Vo Truoc
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
787 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
13
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Vo Truoc
-
Đã một tuần đăng bài tóm lược so sánh Thuyết Tuyệt đối với khoa học hiện đại (bao gồm Thuyết Tương đối, Cơ học lượng tử và Bigbang) mà không thấy anh chị em nào quan tâm nhỉ. Một chủ đề khoa học hiện đại và mới lạ như thế, được phát triển bởi người Việt, được trình bày tóm lược dễ hiểu, lại được suy ra từ học thuyết ADNH Việt tộc do đó có khả năng tôn vinh văn hóa Việt, rất phù hợp với tinh thần của Diễn đàn, mà sao bị lạnh nhạt thế. Thật khó hiểu. Có lẽ tôi dừng ở đây vì thấy mình vô duyên quá! Thân ái!
-
Anh chị em trên diễn đàn thân mến! Đã gần 2 năm tôi cho ra mắt Thuyết Tuyệt đối trong sách "Cơ sở Học thuyết Âm dương Ngũ hành" (tập 1) và hầu như không có phản hồi gì. Có lẽ vấn đề không được quan tâm hoặc nội dung quá dài, quá mới lạ quá khó tiếp thu do trái với những gì chúng ta vẫn được nghe, được học. Vì vậy, với mong muốn nội dung Thuyết Tuyệt đối được dễ tiếp thu hơn, bạn đọc thấy được ý nghĩa của nó và rộng đường phản biện, tôi xin mở Topic " So sánh Thuyết Tuyệt đối với Thuyết Tương đối, Cơ học lượng tử, BigBang" để bạn đọc đỡ mất thời gian, sức lực, hiểu được nội dung Thuyết Tuyệt đối và trao đổi, phản biện cùng tôi. Thuyết Tuyệt đối được tôi xây dựng là những kết luận được rút ra một cách trực tiếp từ Học thuyết Âm dương Ngũ hành trong văn hóa Việt (không phải Tàu). Do đó, theo tôi, ngoài ý nghĩa trong khoa học Vật lý, nó còn có ý nghĩa lớn trong việc phục hưng văn hóa Việt. Phương pháp và logic suy luận hoàn toàn thông thường như chúng ta vẫn học trong nhà trường vậy. Rất mong các bạn trao đổi, phản biện nhiệt tình và xây dựng. Thân ái!
-
Thưa các bạn ! Để nội dung không quá dài, khó theo dõi, trước khi pos tiếp, tôi xin tóm tắt những đặc điểm đã được trao đổi của Thuyết Tuyệt đối trong sự so sánh với khoa học hiện đại để anh chị em dễ dàng góp ý, phản biện như sau: - Thuyết Tuyệt đối xác định rằng, Vũ trụ là một trường khí âm dương bao gồm 2 mặt không thể tách rời là Khí (Vật chất) và Không-thời gian. Đến lượt nó, Khí (Vật chất) lại bao gồm Khí âm, Khí dương, Không-thời gian bao gồm không gian, thời gian và chúng cũng không thể tách rời, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia. Một quan niêm như thế cho phép thấy rõ bản chất, thuộc tính của vật chất, không gian, thời gian và quan hệ hữu cơ giữa chúng. - Trên cơ sở đó, Thuyết Tuyệt đối xác định hệ số co dãn không thời gian ζ như một thông số đặc trưng cho vật chất và không thời gian, bổ xung vào hệ qui chiếu vât lý. - Thuyết Tuyệt đối chứng minh trong hệ qui chiếu địa phương, vận tốc ánh sáng là c không thay đổi (không phải tiên đề) và chỉ rõ, vận tốc ánh sáng phụ thuộc ζ trong những hệ qui chiếu khác theo công thức: V = c/ζ2 - Thuyết Tuyệt đối đưa ra Tiên đề về áp lực vật chất trong không gian tác động lên một vi phân thể tích theo công thức: pm = Kρmζ và suy ra áp suất và mật độ vật chất trong không gian như sau: p = pmaxe1 – τ ρ = ρmaxτe1 - τ Từ đây, Thuyết Tuyệt đối dễ dàng suy ra công thức năng lượng E = mc2/τ mà công thức nổi tiếng của Anhxtanh E = mc2 chỉ là trường hợp riêng khi τ = 1 trong hạt vật chất. Những kết quả trên là rất cơ bản và mới mẻ đối với khoa học hiện đại Thân ái !
