Cóc Vàng

Hội viên
  • Số nội dung

    992
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Cóc Vàng

  1. Chào bác a !Bác ơi ! Sao tôi vào mục Thiết lập quyền riêng tư mà không thấy chỗ " Đổi tiên hiển thị " như bác hướng dẫn nhỉ ? Bác làm ơn hướng dẫn cụ thể hơn ! Xin cảm ơn !
  2. Còn truyện này nữa : Chiến thuật mập mờ của Trung Quốc ở Biển Đông Tác giả: VIỆT LONG Bài đã được xuất bản.: 26/04/2011 06:00 GMT+7 Trong khi Philippin phản đối đích danh đường đứt khúc 9 đoạn thì Công hàm Trung Quốc không có một chữ nào nói đến đường trên ngoài câu: "Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý phong phú". Ngày 14/4/2011 Phái đoàn thường trực của CHND Trung Hoa tại Liên hợp quốc đã gửi Công hàm tới Tổng Thư ký Liên hợp quốc phản đối Công hàm số 000228 ngày 5/4/2011 của Philippin về đường yêu sách 9 đoạn (đường lưỡi bò) của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó ngày 10/4/2011 Người phát ngôn BNG Trung Quốc cho rằng Công hàm của Philippin là không thể chấp nhận. Các nước chịu sức ép của Trung Quốc đã mạnh bạo hơn Lâu nay các nước có tranh chấp ở Biển Đông phản đối nhau là chuyện bình thường nhưng cuộc "phản pháo" Trung-Phi lần này cho thấy xu hướng trong hai năm gần đây 2009-2011 các nước sử dụng vũ đài Liên hợp quốc ngày càng thường xuyên và đường lưỡi bò ngày càng bị nhiều nước lên tiếng phản đối. Tranh luận "công hàm" Trung - Phi ngay trước thềm chuyến thăm chính thức Bắc Kinh của TT Philippin dự kiến 23-25/5/2011 cho thấy sự mạnh bạo hơn của các nước chịu nhiều sức ép kinh tế-chính trị của Trung Quốc như Philippin và khả năng có một giải pháp cho tranh chấp còn đầy khó khăn. Công hàm ngày 14/4/2011 của Trung Quốc gồm ba đoạn chính: * Khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo trong biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy của chúng. Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý phong phú. Nội dung Công hàm số 000228 ngày 5/4/2011 của Philippin là hoàn toàn không thể chấp nhận đối với Chính phủ Trung Quốc. * Cái gọi là Nhóm đảo Kalayyan KIG mà Philippin yêu sách thực tế là một phần quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trong hàng loạt các Hiệp ước quốc tế xác định giới hạn lãnh thổ của CH Philippin và pháp luật quốc gia của CH Philippin cho đến trước những năm 1970s chưa bao giờ yêu sách quần đảo Nam Sa hoặc bất kỳ một phần nào của quần đảo. Từ những năm 1970s, CH Philippin bắt đầu xâm lược và chiếm đóng một số đảo và đá thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc và đưa ra những yêu sách lãnh thổ liên quan mà Trung Quốc cực lực phản đối. Việc chiếm đóng một số đảo và đá của quần đảo Nam Sa Trung Quốc cũng như các hành vi liên quan khác đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Ảnh minh họa: THXTheo học thuyết pháp lý "ex injuria jus non oritus"[1], CH Philippin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ của họ. Hơn nữa theo nguyên tắc pháp lý "Đất thống trị biển", yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể làm xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác. Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đã được xác định rõ ràng. Hơn nữa, theo các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1998), quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Về mặt cấu trúc Công hàm, Phái đoàn Trung Quốc cũng đưa ra ba đọan đối với ba đoạn trong Công hàm của Philippins. Đoạn 1 cả hai bên đều khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình. Đoạn 2 tranh luận về các nguyên tắc pháp lý "Đất thống trị biển" và "Không xâm phạm". Đoạn 3 cả hai bên đều dựa vào Luật biển để xác định quy chế các đảo đá. Trung Quốc tự mâu thuẫn mình Về nội dung, trong khi Philippin lập luận theo Luật biển thì những đường như đường đứt khúc 9 đoạn là không có cơ sở theo luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) thì Trung Quốc lại nhắc đến các quyền lịch sử và tìm cách làm hài hòa giữa quyền lịch sử với Luật biển hiện đại bằng cách tuyên bố quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây có thể coi là một điểm mới nếu chú ý ngôn từ trong Công hàm lần này khác hẳn với những tuyên bố khuôn mẫu trước kia: "Nam Sa quần đảo là một phần lãnh thổ Trung Hoa từ thời xa xưa và Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo cũng như các vùng biển xung quanh nó". Trong khi Philippin phản đối đích danh đường đứt khúc 9 đoạn thì Công hàm Trung Quốc không có một chữ nào nói đến đường trên ngoài câu: "Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý phong phú". Nếu cứ như Công hàm thì "Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đã được xác định rõ ràng". Các khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa lúc đó còn chưa tồn tại. So sánh Công hàm ngày 7/5/2009 và Công hàm ngày 14/4/2011 của Phái đoàn Trung Quốc lại càng thấy hai Công hàm này mâu thuẫn nhau. Công hàm ngày 7/5/2009 đòi hỏi "đối với chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng (xem bản đồ kèm theo)" tức theo đường lưỡi bò. Công hàm ngày 14/4/2011 thì lờ đường lưỡi bò đi mà cho rằng quần đảo Nam Sa có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật biển UNCLOS. Nếu phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa là đường lưỡi bò thì có chuyện ngược đời là đi xác định các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa bên trong vùng nước mà Bắc Kinh coi như là nội thủy. Hay các đảo trong quần đảo Nam Sa mà Trung Quôc yêu sách có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng không vượt quá phạm vi đường lưỡi bò? Hay cả quần đảo Nam Sa được coi là một tổng thể để đòi hỏi vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa như một quốc gia quần đảo? Hay phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa là đường lưỡi bò và sẽ tiếp tục đòi hỏi từ đó 200 hải lý đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cứ theo lập luận này thì cả thành phố Hồ Chí Minh, Manila và Kuala Lumpur rồi tới Natura đều rơi vào vòng ảnh hưởng của đường lưỡi bò và "các vùng biển liên quan. Đường lưỡi bò của Trung Quốc từ 11 đoạn rồi 9 đoạn, từ yêu sách bao gộp cả Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), Trung Sa (bãi ngầm Macclefield), Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) bây giờ lại coi là phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa. Không ai có thể hiểu được các Công hàm này trừ khi tác giả của nó giải thích. Việc hai Công hàm trong vòng hai năm có những nội dung mâu thuẫn nhau cho thấy chính bản thân người Trung Quốc còn lẫn lộn và đang tự mâu thuẫn với chính mình, không biết giải thích thế nào về đường lưỡi bò cho có lý. Hay đây là một sự cố tình lẫn lộn, áp dụng một cách tùy tiện lúc theo luật biển, lúc theo yêu sách lịch sử mơ hồ theo kiểu chiến thuật "mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột". Một chiến thuật mập mờ thường hay được sử dụng để buộc dư luận phải "tin" vào những điều vô lý? Lập trường không nhất quán, chỉ sử dụng sức mạnh, nói lấy được thật khó gây được lòng tin và hình ảnh tốt đẹp trong cộng đồng quốc tế. Rõ ràng, việc tự vẽ một đường yêu sách không đáp ứng bất kỳ một tiêu chuẩn pháp lý hay kỹ thuật nào để yêu sách chủ quyền các đảo trong đó rồi tiếp tục đòi hỏi các vùng biển liên quan là sự cố tình áp dụng sai nguyên tắc "Đất thống trị biển". Hơn nữa cũng nên nhắc lại rằng Công hàm ngày 29/9/1932 của phái đoàn ngoại giao Trung Quốc tại Paris còn tuyên bố các đảo Tây Sa "tạo thành cực nam của lãnh thổ Trung Quốc"[2]. Vậy làm sao có thể nói như trong Công hàm ngày 14/4/2011 là "Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng". Cũng không thể nói bằng chứng lịch sử và pháp lý tại đây vì Việt Nam mới là quốc gia có những bằng chứng về hoạt động Nhà nước của Đội Hoàng Sa sớm nhất trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Khác với Philippin sử dụng khái niệm các "đặc trưng địa chất"[3] (được hiểu bao gồm đảo, đá và bãi cạn nửa nổi nửa chìm - islands, rocks, reefs and shoals), Công hàm Trung Quốc lần này chỉ nói đến "chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo (islands) trong biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận". Trong đoạn 2 khi nhắc đến sự xâm lược của CH Philiipin, Công hàm có dùng thuật ngữ "đảo và đá" (islands and reefs) nhưng khác với Philippin đề xuất áp dụng điều 121.3 của UNCLOS về quy chế đảo hay đá thì Công hàm của Trung Quốc cho rằng "quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa". Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng yêu sách "được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy của chúng". Điều này được củng cố thêm bằng viễn dẫn trong đoạn 3 về "các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1998)". Liệu có phải Trung Quốc cho rằng dù đảo hay đá thì các đảo đá ở Trường Sa đều có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa? Vậy UNCLOS (điều 121.3) ở đây có giá trị gì với các quốc gia thành viên? Phớt lờ luật Biển Cũng nên nhắc lại ở đây Công hàm ngày 8/7/2010 của Indonesia, một nước không tranh chấp gì ở Biển Đông[4] đã đưa ra những bằng chứng về quan điểm chính thống của các đại diện Trung Quốc phát biểu tại các diễn đàn về Công ước luật biển năm 1982 về quy chế của các đảo đá không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng. Tại khóa họp lần thứ 15 của Cơ quan quyền lực đáy đại dương tại Kingston, Jamaica tháng 6/2009, Đại sứ Chen Jinghua, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã tuyên bố: "Yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các đảo đá...là ảnh hưởng đến các nguyên tắc của Công ước Luật biển và đến quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế". Trưởng đoàn Trung Quốc còn viện dẫn lời của Đại Sứ Avid Pardo (người đã đưa ra khái niệm vùng đáy biển di sản chung của loài người trong Công ước Luật biển) để lời tuyên bố của mình thêm sức mạnh : "...nếu quyền tài phán 200 hải lý được dựa trên quyền sở hữu các đảo không người ở, xa xôi hoặc rất nhỏ thì hiệu quả của việc quản lý quốc tế các vùng đại dương bên ngoài quyền tài phán quốc gia sẽ bị tổn hại nặng nề". Tuyên bố của Phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị các nước thành viên Liên hợp quốc lần thứ 19 từ ngày 22-26/6/2009 tại New York cũng khẳng định "theo điều 121 của Công ước Luật biển, các đảo đá không thích hợp cho con người ở hoặc không có một đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng". Những lời tuyên bố của các đại diện toàn quyền của Trung Quốc tại các diễn đàn quốc tế chỉ có thể được hiểu là chúng cũng được áp dụng phù hợp với tình hình Biển Đông và các đảo đá nhỏ không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng trong Biển Đông cũng không có quyền được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép sử dụng các đảo đá không người ở, ở xa lục địa và nằm giữa biển như điểm cơ sở để đòi hỏi các vùng biển là tổn hại các nguyên tắc cơ bản của Công ước luật biển cũng như xâm phạm đến các quyền lợi chính đáng của cộng đồng quốc tế. Phái đoàn thường trực của Indonesia tại Liên hợp quốc kết luận bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn trong Công hàm ngày 7/5/2009 của Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc hoàn toàn không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các quy định của Công ước luật biển 1982. Trong Biển Hoa Đông, với Nhật Bản là một nước lớn, Trung Quốc đòi các đá chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Trong Biển Đông, giữa các nước nhỏ, yếu, Bắc Kinh đòi cả quần đảo có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cộng đồng quốc tế buộc phải đặt câu hỏi liệu có chính sách phân biệt đối xử mà không cần phải dựa vào luật biển không hay Trung Quốc có một tiêu chuẩn kép về quy chế các đâỏ đá? Thực tiễn quốc tế và các phán quyết của các Tòa án và Trọng tài quốc tế cho thấy các đảo đá có những điều kiện tương tự như các đảo đá trong Biển Đông, nếu áp dụng đúng điều 121.3 của UNCLOS thì chỉ được hưởng các vùng biển không mở rộng quá mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia ven biển, ảnh hưởng an ninh hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế, tiếp tục duy trì nguy cơ xung đột ở mức cao. Về quy mô, kích thước, điều kiện sinh sống hay đời sống kinh tế riêng chúng cũng không thể được coi có cùng hiệu lực pháp lý trong phân định với lãnh thổ đất liền. Công hàm Trung Quốc kết tội Philippin đã "xâm lược" các đảo và đá của quần đảo Nam Sa thuộc Trung Quốc[5] nên không thể viện dẫn nguyên tắc "Đất thống trị biển" để đòi hỏi quyền chủ quyền đối với các vùng biển kế cận. Trung Quốc dẫn học thuyết pháp lý "ex injuria jus non oritus" để cho rằng CH Philippin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ của họ. Theo định nghĩa của luật quốc tế, xâm lược là một hành vi sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vậy việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp các năm 1974, 1988 và 1995 để chiếm đoạt các đảo đá đã có chủ để hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ có nên được áp dụng học thuyết pháp lý "ex injuria jus non oritus" không ? Khi công hàm ngoại giao tuyên bố "theo nguyên tắc pháp lý "Đất thống trị biển", yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể làm xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác", Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng cố tình quên mất sự thật là các yêu sách theo Luật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1998)" đang xâm hại đến các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo Luật biển UNCLOS cũng như chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác đã thực hiện chiếm hữu thực sự, hòa bình, không có tranh chấp trong thời gian dài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, thật khó có thể chấp nhận viện dẫn luật quốc gia để giải quyết một tranh chấp quốc tế. Công hàm của Trung Quốc lần này có tính răn đe, cứng rắn. Nó báo hiệu một cuộc chiến pháp lý mới trên Biển Đông. Công hàm không làm cho người đọc hiểu rõ thêm về lập trường pháp lý của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông, về cách hiểu đường lưỡi bò ngoài việc phái đoàn Trung Quốc chính thức yêu sách quần đảo Trường Sa có vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngược lại nó cho thấy một sự mập mờ cố ý, sử dụng cả những yêu sách lịch sử chưa được kiểm chứng lẫn luật biển hiện đại một cách tùy tiện để bảo vệ một yêu sách quá đáng. Giống như một thủ tục trước câc cơ quan tài phán quốc tế, các bên lần lượt chính thức thể hiện quan điểm của mình về chủ quyền, về quy chế đảo trước Liên hợp quốc. Cộng đồng quốc tế đã có tương đối dữ liệu để thể hiện quan điểm của mình. Dù còn có những khác biệt, trong tất cả các Công hàm đã trình lên Liên hợp quốc về vấn đè này đều có một điểm chung không thể phủ nhận: các bên đều viện dẫn UNCLOS, nguyên tắc "Đất thống trị biển" dù cách giải thích và áp dụng còn khác nhau. Cả hai Công hàm đều vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đã đến lúc các bên phải thực sự ngồi với nhau, xây dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, giải quyết hòa bình các tranh chấp, phù hợp với Luật quốc tế và UNCLOS. Giá ngày xưa ta mạnh để biển đảo không bị rơi và tay họ thì hay biết mấy ! Giờ lại thêm mấy nước khác trong khu vực tham gia đòi hỏi nữa ,thật là rắc rối .
