoa văn trên gốm toàn bằng các kẻ thẳng gọi là Kẻ Chỉ < “Kẻ Chỉ”=(lướt)=Kỷ >, để làm cho Hình Ra <Hình Ra=(lướt)=Hà >, đó là hoa văn mà khảo cổ học gọi là hoa văn Kỷ 幾 Hà 何 có trên đồ gốm của các di tích khảo cổ dày đặc trên đất Hoa Nam mà các nhà khoa học Trung Quốc nhận định là di tích của người Bách Việt ( chữ Kỷ Hà chỉ là chữ mượn “giả tá” để phiên âm, vì nghĩa chữ không logic với tiếng Kinh, chữ Kỷ 幾 nghĩa là “mấy?” làm sao logic được với nghĩa “Kẻ Chỉ”, chữ Hà 何 nghĩa là “thế nào?” làm sao logic được với nghĩa “Hình Ra”) , hoa văn Kỷ Hà còn tồn tại phong phú trên thổ cẩm thêu của người Mường và các sắc tộc bản địa khác ở Việt Nam. Các động từ thể hiện việc tạo tác hoa văn trên mặt gốm của tiếng Kinh là: Kẻ=Khẻ=Khứa=Khoét=Khót (nạo bên trong)=Khắc, mà chữ nho chỉ có một chữ Khắc刻. Khi phân tích cặp từ đối Đi/Ở nguyên thủy là Ù/U ta đã thấy tính đối Dương/Âm của nó, và diễn giải bằng số học nhị phân thì U=0. Nhưng chỉ cần thêm dấu Huyền cho U thì thành Ù là đối nghịch ngay. Vậy mà chữ Huyền trong tiếng Việt có nghĩa là màu Đen (“Răng đen nhưng nhức hạt huyền”,bởi vì Lửa=Lả=Tá=Tỏ=Đỏ=Đun=Hun=Hóng=Hoẻn=Huyền, nó đã từ trong Đỏ của Lửa là Dương mà sinh ra Huyền là Âm qua một quá trình dài Cháy Đẫy= Chãy để thành bồ hóng). Màu Đen theo Ngũ Hành là màu của Nước, vậy Huyền là Âm, theo số học nhị phân thì Huyền=0. Thêm vào tức là phép tính cộng, ta có: U+Huyền=0+0=1 (đúng như số học nhị phân) mà 1 lại là Ù=Dương. Cũng vậy, trong sự hình thành một người Kinh: Kẻ=Thẻ=Thể 體 =Thịt=Thân 身 =Thần 神 =Mẫn 敏 =Minh 冥 = Mình có từ đôi “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”. Nôi khái niệm dẫn từ vô tri đến có Thịt rồi có Thần rồi có Minh là hồn (cũng có từ đôi là “thần hồn” chữ không thể đảo ngược nói là “hồn thần”, như qui tắc của từ dính). Chữ Minh 冥này là cái hồn khi chưa ra cuộc đời, đang còn trong Ổ tức trong bụng mẹ, nó là hồn Âm. Chỉ cần thêm dấu Huyền thì nó thành Mình, là một hồn ở ngoài Dương, gọi là ra đời. Theo số học nhị phân Minh=0, cộng thêm Huyền=0, ta có Minh+Huyền=0+0=1, đó là Mình=1=Dương. Đưa thêm cái Huyền vào Minh冥 (là cái hồn khi chưa ra cuộcđời) thì thành Mình (là cái hồn ở ngoài đời), mà Huyền là màu đen, tức cái mà ngày nay ta gọi là “chất xám”. Vậy cái danh từ Kẻ Mình=Kinh, là người Kinh, nó đáng tự hào biết bao. Chữ Mình là nói cái hồn của người Kinh. Khi đã thành người Việt, thì gọi là Kẻ Việt. “Kẻ Việt”=(lướt)= “Kiệt”( nghĩa là xuất chúng, có từ ghép “kiệt xuất”), người Việt còn đặt chữ “Hồn Việt”=(lướt)= “Hiệt” (chữ này “hội ý” bằng chữ Hắc 黑là chất xám, với chữ Cát là tốt 吉, chẳng có biểu âm nào cả nhưng lại đọc là Hiệt, nghĩa là tài năng, tiếng thì là Hồn Việt=Hiệt), từ đôi Hiệt Kiệt là nói con người tài năng xuất chúng. Vậy mà tất cả chỉ từ một từ nghĩa là “đi” tức trạng thái hoạt động, năng động ( Ù=Vù=Việt=Kiệt=Hiệt ). Khi màu đen của bồ Hóng đã lên đến Hoẻn rồi thành Huyền là đã đen lắm rồi nhưng chưa tối đa. Đến “Huyền Đặc”=(lướt)= “Hắc” là tối đa, quá độ đó ắt thái âm sẽ biến thành dương, lúc đó nó bị đổi Tơi, Hắc biến thành Bặc, vẫn cùng Nòi vì cùng Rỡi, đó là màu Bạc (Hán ngữ dùng hai chữ nho này, phát âm Hắc黑 là “hây”, Bạc=Bạch白 là “bái”, trật với nguyên lý Âm Dương và với QT do trong phát âm). < Chỉ một việc tưởng chừng rất nhỏ là đặt tên cho cái dấu nhỏ, gạch hơi xiên trên con chữ latin thuộc cái Rỡi của Lời, gọi là dấu Huyền, đã thấy công lao của người xưa đặt ra chữ Nòng Nọc (khoa đẩu) ký âm, làm nền tảng cho việc latin hóa ký tự thành chữ Quốc Ngữ như ta dùng ngày nay, thật là ơn hết biết luôn . Bởi vậy người Việt Nam có câu “Ơn cha như núi Thái Son, Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra”.(Tôi sẽ giải thích câu này sau, bởi có người nói câu “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” là có xuất xứ từ bênTàu) > Từ đối nguyên thủy, nguyên tắc theo QT, chúng phải là hai từ cùng Tơi hoặc cùng Vời. Về sau do không nắm qui tắc, dùng lẫn lộn đi, nhiều từ có viết bằng chữ nho thì lại được dùng bên Tàu, lại bị coi là “từ Hán-Việt”. Ví dụ: Sự bắt đầu/Sự kết thúc, hai khái niệm nghịch này nguyên thủy nó được diễn tả bằng các cặp từ đối là: Chớm/Chung=Từ/Tận= Có/Kết= Hé/Hết= Mở/Mất= Khai/Khép= Đầu/Đuôi = Bắt/Bế=Cớm/Cùng. Các từ đôi tương ứng sẽ cũng tạo ra các cặp đối là Bắt Đầu/ Bế Đuôi=Cầu Cớm/ Cuối Cùng= Chớm Có/Chung Kết=Có Đầu/Kết đuôi=Từ Đầu/Tận Đuôi. Từ Việt không phải là nó cứ Sắc Sắc Không Không, cũng là Có cũng là Không, chẳng chính xác gì, như người ta nói. Thực ra từ Việt nó vô cùng chính xác, như số đếm hệ nhị phân vậy, 1 ra 1, 0 ra 0 đàng hoàng. Cặp từ đối SẮC/KHÔNG trong Phật giáo là có sau, không phải là từ đối nguyên thủy. Từ đối nguyên thủy của nó là cặp CHỘ/CHĂNG. Chộ nghĩa là thấy, là có, là 1, suốt dải đất miền Trung “trọ trẹ” người Việt vẫn dùng “Chộ” nghĩa là Thấy. Vì CHỘ=Lộ=Ló=Thó=Thấy=Thọ=Có=Cắc=Chắc=SẮC, có nghĩa là bản thân mình thấy, người khác không thấy (“Mày thó cái gì đấy?” nghĩa là “mày thấy cái gì đấy mà người khác không thấy”, Thó=Ngó, từ “Thó” sau được mở rộng nghĩa ra, là “ăn trộm” tức lấy chỉ mình mình biết, người khác không biết). Cắc là con số 1 (“chẳng có cắc bạc nào” nghĩa là không có một đồng bạc nào). Chắc là con số đếm 1 của hệ thập phân của người Việt, từ Chắc đến Chục là từ 1 đến 10, “Chắc” tiếng Tày nghĩa là Biết, tiếng Việt có từ đôi Biết Chắc là Biết+Chắc=0+1=1=nhiều, ý là biết nhiều hơn. Chăng nghĩa là không có gì cả, trống trơn, trong suốt. Vì CHĂNG=Trắng=Trong=Vong=Vắng=Vô=Mô=Mù=Mông=Trống=KHÔNG. Ngày nay ta dùng cặp từ đối Đen/Trắng là một cặp sai lầm, vì Đen cũng thuộc Âm, Trắng đồng nôi với Chăng cũng thuộc Âm, nguyên nhân là do dùng sai nghĩa từ “Trắng”, lấy làm màu, chính màu ta cần diễn đạt đó là màu Bạc (“Bạc như vôi”, đúng bản chất màu của nó. Dùng màu đặc trưng để đặt tên kim loại có Vàng, Bạc). Trắng nghĩa là không có gì , trống trơn, trong suốt (“mất trắng”, “trắng tay”. Tạo hóa cho vụ “Nổ Trắng”=(lướt)= “Năng”. Cái Năng ấy đã nở ra Nắng/Nước đều là thứ hoàn toàn trong suốt, hoàn toàn Trắng. Bản chất Lửa là Nắng, trong suốt không nhìn thấy được, sở dĩ thấy lửa màu đỏ hay vàng hay màu xanh là do các tạp chất cháy tạo ra mà thôi. Người Việt đã lấy hai cái trong suốt mà lớn lao nhất trong tạo hóa là Nắng và Nước để ví von với Ơn Cha và Nghĩa Mẹ. Tôi sửa lại cho đúng nguyên thủy của câu Việt ấy là: Ơn Cha như núi Thái Son. Nghĩa Mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Câu này hoàn toàn chuẩn ý đối: Ơn Cha/Nghĩa Mẹ, Núi/Nước, Thái Son/Trong Nguồn. Ơn Nghĩa là cặp từ đôi, Ơn=Nghĩa, tách thành vế đối. Núi=Nước, tách ra thành vế đối. Thái Son nghĩa là Nắng, từ đôi Thái Son, Thái=Son, vì Son là màu đỏ màu ngũ hành của nắng, nắng và lửa là một (lấy cái kính lúp hội tụ rọi thì có lửa ngay), như QT đã dẫn Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái (phát âm Nam Bộ)=Chá (phát âm Quảng Ngãi)=Cháy (phát âm Bắc Bộ)= Chói (phát âm Triều Châu). Nắng là Sáng, là trong suốt, chữ nho viết Thái 彩 và Thái Hà 彩霞 nghĩa là ánh nắng mặt trời (câu “sáng danh Chúa ở côi Lời”). Trong Nguồn nghĩa là Nước, từ Trong Nguồn là một từ đôi, Trong=Nguồn, Trong là Trong suốt, như từ đôi Trong Trắng , Nguồn là cái năng lượng đầu tiên, kể cả cái đầu tiên của vũ trụ là cũng trong suốt, nước đầu nguồn cũng trong suốt. Ơn Cha nghĩa Mẹ lớn lao và trong suốt, trong sáng, như Nắng và Nước. Công lao thì có thể trả được bằng vật chất hoặc tinh thần, chứ ơn nghĩa thì không gì có thể trả được, chỉ có là phải nhớ thôi, mà muốn nhớ được thì cái tâm mình phải trong suốt. Đó là tất cả ý tứ của câu Việt. Người Tàu không hiểu triết lý đó. Họ dịch câu Việt thành: Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chữ Trong này hiểu là từ bên trong, Nguồn hiểu là to lớn. Công chỉ đi với Lao thành công lao là một từ đôi, nói về sức lực cha mẹ bỏ ra cả đời cho con thì là Công Cha, Lao Mẹ. Khi nói công ơn thi đó là một từ ghép công và ơn, hai khái niệm khác nhau.Vế đối ở câu này không chuẩn. Do nghĩ sai như vậy nên Thái Son được phiên âm thành Thái Sơn 太 山 tức núi Thái, là trái núi quá to, viết chữ là Thái Sơn 太 山 , nghĩa là núi to thái quá (để ví với cái công). To và đẹp làm sao được bằng Nắng và Nước. Cái ơn nghĩa phải là trong suốt, làm ơn cũng trong suốt, nhớ ơn cũng trong suốt. Cái đơn giản mà cao cả ấy người Việt chỉ viết bằng một chữ nho là chữ Trạch 澤. Từ Trạch trong từ điển giải thích nghĩa là ơn huệ, như từ đôi “ân trạch”. Nhưng biểu ý của chữ thì nó là từ Việt: “Trong sạch”=(lướt)=Trạch 澤, như bản chất của nước, ơn huệ là cái trong sạch, vô tư. Ở chùa Ông Bổn của đồng bào Hoa gốc Phúc Kiến tại 264 Hải Thượng Lãn Ông phường 14 quận 5 , chính điện có bức hoành phi đề 4 chữ Trạch 澤 Cập 及 Lân 鄰 Phong 封 nghĩa là ơn huệ (của tổ tiên) đem đến với vùng láng giềng gần, hoặc đem cái lòng trong sạch mà đến với láng giềng gần. (Chữ Lân là “Láng giềng gần”= “Lân”. Chữ Phong là Vùng. Nguyên chữ Phong 封 là chữ kiểu “hội ý” gồm hai bộ thổ 土 là nhiều đất, bộ thốn 寸 là tấc tức có đo đạc, không có biểu âm gì mà lại đọc là Phong, vì gốc nó là từ Việt: “Phát cho nhiều đất trong một Vòng”=(lướt)= “Phong”, một vòng thì có lớn có nhỏ nhưng chắc chắn là có đo vì có bộ thốn 寸. Các tên địa danh ở Lĩnh Nam đều có gốc Lạc Việt là “Phong 封” nghĩa là Vùng lớn. Nếu theo nghĩa này như của tiếng Choang, thì phủ Khai Phong ở Trung Nguyên vốn nguyên thủy nó phải là phủ “Phong Khơi”, tức “Vùng lớn Mới” , vì so lịch sử thì nó vẫn là mới hơn Phong Châu ở Việt Nam hay Phiên Ngung ở Quảng Đông. Khai Mới=(lướt)=Khơi , đi biển khi ra Khơi thì càng ra càng Mới. Ví dụ ở phía bắc Hợp Phố thuộc Quảng Tây có Phong Xuyên 封 川, Phong Khê 封 溪 ( Phong Xuyên nghĩa là “Vùng lớn của Sông”, Phong Khê nghĩa là “Vùng lớn của Khe”, còn giải nghĩa theo cấu trúc Hán ngữ và biểu ý chữ là “Sông bịt Kín” và “Khe bịt Kín” thì vô lý), Phong Sơn 封 山, Phong Khai 封 開; ở đông Khai Bình cũng có Phong Khai 封 開; ở tây nam huyện Nhữ Nam có Phong Môn Sở 封 門 所; ở bắc Tân Hội có Phong Lạc 封 樂; ở đông bắc huyện Phong Khai có Phong Hưng 封 興,v.v.
-
Đối mà bớt sắc thành đôi Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt, “Phớt lờ mà Vượt”=(lướt)= “Phượt”. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)= “Lỡi”, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy tiếng Vèo ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích về từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Gần đây nông dân ở An Giang nhập ngoại một giống Mít về trồng, trái tròn như trái banh, lại ăn được cả xơ. Họ đã gọi một cách tự nhiên “Mít ăn được cả Xơ”=(lướt)= “Mơ”. Gọi là trái Mơ, vì ở Nam Bộ không có cây mơ ăn trái như Đà Lạt hay ngoài Bắc, chỉ có cây mai để chơi hoa, thành ra trái Mơ này bị đồng âm, dễ lẫn lộn với trái mơ ngoài Bắc. Chính xác thì gọi nó là trái “Mít ăn được cả Xơ mà trái Tròn và Ngon”=(lướt)= “Mơn”, nên gọi nó là trái Mơn, nó họ Mít, cả Xơ ăn cũng Ngon. < Ngôn từ đều xuất xứ từ giới lao động bình dân mà ra, người dân chưa từng bao giờ đợi mượn ngôn từ từ Viện ngôn ngữ. Chỉ có ngữ pháp thì mới được rèn giũa từ giới bác học, nhưng không nhất thiết là từ giới nghiên cứu ngôn ngữ. Ngữ pháp tiếng Nga sỡ dĩ được chặt chẽ như ngày nay, có tới sáu cách, chia động từ, tính từ v.v. lại là do đóng góp công lao lớn của nhà hóa học Men-đê-lê-ép, biến hóa chặt chẽ cứ như là cấu trúc phân tử vậy. Bởi do giới hàn lâm xây dựng ngữ pháp, nên lại dễ bị áp đặt do giới thống trị là ngoại tộc. Hàng ngàn năm, ngữ pháp Hán đã thay dần ngữ pháp Việt trong ngôn ngữ của giới quan lại (ngôn ngữ quan thoại thay dần ngôn ngữ bạch thoại) hình thành Hán ngữ hiện đại hoàn chỉnh và phong phú ngày nay. Điểm khó khăn nhất đối với Hán ngữ hiện đại là dùng Hán tự để phiên âm tiếng nước ngoài, vì mỗi chữ Hán đều có biểu ý của riêng nó, mượn chữ Hán có âm na ná để mà chú âm của một từ nước ngoài (theo cách giả tá) phải công phu chọn chữ nào nó cùng logic mới đạt, nếu biểu ý của nó khác xa nghĩa của từ nước ngoài ấy thì thật phiền. Ví dụ từ mới ngày nay như “hacker” thì chọn mượn từ “Hắc Khách 黑客” để thay, phát âm na ná là “hây khưa”, viết chữ phiên âm là “heike”, nghĩa của Hắc Khách黑客 là “bọn thích khách của xã hội đen”, kể cũng logic. Nếu như ngày xưa thì các nhà ngôn ngữ Việt Nam lại đã ăn sẵn luôn từ Hắc Khách để bưng nguyên xi về dùng rồi. Nay ta dùng luôn là “hac-cơ”, hoặc cũng có thể nhìn vào chữ “hacker” xem cái gen Việt của nó lặn chỗ nào mà gọi luôn “hacker” là bọn “Hay Quấy Cắp”=(lướt)= “Hắp”. Hắp/Hấp là một cặp từ đối, bọn Hắp là bọn “Hùng hổ mà ngăn Nắp” chứ không hâm hâm như bọn Hấp là bọn “Hèn mà hấp Tấp”. Từ mới “fans” nghĩa là người hâm mộ, Hán ngữ hiện đại phiên âm là fensi, phát âm là “phẩn xư”, mượn chữ là Phấn Tơ 粉丝, chữ ấy lại có biểu ý là “sợi bún”, không logic lắm, nên dân mạng lại dùng theo cách giả tá riêng của họ là mượn chữ Phạn 饭viết phiên âm là “fan” phát âm là “phan” biếu ý của chữ Phạn 饭là “cơm”, tôi là cơm của anh, tức tôi sẵn sàng vì anh, nghe hợp lý hơn.Tiếng Việt du nhập nguyên xi “fans”, phát âm là “phan”, lại thường nói là “các phan hâm mộ” thành ra nói thừa, tiếng “phan” nghe chưa logic lắm. Thực ra từ “fans” đã có gen của ngôn từ Việt rồi, ở từ Phạn là một tiếng trong cặp từ đối Phạn/Phản . Phạn là từ lướt của “Phe Bạn”, Phản là từ lướt của “Phe Cản”. “Phe Bạn”= (lướt)= “Phạn” chính là những người ủng hộ đội nhà, ngược với bọn “Phe Cản”= (lướt)= “Phản”. Mọi ngôn ngữ đều nằm trong ngôn từ Việt, để ý thì sẽ nhận ra ngay thôi. Không đến nỗi như Hán ngữ hiện đại phải loay hoay để dịch từ “fans”, lúc đầu dịch là “La la đội” tức là đội hò la, đội cổ vũ, sau thì chính thống đặt là Phấn Tơ粉丝 (sợi bún), vẫn thua dân mạng, họ đặt là Phạn 饭 (cơm), logic hơn. Tiếng Việt thì “phạn” không có nghĩa là cơm, mà “phạn” là cùng “Phe Bạn”=(lướt)= “Phạn”, còn hợp logic hơn là dân mạng tiếng Hoa dùng, vì Phe Bạn với Fans còn dễ coi là đồng nghĩa đen, còn Cơm với Fans chỉ là đồng nghĩa bóng mà thôi. Khổ nỗi Hán ngữ không có qui tắc lướt, vì kết cấu của ngôn từ nó là phụ trước chính sau, ngược với của Việt, ví dụ Phe Bạn thì ở Hán ngữ là Bạn Phe, nều lướt thì thành Be, làm sao giống “fans” được. Do họ không có khái niệm lướt nên hai ngàn năm trước, khi Hứa Thận viết “Thuyết văn giải tự”, là cuốn tự điển đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, Hứa Thận phải giảng giải cách “thiết” để mà đọc chữ nho cho đúng âm Việt, và gọi là “Phiên thiết” tức người Phiên người ta lướt như vậy đấy. Người Phiên là người của những nước phi Hán.Hán ngữ hiện đại tức tiếng phổ thông TQ do âm vực không phong phú như tiếng Việt, từ đồng âm quá nhiều nên khó mà Latin hóa ký tự,bắt buộc phải dùng chữ tượng hình biểu ý, không như các phương ngữ dễ chuyển sang dùng ký tự latin hóa. Ví dụ câu Hán ngữ phát âm là: “Jinshi jinshi jinshi jinshi” bằng chữ phiên âm latin thì làm sao hiểu nổi, ngay cả người Hán. Nhưng khi viết bằng chữ nho 近世 进士 尽是 近视 và đọc như Hứa Thận hướng dẫn thì là: “Cận thế Tiến sĩ Tận thị Cận thị” thì sẽ hiểu được là: Tiến sĩ Thời nay Thảy đều Cận thị >. Những cặp từ đối nguyên thủy thường chỉ là hai tiếng cùng Tơi và cùng Rỡi, chỉ khác nhau thanh điệu.Ví dụ: Bọ/Bò là Con nhỏ/Con to (con bọ rất nhỏ, nhưng con bò rất to); Bo/Bọ là Hào phóng/ Kẹt xỉ (từ Bo này đã cho gen sang tiếng Tây); Bỏ/Bó là Thả/Giữ , Bõ/Bỏ là Đã công/Uổng công. Chồng/Chống là Đè xuống/Đỡ lên, cũng như Vồ/Vộ là Đè