-
Như trên đã thấy, Khí (Vật chất), bao gồm Khí dương – tịnh, tràn đầy không thời gian, tất nhiên nó sẽ tạo ra một áp suất pm nào đó lên một vi phân thể tích trong không gian. Áp suất pm này phụ thuộc vào hệ số co dãn không thời gian ζ của môi trường vả mật độ vật chất ρm có trong vi phân không gian đó và gọi là áp suất hấp dẫn. Mật độ ρm và ζ càng lớn thì pm càng cao. Do tính tịnh thể hiện sự co cum, tập trung ... nên phương của áp suất đó có phương hướng vào vi phân không gian đó. Sự phụ thuộc này có thể theo một hàm số nào đó mà ta khó lòng tính được. Do đó, Thuyết Tuyệt đối đưa ra một Tiên đề cho rằng, đó là phụ thuộc tuyến tính. Vì thế ta có Tiên đề 1: Áp lực hấp dẫn lên một vi phân vật chất phải tỷ lệ với hệ số co giãn không thời gian môi trường ζ và mật độ trường khí âm dương ρm trong bản thân vật chất ấy: pm = Kρmζ Khi mật độ ρm = ρ là mật độ vật chất của môi trường, ta được áp suất của vật chất trong không gian có hệ số co dãn không thời gian ζ là: p = Kρζ. Khi tính đến thuộc tính đàn hồi của Khí (vật chất), qua một số không lớn biến đồi toán học ta thu được phương trình vi phân của phân bố áp suất p và mật độ vật chất trong không gian là: dp/p = - dτ dρ/ρ = - (τ – 1)dτ/τ Với τ = Q/ζ , Q = c2/K Giải phương trình vi phân trên ta được công thức tính áp suất và mật độ vật chất trong không gian như sau: p = pmaxe1 – τ ρ = ρmaxτe1 - τ Với pmax , ρmax là áp suất và mật độ vật chất trong không gian khi ζ = ζmax = Q hay τ = 1 Suy ra: pmax = KρmaxQ => pmax = c2ρmax Theo lý thuyết đàn hồi, ta cũng có, áp suất p chính bằng mật độ năng lượng của môi trường. Suy ra, năng lượng tiềm tàng của thể tích V vật chất có độ co dãn không thời gian ζ là: E = Vp = Vpmaxe1 – τ = V c2ρmaxe1 – τ = Vc2ρ/τ =mc2/τ => E = mc2/τ Trong trường hợp ζ = ζmax = Q hay τ = 1 thì: E = mc2 Đó chính là công thức năng lượng nổi tiến của Anhxtanh. Ta cũng dễ dàng suy ra, hạt vật chất thông thường chính là Khí (vật chất) khi có ζ = ζmax = Q hay τ = 1. Như vậy, các bạn cũng thấy, Thuyết Tuyệt đối dễ dàng chứng minh công thức E = mc2/τ còn tổng quát hơn công thức năng lượng nổi tiếng của Anhxtanh, hay công thức E = mc2 của Anhxtanh chỉ là trường hợp riêng khi τ = 1. Ngoài ra, Thuyết Tuyệt đối còn đưa ra công thức tính mật độ năng lượng và mật độ vật chất trong không gian mà khoa học hiện đại ngày nay còn chưa biết tới.
-
Xin sửa thành: Như vậy, Thuyết Tuyệt đối cũng cho kết quả như Thuyết Tương đối về vận tốc ánh sáng nhưng trong Thuyết Tương đối ta phải công nhận nó như một Tiên đề, còn trong Thuyết Tuyệt đối, ta thấy rõ bản chất thực của nó, đó chỉ là một kết luận logic vật lý. Xin lỗi !
