Sophia

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    46
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Sophia

  1. Văn minh tiền sử: Những thành phố dưới đáy biển (Phần 1) ( 9:51 PM | 05/09/2010 ) Những tàn tích dưới đáy biển này không chỉ có ở Nhật Bản, mà là ở khắp các đại dương trên toàn thế giới. Vậy thực sự trên Trái Đất đã từng tồn tại một nền văn minh rất lớn và đã bị diệt vong bởi một trận đại hồng thuỷ như trong các câu chuyện cổ xưa? Câu trả lời xin dành cho cho độc giả tự phán xét. Toàn cảnh kiến trúc kim tự tháp Yonaguni Vào năm 1985, Kihachiro Aratake, một thợ lặn người Nhật trong khi đang làm việc dưới vùng biển gần một hòn đảo nhỏ phía Nam Nhật Bản, tên là đảo Yonaguni Jima (gần Đài Loan) đã tình cờ phát hiện một kiến trúc đá cổ đồ sộ. Điều đặc biệt là nó có dạng bậc thang của các kim tự tháp với những góc cạnh tinh tế. Khu đá dài đến 100m và có những đường hầm sâu hơn 2m. Giáo sư tiến sỹ Masaaki Kimura (sinh ngày 6/11/1940, tại Yokohama, Nhật Bản) là giáo sư danh dự của khoa Khoa học Trường Đại học Ryūkyūs, Okinawa, Nhật Bản. Ông tốt nghiệp tại Khoa Thủy sản của Trường Đại học Tokyo vào năm 1963, rồi đạt học vị tiến sĩ về địa chất biển vào năm 1968. Ông đã từng làm việc cho Viện nghiên cứu Hải dương học thuộc trường Đại học Tokyo, Viện khảo sát địa chất Nhật Bản, Cơ quan Khoa học và Công nghệ thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế Nhật Bản, và Đài quan sát thiên văn Trái Đất Lamont-Doherty thuộc trường Đại học Columbia. Ông giảng dạy tại trường Đại học Ryukus từ năm 1977 tới năm 2002. Ông hiện giờ là tổng giám đốc của Hội nghiên cứu Di sản Văn hóa và Khoa học Đại dương. Năm 1996, ông đã tiến hành khảo sát khu vực này. Sau nhiều năm nghiên cứu sự hình thành của khu tàn tích này, ông đã đi tới kết luận đáng kinh ngạc rằng: đây là dấu tích của một nền văn minh cao cấp cổ xưa, là một thành phố cổ bị động đất đánh chìm khoảng 12.000 năm trước. Giáo sư Kimura cũng cho biết, ban đầu ông nghĩ rằng các cấu trúc này là tự nhiên. Nhưng ông đã thay đổi quan điểm sau lần đầu tiên lặn xuống quan sát. Ông đã tìm thấy những dấu vết mài xẻ trên đá, các ký tự trên những phiến đá và các mẩu đá được mài đẽo hình các loài động vật. Ngoài những phát hiện ở phía Nam đảo Yonaguni, các khám phá quan trọng đã được thực hiện ở phía Tây của hòn đảo này. Năm 1990, các thợ lặn đã tìm thấy một kim tự tháp khổng lồ được xây dựng từ các khối đá. Kim tự tháp này rộng 183m, và cao 27,43m. Nó được xây dựng từ các phiến đá hình chữ nhật, và có 5 lớp. Cũng có một số nhỏ các công trình xây dựng gần đó tương tự như kim tự tháp. Những kim tự tháp nhỏ này bao gồm các lớp đá, có chiều rộng khoảng 10m và chiều cao khoảng 2m. Các thợ lặn còn phát hiện cái trông như là một con đường chạy xung quanh công trình chính. Sau đó, họ còn phát hiện ra những con đường dài, những đại lộ lớn, những cấu trúc cầu thang lớn, những cấu trúc cổng tò vò, các khối đá khổng lồ được đẽo gọt chính xác và tỉ mỉ, tất cả hài hòa trong một chỉnh thể kiến trúc đồng nhất mà họ chưa từng thấy bao giờ. Chúng rõ ràng là phần còn lại tương đối nguyên vẹn của một thành phố tiền sử. Hệ thống chữ tượng hình được tìm thấy tại khu tàn tích Yonaguni Nhiều di tích khác cũng đã được phát hiện, gồm một công trình làm bằng đá, một cấu trúc giống như hang động được bao quanh bởi những chiếc cột, một bức tượng đầu người, một cấu trúc vòm, và những bức tượng hình rùa. Những đường nét trên bức tượng mặt người vẫn còn rất rõ ràng, rất giống với những đầu người bằng đá khác ở Peru. Sau đó, ở gần bức tượng đầu người khổng lồ, các nhóm chữ tượng hình đã được tìm thấy. Điều này chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ. Điều đáng chú ý là xung quanh khu vực kiến trúc này không có dấu tích của đá vôi, nghĩa là trước đây công trình này nằm cao hơn mặt nước biển. Mặt trên của kiến trúc có một khối đá lớn tương tự như Đá Mặt Trời ở Nam Mỹ, khiến chúng ta không thể không nghĩ rằng đây có lẽ là một công trình thiên văn. Đoàn thám hiểm Team Atlantis đã lặn xuống quay bộ phim tài liệu về công trình này khẳng định đây là một công trình nhân tạo. Không có bằng chứng nào cho thấy những cư dân của nền văn hóa Nhật Bản cổ đại có thể xây dựng được chúng. Nói cách khác, những ai đó thuộc về những thời kỳ tiền sử xa xôi đã xây dựng nó, trước khi một biến cố địa chất nào đó đã làm cho cả một mảng khối lục địa to lớn chìm xuống, kéo theo cả công trình dang dở vĩ đại này. Các giám định niên đại cho thấy cấu trúc này có thể ra đời vào khoảng 8.000 đến 10.000 năm trước công nguyên. Đến nay, sau 25 năm khám phá ra công trình này, chúng ta vẫn chưa nghiên cứu ra được nền văn minh nào là những người đã xây dựng nó. Xưa kia khu vực di tích Yonaguni nằm trên mực nước biển, khi băng hà chưa tan chảy làm nước biển dâng lên. Thời kỳ Băng tan và và mực nước biển bắt đầu dâng lên vào khoảng 10.000 -12.000 năm trước. Hiện nay Yonaguni nằm dưới mực nước biển, vì vậy các nhà khoa học cho rằng kim tự tháp Yonaguni có ít nhất 10.000 năm tuổi. Những bậc cầu thang cao tới 1m Hơn nữa, có những dấu tích còn lại của những con phố xung quanh kim tự tháp. Các thợ lặn thuộc khoa địa chất học thuộc trường Đại học Boston Hoa Kỳ nhận thấy rằng các cầu thang khổng lồ đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1m, giống như bậc thang kim tự tháp. Các nhà khảo cổ học tại Trường Đại học London tin rằng những người xây dựng nên công trình này có trình độ còn vượt trên các nền văn minh Lưỡng Hà và sông Ấn. Những dấu cắt trên đá như thế này được tìm thấy ở khắp mọi nơi trong thế giới cổ xưa. Trái sang phải, trên xuống dưới: Dấu cắt đá tại Yonaguni, tại Machu Pichu, Carnac (Pháp), Castleruddery (Ireland), tại Giza (Ai Cập). Phải chăng chúng là tàn tích của một nền văn minh toàn cầu đã một thời phát triển rộng khắp? Nếu công trình này là nhân tạo, thì ai đã tạo ra nó? Chúng ta không hề có một tư liệu lịch sử nào đề cập đến một nền văn minh giữa biển Thái Bình Dương cả. Có nghĩa là: nó rất cổ xưa, vượt xa giới hạn hiểu biết của lịch sử chúng ta. Công trình này tại sao lại bị chìm dưới nước, phải chăng nó đã xuất hiện từ thời kỳ băng hà, để rồi bị nhấn chìm xuống đáy đại dương bởi băng tan, cách nay ít nhất là 10.000 năm? Những năm gần đây, ngày càng có nhiều cấu trúc dạng kim tự tháp được tìm thấy ở Ai Cập, Peru, Châu Á, và mới đây là ở châu Âu. Những tàn tích dưới đáy biển này không chỉ có ở Nhật Bản, mà là ở khắp các đại dương và lục địa trên toàn thế giới. Vậy thực sự trên Trái Đất đã từng tồn tại một nền văn minh rất lớn và đã bị diệt vong bởi một trận đại hồng thủy như trong các câu chuyện cổ xưa? Câu trả lời xin dành cho cho độc giả tự phán xét. Chùm ảnh thêm về khu di tích Yonaguni Minh Trí (tổng hợp)
  2. Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 9) [MINH HUỆ 10-7-2007] Thường tự xét lại mình Con người trong thế gian, có thể luôn luôn hối hận về những việc làm sai trái xưa kia của mình, hối hận về những câu nói sai trái của mình ngày trước, đối với những điều ngu muội của mình trong quá khứ cảm thấy xấu hổ mãi, như thế người ấy về phương diện đức hạnh và tài năng sẽ càng ngày càng tiến bộ. Người ta thường thường tự mình không nhận thức được điều này. Người xưa từng nói: tuổi đến 60, thì cần phải biết rõ những điều sai trái của bản thân trong 59 năm qua, chẳng lẽ chúng ta không thể lấy đó làm gương hay sao? Nhẫn nại Người ta nếu giỏi nhẫn nại, hơn nữa dần dần tạo thành thói quen, thì cho dù người khác làm điều vô lễ xúc phạm đến mức không thể chịu nổi đối với người ấy, người ấy vẫn có thể xử lý một cách bình thản như thường. Người ta nếu không nhẫn nại được, cũng dần hình thành thói quen, cho dù người khác đối với kẻ ấy chỉ hơi quá đáng, căn bản chẳng có gì đáng tranh cãi, thì cũng luôn luôn dốc hết sức mà đi kiện tụng, chưa thắng kiện thì quyết không chịu bỏ qua. Nhưng người ấy không biết chính mình đã đánh mất đi rất nhiều so với những gì mà người ấy nhận được. ------------------------------------------------------------------------------------------------------ Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 10) [MINH HUỆ 12-7-2007] Tuân theo Lễ, kiềm chế dục vọng Ăn uống là một thứ ham muốn của con người, là không thể thiếu được, nếu truy cầu nó quá đáng thì chính là tham ăn. Việc nam nữ là một thứ dục vọng của con người, là không thể thiếu, nếu chọn dùng thủ đoạn không hợp lý để thỏa mãn, thì chính là gian dâm. Tiền của, ai cũng muốn có, là không thể thiếu, nhưng dùng thủ đoạn phi pháp để có được, vậy thì cũng thành ra đạo tặc. Con người nếu chỉ phóng túng cho dục vọng của mình, sẽ gây nên tranh chấp, đồng thời không tránh khỏi kiện tụng. Những vị Thánh vương thời cổ đại đã từng suy nghĩ đến những vấn đề ấy, cho nên chế định thành lễ nghi, để tiết chế ham muốn ăn uống và quan hệ nam nữ; chế định ra đạo nghĩa, để hạn chế sự ham thích của con người đối với tiền của. Người quân tử đối với 3 thứ: ẩm thực, nam nữ, tiền của ấy, mặc dù biết đó là những điều thiết yếu phải có, nhưng không dám biểu hiện ra ngoài, huống chi là để nảy sinh vọng tưởng đây! Kẻ tiểu nhân so với người quân tử thì trái ngược hoàn toàn. Nhìn mà không thấy, không nghĩ đến và dứt bỏ ham muốn Thánh nhân nói: “Không nhìn những thứ có thể khơi gợi dục vọng, trong lòng sẽ không cảm thấy mê loạn“. Đây là bí quyết để loại bỏ bớt rất nhiều phiền não. Thông thường, người ta thấy thức ăn ngon sẽ chảy nước miếng, thấy sắc đẹp sẽ ngắm nhìn say sưa, thấy tiền tài sẽ nổi lòng tham, nếu không phải là người có định lực thì đều khó tránh khỏi. Chỉ có hoàn toàn đoạn tuyệt những căn nguyên của tham dục, đối với chúng thì nhìn mà không thấy, sẽ không sinh ra vọng tưởng nữa, không có vọng tưởng sẽ không phạm sai lầm trong chuyện này. Dịch giả chú dẫn: Cuộc đời người ta vì dục vọng vô cùng mà phẫn nộ, tranh đấu, thậm chí đến mức mất mạng, không hề biết rằng thân mình đang chìm trong bể khổ mênh mông. Ở đây xin giới thiệu bài thơ “Đạo trung” của Tiên sinh Lý Hồng Chí – người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, để cho chúng ta hiểu được tâm cảnh của những người tu luyện: thân thể ở tại thế gian, nhưng tâm hồn siêu xuất ngoài thế gian, ung dung tự tại và cao thượng tinh khiết. Đạo trung Tâm bất tại yên Dữ thế vô tranh Thị nhi bất kiến Bất mê bất hoặc Thính nhi bất văn Nan loạn kỳ tâm Thực nhi bất vị Khẩu đoạn chấp trứ Tố nhi bất cầu Thường cư đạo trung Tĩnh nhi bất tư Huyền diệu khả kiến Tạm dịch Ở trong Đạo Tâm không ở đây Không tranh với đời Nhìn mà không thấy Sáng suốt không mê hoặc Nghe mà không nghe thấy Tâm khó rối loạn Ăn không theo vị Miệng hết chấp trước Làm mà không cầu Thường ở trong Đạo Tĩnh không suy tư Có thể thấy được điều huyền diệu. (Hồng Ngâm I)