xuống/Đỡ lên. Lấy từ Chồng để gọi người Chồng, lấy từ Vộ để gọi người Vợ, “Vộ chờ”=(lướt)= “Vợ”, vì người Vợ có thiên chức là “Chờ”, cái trứng phải Chờ con tinh trùng đến tụ rồi mời làm Chỗ được, để thành Chửa, để rồi Chứa trong cái dạ con. Đi nằm cũng nằm trước Chờ. Ăn cơm cũng Chờ v.v., nên mới có chuyện cổ tích “Hòn vọng phu” là vậy. Ò/Ọ là Đưa đi/Đứng lại (cũng giống như Ù/U là Đi/Ở). Ò là “Đưa đi” nên mới có Hò là lời hát đưa đi, “Hát Ò”=(lướt)= “Hò”, vậy nên khi chơi bời thì có Hò đưa duyên, khi chèo thuyền thì có Hò đưa thuyền, khi ru con thì có Hò đưa nôi, khi đưa đám ma thì có Hò đưa linh. Ọ là “Đứng lại” nên mới có Họ là lệnh Đứng lại, đã là lệnh thì phải hét thật to, “Hét Ọ”=(lướt)= “Họ”, nên khi đánh trâu đi đường hay đang cày chỉ cần ra lệnh “Họ ọ ọ ! ” là nó đứng lại ngay. Chưa kịp bước chân lên xe thì xe buýt đã chuyển bánh, khách la : “ Họ ọ ọ đã nào, làm gì mà vội thế!” > Từ đối mà nói lên hai trạng thái nghịch ĐỨNG/ĐI, nguyên thủy của nó là những từ có Rỡi đơn như Ù/U, Ồ/Ổ Xét cặp từ đối Ù/U dẫn đến cặp VÙ/VU: Ở nghĩa ĐI có: Vù=Vời (“xa vời” là khái niệm “đi”)=Chơi (là khái niệm Động=Đi)=CHẦY ( cái Chầy luôn ở trạng thái hoạt động là “đi”, nghịch với trạng thái của cái cối)=Giầy (gọi là đôi giầy vì nó ở trạng thái “đi”)=Dộng (động tác “di cho rộng ra”=dộng)=Rống ( “ra tiếng rộng” tức đưa tiếng “đi” vang xa)=Hồng (làm cho rộng ra, “nạn hồng thủy” là nước “đi” rộng ra)=HÙNG (“hồng cả một vùng”=hùng , tức “đi” mở rộng cả một vùng). < Vù=Vời=Chơi=Chầy=Giầy=Dộng=Rống=Hồng=Hùng>. Ở nghĩa ĐỨNG có: Vu=Vuông=VƯƠNG=Vững=Chưng=Cứng (“Kẻ Đứng”=Cứng, “Đóng Cứng”= “Đông Cứng”=Đứng)=Cái=CỐI. < Vu=Vuông=Vương=Vững=Chưng=Cứng=Cái=Cối> Chỉ từ hai tiếng của cặp đối VÙ/VU cũng đã thấy được dân CHẦY/CỐI là dân HÙNG/VƯƠNG, là tiền nhân chung của cả hai dòng Việt ở(粤) và Việt đi (越), mà Hán thư thời Xuân Thu gọi là Bách Việt. Trăm nước Việt=Lắm nước Việt= “Lắm Nác” Việt= “Lạc” Việt. < Đến thời Tần các nước của Lạc Việt đã bị Tần xóa sổ hết, đổi thành quận huyện của nước Tần, chỉ còn lại bộ phận của Lạc Việt ở Lĩnh Nam và Giao Chỉ, nên sách sử viết sau gọi Lạc Việt là một chi của Bách Việt, nhận định ấy vừa đúng lại vừa sai. Đúng bởi nó vẫn là người Lạc Việt, sai vì đó không phải là một chi từ trước, mà là bộ phận Lạc Việt còn lại sau khi đại bộ phận ở phía bắc của nó đã bị Hán hóa hết. Bộ phận còn lại đó sau lập nên nước Nam Việt thời Triệu Đà > Vậy từ HÙNG VƯƠNG là từ Việt hay từ Hán-Việt ? Người ta cứ hiểu theo “từ Hán-Việt” nên phải dịch nghĩa của nó là Vua Hùng, tức ông vua tên là Hùng hay họ là Hùng. Và vì vậy họ lý giải “18 đời Vua Hùng mà kéo dài 3000 năm thì mỗi ông vua Hùng phải sống đến hơn 166 tuổi ?”. Hiểu theo từ Việt như QT thì Hùng/ Vương là một xã hội, xã hội của dân Lạc Việt ấy trải qua 18 thời đại kéo dài 3000 năm,mỗi thời đại đều gọi là thời đại Hùng/ Vương của dân Chầy/Cối. Do tín ngưỡng của người Việt là thờ tổ tiên, nên người dân thánh hóa mỗi thời đại thành một ông vua để đưa vào truyện cổ tích truyền miệng. < Theo QT thì QT=Có Tỏ=Có Thọ=Có Thấy. Vì tiếp nhận (thọ) và thấy cho nên , lại theo QT, La Tinh=Liên Tây=Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tiền=Là Tình=Là Mình. Điều này nước Nhật hai trăm năm qua đã chứng minh rồi, là cái logic: Có ngả sang phương Tây thì mới Tinh, có Tinh mới có Tỉnh, có Tỉnh mới có Tiền, có Tiền mới có Tình, có Tình mới là Mình. Việt Nam phải giàu mạnh có Tiền thì thế giới mới yêu, nếu vẫn nghèo tuy tốt tính thì thế giới chỉ thương thôi, tuy thương thì cũng thỉnh thoảng có thí, nhưng như thế thì tội nghiệp lắm. Vì triết lý Âm Dương nên cặp từ đôi Con=Cái, cũng là cặp từ đối Con/Cái ở mặt trái của nó, cũng vậy cặp từ đôi Tiền=Tình, cũng là cặp từ đối Tiền/Tình ở mặt trái của nó. Mặt trái của xã hội thể hiện ở cặp từ đối Làm Tiền/Làm Tình. Xưng Ta gọi Mình đều là nói cái hồn của một con người : Mình=Tình=Linh=Lòng=Lả=Tá=Ta=Tâm . Còn nói con người cả thể xác cả linh hồn thì đó là từ đôi Thân Mình . Thân là từ cái Kẻ=Thẻ=Thể=Thân=Thần=Mẫn=Mình (cái logic chỉ con người đã đi từ phần xác thịt rồi mới đến phần linh hồn, cũng giống như cái trứng khi thụ tinh thì có khí từ vũ trụ tương tác vào để thành một sự sống mới gồm phần thịt và phần hồn. Bởi vậy người xưa răn rằng khi giao hợp thì không được hành sự ở nơi thờ phượng hay vào lúc đang có giống tố sấm sét), mà cũng theo QT: cái “Thể trên chân”=(lướt)= “Thân”. Từ Mình chính gốc nó là do QT Lướt “Một sinh Linh”= “Mình”. Người Việt vợ chồng hay tình nhân đều gọi nhau là “Mình ơi”, tức gọi cái phần hồn chứ không phải gọi cái phần thịt, tự xưng là Ta, gọi ngôi thứ hai là Mình ( “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng Mình cười”) , và tiếng gọi người tình ấy cũng trúng QT Lướt “Một mối Tình”= “Mình”. Từ Mình gốc do con số Một mà ra, Một sinh Linh=Mình. Từ Thân Mình khi xét về một con người thì nó là một từ đôi, có phần thịt và phần hồn, gắn liền với nhau thành một từ giống như từ dính, tức không thể đảo ngược vị trí mà nói là Mình Thân được, phải nói là Thân Mình (đúng với khoa học là thịt có trước, hồn nhập vào sau); nhưng khi xét về cơ thể học thì nó là một từ đối Thân/Mình như là Xác/Hồn. Từ Mình chính là từ cái Mồi (“Một Người”=”Một Ngôi”=Mồi) để khi cái trứng Mồi ấy đưa vào trong Nôi của QTNở thì nó bắt đầu tách đôi theo cách sinh sản của tế bào: đầu tiên nó Mấp-Máy ( tức bắt đầu Rục-Rịch, Động-Đậy), rồi lớn từ từ là thành Mon-Men, rồi lớn lên là Mới-Mẻ, tách hẳn để nở ra khỏi Nôi thì nó là Ma và Mình, có cặp từ đối Ma/Mình, đó là từ đối nói một hồn người khi ở hai thế giới là Âm thế và Dương thế, ở Âm thế là Ma, ở Dương thế là Mình. Cặp từ đối Ma/Mình này chính sau nâng tính trừu tượng bằng cách làm nhạt nghĩa đi thành cặp từ đôi Ma Mãnh để chỉ tính khí cá nhân người gian xảo cả ban đêm lẫn ban ngày. Cặp từ đối Ma/Mình (một hồn khi ở hai thế nghịch nhau) chữ nho nâng lên thành tính bác học, viết 冥/明 (mà Hán nho đọc là Minh/Minh, không có biết phân biệt là hai tiếng nghĩa Âm Dương khác nhau thì phát âm ra phải thành tiếng khác nhau) nghĩa nó là Tối/Sáng, ngụ ý là Âm thế/Dương Thế. Từ Ta thì đã thấy rõ trong nôi khái niệm lớn: Mình=Tình=Linh=Lòng=Ly=Lửa=Lả=Tá=Ta=Tâm. Từ nôi này mà ra các từ đôi Tá Lả, Lửa Lòng, Tấm Lòng, Tâm Tình, Tâm Linh, đều là thuộc cái phần hồn của con người. Vì tâm của con người là ngọn lửa của sự sống, do cái khí từ vũ trụ đưa lại. Khí trả lại về vũ trụ thì cái xác còn lại lạnh ngắt cứng đờ. < Mày=Mi=Mình=Tình=Linh=Lòng=Ly=Lửa=Lả=Tá=Ta=Tau=Tui=Tôi=Tâm. Từ trong gốc gác của từ Ta và Mình (là cái hồn của mỗi người Việt) đã thấy rõ là người Việt là dòng Lửa, là dân Kẻ Lửa tức Quẻ Ly, dân xứ nóng của Viêm Đế. Ngôi nhà sàn cổ xưa của người Việt có bếp lửa ở giữa sàn nhà (như của đồng bào Tây Nguyên vẫn còn) đồng bào ta gọi là “nhà quẻ ly”. Chữ quẻ ly (nghĩa là Lửa) bằng ký tự kẻ vạch là một vạch liền ở trên (kín như mái nhà), một vạch liền ở dưới (kín như nền đất), một vạch đứt thành hai nét kẻ ở giữa (hở như cái sàn ghép bằng nứa), tất cả là bốn nét. Chữ ấy sau được chuyển nghệ thuật hóa thành chữ nho Tâm 心, cũng gồm bốn nét, mà vẽ tượng hình như cái vòng kiềng trên ba ông đầu rau ( “Ba chân kiềng, một vòng cong. Trọn đời giữ một chữ Lòng sắt son”). Dân Quẻ Ly của Viêm Đế thời cổ đại đã định cư ở suốt một dải đất ven biển từ Trung Bộ Việt Nam đến hạ lưu sông Hoàng Hà, mà sử gọi là dòng Cửu Lê, có thủ lĩnh là Xuy Vưu. Vì là dân nông nghiệp lúa nước của ThầnNông, sống định cư, nên còn gọi là Kẻ Ở . “Kẻ Ở”=(lướt)= “Cơ” nên còn gọi là Họ Cơ. Đó là nguyên do tại sao trong cổ sử mọi dòng họ đều qui gốc tổ của mình là từ họ Cơ. Mà từ Họ lại là dòng Hùng To, “Hùng To”=(lướt)= “Họ”. Hùng 雄 là con gà trống (chữ nho gồm bộ Rộng 厷 ý là đất đai rộng lớn và bộ Chim 隹 ), lại cũng là dòng Lửa. Người Hán phát âm chữ Hùng 雄 này là “Xúng”, về sau họ dùng chữ “Xúng 熊” đồng âm nhưng nghĩa là “con gấu” để viết Hùng Vương 雄 王 thành Hùng Vương 熊 王, nghĩa chữ là “vua gấu”, đó chỉ là mượn chữ có âm na ná để phiên âm nhưng không hợp logic nghĩa chữ, cũng có thể do sử gia cố ý viết đểu đề làm mờ và rối lịch sử > Bởi ví tất cả đều được sinh ra từ Một, như triết lý Vũ Trụ của người Việt: Vũ Trụ ban đầu là một cái Ổ, theo QT Lướt “Từ Ổ”= “Tổ”. Tổ theo QT Nở chia ra Té/Tá, tức từ Ổ mà ra mới có Tá và Té, Tá=Dương, Té=Âm. Té nghĩa là Nước , là Âm, là Biển Đông , Âm=0 theo số học nhị phân, Âm+Âm=0+0=1= Ầm+Ầm=Ầm Ầm=Động (tính của Âm là Động). < Nước=Nặm=Tắm=Tưới=Té, có lễ hội Té Nước, Té Nước là một từ đôi, về sau chữ nho viết lễ hội ấy bằng một chữ Tế, “Té nước Lã” thành chữ Tế Lễ, Tế Lễ là một từ đôi). Té=Tía=Chia=Ché=Chứa=Cha=(chẵn)=CHẤN (phương của Hà Đồ). Té là Nước, là Âm đã sinh ra Dương là Cha, đó là dòng Rồng (Lạc Long) ở Biển Đông . Trong nôi khai niệm cũng thấy rõ con số 0 được toán nhị phân gọi là con số (chẵn)> Tá nghĩa là Lửa, là Dương, là lục địa Tây Đông Dương, Dương=1 theo số học nhị phân, Tá+Tá=1+1=0=Tà+Tà=Tà Tà=Tối=Tắt=Tịnh (tính của Dương là Tịnh). <Tá=Tây=Tả=Lả=(Lẻ)=Mẹ=Tẻ=Tiên=TỐN (phương của Hà Đồ)=Cồn=Non=Núi. Tá là Lửa, là Dương đã sinh ra Âm là Mẹ, đó là dòng Tiên, Tiên=Tiêm=Xiêm=Chiêm=Chim. Lửa=Lả=Tá=Tỏ=Đỏ=Đóm=Đuốc=Đun=Hun=Hong=Hóng=Hồng=Hỏa, các từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa, Lửa Đỏ, Lửa Hồng, Đun Đỏ . Từ trong nôi khái niệm đã thấy rõ con số 1 được toán nhị phân gọi là con số (Lẻ) . Mẹ=Lẻ nên làm mẹ nữa gọi là làm Lẽ, lấy vợ nữa gọi là lấy vợ Lẽ >. Tá là Lửa là từ cổ nhất của người Kinh cổ đại, nguyên thủy ở vùng Trung Nam bán đảo Đông Dương, gọi là người Kinh Nam=Cam, đó là nước Cam đến ranh phía nam của nó gọi là Cam Ranh. Tư duy phương hướng của người Kinh là Ra Bắc, Vô Nam=Về Nam. Người Kinh cổ đại đã khai phá nông nghiệp từ Nam ra Bắc đến tận sông Dương Tử rồi đến đất Sở là người Kinh Sở. Về sau nước Sở là nước hùng mạnh nhất mở rộng địa bàn đến Trung Nguyên, chiếm vùng bằng 18 tỉnh của Trung Hoa ngày nay, kình địch với nước Tần. Sinh ra phương hướng là Tá=Thá=Tả=Tây=Tày=Thái=Sài=Đoài. Thá=Tả, nhà nông Nam Bộ đi cày ra lệnh cho hai con con trâu cùng kéo một cái cày rẽ Trái rẽ Phải tương ứng là “Thá !”, “Dí !”, hai con trâu đó có tên tương ứng là một con tên con Thá, một con tên con Dí. Vì từ Tá nghĩa là Lửa, có Tá=Lả=Chá=Cháy=Chói < Bằng QT cũng có thể dẫn ra các từ diễn tả một đôi trai gái yêu nhau và hậu quả của nó: Đôi=Ngồi=Ngắm=Nằm=Nắm=Nắn=Nụ=Đụ=Đúc=Đứa=Chửa, những từ ấy đều là cùng nôi khái niệm trong cảnh này vì chúng cùng có mẫu số chung là: sự đồng thuận giữa hai người. Từ Nụ Hôn là một từ đôi, Nụ là hành động do Trai , vì “Nôn nóng Đụ”=(lướt)= “Nụ”. Hôn là hành động do Gái, vì “Ham hơi Ôn”=(lướt)= “Hôn”. Từ Ôn là từ có viết bằng chữ nho về sau, gốc trước của nó là từ Ấm. Cặp từ đối nguyên thủy là Ấm/Âm như Nắng/Nước. Cặp Nắng/Nước còn cho ra Nóng/Nản (Nóng Làm/Nản Làm, cặp từ đôi Lười Nẳn đã theo QT Lướt “Lười Nẳn”= “Lãn”, chữ Lãn này là có sau, viết bằng chữ nho, nghĩa là Lười. Lãn công là do lười mà không chịu làm, còn Bãi công là do cố tình Bỏ để phản đối, chữ Bãi có viết bằng chữ nho, do cặp từ đôi theo QT Lướt “Bỏ Thải”= “Bãi” , Bỏ là từ gốc Việt, Thải là từ gốc Thái Lan. Từ cặp từ đối nguyên thủy Ấm/Âm mà Ấm đã theo QT Lướt “Ấm như Lồn”= “Ôn” ( đó là giải mã của mật ngữ-thành ngữ Việt: “Một người đàn bà bằng ba bếp lửa” ). Cặp Nóng/Nản cho ra cặp Nồng/Nàn, Nàn là nguội hơn, nên có từ ghép Nghèo Nàn tương đương Đói Rách. Từ cặp nguyên thủy là Nắng/Nước, đến sinh ra đời con là Nóng/Nản, rồi sinh ra đời cháu là Nồng/Nàn rõ ràng là cái gen đã phai đi nhiều, tức cái độ đậm của nghĩa đã bị nhạt đi , nên Nồng Nàn thành gần như là một từ đôi chứ không còn đối nữa. Muốn cho nó quay lại đậm nghĩa như trước, phải thay Tơi cho nó, như thay Đực khác để lai giống nhằm tránh bị dần dần thoái hóa giống, xa hơn thì sẽ mạnh hơn. Do vậy cặp Cặp Nồng /Nàn được thay Tơi, cho ra cặp Hồng/Hàn tương đương với Lửa/ Lạnh . Từ đối diễn tả sự trái ngược hoàn toàn, nhưng từ đôi thì như 0+1=1 hay 1+0=1 tức “nhiều” nhưng chỉ là nhiều của nghĩa của tiếng đứng vị trí trước, từ đôi Nồng Nàn ý là nhiều Nồng hơn, cũng như từ đôi Gà Qué ý là nhiều Gà hơn, chứ không thể là nhiều Qué hơn được>
-
Cộng đồng mạng đang xôn xao về trường hợp quyển sách Luyện kỹ năng đọc hiểu tiếng Hoa "có in bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc", đã tồn tại trên thị trường suốt sáu năm nay. Thông tin này gây bất bình trong nhiều người. Ðây là quyển sách dạy tiếng Hoa, tác giả: Ngọc Huyên, do doanh nghiệp sách Thành Nghĩa liên kết xuất bản với Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành từ quý 4-2005 (giấy CNKHXB 316/1528 CXB cấp ngày 9-9-2005). Sách bao gồm các bài khóa, hướng dẫn cách đọc tiếng Trung Quốc, qua đó người học làm quen với một số thông tin về đời sống học sinh, khí hậu các vùng, thói quen du lịch, các quan hệ giao tiếp, lễ kỷ niệm... của Trung Quốc. Nhưng tại trang 274, thuộc chủ điểm 2 của bài 17, phần giới thiệu các thông tin cơ bản của quốc gia Trung Quốc, sách in kèm một hình vẽ bản đồ Trung Quốc với cả đường lưỡi bò (đường chữ U đứt đoạn) thể hiện như một đường biên bao trùm các đảo. Giới quan sát cho rằng đây là cách làm việc cẩu thả và tắc trách của người soạn sách và lãnh đạo Nhà xuất bản Thanh Niên - nơi cấp phép và chịu trách nhiệm nội dung sách này. Xét trong bối cảnh quan hệ các bên ở biển Ðông, việc công bố bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc đang bị Việt Nam và các bên liên quan phản đối. Báo Tuổi Trẻ cũng từng dẫn lời thạc sĩ Hoàng Việt khẳng định đường lưỡi bò của Trung Quốc là "vô căn cứ" (Tuổi Trẻ ngày 3-9-2009). Do vậy, việc ấn phẩm của một nhà xuất bản Việt Nam lại thể hiện hình vẽ bản đồ đường lưỡi bò trong nội dung là đi ngược lại chủ trương bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Và tại khoản 4, điều 10 Luật xuất bản Việt Nam năm 2004 có quy định những nội dung "xuyên tạc sự thật lịch sử" là một trong những hành vi bị cấm trong xuất bản. LAM ĐIỀN
-
Bài học miếng trầu Trời xe nhau lại nên Giầu (TRẦU) Không dưng sao đến bạc đầu Cần Nhau (CAU) Nên duyên em đến Với Tôi (VÔI) Môi thêm Vệt Đỏ (VỎ) đẹp đôi vợ chồng Miếng trầu bốn vị, chữ Tâm 心 Cũng là số bốn thủy chung đời người (SINH-LÃO-BỆNH-TỬ) Âm động, Dương tịnh ngẫm soi Bà thời nông nổi, Ông thời thâm uyên Sang Tây tầm đạo học thiền Biển Đông đánh cá dong thuyền ra khơi Nhu-Cương hai chữ để đời Nhu thì mất Nước, cương thời lao đao Miếng trầu xưa dạy thủa nào Nền vôi trắng sạch ngấm vào đỏ tim Nước non muốn giữ vẹn nguyên Xúc tác minh bạch, dân liền đồng tâm.
-
Các từ Việt trong một miếng trầu đã được hình thành như thế nào? Miếng trầu Xinh xắn mời Chơi Nhai cho môi thắm, gọi Xơi miếng trầu Trời xe nhau lại nên Giầu Không duyên sao lại bạc đầu Cần Nhau Nên duyên em đến Với Tôi Môi thêm Vết Đỏ đẹp đôi vợ chồng. Giải thích: 1.Trầu ăn không phải để Nuốt cho No nên kẻ mời trầu không nói là “mời ăn” mà nói là “mời xơi”. “Xinh xắn mời Chơi”=(lướt)=Xơi. 2.“Trời xe nhau lại nên Giầu”=(lướt)=Trầu. Giầu đây ý là giầu tình cảm. Người Hà Nội còn gọi “Trầu không” là “Giầu không” 3.“Cần Nhau”=(lướt)=Cau 4.“Với Tôi”=(lướt)=Vôi. Vôi cục phải tôi rồi mới thành vôi ăn được. 5.“Vết Đỏ”=(lướt)=Vỏ. Vỏ là cái vỏ rễ Chay có vị Chát, có tác dụng làm cho nước trầu đỏ bám Chặt ở môi, gọi là vết cắn chỉ. Chát=Chặt=Chắc=Chay, có ích cho cho việc giữ chắc răng.