-
Với cách hiểu như trên về cấu tạo Vũ trụ (Trường khí âm dương) ta thấy ngay rằng, ở đâu có Không-thời gian, thì ở đó có vật chất và chúng khác nhau ở hệ số co dãn không thời gian ζ. Ở nơi nào ζ lớn thì vật chất đậm đặc hơn, thời gian trôi chậm hơn, không gian nhỏ hơn so với nơi có ζ lớn. Không gian ta đang sống cũng tràn đầy Khí (vật chât) với ζ = 1 (vì ta chọn đây là Hệ qui chiếu), ở trong các hạt vật chất thì ζ rất lớn. Ngoài ra, vật chất (Khí) bao gồm Khí âm, Khí dương. + Khí âm vốn động nên làm cho ζ dao động dẫn đến không tời gian và vật chất cũng vận động, rung lắc không ngừng. + Khí dương vốn tịnh, luôn chống lại bất kỳ sự thay đổi, biến động nào, dẫn đến một kết luận quan trọng: Vật chất và không thời gian của nó là một khối đàn hồi. Do đó, nó có mật độ vật chất ρ nào đó, một suất đàn hồi E* nào đó tương ứng với ζ. Theo lý thuyết đàn hồi, vận tốc truyền sóng trong không gian đàn hồi (ví dụ sóng âm trong nước hay không khí) là v = (E*/ρ)1/2 không thay đổi khi E*/ρ không đổi (khi ζ không đổi). Vận tốc truyền sóng trong không gian ta đang sống có ζ = 1 chính là vật tốc ánh sáng c = 300000 (km/s) vì ánh sáng cũng là một dạng sóng lan truyền trong không gian. Đó chính là tiên đề của Anhxtanh về vận tốc ánh sáng trong chân không của Thuyết Tương đối. Như vậy, Thuyết Tuyệt đối cũng cho kết quả như Thuyết Tương đối về vận tốc ánh sáng nhưng trong Thuyết Tương đối ta phải công nhận nó như một Tiên đề, còn trong Thuyết Tương đối, ta thấy rõ bản chất thực của nó, đó chỉ là một kết luận logic vật lý. Mặt khác, Thuyết Tuyệt đối phủ nhận một chân không, cơ sở của Tiên đề Anhxtanh, mà chỉ rõ, khắp nơi trong Vũ trụ đều tràn ngập vật chất (Khí) với hệ số co dãn không thời gian ζ khác nhau. Nếu đứng trên vị trí của ta (Hệ qui chiếu có ζ = 1) quan sát thông số vật lý tại vị trí có hệ số co dãn không thời gian ζ nào đó, ta dẽ thấy độ dài L giảm đi ζ lần (L còn L/ζ), đồng hồ chạy chậm lại ζ lần, (dt còn dt/ζ), vận tốc giảm đi ζ2 lần (v còn v/ζ2). Điều đó có nghĩa là, vận tốc ánh sáng tại nơi có hệ số co dãn không thời gian ζ, khi quan sát tại nơi có ζ = 1, là c/ζ2. Nếu ζ > 1 ta sẽ thấy ánh sáng di chuyển chậm hơn c, nếu ζ < 1 ta sẽ thấy ánh sáng di chuyển nhanh hơn c. Vì coi không gian là trống rỗng, không thấy được hệ số ζ nên Thuyết Tương đối không thấy được sự khác biệt này của vận tốc ánh sáng (tương đương trường hợp ζ như nhau tại mọi vị trí trong không gian). Tuy nhiên, nếu ta quan sát trong Hệ qui chiếu có độ co dãn không thời gian ζ đó (Hệ qui chiếu địa phương), ta sẽ vẫn thấy L là L, dt vẫn là dt, v vẫn là v và c vẫn là c, không có sự thay đổi nào. Tức là, trong các Hệ qui chiếu địa phương, mọi đại lượng vật lý đều không thay đổi (không phụ thuộc ζ) Sở dĩ ta không quan sát được sự khác biệt này trong không gian ta đang sống là do ζ thay đổi rất nhỏ trong không gian. Theo tính toán của tôi, cách xa ta khoảng 13 tỷ km thì ζ mới thay đổi 1phần ngàn.
-
Thực ra, khoa học hiện đại cũng đã biết về hệ số co dãn không thời gian ζ. Cụ thể, Thuyết Tương đối cho rằng, trong một hệ qui chiếu chuyển động, không gian bị co lại theo phương chuyển động theo hệ số γ = 1/(1 – β2)1/2, thời gian cũng bị co lại theo tỷ số γ này. Khoa học cũng biết rằng, không thời gian bị co lại khi bị ảnh hưởng của khối lượng cực lớn. Tuy nhiên, do không hiểu về bản chất nên không đánh giá được tầm quan trọng của hệ số co dãn không thời gian ζ nên khoa học hiện đại đã bỏ qua, không xét hệ số này như một đặc trưng của không thời gian. Hậu quả là khoa học đang vấp phải nhiều mâu thuẫn, vấn nạn không thể vượt qua mà nhiều tác giả đã đề cập. Trong nỗ lực giải quyết những vấn nạn này, các nhà khoa học đã tưởng tượng và đặt ra rất nhiều giả thuyết, nhiều khi rất khôi hài, hoang tưởng... làm tiêu tốn rất nhiều trí lực và vật lực một cách vô ích, làm chậm bước tiến của nhân