  3. gl Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 7) [MINH HUỆ 3-7-2007] Ai cũng từng phạm sai lầm, có lỗi lầm thì cần phải sửa Thánh hiền còn không thể không mắc lỗi lầm, huống chi người bình thường không phải là thánh hiền, làm sao có thể mỗi việc đều làm được toàn thiện toàn mỹ đây? Một người phạm sai lầm, không phải cha mẹ anh chị người ấy, thì ai chịu dạy bảo quở trách người ấy chứ? Không phải là bạn thân, thì ai chịu khuyên can chỉ bảo cho người ấy đây? Những người có quan hệ bình thường chỉ đàm tiếu chế nhạo sau lưng người ấy mà thôi. Người quân tử đức hạnh cao thượng chỉ sợ bản thân có lỗi lầm, âm thầm quan sát những điều người khác nói về mình, nghe được những lời bàn luận ấy sẽ cảm tạ người ta, hơn nữa suy nghĩ để sửa chữa lỗi lầm. Kẻ tiểu nhân kém đức nghe người khác bàn luận về mình, liền muốn cưỡng ép người khác phải giải thích rõ, thậm chí cắt đứt quan hệ bạn bè, còn có người vì thế mà kiện tụng tới công đường. Dịch giả chú dẫn: Trong sách “Luận Ngữ” có một thí dụ, so sánh lỗi lầm của con người với nhật thực và nguyệt thực. Nhật thực và nguyệt thực chỉ tạm thời, nhưng mọi người đều có thể thấy được. Đợi đến lúc nhật nguyệt chiếu sáng trở lại, mọi người vẫn có thể ngước mắt lên chiêm ngưỡng chúng giống như trước kia. Từ đó ví von với người trót phạm lỗi lầm khó tránh, nếu có thể kịp thời sửa chữa, như thế mọi người còn có thể tôn kính người ấy giống như trước đây. Khổng Tử giảng: “Làm sai mà không sửa, thì gọi là sai lầm vậy”. Người ta nếu có sai phạm mà không chịu sửa chữa, thì đó là lỗi lầm thực sự. Từ cổ chí kim, ta thấy những người có thành tựu lớn đều có thể “Nghe người khác kể ra lỗi lầm của mình thì vui sướng”, biết sai thì sửa. Còn những kẻ lấp liếm lỗi lầm, không biết hối cải phần lớn cuối cùng đều thất bại. ------------------------------------------------------------------------------------------------------ Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 8) [MINH HUỆ 8-7-2007] Kiên trì chính kiến không sợ dư luận Có người nói chuyện cực kỳ lương thiện và xác đáng, vẫn có kẻ khiển trách người ấy. Có người làm việc cực kỳ thỏa đáng, vẫn có người khiển trách anh ta. Đó chính là tâm tư mọi người khó có thể nhất trí, sự thảo luận của mọi người khó có thể đưa đến kết quả hoàn toàn thống nhất. Người quân tử tu dưỡng đức hạnh nói chuyện làm việc nếu có thể căn cứ theo lương tâm của chính mình, tham khảo những lời di huấn của các bậc thánh hiền thời cổ đại, thỉnh giáo các vị nhân sỹ tài đức sáng suốt, như vậy làm việc không có thiếu sót về đạo lý, đối với những lời đàm luận nhốn nháo của người khác đều có thể không cần lo lắng suy nghĩ, cũng không cần tranh cãi với những người ấy. Thánh hiền từ xưa tới nay, Tể Tướng đương thời, trước kia từng làm quan Thái thú hay Huyện lệnh, đều không thể tránh khỏi đàm tiếu của người khác, huống chi người bình thường giống như bình dân trăm họ, thì càng cần phải không sợ những lời đàm luận của người khác đối với mình. Thông thường, nếu một người cứ mãi nói chuyện tốt xấu của người khác, thì nhất định là đố kỵ với người ta, hoặc là bình thường có hiềm khích với người ta, những người này nói chuyện làm sao có thể tin được đây? Đối với lời lẽ của những người này, cần phải không suy nghĩ không giải thích gì thêm thì mới đúng. Những lời nịnh nọt đều là gian trá Có một số người ở trước mặt xưng tụng chỗ tốt của ta, khiến cho ta thích nghe những lời đó mà không phát hiện ra rằng kẻ ấy đang a dua nịnh nọt mình. Đây là loại tiểu nhân trong loại người gian trá giảo hoạt bậc nhất. Kẻ đó trước mặt nịnh bợ làm ta vui vẻ, đến khi trở về đàm luận với người khác, chưa chắc sẽ không âm thầm cười nhạo ta đã bị kẻ đó lường gạt. Có một số người giỏi phỏng đoán tâm ý người khác là gì, tìm ra đề tài đàm luận như thế, dẫn dắt người khác, đồng thời đón ý nói hùa theo tâm ý của người ta, khiến người ta vui vẻ nghĩ rằng lời nói của kẻ ấy thật phù hợp với mình. Đây cũng là hạng tiểu nhân trong loại người gian tà bậc nhất. Kẻ ấy nghiền ngẫm tâm ý của ta, làm ra vẻ tâm ý rất hợp nhau, đến lúc trở về nói chuyện với người khác, chưa chắc không thầm chế nhạo rằng tâm ý của ta đã bị kẻ ấy đoán trúng.
  4. <H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 5)</H1> [MINH HUỆ 30-6-2007] *Quên chỗ dở, nhớ chỗ hay của người ta Trong tính cách phẩm hạnh của người ta, mặc dù có nhược điểm, cũng nhất định có ưu điểm. Kết giao với người khác, nếu thường chú trọng nhược điểm mà không nhìn thấy ưu điểm của họ, như thế khó có thể sống cùng họ dù chỉ một khắc. Ngược lại, nếu thường nghĩ đến điểm tốt của người ta, không so đo nhược điểm của họ, thì cả đời có thể hòa thuận với tất cả mọi người. *Khinh mạn ghen ghét tự chuốc lấy nhục Lúc đối nhân xử thế, nếu luôn mang tâm ngạo mạn, dối trá, tật đố, hoài nghi, như thế là tự mình làm cho người ta khinh miệt và sỉ nhục. Người quân tử Đức hạnh cao thượng sẽ không làm như thế. Người có tâm ngạo mạn, thấy bản thân mình rõ ràng không như người ta, lại thích cợt nhả họ. Nhìn thấy người địa vị thấp hơn mình, cùng với những người cần mình, thì không chỉ trước mặt không tôn trọng, mà sau lưng còn thầm cười nhạo người ta. Người như thế nếu có thể tự kiểm điểm bản thân một lần, thì có thể xấu hổ đến mức toát mồ hôi đầm đìa. Người mang tâm dối trá, ngôn từ mười phần uyển chuyển dễ nghe, bề ngoài đối với người khác rất phúc hậu, nhưng có thể trong lòng lại trái ngược hoàn toàn. Người như thế trong một thời gian ngắn ban đầu có thể được người ta tin tưởng ngưỡng mộ, nhưng cùng kẻ ấy giao tế qua lại đôi lần, bộ mặt thật của kẻ ấy sẽ lộ rõ hoàn toàn. Cuối cùng bị người ta khinh bỉ. Người có tâm tật đố thường nghĩ rằng mình có địa vị cao hơn người khác, cho nên nghe thấy người khác được khen ngợi, thì tức giận bất bình, cho rằng lời khen ấy là sai lầm. Nghe người khác có chỗ nào không bằng người ta, thì cảm thấy vui mừng bật cười. Kỳ thực loại hành vi này chẳng có tác dụng gì đối với người khác, chỉ làm họ thêm oán giận mà thôi. Người có tâm nghi ngờ, nghe người ta nói điều gì đó, có thể chỉ là thuận miệng nói một chút thôi, kẻ ấy lại cứ mãi nghĩ rằng: “Người này rốt cục cười nhạo ta chuyện gì? Kẻ nọ lại chế giễu ta việc gì đây?”. Người như thế thường là từ đó bắt đầu kết oán với người ta. Người có tài đức và kiến thức nghe người khác giễu cợt mình thì thường hoàn toàn chẳng để tâm, như thế không phải là giảm bớt rất nhiều điều phiền não sao! ================================================================================ == <H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 6) </H1> [MINH HUỆ 2-7-2007] Không gì có thể thoát khỏi mắt Thần Bây giờ có người làm chuyện xấu, may mắn không ai phát hiện ra, liền dương dương tự đắc, yên tâm thoải mái, chẳng kiêng dè gì. Hoàn toàn chẳng biết tai mắt của người khác có thể ẩn giấu, càng khó thoát khỏi tai mắt Thần linh. Hễ chúng ta làm việc trong lòng cho là tốt là hay, trong lòng cho rằng chính xác, người khác mặc dù không biết, Thần linh đều đã biết rồi. Chúng ta làm việc, trong lòng cho rằng không được, trong lòng cho rằng không đúng, người khác mặc dù không biết, Thần linh cũng đã biết rồi. Làm ác trời phạt Một người nếu làm chuyện xấu mà không thành công, thực ra không nên oán trời trách người, đây là Thượng Thiên yêu quý người ấy, Thượng Thiên khiến anh ta cuối cùng không gây họa. Nếu thấy người khác làm chuyện xấu thường vừa lòng như ý, cũng không nên sinh tâm thèm muốn. Đó chính là bởi Trời Cao đã vứt bỏ hắn rồi. Đến khi kẻ ấy tích lũy việc xấu đến mức thâm sâu thì cũng là lúc Thượng Thiên ra tay tiêu diệt. Không biểu hiện trên thân của kẻ ấy, cũng sẽ hoãn lại cho con cháu đời sau của kẻ ấy phải gánh chịu báo ứng. Tạm thời chờ đợi một thời gian, tự nhiên sẽ nhận thấy điều này. Thiện ác chắc chắn có báo ứng Có người làm việc xấu, bản thân rơi vào tội chết, nhưng con cháu người ấy lại cực kỳ thịnh vượng phát đạt, khiến mọi người thường cảm thấy kỳ quái, tưởng rằng luật Trời có sơ suất. Hoàn toàn chẳng biết trong gia đình những người như thế, tổ tiên đã tích lũy được nhiều phúc đức, ít tạo nghiệp, đã làm nhiều việc thiện việc tốt hơn việc xấu việc ác, cho nên trong nhà ấy kẻ làm ác bản thân chịu báo ứng là đủ rồi, không ảnh hưởng đến phúc phận của con cháu đời sau. Nếu một kẻ đã làm rất nhiều việc xấu ác mà sau đó vẫn hưởng thụ cuộc sống giàu sang an lạc, thì nhất định phúc đức mà tổ tiên truyền lại ấy sẽ sớm ngày khô kiệt, Trời Cao cũng không còn trân trọng thương tiếc và dung dưỡng kẻ ấy nữa, mà để cho việc ác của hắn tích lại càng ngày càng nhiều, đến mức thâm sâu, cuối cùng khiến kẻ đó bị tiêu hủy hoàn toàn.