  3. Xin chào quý vị ! Cái này rất cần đây ,nhất là khi mà ông lão Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng một loạt nhà máy điện hạt nhân ở giáp với Móng Cái - Tỉnh Quảng Ninh của chúng ta . Ai có đất vườn rộng thì nên trồng ,vừa đẹp vừa lợi ! =============================================== Khử đất nhiễm phóng xạ bằng cây hoa hướng dương Một dự án trồng cây hướng dương để khử chất phóng xạ trong đất xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima I tại Nhật Bản sẽ được triển khai trong năm nay. Cây hướng dương có khả năng hấp thu chất đồng vị phóng xạ Cs để thay thế Ka. Ảnh: thelensflare.com Báo Yomiuri Shimbun đưa tin Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA) phát hiện ra rằng, nếu cây hướng dương được trồng trên đất nhiễm chất phóng xạ thì sau khi hoa được thu hoạch, nồng độ phóng xạ trong đất sẽ giảm. Sau thảm họa hạt nhân Chernobyl vào ngày 26/4/1986, các nhà khoa học đã dùng cây hướng dương và cây cải dầu để khử phóng xạ trong đất nhiễm xạ tại Ukraina. Chất phóng xạ cesium (Cs) có các tính chất tương tự kalium (Ka), một nguyên tố phổ biến trong phân bón hóa học. Trong trường hợp lượng Ka trong đất không đủ, cây hướng dương sẽ hấp thu Cs để sinh trưởng. Nếu người ta đốt phần không được thu hoạch của cây hướng dương để tiêu hủy chúng, chất đồng vị phóng xạ Cs sẽ phát tán nhờ khói. Vì thế các nhà nghiên cứu của JAXA nghĩ tới việc dùng vi khuẩn háo khí và chịu được nhiệt độ cao để phân hủy thân cây. Hoạt động của vi khuẩn sẽ khiến 99% khối lượng thân cây hướng dương bị phân hủy, nhờ đó lượng chất phóng xạ trong thân cây cũng giảm. Nhóm nghiên cứu của JAXA đã thu thập khoảng 300 kg hạt hướng dương và yêu cầu Thái Lan, một trong những nước sản xuất nhiều hạt hướng dương nhất thế giới, hỗ trợ dự án. Họ cũng kêu gọi các trường phổ thông trung học nằm bên trong và gần khu vực có bán kính 30 km xung quanh nhà máy điện Fukushima I trồng cây hoa hướng dương trên sân trường. Minh Long
  4. Một phần của lịch sử Tác giả: KEVIN BOWEN Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước Bây giờ đã là 36 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc. Nhớ 36 năm về trước hoặc gần hơn là thời gian mươi năm sau chiến tranh, hầu hết những người Mỹ và Việt Nam không hề nghĩ rằng: đến một ngày quan hệ của hai nước lại có thể đến gần nhau như bây giờ. Nhưng nếu không có những "chỉ dẫn" của văn hóa, hai dân tộc sẽ không tìm được con đường đến với nhau trong ý nghĩa cao cả nhất của con người. Và sự "chỉ dẫn" của văn hóa không những tối quan trong đối với hai dân tộc đã có một lịch sử bi thương mà đối với tương lai của toàn nhân loại. LTS: Ngay cả khi cuộc chiến tranh đang ở giai đoạn tàn khốc nhất thì có những người lính của hai phía bắt đầu nhìn thấy vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn trong nền văn hóa của hai dân tộc. Nhiều người lính Việt Nam đã mang trong ba lô của họ vào mặt trận những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học Mỹ như Ông già và biển cả, Tiếng gọi nơi hoang dã, Chuông nguyện hồn ai, Lá cỏ, Cuốn theo chiều gió, Chùm nho nổi giận.... Còn những lính Mỹ, tuy không có cơ hội đọc được những tác phẩm văn học Việt Nam trong thời gian chiến tranh nhưng họ được chứng kiến những vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn của văn hóa trong chính đời sống ở các miền đất Việt Nam, nơi họ đã nổ súng và ném bom. Chính điều đó đã làm nên phong trào phản chiến. Ngay sau năm 1975, nền văn hóa của hai dân tộc đã gửi những sứ giả của mình đến với nhau. Những sứ giả đó chính là các nhà văn, nhà thơ và các nghệ sỹ của hai đất nước. Và lần đầu tiên một cách chính thức, hai dân tộc đã được chứng thực vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn thông qua tác phẩm văn học nghệ thuật và những con người sứ giả đó. Đi qua mọi thách thức, mọi đe dọa, mọi ngờ vực, mọi nguy hiểm... những nhà văn, nhà thơ của hai dân tộc đã không ngưng nghỉ tạo dựng chân dung của dân tộc mình - một chân dung mà trong thời gian chiến tranh nó đã bị bộ máy tuyên truyền bóp méo. Nhân dịp kỷ niệm 36 năm ngày chiến tranh chấm dứt, TuanVietNam xin trân trọng giới thiệu một số bài viết của một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam và Mỹ để bạn đọc có thêm một cái nhìn về sứ mệnh lớn lao của văn hóa trong việc chấm dứt chiến tranh, hàn gắn vết thương và tạo dựng lên một thế giới của những vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn. Và họ chính là những người đã phác thảo một cách chân thực và chính xác nhất chân dung dân tộc mình - chân dung của một nền văn hóa. Bởi khi các công dân của một dân tộc không dựng được chân dung văn hóa cho dân tộc mình thì dân tộc của họ mãi mãi là một dân tộc mang đến nỗi ngờ vực và sự sợ hãi cho các dân tộc khác. Được nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh là một vinh dự lớn. Hiếm có giải thưởng nào có ý nghĩa hoặc được trao bởi một nhóm học giả độc lập và xuất sắc như vậy. Với lòng khiêm cung, tôi xin nhận vinh hạnh này, biết rõ rằng nó không chỉ được trao cho bản thân mình, mà cho cả gia đình tôi, trung tâm và trường đại học của tôi, cùng nhiều bằng hữu, văn sỹ, nghệ sỹ, học giả và cựu chiến binh, ở cả hai phíaViệt Nam và Hoa Kỳ, cùng các nơi khác trên thế giới, những người đã và đang là một phần không thể thiếu của những cuộc giao lưu đã gần hai mươi lăm năm nay của chúng ta. Thế mà đã gần hai mươi lăm năm, vào cái đêm sau Giáng Sinh ấy, khi lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến, trên một chuyến bay cất cánh từ New York. Phim Trung Đội vừa mới công chiếu ngày hôm đó. Tâm khảm tôi vẫn còn hằn rõ hình ảnh của chuyến trực thăng cuối cùng đưa tôi trở lại căn cứ để mãn hạn về nhà, bên dưới chỉ thấy những cảnh như trên mặt trăng, vùng thôn quê Tây Ninh, hoang tàn vì bom đạn và chất diệt cỏ. Ngay cả khi rời Việt Nam lúc ấy, tôi đã mơ đến một ngày trở lại trong hòa bình, nhưng đó là năm 1969, tôi đã không thể mường tượng được hòa bình sẽ như thế nào, sẽ đến ra làm sao. Ảnh minh họa: hoinhavanvietnam Khi trở lại Việt Nam năm 1987 cùng với Dự án Hòa giải Đông Dương của John McAulliff, tôi đã có những trải nghiệm làm thay đổi hẳn con người mình. Trong những chuyến viếng thăm đền chùa và bảo tàng, gặp gỡ các cựu chiến binh, các giáo sư, đặt từng bước chân đi trên mảnh đất này, tôi đã cảm thấy mình đang thực sự sống trên mặt đất, lần đầu tiên sau biết bao nhiêu năm. Các viên tướng trong chiến tranh gọi việc gia tăng quân số là "putting boots on the ground - cho ủng dẫm xuống đất", nhưng với tôi, một thường dân trở lại trong hòa bình, việc đặt chân xuống đất ở đây đã có ý nghĩa như thể lần đầu tiên tôi đứng trên đất thực sự, với cảm thức sâu thẳm rằng cả lịch sử, tinh thần và thi ca của xứ sở xung quanh đang thẩm thấu qua da thịt mình. Tôi cũng thấy một sự cởi mở tuyệt vời, một ước muốn được nói, nghe và tìm kiếm sự tương đồng. Tôi đã thực sự kinh ngạc. Ở những giai đoạn ấy, mức độ tin cậy và hiểu biết giữa hai nước chúng ta còn thấp. Quan niệm về Việt Nam ở Mỹ và về Mỹ ở Việt Nam đều u ám bởi nhiều thập niên tuyên tuyền và xuyên tạc. Việc cắt hầu hết ngân sách cho các chương trình dạy ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa Việt Nam ở Mỹ và những cắt giảm tương tự đối với các chương trình dạy tiếng Anh và nghiên cứu về Mỹ ở Việt Nam đồng nghĩa với tình trạng bất khả của những giao lưu trực tiếp và thực sự trong sáng. Nhưng đó là buổi ban đầu. Là giám