loại. Thuyết tuyệt đối, trên cơ sở học thuyết ADNH cho rằng, Vũ trụ chẳng qua chỉ là một Trường khí âm dương. Trường khí âm dương gồm 2 mặt không thể tách rời là Khí (có đặc trưng là âm-động) và Không-thời gian (phương tiện mô tả, thể hiện tính âm-động ấy của Khí). Khí, chính là vật chất, cũng do 2 mặt không thể tách rời là Khí âm (động) và Khí dương (tịnh) tạo nên. Không-thời gian cũng do 2 măt không thể tách rời là không gian và thời gian tạo nên. Trường khí ân dương = Khí (Vật chất) + Không-Thời gian Khí (Vật chất) = Khí âm + Khí dương Không-Thời gian = Không gian + Thời gian Trên cơ sở này, ta dễ dàng hiểu được một số luận điểm vẫn còn lờ mờ trong Triết học và Vật lý ngày nay, làm tốn rất nhiều giấy mực, như: Không gian là gì? Thời gian là gì? Vật chất là gì? Tại sao không gian và thời gian sẽ mất đi nếu Vật chất biến mất? (Bởi vì chúng là những mặt không thể tách rời của một Trường khí âm dương). Tại sao Vật chất luôn vận động? (Bởi vì nó có Khí âm-động), Tại sao vật chất tồn tại như những hạt, những thực thể? (Bởi vì nó có Khí dương-tịnh)... Trong quá trình tương tác âm dương, vật chất phân bố trong Vũ trụ với những mật độ khác nhau làm cho Không-thời gian với tư cách là một mặt không thể tách rời vật chất, phản ánh thuộc tính của vật chất, cũng phải khác nhau tương ứng với những mật độ khác nhau đó. Thời gian sẽ trôi nhanh chậm khác nhau, cây thước cũng dài ngắn khác nhau. Đặc trưng cho sự khác nhau đó chính là hệ số co dãn không thời gian ζ. Ý nghĩa của hệ số co dãn không gian chính là độ co của một vi phân độ dài dL khi ta dời nó từ vị trí được chọn với ζ = 1 làm mốc tới vị trí có độ co dãn không gian ζ tương ứng thành dLζ: ζ = dL/dLζ Ý nghĩa của hệ số co dãn thời gian là: thời gian tại vị trí có độ co giãn thời gian ζ trôi chậm hơn thời gian tại vị trí có ζ = 1 ζ lần : ζ = dt/dtζ Trên cơ sở hiểu rõ vật chất, không gian, thời gian như thế, Thuyết Tuyệt đối cho rằng hệ số co dãn không thời gian là một thông số hết sức cơ bản, xác định thuộc tính của không gian, thời gian và vật chất nên cần hiết đưa vào Hệ qui chiếu. Và quả thật, những kết quả mà Thuyết Tuyệt đối thu được rất mới mẻ, tổng quát, mang tính triết học cao.
-
Khác biệt thứ nhất: Hệ tọa độ Trong khoa học hiện đại, đặc trưng của một điểm trong không gian hoàn toàn được xác định bằng vị trí của nó. Vì vậy, ngày nay, giới khoa học thường dùng Hệ tọa độ Đề-các gồm 3 trục vuông góc (Ox, Oy, Oz) để xác định vị trí của điểm M tương ứng với 3 thông số tọa độ của nó là x, y, z và ký hiệu là M(x, y, z). Thuyết Tuyệt đối cho rằng, ngoài vị trí còn có độ co dãn không thời gian ζ tại vị trí ấy mới đủ đặc trưng cho một điểm M trong không gian. Do đó, Thuyết Tuyệt đối, ngoài dùng một Hệ tọa độ Đê-các, còn dùng thêm một trường hệ số co dãn không thời gian ζ để xác định điểm M, gồm 4 thông số tương ứng với 3 thông số tọa độ của nó là x, y, z và 1 thông số độ co dãn không thời gian ζ và ký hiệu là M(x, y, z, ζ). Như vậy, Thuyết Tuyệt đối khảo cứu sự vật nhiều hơn so với khoa học hiện đại một thông số là hệ số co dãn không thời gian ζ, đương nhiên sẽ toàn diện hơn, phản ánh thực tại khách quan chính xác hơn. Tôi xin lưu ý rằng, khác biệt về Hệ tọa độ là khác biệt hết sức cơ bản, tác động đến hầu hết những tính toán của một lý thuyết.
-
Các nhà khoa học không tự nhiên đưa ra quan niệm không thời gian tương đối hay tuyệt đối một cách vô căn cứ, mà nó xuất phát từ các công thức thu được trong quá trình tính toán. Những luận điểm của sự tương đối trong thuyết tương đối bắt nguồn từ các công thức biến đổi Lorentz. Nếu những quan điểm đó sai là do những công thức đó sai hay chưa cính xác Những quan điểm về "tuyệt đối" của bạn chỉ dựa vào trực quan đơn giản, hơn nữa, không có sự hỗ trợ của những tính toán lý thuyết cũng như thực nghiệm nên tính thuyết phục không cao, theo tôi là không đúng.