  5. Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 3) [MINH HUỆ 28-6-2007] *Ngôn trung tín hành đốc kính Lời nói cần phải trung tín, hành động tuân theo “Đốc”, “Kính”, đây là Thánh nhân dạy người ta phương pháp làm thế nào để có được sự kính trọng của mọi người. Đại khái ở phương diện tiền tài vật chất, thì không làm những việc lợi mình hại người; trong tình cảnh nguy nan khốn khổ thì không làm những việc thuận lợi cho mình nhưng lại gây chướng ngại cho người khác. Đây chính là “Trung” mà mọi người thường nói đến. Một khi hứa hẹn với người ta, thì dẫu chỉ là việc nhỏ, cũng nhất định phải có kết quả; một khi ước định kỳ hạn, thì một khắc cũng không chậm trễ, đây chính là “Tín” mà người ta hằng nói đến. Đối nhân xử thế nhiệt tình phúc hậu, nội tâm thành thật đôn hậu, đây chính là điều mọi người vẫn gọi là “Đốc” (chú thích: “Đốc” ý nghĩa là thành thật, phúc hậu, thuần chính). Lễ phép khiêm nhường cung kính, ngôn từ khiêm cung, người ta gọi ấy là “Kính”. Nếu có thể làm được những đức tính này, không chỉ có thể được bà con kính trọng, mà làm việc gì cũng đều thuận lợi. Cung kính đối đãi người ta, bởi bản thân không tổn thất gì, người đời hoàn toàn có thể làm được. Thế nhưng bề ngoài đối xử người ta tốt lắm, nhưng trong lòng lại coi thường khinh miệt, đây là “Kính” nhưng không “Đốc”. Người quân tử xem những kẻ như thế ngang hàng với bọn tiểu nhân nịnh nọt ton hót, bà con lâu ngày cũng sẽ không còn kính trọng kẻ ấy nữa. *Nghiêm khắc kiểm điểm bản thân, rộng lượng với người khác Trung thành, giữ chữ Tín, phúc hậu, cung kính, những đức hạnh này đầu tiên bản thân phải có đủ, sau đó mới có thể hy vọng người khác cũng được như thế. Nếu chính mình chưa hoàn toàn đạt được những yêu cầu ấy, lại khắt khe yêu cầu người khác, người ta cũng sẽ từ đó trách cứ mình. Hiện nay người có thể tự kiểm điểm bản thân xem có trung thành, giữ chữ tín, phúc hậu, cung kính hay không thực sự rất hiếm, mà yêu cầu khắt khe người khác thì lại rất nhiều. Kỳ thực, cho dù bản thân có được những đức hạnh ấy rồi, cũng không cần yêu cầu người khác phải làm được. Bây giờ người có thể có được những đức hạnh này thì quả thật là tốt. Thế nhưng người ấy muốn kẻ khác cũng giống mình, nhất thời gặp chuyện không vừa lòng liền hung hăng quở trách người khác. Người như thế chắc chắn không có đức bao dung, rất dễ kết oán với người khác. Người dịch chú thích: Trong “Luận Ngữ” có ghi lại một câu chuyện cổ cũng trình bày về đạo lý này. Tử Hạ là học trò của Tử Trương xin thỉnh giáo làm thế nào để kết giao với người khác. Tử Trương giảng: “Quân tử tôn trọng người tài, cũng dung nạp người bình thường; khen thưởng người tốt, cũng thông cảm với những người có năng lực khác nhau. Nếu bản thân mình thực sự rất tốt, người nào lại không thể dung nạp ta? Nếu bản thân ta không tốt, người khác sẽ từ chối kết giao với ta, nói gì đến việc cự tuyệt người khác đây?”. ================================================================================ Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 4) [MINH HUỆ 29-6-2007] *Thích ứng với mọi hoàn cảnh, thuận theo tự nhiên Con người sống ở thế gian, từ lúc có tri giác, có kiến thức, thì đã gặp những chuyện không vừa ý và phiền muộn. Đứa trẻ nhỏ gào khóc, đều là bởi có những việc không vừa lòng nó. Từ khi còn nhỏ đến lúc thiếu niên, thanh niên rồi già cả, những việc thuận tâm như ý thì ít, còn những chuyện không như ý thường là rất nhiều. Cho dù những người giàu sang đến mấy, được người trong thiên hạ tất cả đều ngưỡng mộ, cho rằng người ấy có cuộc sống chẳng khác Thần tiên, nhưng từng người trong số họ cũng đều có những chuyện không vừa ý, chẳng khác gì quảng đại quần chúng. Có khác chăng, thì chỉ là những chuyện mà người ấy lo lắng không giống với người bình thường khác mà thôi. Cho nên thế giới này được người ta gọi là “Thế giới thiếu sót”. Con người sống trên đời không ai có thể ở đâu cũng được như ý, chuyện gì cũng được mỹ mãn. Có thể khắc sâu hiểu rõ đạo lý này, trong những lúc gặp phải những chuyện không hay có thể bình thản xử lý, thì trong lòng sẽ thấy nhẹ nhàng thông suốt. *Biết chỗ chưa tốt của mình mà tu chỉnh Đức hạnh con người, tính cách từ lúc sinh ra thì có nhiều thiếu sót. Người có học vấn và tu dưỡng biết những chỗ chưa tốt của bản thân, cho nên học tập và bù đắp, thế là dần trở thành một người có đức hạnh hoàn mỹ. Người bình thường không biết những chỗ dở của mình, lại bị những chỗ không tốt ấy chi phối trong hành động, tùy ý làm việc, cho nên tạo thành rất nhiều lỗi lầm. Trong sách “Thượng thư” nói đến 9 loại đức tính là “Khoan, nhu, nguyện, loạn, nhiễu, trực, giản, cương, cường”. Những đức tính này là của Trời cho; còn “Lật, lập, cung, kính, nghị, ôn, liêm, tắc, nghĩa”, những đức tính ấy là thông qua học tập mà dưỡng thành. Đây chính là những Đức hạnh của Thánh hiền. Đời sau có một số người nóng nảy thì mang thắt lưng để tự nhắc nhở mình cần phải điềm tĩnh, cũng có một số người tính tình chậm chạp thì đeo dây cung để tự nhắc mình cần phải kiên quyết, cũng là xuất phát từ nguyên nhân ấy. Dù là như vậy, những người bình thường bản thân không cách nào biết được những chỗ dở của bản thân mình, cần phải thỉnh giáo người khác thì mới có thể biết được.