-
Ngôn từ Việt và thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Để dễ theo dõi bài viết, xin bạn đọc chú ý mấy điểm sau ở cách nói của Lãn Miên: 1/ Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một Tiếng (đơn âm tiết, coi như là một cái Tế để tạo thành Từ, hay là một cái Trứng để tạo thành Tiếng) có cấu tạo gồm cái “Tơi” hoặc cái “Vời” ở đầu và cái “Rỡi” ở đuôi. Tơi là phụ âm đầu, tức cái “Tiền tố tạo Lời”=(lướt)= “Tơi”, cũng là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)=”Tơi”. Vời là không có Tơi, tức “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, hay cũng là “Vỏ Lời”=(lướt)=”Vời”. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một âm vận, là cái “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”(có mang dấu ngã là gen của Lõi). 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, viết tắt là QT, gồm: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” như cái “bầu”, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” tự tách thành hai “Tiếng”, hai tiếng ấy dính thành một “Từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm”, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn ra thành hai từ đơn âm tiết riêng, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược. 3.Qui tắc Lởi ( qui tắc 3) : Một từ nếu giữ nguyên Rỡi, đổi Tơi khác hoặc đổi Vời thành có Tơi (trường hợp từ đó là Vắng Tơi ), sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà Bất biến âm vận đuôi”). Phụ âm đầu là cái “Tố đầu để tạo Lời” =(lướt)= “Tơi”, hay là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)= Tơi. Nhưng cái “Tố đầu”, theo triết lý Âm Dương “Trong Có vẫn có Không, trong Không vẫn có Có”, nên cái “Tố đầu” có trường hợp nó là Tơi , cũng có trường hợp nó là Vắng Tơi, mà “Vắng Tơi”=(lướt)=Vời, tức cái Tơi của nó từ trước đã được mời đi đâu mất rồi không rõ, nó không có mặt, nên nó là Vắng Tơi, gọi lướt là Vời. 4.Qui tắc Rút ( qui tắc 4): Một từ nếu giữ nguyên Tơi hoặc Vời , đổi Rỡi khác, sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà Bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”). Âm vận đuôi là cái “Ruột để tạo Lời”=(lướt)= “Rỡi” (cùng gen dấu ngã với Lõi). 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có thêm cả gen của một vài Tiếng giữa câu. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đơn âm tiết đồng nghĩa (gọi là đồng Nòi) nhưng dị âm lại với nhau (gọi là khác Sắc, như 0 với 1 hay 1 với 0) thành một từ hai âm tiết đồng nghĩa (đồng Nòi) với hai từ trên. Nguyên tắc ghép là từ nào cổ hơn thì đứng trước. Từ ghép kiểu này tạo thành từ hai âm tiết gọi là “từ đôi”. Từ Đôi có ý nghĩa “Nhiều” hơn hay “Nhấn” mạnh hơn, như 0+1=1, hay 1+0=1. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. 3/. Dấu nối giữa các tiếng, gồm: 1. Dấu gạch ngang (-) là giữa hai tiếng của từ đôi 2. Dấu gạch xẹt (/) là giữa hai tiếng của từ đối 3. Dấu bằng (=) không phải là dấu ( = ) của đẳng thức trong toán học, nó chỉ dùng để dẫn ra nôi khái niệm lớn, có nghĩa là các Từ, tức các Tiếng, tức các Trứng liên hệ với nhau bằng dấu ( = ) là có cùng Gen. Giống như cái Hột giống của thực vật, nó có thể nẩy mầm ra cây Đực hoặc cây Cái (như cây đu đủ đực hoặc cây đu đủ cái). Vì Hột=Cột=Cộc=Cái=Trai=Gái=Gen. Cùng Gen tức cùng Gốc, Gốc ấy trong QT là: 1. Cùng Vò trong QT Vo (khi liên hệ với từ đồng nghĩa của các ngôn ngữ chắp dính) 2. Cùng Nôi trong QT Nở (tức cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi như từ Gốc cho Gen) 3. Cùng Rỡi ( tức Rỡi bất biến) trong qui tắc Lởi < “Lấy tơi ra Đổi tơi khác nhằm thay Lời”=(lướt)= “Lởi”, Lởi còn có gen dẩu hỏi của Đổi, lại cùng gen với Lẩy như “Lẩy Kiều”, “Lấy câu ra thay câu khác để cho ý mới Nẩy”=(lướt)= “Lẩy”. Nếu là từ Vắng Tơi thì thay bằng có Tơi > 4. Cùng Tơi hoặc cùng Vời (tức Tơi hoặc Vời bất biến) trong QT Rút. < “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, nghĩa là Tơi đã được mời đi đâu mất rồi từ trước nên không có mặt, tức Vắng Tơi . “Rã thay Rỡi để đÚc mới Từ”=(lướt)=Rút, Từ = Tờ = “t” , giải phẫu của RÚT là R-Ú-T, R mang gen của Rã, Ú mang gen của Đúc, T mang gen của Từ > 5. Cùng Tơi của tiếng đầu câu và cùng Rỡi của tiếng cuối câu trong QT Lướt . 4/ Qui tắc đếm của hệ số nhị phân là: 0+0=1 , 0+1=1, 1+0=1, 1+1=0 Ngôn từ Việt có Âm Dương Ngũ Hành, hay Âm Dương Ngũ Hành có trong ngôn từ Việt. Ngôn ngữ Việt Nam được xếp vào hệ ngữ Môn-Khơ Me. Nguyên thủy nó là một ngôn ngữ chắp dính (đa âm tiết, không biệt rõ thanh điệu). Tại miền đất bán đảo Đông Dương, hàng vạn năm trước, khi canh tác nông nghiệp trồng trọt đã phát triển thành nền văn minh lúa nước, người Việt sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho nhiều ứng dụng khác nhau trong đời sống, rồi cũng vận dụng nó vào cả trong phát triển ngôn từ, người Việt mới dùng QT Vo để tạo ra một Tiếng phải là một Lời. < Qui tắc Vo - qui tắc 1: Đưa từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. > Thế là ngôn ngữ đơn âm tiết xuất hiện, và theo nó là bắt buộc phải xuất hiện thanh điệu. Khi trong ngôn ngữ đã có cái hiệu quả: một Lời (tức đã trọn một nghĩa) chỉ là một Tiếng, như khái niệm dẫn ra: Lời=Lõi=Nòi=Trọi=Trồi=Trứng=Tưng=Tiếng; “Tiếng của Trứng” =(lướt)= “Tưng”=Tửng-Từng-Tưng, giống âm thanh của tiếng đờn T,rưng, thì người Việt coi cái Tiếng đó như là một cái Trứng, theo vận dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cái Trứng đó phải tự đẻ được theo cách như tế bào tự tách đôi, xuất hiện QT Nở. < Qui tắc Nở - qui tắc 2 : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” là cái “bầu”( đây chính là cái bầu tròn của biểu tượng Âm Dương, bên trong có hình giống như hai con Nòng-Nọc quấn quýt ngược đầu nhau), cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” là một cái “Tế” tự tách đôi thành hai “Tiếng”, mỗi “Tiếng” sẽ thành một “Từ”, nhưng khi còn trong nôi thì hai tiếng ấy vẫn đang dính thành một “Từ có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự vị trí của chúng khi phát âm”, gọi là “Từ Dính” . Từ Dính mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “Từ Dính” đó mới tách rời hẳn ra như nảy ra khỏi nôi thành hai từ đơn âm tiết khác nữa độc lập nhau, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược.> Đi sâu vào xét QT Nở ta sẽ thấy ngôn từ Việt ẩn chứa qui tắc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính xác như thế nào. Tiếng Việt là ngôn ngữ có âm vận phong phú nhất, thêm sáu thanh điệu làm cho lượng âm vận càng phong phú (tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu, tiếng Hán có 4 thanh điệu). Âm vận đơn giản nhất là chỉ có một nguyên âm, đó là một Lời chỉ có Rỡi < Rỡi tức “Ruột của Lời” = (lướt)= “Rỡi” > mà Vắng Tơi < Tơi tức “Tay đưa ra Lời”=(lướt)= “Tơi”, hay “Tiền tố của Lời”=(lướt)= “Tơi” >. Đã phát âm thành một “Tiếng” thì của tiếng Việt nó ắt phải là một “Từ”, tức một Lời vì nó mang nghĩa hoàn chỉnh. Ký tự nguyên thủy của loài người là vẽ một vòng tròn ( O ) biểu thị Đực, là Dương, là bầu trời. Trong tiếng Việt thì Trời=Trồi=Tròn ( cái Rỡi của Tròn là On sẽ cho ra Con, cũng thuộc Đực, thuộc Dương). Nhưng “trong Dương có Âm” tức tính của Dương là Âm, nên từ hình vẽ chuyển sang ký tự của ngôn ngữ thì hình tròn ấy là chữ O, người Việt gọi “O” nghĩa là “Người con gái” (thơ Tố Hữu: “ O du kích nhỏ giương cao súng…”). O có dấu thanh điệu Ngang, tức vần Trắc, chỉ cần đổi ngược sang vần Bằng, tức thay dấu thanh điệu Ngang thành dấu thanh điệu Sắc ta có Ó là con chim Ó là loài diều hâu thuộc tính Dương, biểu trưng Dương. Hình thành cặp đối O/Ó. Con gà nó gáy bằng tiếng Việt là “ Ò-Ó-O…Ò-Ó-O…” một dãy âm thanh tiếp nối Bằng-Trắc…Bằng-Trắc…Con gà trong quan niệm cổ đại là biểu tượng Lửa, là Dương,tính của thịt gà theo Đông Y của người Việt là Nóng. Gà (tiếng Việt)=Cà (tiếng Việt)=Cáy (tiếng Tày)=Qué (tiếng Hoa)=Kê (chữ nho Việt), có từ đôi Cà Kê, Gà Qué. Gà=Kê ứng với hành Kim trong Ngũ Hành. Trong tiếng Việt thì khái niệm đã mở rộng ra theo QT là Gà=Lả=Tá=Tra=Trời=Trống=Rộng=Đồng=Hồng=Hùng, và chữ nho Việt viết Hùng nghĩa là Con Trống. Chỉ trong một nôi khái niệm này của tiếng Việt theo QT, đã có thể nhìn thấy thời đại Hùng Vương là thời đại kim loại đồ đồng của Trống Đồng trên một vùng đất đai văn hóa Rộng mênh mông của các Bản Làng đại tộc Việt. Vùng đất đai văn hóa rộng lớn ấy trải dài từ vịnh Thái Lan đến bờ nam sông Dương Tử, đó là nước Hồng Bàng cổ xưa của 18 thời đại Vua Hùng, (“Vua” “Hùng” = “Vùng của” “Trống Đồng”). Khi ngôn ngữ Việt đã thành đơn âm tiết, người Việt lại còn dùng Qui tắc Lướt để tạo thành những từ mới ngắn gọn bằng một Tiếng do cô đọng một câu dài. < Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có cả gen của một vài Tiếng giữa câu > Bản Làng=(lướt)=Bàng=Bang=Băng, nhiều làng hợp lại thì thành một bang, dân biển đảo sông nước thì sống trên Bè, Mảng, nhiều thì cũng hợp lại thành Bang. Bè Mảng=(lướt)=Bảng=Bang. Bè=Phe=Phái, có từ đôi Phe Phái, Bè Phái, do đó thấy cổ nhất vẫn là từ Bè, đó là cái vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển. Ngôn từ của nhân loại đều do từ chỉ vật cụ thể rồi nâng lên tính trừu tượng thành từ bác học. Mảng cũng là vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển, Mảng=Mường=Minh, Liền Mảng=Liên Minh, Liên Minh là một từ bác học. <Trong Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết địa danh Bảo Giang, nói lái thì là Bảng Giao tức Bang của Giao Chỉ vùng biển, Bảng Giao=(lướt)=Bảo , mà cũng vậy Biển Đảo=(lướt)=Bảo. Bảo=Bửu=Báu. Còn nói theo qui tắc “phản thiết” của Hứa Thận thời Đông Tấn thì “phản” tức đảo ngược lại là Giang Bảo rồi “thiết” tức lướt thì Giang Bảo=(lướt)=Giao, cũng là Giao Chỉ nốt. Câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Phân phân Tùng bách khởi. Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh. Bảo Giang thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành”. Hán ngữ dùng các từ “Bang” nghĩa là một quốc gia, “Bàng Đại” nghĩa là rất to lớn, “Đại Bàng” nghĩa là loài chim có cánh xòe rộng > QT Lướt rất quan trọng trong tạo từ mới. Do lười biếng, ăn sẵn, vọng ngoại (lái là “vái ngọng”, đã làm hỏng dần ngôn từ Việt) người ta không để ý mấy đến QT Lướt. Trong khi đó thời Đông Tấn hai ngàn năm trước có Hứa Thận viết cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” đã vận dụng qui tắc này , gọi là “Thiết”, Lướt=Thướt=Thiết, để dạy cách đọc đúng âm chữ nho. Tư duy của người Việt là một khái niệm phải được biểu đạt chỉ bằng một từ. Ngày nay trong tiếng Việt vô cùng nhiều khái niệm được các nhà ngôn ngữ học biểu đạt bằng cả một câu. Ví dụ “bao cao su”, đây là một cụm từ chứ không phải một từ, nếu trong đối thoại hỏi “Đây là cái gì?”, trả lời “Bao cao su” thì đó là một câu. Vậy mà nó cứ được dùng tự nhiên để khái niệm một vật cụ thể, nếu sau dăm năm nữa công nghệ phát triển không làm nó bằng cao su nữa thì gọi nó là cái gì?. Từ để khái niệm nó thực ra đã có sẵn trong QT rồi. Tên khoa học nó là Condom, QT Vo đã nhìn thấy cái lõi “Đ” ở Giữa là gen Giao Chỉ rồi. Nó là cái dụng cụ dùng để Đụ, mà Đụ là QT Lướt của câu “Đưa tinh trùng đến Tụ” vào cái ổ trứng, “Đưa tinh trùng đến Tụ”=(lướt)=Đụ. Nhưng dùng dụng cụ ấy không phải là để nhằm di truyền nòi giống, mà chỉ là dụng cụ dùng để Đụ Chơi. QT Lướt đã cho từ mới “Đụ Chơi”=(lướt)=Đơi. Vậy thì gọi dụng cụ ấy là cái Đơi cho rồi, khỏi “bao cao su” dài dòng. Hán ngữ gọi nó là cái “vệ sinh đai”, cũng dài, nghĩa là cái vành đai bảo vệ cho sạch sẽ. Nhưng cái Đơi của QT thì nó đã hàm ý bảo vệ rồi, vì nó nhắc nhở “Đừng có làm ngắn cuộc Đời của bạn”, Đời mà bị ngắn mất cái dầu huyền thì là Đơi. Đơi=Tơi (cái áo ngoài)=Toi, hãy coi chừng ! Trước khi hành sự thì nhớ “Đợi mang Tơi”=(lướt)=Đơi, kiểu nào cũng giải thích được.( “Phong ba bão táp chưa bằng ngữ pháp Việt Nam” ). Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)=Lỡi, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Ngôn từ Việt với chữ Quốc Ngữ: Ký tự cổ đại của loài người thì vẽ Đực-Trời là cái vòng tròn ( O ), ký tự Latin thì vòng tròn là cái chữ O . Sách giáo khoa dạy vỡ lòng của giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi truyền bá chữ quốc ngữ có câu đầu tiên là: “O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Ý là, muốn hiểu rõ ngôn ngữ Việt Nam phải bắt đầu từ Trời ( tức từ nguyên lý Vũ Trụ) và từ cái Trứng (tức từ nguyên lý gen DNA), cả hai cái đó đều nằm trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt sáng tạo ra. Việc dùng QT để dẫn ra một nôi khái niệm lớn cũng là theo như triết lý Âm Dương “Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương”, vậy thì nếu qui ước Âm là Nhỏ, Dương là To thì Trong To có Nhỏ, trong Nhỏ có to, cũng như trong Vũ Trụ có một con Người và trong một con Người cũng có cả một Vũ Trụ, trong Trời có một con Gà và trong một con Gà cũng có cả Trời. Lão Tử nói Tim chỉ là một cái phủ xác thịt trong số lục phủ của lục phủ ngũ tạng, còn Tâm của con người thì nó là Thiên Phủ, nó sâu vô cùng tận và cũng rộng vô cùng tận ( thì nó như là Vũ Trụ vậy). Đã ai nghiên cứu được hết tiềm năng con người? Hán ngữ chỉ có một từ “xin” , quả tim cũng gọi là “xin”, lòng người cũng gọi là “xin”, viết bằng chữ Tâm. Những nhà “từ Hán-Việt” thì soạn ra từ để trong cuốn Từ Điển Tiếng Việt có cụm từ “khoa Tim Mạch”, nhưng lại có cụm từ “đo điện Tâm đồ”, đo đồ Tim bằng điện thì có thể, chứ đo thế nào được đồ của Tâm mà gọi theo kiểu Hán là “điện Tâm đồ”. Vì ngôn từ tiếng Việt được tạo ra theo qui tắc Âm Dương, tức qui tắc của hệ số nhị phân, nên trước hết ta phải nhớ lại là qui tắc đếm nhị phân khác qui tắc đếm thập phân. Hệ số nhị phân đếm như sau: 0 + 0 = 1, 0 + 1 =1, 1 + 0 +1, 1 + 1 = 0 . Ngôn từ Việt đều được tạo ra theo qui tắc đó của hệ đếm nhị phân. Thời cổ đại người Việt dùng ký tự Kẻ vạch. Kẻ bằng một vạch liền là Dương, Kẻ bằng hai vạch nối cách nhau là Âm. Thời dùng Que làm công cụ để Kẻ ra ký tự là những vạch thẳng có lẽ là thời còn Cứng, thời ấy là còn người Kinh (cần Keo), nói còn gọi là Kêu (giọng rất Cứng), ra đến Lưỡng Quảng đất rộng hơn thì Kêu lại thành Coỏng (vẫn rất Cứng và giữ đến ngày nay). Sau đến thời biết dùng công cụ là chất liệu mềm hơn thì động tác Kẻ đã biến thành Vẽ, ký tự càng phong phú lên thì biết viết, lúc đó người Kinh đã thành người Việt. Từ người Kinh biết Kẻ đến biết Vẽ đến Viết để người Kinh trở thành người Việt là quá trình dài hàng vạn năm để từ Cứng thành Mềm, lúc đó mới gọi là người Man hay Mân. Thời còn Cứng ấy kéo dài đến thời nước Sừng hay nước Sùng, giọng Cứng sinh ra các từ cũng Cứng, nhiều Tơi “K”. Thức ăn thì có Cơm, Canh, Cay, Quyệt, Kẹo. Thực vật có Cây, Cọng, Cỏ, Cành, Cánh,Củi, Củ, Quả. Động vật hoang dã có Cá, Cua, Cáy, Cóc, Còng, Cà Cuống, Cồ Cộ, Cào Cào, Cắc Kè, Cà Cưỡng, Kền Kền, Qué, Qụa, Cù Cu, Cun Cút, Cồng Cộc, Công, Cò, Két , Cắt, Cú, Cọp. Nông cụ có Cán, Càn, Quang, Cày, Cuốc, Cào. Kỹ thuật đánh bắt thủy sản có Cất, Câu, Quây, Quét, Cào. Công đoạn làm thuyền có Cưa, Cắt, Quay, Cạo, Quết. Làm nghề rèn có Kiềng, Quạt, Kê, Quật, Cạy. Bán hàng có Quang, Cân, Cóng, Ky, Quầy. Máy móc là bộ Cơ có Cộ, Cọn, Cối, Cửi, Cạm. Đến thời Vẽ và Viết là ký tự ký âm gọi là chữ nòng nọc. Qua hàng vạn năm sau lại quay lại đến thời thay chữ ký âm nòng nọc (khoa đẩu) bằng ký tự La Tinh thì hóa ra lại Là Mình (La Tinh=Là Mình). Có thể La Tinh không đồng nghĩa với Là Mình, nhưng chắc chắn là nó có gen đấy. Vì trong tiếng Việt thì Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tình=Là Mình. Ơn Ai đưa chữ La Tinh. Để Ta thấy lại Là Mình ngàn xưa (Lãn Miên) Hãy xét các cặp từ đối, dùng chữ Quốc Ngữ để thấy rõ cái gen của Từ. Cặp đối Con/Cái: Từ đối Con/Cái (từ đốii tương ứng do hai cặp từ đôi: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đối tương ứng do hai cặp từ đôi “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang từ từ tự tách để lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác”. Nếu qui ước Quang=1=Dương thì trong Dương có Âm nên Quang đã có sẵn cái gen là dấu thanh sắc của Quác, nên khi nở (tức lúc đã thái Dương thì biến thành Âm) nó nở thành Cái, mang giá trị 0=Âm. Tất nhiên cũng phải theo qui ước, Quác=0=Âm, thì trong Âm có Dương nên Quác đã có sẵn cái gen là dấu thanh ngang của Quang, nên khi nở ( tức lúc đã thái Âm thì biến thành Dương) nó nở ra thành Con. Có được hai cá thể hoàn chỉnh ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Chọn Chài là quá trình lâu dài, bản thân Con=Gọn, Cái=Dài đã tiên đoán đàn bà có tuổi thọ hơn là đàn ông.Từ đôi Chọn Chài theo QT Lướt thì “Chọn Chài”=(lướt)= “Chãy”. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam. Theo QT Lởi và QT Rút thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Chữa=Đưa=Đẩy=Dẫy=Dài,=Dỗi =Rỗi=Rãi=Rảnh=Rang, là một quá trình lâu dài, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy, Chữa Chãy (thường phát âm sai là Chữa Chạy), Rảnh Rang , Rỗi Rãi , Dẫy Dài đều là cần thời gian lâu dài ; từ ghép Dẫy Chết cũng cần thời gian lâu chứ không thể chết ngay lập tức được.Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ” là Con và Cái. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch đùn dưới sâu lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng mẫu số chung là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một câu phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan tành sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “NổTrắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa ,“con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước, Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước). “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho mieesngthuwsc ăn nhuyễn thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ thì trong tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=In=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn ( đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”= “nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên chắc chắn Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, vấn-vương như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến được đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn đã có dùng thủa cổ xưa. Những nhà ngôn ngữ học “từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, nhưng lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ: Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ: Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu (tiếngTháiLan, nghĩa là rượu)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn= Cồn= Êtanol. Có từ đôi Rượu Cồn, Rổn Rang=Rộn Ràng chỉ cái không khí “hot”. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có hệ nhị phân từ trong tạo ngôn từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0, 0 1, 1 0, 1 1. (Đó chính là Tứ Tượng). Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là công cụ tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng Vời”, hoặc cùng “Rỡi”. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để lấy được hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là một ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước như vậy, để mà lấy được năng lượng, nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué = Gà Qué = Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương. Nhu=0, Cương=1. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được: 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Dùng ký tự La Tinh để phân tich tính Âm Dương trong ngôn từ Việt, ta thấy rất trùng hợp trong từng con chữ cái của chữ Quốc Ngữ: Cặp đối Ơ/Í. Tư duy con người là bắt đầu từ 0 rồi đến 1. Lúc đang là 0 (chưa nảy ra gì) thì là âm vận Ơ ( “Ơ ! sao nó lại như thế này ?” ). “Ơ” là chưa hiểu gì, Ơ=Mơ=Lơ Mơ=Lơ Tơ Mơ=Mờ=Ngờ=Ngờ Ngợ là chưa nghĩ ra được, cái bước chuẩn bị tư duy ấy cũng chỉ có ở con người, Người Ơ=(lướt)=Ngờ. Lúc tư duy nảy ra thì nó đã là 1, đó là âm vận Í ( “ Í ! hay quá ta !” ). “Í” là đã hiểu rồi, “Ý” là một tư duy, Ý = Nghĩ = Kỹ = Duy = Tri = Trí . Cặp đối Ơ/Í tương đương 0/1. Từ Ngơ đến Nghĩ rồi mới ra Lời, vậy mà nó đã xử lý trong óc là : 0+1=1, như Ơ+Í=ƠÍ, hay Ơ Í=(lướt)=ƠÍ, và nhờ cái Lưỡi làm công cụ đưa cái tư duy đó ra thì Lưỡi+ƠÍ= 0+1=1, hay Lưỡi Ơi=(lướt)=Lời . (Phân tích bằng số của hệ nhị phân như vậy để khẳng định rằng: Nếu đã cho rằng “Lời” là từ thuần Việt, thì “Ý” cũng phải là từ thuần Việt, và các từ mà “Lời” và “Ý” dẫn ra theo QT đều là thuần Việt hết, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán-Việt” cả). Ta đã thấy rõ Í là tư duy, chỉ có loài người thì mới có tư duy, chính nó là như vậy, trong tiếng Việt đã chỉ rõ: Người+Í=0+1=1, hay Người Í=(lướt)=Nghĩ. Nhưng khi cái tư duy đã có nhưng chưa đưa ra bằng Lưỡi, thì cái tư duy ấy mới chỉ là Ơ+I=0+1=1, hay Ơ I=(lướt)=Ơi, và Người+ Ơi=1+0=1, hay Người Ơi=(lướt)=Ngợi. Từ đôi Nghĩ Ngợi chính là chỉ người đang tư duy nhưng chưa đưa ý nghĩ ra bằng Lời. Xin nhắc lại: Mỗi Từ của tiếng Việt như là giá trị của một “bit” thông tin, “bit” thông tin thì có hai giá trị nảy sinh một cách xác suất, hoặc khi là 1, hoặc khi là 0. Ví dụ từ Người, khi này nó có thể mang giá trị 1, Người=1, khi khác nó có thể mang giá trị 0, Người=0, tùy theo khi nó cặp với từ nào, đã mang sẵn giá trị nào. Vì hai từ tiếng Việt khi ghép lại với nhau chúng theo qui tắc là âm chúng phát ra phải khác nhau, như một Đực và một Cái tương ứng nhau trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ Người=Ngợm=Ngài=Ngòi=Dõi=Dân=Nhân thì cặp từ đôi Nhân+ Dân=1+0=1=Nhiều người; Người+ Dân=1+0=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=0) nhưng cũng có thể là Người+Dân=0+1=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=1, thì Người phải nhảy ngay sang giá trị Người=0, để đảm bảo xử lý cho đầu ra bằng 1, đây là xử lý của kỹ thuật số); Người+Ngợm=1+0=Nhiều người (mang khái niệm xấu). < Dõi=Người, Nối Dõi là nối người đời sau với đời trước, Dòng Dõi là chuỗi người cùng huyết thống, Dòng Dõi chữ nho viết là Tông Đại, Đời=Đại=Ngài=Người, Đời cũng là Người chứ hết đời thì đã gọi là Ma, Đời=Ngời=Người, Ngời tức Sáng là Người Đời=(lướt)=Ngời, tức đang ở Dương thế nên nghĩa là Sáng, chứ ở Âm thế thì đã là Ma> Cặp đối U/Ù Cặp đối nguyên thủy U/Ù chính là nghĩa Ở/Đi, mà qua một ngàn năm Hán hóa, người Việt đã quên. Cùng mẫu số chung là cùng “Vời” với U có Ổ=Ở=Ủ=U. U nghĩa là Mẹ (tiếng Bắc Bộ, người Đài Loan cũng gọi là U), có nghĩa là “dân tại chỗ”, như cái noãn trứng trong tử cung của Cái thì nó là “dân tại chỗ”, còn con tinh trùng của Đực thì nó là “dân nhập cư”. Thủa xa xưa là mẫu hệ, còn lại dấu ấn là cái nhà dài của Tây Nguyên, các gia đình của con cái vẫn tiếp tục ở với mẹ, nối dài cái nhà ra mãi. Phát triển lên viết bằng chữ nho thì U=Ư=Vu=Vầy=Về=Quê đều là sự qui tụ tại chỗ. Ù là “đi” ( Đánh bài tổ tôm có bước “chạy ù” tức chạy đi; câu “Làm nhanh ù, đi con” tức “làm nhanh đi, đi con”). Đó là thủa còn là người Kinh, vạn năm sau khi người Kinh đã gọi là người Việt thì cặp đối U/Ù nó biến thành Vu/Vù (“Nó vù mất rồi” tức “Nó đi mất rồi”; “Đánh vu hồi”, câu này đã bị Hán hóa, tức “Đánh về chỗ ở”). Thời này vẫn đúng Âm Dương trong ngôn từ Việt, hai tiếng đối nhau phải là phát âm khác nhau (Vu/Vù) như tiếng Đực tiếng Cái, như 1 và 0, không thể là đồng âm nhau được. Đến thời chữ nho Việt bị Hán hóa, người Hán không có quan niệm Âm Dương trong ngôn từ, nên họ đọc hai chữ Vu/Vù ấy là đồng âm “Yuê”/ “Yuê”, đó là cặp Việt ở/ Việt đi, mà chữ nho viết là 粵 / 越. Chữ Việt ở 粵thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 粵” ấy là “Vu dã”= “Vu ạ” tức nó là “Vu” (tức là tại chỗ, là dân bản địa, tức “Việt 粵ở”.< Người ta cứ gọi đó là chữ Việt bộ mễ, thực ra không phải vậy, theo học giả Đỗ Tòng người Triều Châu giải thích, đây là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, ghép bằng Vuông (口) + chữ Thái (采) . Thái=Chái (phát âm của Nam Bộ) = Chói (phát âm của Triều Châu) = Chá (phát âm của Quảng Ngãi)= Lả ( phát âm của Nghệ An) =Tá (phát âm cổ nhất của người Kinh), có từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa đều chỉ sự nóng phát hoảng, nghĩa của chữ Thái 采 là ánh nắng mặt trời, Vuông đất của dân thờ mặt trời trên Trống Đồng , + bên dưới là hình cái cày của dân nông nghiệp lúa nước. Chữ Việt đi 越 thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 越” tức “Việt 越 đi” ấy là “Độ dã” tức “Đò ạ” tức vượt sông, đò thì chỉ có vượt sang ngang qua sông, chỉ có thuyền thì mới đi dọc sông. Chữ Việt đi này là chỉ rõ, người Việt đã vượt sông Trường Giang lên đến Hoàng Hà thời cổ đại, về sau còn là thủa nước Sở của người Kinh Sở chiếm đến vùng Trung Nguyên, kình địch với nước Tần. Những cặp từ đối bằng chữ nho đã bị Hán hóa thành đọc hai chữ nghịch nghĩa đều đồng âm, có nhiều lắm, như Lửa/Lụn thì thành Liệt 烈 / Liệt 劣 ( nghĩa là lừng lẫy / lụn bại , bộ ghép biểu ý là Thiếu 少 Sức 力) , Ma / Mãnh thì thành Minh 冥 / Minh 明 (nghĩa là Âm phủ/ Dương thế) v.v.