đốc Trung tâm Joiner, tôi may mắn có cương vị được trở lại Việt Nam, lần này qua lần khác. Năm 1988 tôi quay lại cùng một nhóm nhỏ cùng trung tâm, có David Hunt, Ralph Timperi, Gene Michaud và vợ tôi - Leslie. Lúc ấy chúng tôi muốn thu thập tài liệu về những tác động cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam và những hậu quả dai dẳng của cuộc chiến. Đó là những ngày gian khổ ở Việt Nam. Thiếu điện, thiếu thuốc men, khan hiếm thực phẩm, hiếm cả khách sạn hoặc xe gắn máy hoạt động theo đúng nghĩa của chúng. Năm ấy chúng tôi đi từ Hà Nội vào Tây Ninh, qua Huế, Cam Lộ, Hội An, Đà Nẵng, Hóc Môn. Leslie chụp ảnh các nghĩa trang, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, nhà máy, các trung tâm người tàn phế, với ý đồ giúp người Mỹ hiểu về Việt Nam. Lúc ấy chúng tôi là một phần của những hoạt động giao lưu đầu tiên, gửi thuốc men và thiết bị y tế, tổ chức trao đổi bác sỹ, các chương trình tiếng Anh và tiếng Anh cho người nước ngoài, giáo viên, nghệ sỹ và nhà văn. Như nhiều bạn đã biết, chúng tôi vẫn là một tổ chức bất thường. Trung tâm chúng tôi không lấy tên một chính khách hoặc tướng lãnh nổi tiếng nào; nó không có trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn; và nó cũng chả có nhiều tiền. Trung tâm chúng tôi lấy tên một người lính bình thường, một cựu binh Mỹ gốc Phi đã làm việc để trợ giúp các cựu binh khác và đã chết vì căn bệnh ung thư có liên quan đến việc tiếp xúc với chất độc màu da cam. Những người làm ở trung tâm chúng tôi lúc nào cũng vẫn chủ yếu là cựu chiến binh. Như đã nói, chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng như hầu hết cựu chiến binh, chúng tôi biết cách xoay xở, và điều đó thường có nghĩa là khi tiếp đãi khách từ Việt Nam sang, chúng tôi không để mọi người ở khách sạn, chúng tôi đưa họ về nhà mình. Có lẽ tôi sẽ chả bao giờ có thể đủ lời hay ý đẹp để nhắc lại buổi ban đầu ấy một cách xứng đáng. Những vị khách đầu tiên của chúng tôi chỉ sang có ít ngày. Lê Cao Đài và Bùi Tụng sang dự hội nghị y tế công cộng Mỹ. Những người khác sang dài ngày hơn và trở nên gắn bó lạ kì. Lê Lựu và Ngụy Ngữ là những sứ giả văn chương đầu tiên. Lê Lựu đã thành bạn của nhiều người suốt từ Boston đến Washington nhờ những mẩu chuyện đời của chính mình trong và sau chiến tranh. Biết nói gì đây khi nhớ lại cảnh ngay dưới mái hiên sau nhà mình, Nguyễn Quang Thiều, Hữu Thỉnh và Lê Minh Khuê thay nhau bế ẵm và hát ru Lily, đứa con gái mới 2 tháng tuổi của chúng tôi. Rồi cảnh Thiều, Phạm Tiến Duật và Tô Nhuận Vỹ cùng đá bóng với Myles - con trai chúng tôi, chạy quanh khắp sân sau; hoặc cảnh nổi tiếng nhất là Nguyễn Quang Sáng ném bóng rổ ở ngay gần đó. Những chuyện ấy đều như có phép lạ. Có lẽ một phần là vì cái lạ lùng thật sự của chúng: cứ nghĩ mà xem, những kẻ cựu thù, gặp gỡ nhau như thế, nấu nướng, mua sắm, ăn uống, kể chuyện cho nhau nghe như thế, và sống với nhau như một gia đình trong ngôi nhà ấy ở Dorchester. Mà tất cả những cái lạ lùng ấy lại còn phong phú sâu sắc hơn lên nữa nhờ những bài ca điệu nhảy cùng nhau, những bài thơ cùng đọc cùng nghe, và một niềm vui giản dị khi hình như tất cả đã cùng tìm thấy một con đường thoát ra khỏi cuộc chiến, khỏi câu chuyện bao trùm xưa cũ của quá khứ. Những hội thảo văn chương của chúng tôi hồi ấy thu hút mọi người từ khắp nơi đến chỉ cốt để gặp gỡ các nhà văn Việt Nam. Năm 1999 là thời điểm bước ngoặt của chúng tôi. Dự án Full Circle - Vòng tròn trọn vẹn - của chúng tôi đã đưa được hai nhóm cựu binh Mỹ trở lại thăm những chiến trường xưa ở Việt Nam và gặp gỡ những con người mà họ đã từng ngắm bắn. Hội Nhà văn chủ trì cuộc hội nghị đầu tiên của các nhà văn cựu chiến binh Việt Nam và Mỹ. Tôi nhớ cả "Đêm thơ trữ tình" ở Hà Nội, ngồi trong gian phòng đặc khói thuốc lá, lắng nghe các tác giả Mỹ và Việt thay nhau đọc tác phẩm của mình, lần đầu tiên nhận ra những tiết tấu không thể quên được của những dòng chữ mà nhiều năm sau này một số chúng tôi đã may mắn dịch được sang tiếng Anh, hoặc chí ít thì cũng đã cố làm công việc ấy. Và tôi cũng nhớ cái giây phút lúc đến thăm Hội Nhà văn, đang ngồi đó thì Vũ Tú Nam và Chính Hữu đến trao cho chúng tôi những trang giấy pơ-luya đánh máy của bản thảo sau này sẽ thành tác phẩm Mountain River. Đó chính là lịch sử, một lịch sử độc đáo, vì tôi không thấy có một giây phút nào khác sau chiến tranh mà những người lính làm thơ của nước này trao bản thảo tác phẩm của mình cho những người lính làm thơ của nước kia. Năm 1992, tôi có dịp trở lại Việt Nam để phỏng vấn các nhà văn ở khắp mọi miền đất nước. Với tôi, đó là một trải nghiệm khải huyền. Tôi đã nghe Vũ Tú Nam kể lại những ngày tranh cãi về giải thưởng trao cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, về những lá thư mà vợ chồng anh ấy viết cho nhau suốt những năm tháng xa cách trong chiến tranh. Tôi đã nghe Nguyên Ngọc kể về thời thơ ấu của anh ấy, chuyện vợ anh ấy bị bắt, cuộc đoàn tụ kì lạ khi tù binh được trao trả năm 1973. Tôi đã gặp Lý Lan, người đã hỗ trợ công việc dịch thuật của tôi lần đầu tiên ở Sài Gòn. Tôi vẫn giữ những cuốn băng ghi âm ấy, âm thanh nền là tiếng gà gáy, tiếng xe đạp và xe máy thảng hoặc chạy qua chứ chưa thấy tiếng xe hơi rồ máy bóp còi. Tôi nhớ một hôm ở Hà Nội, đang đánh vật với việc dịch ở báo Văn Nghệ Quân Đội thì có ai đó cúi xuống bên cạnh hỏi cái gì đó rồi rành rẽ nói mấy từ "La Colline des vaches machine" - đồi xay thịt bò, khiến tôi bỗng nhớ lại "Hamburger Hill", nơi diễn ra một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong năm 1969. Vào cái ngày có tin bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, tôi mới chợt nhận ra một sự thật là chúng ta đã là một phần của lịch sử, một phần của quá trình tiến lại gần nhau của hai đất nước chúng ta. Hôm đó, Nguyễn Duy đang ở chỗ chúng tôi và vừa rời nhà đi tham quan thủ đô Washington. Cùng ngày ấy, Nguyễn Duy đến thăm đài tưởng niệm các cựu binh của cuộc chiến tại Việt Nam và sau đó viết một bài thơ rất hay về nó. Cũng đúng hôm ấy, hoàn toàn không biết gì về sự có mặt của Duy tại Mỹ, tờ The Boston Globe đăng toàn bộ bản dịch một bài thơ của anh ấy - "A Small Song of Peace" - ngay trên trang xã luận để đánh dấu sự kiện bình thường hóa quan hệ. Hôm sau, trong mục thư gửi tổng biên tập của báo, một độc giả đã viết rằng cả số báo hôm ấy chỉ có bài thơ này là quan trọng nhất. Thời điểm ấy đánh dấu một bước tiến quan trọng, tôi nghĩ vậy. Nó báo hiệu rằng công việc giao lưu và dịch thuật mà chúng tôi đã khởi sự như một mạo hiểm chung với các cộng sự Việt Nam đã trở thành một sự nghiệp với sức sống riêng của nó, rằng nền văn học Việt Nam cũng như các tác gia của nó nay đã được công chúng Mỹ đón nhận. Một sự kiện xuất bản khác hồi đó cũng báo hiệu bước chuyển biến ấy là việc bài "To Return to the Urges of the Beginning" của Phạm Tiến Duật được chọn vào tuyển tập những bài thơ được yêu thích nhất tại Mỹ - một công trình lớn có ý nghĩa lịch sử của Robert Pinsky, thi khôi của nước Mỹ lúc bấy giờ. Một nhà giáo, nữ thi sỹ trẻ người Mỹ và một người bạn Việt Nam là học sinh của chị đã đề cử bài thơ này cho tuyển tập. Công việc đã không phải lúc nào cũng dễ dàng. Visa phải xin và lấy ở Bangkok. Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Ngụy Ngữ và Nguyễn Khải đã bị một đám đông tấn công sau một sự kiện tổ chức ở thư viện công cộng Boston. Một nhóm cựu binh Mỹ đã phải làm rào cản để bảo vệ họ. Một trong số đó, nhiều các bạn đã biết, là nhân vật chủ ngân hàng Bob Glassman. Dịch thuật lúc nào cũng là một thách thức. Những người cùng dịch cuốn Thời xa vắng - có David Hunt, tôi, Ngô Vĩnh Hải và Nguyễn Bá Chung, hai Việt hai Mỹ - chúng tôi đã học được rất nhiều khi cùng nhau đánh vật với từng dòng của cuốn sách đó, cố truyền đạt trung thực nhất những gì Lê Lựu đã mô tả, từ trời, đất, cuộc sống thành phố, nông thôn, rồi cuộc chiến, và cả những lối chơi chữ, tính hóm hỉnh và chất nồng ấm trong giọng văn của anh ấy. Được trở lại Việt Nam là quan trọng nhất, được về tận làng quê của Lê Lựu, thấy dân làng oằn mình ngoài đồng ruộng, bước dọc bờ sông vào ngày hội Tiên Dung, nhìn cờ phướn tung bay trong gió, những đội nhạc hỉ hội hè, tất cả thật không thể thiếu được. Có một nhà phê bình vĩ đại đã từng nói mục đích của nghệ thuật là khiến ta nhìn thấy. Các nhà văn Việt Nam đã làm việc với chúng tôi từng bước một để giúp cho cái phần dịch giả trong con người chúng tôi nhìn ra được những gì cần phải thấy. Chuyện này thật nhiều ý nghĩa. Với tôi chẳng hạn, cái có ý nghĩa nhất là những trải nghiệm tuyệt vời trong chuyến viếng thăm làng quê của Nguyễn Quang Thiều, thấy con đê anh ấy từng nằm ngủ trên đó hồi còn bé, những con chuồn chuồn chao lượn trên mặt ao, nằm ngủ trên chiếc giường của bà nội anh ấy. Như tôi đã nói, những chuyện ấy, cả cái quá trình ấy, không phải lúc nào cũng dễ dàng. Và khó nhất là với người Việt Nam ở hải ngoại. Có những người đã chống lại tiến trình giao lưu ấy cả trên báo chí và trên đường phố, với những cuộc biểu tình mỗi khi chúng tôi có khách từ Việt Nam sang. Đã có cả những lời dọa giết và đánh bom. Với nhiều người, nỗi đau ấy là chân thực và có vẻ không thể hàn gắn được. Dù sao, qua suốt những năm tháng ấy, một cuộc đối thoại đã ra đời, một cuộc đối thoại đòi hỏi lòng dũng cảm ở cả hai bên. Chúng tôi biết danh tiếng Nguyên Ngọc, Tô Nhuận Vỹ, Trần Văn Thủy, những người sang Mỹ bằng học bổng Rockefeller. Và tất nhiên là cả hai nhân vật danh tiếng khác nữa, hai học giả đầu tiên sang với chúng tôi bằng học bổng Rockefeller: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến - người đã vừa mới qua đời. Mặc những lời đe dọa chống đối, họ đã không lùi bước, đã sang với chúng tôi, và đã tạo lập được một cầu nối để nhiều người khác sau này tiếp bước họ. Theo dòng thời gian, những tác phẩm dưới dạng sách, bài viết và thơ trên các tạp chí đã lần lượt được thế giới biết đến và tiếp nhận. Writing Between the Lines, Mountain River, Distant Road, Six Vietnamese Poets, Early Zen Poems from Vietnam, đã mở đường cho những tác phẩm mới nữa mà chúng tôi biết là sẽ xuất hiện. Cuối cùng, cho phép tôi được nói một điều, rằng có lẽ tôi sẽ không thể có đủ lời để nói về chuyện toàn bộ những cuộc giao lưu ấy đã có ý nghĩa như thế nào đối với chính gia đình mình. Làm sao có thể quên được Đoàn nhạc Sông Hương của Võ Quê, đã diễn một đêm trên sông nước vằng vặc ánh trăng ở Huế, rồi lại diễn ở ngay sân sau nhà chúng tôi ở Doschester. Hay cái đêm chúng tôi bị tấn công ở Thư viện Công cộng Boston. Rồi những lúc ngồi ở hiên nhà nghe ca khúc Trịnh Công Sơn với phần đệm guitar nhẹ nhàng, mà nhiều năm sau lại được ngồi với Duy trong một quán bar Sài Gòn, nghe chính Trịnh Công Sơn hát những ca khúc ấy. Lại còn Chu Lượng, Lương Tu Duc, Nguyễn Quang Thiều và Thuật con trai anh, đem niềm vui của nghệ thuật múa rối nước sang cho trẻ em ở Dedham và Boston, thậm chí cả diễn riêng cho buổi sinh nhật của con gái tôi. Hoặc ngồi trong vườn thơ ở Sông Bé với Thu Bồn, nghe hát ca kịch và giọng đọc của các nhà thơ vang vọng vào trời đêm trên những làn khói của lửa trại. Hoặc ngồi ở Bắc Ninh, nhà Đỗ Chu, nghe các liền anh liền chị Quan Họ kể chuyện đời và cất tiếng hát. Hoặc cùng uống trà trên tầng áp mái của chúng tôi cùng với hàng chục nhà văn từ Việt Nam sang, mà Nguyễn Quyền và Paley thì mải mê trò chuyện đến tận khuya. Hoặc tất cả những buổi đọc văn đọc thơ ấy, khám phá những trang viết của những người sang làm khách ở nhà chúng tôi, mà lần lần tác phẩm của họ đã bắt đầu được dịch sang tiếng Anh; nghe những giọng văn độc đáo ấy - Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Lê Văn Thảo, Cao Tiến Lê, Ý Nhi, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Nguyễn Trí Huân, Ma Văn Kháng, Trần Đăng Khoa, Đỗ Chu, Văn Lê, Bảo Ninh, Chu Lai, Nam Hà, Trung Trung Đỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Như Trang, Ngân Vịnh, Bùi Ngọc Tấn, Dương Thuấn, và còn bao nhiêu người khác. Với một hạnh ngộ lớn lao như thế này, tôi chỉ còn biết cứ thật lòng nói lời cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn. Trịnh Lữ dịch
  5. Không quân Nga sẽ trang bị đĩa bay Cập nhật lúc25/04/2011 01:00:00 PM (GMT+7) http://www.vietnamnet.vn/vn/index.html Các nhà thiết kế hàng không Nga cho biết: Không quân Nga sẽ có một phương tiện bay mới, có hình dạng một chiếc đĩa bay theo hình dung của những nhà nghiên cứu UFO. Đây không phải lần đầu tiên các nhà khoa học Nga đề cập đến các thiết bị bay kiểu mới, hình dạng giống chiếc đĩa bay như mô tả của các nhà UFO học. Nửa năm trước, tại Ulianovsk, họ đã khẳng định chương trình 5 năm thiết kế máy bay nhiệt đạn đạo (thermoballastic), hình dạng đĩa bay, tạm gọi là ATLA. Không quân Nga sẽ được trang bị đĩa bay. Ảnh minh họa. Theo các nhà thiết kế, đó là một vật thể kích thước lớn, hình hai chiếc đĩa úp vào nhau, đường kính tới 250 mét, chiều cao 100 mét. Giá thành một thiết bị bay như vậy có thể lên đến 2 tỉ rúp. Về thực chất ATLA là một khinh khí cầu thế hệ mới. Sở dĩ gọi là thiết bị bay nhiệt đạn đạo vì ngoài thể tích heli trong khoang máy, còn có một khoang chứa không khí nóng và không khí lạnh. Cách kết cấu của các thiết bị đã được tính toán, cho phép điều khiiển lực nâng, tác dụng lên khinh khí cầu, khi bay theo chiều thẳng đứng và khi hạ cánh. Đĩa bay АТLА sử dụng động cơ điện. Ngoài ra, ở các mép của thiết bị có bố trí những cánh nhỏ, nhằm bảo đảm sự cân bằng để nó giữ được ổn định trước sức đẩy của gió khi đang “treo” ở một điểm trên không, thí dụ khi đang cẩu lên một trọng tải đến 600 tấn. Đây cũng không phải chỉ là ý tưởng “độc quyền” của các nhà kỹ thuật Nga. Vào năm 2008, các mô hình thiết bị bay mới cũng xuất hiện tại Mỹ. Trường Đại học Florida đã đăng ký sáng chế về dự án “thiết bị bay điện từ không có cánh” – hình dạng đĩa bay . “Chiếc đĩa bay Florida” là một thiết bị độc đáo dựa trên nguyên lý từ thuỷ động học (magnitohydrodynamic), sử dụng chất lỏng dẫn động, khí ion hoá trong sự có mặt của từ trường. Các điện cực bố trí dày đặc trên bề mặt của đĩa bay Florida và không khí bao quanh bề mặt của đĩa bay bị ion hoá, chuyển thành những dòng plasma. Hiệu ứng này cho phép đĩa bay chuyển động (kể cả chuyển động thẳng đứng) và treo lơ lửng trên không. Tuấn Hà (Theo KP.ru)
  6. Nhiệt liệt hoan nghênh cụ Phật đã hạ cố tiếp truyện tôi , cụ biết không :Lúc mới bắt được cụ Rùa ở cơ quan tôi người ta cứ bàn ầm lên là tiến sỹ nọ,phó giáo sư kia bảo thực ra là giống giải ở Thượng Hải ,chắc ngày xưa người Hán mang sang thả chơi .... cay thật , Mình mở miệng nói cái là họ ầm ầm bảo chỉ cóa ông vào cụ Đức là tin nó là rùa thần thôi . không hiểu ngày đó người Hán áp dụng chính sách đô hộ tàn khốc đến độ nào mà gần hết thảy mọi người đều nghĩ : van hóa,lịch sử .... rồi thì cả bàn chân cũng lai của người Trung Quốc thì giờ mới đẹp thế chứ của người Giao Chỉ thì bàn chân xòe ra như bàn chân ngan . Tức thật !!!! Tức thật !!!!!!