  6. Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 6) Những di tích dưới đáy đại dương CHƯƠNG 3: NHỮNG HUYỀN THOẠI VĨNH CỬU I. Những tàn tích dưới đáy đại dương thách thức quan điểm về lịch sử loài người: [Chanhkien.org] Những nghiên cứu đã cho thấy hiện nay các nhà khoa học ước tính rằng trái đất đã được hình thành từ 4,6 tỷ năm trước. Các loài linh trưởng tiền-hominid đã không xuất hiện cho đến Kỷ Pleistocene, kỳ thứ tư của đại Tân Sinh (kỷ thứ ba), là thời kỳ Băng Hà, vào khoảng 1,8 triệu năm trước. Dựa trên các nghiên cứu hóa thạch, một số nhà khoa học tin rằng các hoạt động xã hội và văn hóa đã không xuất hiện cho đến thời kỳ Holocen, khoảng 12.000 năm trước, trong thời gian suy tàn và kết thúc của của kỷ Băng Hà cuối cùng. Vì thế, trong thời gian 7.000 năm tiếp theo, các nền văn hóa đã không phát triển nhiều và vẫn còn ở trong thời kỳ Đồ Đá. Những bản ghi chép về chữ viết và các ký hiệu đầu tiên xuất hiện khoảng 5.000 năm trước. Thời kỳ trước thời gian đó được gọi là thời kỳ Tiền Sử. Tuy nhiên, trước sự bối rối của các nhà khoa học, ngày càng có nhiều di tích tiền sử được phát hiện dưới đáy đại dương đang thách thức quan điểm này. Những kiến trúc sư của các di tích dưới đáy biển không chỉ có kỹ năng xây dựng khéo léo và nghệ thuật tinh xảo, mà còn cho thấy những dấu hiệu của một văn minh tiên tiến. Hơn nữa, họ biết ngôn ngữ viết và đã có thể xây dựng các kim tự tháp. Công nghệ hiện tại cho thấy rằng khu vực này đã nằm trên mực nước biển 10.000 năm trước hoặc lâu hơn nữa. Như vậy hiển nhiên rằng nền văn minh tiên tiến đã tồn tại trong suốt thời tiền sử, rất lâu trước thời kỳ Đồ Đá Mới. Vì các nguyên nhân không rõ, các nền văn minh này đã biến mất và để lại các tàn tích dưới đáy biển. Dưới đây là một số bằng chứng cho thấy sự tồn tại của chúng. Thành phố chìm dưới đáy đại dương —Những tàn tích xung quanh hòn đảo Yonaguni ở Nhật Bản Ở mũi phía nam của đảo Yonaguni trong quần đảo Ryukyu, khoảng nửa thế kỷ trước, các thợ lặn đã tìm thấy những tàn tích của các công trình xây dựng nhân tạo ngay trong đại dương. Địa điểm bao gồm một cấu trúc hình vuông được phủ bởi san hô, một bậc thềm khổng lồ với những gờ và góc, giống như những con phố, cầu thang, và một tòa nhà hình vòm. Người ta có thể nói rằng những tàn tích trông giống như một bệ thờ trong thành phố cổ. Nó bao phủ khoảng 200 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 140 mét từ Bắc tới Nam. Điểm cao nhất của nó vào khoảng 26 mét. (Bên trên) Các kiến trúc đổ nát: một cầu thang ở góc bên phải nằm dưới đáy đại dương tại đảo Yonaguni thuộc quần đảo Ryukyu. Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh. (Bên dưới) Bậc thềm khổng lồ với những bậc thang của tàn tích dưới đáy biển tại đảo Yonaguni. Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh. Năm 1986, những thợ lặn địa phương đã đặt tên thành phố dưới nước này là “Khu lặn của tàn tích dưới đáy biển.” Nó đã thu hút rất nhiều sự chú ý khi các phương tiện truyền thông tường thuật về nó. Ngay sau khám phá này, Đại học Ryukyu đã thành lập một “Đội thăm dò khảo cổ dưới đáy biển” (UAET), và bắt tay vào một dự án nghiên cứu dài 8 năm. Dưới biển phía đông nam (của) hòn đảo Shihuan và trong những vùng lân cận, nhiều di tích đã được phát hiện, gồm một công trình làm bằng đá, một cấu trúc giống như hang được bao quanh bởi những chiếc cột, một bức tượng đầu người, một cấu trúc vòm, và những bức tượng hình rùa. Khám phá đáng ngạc nhiên nhất là “Chữ tượng hình”, được khắc vào một bức tường đá và đã được để lại bởi một nền văn minh cổ, được cho là một nền văn hóa nhân loại rất tiến bộ. Nếu nhìn từ phía trên, có những con phố và nông trại nằm xung quanh các tàn tích. Khu vực tàn tích rộng nhất dài 100 mét và cao 25 mét, được xây dựng từ những tảng đá khổng lồ. Theo nhóm thăm dò UAET của Đại học Ryukyu, một mô hình máy tính đã cho thấy, nơi có thể có một bệ thờ của một ngôi đền, chính là nơi mà người cổ đại tụ họp và tổ chức các nghi lễ thờ phượng. Có hai cái hang với những chiếc cột hình bán nguyệt nằm ở phía Bắc của ngôi đền. Các nhà khảo cổ tin rằng chúng là một nơi để tắm rửa trước một nghi lễ. Có một cổng hình vòm ở phía Đông của đền thờ, nơi có hai tảng đá khổng lồ gối lên nhau. Phần đỉnh cho thấy những lỗ nhân tạo hình chữ nhật nằm bên trong những phiến đá. Có lẽ, những phiến đá đã được tạo hình bằng máy móc và được sử dụng như là những viên đá nền của thành phố. Ngoài ra, dưới đại dương, xung quanh “Lishenyan” nổi tiếng nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni, một bức tượng đầu người cao vài feet đã được phát hiện. Những đường nét trên mặt người vẫn có thể được nhận thấy rất rõ ràng. Sau đó, ở gần bức tượng đầu người khổng lồ, các nhóm chữ tượng hình đã được tìm thấy. Điều này chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ. (Bên trên) Bức tượng đầu người cao vài feet nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni. Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh. (Bên dưới) Nhóm chữ tượng hình được phát hiện từ những tàn tích dưới đáy biển. Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh. Masaaki Kimura là một giáo sư địa chất tại Đại học Ryukyu. Ông đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 1999 rằng người ta có thể thấy rõ ràng chúng là các công trình nhân tạo. Có những đường phố, cầu thang vuông góc với lỗ tròn trong phiến đá mà dường như đã được thiết kế để chèn cột đá, v.v.. Việc phát hiện ra bức tượng đầu người và những chữ tượng hình đã tạo ra sức thuyết phục đặc biệt rằng các tàn tích dưới đáy biển tại phía nam đảo Yonaguni bắt nguồn từ một nền văn minh tiền sử. Kim tự tháp kỳ lạ dưới đáy biển Ngoài những phát hiện ở phía Nam đảo Yonaguni, các khám phá quan trọng đã được thực hiện ở phía Tây của đảo. Năm 1990, các thợ lặn đã tìm thấy một kim tự tháp khổng lồ được xây dựng từ các khối đá. Kim tự tháp này rộng 183 mét, và cao 27,43 mét. Nó được xây dựng từ các phiến đá hình chữ nhật, và có 5 lớp. Cũng có một số nhỏ các công trình xây dựng gần đó tương tự như kim tự tháp khổng lồ. Những kim tự tháp mi-ni này bao gồm các lớp đá, có chiều rộng khoảng 10 mét và chiều cao khoảng 2 mét. Các nhà địa chất học của Trường Đại học Ryukyu tham gia vào nghiên cứu này đã kết luận rằng đây là một công trình nhân tạo, và không có nguồn gốc tự nhiên. Nếu không, phải có một đống đá từ hiện tượng xói mòn, chứ không phải chỉ có một viên đá duy nhất được tìm thấy. Hơn nữa, có những dấu tích còn lại giống như những con phố xung quanh kim tự tháp, cũng chỉ ra rằng điều này không phải là một sản phẩm tự nhiên. Thợ lặn địa chất học từ Đại học Boston ở Hoa Kỳ nhận thấy rằng các cầu thang khổng lồ đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1 mét, giống như bậc thang kim tự tháp. Mặc dù người ta có thể đưa ra giả thuyết rằng một cấu trúc như vậy đã được hình thành do đá bị phá vỡ bởi sự xói mòn trong nước, nhưng những đoạn cầu thang sắc nét như vậy chưa bao giờ được tìm thấy xuất phát từ một quá trình tự nhiên. Các nhà khảo cổ học tại Đại học London tin rằng những người xây dựng đó phải có được trình độ ít nhất là trên các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà và sông Ấn. Theo một giáo sư địa chất học tại Đại học Tokyo, khu vực đó đã chìm xuống đáy biển khoảng 10.000 năm trước, có nghĩa là, vào cuối kỷ Băng Hà. Tuy nhiên, dựa trên sự hiểu biết của khoa học hiện đại, con người vẫn còn nguyên thủy, và săn bắn động vật để ăn vào thời đó. Chắc là họ đã không có khả năng xây dựng những kiến trúc hình kim tự tháp như vậy. Một số người tin rằng nó đã được tạo ra bởi một số nền văn minh chưa được biết đến. Người ta có thể tự hỏi liệu một nền văn minh tiến bộ và thịnh vượng như vậy đã thực sự tồn tại hay không. Những tàn tích dưới đáy biển này liệu có phải chỉ tồn tại ở Nhật Bản không? Câu trả lời là Không. Bức tường thành cổ Hujing dưới đáy biển ở Bành Hồ, Đài Loan Theo những bản ghi chép trong các Văn thư lưu trữ huyện Bành Hồ cổ, trong đó viết, “Nếu ta nhìn từ trên cao ở Hujing, một đoạn dài của tường thành dưới đáy biển có thể được nhìn thấy. Nó thường được gọi là “Bể nước sâu Hujing”. Năm 1982, các thợ lặn chuyên nghiệp đã tìm thấy vị trí chính xác của thành phố Hujing bị chìm dưới đáy biển. Tường thành cổ này có hình chữ thập. La bàn đo được rằng nó nằm chính xác ở vị trí hướng Bắc-Nam, và hướng Đông-Tây ở góc vuông. Bức tường thành được xây dựng chủ yếu bằng đá ba-dan và có rong biển trên bề mặt của nó. Nó có kích thước khoảng 160 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 180 mét từ Bắc sang Nam. Nó dày khoảng 1,5 mét trên đỉnh và 2,5 mét tại đáy. Một số phần là không trơn nhẵn do xói mòn; tuy nhiên, các mạch ghép nối giữa những tảng đá thì rất khít. Ở phía Bắc có một cấu trúc dạng đĩa tròn. Đường kính của bức tường thành bên ngoài là khoảng 20 mét, với một bức tường bên trong khoảng 15 mét. Vào thời điểm đó, một số người nghĩ rằng thành phố bị chìm thật sự là một phần mở rộng của Hujing xuống đáy biển. Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà địa chất cho thấy rằng nếu bức tường được hình thành từ các khối đá tự nhiên, thì nó phải liền mạch và có duy nhất một khối. Mặt khác, nếu nó đã được con người tạo ra, thì nó phải có các phần riêng biệt. Hơn nữa, nếu tường thành rất dài và thẳng, thì rất có khả năng nó đã được con người tạo ra. Cụ thể là, những tảng đá đều có cùng kích thước, với những góc vuông, và khoảng trống giữa các tảng đá được lấp kín. Ngoài ra, những chỗ rỗng trên bức tường có hình chữ thập, với mạch ghép phẳng và trơn tru. Điều này hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn xây dựng hiện nay. Graham Hancock, một nhà văn người Anh, đã được công nhận trên toàn thế giới với những cuốn sách của ông, chẳng hạn như Fingerprints of the Gods (Dấu tay của các vị Thần). Trong tháng 8 năm 2001, ông và vợ ông đã tham gia với các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Nhật Bản để khám phá khu vực này. Ông giải thích rằng những viên đá từ thành phố bị chìm dưới đáy biển rõ ràng là khác với cấu trúc bằng đá tự nhiên, khiến chúng nhiều khả năng là có nguồn gốc nhân tạo. Ông nói một cách tự tin: “Thiên nhiên không tạo ra những cấu trúc như vậy, trái ngược với những kiến trúc nhân tạo, nơi mà sự chú ý lớn được dồn vào những chi tiết như vậy.” Rõ ràng là, các khối đá của thành phố bị chìm dưới đáy biển Hujing đã được định vị chính xác theo phương Bắc-Nam, và Đông-Tây. Ngoài ra, các khối đá này có bề mặt rất phẳng và mịn. Chúng được xếp rất khít với nhau đến nỗi chỉ một con dao mỏng mới có thể đi vào giữa các mối nối. Quan điểm của Hancock là điều này đã được con người tạo ra, và không thể là một sản phẩm của tự nhiên. Hancock cũng cho rằng, hiện có một mô hình chủ lưu được thiết lập trong xã hội con người. Tuy nhiên, mô hình chủ lưu này không thể giải thích các khám phá khảo cổ gần đây. Liệu những công trình kiến trúc ngày nay và các kiến trúc tiền sử là có mối liên hệ với nhau? Trên thực tế, lịch sử hiện thời không thể lý giải được những văn minh cổ đã biến mất. Đây là gợi ý cho chúng tôi biết về họ. Nói cách khác, rất có thể những phát hiện này, chẳng hạn như thành phố dưới đáy biển Hujing và những phát hiện tương tự, có chứa đựng các bằng chứng bị che đậy của những nền văn minh loài người trong quá khứ. Tàn tích trong Tam giác Bermuda và các công trình kiến trúc dưới đáy biển ở Bahamas Năm 1958, một số nhà khoa học Mỹ đã tìm thấy những cấu trúc kỳ lạ trong quá trình nghiên cứu đáy biển xung quanh đảo Bahamas. Những công trình này có các họa tiết hình học cụ thể, trải dài ra cho đến một vài dặm. Mười năm sau, những bức tường đá khổng lồ, 400-500 feet chiều dài, đã được tìm thấy ở ngay gần đó. Các phần mở rộng đã hình thành một góc vuông chính xác với những bức tường chính. Bức tường bao gồm các khối đá khổng lồ với kích thước hơn 1 foot vuông. Sau đó, những bậc thềm phức tạp hơn, đường giao thông, bến cảng, cầu, và những thứ tương tự như vậy đã được xác định. Toàn bộ di tích được bố trí như một bến cảng. Ngoài ra, các nhà khoa học châu Âu đã tìm thấy, trong quá trình nghiên cứu đáy biển Tam giác Bermuda, một kim tự tháp khổng lồ dưới nước chưa được biết đến. Kim tự tháp có cạnh là 300 mét, và 200 mét chiều cao. Có hai lỗ trống khổng lồ trong kim tự tháp, rõ ràng là nhân tạo. Nước biển cuộn qua hai cái lỗ trống khổng lồ này, tạo thành một xoáy nước khổng lồ và do đó tạo ra một xoáy nước gần đó. Điều đó cũng làm cho bề mặt nước vẩn đục. Rất khó để đánh giá kim tự tháp này được xây dựng khi nào. Nó đã được xây dựng từ hàng chục ngàn năm trước khi đất bị chìm xuống biển. Sự tồn tại của những nền văn minh tiền sử Trái đất đã không giống như thế này ngay từ lúc khởi đầu của nó. Nó đã trải qua vô số các thay đổi lớp vỏ, núi lửa, lũ lụt, thời kỳ băng hà, v.v.. Trái đất như nó hiện diện bây giờ đã chứng kiên vô số thay đổi. Chúng ta hãy lấy “Vùng đất cổ gần mặt nước” như một ví dụ. Nơi này sâu 2.600 mét, và chỉ cách Vịnh Nhật Bản 90 km. Tuy nhiên, 67-25 triệu năm trước đây, nó ở trên cao của Thái Bình Dương, khoảng chừng 120 km về phía đông quần đảo Nhật Bản. Vì vậy, không khó khăn để hình dung rằng nếu nền văn minh này đã tồn tại trong thời tiền sử, các thảm họa tự nhiên và sự tái sắp xếp địa chất đã thay đổi cảnh quan, và chỉ còn lại rất ít dấu tích được mãi mãi lưu giữ dưới đáy biển. Nền văn minh Mu huyền thoại Vào cuối thế kỷ 19, Đại tá người Anh James Churchward đã làm nhiệm vụ đóng quân ở Ấn Độ. Ông ta khá may mắn khi có được chữ khắc Naccal từ một tu viện trưởng của một ngôi đền Hin-đu. Đó là một ngôn ngữ rất khó hiểu. Sau nhiều cố gắng, Churchward và một thầy tu nổi tiếng đã giải mã lịch sử của một nền văn minh tiền sử vĩ đại. Năm 1926, Churchward đã xuất bản một cuốn sách, The Lost Continent (Lục địa đã mất) nói về nền văn minh Mu. Vị trí của lục địa Mu Theo chữ khắc, Lục địa Mu nằm ở Thái Bình Dương. Mu là một nền văn minh vĩ đại và thịnh vượng, trong đó có văn học, nghệ thuật, kỹ năng nghề thủ công tiên tiến, và cũng đã phát triển máy móc. Con người vào thời gian đó có kỹ năng xây dựng tuyệt vời, và đã có thể xây dựng các tòa nhà khổng lồ, kim tự tháp, tượng đài bằng đá, lâu đài, và đường xá. Những con đường lát đá gọn gàng và sạch sẽ, và những kênh đào đã được tìm thấy tại thủ đô và tất cả các thành phố lớn khác. Tất cả các bức tường đều chói lọi và được trang trí bằng vàng. Mọi người sống một cuộc sống xa hoa. Những cư dân trên Lục địa Mu là những hoa tiêu rất giỏi đi biển. Người ta cho rằng họ đã đi du hành qua tất cả các đại dương. Họ thậm chí còn phát triển một đế chế thực dân hùng mạnh. Vào lúc đó, Lục địa Mu được gọi là “đỉnh cao của văn hóa thế giới.” Tuy nhiên, Lục địa Mu thịnh vượng đã biến mất. Nó đã bị chìm xuống đáy đại dương sau một thảm họa bất ngờ. Bi kịch khủng khiếp bắt đầu với một đợt phun trào núi lửa mãnh liệt, theo sau là những trận động đất và các cơn bão mạnh. Mọi thứ xảy ra cùng một lúc. Dung nham núi lửa phun ra ngoài, đi kèm với các trận động đất mạnh. Đất dâng cuồn cuộn như sóng biển, lửa và khói mù mịt che kín cả bầu trời. Tất cả mọi thứ sụp đổ như đồ chơi, và ngay lập tức bị bao phủ bởi dung nham và nước biển. Không có cảnh báo từ trước, toàn bộ Lục địa Mu đã chìm xuống đáy Thái Bình Dương. Người ta có thể nghĩ rằng câu chuyện này là một huyền thoại. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác, người ta có thể thấy khả năng của một nền văn minh loài người từng hiện hữu. Những di tích dưới đáy biển cung cấp bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của các nền văn minh tiền sử. Tuy nhiên, rất khó để tìm ra những khám phá này trong các sách giáo khoa. Các nhà khảo cổ học và sử gia hiện đại không muốn thách thức kiến thức lịch sử hiện tại, vì điều đó có thể không tương thích với các lý thuyết hiện hành. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng chỉ là vấn đề thời gian để những nhà nhân chủng học và sử gia thay đổi các khái niệm mà họ có, và để chấp nhận những sự thật lịch sử.
  7. Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 4) Hoạt động hàng không của người tiền sử Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến I-3 Hoạt động hàng không của người tiền sử: Con người ngày nay nghĩ rằng một người Ý tên là Galileo đã phát minh ra chiếc kính viễn vọng đầu tiên có thể hoạt động được từ khoảng ba trăm năm trước, dựa trên các phiên bản thế kỷ 16, được sản xuất bởi những người sản xuất thấu kính Hà Lan, từ đó đặt nền móng cho các hoạt động thiên văn học hiện đại. Những thấu kính thô sơ từ sớm hơn nhiều đã được tìm thấy tại đảo Crete và vùng Tiểu Á, có niên đại từ năm 2.000 TCN. Những thấu kính hình bầu dục rất tốt, có niên đại tới 1.000 năm tuổi đã được tìm thấy tại một địa điểm của người Viking trên đảo Gotland, có thể chúng được làm bởi những thợ thủ công Byzantine hoặc Đông Âu. Các nhà văn La Mã, Pliny và Seneca đã đề cập tới các thấu kính được sử dụng bởi những thợ chạm khắc. Câu hỏi thực tế là tại sao, từ khi thấu kính được sử dụng thường xuyên để nhóm lửa, phóng to vật thể nhỏ, thậm chí dùng cho kính đeo mắt, và loài người quan tâm đến quan sát các hiện tượng thiên văn hoặc ngắm nhìn bầu trời, thật lâu dài như vậy để tạo ra một kính thiên văn có thể dùng được. Một phát hiện khảo cổ đã cung cấp bằng chứng để tin rằng có lẽ người Châu Âu không phải là những người đầu tiên sản xuất chúng. Viện bảo tàng ICA ở Peru có một tảng đá khắc hình người với niên đại ít nhất 500 năm trước. Điều đáng chú ý của hòn đá khắc đó là hình mô tả một người đang khảo sát bầu trời với một ống kính thiên văn trong tay. Ngoài ra, còn có một thiên thể trong hình khắc, có thể là một ngôi sao chổi với cái đuôi của nó, thứ mà có vẻ như người đàn ông đang quan sát. Một khám phá độc nhất như vậy đã làm lung lay niềm tin hiện đương đại rằng người Châu Âu đã phát minh ra kính viễn vọng vào thế kỷ 16. http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco1.jpe Một tảng đá ở Viện bảo tàng tư nhân của Tiến sĩ Javier Cabrera tại Peru với hình khắc, trong đó một người đàn ông quan sát bầu trời với một kính thiên văn, thứ thường được tin là được phát minh bởi những nhà sản xuất kính đeo mắt Hà Lan. (Ảnh tặng của labyrinthina.com) Tiến sĩ Javier Cabrera ở Peru đã thu thập nhiều loại đá khắc như vậy. Ngoài thiên văn học, những đề tài của các bức tranh trên đá của ông bao gồm cấy ghép nội tạng, truyền máu, và săn khủng long, trong số nhiều thứ khác. Rất khó khăn để xác định tuổi của những miếng đá này. Một cuốn lịch sử niên đại của Tây Ban Nha từng đề cập rằng những miếng đá như vậy đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ của Đế chế Inca. Từ đó, người ta suy luận rằng những tảng đá chứa thông tin thiên văn học có ít nhất 500 năm tuổi. Nói một cách lô-gíc, những tảng đá miêu tả các sinh vật như loài khủng long có thể là cổ hơn rất nhiều so với niềm tin ban đầu.Nếu thực sự đó là một kính thiên văn đã được khắc trên tảng đá tại Viện bảo tàng ICA, và các thiết bị đó đã được phổ biến trên toàn cầu, thì điều này có thể giúp các nhà khoa học để hiểu lý do tại sao Dogon, một bộ lạc ở châu Phi, đã phát triển những kiến thức thiên văn học tiên tiến như vậy. Bộ lạc Dogon sống ở khúc quanh lớn của sông Niger tại miền nam Mali, miền tây Châu Phi. Họ sống một cuộc sống chủ yếu là nông thôn và du mục. Không có ngôn ngữ viết, họ truyền đạt kiến thức bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong học thuyết tôn giáo của họ, mà đã được truyền lại trong hơn 400 năm, các nhà thiên văn học đã gọi một ngôi sao là Sirius B, một ngôi sao đồng hành của Sirius, đã được mô tả chính xác. Điều này làm ngạc nhiên những nhà thiên văn học hiện đại. Sirius B là rất mờ nhạt và vô hình trước mắt của con người. Dựa trên các quan sát ghi lại được bằng cách sử dụng thiết bị hiện đại, các nhà thiên văn đã phát hiện ra Sirius B trong thế kỷ 19. Những người Dogon được cho là đã không hề sở hữu bất kỳ thiết bị công nghệ hiện đại nào, nhưng từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã truyền lại những truyền thuyết về Sirius, trong đó bao gồm việc đề cập đến hệ thống Sirius gồm hai ngôi sao. Theo truyền thuyết, ngôi sao nhỏ là rất nặng, và nó quay quanh ngôi sao Sirius theo một quỹ đạo hình elip. Một số người cao tuổi Dogon có thể vẽ quỹ đạo của hai ngôi sao trên mặt đất, và chúng khá tương tự như kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Ví dụ này có thể chỉ ra rằng những người Dogon cổ đại đã giữ lại kiến thức của thiên văn học từ rất lâu. Các mẫu chạm khắc đá ở Peru, giống như các kiến thức thiên văn của người Dogon, hé lộ về kiến thức và kỹ thuật huyền bí mà các nền văn minh trước đây sở hữu. Khoa học hiện đại chỉ có thể khám phá lại kiến thức thu được từ trước đó. Hãy nhìn vào một vài phương thức bay mà người cổ đại đã biết. Sử dụng máy bay Các sách Trung Quốc cổ đại ghi lại rằng trong thời Xuân Thu (770-475 TCN), Lỗ Ban đã tạo ra máy bay. Điều này dẫn đến việc Lỗ Ban được công nhận là cha đẻ của tất cả các nghề thủ công. Cuốn Mozi·Luwen viết: “Lỗ Ban cắt tre và gỗ, và làm một con chim bằng gỗ. Nó ở lại trên bầu trời trong vòng ba ngày.” Lỗ Ban cũng đã làm một chiếc diều gỗ lớn để do thám quân địch trong một cuộc chiến tranh. Cuốn Hongshu viết: “Lỗ Ban đã làm một chiếc diều gỗ để do thám các thành phố ở nước Tống.” Bên cạnh đó, Lỗ Ban đã làm một chiếc máy bay chở khách. Theo cuốn Youyang Zazu [Một bộ sưu tập các bài viết từ Youyang] trong thời nhà Đường, Lỗ Ban có một lần làm việc ở một nơi rất xa quê mình. Ông nhớ vợ mình rất nhiều, vì vậy ông đã làm một con chim bằng gỗ. Sau khi được thiết kế lại nhiều lần, chiếc diều làm bằng gỗ đã có thể bay được. Lỗ Ban trở về nhà bằng chiếc diều để gặp vợ và trở lại làm việc vào ngày hôm sau. Cũng có một ví dụ thú vị ở phương Tây liên quan đến một con chim bằng gỗ. Năm 1898, nhà khảo cổ Pháp Lauret đã đào được một con chim bằng gỗ từ một ngôi mộ cổ Ai Cập ở Saqqara. Nó có niên đại khoảng năm 200 TCN. Bởi vì người dân không có khái niệm ‘bay’ vào thời gian đó, nó đã được gọi là “chim gỗ” và bị bỏ mặc hơn 70 năm trong một Viện bảo tàng ở Cairo. Vào năm 1969, Messiha Khalil, một bác sỹ Ai Cập, người thích làm những mô hình, đã tình cờ thấy được nó. Con chim gỗ này gợi nhớ cho Messiha về những kinh nghiệm ban đầu khi làm các mô hình máy bay của ông. Ông nghĩ rằng nó là không hẳn là một con chim, vì nó không có móng vuốt, không có lông, và không có lông đuôi ngang. Đáng ngạc nhiên, đuôi của nó là thẳng đứng, và nó có phần cánh ngang, đủ điều kiện để nó là một mô hình máy bay. Ông đã làm một bản sao. Mặc dù ông không biết làm thế nào người Ai Cập cổ đại làm cho nó bay, khi ông thử ném các mô hình, ông thấy nó có thể lướt nhẹ. Các thí nghiệm khác cho thấy nó không chỉ có thể lướt nhẹ, mà còn có thể bay như chiếc tàu lượn. http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco2.jpe “Chim gỗ” được tìm thấy trong ngôi mộ cổ Ai Cập, hiện đang được trưng bày ở Viện bảo tàng Cairo (Ảnh: Dawoud Khalil Messiha) Sau đó, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mô hình này rất giống với tàu lượn hiện đại, thứ có thể tùy ý bay trong không khí. Với một động cơ nhỏ, chúng có thể bay ở tốc độ 45-65 dặm/giờ (hoặc 72-105 km/giờ), và thậm chí có thể mang lượng đáng kể hàng hóa. Bởi vì những thợ thủ công Ai Cập cổ đại thường làm các mô hình trước khi xây dựng những đối tượng thực tế, có thể là loại chim bằng gỗ đã từng được sử dụng để vận chuyển, giống như chiếc diều gỗ mà Lỗ Ban đã làm.Những nghiên cứu hiện đại về máy bay bắt đầu khoảng 200 năm trước. Năm 1903, sau khi anh em nhà Wright hoàn thành chuyến bay có người lái đầu tiên, các lý thuyết hàng không bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, Lỗ Ban và người Ai Cập cổ đại dường như đã biết cách sử dụng các lý thuyết như vậy từ một thời gian rất lâu trước đây. Điều này đưa ra lý do để xem xét lại lịch sử phát triển văn hoá mà con người hiện đại bây giờ tin vào. Có thể là người cổ đại đã biết nhiều điều hơn người so với người hiện đại tưởng. Chiếm lĩnh bầu trời Một khám phá khác thậm chí còn đáng kinh ngạc hơn. Nó chỉ ra rằng lãnh thổ của người xưa có thể đã vượt quá bầu trời, và có thể có ngay cả vươn đến không gian bên ngoài. Năm 1959, Hoa Kỳ đã nhận được thành công hình ảnh đầu tiên của Trái đất từ một vệ tinh nhân tạo đặt ngoài không gian. Nó không hoàn hảo, nhưng đây là lần đầu tiên con người quan sát Trái đất mà chúng ta sống từ khoảng cách rộng lớn [17.000 dặm]. Kể từ đó, có rất nhiều nghiên cứu khoa học liên quan đến kỹ thuật chụp ảnh bằng vệ tinh. Trong số đó, một bức ảnh địa lý thật sự đáng ngạc nhiên. Các nhà khoa học đã cài đặt một máy ảnh trên tàu không gian, và nó có thể chụp ảnh thành phố Cairo từ ngoài không gian. Những bức ảnh chụp được cho thấy các cảnh tượng đáng kinh ngạc. Vì ống kính của máy ảnh tập trung vào Cairo, tất cả mọi thứ trong một khu vực lấy trung tâm là Cairo với đường kính 5.000 dặm được trông thấy rất rõ ràng. Tuy nhiên, những thứ bên ngoài 5.000 dặm trở nên mờ đi. Điều này là do Trái đất là hình cầu, các lục địa và vùng đồng bằng bắt đầu mờ và bị bẻ cong khi cách xa trung tâm. Ví dụ, lục địa Nam Mỹ bị dài ra ở trong hình. Các nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho hình ảnh được chụp bởi các phi hành gia từ Mặt trăng. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học so sánh các hình ảnh vệ tinh với một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ cổ đại, họ ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng rõ rệt. Các dãy núi trên Nam Cực bị bao phủ bởi băng và tuyết trong hàng trăm năm, và không được vẽ lên bản đồ cho đến năm 1952 bởi các nhà khoa học sử dụng máy dò bằng âm thanh. Tuy nhiên, chúng xuất hiện trên một bản đồ cổ thuộc Đô đốc Piri Reis, một tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, các bản đồ chính xác ghi lại các chu tuyến, kinh độ và vĩ độ cho cả lục địa Châu Mỹ và Châu Phi. Trớ trêu thay, tấm bản đồ này đã được làm vào thế kỷ 16 dựa trên các tấm bản đồ còn cổ xưa hơn. http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco3.jpe Một tấm bản đồ thế kỷ 16 của Đô đốc Piri Reis, chỉ huy hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ghép nhiều tấm bản đồ cổ với nhau. Nó rất giống với hình ảnh vệ tinh hiện đại. ­http://chanhkien.org/wp-content/uploads/2010/04/Maybayco4.jpe Bản đồ mô phỏng được đặt tâm điểm tại Cairo. (Ảnh tặng của Adventures Unlimited Press) Khám phá kinh ngạc này đã khiến nhiều nhà khoa học bị sốc. Sau những nghiên cứu bổ sung, họ đã đưa ra các kết luận sau đây: 1) Tấm bản đồ này được tạo thành bằng cách ghép 6 bản đồ cổ vào với nhau. 2) Tất cả bản đồ cổ đại đã sử dụng cùng một kỹ thuật đòi hỏi kiến thức về hình học phẳng. 3) Những tấm bản đồ cổ được đặt tâm điểm tại Cairo. Khá là rõ ràng là các tấm bản đồ của Đô đốc Piri Reis đòi hỏi công nghệ tiên tiến giống như ngày nay. Tuy nhiên, trước thế kỷ 16, loài người chỉ có thể làm chủ được các kỹ thuật định vị theo thiên văn, và bầu trời rõ ràng nằm ngoài khả năng của họ. Người cổ đại đã sử dụng công nghệ gì để làm ra các tấm bản đồ chính xác như vậy? Có thể họ đã từng đã bay trên bầu trời?