-
Tôi không bàn đến những luận điểm khác cùa Ts Vũ Huy Toàn, tôi chỉ quan tâm đến quan điểm về vấn đề hệ qui chiếu quán tính của ông. Rõ ràng các nhà khoa học mới chỉ chứng minh chặt chẽ các công thức của mình trong HQC quán tính (v = const) nhưng đã vội mở rộng cho các trường hợp vận tốc bất kỳ và lơ đi vấn đề là công thức chỉ mới được chứng minh co trường hợp v = const. Có thể mở rộng đó không sai với thực tế khách quan nhưng vẫn không được chứng minh chặt chẽ về lý thuyết. Vì thế mới có những "bắt bẻ" cùa TS Vũ Huy Toàn và về lý thuyết mà nói, bắt bẻ đó không sai. Mặt khác, ngay Einstein đã bị chỉ ra sự thiếu logic khi đưa ra công thức này, mặc dù công thức đúng. Rõ ràng, logic dẫn đến công thức này và cách chứng minh của tôi trong "Cơ sở học thuyết ADNH" (Tập 1) rất đơn giản và tự nhiên, "thoáng" hơn nhiều so với thuyết tương đối, mà lại tổng quát hơn.
-
So với bản đã post trên diễn đàn này, sách "Cơ sở học thuyết ADNH" (Tập 1) đã xuất bản của tôi có một số chỉnh sửa. Tôi đã đề nghị quả trị viên cho chỉnh sửa nhưng không được đáp ứng. Do đó, tuy bản chất không thay đổi, nưng chắc sẽ có một số sai lệch. Bạn nên lưu ý khi nghiên cứu.
-
Mời bạn tham khảo mục VI.8 nói về đoạn chứng minh của tiến sỹ Ngô Thanh Vân theo địa chỉ dưới đây: https://vuhuytoan.files.wordpress.com/2007/07/2-cosocuavlyhochiendai.pdf
-
Xin lỗi vì không hiểu ý bạn. Như đã thông tin trước, tác phẩm "Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành" (Tập 1) của tôi đã được xuất bản (cuối tháng 10). Tập 1 gồm 2 chương: Chương I: Chân tướng Thực tại, Chương II: Thuyết tuyệt đối. Nếu bạn quan tâm và cho địa chỉ chính xác, tôi có thể tặng bạn một cuốn theo đường bưu điện và mong chờ phản biện của bạn.
-
Bạn nói về sự già đi nhanh hơn của một người so với một người khác khi được sinh ra cùng một thời điểm là "nghịch lý" hay trái với logic thông thường là không chính xác. Trong cuộc sống thường nhật, thậm chí người ít tuổi trông già hơn người nhiều tuổi hơn là hết sức phổ biến và bình thường. Nguyên do là sự già cả không chỉ phụ thuộc vào thời điểm sinh ra mà còn phụ thuộc hoàn cảnh, điều kiện sống của đối tượng. Trong cái gọi là nghịch lý song sinh, hai anh em song sinh nhưng lại sống một thời gian khá dài trong hai điều kiện sống khác nhau: một người như chúng ta, còn người kia trên tàu Vũ trụ có tốc độ cao và thời gian trên đó trôi chậm hơn, và do đó, anh ta trẻ hơn là chuyện thuận lý chứ không có gì là nghịch lý cả. Cũng tương tự như 2 anh em song sinh nhưng số phận trớ trêu làm một người sống trong vất vả, nghèo khó còn người kia trong lầu son gác tía thì người kia trẻ hơn người khác là hết sức bình thường. Nếu anh ta không trẻ hơn thì mới là không thuận lý của thuyết tương đối. Trong cái gọi là nghịch lý đấu súng của bạn đưa ra, thứ tự sự trúng đạn của anh A và B không chỉ phụ thuộc vào sự chêng lệch về thời điểm nổ súng mà còn phụ thuộc vào tốc độ bay của viên đạn, tốc độ chuyển động của người quan sát. Nếu anh B nổ súng trước nhưng tốc độ viên đạn chậm hơn thì anh ta vẫn có khả năng trúng đạn trước như thường. Mà tốc độ của viên đạn lại phụ thuộc vào chuyển động của người quan sát. Nếu bạn đặt bài toán đấu súng một các chi ly, như cho thời gian nổ súng trước của B so với A là dt, vận tốc các viên đạn do B và A bắn là Vb, Va, vận tốc chuyển động của người quan sát là Vqs, ... và tính toán theo các công thức của thuyết tương đối hẹp thì không thấy có gì là “nghịch lý” ở đây cả. Bài toán chỉ gặp nghịch lý khi thứ tự chết (chứ không phải thứ tự bắn) của A và B tùy thuộc người quan sát. Tuy nhiên, điều này không sảy ra hay ngịch lý không hiệu lực. Anh đã biết, tôi không phải là người ủng hộ thuyết tương đối hẹp, nhưng tôi luôn khách quan trong những suy luận khoa học.