  7. Xin chào quý vị ! Cuối cùng thì người Nga cũng đã giữ được truyền thống nhân hậu và văn hóa vốn có của mình ,điều này phần nào bị mai một đi dưới thời lộn xộn của Tổng thống Eltsin . ================================================= V. Putin không muốn hỏa táng thi hài Lenin Cập nhật lúc 25/04/2011 06:15:00 AM (GMT+7) Để đảm bảo việc giữ gìn thi hài Lenin không bị biến dạng, hơn 70 năm dưới chính thể Xô viết đã có tới 3 thế hệ các nhà khoa học Liên Xô nối tiếp nhau đảm nhiệm nhiệm vụ này. Một trong 3 sự nghiệp quan trọng nhất Đảng Cộng sản và chính phủ Liên Xô luôn coi công việc này như là một trong 3 sự nghiệp quan trọng nhất, đó là: bảo quản tốt thi hài Lenin, phát triển ngành hàng không vũ trụ, nghiên cứu và phát triển năng lượng hạt nhân. Việc bảo vệ thi hài Lenin là công việc hết sức phức tạp, thí dụ việc duy trì nhiệt độ trong phòng đặt quan tài Lenin luôn luôn phải ở 16 độ C với sai số không được vượt quá 0,7 độC. Để thực hiện công việc này luôn phải có 12 kỹ sư, bác sĩ chuyên ngành làm việc trong mỗi ca trực, và các ca phải trực liên tục 24/24 giờ. Còn kỹ thuật chống sự hoại tử thi hài thì được coi là một trong những bí mật trọng điểm của quốc gia. Lăng Lenin Trong hồi ký của mình, khi nhớ lại sự kiện này, Sibarski đã viết: “Nhằm đảm bảo bí mật, chúng tôi đã xuất phát khỏi lăng vào nửa đêm 3/7/1941 và được một ủy viên Bộ Chính trị dùng xe tăng đón tại nhà ga Orkovsk. Sau khi thi hài và toàn bộ nhân viên cùng những người thân trong gia đình Lenin lên tàu, đoàn được hộ tống bởi 410 binh lính và sĩ quan Hồng quân". Những ngày đó lại đặc biệt nóng. Để bảo vệ thi hài, họ đã phải dùng tới phương pháp rất thủ công, đó là xếp những thanh nước đá xung quanh quan tài, đồng thời phải dùng rượu cồn thường xuyên sát trùng để tránh hiện tượng hoại tử. Sau 5 ngày đoàn mới tới được Sumin (Uran) trong bối cảnh bí mật tuyệt đối. Ngay cả Bí thư thứ nhất Khu ủy vùng đó cũng không được biết thực chất người ta đã đưa đoàn người này đến đây làm gì. Sau đó tất cả những người theo đoàn, trong đó có cả những người trong gia đình giáo sư Sibarski đều phải lưu lại Xumin và được bố trí ở ký túc xá của Học viện Nông nghiệp, hoàn toàn cách ly với bên ngoài. Còn chiếc quan tài pha lê quàn thi hài Lênin thì được đặt tại phòng họp ở tầng hai của tòa nhà, và được gọi là “Phòng trắng” (Bạch cung). Tại địa điểm mới, nhóm của giáo sư Sibarski gặp muôn vàn khó khăn trong công việc. Do chiến tranh mỗi ngày một ác liệt nên ngay cả khẩu phần lương thực cũng không đủ, thì cũng dễ hình dung ra những dụng cụ, thuốc men và những điều kiện khác phục vụ cho việc bảo quản thi hài thiếu thốn đến mức nào. Nhưng chính tại nơi đây nhóm bảo quản do Sibarski đứng đầu đã phát minh ra những phương pháp bảo quản thi hài hoàn toàn mới. Thí dụ như Valuabov đã tìm ra phương pháp có tính đột phá trong công tác bảo vệ thi hài: khắc phục mỹ mãn toàn bộ những nốt tàn nhang trên khuôn mặt, đồng thời nâng cao được độ cao của mũi và con mắt như lúc Lênin còn sống. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn kéo dài, nhất là việc không thể duy trì được một nhiệt độ thích hợp, nên vào tháng 12/1943, thi hài bắt đầu xuất hiện hiện tượng hoại tử. Để khắc phục, các nhà bác học đành phải di chuyển thi hài xuống một căn hầm sâu dưới lòng đất với hy vọng lợi dụng được nhiệt độ thấp ở đây. Cho tới tháng 3/1945, khi mối đe dọa của quân phát xít đã bị đẩy lùi thì thi hài Lenin lại được đưa về Moscow để phục vụ nhân dân vào viếng. Kể từ đó thi hài Lenin càng được bảo vệ hết sức cẩn trọng. Theo Giáo sư Delsunov, người trực tiếp lãnh đạo nhóm bảo quản thi hài, cho biết: mỗi tuần 2 lần vào thứ hai và thứ sáu, thi hài lại được tiến hành bảo dưỡng. Đầu tiên là thay bộ quần áo, sau đó thi hài được xử lý bằng chất liệu thơm rồi đưa vào phòng vô trùng để tiến hành kiểm tra một cách toàn diện. Vẫn theo giáo sư Delsunov thì khi kiểm tra nếu phát hiện thấy bất kỳ một sự thay đổi nào, dù là nhỏ nhất, đều phải lập tức báo cáo lên Bộ Y tế Liên bang, và sau khi được Bộ chuẩn y mới được phép tiến hành các biện pháp khắc phục. Riêng người phụ trách phòng bảo ôn cứ 10 phút một lần phải báo cáo đầy đủ các thông số của phòng như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và phải chịu trách nhiệm duy trì các thông số cần thiết. Sau khi đã hoàn tất mọi công đoạn trên thì mới chỉnh sửa y phục, tư thế thi hài. Ngoài việc bảo dưỡng thường xuyên như trên, thì cứ nửa năm một lần thi hài được ngâm trong một loại dung dịch đặc biệt với thời gian kéo dài hai tuần liền. V. Putin không muốn thi hài Lenin bị hỏa táng "Sau khi Liên Xô sụp đổ, do rất nhiều nguyên nhân, chính quyền Nga khi đó đã không cấp kinh phí cho việc tiếp tục bảo quản thi hài Lenin. Phòng thí nghiệm lăng Lenin bị đổi tên thành “Trung tâm nghiên cứu y học kết hợp sử dụng thuốc thực vật toàn Nga”, khiến cho sự bảo quản thi hài ngày một khó khăn. Trong suốt thập niên 90 của thế kỷ trước, việc bảo quản thi hài vẫn được tiếp tục, song hoàn toàn dựa vào sự tự nguyện của các cán bộ, nhân viên và các nhà khoa học, trong đó bao gồm cả con trai của Sibarski. Cũng cần nói thêm rằng trong thời gian nói trên, nước Nga dưới quyền của Tổng thống Eltsin đã rộ lên cuộc tranh luận dai dẳng xung quanh việc di chuyển lăng và xử lý thi hài Lenin như thế nào. Chỉ từ sau khi Putin trở thành tổng thống, thì cuộc tranh luận trên mới dần dần im hơi lặng tiếng. Cá nhân Tổng thống Putin không hề giấu giếm lòng tôn kính của mình đối với Lenin, hơn nữa ông còn cổ vũ người dân Nga “hãy tự hào với tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản Nga”. Chưa đầy một năm sau trên cương vị tổng thống Nga, Putin đã phát biểu: ông không muốn thi hài Lenin bị mang đi hỏa táng, mà “cần phải bảo vệ sự yên tĩnh của Người”. Cuối năm 2003, các nhân viên bảo vệ và các nhà khoa học đã tạm đóng cửa lăng để tiến hành bảo dưỡng thi hài và thay y phục của Lenin. Bakesov, người phụ trách lăng đã ra ra tuyên bố nhấn mạnh: “Thi hài Lenin vẫn được bảo quản rất tốt, ít nhất trong vòng hơn 100 năm nữa vẫn không có chuyện gì xảy ra”. (Theo ANTG,Bee) ================================================= Xin cảm ơn quý vị đã quan tâm xem báo ,mong quý vị ủng hộ mục này bằng cách bình luận ở mục này hoặc cập nhật những bài báo mới và những bài báo có thông tin hữu ích để mọi người cùng xem thay vì rất mất thì giờ để tìm từng loại báo mà tin mới thì chẳng có được bao nhiêu ! Hy vọng quý vịu nhiệt tình hưởng ứng ! Xin tạm biệt !