-
Xin lỗi, đoạn chữ "O" tôi viết lộn Bằng thành Trắc. Xin sửa lại như sau: Chữ O nghĩa là cô gái (thuộc Âm), chỉ cần đổi dấu đang là thanh ngang vần Bằng thành thanh sắc vần Trắc ta được chữ Ó nghĩa là con chim Ó (thuộc Dương, thịt của nó cũng tính nóng thật, ngược với thịt cò thì tanh và lạnh). Đây không phải là cứ vần Bằng thì phải thuộc Dương,vần Trắc thì phải thuộc Âm. Điều bắt buộc là hai tiếng của một cặp từ đối hay từ đôi là phải phát âm ra tiêng khác nhau, như Âm với Dương. Còn một tiếng thì ở trường hợp này nó là giá trị 1, ở trường hợp khác nó là giá trị 0, như xác suất xuất hiện giá trị 0 hay 1 của một bit nhị phân vậy.
-
Ngôn từ Việt phản ánh sự hình thành Vũ Trụ Nhắc lại: 1/Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một tiếng (đơn âm tiết) có cấu tạo gồm cái Tơi hoặc cái Vắng Tơi ở đầu và cái Rỡi ở đuôi. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một vần. 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, gọi tắt là QT: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một từ đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “Nôi khái niệm” là cái bầu, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào thành “Tiếng” là một “Từ” hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng. Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn thành hai từ đơn âm tiết nữa, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương. 3.Qui tắc Nút, hoặc gọi là qui tắc Đổi Tơi ( qui tắc 3) : Là “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà bất biến âm vận đuôi”. 4.Qui tắc Rút, hoặc gọi là qui tắc Đổi Rỡi( qui tắc 4): Là “phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”. 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đồng nghĩa dị âm lại với nhau thành một từ đồng nghĩa có hai âm tiết.Từ ghép kiểu này gọi là “từ đôi”. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. Trích: Phạm Công Thiện (1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danhThích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 [3] và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Ông đã để lại một lời chí tâm như sau: "Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử, không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” (Cảm ơn Thiên Đồng đã cung cấp đoạn viết trên, để tôi tiếp tục phân tích dưới đây) “Tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” Từ đối Con/Cái (từ đôi tương ứng: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đôi tương ứng: “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là do một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang tự tách để cùng lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác” để Nở ra khỏi Nôi mà thành hoàn chỉnh hai cá thể ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Từ đôi Chọn Chài theo QT5 thì Chọn Chài=(lướt)=Chãy. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam, mà Phạm Công Thiện không đưa ra trong câu viết đã trích trên. Theo QT3,4 thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Đưa=Đẩy, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy. Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ”. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch dưới sâu đùn lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một từ phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “Nổ Trắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa “con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước).” “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn (đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”=”nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên có lẽ Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn có dùng thủa cổ xưa. Những nhà "từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu(tiếng Thái Lan)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn=Cồn=Êtanol. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có từ trong tạo từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0 , 0 1 , 1 0 , 1 1. Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”, hoặc cùng Rỡi. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để có hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước , để mà lấy được năng lượng, như vậy nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué =Gà Qué=Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương.Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Kẻ nào đối xử với Biển Đông mà đưa dấu nặng vào thì sẽ chết, làm cho Đông nặng thành Động, Động=Đóng=Đọng, mà “biển đọng” lái là “bỏng điện”, thì kẻ đó sẽ bị quả báo, cái mà “người chưa trừng phạt, trời đà phạt cho”, tức người chưa đánh thì Sấm đã đánh cho chết cháy đen rồi. Điều này câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ 500 năm trước đã nói ứng với năm 2011, là câu: Phân phân tùng bách khởi : Năm 100 của Tùng tức TQ (1911-2011), nó trỗi rần rần. Nhiễu nhiễu xuất đông chinh : Nó quấy nhiễu Biển Đông. Bảo Giang thiên tử xuất :Bảo Giang là Bảng Giao ( Bản Làng Giao Chỉ )có thiên tử. Bất chiến tự nhiên thành : Không cần đánh mà vẫn giữ được Biển Đông. Chú thích: từ đôi Bản Làng đã lướt “Bản Làng”=(lướt)= “Bang”, nhiều bản làng hợp lại thành Bang.
-
Phân tích ngôn từ Việt bằng QT Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên (gọi tắt là QT): 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt gọi là Vò Việt là một cái “Nôi khái niệm” để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một từ đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “Nôi khái niệm” là cái bầu, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào thành “Tiếng” là một “Từ” hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng. Rồi từ “dính” đó mới tách rời hẳn thành hai từ đơn âm tiết nữa, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương. 3.Qui tắc Nút hoặc gọi là qui tắc Đổi Tơi ( qui tắc 3) : Là phối tố đầu, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà bất biến âm vận đuôi”. Tôi gọi là qui tắc “Nút” vì có mỗi một cái chai rượu thì trước sau gì nó cũng gọi là chai, chỉ có cái Nút ở đầu nó thì cứ việc thay đổi bao nhiêu kiểu nút khác nhau mà chẳng được. Tố đầu=Phụ âmđầu=Tiếp đầu ngữ=Tơi. Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Đổi Tơi. 4.Qui tắc Rút hoặc gọi là qui tắc Đổi Rỡi( qui tắc 4): Là phối tố đuôi, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”. Tôi gọi nó là qui tắc “Rút” vì có mỗi một cái máy xe thì thương hiệu ( cái “Có phụ âm đầu”) và số ( cái “Vắng phụ âm đầu”, vì số có khi đã cà để làm cà vẹt rồi, có khi chưa cà) của nó là cái đầu, đã đăng ký rồi nên phải bất biến, còn cái ruột nó thì cứ việc rút mà đổi đồ lô, đồ nhái gì mà chẳng được ( đồ Lô=đồ Lõi= đồ Lọi=đồ Nọi= đồ Nội, Tây nó mượn của Ta nó phải gọi là Local chứ Từ Việt là bao la từ thời cổ đại). Người Việt vẫn nói Lục Lọi nghĩa là lục từ trong ra. Tố đuối=Âm vận đuôi=Tiếp vĩ ngữ=Rỡi. Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Đổi Rỡi. 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ hoặc một cụm từ đồng nghĩa. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đồng nghĩa dị âm lại với nhau thành một từ đồng nghĩa có hai âm tiết theo qui luật từ đơn âm nào đã dùng trước trong tiếng Việt thì đứng trước trong từ ghép, từ ghép ấy nhấn mạnh ý hơn tức “nhiều”, “nhiều loại cùng loài ấy”. Tôi dùng chữ “Tháp” của nông dân ghép cây, rất chính xác, tức đặt tiếp theo cái cũ mà sẽ cho hiệu quả cao hơn .Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Từ Đôi. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm) cùng ý nghĩa nhưng nhấn mạnh hơn. Phân tích TỪ ĐÔI theo QT: Đặc điểm đặc sắc nhất của tiếng Việt là “đơn âm thành nghĩa” (theo khẳng định của các học giả Trung Quốc, khi nghiên cứu ngôn ngữ Bách Việt cổ đại trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay) tức là nói ra một “tiếng” là đã thành một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “từ” (theo khẳng định của giáo sư ngôn ngữ học Việt Nam Cao Xuân Hạo). Một tiếng (phát ra là đơn âm tiết) mà có ngay một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “nhất nguyên”. Do tư duy Việt là tư duy phồn thực Âm Dương nên một “tiếng” phát ra có nghĩa ấy họ coi nó như là một cái “trứng”, mà biết Nói khi nó Nở rồi Nảy ra khỏi cái Nôi sinh ra nó (“Trứng”= “T,rưng” = “Tửng Từng Tưng”= “Tiếng”, như tiếng đàn, nên Cổ Hán Thư từ ngàn năm trước công nguyên đã có nhận xét rằng: người Bách Việt nói như chim hót). Cái Nôi để cho Nở ra tiếng Việt ấy chính là cái Mồm của người Việt, nhưng người Việt phân biệt rõ cái Mồm để ăn khác với cái mồm để nói thành tiếng là cái Miệng , “Mồm để nói thành Tiếng”= (lướt)= “Miệng” (về sinh học, chúng rõ ràng là hai cơ quan chức năng khác nhau có phân biệt rõ ràng; các ngôn ngữ khác kể cả Hán ngữ chỉ có dùng chung một từ “mồm” cho cả chức năng ăn cả chức năng nói). Giáo viên dạy tiểu học ngày nay không biết qui luật tạo ngôn từ của tiếng Việt nên câu “hãy luôn vệ sinh răng mồm” thì lại nói với học sinh “hãy luôn vệ sinh răng miệng”; câu “hãy mở miệng phát âm cho to” thì lại nói với các em “hãy mở mồm phát âm cho to”, không như thời xưa tôi học lớp đệ ngũ (lớp đầu tiên của cấp một bây giờ) được dạy phân biệt rõ ràng, dù thời đó Việt Nam chưa có thạc sĩ hay tiến sĩ ngôn ngữ học nào cả. Một từ của tiếng Việt là một đơn âm tiết, nó có thể là một trong hai cách sau: 1-Một tiếng được kết cấu bằng phụ âm đầu với phần âm vận tiếp theo Phần phụ âm đầu, ngôn ngữ học còn gọi là “tiếp đầu ngữ”, Lãn Miên gọi nó là cái Tơi tức cái vỏ của Tiếng, như cái áo tơi (tiếng Tây gọi là condom, còn ám chỉ cái “bao cao su”). Do tôi vận dụng Qui tắc Lướt vốn có của tiếng Việt, Tay Lời=(lướt)=Tơi, hoặc Tạo Lời=(lướt)=Tơi) cũng đúng logic vậy. Từ “Tay” trong tiếng Việt còn có nghĩa là một cá thể, một kẻ, theo QT thì Kẻ=Que=Cọc=Cây=Quái=Quẻ=Thẻ=Thủ=Thể=Tê=Tay. Vì người Việt cổ đại quan niệm mọi sản phẩm là do Tay làm ra, nên mới có câu thành ngữ “Giàu đôi con mắt, Có đôi bàn tay”, sự Giàu Có (lại một từ đôi Giàu Có ) là do tiếp nhận tri thức rồi bắt tay làm ra, ngày nay dù “thời đại kinh tế tri thức” thì vẫn phải gõ bàn phím vậy. Theo QT thì Tay=Tê=Tạo, nếu Tay và Tê, tương ứng như người Việt Nam và người Nhật Bản, cùng thuộc đại tộc Việt, vẫn phát âm để chỉ cái tay con người, thì từ Tạo cũng là của đại tộc Việt vậy, chứ làm gì phải là “từ Hán-Việt”, chữ nho “Tạo” ấy người Hán dùng và phát âm là “zao”. Phần âm vận tiếp sau của Từ ( Từ tức một “Tiếng”, vốn là do cái “Tế” bào Trứng nở mà ra), Lãn Miên gọi nó là cái Rỡi. Rỡi là cái ruột của lời, “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”, cũng tương tự như là cái Lõi của một vật, nên Rỡi đã mang dấu ngã của Lõi. (Tiếng Việt khi diễn tả chu trình Lên và Lặn của mặt trời trong một ngày thì vốn có Blời=Trời=Lòi=Lộ=Lói=Rọi=Chói=Chang Chang= Nắng= Sáng =Láng= Lượng=Dương, nên có các từ đôi Nắng Sáng=Nắng Lượng=Năng Lượng; và Lụi=Rụi=Túi=Tối=Tịch=Tăm=Đắm=Đêm=Đậm=Âm, nên có từ đôi Đêm Tối, Túi Tăm). Một “Tiếng” phát âm ra của người Việt, vốn có nghĩa hoàn chỉnh ngay, thì nó là một Lời. Giải thích ngay nguyên cớ vì sao tôi chọn gọi nó là Tơi: Cái áo tơi là cái áo lợp bằng lá gồi của người nông dân Việt Nam dùng khi đi làm ngoài đồng che cho người khỏi lúc mưa và khỏi cả lúc nắng rát, nên gọi là áo Tắm Phơi (người mẹ quở con khi thấy con đội mưa “ sao mày đi tắm mưa vậy con, cảm lạnh thì khốn”, hay khi thấy con đội nắng “sao mày đi phơi nắng vậy con, cảm nóng thì khốn”). “Tắm Phơi”=(lướt)=Tơi, nên gọi lướt là cái áo Tơi. Từ “tơi” mà tôi dùng cho ngôn ngữ này gốc do từ “tay”, mà “tay” là từ Việt nguyên thủy, còn có nghĩa là một cá thể, ta vẫn nói “tay này ngó bộ hiền lành”, từ “tay” của Việt đã biến chuyển: Tay (từ Việt)=Tê (từ Nhật)=Thể (từ Việt) =Thủ (từ Việt), rồi mới dẫn đến từ “cá thể” mà được coi là “từ Hán-Việt”. Cùng logic như vậy cái “Tay của Lời”=(lướt)=Tơi. Tay của Lời vì nó là cái đưa cho Lời ra. Cây lúa là cái xưa nhất gắn bó với người Việt cổ. Gặt bông lúa xong, phần còn lại của cây lúa gọi là Rạ hoặc Toóc. Cả hai từ này đều do Qui Tắc Lướt mà ra: Ruột Lá=(lướt)=Rạ, Ruột là cái bộ phận đã từng sinh ra lá của cây lúa; Ruột là cội nguồn của sự sinh ra, như câu thành ngữ “Rứt Ruột đẻ ra”. Đây là logic tư duy của cư dân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại là tộc Việt, Ruột đã theo QT mà có Ru-ột=Hột (hay gọi như bác sĩ Nguyễn Xuân Quang là “giải phẫu chữ”). Lá của cây nào mà chẳng do Hột của nó sinh ra, nhìn cái hột nảy mầm thì thấy rõ ngay. Một cái cây nguyên thủy chưa bị chắp ghép để lai tạo gì thì cơ thể nó là cùng Nòi từ Ruột đến Lá, nên có từ đôi là Ruột Lá, Ruột và Lá là cùng Nòi khác Sắc, Ruột Lá theo qui tắc Nối ( mà bác sĩ Nguyễn Xuân Quang nêu) đã biến thành từ Ruột Rà (cũng như cụm từ Máu U tức “Máu của Mẹ” thì Máu U đã theo qui tắc Nối mà thành từ đôi là Máu Mủ, nên có cụm từ như một thành ngữ là “Máu Mủ Ruột Rà” để nói lên sự thuần chủng gen của đại tộc Việt). “Tay Gốc”=(lướt)= “Toóc”, hoặc là “Tơi từ Gốc”=(lướt)= “Toóc” cũng vậy, (từ Toóc này nghe có vẻ cổ và được cho là “quê mùa”, thực ra vẫn đang dùng phổ biến trong người Kinh ở vùng trung du Nghệ An, chẳng qua là một số viện sĩ ngôn ngữ học Việt Nam quyết gạt bỏ từ địa phương để tự tạo “từ Hán-Việt” dùng cho nó “sang”, như họ nghĩ, nên từ Toóc không được đưa vào Từ điển tiếng Việt mà thôi), Tay Gốc chính là tiền thân của Thể Gốc. Phần Rạ đã bị gặt đi để tuốt lấy hột lúa thì gọi là Rạ Cơm vì nó còn được dùng để làm cơm cho trâu bò ăn, “cơm” là cái phần ăn được, như cơm gạo, cơm dừa, cơm ổi, cơm na, bữa ăn cũng gọi là bữa cơm. Từ Rạ Cơm đã theo Qui tắc Lướt mà Rạ Cơm= (lướt)=Rơm. Bởi vậy trong phân tích ngôn từ, phụ âm đầu của tiếng (hay còn gọi theo kiểu “Hán-Việt” là “tiếp đầu ngữ” ) thì tôi gọi nó là Tơi vì nó thực sự là cái áo tơi của “tiếng” (“tiếng” gọi kiểu “Hán-Việt” là “âm tiết”) và nó cũng chính là cái tay của lời vì nó giúp đưa lời ra, Tay Lời=(lướt)=Tơi, mặt khác Tạo Lời=(lướt)=Tơi. Nếu trường hợp không có Tơi tức trường hợp “vắng Tơi”, chỉ có mỗi cái Rỡi tức cái Ruột của Lời thì nó cũng đã tạo được Lời vì nó là một nguyên âm hay một âm vận (có tiếng phát ra), điều này chẳng khác gì không có áo quần thì nó vẫn là nó, như câu “Khác nhau tấm áo, manh quần. Cổi ra bóc trần ai cũng như ai”. Ví dụ từ Hôi và từ Tanh thì H- và T- đều là cái Tơi, âm vận -ôi và –anh đều là cái Rỡi. Hôi Tanh là một từ đôi, vì Hôi và Tanh là cùng Chất tức cùng Nòi nhưng khác Sắc nhau, chung lại Hôi Tanh mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn). Chính bởi mỗi tiếng ở qui tắc này đều có đầu là Tơi , là cái vỏ, nên người Việt mới biết nuôi loài chim dễ dạy nó bắt chước tiếng người và gọi nó là chim Tiếng, nhưng lại biết kỹ thuật bóc cái Tơi của Lưỡi nó khi nó còn nhỏ để cho lưỡi nó mềm dễ tập nói hơn, nên con chim Tiếng bị bóc mất Tơi rồi , tức mất “T” rồi thì thành ra gọi là con chim Yểng, sau thành tên gọi muôn thủa cho loài chim đó luôn. 2- Một tiếng được kết cấu bằng một nguyên âm đơn lẻ hoặc một âm vận. Trường hợp này tôi gọi chúng chung là “tiếng vắng Tơi”. Ví dụ từ U và từ Em đều có mẫu số chung là “vắng Tơi” tức “vắng Phụ âm đầu”. Tại sao không dùng “không có”? Bởi vì “không có” là một khái niệm, tạo thành bằng hai từ Không và Có, đó đã là một câu phủ định hẳn hoi chứ không phải là một từ, “từ” của tiếng Việt chỉ là có một “tiếng” mà thôi. Ở đâu ra cái từ “vắng” ấy , mà khái niệm nó chuyển tải nghĩa là “không có mặt tại hiện trường” là cả một câu rõ dài. Nó chính là từ Qui tắc tạo ngôn từ Việt mà ra. Khái niệm Âm của người Việt tương ứng con số zero=0, mà 0=Mô=Vô=Nỏ=Chớ=Chăng=Chẳng, là những tiếng đơn âm tiết khác nhau nhưng có chung một nghĩa là “không”. Như vậy về “nghĩa” thì những “trứng” này là cùng một Nòi, chẳng hạn cùng là trứng gà hay cùng là trứng vịt; nhưng về âm phát ra tức về “sắc” ( như là sắc thể DNA) thì chúng khác nhau. Bởi vậy nếu hai từ trong số đó ghép cùng với nhau thì chúng như hai trứng cùng Nòi khác Sắc, như là trứng Đực và trứng Cái (Dương và Âm) hút lại với nhau trong một cái Nôi, như thành một cái trứng có hai lòng đỏ trong cùng một Nôi (khác với Tiếng đơn chỉ như một cái Trứng có một lòng đỏ) nên gọi là một Đôi (Đôi đã là hàm ý Âm Dương tương thuận rồi, như đôi đũa, đôi vợ chồng, nên chỉ gọi nó bằng một tiếng “Đôi” là đủ hiểu, như tư duy “đơn âm thành nghĩa” của ngôn ngữ Bách Việt). Đó là các từ Đôi vẫn được dùng thường xuyên trong ngôn ngữ dân gian Việt như: Mô Nỏ, Mô Chớ, Mô Chăng, Chăng Chớ, Vô Chẳng, vẫn cùng nghĩa với các Trứng đơn kia vì chúng đều cùng Nòi, nhưng vì chúng như trứng sinh đôi hai lòng đỏ nên Nghĩa của chúng mang khái niệm Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) là chỉ dùng Trứng đơn một lòng đỏ. Từ “Vô Chẳng”=(lướt)=Vắng, đã do qui tắc Lướt mà thành một “tiếng”. Nhiều dân tộc gọi ngôn ngữ là Lưỡi, như tiếng Anh thì Lưỡi Mẹ (mather tong là Tiếng Mẹ Đẻ), tiếng Nga thì là Lưỡi Nga (i-a-dức Nga). Tiếng Việt thì ngôn ngữ cũng từ Lưỡi mà ra nhưng chẳng dùng thô thiển như vậy, Lưỡi cũng như Mồm, chia hai chức năng là chức năng bản năng và chức năng tư duy rõ rệt. Chức năng bản năng thì Lưỡi=Liếm=Nếm; chức năng tư duy thì Lưỡi=Lời=Nói (trong Hán ngữ chẳng thấy có cái Qui tắc tạo từ logic như vậy, chưa kể các ngôn ngữ khác). Ghép hai tiếng cùng Nòi khác Sắc là Lời với Nói thành Lời Nói (tức từ Đôi, “Âm Dương tương thuận”) thì Lời Nói có nghĩa là Ngôn Ngữ bởi nó hàm ý Nhiều, như Nở ra từ cái trứng có hai lòng đỏ. Về Nghĩa thì Lời=La=Lối=Ngợi=Ngôn (nó đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-Việt”). Về Sắc thì Lời=Láy=Lái=Lóng=Líu-Lo=Lanh-Lảnh=Lảnh-Lót=Lẳng-Lơ=Lả-Lơi=Lắt-Léo=Lươn-Lẹo v.v. sinh ra theo Qui tắc Nở (là một trong các Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên) thành vô số từ dính diễn tả muôn sắc thái khác nhau của Lời. Về Nghĩa thì Nói=Gọi=Gạ=Na=Nga=Ngâm-Nga=Ngữ (nó cũng đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-Việt”). Về Sắc thì Nói=Nạt=Nựng=Nịnh-Nọt=Nũng-Nịu v.v. cũng nở ra muôn sắc thái khác nhau của Nói. Từ đôi là từ ghép bằng hai tiếng cùng Nòi khác Sắc. Hai tiếng cùng Nòi có thể đều là của Việt, có thể một của Việt, một mượn của tộc khác miễn là nó cùng Nòi (tức đồng nghĩa) để khái niệm thành ý Nhiều (hơn). Ví dụ cùng Nòi “gà” thì Gà (từ Việt) ghép với Qué ( từ Hoa, Qué=Kê, hay Cáy là từ tiếng Tày) thành từ đôi Gà Qué có nghĩa là nhiều loại gà; cùng Nòi “tre” thì Tre ( từ Việt) ghép với Pheo (từ Mường) thành từ đôi Tre Pheo có nghĩa là nhiều loại tre; cùng Nòi chó thì Chó (từ Việt) ghép với Má (từ Tày) thành từ đôi Chó Má có nghĩa là nhiều loại chó. Từ Kẻ Sĩ không phải là một từ đôi mà chỉ là một từ ghép chỉ người có học. Kẻ Sĩ người Hán đã dịch theo kết cấu ngữ pháp Hán thành từ Sĩ Tử, có thể chấp nhận Sĩ Tử là một “từ Hán-Việt” vì nó viết theo kết cấu Hán là phụ trước chính sau ngược với kết cấu Việt là chính trước phụ sau, nhưng Sĩ và Tử đều là những tố gốc Việt. Chứng minh: Bắt đầu là từ Đẻ trong “Đẻ Đất Đẻ Nước”, Đẻ=Kẻ=Cò (thằng trai, tiếng Thanh Hóa)=Kô ( tiếng Nhật, Kô-đô-mô nghĩa là con trai)=Con (nghĩa là con trai)=Cái (nghĩa là con gái)= Cu (tiếng Vân Kiều)=Tu (tiếng Tày)=Tử ( có viết bằng chữ nho)=Tí (tiếng Việt)=Đĩ=Kỹ (kỹ nữ)=Sĩ (học giả). Trong tất cả 13 từ cùng Nòi chỉ người, của đại tộc Việt kê trên, chỉ có vài chữ được viết bằng chữ nho, người Hán mượn dùng những chữ đó. Cũng trong những từ cùng Nòi kê trên có các từ đôi như Cu Tí (chỉ bọn nhóc con), Con Cái (chỉ cả trai cả gái). Phân tích TỪ ĐỐI theo QT: Về hình thức thì từ đôi viết bằng hai “tiếng”, ví dụ từ Hôi Tanh; từ dính viết bằng hai “tiếng” nối nhau bằng một gạch ngang, ví dụ từ Lả-Lơi; thì từ đối nên viết bằng hai “tiếng” giữa có một gạch xẹt, ví dụ từ Đỏ/Đen (cũng như là Dương/Âm hay Một/ Mô tức 1/0). Bản thân Đôi/Đối cũng đã là một Từ Đối, vì Đôi mang khái niệm “Âm Dương tương thuận”, Đối mang khái niệm “Âm Dương tương nghịch”, hai nghĩa này nghịch nhau. Trong tiếng Việt, chỉ cần đổi một cái dấu thanh điệu khác đi là thành ngay một tiếng nghịch nghĩa với tiếng đầu, ví dụ đứa trẻ lên hai vừa biết nói đã biết biểu đạt phủ định “ Ứ!” là khái niệm “ không” và khẳng định “ Ừ!” là khái niệm “có”. Từ đối Ứ/Ừ là từ đối tạo thành bởi hai tiếng cùng “vắng Tơi”, còn nếu viết Ứ ừ ! thì đó không phải là một từ mà là một câu có nghĩa là “không đồng ý”. Chỉ cần đổi khác cái dấu thanh điệu là có ngay một khái niệm nghịch nghĩa với khái niệm đầu. Ví dụ Đôi/Đội cũng là một từ đối, vì Đội mang khái niệm “ nhiều cá thể”, nghịch với Đôi mang khái niệm “chỉ có hai cá thể”; Đối/Đổi cũng là một từ đối, vì Đổi mang khái niệm “khác đi không nhất thiết 180 độ”, nghịch với Đối mang khái niệm “khác đi phải nhất thiết 180 độ”. Ví dụ khác: từ đối Bó/Bỏ chính là Giữ/Thả, từ đối Bò/Bọ chính là To/Nhỏ (con Bò/con Bọ là so sánh con rất to và con rất nhỏ), Bỏ/Bõ chính là Uổng công/ Đã công, Bo/Bọ chính là Hào phóng/Keo kiệt (trong Pháp ngữ cũng có từ phát âm là “bo” đồng nghĩa với từ Bo của tiếng Việt ). Bản thân mỗi từ đối mang khái niệm là “cân nhắc toàn diện trong nghĩa vực của nó”, ví dụ nói “xem thử xinh/xấu thế nào” có nghĩa là cân nhắc lĩnh vực sắc đẹp xem thế nào. Nguyên thủy thì các từ đối trong tiếng Việt phải là cặp tiếng có mẫu số chung là “cùng chung Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”. Cùng chung Tơi như cặp Sáng/ Sém ( Sáng và Sém cùng chung Tơi “S”), Xích/Xám (Xích và Xám cùng chung Tơi “X”), Đỏ/Đen (Đỏ và Đen cùng chung Tơi “Đ”, Tỏ/ Tối ( Tỏ và Tối cùng chung Tơi “T”), do nghĩa chúng tương tự nhau và người dùng không nắm qui tắc nên dần dần xếp lộn cặp như Sáng/Tối, Đỏ/Tối ( đỏ lửa / tối đèn). Theo Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên thì Khái niệm lớn:Tỏ=Đỏ=Rõ=Rạng=Sáng=Láng=Lượng=Xương=Xích đã cho thấy là từ thuần Việt có trước, “từ Hán-Việt” có sau, là do cái “từ tố” của Việt, trong các chữ Việt ấy chỉ có vài chữ Việt có viết bằng chữ nho là Lượng, Xương, Xích và Hán có thể mượn của Việt để dùng, và được gọi là “từ Hán-Việt”. Khái niệm nghịch với Tỏ là Tối: Tối=Túi=Tịch thì chỉ có mỗi Tịch của Việt là được viết bằng chữ nho, và Hán mượn dùng chữ đó để gọi Tịch là ban đêm, họ phát âm là Xi, do nó chính là âm Xì của Việt. Âm Xì này được sinh ra như thế nào? Người Việt có câu thành ngữ “Xám như màu Chì”, đã theo Qui tắc Lướt mà tạo ra “Xám như màu Chì”=(lướt)=Xì. Xì sẽ cùng nghĩa với Đen, nên mới có từ đôi là Đen Xì mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) cái khái niệm Đen (hai “trứng” rõ ràng là nhiều hơn một “trứng”, nếu thêm láy nữa là Đen Xì Xì thì lại càng mạnh ý hơn vì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”). Người Hán đã mượn âm “Xì” này và họ phát âm là “Xi” để đọc chữ Tịch, nghĩa là ban đêm. Mà từ Việt: Đêm=Đen=Hoẻn=Hắc=Hóng (bồ hóng thì màu đen)=Bóng (bóng của vật thì màu đen, Bóng Đêm hay Bóng Đen đều là những từ đôi để mang khái niệm ban đêm), trong những chữ cùng Nòi khác Sắc ấy chỉ có một chữ Hắc của Việt là được viết bằng chữ nho, người Hán mượn chữ ấy và phát âm chữ ấy là “hây”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm=Không có điện=Chẳng được gì, 1=Dương=Có điện=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng. Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng=Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều (đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0 = Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương con số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đây là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, nó cũng đúng như sự tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué= =Gà Qué=Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, tính của Âm đã là Động tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa 1 vào để thành Động+Động như 1+1, tất 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết.