-
Những kết luận bạn đưa ra tôi chưa thấy sự vô lý (nghịch lý) nào cho thuyết tương đối ở đây cả. Mong anh phân tích kỹ hơn. Trong thuyết tương đối hẹp, người bắn trước trúng đạn trước cũng là điều bình thường mà, không phải là nghịch lý. "Nghịch lý" 2 anh em sinh đôi cũng không có gì nghịch lý cả, bình thường thôi. Tóm lại mong bạn chỉ rõ tính bất hợp lý trong "nghich lý đấu súng" của bạn Lúc ấy bạn có một lý thuyết khác chứ không phải học thuyết Âm dương Ngũ hành nữa. Thực ra do không hiểu những khái niệm được cổ nhân đưa ra nên nhiều người hết sức tùy tiện thêm cái này cái kia, sửa cái này cái kia ... làm rối mù lên. Tuy nhiên, do học thuyết đã thất truyền và sai lệch, do đó phải chỉnh sửa lại là yêu cầu tất yếu. Sử lý được mâu thuẫn này không phải là đơn giản
-
Thuyết tuyệt đối là một phát triển biện chứng của vật lý lý thuyết giống như sự phát triển từ cơ học Niu-tơn lên thuyết tương đối vậy, nó mở đường cho mọi ứng dụng công nghệ vào cuộc sống một cách vô tiền khoáng hậu, không thể đánh giá trước được. Dựa trên thuyết tuyệt đối, tôi đang nghiên cứu cơ sở của một loại động cơ hoàn toàn mới, tạm gọi là động cơ viba sử dụng lực hấp dẫn nhân tạo làm lực đẩy. Hôm rồi, đọc thấy một bài báo nêu 9 thách thức trí tuệ nhân loại trong thế kỷ 21, và tôi nhận thấy, thuyết tuyệt đối có thể giải quyết tất cả 9 thách thức ấy một cách dễ dàng. Hơn nữa, thuyết tuyệt đối tôi viết chỉ là một phần nhỏ (1 chương) trong tác phẩm "Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành" sắp xuất bản. Nói cách khác, nó là một ứng dụng của học thuyết này. Nếu thuyết tuyệt đối đúng, được giới khoa học chấp nhận thì đó chính là sự trở về của một học thuyết cổ xưa mà bà Vanga đã tiên đoán: Học thuyết Âm dương Ngũ hành. Học thuyết này, như anh Thiên Sứ tin tưởng, chính là học thuyết bao trùm Vũ trụ, học thuyết của mọi thứ (Theory of Evrethinh: TOE) mà nhân loại đang tìm kiếm. Khi đó, không chỉ khoa học thực nghiệm mà toàn bộ các khoa học khác như Xã hội học, Lý học, Tâm linh, Tôn giáo. ... đều sẽ bước sang một kỷ nguyên mới rực rỡ hơn. Mặt khác, theo anh Thiên Sứ, học thuyết Âm dương Ngũ hành là cơ sở cho nền văn hiến Văn Lang - cội nguồn Việt tộc - một thời rực rỡ ở miền nam sông Dương tử. Do đó, sự trở lại của học thuyết Âm dương Ngũ hành chính là mở đầu sự phục hưng văn hiến Việt rực rỡ 5000 năm trước. Như vậy, thuyết tuyệt đối có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ cho nhân loại nói chung mà còn cho văn hiến Việt tộc nói riêng.