  8. Mở tầm nhìn Vụ Vinalines: vượt đèn đỏ nên bị thổi còi Tác giả: Khương Duy Bài đã được xuất bản.: 24/04/2011 06:00 GMT+7 Có thể so sánh sự nóng vội của Vinalines khi quyết định giữ hàng của Trung Quốc đẫn tới thiệt hại 800.000 USD với việc rất nhiều người vượt đèn đỏ vì nóng vội và bị cảnh sát giao thông phạt, dù không ai không biết đó là hành vi phạm pháp và đầy rủi ro. LTS: Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh vụ việc Vinalines, tuy nhiên chưa có bài viết nào phân tích cụ thể vụ tranh chấp này dưới góc độ pháp luật hàng hải quốc tế. Độc giả Khương Duy, giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế của ĐH Ngoại thương Hà Nội đã gửi tới Diễn đàn Kinh tế Việt Nam bài viết này. Bài viết xin nêu lên một số vấn đề liên quan tới trách nhiệm của các bên trong hợp đồng thuê tàu và quyền bắt giữ tàu biển theo phán quyết của tòa án dựa trên một số nguồn luật: Công ước về bắt giữ tàu biển của Liên hợp quốc (International Convention on the Arrest of Ships hay Công ước Geneva năm 1999), Bộ luật hàng hải của nước CHND Trung Hoa năm 1992, Luật tố tụng hàng hải của nước CHND Trung Hoa năm 1999 và Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 Thẩm quyền bắt giữ tàu biển theo luật pháp quốc tế Khoản 1, Điều 2 Công ước Geneva 1999 quy định về thẩm quyền bắt giữ tàu nêu rõ "một con tàu chỉ có thể bị bắt giữ hoặc được giải phóng khỏi sự bắt giữ theo quyết định của toà án của quốc gia thành viên nơi tiến hành bắt giữ." Khoản 2 điều này khẳng định "một con tàu chỉ có thể bị bắt giữ căn cứ vào một khiếu nại hàng hải chứ không thể bị bắt giữ vì những khiếu nại khác." Chặt chẽ hơn, Khoản 3 điều này còn nhấn mạnh quốc gia bắt giữ tàu để đảm bảo cho khiếu nại hàng hải không nhất thiết phải là quốc gia nơi tòa án và/hoặc luật của quốc gia đó được lựa chọn để xét xử trong hợp đồng thuê tàu. Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của Công ước này, cho nên tòa án Trung Quốc hoàn toàn có quyền ra lệnh bắt giữ tàu Vinalines Global của Việt Nam theo quy định quốc tế nếu phán quyết của tòa án xuất phát từ một khiếu nại hàng hải và thỏa mãn điều kiện bắt giữ. Vậy một khiếu nại hàng hải và điều kiện bắt giữ tàu là gì? Điều 3 của Công ước liệt kê một số khiếu nại điển hình, thí dụ khiếu nại liên quan tới những mất mát, thiệt hại do vận hành tàu hoặc những thiệt hại do tàu gây ra với môi trường. Trong trường hợp Vinalines, khiếu nại yêu cầu bắt giữ tàu Vinalines Global có thể liên quan tới hai nội dung sau đây: "g) Thoả thuận về vận chuyển hàng hoá hoặc hành khách bằng tàu, dưới hình thức hợp đồng thuê tàu hoặc hình thức khác; h) Mất mát hoặc thiệt hại gây ra cho tài sản hoặc liên quan đến tài sản (kể cả hành lý) vận chuyển trên tàu." Những căn cứ này được liệt kê vận dụng nguyên vẹn vào Điều 21 Luật tố tụng hàng hải của nước CHND Trung Hoa, đó là cơ sở để Tòa án nước này xem xét đơn khiếu nại và ra phán quyết bắt giữ tàu phục vụ việc điều tra. Về điều kiện bắt giữ tàu, Luật tố tụng hàng hải Trung Quốc nêu lên một số điều kiện quan trọng. Với trường hợp Vinalines, Tòa án có thể căn cứ vào ý đầu tiên của Điều 23:"Chủ tàu chịu trách nhiệm với khiếu nại hàng hải và là chủ sở hữu của con tàu tại thời điểm quyết định bắt giữ có hiệu lực." Khoản 1a) Công ước Geneva 1999 cũng nêu rõ: "Người có quyền sở hữu đối với tàu vào thời điểm phát sinh khiếu nại hàng hải, có trách nhiệm liên quan tới nghĩa vụ phát sinh từ khiếu nại hàng hải đó và vẫn là chủ sở hữu tàu vào thời điểm tiến hành bắt giữ" là một trong những điều kiện bắt giữ tàu để đảm bảo một khiếu nại hàng hải được thực hiện. Như vậy, xét tới ba lý do: khách hàng người Trung Quốc khiếu nại về thiệt hại liên quan tới hàng hóa vận chuyển trên tàu theo hợp đồng thuê tàu; tại thời điểm đó, quyền sở hữu con tàu vẫn thuộc về phía Vinalines; và Vinalines là người trực tiếp gây ra thiệt hại đề cập trong đơn khiếu nại hàng hải; quyết địn bắt giữ tàu của Tòa Trung Quốc hoàn toàn phù hợp về mặt luật pháp quốc tế. Sai lầm dẫn tới việc Vinalines phải bồi thường Trước hết, để hiểu được vấn đề của Vinalines, chúng ta cần điểm lại một số khái niệm pháp lý về hợp đồng thuê tàu. Pháp luật Việt Nam và Trung Quốc quy định hoàn toàn tương tự về hợp đồng thuê tàu định hạn và thuê tàu trần (time chater party và bareboat charter party). Điều này được thể hiện tại Điều 139 Bộ luật hàng hải Việt Nam và Điều 128 Bộ luật hàng hải Trung Quốc. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm hợp đồng thuê tàu định hạn theo quy định của pháp luật hai nước. Điều 129 Bộ luật hàng hải Trung Quốc quy định: "Hợp đồng thuê tàu định hạn là một hợp đồng theo đó chủ tàu cung cấp một con tàu đầy đủ thuyền bộ cho người thuê tàu; người thuê tàu sử dụng con tàu trong thời hạn của hợp đồng, trả phí thuê tàu và các dịch vụ đã thỏa thuận." Điều 138 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: "Hợp đồng thuê tàu định hạn là hợp đồng thuê tàu, theo đó chủ tàu cung cấp một tàu cụ thể cùng với thuyền bộ cho người thuê tàu." Nhìn chung, quyền và nghĩa vụ của chủ tàu và người thuê tàu định hạn trong hai Bộ luật của hai nước hoàn toàn tương tự nhau. Một điểm cần lưu ý là: quyền sở hữu và nghĩa vụ phát sinh liên quan tới quyền sở hữu con tàu trong thời gian cho thuê định hạn vẫn thuộc về phía chủ tàu. Rắc rối nảy sinh do đối tác thuê tàu định hạn của Vinalines lại cho thuê lại con tàu theo một hợp đồng thuê tàu chuyến. Như vậy, từ đây hình thành hai hợp đồng: một hợp đồng điều chỉnh mối quan hệ giữa Vinalines và đối tác thuê tàu định hạn; một hợp đồng điều chỉnh mối quan hệ giữa đối tác thuê tàu định hạn và khách hàng thuê lại theo chuyến người Trung Quốc. Hai hợp đồng này có tính độc lập tương đối và có một số đặc điểm cần lưu ý. Điều 140, Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: "1. Trường hợp có thoả thuận trong hợp đồng thì người thuê tàu có thể cho người thứ ba thuê lại tàu, nhưng vẫn có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng được giao kết với chủ tàu. 2. Các quyền và nghĩa vụ của chủ tàu quy định tại Chương này cũng được áp dụng đối với người cho thuê lại tàu." Theo Điều 140, việc cho thuê lại tàu phải căn cứ vào thỏa thuận trọng hợp đồng giữa chủ tàu và người thuê tàu định hạn. Dù đã cho thuê lại tàu nhưng người thuê tàu định hạn vẫn phải thực hiện những nghĩa vụ với chủ tàu, mà quan trọng nhất là nghĩa vụ trả cước phí. Điều này còn hàm ý, người thuê lại tàu (sub-charterer) chỉ cần biết và tuân thủ mối quan hệ với người thuê tàu định hạn, giờ đóng vai trò chủ tàu. Mọi nghĩa vụ của người thuê tàu định hạn với chủ tàu, người thuê lại không có nghĩa vụ phải biết và thực hiện. Điều 137 Bộ luật hàng hải Trung Quốc cũng quy định rõ người thuê tàu có quyền cho thuê lại con tàu nhưng lưu ý người này phải thông báo lại cho