-
HỌC TIẾNG VÀ CHỮ TRUNG HOA BẰNG TIẾNG VIỆT Nguyễn Xuân Quang Ta có thể học ngôn ngữ thế giới bằng tiếng Việt (Tiếng Việt Huyền Diệu), dĩ nhiên trong đó có tiếng Trung Hoa. Học tiếng Trung Hoa bằng tiếng Việt lại càng dễ dàng hơn, bởi vì một điều dễ hiểu là tiếng Việt và Trung Hoa liên hệ mật thiết, khắng khít với nhau. Thật vắn tắt ở đây, một trong những cách làm giầu thêm, phát triển, bành trướng thêm tiếng Việt là du nhập thêm tiếng ngoại ngữ khi tiếp cận với ngôn ngữ đó qua hiện tượng từ láy, tiếng đôi hay trực tiếp lấy tiếng ngôn ngữ đó, lấy nguyên con theo phát âm gốc hay có biến đổi, Việt hóa đi (như trường hợp chữ Hán Việt chẳng hạn). Ai cũng biết từ Hán Việt nhan nhản trong tiếng Việt, có tác giả đã cho rằng có tới hơn 60% từ Hán Việt trong Việt ngữ. Hán Việt là từ lấy từ Hán ngữ nhưng đã Việt hóa theo những qui luật ngôn ngữ học có qui củ. Người Trung Hoa không hiểu từ Hán Việt dù là gốc của Hán Việt là Hán ngữ. Các nhà trí thức, khoa bảng Việt Nam đã Việt hóa Hán ngữ để giữ độc lập, giữ chủ quyền Việt đối với Trung Hoa. Ngày nay những từ Hán Việt dùng ở Việt Nam không còn theo những qui luật Việt hóa độc lập như xưa nữa mà dùng lung tung, hổ lốn, loạn xà ngầu, mạnh ai người ấy chế ra đem dùng. Hoặc vì ngu dốt, vì lười biếng, vì rơi vào chính sách đồng hóa của Trung Hoa, giới trí thức Việt Nam, báo chí truyền thông Việt Nam tự mình chế ra những từ Hán Việt đem vào ngôn ngữ Việt (một số giới báo chí, truyền thông Việt Nam ở hải ngoại mù quáng bắt chước lấy theo). Áp dụng các qui luật ngôn ngữ học của tổ tiên ta ngày xưa ta có thể học tiếng Trung Hoa qua tiếng Việt bằng: a. Từ đôi Từ đôi là hai từ thường là danh từ khác âm đi đôi với nhau hay bắt cặp với nhau theo âm dương. Có hai trường hợp: .theo âm dương tương thuận có nghĩa như nhau hay có cùng một gốc nghĩa, tôi gọi là từ đôi điệp nghĩa ví dụ như gà qué: con gà là con qué, ta có gà = qué. .hoặc theo âm dương đối nghịch có nghĩa đối nghịch nhau theo âm dương, tôi gọi là từ đôi nghịch nghĩa, ví dụ trăng trời. Qui luật âm dương về từ đôi trong Việt ngữ của Nguyễn Xuân Quang: Hai từ đôi theo âm dương tương thuận có nghĩa như nhau hay có cùng một gốc nghĩa, tôi gọi là từ đôi điệp nghĩa hoặc theo âm dương đối nghịch có nghĩa đối nghịch nhau, tôi gọi là từ đi đôi nghịch nghĩa. Ta có thể dùng từ đôi, từ cặp đôi để học tiếng Trung Hoa ví dụ ./ Từ đôi gồm một từ Việt và một từ Hán phát âm theo piyin: -đen xì Theo qui luật từ đôi hay đi cặp đôi ta có đen = xì. Xì là tiếng pinyin (phiên âm, giọng Quan Thoại) của Hán ngữ tịch夕là tối, đêm bao hàm nghĩa đen (tối đen, đêm đen). -mảnh dẻ Mảnh là mỏng như mỏng manh. mỏng mảnh, mảnh khảnh. Theo qui luật từ đôi ta có mảnh = mỏng = dẻ. Từ dẻ chính là tiếng pinyin dié của gốc cổ Hán ngữ điệp có nghĩa là mỏng được diễn tả bằng cách vẽ hình cây có lá. Dié là mỏng (cổ ngữ).(Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters, Sinolingua Beijing, 1993) Dié, mỏng dạng chữ cổ như thấy trong hình vẽ hình cây có lá. Dẻ, dié biến âm với yè, điệp, lá. Ta thường ví mỏng như lá, áo lá là áo lót mỏng, mỏng như tờ giấy. Cũng xin nói thêm là tiếng Việt rất đa dạng, từ mỏng của Việt ngữ biến âm với nhiều ngôn ngữ. Ta có từ đôi mỏng dính với dính chính là Anh ngữ thin (theo d=th, dính = thin), từl áy mỏng manh với manh chính là Pháp ngữ mince (mỏng) và mỏng tang, mỏng tanh với tang, tanh là Phạn ngữ tan, mỏng. -xì hơi Ta có xì = hơi. Theo x=q= qu như xoăn xoắn = quăn, quắn, xì = qì. Qì là pinyin của Hán Việt khí. Theo q=c=k = kh, qì = khí (khí mây, hơi…). Tóm lại xì hơi có xì = pinyin qì = Hán Việt khí = hơi. -xì mũi Ta cũng có mũi liên hệ với khí, không khí, hơi nên có từ xì mũi, xỉ mũi: hỉ mũi (theo h= s = x như hói = sói, ta có xì, xỉ = hỉ) nên xì ruột thịt với mũi, Hán Việt tị, tì 鼻, theo x=b, như xẹp = bẹp, xì, xí = bí (pinyin là mũi). Tị biến âm với xì thấy rõ qua từ Tỵ 巳 (chi thứ sáu trong 12 địa chi) có pinyin cũng là xì. Xì liên hệ với mũi thấy rõ qua tên con tê giác pinyin là xì. Con tê giác là con thú có sừng ở mũi (tê biến âm với tị, mũi) và xì biến âm với zì (tự) vẽ hình cái mũi. Chữ Zì (tự) vẽ hình cái mũi. -cũ xì 昔 tích, xưa, trước, tích nhật 昔日 ngày xưa. Piyin là xì, cũ xì là cũ xưa. Xì cùng âm với xì là tịch, đêm giống như tích biến âm với tịch nên tích cũng có một nghĩa là đêm như nhất tích 一昔 một đêm. ./ Từ đôi gồm một từ Việt và một từ Hán Việt: -kẻ sĩ 士 sĩ Ta có kẻ = sĩ. Việt ngữ kẻ = kẻ (cây thẳng dùng làm thước để gạch: thước kẻ), kẻ = kè (nọc đóng ở bờ nước) = ke (bộ phận sinh dục nam) = kì , ki (cây) = que (nọc, cọc)… Tóm lại kẻ có gốc cây, nọc, cọc, c…c . Kẻ chỉ người nam, người cột trụ, người miền núi,người tộc hươu, tộc Kì Dương Vương, chỉ núi kì, núi cột trụ thế gian. Hán Việt sĩ chỉ phái nam có học thức, học giả giữ vai cột trụ, rường cột, lương đống: Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. (Nguyễn Công Trứ, Kẻ Sĩ). là những người quan trọng nhất trong xã hội ngày xưa : Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. (1) Có giang sơn thì sĩ đã có tên, Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí… (Nguyễn Công Trứ, Kẻ Sĩ). (1) Tước có năm bậc thì sĩ cũng dự vào; dân có bốn nghề thì sĩ đứng đầu tiên: sĩ, nông, công thương. Và sĩ cũng rất quan trọng trong xã hội ngày nay như bác sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, binh sĩ (binh lính cũng được gọi là sĩ vì ngày xưa chỉ phái có sĩ, có cọc mới phải đi lính (lính ngày xưa phải có linga) và binh lính liên hệ với cọc nhọn, khí giới (Ngoài biên thùy rạch mũi can tương).… Nguồn gốc của từ sĩ cũng giống như từ kẻ có nghĩa là cọc, cược, bộ phận sinh dục nam. Chữ sĩ vẽ hình bộ phận sinh dục nam hay phát nguyên từ hình vẽ một thứ khí giới cổ. Theo hình trên, sĩ vẽ hình bộ phận sinh dục nam hay phát nguyên từ hình vẽ một thứ khí giới cổ. Bộ phận sinh dục nam được biểu tượng bằng cọc, nọc vật nhọn (ví dụ penis có pen-, cây viết, nguyên thủy cây viết là một vật nhọn), giống như khí giới cổ đơn giản cũng chỉ là một vật nhọn. Sĩ chỉ bộ phận sinh dục đực cũng thấy rõ qua từ mũ, Hán Việt mẫu 牡 chỉ con thú đực có chữ sĩ như mẫu ngưu là con bò đực. Mẫu cũng còn có nghĩa là cây chốt cửa, nọc then cài cửa, như thế con vật đực có nghĩa là con thú có nọc, cọc. Mẫu biến âm với mâu, vật nhọn, khí giới nhọn như xà mâu, mâu thuẫn, với Việt ngữ mấu (ngạnh sắc), bấu (bằng móng nhọn sắc). Ở hình trên cũng xin lưu ý ở phần tham khảo (for reference) của chữ mũ (đực, nọc, cọc) có vẽ hình con hươu sừng ở dưới bụng có phụ đề hình cây cọc cắm trên mặt đất có ý cho biết là con hươu cọc, hươu nọc, đực. Điểm này cho thấy hươu sừng biểu tượng cho thú đực, nọc, cọc. Con hươu, con hưu, con hiêu là con hèo (roi, nọc). Theo h=k như hết = kết, ta có hèo = kèo (cọc nhỏ), ta có từ đôi kì kèo nên kèo = kì ( ki, cây). Con hươu = con hèo = con kèo = con kì. Kì Dương Vương có một nghĩa là Vua Hươu Đực có nhũ danh là Lộc Tục (Hươu Đục, Hươu Đực). Hán Việt lộc = Việt ngữ nọc. Con lộc là con nọc, con cọc, con log (khúc cây). Vì thế con hươu là con cọc như thấy trên hình, tên cổ Việt con hươu sừng là con Cọc do đó trò chơi Bầu Cua có con hươu sừng, con Cọc nên phải gọi là Bầu Cua Cá Cọc thay vì gọi sai là Bầu Cua Cá Cọp (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Cũng xin lưu ý chữ sĩ 士 tương tự như chữ thổ 土 là đất, tại sao? là vì thổ, đất thế gian liên hệ với trụ chống trời được biểu tượng bằng Núi Trụ Thế Gian (núi Kì), trong ngũ hành của Trung Hoa khi diễn tả theo hình vuông thì hành Thổ ở giữa tâm hình vuông, tức là hành trục, cột trụ. Trong giáp cốt văn Thổ được diễn tả bằng một trụ đá mang hình ảnh núi trụ thế gian, núi Kì, trụ chống trời, hình ảnh ông Bàn Cổ (Bàn là phiến đá bằng như bàn thạch là đế giữ trụ cho vững và Cổ là cột trụ (cổ là cột trụ cắm đầu vào thân mình). Ông Bàn Cổ là ông Trụ Chống Trời biểu tượng cho cõi đất thế gian. Trong giáp cốt văn Thổ (tũ) được diễn tả bằng một trụ đá. Thổ liên hệ với cột trụ, cọc như chữ sĩ nên giống chữ sĩ chỉ khác nét ngang ở đáy. Thổ là đất là cõi bằng vì thế nét ngang ở dưới biểu tượng cho mặt đất bắng nên phải cường điệu dài hơn nét ngang ở đáy chữ sĩ (nét này ở chữ sĩ chỉ thành bụng chỗ cái cọc đâm ra). (sẽ có một bài viết riêng về từ sĩ). Bí quyết học tiếng Trung Quốc của Lãn Miên Phân tích TỪ ĐÔI theo “ Qui Tắc tạo ngôn từ Việt” của Lãn Miên: Đặc điểm đặc sắc nhất của tiếng Việt là “đơn âm thành nghĩa” (theo khẳng định của các học giả Trung Quốc, khi nghiên cứu ngôn ngữ Bách Việt cổ đại trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay) tức là nói ra một “tiếng” là đã thành một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “từ” (theo khẳng định của giáo sư ngôn ngữ học Việt Nam Cao Xuân Hạo). Một tiếng (phát ra là đơn âm tiết) mà có ngay một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “nhất nguyên”. Do tư duy Việt là tư duy phồn thực Âm Dương nên một “tiếng” phát ra có nghĩa ấy họ coi nó như là một cái “trứng ”, mà biết Nói khi nó Nở rồi Nảy ra khỏi cái Nôi sinh ra nó (“Trứng”= “T,rưng” = “Tửng Từng Tưng”= “Tiếng”, như tiếng đàn, nên Cổ Hán Thư từ ngàn năm trước công nguyên đã có nhận xét rằng: người Bách Việt nói như chim hót). Cái Nôi để cho Nở ra tiếng Việt ấy chính là cái Mồm của người Việt, nhưng người Việt phân biệt rõ cái Mồm để ăn khác với cái “Mồm để nói thành Tiếng”= (lướt)= “Miệng” (về sinh học, chúng rõ ràng là hai cơ quan chức năng khác nhau có phân biệt rõ ràng; các ngôn ngữ khác kể cả Hán ngữ chỉ có dùng chung một từ “mồm” cho cả chức năng ăn cả chức năng nói). Giáo viên dạy tiểu học ngày nay không biết qui luật tạo ngôn từ của tiếng Việt nên câu “hãy luôn vệ sinh răng mồm” thì lại nói với học sinh “hãy luôn vệ sinh răng miệng”; câu “hãy mở miệng phát âm cho to” thì lại nói với các em “hãy mở mồm phát âm cho to”, không như thời xưa tôi học lớp đệ ngũ (lớp đầu tiên của cấp một bây giờ) được dạy phân biệt rõ ràng, dù thời đó Việt Nam chưa có thạc sĩ hay tiến sĩ ngôn ngữ học nào cả. Một từ của tiếng Việt là một đơn âm tiết, nó có thể là: - Một tiếng kết cấu bằng phụ âm đầu (tôi gọi nó là cái Tơi tức cái vỏ của Tiếng, như cái áo tơi – tiếng Tây gọi là condom, còn ám chỉ cái “bao cao su”) với phần âm vận tiếp sau (tôi gọi nó là cái Ruột). Ví dụ từ Hôi và từ Tanh thì H- và T- đều là cái Tơi, âm vận -ôi và –anh đều là cái Ruột. Hôi Tanh là một từ Đôi, vì Hôi và Tanh là cùng Chất tức cùng Nòi nhưng khác Sắc nhau, chung lại Hôi Tanh mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn). Chính bởi mỗi tiếng ở qui tắc này đều có đầu là Tơi , là cái vỏ, nên người Việt mới biết nuôi loài chim dễ dạy nó bắt chước tiếng người và gọi nó là chim Tiếng, nhưng lại biết kỹ thuật bóc cái Tơi của Lưỡi nó khi nó còn nhỏ để cho lưỡi nó mềm dễ tập nói hơn, nên con chim Tiếng bị bóc mất Tơi rồi , tức mất “T” rồi thì thành ra gọi là con chim Yểng, sau thành tên gọi muôn thủa cho loài chim đó luôn. - Một tiếng do một nguyên âm đơn lẻ hoặc một âm vận tạo nên (tôi gọi chúng chung là “tiếng vắng Tơi”). Ví dụ từ U và từ Em đều có mẫu số chung là “vắng Tơi” tức “vắng Phụ âm đầu”. Tại sao không dùng “không có”? Bởi vì “không có” là một khái niệm, tạo thành bằng hai từ Không và Có, đó đã là một câu phủ định hẳn hoi chứ không phải là một từ, “từ” của tiếng Việt chỉ là có một “tiếng” mà thôi. Ở đâu ra cái từ “vắng” ấy , mà khái niệm nó chuyển tải nghĩa là “không có mặt tại hiện trường” là cả một câu rõ dài. Nó chính là từ Qui tắc tạo ngôn từ Việt mà ra. Khái niệm Âm của người Việt tương ứng con số zero là 0=Mô=Vô=Nỏ=Chớ=Chăng=Chẳng, là những tiếng đơn âm tiết khác nhau nhưng có chung một nghĩa là “không”. Như vậy về “nghĩa” thì những “trứng” này là cùng một Nòi, chẳng hạn cùng là trứng gà hay cùng là trứng vịt; nhưng về âm phát ra tức về “sắc” ( như là sắc thể DNA) thì chúng khác nhau. Bởi vậy nếu hai từ trong số đó ghép cùng với nhau thì chúng như hai trứng cùng Nòi khác Sắc, như là trứng Đực và trứng Cái (Dương và Âm) hút lại với nhau trong một cái Nôi, như thành một cái trứng có hai lòng đỏ trong cùng một Nôi (khác với Tiếng đơn chỉ như một cái Trứng có một lòng đỏ) nên gọi là một Đôi (Đôi đã là hàm ý Âm Dương tương thuận rồi, như đôi đũa, đôi vợ chồng, nên chỉ gọi nó bằng một tiếng “Đôi” là đủ hiểu, như tư duy “đơn âm thành nghĩa” của ngôn ngữ Bách Việt). Đó là các từ Đôi vẫn được dùng thường xuyên trong ngôn ngữ dân gian Việt như: Mô Nỏ, Mô Chớ, Mô Chăng, Chăng Chớ, Vô Chẳng, vẫn cùng nghĩa với các Trứng đơn kia vì chúng đều cùng Nòi, nhưng vì chúng như trứng sinh đôi hai lòng đỏ nên Nghĩa của chúng mang khái niệm Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) là chỉ dùng Trứng đơn một lòng đỏ. Từ “Vô Chẳng”=(lướt)=Vắng, đã do qui tắc Lướt mà thành một “tiếng”. Nhiều dân tộc gọi ngôn ngữ là Lưỡi, như tiếng Anh thì Lưỡi Mẹ (mather tong là Tiếng Mẹ Đẻ), tiếng Nga thì là Lưỡi Nga (i-a-dức Nga). Tiếng Việt thì ngôn ngữ cũng từ Lưỡi mà ra nhưng chẳng dùng thô thiển như vậy, Lưỡi cũng như Mồm, chia hai chức năng là chức năng bản năng và chức năng tư duy rõ rệt. Chức năng bản năng thì Lưỡi=Liếm=Nếm; chức năng tư duy thì Lưỡi=Lời=Nói (trong Hán ngữ chẳng thấy có cái Qui tắc tạo từ logic như vậy, chưa kể các ngôn ngữ khác). Ghép hai tiếng cùng Nòi khác Sắc là Lời với Nói thành Lời Nói (tức từ Đôi, “Âm Dương tương thuận”) thì Lời Nói có nghĩa là Ngôn Ngữ bởi nó hàm ý Nhiều, như Nở ra từ cái trứng có hai lòng đỏ. Về Nghĩa thì Lời=La=Lối=Ngợi=Ngôn (nó đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-việt”). Về Sắc thì Lời=Láy=Lái=Lóng=Líu-Lo=Lanh-Lảnh=Lảnh-Lót=Lẳng-Lơ=Lả-Lơi=Lắt-Léo=Lươn-Lẹo v.v. sinh ra theo Qui tắc Nở (là một trong các Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên) thành vô số từ dính diễn tả muôn sắc thái khác nhau của Lời. Về Nghĩa thì Nói=Gọi=Gạ=Na=Nga=Ngâm-Nga=Ngữ (nó cũng đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-Việt”). Về Sắc thì Nói=Nạt=Nựng=Nịnh-Nọt=Nũng-Nịu v.v. cũng nở ra muôn sắc thái khác nhau của Nói. Từ đôi là từ ghép bằng hai tiếng cùng Nòi khác sắc. Hai tiếng cùng Nòi có thể đều là của Việt, có thể một của Việt, một mượn của tộc khác miễn là nó cùng Nòi (tức đồng nghĩa) để khái niệm thành ý Nhiều (hơn). Ví dụ cùng Nòi “gà” thì Gà (từ Việt) ghép với Qué ( từ Hoa, Qué=Kê) thành từ đôi Gà Qué có nghĩa là nhiều loại gà; cùng Nòi “tre” thì Tre ( từ Việt) ghép với Pheo (từ Mường) thành từ đôi Tre Pheo có nghĩa là nhiều loại tre; cùng Nòi chó thì Chó (từ Việt) ghép với Má (từ Tày) thành từ đôi Chó Má có nghĩa là nhiều loại chó. Từ Kẻ Sĩ không phải là một từ đôi mà chỉ là một từ ghép chỉ người có học. Kẻ Sĩ người Hán đã dịch theo kết cấu ngữ pháp Hán thành từ Sĩ Tử, có thể chấp nhận Sĩ Tử là một “từ Hán-Việt” vì nó viết theo kết cấu Hán là phụ trước chính sau ngược với kết cấu Việt là chính trước phụ sau, nhưng Sĩ và Tử đều là những tố gốc Việt. Chứng minh: Bắt đầu là từ Đẻ trong “Đẻ Đất Đẻ Nước”, Đẻ=Kẻ=Cò (thằng trai, tiếng Thanh Hóa)=Kô ( tiếng Nhật, Kô-đô-mô nghĩa là con trai)=Con (nghĩa là con trai)=Cái (nghĩa là con gái)= Cu (tiếng Vân Kiều)=Tu (tiếng Tày)=Tử ( có viết bằng chữ nho)=Tí (tiếng Việt)=Đĩ=Kỹ (kỹ nữ)=Sĩ (học giả). Trong tất cả 13 từ cùng Nòi chỉ người, của đại tộc Việt, kê trên chỉ có vài chữ được viết bằng chữ nho, người Hán mượn dùng những chữ đó. Cũng trong những từ cùng Nòi kê trên có các từ đôi như Cu Tí (chỉ bọn nhóc con), Con Cái (chỉ cả trai cả gái). Phân tích TỪ ĐỐI theo Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên: Về hình thức thì từ đôi viết bằng hai “tiếng”, ví dụ từ Hôi Tanh; từ dính viết bằng hai “tiếng” nối nhau bằng một gạch ngang, ví dụ từ Lả-Lơi; thì từ đối nên viết bằng hai “tiếng” giữa có một gạch xẹt, ví dụ từ Đỏ/Đen (cũng như là Dương/Âm hay Một/ Mô tức 1/0). Bản thân Đôi/Đối cũng đã là một Từ Đối, vì Đôi mang khái niệm “Âm Dương tương thuận”, Đối mang khái niệm “Âm Dương tương nghịch”, hai nghĩa này nghịch nhau. Trong tiếng Việt, chỉ cần đổi một cái dấu thanh điệu khác đi là thành ngay một tiếng nghịch nghĩa với tiếng đầu, ví dụ đứa trẻ lên hai vừa biết nói đã biết biểu đạt phủ định “ Ứ!” là khái niệm “ không” và khẳng định “ Ừ!” là khái niệm “có”. Từ đối Ứ/Ừ là từ đối tạo thành bởi hai tiếng cùng “vắng Tơi”, còn nếu viết Ứ ừ ! thì đó không phải là một từ mà là một câu mang khái niệm “không đồng ý”. Chỉ cần đổi khác cái dấu thanh điệu là có ngay một khái niệm nghịch nghĩa với khái niệm đầu. Ví dụ Đôi/Đội cũng là một từ đối, vì Đội mang khái niệm “ nhiều cá thể”, nghịch với Đôi mang khái niệm “chỉ có hai cá thể”; Đối/Đổi cũng là một từ đối, vì Đổi mang khái niệm “khác đi không nhất thiết 180 độ”, nghịch với Đối mang khái niệm “khác đi phải nhất thiết 180 độ”. Nguyên thủy thì các từ đối trong tiếng Việt phải là cặp tiếng có mẫu số chung là “cùng chung Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”. Cùng chung Tơi như cặp Sáng/ Sém ( Sáng và Sém cùng chung Tơi “S”), Xích/Xám (Xích và Xám cùng chung Tơi “X”), Đỏ/Đen (Đỏ và Đen cùng chung Tơi “Đ”, Tỏ/ Tối ( Tỏ và Tối cùng chung Tơi “T”), do nghĩa chúng tương tự nhau và người dùng không nắm qui tắc nên dần dần xếp lộn cặp như Sáng/Tối, Đỏ/Tối ( đỏ lửa / tối đèn). Theo Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên thì Khái niệm lớn:Tỏ=Đỏ=Rõ=Rạng=Sáng=Láng=Lượng=Xương=Xích đã cho thấy là từ thuần Việt có trước, “từ Hán-Việt” có sau, là từ cái “từ tố” của Việt, trong các chữ Việt ấy chỉ có vài chữ Việt có viết bằng chữ nho là Lượng, Xương, Xích và Hán có thể mượn của Việt để dùng, và được gọi là “từ Hán-Việt”. Khái niệm nghịch với Tỏ là Tối: Tối=Túi=Tịch thì chỉ có mỗi Tịch của Việt là được viết bằng chữ nho, và Hán mượn dùng chữ đó để gọi Tịch là ban đêm, họ phát âm là Xi, do nó chính là âm Xì của Việt. Âm Xì này được sinh ra như thế nào? Người Việt có câu thành ngữ “Xám như màu Chì”, đã theo Qui tắc Lướt mà tạo ra “Xám như màu Chì”=(lướt)=Xì. Xì sẽ cùng nghĩa với Đen, nên mới có từ đôi là Đen Xì mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) cái khái niệm Đen (hai “trứng” rõ ràng là nhiều hơn một “trứng”, nếu thêm láy nữa là Đen Xì Xì thì lại càng mạnh ý hơn vì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”). Người Hán đã mượn âm “Xì” này và họ phát âm là “Xi” để đọc chữ Tịch, nghĩa là ban đêm. Mà từ Việt: Đêm=Đen=Hoẻn=Hắc=Hóng (bồ hóng thì màu đen)=Bóng (bóng của vật thì màu đen, Bóng Đêm hay Bóng Đen đều là những từ đôi), trong những chữ cùng Nòi khác Sắc ấy chỉ có một chữ Hắc của Việt là được viết bằng chữ nho, người Hán mượn chữ ấy và phát âm chữ ấy là “hây”. Tóm lại nếu cứ theo Qui tắc tạo từ Việt của Lãn Miên thì bất cứ Nôi khái niệm lớn nào cũng gồm rất nhiều từ cùng Nòi của gốc Việt tất, trong đó chỉ có số ít chữ có viết bằng chữ nho thì được Hán mượn dùng trong Hán ngữ. Kê ra thì bao giờ cho hết, nên lại chỉ nêu một ví dụ: Khái niệm lớn “bộ để che” là: Che=Dẻ=Da=Lá=Liếp=Diệp (có chữ nho, người Hán phát âm là “dê” vì họ không phát âm được cái âm ngậm như người Việt Nam hay người Quảng Đông)=Nẹp=Nắp=Nốc (cái thuyền nan có mui)=Mộc (cái mộc che đỡ khi đấu gươm)=Mui=Mái=Cái (có chữ nho, người Hán phát âm là “cai dử” hiểu là cái mái nhà), thời tiền sử người Hán ở hầm đào hàm ếch trong lòng đất làm gì có khái niệm mái nhà.Trong các từ Việt ấy có từ đôi như Da Dẻ, Mái Mui, Lá Liếp. Bí quyết khi học tiếng Trung Quốc và chữ nho là: Chỉ cần hiểu đúng lịch sử 5000 năm văn hiến Lạc Việt ở bờ nam sông Dương Tử thì người Việt Nam học tiếng Trung Quốc hay người Trung Quốc học tiếng Việt Nam đều thấy rất dễ dàng, nhanh đến độ mới học một từ đã biết ngay được hai chục từ.
-
Giải Sấm bằng qui tắc tạo ngôn từ Việt Câu Sấm: Bò đái thất thanh nam đàn sanh Thánh Song ngư liền địa Nghi Lộc phát vương Giải nghĩa: “Bò đái”: Cái Lưỡi Bò của chủ nghĩa bành trướng “Đại Hán” (tức “hạn đái” là cái hạn đang “đợi đấy” = “đái”) vẽ vô lý trên biển Đông sẽ bị “thất thanh” (tức “mất banh” hay mất bóng trên sân đấu mà phải “rụt lưỡi” lại) vì đuối lý trước chứng cứ lịch sử chính nghĩa của Việt Nam, vì trong cuộc “nam đàn” (tức “nan đàm” là cuộc đàm phán hòa bình rất khó khăn này thì phía người Nam xuất hiện Thánh, Thánh này là Lòng Yêu Nước của mỗi con người Việt Nam, nó như “Của quí cất kỹ trong rương. Tổ Quốc động rường, lẳng lặng lấy ra”. “Song ngư liền địa”: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cuối cùng sẽ phải trả lại cho Việt Nam, như vốn xưa đất của Đế Nghi và Lộc Tục (“Nghi Lộc”) tổ tiên của người Lạc Việt dòng giống Tiên Rồng là phải vuông (“phát vương”). Thánh ấy là con người Thánh Hiền thật, chứ không phải là như ông Phỗng bụng Rỗng, óc Ruỗng, ăn rau Muống, nói toàn Suông. Chú thích giải phẫu ngôn từ Việt: (bên) Trong khÔNG=(lướt)=TRỐNG; Ruột khÔNG=(lướt)=RỖNG; (rau) Mềm mà rUột rỖNG=(lướt)=(rau) MUỐNG; Ruột như ruột rau mUỐNG=(lướt)=RUỖNG Phủ rỖNG=(lướt)=PHỖNG; thất thanh: tắt đài, đuối lý Thất Thanh=Mất Bành (trướng); (nói) Sang sảng mà rUỖNG (chẳng có hiệu lực)= (lướt)=(nói) SUÔNG
-
Sau khi “Hai bên thỏa thuận định hướng dư luận”, tôi đọc mạng: ( bookmark.people.com.cn ) thấy nhiều bài đăng quá, không có thời gian đưa hết lên, dưới đây chỉ đưa hai bài cho bạn đọc tùy tâm bình luận, nếu thấy bài nào “định hướng dư luận” trên báo ta thì đưa lên cho mình đọc với. Bài thứ nhất Bài trên trang chủ báo Nhân Dân điện tử TQ: Kiên định tư tưởng Mao Trạch Đông, đường lối Đặng Tiểu Bình, chủ quyền của TQ đối với biển Nam Hải (biển Đông) là không thể tranh cãi坚定毛泽东思想,邓小平路线,中国南海(东海)主权无可争辩, ngày giờ đăng发表时间: 2011-07-09 10:39:43. Toàn văn: Trung Quốc đã thể hiện minh xác, Trung Quốc kiên định tư tưởng Mao Trạch Đông, đường lối Đặng Tiểu Bình, chủ quyền của TQ đối với biển Nam Hải (biển Đông) là không thể tranh cãi. Lập trường là “Đánh”, quyết không thoái lùi. Quyết không mềm tay立足于“打”,决不后退。绝不手软. Đối với cácnước xung quanh, TQ kiên trì “trường kỳ ổn định, mặt hướng tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện”. Đối với quốc gia như Việt Nam, TQ vẫn cho rằng ý thức hình thái quan của họ là đồng thuận với TQ, tăng cường chỉ đạo tinh thần ‘bốn tốt” là “Láng giềng tốt”, “Bạn bè tốt”, “Đồng chí tốt”, “Đối tác tốt”. Do nguyên nhân lịch sử, Trung Quốc xưa nay bỏ lơ hành sử quản hạt đối với chủ quyền ở Nam Hải, lưu lại một diện tích trắng to lớn, các nước lân cận tùy tâm tham mà chiếm lấy. Đến ngày nay khi TQ tiến vào hành sử chủ quyền của mình, tất nhiên làm cho các nước ấy có tâm lý bị áp lực . Khiến cho họ có cảm giác bị TQ chèn ép không gian sinh tồn của họ, việc này cần một lộ trình thích đáng, chẳng có gì là lạ. Đương nhiên, nếu các nước lân cận ấy không chịu tu chính, lại còn phán đoán sai lầm hình thế quốc tế, với lại kết bè lợi ích với một số quốc gia khác, khều chọc, quên hết tất cả, tự hót đắc ý, mê mà không ngộ, tất nhiên sẽ dẫn đến họ đuối lý trí, làm hàng loạt các cử động tổn người hại mình, nhưng họ tưởng gây như thế để làm nhụt ý chí kiên cường bảo vệ chủ quyền của TQ, thì họ tuyệt đồi là những ý đồ bệnh hoạn, tuyệt đối không đạt được gì, ắt sẽ thảm bại cuốn khỏi chiến trường ! ! ! Trung Quốc xác thực phải làm cho họ ý thức được điều này với một cảm nhận minh xác必定会以惨败收场!!!中国确实要让他们明确感知且意识到这些。 “Chủ quyền là ở Tôi, Tiêu trừ tranh chấp, Hợp tác cùng thắng” “主权在我,消除争议,合作共赢”. “Chủ quyền ở Tôi”, đấy là tuyệt đối, không thể lung lay, nhận rõ căn nguyên sản sinh tranh chấp,mục đích là để tiêu trừ tranh chấp vô lý sản sinh khi một số nước vì muốn tăng chút nặng lên bàn cân để kiếm chút lợi ích mà tạo nặn ra các tranh chấp. Để đạt mục đích hòa bình, hợp tác cùng thắng, cộng đồng phát triển. Đường lối thứ hai của Đặng Tiểu Bình, điều thứ 2, thương cáo hợp tác. Nếu họ (các nước lân cận) không nhận rõ địa vị của mình, không chịu hợp tác trên điều kiện công nhận chủ quyền không thể tranh cãi là thuộc TQ, thế thì là họ đã tự bỏ, tự họ gánh lấy mọi hậu quả sẽ xảy ra với họ do việc đó, vừa không thỏa mãn được cái tâm lý quật khởi bất khuất của họ, vừa chẳng đạt được chút phần thưởng nào trong hợp tác. Đợi đến khi Trung Quốc sang bước dùng vũ lực để thu phục thì là ngày họ triệt để thất bại ! 就是他们彻底失败的那一天!Điều kiện tiên quyết mà bị họ chà đạp thì nói hợp tác chẳng còn cơ hội nữa. Xã hội ngày nay mà có người còn mộng tưởng các thủ đoạn dùng súng chiếm đất, chiếm trộm, hoặc thừa cơ lúc người ta nguy để đạt mục đích của mình thì quá lỗi thời rồi, quá nực cười, những hành vi đó của họ mà đạt được thành quả gì trước một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh thì chảng hóa TQ là kẻ vô năng, TQ ắt phải rời khỏi vũ đài lịch sử. Giả thiết nếu như có thực những hành vi nêu trên, thì TQ bất cứ lúc nào tùy thích có thể đổi tên những vị trí mà Việt Nam và Philippin đã chiếm rồi. Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm của thế giới, Trung Quốc kiên trì nguyên tắc của chính mình, quyết sẽ không dao động (cũng không thèm đôi co với tiểu nhân). Trung Quốc ngực có thành trúc. Trung Quốc tất định thắng lợi. Từ thắng lợi bước tiếp thắng lợi càng lớn hơn ! ! ! ! ! Trên thế giới còn có quốc gia nào như Trung Quốc vĩ đại như thế này, thế nhân đều thấy tại mắt , rõ trong lòng. Trung Quốc đích chính nghĩa chi kỳ, tất nhiên cao cao phiêu giương! 中国的正义之旗,必然高高飘扬! ( Thảm thiệt !, “Định hướng” = Bịnh Trương = Bành Trướng ) Bài thứ hai Bài của Triệu Trung Tường, chủ trì Đài truyền hình trung ương Trung Quốc: Trung Việt wuýnh nhau, nước Mỹ mừng nhất中央电视台主持人赵忠祥:中越打仗,美国最高兴. Toàn văn: Tôi có một bức ảnh chụp kiểu kinh điển năm 1964, phông sau của ảnh là tấm bản đồ Việt Nam, lúc đó báo đề cập đến vấn đề VN. Từ chống Pháp đến chống Mỹ,lập trường của chúng ta là nhất trí đứng về phía nhân dân VN, ủng hộ lập trường của họ là chống ngoại xâm, đòi độc lập và tôn nghiêm, khiển tránh hành vi chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, lúc đó quan hệ Trung Việt rất tốt. Đại đa số các bài báo đều là do tôi trực tiếp phát đi. Tôi từng phỏng vấn thủ tướng Phạm Văn Đồng, thay mặt đài truiyeefn hình trung ương TQ, đem thiện ý hữu hảo của nhân dân TQ biểu đạt mong ước viễn cảnh quan hệ hữu hảo giữa hai nước trong tương lai. Đầu những năm 60 thời kỳ chiến tranh VN, chúng ta đã viện trợ cho VN rất nhiều, là viện trợ vô tư. Lúc đó TQ rất khó khăn, Mao Chủ tịch nói, vét đến đáy kho của chúng ta cũng phải viện trợ cho họ. Trong thời kỳ đó tôi có hai đồng nghiệp phải đi VN làm phóng sự ở tuyến đầu, tôi còn nhớ tôi ra sân ga tiễn họ mà nước mắt lưng tròng. Đó là những năm tháng khó quên, chúng ta kiên quyết chi viện cho họ. Năm 1979, tôi đang tháp tùng đồng chí Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, ngày thứ ba sau khi đến Mỹ, đột nhiên phát hiện các ký giả Mỹ xung quanh tôi có vẻ rất vui mừng, tôi chưa từng thấy người Mỹ hào hứng như vậy bao giờ. Lúc đó tôi còn chưa biết là xảy việc gì. Họ nói với tôi, các ông đã đánh nhau với VN rồi. Lúc đó tôi cảm thấy, Trung Việt wuýnh nhau, nước Mỹ mừng nhất. Việt Nam với chúng ta xưa nay quan hệ rất mật thiết, nhưng phải nhìn cho đúng một số vấn đề tồn tại, chúng ta từng binh nhung tương kiến, miêu nhĩ động hòa “vòng hoa dưới núi cao” 兵戎相见,猫耳洞和《高山下的花环》 là sản sinh trong đoạn thời gian ấy. Chúng ta cùng Việt Nam vốn có cội nguồn sâu xa, tôi cho rằng hai nước hòa hợp thì cả hai cùng được lợi, đánh nhau thì cả hai đều thương vong. Chúng ta giữ nguyên tắc “không xưng bá”, nhưng chúng ta cũng không thể vứt bỏ lợi ích căn bản nhất của quốc gia. Việt Nam là một điển hình trong quan hệ ngoại giao của chúng ta, rất khó nhằn khi xử lý. Cá nhân tôi cho rằng ngày nay không thể hai bên lại giao chiến như trong quá khứ, chúng ta cuối cùng đã là một nước lớn, không những thế chúng ta lớn mạnh đến mức độ mà họ không thể so đọ nổi, nhưng cũng không nên bởi thế mà vì việc này lại đánh nhau với họ. Nhưng trong vấn đề đàm phán , họ lại vô cùng ngoan cố. Do vậy làm cho chúng ta phải đối mặt lâu dài với sự khảo nghiệm to lớn, việc này đối với họ cũng càng là một áp lực. Nước Mỹ ngày nay đang muốn thiết lập quan hệ bạn bè chiến lược với họ, vấn đề có thể biến thành càng phức tạp khó nhằn. Là một công dân phổ thông của TQ, tôi cho rằng hai nước Trung Việt đã là láng giềng thì nên phát triển quan hệ láng giềng hữu hảo, hai bên đối với một số vấn đề nên thông qua một lộ trình thích đáng mà đàm phán. Tóm lại, từ nguồn gốc lịch sử sâu xa mà nói, tôi cảm thấy hai nước nên đời đời hữu hảo với nhau. Tôi không mong tranh chấp dẫn đến binh nhung tương kiến, nhưng chúng ta cũng không cho phép chủ quyền của chúng ta bị xâm phạm.