-
Trong thuyết tuyệt đối: Etp = (E02 + Eđ2)0.5 Thực ra cũng không có gì mới, trong thuyết tương đối có công thức tương tự: Etp2 = E02 + (pc)2. => Eđ = pc Chỉ là vấn đề khái niêm thôi. Nhưng nó giúp tôi trong vấn đề tính sóng hạt của vật chất trong thuyết tuyệt đối
-
Thuyết tuyệt đối giải những bài toán đó không tiện bằng cơ học cổ điển. Thuyết tuyệt đối giải những bài toán như: Giả sử khởi nguyên Vũ trụ có khối lượng m = 2.34.10-9 (kg), bán kính R = 4.35.10-32 (m), độ co dãn không thời gian ζ = 8.756.1016. Hỏi thời gian từ khởi nguyên đó tới vụ nổ Bigbang là bao nhiêu. Sau Bigbang tới khi ζ = 1 là bao lâu. Lúc đó, vận tốc nở ra của Vũ trụ là bao nhiêu? kích thước Vũ trụ là bao nhiêu?. Vận tốc nở ra của Vũ trụ tại thời điểm Bigbang? ... Đại loại như thế. Những bài toán này cơ học cổ điển không giải được mà thuyết tương đối cũng không, nhưng thuyết tuyệt đối thì có thể.
-
Trong thuyết tuyệt đối, có thêm khái niệm véc tơ động năng Eđ = pc khác với động năng vô hướng Ek. Khái niệm động năng vô hướng vẫn được xử dụng như trong thuyết tương đối. Véc tơ động năng Eđ dùng để tính toán tần số cho tính sóng hạt chứ không dùng Ek như thuyết tương đối. Do có định luật bảo toàn động lượng nên có định luật bảo toàn véc tơ động năng. Quan hệ độ lớn vec tơ động năng và động năng vô hướng như sau: Eđ/Ek = [(γ +1)/(γ -1)]0.5. Chúng ta lưu ý rằng, năng lượng đặc trưng cho khả năng sinh công, mà động năng chỉ có thể sinh công theo hướng chuyển động. Do đó, cần bổ xung khái niệm véc tơ động năng. Mặt khác, năng lượng hàm chứa trong hạt vật chất có khả năng sinh công theo mọi hướng, nên nó là đại lượng vô hướng. Do đó, tôi đưa khái niệm véc tơ năng lượng cho động năng. Đối với năng lượng vô hướng, tôi chuyển về véc tơ năng lượng có phương vuông góc với không gian 3 chiều của hệ qui chiếu, tức là chiều thứ tư của không gian 4 chiều chứa không gian 3 chiều của cúng ta. Khi đưa khái niệm này, tôi giải quyết được nghịch lý về chiều của năng lượng như vừa trình bày ở trên, đồng thời có cơ sở lý thuyết cho xác định tần số sóng của hạt vật chất chuyển động (sóng De Broglie). Nói chung vấn đề này hơi chi tiết quá, khó trình bày hết ý của mình được trong một diễn đàn như thế này. Bạn tạm hiểu rằng, thuyết tuyệt đối bên cạnh các khái niệm năng lượng cổ điển còn bổ xung thêm khái niệm vec tơ năng lượng là được
-
Đúng vậy. Tôi lưu ý, động năng trong thuyết tuyệt đối là một đai lượng vec tơ có phương và chiều của vận tốc.
-
Tôi lại thấy, Hố đen trong thuyết tương đối mới ly kỳ, trong thuyết tuyệt đối mới đơn giản vì không có đường chân trời sự kiện, cũng chẳng có sự cầm tù vật chất, ánh sáng nào. Chỉ có khối lượng lớn trong một không gian nhỏ. Lực hấp dẫn tuy lớn nhưng lực đẩy Archimed cũng lớn bù lại nên tổng lực không quá lớn. Tổng lực này bằng zero tại vị trí cách bề mặt hố đen 2.52GM/c2. Ở khoảng cách nhỏ hơn, lực đẩy Archimed lớn hơn lực hấp dẫn, hạt vật chất bị đẩy ra. Ở khoảng cách lớn hơn, lực hấp dẫn lớn hơn lực đẩy Archimed, hạt vật chất bị lỗ đen hút. Điều đó dẫn đến thế năng lớn nhất ở ngay trên bề mặt hố đen chứ không phải ở xa vô cùng như thuyết tương đối khẳng định. Chính thế năng lớn này là năng lượng tối làm Vũ trụ có thể nở ra mãi mãi. Cũng chính Khí (vật chất) tràn ngập không gian là vật chất tối mà thuyết tương đối không biết, còn các nhà khoa học đang ra sức tìm kiếm mà không thấy. Các công thức về lực hấp dẫn, động năng, thế năng anh đề cập như trên chỉ cho trường hợp vận tốc nhỏ, khoảng cách xa chứ không phải cho trường hợp tổng quát. Trong trường hợp tổng quát, lực hấp dẫn, động năng, thế năng tính theo công thức: Lực hấp dẫn: Phd = Edζ /(Qdl). Động năng: Eđ = E0(γ2 – 1)0.5 Thế năng: N = E0ʃ(1/ τ 2 –exp(1- τ ))d τ / τ