chủ tàu thực sự. Mọi nghĩa vụ của hợp đồng thuê tàu chính không bị ảnh hưởng bởi hợp đồng cho thuê lại tàu. Một nội dung quan trọng được quy định tại Điều 141 Bộ luật hàng hải Trung Quốc nhưng không được quy định trong luật Việt Nam: "Trong trường hợp người thuê tàu không trả tiền thuê tàu hoặc các khoản tiền khác đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu, chủ tàu có quyền giữ lại hàng hóa của NGƯỜI THUÊ TÀU, các tài sản khác trên tàu và thu nhập từ VIỆC CHO THUÊ LẠI TÀU." (In case the charterer fails to pay the hire or other sums of money as agreed upon in the charter, the shipowner shall have a lien on the charterer's goods, other property on board and earnings from the sub-charter). Rõ ràng, điều này chỉ cho phép chủ tàu giữ hàng hóa, tài sản của người thuê tàu trực tiếp ký hợp đồng với mình và thu nhập của anh ta từ việc cho thuê lại tàu chứ không được phép làm tổn hại tới người đi thuê lại tàu. Cách hành xử của Vinalines trong trường hợp này đã vi phạm pháp luật của nước sở tại và hình phạt nặng dành cho Vinalines là hoàn toàn có thể hiểu được nhất là khi Việt Nam đã ở vào thế yếu trong vụ việc này. Kết luận Nếu đối tác thuê tàu định hạn của Vinalines cho thuê lại tàu mà không có thỏa thuận trước trong hợp đồng hoặc chưa thông báo cho Vinalines biết thì Vinalines sẽ có cơ sở để khiếu nại đối tác này. Trong trường hợp đó, đối tác thuê tàu định hạn của Vinalines sẽ phải chịu trách nhiệm vì hai lý do: chậm thanh toán tiền cước và không thông báo việc cho thuê lại tàu/cho thuê lại tàu không được sự đồng ý của Vinalines. Tuy nhiên, khả năng Vinalines không biết trước việc đối tác của mình cho thuê lại tàu là rất thấp. Đúng như TS Trần Hữu Huỳnh nhận định trong bài phỏng vấn gần đây trên VEF.VN, lỗi của Vinalines thuộc về cách hành xử. Người viết tin Vinalines hoàn toàn nắm được thông tin về việc cho thuê lại tàu và hiểu rõ những rủi ro của việc bắt giữ hàng trên tàu song có lẽ do nóng vội và lo lắng về việc thu hồi cước phí nên đã mắc sai lầm. Có thể so sánh sự nóng vội đó với việc rất nhiều người vượt đèn đỏ vì nóng vội và bị cảnh sát giao thông phạt, dù không ai không biết đó là hành vi phạm pháp và đầy rủi ro. -------------- Tài liệu tham khảo: 1. Công ước Geneva 1999: http://www.admiralty...arrest1999.html 2. Bộ luật hàng hải của nước CHNND Trung Hoa: http://publishing.eu...set/6943/14.pdf 3. Luật tố tụng hàng hải của nước CHND Trung Hoa: http://en.msa.gov.cn.../04/0401/040110 4. Bộ luật hàng hải của nước CNXHCN Việt Nam: http://www.vpa.org.v...at-Hang-Hai.htm
  9. xCó gì đâu bạn ! Cả hai tòa nhà này mới nhìn đã thấy không phù hợp với thẩm mỹ của đa số mọi người nên : - Trung tâm hội nghị quốc gia tuy lạ mắt thật nhưng về lâu dài thì tự nhiên mọi người sẽ không có cảm hứng họp hành ở đó và vị vậy có nhiều cuộc họp lớn lẽ ra sẽ được tổ chức ở đó thì người ta lại chon địa điểm khác . Điều này sẽ không sảy ra niếu tòa nhà này được tính toán kỹ hơn bởi các chuyên gia phong thủy từ khi thiết kế và xây dựng . - Tương tự như vậy : Thư viện quốc gia cũng báo hiệu cảnh không tấp nập tìm đọc sách như kỳ vọng của người thiết kế công trình này . Bạn thử để ý tìm hiểu mà xem !
  10. Xin chào ban quản trị diễn đàn ! Không thấy các sư huynh góp ý về Nick nữa ,vậy chắc là cái Nick : Cóc vàng là ổn rồi . Vậy đề nghị BQT đổi cho tôi từ Nick : Vanvatho thành Nick : Cóc vàng Xin cảm ơn !
  11. Xin chào quý vị ! Nếu quý vị nào thấy ai đào được các cổ vật nghi là của người Việt cổ thì nhớ báo ngay cho cơ qua chức năng và chụp ảnh đưa lên đây nhé .Ức thật ! Không hiểu ngày xưa khi quân Hán sang xâm lược ,khi ấy thái thu Sỹ Nhiếp nhà hán bắt dân ta đốt hết sách và bỏ tiếng nói cùng chữ viết của người Việt và học chữ Hán thì các cụ nhà mình chôn dấu sách vở ở đâu ? Không lẽ lại bị động nên không kịp tẩu tán ít nào sao ? Ức thật !
  12. Xin chào huynh ! Vậy nhờ sư huynh đổi luôn cho đệ thành : Cóc Vàng À mà có cần chọn ngày giờ không ạ ! Cái khoản này thiif đệ vẫn mù tịt . Mong tin của các huynh !
  13. Con chào sư phụ ạ ! Sư phụ ơi ! Con định đổi Nick thành : Cóc Vàng Con nhờ sư phụ và các sư huynh tính hộ con xem có được không ạ ? Nếu được thì xin đổi luôn cho con ạ ! Con xin cảm ơn !
  14. Hay quá !!!!! Hay quá sư phụ ơi !
  15. Xin chào huynh ! Tại đệ viết nhầm . Đệ định đổi là : Cóc vàng Huynh xem có được không ạ !
  16. Con xin chào sư phụ ạ ! Có thể ở đâu nhỉ?
  17. Sư huynh ơi ! Các sư huynh xem hộ đệ xem cái Nick này có được không ạ ! Nếu được thì cho đệ đổi luôn đi ạ !Xin cảm ơn !
  18. Xin chào các vị ! Vậy là sư phụ Thiên Sứ của chúng tôi đã đúng ,như vậy thì chiến tranh hóa học sẽ không xảy ra và bắt đầu từ Lybya - Châu Âu và thế giới sẽ tránh được một thảm họa diệt vong thê thảm !
  19. Xin chào hunh Hạt Gạo Làng và huynh Thiên Luân ! Đệ định đổi thành Nick : Cóc Vàng . Cóc Vàng vừa ẩn chứa nhiều tri thức minh triết Việt ,vừa tránh được từ phạm húy do trùng tên vào cụ Khiết mà lại vẫn là cụ Khiết . Nick này lại rất phù hợp với hình đại diện của đệ ,hơn nữa Cóc Vàng là loại cóc quý nhất trong loài cóc .Ngày xưa khi còn nhỏ ,đệ hay đi bắt Cóc về cho bố đệ làm duốc cóc cho bọn đệ ăn để đỡ bị còi xương và cụ thích nhất là những con Cóc màu vàng . Xin ý kiến các huynh ạ ! Xin cảm ơn !
  20. À đúng rồi ! Vậy để đệ nghĩ đã ! cảm ơn các huynh đã quan tâm !
  21. Các huynh ơi ! Đệ vừa chợt nghĩ ,cụ Rùa thì mọi người trên diễn đàn lại cứ phải gọi đệ là "cụ" ,như vậy e đệ lại đắc tội với các vị cao tuổi !Hay là : kim quy có được không ạ ! Nhờ các huynh tính luôn cho cái tên này xem nó có trường tồn hay không ạ ! Xin cảm ơn các huynh đã quan tâm !
  22. Ôi chà ,huynh làm đệ toát cả mồ hôi ,chân tay hiện đang run lẩy bẩy !!!!! Chợt nhớ lại chuyện khi xưa Cao Biền giả làm lễ để mời thần Tản Viên về núi tản nhằm mục đích trấn yểm để hại thần ,không may cho Cao Biền là Thần Tản Viên biết được ý đồ của hắn và Thần bay về mắng cho một trận và cùng lúc đó một cơn gió lớn nổi lên hất tung đồ cúng của hắn ... làm sợ mất cả mật .Từ đó hắn từ bỏ luôn ý định trấn yểm để triệt hạ nhân tài nước Việt . Tuy nhiên đệ chỉ có ý tôn trọng và ngưỡng mộ thần linh nước Nam nên mới lấy tên các ngài . Nhưng thôi,huynh đã có kinh nghiệm về vụ này rồi thì đệ xin nghe theo luôn ạ ! Để đệ nghĩ thêm ........ Cảm ơn huynh đã nhắc nhở !
  23. Xin chào huynh ! Đệ muốn có một cái Nick thật ngắn và thật Lạc Việt ; Khó quá !!!!!!! Hay đổi cho đệ là : Tản Viên Có được không ạ !
  24. Xin chào ban QT diễn đàn ! BQT làm ơn cho hỏi : Gần đây có hai đồng nghiệp của đệ tử muốn tham gia diễn đàn ; Đệ tử đã làm luôn việc tạo Nick hộ hai người này ,quá trình đã hoàn tất và họ đã đăng nhập vào diễn đàn được ,nhưng sao họ lại không gửi được bài viết ạ ! 1. Nick : Gabong 2.Nick : Quocdung Xin BQT hướng dẫn a! Xin cảm ơn !