-
Nhân ngày “dân số thế giới” dư luận có lời kêu gọi loài người hãy sống có đạo đức và tình thương.Tôi dịch hai bài này, của phương Tây ngày nay, và của phương Đông cách nay gần 3000 năm, vì thấy tư tưởng nhân văn nó lại giống nhau. Có thể có câu dịch chưa chính xác, mong bạn đọc lượng thứ. Lời khuyên của một người Cha Ai khen con đẹp, hãy quên Sau khi con nói “cảm ơn” họ rồi Ai khen ngoan, hãy nhớ lời Gắng ngoan hiền nữa, suốt đời nghe con. Thấy người đau khổ khóc than Con kề vai lại thấm tràng lệ rơi Người mang nặng toát mồ hôi Con kề vai lại gánh vơi giúp giùm Gặp người xin xỏ một đồng Con hãy tặng họ hai đồng nghe con Lần sau lại gặp họ xin Con hãy cho họ chỉ nên một đồng Lần ba gặp họ xin không Con hãy im lặng mặc lòng bước đi. Lời khen con biết thực thi Nhưng đừng vung vãi, nó thì thành suông Lời chê con hãy giữ riêng Đừng đem bố thì xóm giềng, ai ai Nụ cười, cho khắp mọi người Hào hoa như nắng mặt trời tỏa lan. Nỗi đau, con nén vào trong Nỗi buồn, hãy biết chia cùng bạn thân Chớ quỵ lụy, chớ khóc than Ngày mai ắt đến, thênh thang bầu trời. Thấy người vấp ngã con ơi Con đưa tay đỡ, nâng người ta lên. Lánh xa kẻ thích quan quyền. Bạn biết đau với nỗi buồn con tôi Còn kẻ ghen tức con vui Nó chính là kẻ thù rồi con ơi Chọn sai, trả giá cả đời Bạn hóa thù, họa đến nơi nào dừng. Hãy cho và lập tức quên. Cái tăm, sợi chỉ, đừng thèm mượn ai. Trước điều nghĩ , chớ nhàn vui Thanh thản chỉ có ở người vô tâm. Đừng bao giờ sợ bóng đêm Với người mù nó sáng êm như ngày. Vui đừng vui quá, buồn ngay Buồn đừng buồn quá, có ngày lại vui. Tiến bước mà đánh mất Tôi Con ơi, dừng lại để lùi, hiểu thêm Lùi nhiều bước nữa, chẳng phiền Nhìn xuống thấp để biết mình chưa cao Nhìn lên, mình vẫn kém sao Đó là thận trọng thấp cao ở đời. Hãy luôn nghĩ đến tương lai Đừng quên quá khứ, những thời đã qua Ngày mai, hy vọng mãi mà Nhưng đừng buông thả việc là hôm nay. May rủi, chuyện của cuộc đời Cuộc đời đâu chỉ những hồi rủi may. Sống trên đời, nói ít thôi Để làm nhiều việc tâm thời nghĩ ra Nếu cần, con hãy đi xa Tìm hạt giống mới để ta mang về Tặng cho xã hội no nê Dù lòng ta cũng chẳng hề đòi công. Những điều Cha viết cho Con Là Cha chắt tự trong tim chân tình Từ trong lao khổ đời mình Bao đêm giữa biển, sóng cồn chơi vơi Long đong vất vả kiếp người Viết cho con tự cuộc đời của Cha Trải nghiệm cay đắng, sâu xa Chắt thành nắng ấm để mà cho Con. Chông gai, cạm bẫy hãy còn Con bớt đau, bớt tủi hờn nghe con Đừng hơn thua với vuông tròn Phần anh, phần chị, ai giành mặc ai Con hãy chậm bước đường dài Dù con đến muộn, đừng hoài phận sau Dù chẳng ai để phần đâu Cái điều nhân nghĩa con hầu nhớ ghi Hãy buồn với chuyện bất nghì Một điều có thật: Sống thì yêu thương. Ngày Lễ dành cho Cha 19-6-2011 (Mạng: truewhisper.com Father child patience trust time love pride joy ) Nội dung bài này thể hiện nhân văn của xã hội dân chủ tự do ở nước Mỹ ngày nay. Nhưng nội dung nó cũng phần nào giải thích được câu thành ngữ Việt Nam “giàu con út, khó con út”, ít ra là câu thành ngữ này đã có từ 5000 năm trước, một trong những mật ngữ còn sót lại của thuyết khoa học Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt, mà Thiên Sứ đã giải thích trong môn khoa học ứng dụng là “ Lạc Việt Độn Toán” và “ Lạc Việt Luận Tuổi” do Sư Phụ sáng tạo. Tư tưởng nhân văn ấy của một xã hội văn minh thời hiện đại, lại phảng phất tư tưởng của nền văn minh Văn Lang 5000 năm trước của Lạc Việt, mà về sau Khổng Tử đã tổng kết thành đạo Nho, là đạo đức của dân cư cái nước tuy Nhỏ mà rất Nhã nên gọi là Nho Nhã. Đạo đức xã hội ngày nay ở Trung Quốc và ở Việt Nam đều có hiện tượng xuống cấp trầm trọng trong mọi lĩnh vực. Ở Trung Quốc, ông Lưu Á Châu, chủ nhiệm chính trị bộ đội Không quân Quân khu Bắc Kinh, trong bài nói chuyện ngày 11-9-2002, mục “Đâu là chỗ thực sự đáng sợ của nước Mỹ” đã nêu và dẫn chứng minh ba điểm là : Một là Cơ chế tinh anh (nói về cơ chế tuyển chọn cán bộ), Hai là Độ lượng và Khoan dung, Ba là Sức mạnh vĩ đại về Tinh thần và Đạo đức ( “Ý tưởng dân chủ đã thấm sâu vào sinh mạng của họ, vào máu, trong xương cốt. Một dân tộc như vậy không làm chủ thế giới thì còn ai làm chủ được thế giới?”). Điểm thứ Ba mà ông Lưu nêu, lại giống như Văn Minh Văn Lang thời các vua Hùng, thời mà “vua tôi cùng cày ruộng”, làm gì có chia giai cấp để mà chuyên chính và đấu tranh. Thể hiện ở cái bánh chưng (là Trái Đất) được buộc bằng sợi Lạt Hồng, Lạt Hồng=Lạc Hồng=Luật Rộng. Hiểu tiếng Việt như vậy thì cụm từ “dự thảo luật” chỉ cần gọi bằng một từ là Lạt. Lạt ấy phải qua Luộc Chín (vì bánh chưng có luộc chín rồi mới ăn được). Từ Luộc Chín của tiếng Việt chính là cụm từ “phản biện và thẩm định luật”, việc này từ thời Văn Lang cho đến thời nhà Trần được diễn ra ở hội nghị Diên Hồng ( Diên=Dài=Diện=Dộng=Rộng; Hồng=Rộng, tức là hội nghị rộng toàn dân), để rồi thông qua Lạt trong không khí dân chủ toàn dân, lúc đó thì Luộc Chín sẽ biến thành Luật Chính, và Luật Chính ấy lại là Luật Rộng của Lạc Hồng. ( Sau bị Hán hóa nên không gọi là Luật Chính mà gọi là Chính Luật, lại bảo nó là từ Hán-Việt. Nó là từ gốc ngôn ngữ của dân Chầy Cối là dân Lạc Việt đấy ạ!, nhắn gởi lại trên cái bánh chưng có từ 5000 năm trước). Ở Việt Nam, hiện tình xuống cấp đạo đức xã hội làm nhà thơ Bùi Minh Quốc phải than phiền: “ Ngoảnh mặt vào đâu cũng đều lợm mửa. Ở thời mà cái Đểu lên ngôi”. Việc Trung Quốc mở Viện Khổng Tử khắp thế giới, đặt tượng Khổng Tử ở quảng trường Thiên An Môn, rồi mới đây lại bưng tượng ấy vào trong bảo tàng, thể hiện là vẫn còn loay hoay tìm nguyên lý cho đạo đức toàn xã hội. Văn hóa là cái mạnh nhất để bảo tồn dân tộc cũng như giữ trọn vẹn chủ quyền đất nước. Tư duy của văn hóa cũng là loại tư duy hành động, phải Thấy-Thi-Thụi-Thắng thì mới Thành, chứ nếu chỉ Thờ-Thăm-Thoái-Thất thì vẫn Thua. Trong ngôn ngữ Việt có các cặp đối nghịch (ở đây ký hiệu bằng dấu xẹt) như Nái/Nọc, Cái/Cộc, Nhục/Nhã (Nhục là tư tưởng thấp hèn, Nhã là tư tưởng thanh tao), Đểu/Đức v.v. Trong bài “Bốn thói xấu của người Việt đương đại” của tác giả Thanh Sắc trên vnnet.vn ngày 4/10/2009, nêu là: “gian lận”, “cơ hội”, “vô trách nhiệm” và “chí phèo”, đó chính là tứ Đểu, ngược với tứ Đức của thời văn minh Văn Lang là “Lao”, “Khiêm”, “Cẩn”, “Sắc”. Lao là lao động miệt mài, ắt phải lao tâm khổ tư, ngược với Lười (Lười/Lao), lười nên mới sinh ra “gian lận”. Khiêm là khiêm tốn, tôn trọng con người, luật lệ, qui luật của tự nhiên, tức là Chí Phải, ngược với nó là “chí phèo” (Chí Phèo/Chí Phải, Khuấy/Khiêm). Cẩn là hành xử đúng qui định của nhà nước, ngược với nó là “cơ hội” (Quấy/Cẩn). Sắc là trí tuệ xuất sắc, phong cách bản sắc, hành xử sâu sắc, ngược với “vô trách nhiệm” ( Sơ/ Sắc). Dưới đây là phần tứ Đức trích dịch từ bài “Tăng chú thiên tự văn”có từ mấy ngàn năm trước. 鳴鳳在竹 Minh Phượng Tại Trúc Phượng hoàng hót rặng tre ngà 白駒食場Bạch Câu Thực Trường Trâu, bò, ngựa, ngỗng ăn ra ngoài đồng 化被草木 Hóa Bị Thảo Mộc Muôn cây cỏ đã đều thuần hóa 賴及萬方Lại Cập Vạn Phương Quan trông coi đến tận mọi nơi 蓋此身髪 Cái Thử Thân Phát Tóc, mình tươm tất đời đời 四大五常Tứ Đại Ngũ Thường Luật theo Tứ Đại, phép noi Ngũ Thường 恭惟鞠養Cung Duy Cúc Dưỡng Khuôn dưỡng dục giữ gìn cung kính 豈敢毀傷Khỉ Cảm Hủy Thương Ai dám đâu hủy hoại nếp nhà 女慕貞潔 Nữ Mộ Trân Khiết Gái thì trinh khiết danh gia 男效才良Nam Hiệu Tài Lương Trai thì hiệu quả lại là tài lương 知過必改 Tri Quá Tất Cải Khi biết lỗi thì thường phải sửa 得能莫忘 Đắc Năng Mạc Vong Được tài rồi cũng chớ có quên 岡談彼短 Cương Đàm Bỉ Đoản Cứng khuyên xử phải ngắn mềm 扉恃己長Phi Thị Kỷ Trường Chớ nên cậy thế rằng mình giỏi giang 信使可覆Tín Sử Khả Phúc Giữ được tín thì còn lặp lại 器欲難量 Khí Dục Nan Lường Lòng tham tài thì mãi khó lường 墨悲絲染Mặc Bi Ti Nhiễm Gần mực thì lụa nhuốm đen 詩讚羔羊 Thi Tán Cao Dương Thi ca tán tụng ngọt đường thành kiêu 景行維賢Cảnh Hành Duy Hiền Lòng luôn giữ đạo hiền mãi mãi 克念作聖 Khắc Niệm Tác Thánh Từng phút giây phải nhớ Thánh răn (chưa có Phật, người Việt thờ Thánh,Thần) 德建名位 Đức Kiến Danh Vị Cần rèn đức mới thành danh 形端表正 Hình Đoan Biểu Chính Giữ mình chân chính, đoan trang dáng người 空谷傳聲Không Cốc Truyền Thanh Hang tuy rỗng truyền đời vẫn tiếng 虛堂習聽 Hư Đường Tập Thính Nhà tuy không vẫn kẻ rình nghe 禍因惡積 Họa Nhân Ác Tích Họa lai do ác tích về 福緣善慶Phúc Duyên Thiện Khánh Phúc là duyên bởi thiện kia đón mừng 尺璧非寶Xích Bích Phi Bảo Thước ngọc chẳng phải đồ trân bảo 寸陰是競Thốn Âm Thị Cạnh Tấc âm là thứ phải cạnh tranh 資父事君 Tư Phụ Sự Quân Chăm cha mẹ,việc vua ban 曰嚴與敬 Viết Nghiêm Dữ Kính Giữ nghiêm lại biết lo toan kính nhường 孝當竭力 Hiếu Đương Kiệt Lực Việc hiếu dốc sức mình làm hết 忠則盡命 Trung Tắc Tận Mệnh Việc trung thì lại biết quên thân 臨深 Lâm Thâm Những khi xông trận xa gần 復薄 Phúc Bạc Có công biết nhịn, nhận phân bạc bèo 夙興 Túc Hưng Việc trước hết là lo hưng nghiệp 溫清 Ôn Thanh Khi ấm thân vẫn giữ thanh bần 似蘭斯春 Tự Lan Tư Xuân Giữ đời lan sắc như xuân 如松之盛 Như Thông Chi Thịnh Lòng luôn ngay thẳng như thông giữa trời 川流不息 Xuyên Lưu Bất Tức Sông chảy mãi tháng ngày chẳng hết 淵澄取映 Uyên Trừng Thủ Ánh Đáy sông sâu ngời đọng ánh trăng 容止若思 Dung Chỉ Nhược Tư Mặt nghiêm, nghĩ ngợi mông lung 言辭安定 Ngôn Từ An Định Lời ra thủ thỉ nhẹ nhàng nhã trang 篤初誠美 Đốc Sơ Thành Mỹ Luôn vun vén lo toan cái đẹp 慎終宜令Thận Chung Nghi Lệnh Thành tự nhiên sau trước lo lường 榮業所基 Vinh Nghiệp Sở Cơ Đã đành sự nghiệp vẻ vang 籍甚無竟 Tịch Thậm Vô Tịnh Sử xưa để lại một hàng không hai 學優登仕 Học Ưu Đăng Sĩ Học ưu tú đến hồi nhậm chức 攝職從政 Nhiếp Chức Tùng Chính Đời vì dân , chính trị cầm cương 存以甘棠 Tồn Dĩ Cam Đường Còn thì ngọt tựa cam đường 去而益詠 Khứ Nhi Ích Vịnh Mất thì danh tiếng lưu truyền thế gian 樂殊貴賤 Nhạc Thù Quí Tiện Nhạc biết rõ hèn, sang, quí , tiện 禮別尊卑 Lễ Biệt Tôn Ti Lễ biết chia trên, dưới tôn ti 上和下睦 Thượng Hòa Hạ Mục Dưới trên hòa mục mọi khi 夫唱婦隨 Phu Xướng Phụ Tùy Trong nhà chồng vợ hãy thì nghe nhau 外受傳訓 Ngoại Thụ Truyền Huấn Ngoài thì phải biết nhiều , học rộng 入奉母儀 Nhập Phụng Mẫu Nghì Trong phải nêu con thuận, mẹ chiều 諸姑伯叔 Chư Cô Bá Thúc Chú, dì, cô , bác thương yêu 猶子比兒 Do Tử Bỉ Nhi Gái, trai, anh , chị cũng đều trọng nhau 孔懷兄弟 Khổng Hoài Huynh Đệ Giữ huynh đệ Khổng gia là thế 同氣連枝 Đồng Khí Liên Chi Gắn bó nhau da thịt, cây cành 交友投分 Giao Hữu Đầu Phận Bạn bè cùng phận kết minh 切磨矩規 Thiết Ma Củ Qui Phải theo qui củ giữ mình truốt trau 仁慈隱惻 Nhân Từ Ẩn Trắc Lòng giữ mãi nhân từ trắc ẩn 造次弗離 Tạo Thứ Phất Ly Như anh em nghĩa nặng tình sâu 節義廉推 Tiết Nghĩa Liêm Thoái Chịu lui, tiết nghĩa làm đầu 顛沛匪虧 Điên Bái Phỉ Khuy Chịu nhường, khi giận biết đâu lỡ tràn 性靜情逸 Tính Tịnh Tình Dật Tính giữ tịnh để an mọi sự 心動神疲 Tâm Động Thần Bì Tâm động nhiều thì mệt thần kinh 守真志滿 Thủ Chân Chí Mãn Giữ lòng chân chính, chí minh 逐物意移 Trục Vật Ý Di Dù cho vật ý trọng khinh đổi dời 堅持雅操 Kiên Trì Nhã Thao Kiên trì giữ cuộc đời tao nhã 好爵自縻 Hảo Tước Tự Mi Tức tự mình đón tước vẻ vang 既集賁典 Ký Tập Bí Điển Trong nhà sách xếp từng hàng 亦聚群英 Diệc Tụ Quần Anh Góp gom trí tuệ nhân quần thế gian 策功茂實 Sách Công Mậu Thực Công lao với nước, với làng 勒碑刻銘 Lặc Bi Khắc Minh Viết lên bia khắc rõ ràng thẳng ngay 庶幾中庸 Thứ Kỷ Trung Dung Trung dung giữ đạo tháng ngày 勞謙謹敕 Lao Khiêm Cẩn Sắc Lao, Khiêm, Cẩn , Sắc đức này bền lâu…
-
Nước đái có thể quí như vàng Theo ký giả Singapore Trịnh Cảnh Tường ngày 6-7 2011, tiến sĩ người Canada Dr James Barnard vừa được nhận giải thưởng “Nguồn nước Lý Quang Diệu” của Singapore tại khóa trao giải lần thứ tư, đồng thời được nhận danh hiệu quốc tế “ Người cha của phương pháp Thoát đạm trừ lân- Biological Nutrient Removal, viết tắt là BNR”. Tại hội nghị Tuần quốc tế về nguồn nước tại Singapore ngày 5-, tiến sĩ James Brnard đã nói, nguồn quặng lân (phosphorus rock)trên toàn cầu đang ngày càng cạn kiệt, những năm gần đây giá phân bón đã tăng gấp đôi, tương lai người ta có thể chế ra phân lân từ nguồn nước đái. Tuy đất bùn bình thường đều có chứa lân nhưng hàm lượng rất thấp, không đáng giá chắt lọc. Còn quặng lân có thể dùng làm phân lân bón ruộng thì 83% tập trung ở các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nam Phi, nhưng giá cả ngày càng tăng vì nhu cầu phân bón ngày càng lớn. Theo tính toán thì trữ lượng quặng lân trên thế giới sẽ hết kiệt trong vòng 90 năm tới. Lân trở thành nguồn vật tư hữu hạn nên chúng ta phải ra sức tìm cách thu hồi lân trước khi nó bị tiêu hao hết bằng nghiên cứu nhiều cách thu hồi và ống dẫn. Nước đái là chất có hàm lượng lân rất cao, vì vậy đáng giá nghiên cứu thu hồi, dù trên quan niệm thì người ta ái ngại, khi tôi đề xuất phương án này người ta cứ nghĩ là tôi nói đùa. Lân là một thành phần quan trọng của phân bón. Vì giá lân hiện nay cứ lên như bay, nên một nửa số nông dân toàn cầu đã không thể mua nổi phân lân. Âu Châu, Mỹ và Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu phương hướng này và phương pháp “sinh vật thoát đạm trừ lân” của tiến sĩ James là một cống hiến. Tiến sĩ James Barnard năm nay 76 tuổi, là người quốc tịch Canada sinh tại Nam Phi, ông đã phát minh ra phương pháp xử lý nước thải bằng vi sinh vật tự nhiên, được các nhà máy cung cấp nước dùng trên toàn cầu ứng dụng rộng rãi, nên ông là người đứng đầu trong số 72 người từ 29 nước được giải thưởng khóa này, trong mục tiêu bảo vệ môi trường vì lợi ích của nhân loại.
-
Chuyện mua gỗ Sưa rồi thổi giá để bán tuồn lại gỗ Sưa sang VN gây ra chặt trộm cây Sưa cũng tương tự Cây Sưa Người Việt cổ đại là dân tộc khai sáng nền văn minh nông nghiệp trồng trọt sớm nhất của nhân loại. Thủa đầu tiên người Việt lấy tên các loài cây đặt làm họ người, như họ Ngô, họ Lê, họ Lý, họ Mai v.v. Quan niệm cây cũng có hồn như người, gỗ nào cũng quí như người nào cũng quí, nên mới có câu thành ngữ “dụng nhân như dụng mộc”. Người Việt lại rất coi trọng vệ sinh răng và tóc, nên có câu thành ngữ “cái răng cái tóc là vóc con người”, nhuộm răng đen là để bảo vệ men răng, tóc thì gội bằng nước nấu bồ kết, hoa bưởi, nước chanh, và chăm chải tóc tươm tất bằng lược Sưa là lược gỗ chứ không phải lược bằng nhựa như bây giờ. Khi chải tóc từ đỉnh đầu xuống xuôi theo mái tóc là đã kích thích vào huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu là đầu mối của hệ kinh lạc toàn thân, có lợi cho thần kinh, mà gỗ Sưa lại có tiết hoạt chất (là mùi hoặc không mùi, do thính giác người không cảm nhận được) kích thích có lợi cho tỉnh táo thần kinh ( nhiều loại gỗ khác có mùi, dù thơm, nhưng lại có hại thần kinh, cho nên khi chọn mua phấn rôm cho trẻ em đừng có ham mua loại nặng mùi thơm hóa chất, không lợi mà còn có hại gây dị ứng). Chữ Sưa thì chữ nho của người Việt viết là chữ Sơ nghĩa là Thưa, từ lược sưa gắn với cây Sưa là vì vậy. Chuyện dân gian xưa có chuyện kể rằng, có người con gái trẻ chẳng may bị tai biến nằm liệt mê man, nhà chùa nhận về nuôi như cơ thể thực vật. Nhưng bà Sãi chùa ngày ngày lấy cái lược Sưa có khắc hình Phật Bà Quan Âm chăm chỉ chải tóc cho và luôn thủ thỉ nói chuyện với, năm năm sau bỗng nhiên bệnh nhân tỉnh dậy nói năng và đi lại được. Bền bỉ kích thích huyệt Bách Hội có trợ giúp của hoạt chất của gỗ Sưa đã có tác dụng như vậy. Bây giờ làm lược Sưa như vậy làm lưu niệm phẩm mà bán chắc đắt và có ích hơn là lược sừng trâu mà người TQ du lịch thích mua, hay hơn lược bằng xác máy bay Mỹ một thời là moden lưu niệm phẩm nhưng bây giờ chắc chẳng ai mua. Người ta mua gỗ Sưa không kể gỗ súc mà cả khúc vụn, vì để về tiện quân cờ tướng hay làm thẻ bài đánh bạc trong casino, hy vọng hoạt chất nó tiết ra kích thích thần kinh tỉnh táo, ngoài ra còn làm nhiều việc khác. Thị trường thì hễ có cầu là có cung, kèm theo đó là nhiều mánh lới của lắm kẻ thừa cơ trục lợi. Như mua móng trâu cũng vậy, tạp chí chuyện dân gian TQ có chuyện kể, nhà kia chuyên buôn lậu thuốc phiện, lời rồi sinh gian, đem móng trâu cùng với táo tàu nấu thành keo trộn lẫn thuốc phiện thành cục màu đen mà chúng không kỵ mùi nhau nên bán thuốc phiện không phải trăm phần trăm vẫn bằng giá thuốc phiện thật, càng lời to, xây được nhà biệt thự lớn. Đến hồi bị hỏa hoạn cháy sạch mất hết cả chì lẫn chài, đó là do quả báo. Những kẻ phá hoại môi trường cũng vậy thôi, luật có thể để lọt nhưng trời không để lọt vì “bàn tay nào che nổi mặt trời” nên rồi cũng nhân nào quả nấy cả thôi. Có lần tôi đi qua cửa khẩu Hữu Nghị Quan nhằm ngày gặp một đoàn xe contenơ trần chở cây thông đang xếp hàng bên phía VN chờ qua cửa khẩu. Cây thông tươi xếp đứng trên xe trần là loại cây thông cao hai mét được đánh nguyên gốc với bồn đất bự. Lúc đó là cuối tháng 10. Người đi giao hàng còn gọi di động thúc người ở nhà tiếp tục bứng cây cho nhanh vào, vì giao mỗi cây giá 1 triệu. Còn người TQ nhận đi áp tải hàng thì kể rằng cây thông ấy về họ cho các nhà ở thành phố thuê để đón lễ Nôen (còn gần hai tháng nữa mới tới), sau lễ lại thu về bán cho chủ trang trại trồng rừng, rõ là họ ăn lời hai lần, còn chủ trồng rừng thì vừa mua cây thông đã được lời ngay ít ra là vài năm thời gian nắng (là năng lượng) ở VN và cả bồn đất màu bự của VN. Chuyện người TQ thu mua sắn lát khô ở khắp VN cũng vậy, họ kể rằng mua về xay thành bột, tinh bột bán cho nhà máy nhiệt điện để trộn đốt cùng than đá như chất xúc tác làm cho than đá cháy được hết, vì than đá TQ chất lượng xấu hơn than đá Quảng Ninh của VN, còn bã thì cho nhà máy sản xuất cồn Etanol là thứ nhiên liệu xanh thịnh hành ngày nay, do Thái Lan bây giờ cấm xuất khẩu săn lát khô sang TQ nên họ phải tăng cường mua từ VN, vì VN vẫn vô tư xuất khẩu nông sản thô lẫn quặng thô. Tạp chí TQ có phóng sự kể, đoàn khách du lịch TQ đến Miến Điện thăm chùa, thấy dân làng ngồi quanh gốc cây xoài trong sân chùa chắp tay lầm rầm cầu nguyện, hỏi hướng dẫn viên là người ta cầu gì đấy, hướng dẫn viên nói rằng người ta chỉ cầu lặp đi lặp lại có mỗi một câu là “cầu cho người TQ đừng mua xoài”. Vì xe tải cứ kìn kìn chở xoài sang bán cho TQ nên giá xoài nội địa đắt lên, dân làng không còn mua nổi xoài của mình trồng trên đất của mình để mà ăn. Chuyện người TQ mua dừa ở Bến Tre cả trái lẫn xơ lẫn mùn xơ hiện nay thì cũng chẳng có gì mới. Từ lâu người Hàn Quốc vẫn mua mùn dừa ở Bến Tre, ép đóng thành bánh tại chỗ , chất đầy contenơ, chở về bên bển để làm giá môi trồng nấm mà thôi. Còn chuyện người TQ thu mua lạc nhân ( hạt đậu phộng) khắp VN làm cho nhà đầu tư nước ngoài chế biến sản phẩm từ lạc nhân khô ở VN cũng phải sợ vì tranh mua không kịp với họ, đành phải sang Sigapor mua dây chuyền máy móc mới, thay đổi công nghệ chế biến bằng lạc nhân tươi, đặt mua trước với nông dân tại ruộng khi nhổ lạc lên là đưa tươi vào nhà máy ngay không phải bóc phơi nữa, lạc nhân tươi thì lại phải chế biến thành sản phẩm như lon sữa lạc, lon bơ lạc chứ không có sản phẩm như từ lạc nhân khô nữa, thà phải tốn tiền đầu tư công nghệ mới còn hơn mất hẳn thị trường nguyên liệu với người TQ.
-
Ngô Khởi của nước Sở Ngô Khởi 吳 起( 440-381 BC) là nhà chính trị, cải cách, lý luận quân sự trác việt , người nước Vệ (nay là Định Đào tỉnh Sơn Đông TQ). Lúc trẻ gia sản khánh tận, chạy khỏi nước Vệ đến nước Lỗ, bái Tăng Tử làm thầy để học Nho thuật (võ thuật của người nước Nhã), mẹ ở nhà bệnh chết cũng không về chịu tang, nên bị Tăng Tử đoạn tuyệt thầy trò. Sau học binh pháp, dám cải cách, thiện dùng binh, nhậm chức tướng quân của nước Lỗ, từng vì biểu thị trung thành với vua nước Lỗ mà đang tay giết chết vợ mình là người quốc tịch nước Tề. Sau bị vua Lỗ liên tục nghi ngờ, nên lại bỏ vua Lỗ mà sang nước Ngụy. Đến nước Ngụy, Ngô Khởi sáng lập ra “Vũ tốt chế”, lập được chiến công, trong một trận chiến với nước Tần, do có công “bật ngũ thành” mà được Ngụy Văn Hầu cho chức “Tây Hà Thái Thú”, là đại tướng trấn thủ Tây Hà để chống lâu dài với nước Tần và nước Hàn. Văn Hầu mất, Ngụy Vũ Hầu kế vị, Ngô Khởi tiếp tục được trọng dụng. Cuốn sách “Ngô Tử” viết về đối thoại giữa Vũ Hầu và Ngô Khởi. Ngụy Tương Quốc vì tư hiềm với Ngô Khởi mà tìm cách hãm hại, Ngô Khởi thấy Vũ Hầu giảm lòng tin với minh, bèn từ chức, chạy sang nước Sở. Đến nước Sở, Ngô Khởi làm Thái Thú ở Uyển Quận (nay là Nam Dương tỉnh Hà Nam TQ), không lâu sau chuyển nhậm chức Lệnh Doãn, phù tá Sở Trác Vương thực thi cải cách: “ Minh pháp thân lệnh, (chủ) yếu tại cường binh”, quí tộc cũ hư phải bị đày ra vùng biên viễn khai hoang, “tổn bất cấp chi quan”, cắt giảm quân số, chỉnh đốn cơ cấu. Cải cách của Ngô Khởi đem lại giàu mạnh cho nước Sở, từng bắc thắng nước Ngụy, nam thu Dương Thành, lấy được Thương Ngô. Sau khi Sở Trác Vương chết, Ngô Khởi bị bọn quí tộc cũ sát hại, cải cách cũng thất bại. Tương truyền Ngô Khởi viết ra cuốn “Ngô Tử”, sau đã thất truyền. Theo “Hán thư. Nghệ văn chí” thì cuốn “Ngô Tử” có tất cả 48 thiên, nay chỉ còn 6 thiên do người đời sau giữ được. Hậu thế ghép hai cuốn “Tôn Tử” với “Ngô Tử” lại làm một, gọi là “Tôn Ngô binh pháp”, chiếm địa vị trọng yếu trong điển tịch quân sự cổ đại Trung Hoa. Khi làm Lệnh Doãn cho vua Sở, năm 378 BC, Ngô Khởi quyết liệt thực thi cải cách theo ý tưởng của minh: bãi bọn vô năng, phế bọn vô dụng, “trị bách quan, thân vạn dân, thực phủ khố 治 百 官,亲 万 民,实 府 库”, “thị biến kỳ cố nhi dịch kỳ thường dã 是 變 其 故 而 易 其 常 也”, tăng cường huấn luyện quân đội, “cấm du khách chi dân, tinh canh chiến chi sĩ 禁游 客 之 民,精 耕 战 之 士”, “tướng tam quân, sử sĩ tốt lạc tử, địch quốc bất cảm mưu 将 三 军,使 士 卒 乐 死,敌 国 不 敢 谋”, phản đối hòa giải với nước Tần. Cải cách của Ngô Khởi đem lại hiệu quả là nước Sở mở rộng cương vực “nam bình (vỗ yên) Bách Việt, bắc tóm gom nước Trần, nước Sát, tây phạt nước Tần”, nhưng quí tộc nội bộ nước Sở thì lại thù hằn Ngô Khởi. Năm Sở Trác Vương thứ 21 (năm 381 BC), Sở Trác Vương tạ thế, bọn quí tộc do cải cách của Ngô Khởi mà thất thế bèn bạo loạn truy sát Ngô Khởi, Ngô Khởi tháo chạy ẩn tránh ở gần Linh Đường Phục Vương thì trúng tên lạc mà chết. Vua Sở kế nhiệm là Hùng Uy phái Lệnh Doãn của mình đuổi theo quân làm loạn, bắt giết hơn 70 tên loạn quân. Đến thời Đường có nhà thơ Bạch Cư Dị viết cuốn “Tử điểu dạ đề 慈 烏 夜 啼” (chim hiền khóc đêm) cũng có bài thơ viết về Ngô Khởi. Câu nổi tiếng trong binh pháp của Ngô Khởi là luận về 4 bất hòa: “ Bất hòa trong nước thì không thể ra quân; Bất hòa trong quân thì không thể ra trận; Bất hòa trong trận thì không thể tiến chiến; Bất hòa trong chiến thì không thể quyết thắng”.
-
Tin mới cập nhật:1.Bắc Kinh, ngày 28-6 (Tân Hoa Xã) – Trung Quốc hôm nay thứ Ba đã kêu gọi Việt Nam hãy thực hiện đầy đủ một thỏa thuận song phương trên vấn đề Biển Hoa Nam [biển Đông] vốn đã đạt được trong thời gian diễn ra chuyến viếng thăm của phái viên đặc biệt của Việt Nam Hồ Xuân Sơn vào tuần trước. “Chúng tôi cùng với phía Việt Nam đã có những cuộc thảo luận tới cùng trên vấn đề Biển Hoa Nam trong thời gian diễn ra chuyến viếng thăm của phái viên đặc biệt, và hai bên đã thỏa thuận giải quyết những tranh chấp thông qua các cuộc hội đàm hữu nghị và tránh gây nên những động thái có thể làm trầm trọng thêm hay gây nên phức tạp cho vấn đề,” theo lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi tại một cuộc họp báo ngắn. Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam và nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa (guard against …) những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước, ông Hồng Lỗi nói. “Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam cũng như chúng tôi sẽ thực hiện đầy đủ sự nhất trí và có được những nỗ lực gìn giữ hòa bình và ổn định trên Biển Hoa Nam,” ông Hồng Lỗi nhận xét. Trong thời gian diễn ra chuyến viếng thăm mới kết thúc vừa qua của ông Hồ Xuân Sơn, cũng là Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông đã gặp Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc và đã tiến hành các cuộc trao đổi với Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân. Hai bên đã thỏa thuận cùng đẩy nhanh các cuộc hội đàm cho một hiệp định về những nguyên tắc cơ bản hướng tới giải quyết những tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, đảm bảo hành động nỗ lực hơn để ký kết một thỏa thuận càng sớm càng tốt, theo như một bản thông cáo báo chí từ Bộ Ngoại giao về cuộc họp giữa ông Đới và ông Hồ Xuân Sơn. 2.Theo mạng: big5.chinabroadcast.cn, ngày 29-6-2011 tại cuộc họp báo do Quốc vụ viện (Quốc hội) Trung Quốc chủ trì, người phát ngôn Dương Nghị đã trả lời câu hỏi của ký giả Vương Liên Vĩ. Câu hỏi: Gần đây vấn đề Nam Hải nghiêm trọng hơn, Đại Lục có hay không một kế hoạch diễn tập hoặc một cơ chế hợp tác tương quan với các đơn vị tương quan của Đài Loan? Trả lời: Trung Quốc vẫn giữ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo và vùng biển phụ cận của chúng ở Nam Hải. Giữ và bảo vệ các đảo và vùng biển phụ cận của chúng ở Nam Hải là trách nhiệm chung của đồng bào hai bờ eo biển Đài Loan- Đại Lục. ( 本報北京6月29日電(記者王連偉)在國務院臺辦今天舉行的記者會上,發言人楊毅表示,維護南海諸島及附近海域的主權,是兩岸同胞共同的責任。楊毅還就大陸居民赴臺遊、兩岸退役將領參加辛亥百年紀念活動、ECFA實施一週年等話題,回答了記者的提問。 記者:最近南海問題比較嚴重,大陸方面有沒有計劃與台灣相關單位在南海演習或建立相關合作機制? 楊毅:中國對南海諸島及其附近海域擁有無可爭辯的主權,維護南海諸島及附近海域的主權是兩岸同胞共同的責任。)
-
Bắc Kinh chưa thuộc lời dạy của Khổng Tử Hiểu được sức mạnh của văn hóa, nên gần đây, bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc đã tăng cường công tác truyền bá văn hóa ra nước ngoài. Đến hiện tại, nước này đã cho xây dựng hơn 150 Viện Khổng Tử trên thế giới, với mục đích quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa. Việc chọn Khổng Tử để đặt tên cho các viện không phải là ngẫu nhiên, bởi ở Trung Quốc, Khổng Tử được phong là “vạn thế sư biểu” (Biểu trưng người thầy ở mọi thời đại). Ông là người khai sáng Nho giáo, một học phái không chỉ ngự trị ở Trung Quốc hàng ngàn năm, mà còn ảnh hưởng sang nhiều nước trong khu vực, như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Ngày nay, học thuyết Khổng Tử được nghiên cứu trên khắp thế giới. Chúng ta trở lại sự kiện Lưu Hiểu Ba hồi năm rồi để hiểu thêm về tầm quan trọng của Khổng Tử đối với nhà nước Trung Quốc. Khi được chọn tặng giải Nobel Hòa bình 2010, Lưu Hiểu Ba đang bị giam tại Trung Quốc. Thế mà, Ủy ban Nobel vẫn quyết định tổ chức lễ phát giải vắng mặt. Tại Trung Quốc, trước một ngày khi lễ trao giải Nobel diễn ra, Bắc Kinh đã sáng lập giải Khổng Tử, và trao cho một nhà chính trị Đài Loan. Khi ấy, báo chí phương Tây đã ví von “Khổng Tử trước Nobel”. Cố tình không theo? Trung Quốc xem trọng Khổng Tử như thế, nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, bởi trong hành động, Bắc Kinh tỏ ra không hề hiểu, hoặc đã hiểu mà cố tình không làm theo lời dạy của ngài. Chúng ta chỉ cần nhìn vào ba điểm then chốt nhất của Khổng Giáo để chứng minh cho lời nhận định trên. 1) Khổng Tử dạy: Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, không vì lợi mà quên nghĩa. Năm 1974, nhân thế cuộc chiến tranh Việt Nam lúc cao trào, Trung Quốc thừa cơ đánh chiếm Hoàng Sa. Nên nhớ rằng, trong thời gian đó, quan hệ Việt-Trung là đồng chí, anh em. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công Trường Sa, gây thương vong cho nhiều chiến binh Việt Nam. Hai sự kiện này cả thế giới ai cũng biết. Tức Trung Quốc cũng biết rõ hành động chiếm đoạt lãnh thổ của bằng hữu mình là trước thanh thiên bạch nhật, thế mà vẫn làm. Rõ ràng là thấy lợi quên nghĩa! Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á, và ngày càng có thái độ hung hăng trên Biển Đông. Thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc vừa qua cả thế giới điều biết, báo đài quốc tế đã tốn nhiều giấy mực để phân tích. Giải thưởng mang tên Khổng Tử được 'sáng lập' để đối chọi với giải Nobel Tại sao Trung Quốc lại tăng cường tấn công Biển Đông như thế mà không ngại trắng trợn vị phạm luật quốc tế, không ngại mất tình láng giềng, không ngại mang tiếng lấn lướt người yếu thế? Câu trả lời rất đơn giản mà cả thê giới đều biết, đó là dưới lòng Biển Đông trong khu vực Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò có một trữ lượng dầu hỏa và khí đốt khổng lồ. Rõ ràng lại vì lợi quên nghĩa! 2) Khổng Tử dạy: Người quân tử không sợ kẻ mạnh, không hiếp người yếu. So với Trung Quốc, các nước có tham gia tranh chấp Biển Đông điều là nước nhỏ hơn, kinh tế kém phát triển hơn, quân lực yếu hơn. Gần đây, Trung Quốc tăng cường ngân sách đáng kể cho quốc phòng, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á trên đảo Hải Nam. Trung Quốc cũng vừa soán ngôi Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Trung Quốc lại là một trong năm nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Như vậy, có thể nói rằng, dù Bắc Kinh luôn “khiêm tốn” không thừa nhân, nhưng trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế, chính trị và cả quân sự. “Tri kỉ tri bỉ”, Trung Quốc hiểu rõ vị thế của mình, và đã tận dụng lợi thế này để lấn lướt các nước trong khu vực, dùng sức mạnh để đe dọa láng giềng, không kể gì đến luật pháp quốc tế và tình nghĩa cận thân. Rõ ràng là ỷ mạnh hiếp yếu! 3) Khổng Tử dạy: Trong quan hệ bằng hữu, lấy chữ tín làm đầu. Trên các diễn đàn chính thức, Bắc Kinh luôn tuyên bố không cậy mạnh hiếp yếu, muốn giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Thế mà sự thật đã chứng minh, Trung Quốc tỏ ra "tiền hậu bất nhất". Philippines vừa rồi tố cáo Trung Quốc nhiều lần xâm phạm lãnh hải, trong khi quan chức Bắc Kinh đến thăm Philippines để tăng cường tình hữu nghị. Tàu hải giám Trung Quốc vào trong phạm vi đặc quyền kinh tế của Việt Nam để tấn công tàu Việt Nam. Thế mà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc lại cáo buộc điều ngược lại, trong khi báo đài thế giới đều ghi nhận sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam này của phía Trung Quốc. Rồi tại diễn đàn Shangri-La 2011, trước phản ứng của Philippines, Việt Nam, Malaysia, tổng trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt lại tuyên bố mạnh mẽ rằng Trung Quốc không hề dùng sức mạnh đe dọa láng giềng, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình... Sau cuộc "trấn an", tàu Trung Quốc lại tiếp tục tấn công tàu Việt Nam một lần nữa. Rõ ràng là không giữ điều tín nghĩa ? Đức Khổng Tử răn dạy hậu thế tu thân để thành người quân tử. Thế nhưng, chỉ xét sơ ba điều cơ bản của Nho Giáo nói trên, thì đủ thấy rằng bài học cơ bản của đức Khổng đã không được Bắc Kinh học thuộc. Như vậy, chính phủ Bắc Kinh có xứng đáng là con cháu Khổng Tử chăng? Nếu phải, thì nên chăng Bắc Kinh phải học lại Khổng Giáo trước khi truyền bá cho người. Bài phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả Lê Phước, một người nghiên cứu Nho giáo, hiện là nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Versailles Saint-Quentin-En-Yvelines, vùng Ile de France, Pháp. Dưới đây trích bài “Nhân ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, suy nghĩ về việc học tập và làm theo đạo đức danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thiện Chí, giảng viên cao cấp trường Đại học sư phạm Tp HCM, tháng 5-2011: Nói đến Khổng Tử, ta thường bị ám ảnh bởi Khổng Tử là người Trung Quốc, không sai. Khổng Tử là người Trung Quốc, ông là người nước Lỗ, sinh năm 551 trước công nguyên, cách nay 2562 năm. Nhưng Khổng Tử được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới từ năm 1952, cho nên nhìn và đánh giá Khổng Tử cần đứng góc độ ông là người của nhân loại. Năm 1998 những người được giải Nobel hòa bình trên toàn thế giới đã nhóm họp tại Paris thủ đô Pháp, có ra lời tuyên bố, long trọng kêu gọi thế giới rằng: “ Nếu loài người muốn tồn tại ở thế kỷ 21, cần phải hồi tưởng lại 2500 năm trước đây, tiếp thu trí tuệ của Khổng Tử”. Qua đó ta có thể thấy, nhân loại đánh giá rất cao giá trị học thuyết Khổng Tử. Tư tưởng Khổng Tử, nói chung là học thuyết Khổng Mạnh, Nho giáo, từ ngàn xưa ảnh hưởng rất sâu sắc đối với người Việt Nam ta, nhất là đối với các bậc sĩ phu thời phong kiến. Không phải ngẫu nhiên mà tại Quốc tử giám Văn Miếu, trường đại học đầu tiên của nước ta, trang trọng thờ Khổng Tử giữa chính điện từ nghìn năm nay. Hồ Chí Minh cũng không ngoại lệ. Những tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được chứng minh rằng thời còn bé là cậu Nguyễn Sinh Cung, rồi trước khi ra đi tìm đường cứu nước lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách mạng là Nguyễn Ái Quốc và khi làm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh, Người đã tiếp nhận Khổng Tử, ca ngợi Khổng Tử và vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Trong hệ thống quan điểm, đạo đức Hồ Chí Minh có phần của Khổng Tử. Xin được lý giải: Đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ chưa được phổ cập. Các bậc cha mẹ dạy con em mình, hoặc cho con em đi học, học vỡ lòng đều bắt đầu bằng chữ Nho, được gọi là chữ thánh hiền, đi học được xưng là đến “cửa Khổng sân Trình”, học Tam thiên tự, Tứ thư, Ngũ kinh. Nam Đàn Nghệ An là vùng đất văn vật, địa linh nhân kiệt, nhiều vị học rộng tài cao, đậu giải nguyên khoa bảng. Thời bầy giờ lưu truyền câu thơ “Tứ hổ” (bốn ông đồ nổi tiếng xứ Nghệ) Thông minh bất như Qúi ( Vương Thúc Qúi, chữ đẹp, giỏi câu đối) Uyên bác bất như San ( Phan Văn San đậu giải nguyên) Tài hoa bất như Song ( Ngô Qúi Song, học giỏi, chữ đẹp, đỗ tiến sĩ) Cường ký bất như Lương ( Trần Văn Lương, trí nhớ tốt, nhớ lâu) Và các bậc nho sĩ nổi tiếng khác như thầy Đô, thầy Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Ngô Thúc Tự… hầu như tất cả các vị đó Nguyễn Sinh Cung đều được thụ giáo. Thủa nhỏ Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, được xem như “thần đồng”, lại tiếp thu nhanh, sáng dạ, có đầu óc tư duy phản biện, có tài đối đáp, làm câu đối, thuộc làu các câu trong Luận Ngữ của Khổng Tử, thuộc làu thơ Đường Tống. Các cụ cứ đồn đại, cậu Cung của cụ Phó Bảng thuộc thông Tứ thư, Ngũ kinh, thầy dạy không còn đâu chữ nghĩa để dạy nữa. Thời kỳ ở Pháp từ 1921, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài bình luận về học thuyết Khổng Tử, dịch sang tiếng Pháp nhiều bài của Khổng Tử. Nguyễn Ái Quốc viết: “ Khổng Tử là con người vĩ đại, ông đã đề xướng sự bình đẳng về quyền lợi trong một thế giới đại đồng giàu có”. Khổng Tử cho rằng: “ thiên hạ thái bình chỉ có thể thực hiện được trên nền tảng một thế giới đại đồng”. Nguyễn Ái Quốc trích dẫn câu nói của Khổng Tử “Không sợ nghèo, chỉ sợ không công bằng”, “của cải và cuộc sống phải bình đẳng với nhau”. Khi Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu, có một sự kiện chấn động làm mọi người phải kinh ngạc. Đó là vào ngày 15-2-1927 chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ra quyết định “Kể từ nay trở đi, hủy bỏ các hoạt động thờ cúng Khổng Tử và theo đó chính phủ sẽ không cấp kinh phí nữa. Đền thờ Khổng Tử sẽ tu sửa thành trường học”. Bảy ngày sau đó, ngày 22-2-1927 ngay tại Quảng Châu, Nguyến Ái Quốc đã chính thức soạn thảo một văn bản với nội dung phê phán quyết định trên, Nguyễn Ái Quốc cho rằng “ Quyết định này là trái với tinh thần dân chủ” và Nguyễn Ái Quốc nói “Người An Nam chúng tôi vẫn phải đọc sách của Khổng Tử để tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần”. Cốt lõi của học thuyết Khổng Tử là chữ NHÂN, lòng yêu thương con người, coi trọng con người. Chính Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần đề cập vấn đề này. Ngày 20-3-1947 Hồ Chủ tịch viết cuốn “Đời sống mới” để giáo dục cán bộ. Trong đó viện dẫn rất nhiều câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử như: “ Cụ Khổng Tử nói: Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít, làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ” “Cụ Khổng Tử nói: Người mà không LIÊM, không bằng súc vật” “Cụ Mạnh Tử nói: Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy” “Về chữ CHÍNH cụ Khổng Tử nói: Mình có đúng đắn mới tề được gia, mới trị được quốc, mới bình được thiên hạ”. Một sự kiện khiến ta phải suy ngẫm là vào tháng 5-1965, để tránh mừng thọ trong nước, Người sang thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Đúng vào ngày 19-5-1965 Người đến thăm Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử và thăm đền thờ Khổng Tử, trong bối cảnh Trung Quốc đang “phê Lâm phê Khổng”, là việc không bình thường. Người được phó chủ tịch nước Trung Quốc là Đổng Tất Vũ và phu nhân tháp tùng đến thăm tỷ mỉ ba giờ đồng hồ liền. Tại đây, Người kể về thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử, bàn luận về Khổng Tử. Người nói: “ Khổng Tử vĩ đại, siêu nhân, người dẫn đầu triết lý thánh hiền của thiên hạ”, “Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là khoa học về đạo đức và kinh nghiệm xử thế. Tinh hoa của học thuyết Khổng Tử là ở chỗ sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, mà sự tu dưỡng này rất quan trọng đối với sự mưu cầu hạnh phúc của nhân loại và phúc lợi xã hội”. Học thuyết Khổng Tử trải qua các thời đại, sớm trở thành hệ thống tư tưởng mang tính chính thống và đầy sức sống. Chúng ta không thể bác bỏ tất cả, mà nên tiếp thu một cách có chọn lọc và học lấy điều hay, điều đúng, làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân mình và cho lớp con cháu mai sau. Trên đường từ Khúc Phụ đến Bắc Kinh, ngồi trên tàu lửa, Người đọc bài thơ vừa sáng tác cho mọi người cùng nghe 訪曲阜 Phỏng Khúc Phụ 五月十九訪曲阜 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ 古松古廟兩依稀 Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hy 孔家勢力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại 只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi Thăm Khúc Phụ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ Miếu cổ, tùng xưa bóng chửa nhòa Uy quyền họ Khổng giờ đâu tá? Thấp thoáng bia xưa chút ánh tà ( bản dịch Nguyễn Thiện Chí) Bài thơ trữ tình, súc tích, ngắn gọn mà sâu sắc, đầy chất trí tuệ, ẩn chứa sự phê phán, bênh vực cho Khổng Tử. Xem thế ta có thể thấy được đạo đức Hồ Chí Minh có tiếp thu một cách sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Chính Người đã tự nói điều này. Ngoài ra tất nhiên còn có vấn đề gia phong, truyền thống gia đình, ảnh hưởng của xã hội: sự cần cù hiếu học, chịu đựng gian khổ, sống đạm bạc giản dị, tôn ti nề nếp, kính già yêu trẻ, hiếu thảo ông bà cha mẹ, nhường nhịn lễ phép, yêu nước thương nòi là những biểu hiện đạo đức truyền thống của xã hội Việt Nam. Xin trích bảy câu nói của Hồ Chí Minh: “ Nếu ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế” “Cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại” “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa” “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ A,B,C này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được” “Làm cán bộ phải nhận ra phải trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. …. … Tố Hữu nhà thơ lớn của chúng ta đã viết trong bài “Chào xuân 1999” : ÔI ! Việt Nam đất nước nghĩa tình Trái tim lớn yêu Chân Thiện Mỹ Sao gần xa cái Ác cứ rình Mặt nạ người che lòng dạ quỷ ! Sao lắm kẻ xưng danh đồng chí Nhạt lương tâm lạnh ngắt đồng tiền Gian tà dám bán rao đạo lý Tham nhũng leo thang bậc cửa quyền. Trong bài “Viếng bác Tú Xương” (18-5-2001) nhà thơ lại than thở: Chẳng ít quan tham nhũng Bỏ nghĩa chạy theo vàng Kéo cánh bè ăn vụng Mua chức vị làm sang ! Nhưng rồi Tố Hữu lại nhắn nhủ: Nhưng bác Tú Xương ơi ! Dân vẫn phân đen trắng Tay nào che mặt trời Chân lý nhất định thắng !