-
Có sự khác nhau rất lớn giữa lý thuyết về hố đen trong thuyết tương đối và tuyệt đối. Theo thuyết tuyệt đối, không tồn tại cái gọi là đường chân trời sự kiện. Hố đen cũng không thể cầm tù được hạt ánh sáng, thâm chí cũng không cầm tù được một hạt vật chất thông thường. Vật chất bên trong hố đen chỉ là một khối không thời gian cực kỳ đồng đều có độ co dãn ζ = Q, chẳng có hạt vật chất thông thường như ta vẫn biết nào, kể cả hạt ánh sáng. Do không có hạt vật chất nào để bức xạ nên ta thấy nó đen chứ không phải do lực hấp dẫn cầm tù chúng. Thuyết tuyệt đối phát hiện một lực mà khoa học hiện đại chưa biết, đó là lực đẩy Archimed trong không gian. Ở gần lỗ đen, lực này rất lớn, lớn hơn cả lực hấp dẫn. Lực đẩy Archimed không cho phép một hạt vật chất nào có thể rơi vào bề mặt hố đen. Do đó, lỗ đen không thể cầm tù hạt vật chất nào cả, huống chi là ánh sáng. Khối lượng hố đen suy giảm theo thời gian bằng công thức: M = M0.exp(-Ht)
-
Trong thuyết tuyệt đối không có khái niệm độ cong của không thời gian, thay vào đó là khái niệm độ co dãn không thời gian ζ. Ở gần khối lượng lớn thì ζ càng lớn. Sự khác nhau của ζ tạo nên lực hấp dẫn và làm ánh sáng biến thiên về hướng tương tự như thấu kính. Thuyết tuyệt đối giải thích các hiện tượng rơi, sự uốn cong của ánh sáng thông qua độ co dãn không thời gian ζ.
-
Anh có thể đặt câu hỏi thoải mái, tôi xin trả lời những gì thuyết tuyệt đối của tôi có đề cập: Câu hỏi 1: Thứ nhất, trong thuyết tuyệt đối không có cái gọi là chân không. Không gian tràn ngập Khí với mật độ khác nhau, độ co dãn không thời gian (ký hiệu ζ) khác nhau. Không thời gian và Khí là 2 mặt không thể tách rời. Vật chất chính là Khí. Khi Khí có độ co dãn không thời gian là ζ = Q thì đó chính là hạt vật chất như quan niệm ngày nay. Không gian ta đang sống có ζ = 1. Thứ 2, thuyết tuyệt đối cho rằng, vận tốc ánh sáng trong mọi hệ qui chiếu địa phương là không đổi (=c), nhưng đó không phải tiên đề, mà là công thức được rút ra từ cái cơ bản hơn. Nếu đứng trong hệ qui chiếu địa phương này quan sát ánh sáng trong hệ qui chiếu địa phương khác thì có thể chúng khác nhau. Công thức như sau: v = c/ζ2. Ở đó, ζ là hệ só co dãn không thời gian của hệ qui chiếu mà ánh sáng chuyển động. Như vậy, khi ζ = 1 thì v = c. Không gian là một môi trường đàn hồi, vận tốc ánh sáng chính là vận tốc truyền sóng của không gian đàn hồi đó (tương tự như vận tốc truyền âm thanh trong nước). Vận tốc truyền sóng là vận tốc tới hạn mà khi vượt qua nó, môi trường đàn hồi bị phá vỡ tính liên tục. Do không gian Vũ trụ có tính liên tục nên hạt vật chất không thể có vận tốc lớn hơn vận tốc truyền sóng, tức vận tốc ánh sáng.
-
Thuyết tương đối ngày nay là kiến thức vật lý cơ bản, nên hiểu biết về nó chưa có gì để có thể coi là "cao thủ" cả. Phản biện của tôi chỉ rõ, không có vấn đề không gian bị co lại trong chuyển động của hệ qui chiếu. Hệ quả của luận điểm này rất lớn, bác bỏ hoàn toàn những cái cơ bản nhất của thuyết tương đối. Không phải các "cao thủ" không chịu ra mặt mà là không thể bảo vệ được. Bằng chứng là chỉ 1 ngày tôi đưa phản biện 1 để thử, họ đã hóa giải thỏa đáng. Khi tôi đưa phản biện 2 họ mới thúc thủ, đến nay đã gần 1 năm rồi. Vấn đề là, sau khi phản biện xong phải xây dựng được lý thuyết thay thế. Bạn không thể làm người ta từ bỏ cái cũ nếu không chỉ ra được cái mới để thay thế.