  8. Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 1) [MINH HUỆ 23-6-2007] Viên Thải, tự là Quân Tái, là người Tín An dưới triều đại nhà Tống (nay là Thường Sơn, Chiết Giang). Vào năm Long Hưng Nguyên niên đỗ tiến sỹ xếp thứ 3, làm quan đến chức Giám đăng văn kiểm viện. Từng nhậm chức huyện lệnh huyện Thanh Huyền, được nhiều người khen ngợi vì đức tính liêm minh và cương trực. Vào năm thứ 5 đời vua Tống Hiếu Tông (Kiền Đạo năm thứ 3) để giáo hóa dân chúng địa phương, chỉnh đốn lại phong tục thuần chính, dạy cho dân luân thường đạo lý, ông đã viết sách “Tục huấn” giảng dạy về đạo lý đối nhân xử thế. Sau này quyển sách được đổi tên thành “Thế phạm”, cũng gọi là “Viên thị thế phạm”, được lưu truyền rất rộng rãi, ảnh hưởng sâu rộng, trở thành sách giáo khoa vỡ lòng cho các trường học tư thục, được phần lớn các quan đại phu hết sức coi trọng. “Tứ khố toàn thư” cũng thu nạp sách này, xếp ngang hàng với bộ “Nhan thị gia huấn”. Giờ đây tuyển dịch trong đó một số bài, để chúng ta cùng lĩnh hội được Thần Vận – văn hóa Thần truyền trong việc kính Trời hiểu Mệnh, trọng lễ trọng Đức, hiểu rõ được đạo lý đối nhân xử thế của người xưa (ghi chú: tiêu đề là dịch giả thêm vào). *Phú quý bần tiện đều cần được đối xử như nhau Trên đời có một số kẻ không có kiến thức, không thể đối xử bình đẳng với bà con cô bác như nhau, lại căn cứ vào việc người ta phú quý bần tiện mà phân chia cấp bậc cao thấp. Nhìn thấy người có tiền có quan chức thì lễ phép cung kính. Tiền tài càng nhiều, quan chức càng to thì lại càng cung kính. Còn nhìn thấy người bần cùng hay là địa vị thấp hèn thì có thái độ ngạo mạn, coi thường, không thèm quan tâm giúp đỡ. Những kẻ này hoàn toàn chẳng biết rằng, người khác phú quý cũng không phải là quang vinh của chính mình, người khác bần tiện cũng không phải là nỗi sỉ nhục của bản thân, cần gì phải căn cứ xem người ta phú quý hay bần tiện mà thái độ đối đãi khác nhau! Những người có Đức hạnh, có kiến thức quyết không bao giờ làm như vậy. *Phú quý hay bần tiện đều là do Mệnh Trời Phẩm hạnh tốt xấu và quan chức cao thấp là hai việc hoàn toàn khác nhau. Không thể nói người có phẩm hạnh đoan chính thì nên được hưởng thụ phú quý vinh hoa, người phẩm hạnh không tốt, thì nhất định phải bị vận rủi. Nếu như vậy cả, thì Khổng Tử, Nhan Hồi đều nên được lên làm Tể tướng. Mà từ xưa đến nay Tể tướng và các quan lại thành đạt cũng không thiếu những kẻ tiểu nhân. Bồi dưỡng Đức hạnh của chính mình là việc mà chúng ta tự nhiên phải làm, không thể làm việc đó với mục đích mưu lợi nào cả, nếu không, một khi không đạt được mục đích, thì sẽ buông lỏng tu dưỡng Đức hạnh, khiến cho niềm tin ban đầu bị lung lay, từ đó trở thành hạng người tiểu nhân. Hôm nay, thế gian có rất nhiều kẻ ngu xuẩn đang hưởng thụ phú quý, còn người có trí tuệ lại rất bần hàn. Đó đều là Thượng Thiên đã an bài như vậy, không cần phải truy tìm tận gốc nguyên do. Nếu hiểu được đạo lý này, giữ tâm thái bình thản, chẳng phải là loại bỏ được rất nhiều điều phiền não sao! Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 2) [MINH HUỆ 25-6-2007] *Thế sự vô thường chính là Ý Trời Mọi chuyện trên đời biến hóa đa đoan, đó chính là Thiên ý. Thế nhân hiện nay thường thường thấy trước mắt có chút hưng vượng, thì tưởng rằng cuộc sống cả đời sẽ không cần phải lo buồn nữa. Không biết rằng những chuyện cửa nát nhà tan chỉ trong nháy mắt thật sự nhiều lắm. Nhìn chung Thiên Can 10 năm là 1 Giáp, mọi chuyện trên đời theo đó mà biến đổi. Bây giờ không cần nói chuyện quá khứ xa xôi, chỉ nói tình hình 10 năm trước so với bây giờ, sẽ phát hiện thấy thành, bại, thịnh, suy hoàn toàn không có một công thức nào cả. Người ta trên đời không biết nhìn xa, chỉ cần nhìn thấy người khác hưng vượng phát đạt hoặc là được một vài chuyện thuận tâm toại ý thì trong lòng sinh tâm ganh ghét, còn nhìn thấy người khác gia nghiệp suy bại hoặc có chút không thuận lợi thì chế nhạo họ. Những người cùng gia tộc hoặc đồng hương, rất dễ dàng bị tiêm nhiễm loại tâm bệnh này. Nếu biết được đạo lý rằng bất cứ việc gì cũng không cố định mà luôn đổi thay, như thế, lo lắng cho tương lai của chính mình còn không kịp, làm sao có thời giờ để mà ghen ghét người khác, cười nhạo người khác đây? *Sống, chết, giàu, nghèo trong mệnh đã định sẵn Người ta giàu sang là có định số. Chúa sáng thế đều đã định cho mỗi cá nhân một vận mệnh, nhưng cũng tạo cho con người những biến hóa khó lường thêm. Như vậy thúc đẩy con người vì quyền thế, tiền tài bận rộn ngược xuôi, mà con người đến chết thậm chí cũng không tỉnh ngộ. Nói rõ thêm ra, nếu không phải vì lợi ích mà bận rộn, như thế người trong thiên hạ đều không có chuyện gì đáng làm cả, mà Chúa sáng thế cũng không có biện pháp thúc đẩy mọi người chú tâm làm một việc gì. Thế nhưng, dù mọi người bận rộn ngược xuôi, nhưng chân chính đạt được vinh hoa phú quý chỉ có rất ít người. Những người bôn tẩu bận rộn suốt đời nhưng điều gì cũng không toại nguyện thì có đến hàng ngàn vạn. Song, người ở trên đời có rất ít kẻ tranh giành được phú quý, còn những người khác thường phải bị lao tâm uổng sức. Có rất nhiều người tận đến lúc chết cũng không thành tựu được gì. Hoàn toàn chẳng biết rằng sự thành công của người ta cũng là trong Mệnh sớm đã định rồi. Nếu trong Mệnh đã định cho bạn được phú quý, cho dù không vất vả ngược xuôi mà bình thản chờ đợi, cuối cùng cũng sẽ được giàu sang. Cho nên ở trên đời những người có kiến thức cao, có thể khám phá hiểu thấu cõi Hồng trần, đều là tùy kỳ tự nhiên, trong lòng vô cùng bình tĩnh. Không có điều gì khiến họ ưu sầu hoặc là cao hứng, cũng không có điều gì đáng để cho họ phải oán giận. Vì ích lợi mà vất vả ngược xuôi hoặc cùng với người ta tranh đấu lẫn nhau, những thứ ý niệm đó không bao giờ nảy sinh trong tâm của họ. Như vậy có thể nảy sinh tranh chấp với người khác không? Các vị tiền bối nói: “Sinh tử phú quý của con người đều là trong mệnh đã định sẵn”. Đã định bạn là quý tộc thì chắc chắn bạn có thể trở thành quý tộc; trong mệnh đã định bạn là dân thường, bạn kiểu gì cũng vẫn là một thường dân. Câu nói này vô cùng chính xác mà lại đánh trúng chỗ yếu, chỉ là người thường đều không biết mà thôi.
  9. Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 3) Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ tiền sử Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến I.2 Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ thời tiền sử: Chiếc bình kim loại 100.000 năm tuổi Vào tháng 6 năm 1851, Tạp chí Scientific American (quyển 7, trang 298-299), đã đăng một bài viết từ đoạn sao lục ở Boston, trong đó công bố về hai phần của một chiếc bình kim loại được tìm thấy sau khi cho nổ một khối đá cứng tại Meeting House Hill ở Dorchester, Massachusetts. Khi hai phần của chiếc bình được ghép lại, nó tạo thành một chiếc bình hình chuông có chiều cao khoảng 4 ½ inch, 6 ½ inch ở đáy, 2 ½ inch trên đỉnh, và dày khoảng 1/8 inch. Phần vỏ kim loại của bình được cấu tạo bởi thứ hợp kim giữa kẽm và một phần lớn của bạc. Trên vỏ bình có sáu bó hoa khảm bằng bạc tinh khiết, và xung quanh phần bên dưới là môt cành nho hoặc vòng hoa cũng được khảm bằng bạc. Công việc chế tác, khắc, và khảm một cách tinh xảo này đã được thực hiện bởi một vài nghệ nhân không tên tuổi. Và điều đặc biệt là nó đã được tìm thấy dưới một khối đá lớn (một dạng đá trầm tích) ở độ sâu 15 feet dưới mặt đất. Niên đại được ước tính là khoảng 100.000 năm tuổi. Chiếc bình này đã được chuyển từ viện bảo tàng này sang viện bảo tàng khác để trưng bày, và cuối cùng thật không may, nó đã bị biến mất. Giá đỡ nến? Tạp chí Scientific American vào tháng 6 năm 1851 đã công bố một bài báo về chiếc bình kim loại được tìm thấy dưới một khối đá cứng tại Meeting House Hill, Dorchester, Massachussets. Khối đá bao bọc chiếc bình được ước tính khoảng 100.000 năm tuổi. Một chiếc bu-gi điện có từ 500.000 năm trước? Vào ngày 13 tháng 2 năm 1961, ba nhà khảo cổ học – Mike Mikesell, Wallace Lance, và Virginia Maxey – đã thu thập đá hốc tinh ở một địa điểm cách phía đông-nam Olancha, California khoảng 12 dặm. Đá hốc tinh (Geode – đá từ núi lửa) là một loại đá dạng cầu rỗng ruột với cấu trúc dạng tinh thể. Trong ngày đặc biệt đó, khi đang tìm kiếm tại dãy núi Coso, họ đã tìm thấy một hòn đá nằm ngay gần đỉnh núi có độ cao khoảng 4.300 feet so với mực nước biển và 340 feet trên đáy hồ Owens. Họ nhặt nó lên và cứ nghĩ rằng đó là một loại đá hốc tinh, nhưng sau đó họ phát hiện ra rằng không phải, bởi vì nó mang dấu vết của vỏ hóa thạch. Ngày hôm sau, khi Mikesell cắt một nửa hòn đá đó ra, ông gần như đã phá hỏng viên kim cương 10 inch khi cưa nó, hòn đá không hề có cấu trúc tinh thể mà là một thứ gì đó thật bất ngờ. Bên trong đó là một loại thiết bị cơ khí gì đó. Bên dưới lớp đất sét cứng ngoài cùng, sỏi và hóa thạch là một lớp hình lục giác được cấu tạo bằng gỗ mềm dạng mã não hoặc thạch anh. Một lớp vỏ cứng bao quanh lõi hình trụ, có đường kính khoảng ¾ inch, được làm từ gốm hoặc sứ đặc màu trắng. Ở trung tâm của lõi trụ là thanh kim loại rộng khoảng 2 mm, sáng bóng và có mạ đồng. Thanh trụ này, các nhà địa chất đã phát hiện ra rằng đó là một dạng có từ tính, và sau rất nhiều năm bị phơi ngoài không khí, nhưng nó không hề có dấu hiệu của sự oxy-hóa. Đồng thời, bao quanh ống trụ bằng men sứ là những chiếc vòng đồng đã bị ăn mòn. Bị gắn sâu vào trong đá, ngoài chiếc ống trụ kia, còn có thêm hai mẫu vật nữa giống như là một chiếc đinh và một chiếc máy giặt. Các nhà địa chất đã gửi những gì họ tìm thấy tới Hội Charles Fort, nơi chuyên nghiên cứu những điều khác thường. Hội này đã dùng tia-X chiếu vào vật thể hình trụ kia để nghiên cứu các hóa thạch trong đó, và phát hiện ra những chứng cứ để xác nhận rằng đó thực sự là một thiết bị cơ khí. Tia-X đã cho thấy thanh kim loại bên trong kia đã bị ăn mòn ở một đầu, nhưng đầu còn lại có thể được làm từ một thứ vật chất dạng kim loại xoắn. Tóm lại, “đồ tạo tác ở Coso” được tin là một phần của thứ gì đó giống một chiếc máy cơ khí. Phần trục bằng sứ và kim loại được tạo hình cẩn thận này, với những thành phần được làm bằng đồng, gợi ý rằng nó là một dạng thiết bị điện nào đó. So sánh với những thiết bị hiện đại, các nhà nghiên cứu cho rằng nó rất giống một dạng bu-gi đánh lửa. Tuy nhiên, phần đường cong bằng kim loại thì không giống với bất cứ loại bu-gi nào hiện nay. Một nhà địa chất chuyên nghiệp đã kiểm tra mẫu đá trong thiết bị và thấy rằng nó có niên đại vào khoảng 500.000 năm tuổi. Chiếc đinh sắt gẫy hơn 1 triệu năm tuổi Tờ Illinois Springfield Republican đưa tin vào năm 1851: Một doanh nhân tên là Hiram de Witt đã mua lại một mảnh thạch anh chứa vàng có kích thước khoảng bằng bàn tay của một người đàn ông sau chuyến đi tới California, và trong khi cho người bạn xem mảnh đá, nó đã bị trượt từ tay của ông và rơi xuống sàn nhà. Khi đó, ở giữa của miếng thạch anh để lộ ra là một chiếc đinh gẫy, có kích thước của đồng 6 penny, đã bị ăn mòn nhẹ, nhưng hoàn toàn thẳng và có một chiếc đầu đinh hoàn hảo. Miếng thạch anh này có niên đại hơn 1 triệu năm tuổi. Chiếc đinh vít kim loại hơn 21 triệu năm tuổi Năm 1865, một chiếc đinh vít kim loại dài 2 inch đã được tìm thấy trong một mẫu khoáng vật được khai quật từ các mỏ vàng ở thành phố Treasure, Neveda. Chiếc đinh vít đã bị oxy-hóa từ lâu nhưng vẫn giữ nguyên được hình dạng – đặc biệt là hình dạng các đường xoắn của nó – có thể nhìn rất rõ từ mẫu khoáng vật. Mẫu vật này được ước tính có niên đại khoảng 21 triệu năm tuổi. Chiếc móng nhân tạo hơn 40 triệu năm tuổi Năm 1844, Ngài David Brewster đã gửi một báo cáo tới Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Anh quốc, và gây ra một chấn động trong giới khoa học. Một chiếc móng, rõ ràng là nhân tạo, đã được tìm thấy với một nửa bị gắn sâu vào một khối đá sa thạch được khai thác từ khu mỏ Kindgoodie gần Inchyra, miền Bắc nước Anh. Nó đã bị ăn mòn rất nhiều, nhưng dù sao vẫn nhận dạng được. Miếng sa thạch này được xác định có niên đại ít nhất 40 triệu năm tuổi. Một sợi dây chuyền vàng được tìm thấy trong đống than đá hơn 300 triệu năm tuổi Vào ngày 9 tháng 6 năm 1891, bà S.W.Culp tại Morrisonvile, Illinois, khi đang xúc than cho vào bếp lò thì một cục than lớn vỡ thành hai mảnh và một sợi dây chuyền vàng ở chính giữa đã rơi ra. Sợi dây chuyền dài khoảng 10 inch, làm bằng vàng 8 carat và nặng cỡ 8 đồng xu penny, được mô tả giống như một dạng “đồ cổ tinh xảo”. Vào ngày 11 tháng 6, thời báo Morrisonvile Times loan tin các nhà điều tra đã chứng minh rằng sợi dây chuyền không chỉ đơn giản là tình cờ rơi vào than. Một phần của than đã bám vào sợi dây chuyền, trong khi phần bị tách rời khỏi nó vẫn mang dấu ấn của chỗ mà sợi dây chuyền đã bị bọc. Tờ báo chỉ nói: “Đây là một thứ dành cho những sinh viên thuộc ngành khảo cổ học, những người muốn bị mệt đầu bởi sự cấu thành địa chất của Trái đất, và luôn tò mò về những điều cổ xưa”. Trong trường hợp này, vật “gây tò mò” bị “rơi ra” từ một viên than đá có từ Kỷ Pennsylvanian – và nó đã có hơn 300 triệu năm tuổi. Chiếc nồi sắt ở trong một khúc than có từ 300 tới 325 triệu năm tuổi Một khám phá tương tự đã xảy ra tại Oklahoma. Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma, khi đang xúc than cho vào lò, đã sử dụng nhiên liệu được khai thác gần Wilberton. Có một khúc than quá lớn và không thể cầm được, cho nên hai người thợ đã dùng búa để đập nó ra. Khi khúc than vừa bị vỡ, hai người thợ đã nhìn thấy một chiếc nồi sắt trong đó. Khi chiếc nồi rơi ra từ khúc than, khuôn của nồi có thể nhìn thấy từ các mảnh của khúc than. Vài chuyên gia sau đó đã kiểm tra than bao quanh nồi, và xác định rằng nó đã được hình thành từ 300 tới 325 triệu năm trước. Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma đã phát hiện ra một chiếc nồi sắt nằm bên trong một khúc than có niên đại từ 300 tới 325 triệu năm tuổi. (Ảnh chụp bởi: Viện Bảo tàng Bằng chứng Tạo hóa) Quả cầu kim loại 2,8 tỉ năm tuổi Những người thợ mỏ tại Klerksdorp ở Nam Phi đã tìm thấy vài trăm quả cầu kim loại ở trong cùng một tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi. Những quả cầu này được khắc các rãnh rất mịn, mà các chuyên gia kết luận rằng chúng không thể được hình thành từ một quá trình tự nhiên. Các quả cầu kim loại giống như thế này đã được tìm thấy ở Nam Phi, trong cùng môt tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi (Ảnh chụp bởi Roelf Marx) Hoạt động khai mỏ và luyện kim thời tiền sử Sau đây là một vài khám phá mà các nhà khảo cổ học cho phép chúng ta hiểu thêm về nền văn minh tiền sử. Những khám phá này như là những cánh cửa sổ nhìn vào quá khứ, cho phép chúng ta quan sát được hoạt động khai mỏ, tinh chế kim loại, và tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người tiền sử. Năm 1968, Tiến sĩ Koriun Megurtchian người Liên Xô cũ đã khai quật được một di tích, được cho là nhà máy luyện kim cỡ lớn lâu đời nhất trên thế giới, tại địa điểm có tên là Medzamor ở nước cộng hòa Armenia (thuộc Liên Xô cũ). Hơn 4.500 năm trước, những người tiền sử vô danh làm việc tại đó đã có hơn 200 lò nung để sản xuất các loại dụng cụ như lọ, dao, mũi giáo, nhẫn, vòng đeo tay, và một số vật dụng khác. Các thợ thủ công ở Medzamor đeo khẩu trang và đi găng tay khi họ lao động, và những bộ quần áo chuyên dụng của họ được làm bằng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, thiếc, măng-gan và mười bốn loại hợp kim đồng khác. Các lò nung cũng sản xuất một loại sơn kim loại, gạch men và thủy tinh. Các tổ chức khoa học từ Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Đức đã xác nhận rằng một số chiếc kẹp làm bằng thép cao cấp đã được lấy từ các lớp địa chất từ trước thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên. Vào tháng 7 năm 1969, trên tờ Science et Vie, một phóng viên người Pháp tên là Jean Vidal đã bày tỏ niềm tin rằng những phát hiện này đã chỉ ra một giai đoạn phát triển công nghệ không được biết tới. “Medzamor” ông viết, “đã được thành lập bởi những người xuất chúng của các nền văn minh trước đây. Họ sở hữu những kiến thức có được từ thời xa xưa mà chúng ta không biết tới, và xứng đáng được gọi là ‘khoa học’ và ‘công nghiệp’.” Ngoài ra, các nhà khảo cổ học người Mỹ đã phát hiện ra những mỏ đồng thời tiền sử tại Isle Royale ở phía bắc Michigan. Thậm chí cả những người thổ dân da đỏ có tổ tiên sống trong vùng đó từ nhiều thế kỷ trước cũng không biết về sự tồn tại của những mỏ này. Những khu mỏ đó đã chứng minh rằng các hoạt động khai mỏ thời tiền sử đã từng tạo ra hàng nghìn tấn đồng, nhưng các nhà khảo cổ học đã không tìm thấy bất kỳ dấu vết định cư lâu dài nào gần các khu mỏ. Khám phá kỳ lạ nhất là mỏ than Lion tại tiểu bang Utah. Năm 1953, những người thợ mỏ bất ngờ phát hiện ra một đường hầm trong mỏ mà họ chưa từng biết tới. Than trong hầm mỏ đã bị oxy-hóa và mất hết giá trị thương mại – bằng chứng cho thấy hoạt động khai thác mỏ trước đó đã từng được tiến hành trong khu vực này. Vào tháng 8 năm 1953, hai học giả thuộc Khoa Kỹ sư và Nhân chủng học Cổ đại tại Đại học Utah đã điều tra khu mỏ, và tuyên bố rằng những người thổ dân da đỏ ở đây chưa bao giờ sử dụng than. Cả hai mỏ, mỏ đồng tại Isle Royale và mỏ than tại Lion đã chứng minh rằng các thợ mỏ tiền sử đã phát triển các công nghệ khai thác và vận chuyển than tới những nơi xa xôi. [Ban biên tập đã không tìm thấy bằng chứng độc lập xác nhận sự tồn tại của hai mỏ này]. Có một khu vực của các hoạt động khai thác mỏ tiền sử mà các nhà địa chất và nhân chủng học đã cực kỳ quan tâm, nó được phát hiện trong các vỉa đá tại mỏ Pioch Farrus ở Pháp. Từ năm 1786 tới 1788, mỏ đá đã cung cấp một lượng lớn đá vôi để xây dựng lại một tòa nhà Tư Pháp ở địa phương. Thông thường, các thợ mỏ sẽ tìm thấy một lớp bùn nằm giữa các lớp đá. Khi những người thợ mỏ đào đến lớp thứ 11 của đá, tiếp cận độ sâu 12 tới 15 mét dưới lòng đất, thì một lớp bùn đã xuất hiện. Nhưng khi làm sạch lớp bùn này, thì họ đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra các cọc còn lại của những cột đá và những mảnh vỡ, cho thấy rằng đá này đã được cắt và khai thác thác từ trước đó. Đào sâu hơn, họ đã choáng váng khi phát hiện ra tiền xu, tay cầm bằng gỗ của một chiếc búa sắt đã hóa thạch, và các công cụ bằng gỗ khác đã hóa đá. Cuối cùng, họ phát hiện ra một tấm ván đã hóa đá và bị vỡ thành từng mảnh. Sau khi các mảnh vỡ được ghép lại với nhau, nó đã thể hiện chính xác loại ván đã được sử dụng bởi các thợ mỏ; hơn thế nữa, loại ván này chính xác là giống với loại ván đang được sử dụng ngày nay. Đã có rất nhiều khám phá tương tự trong các khu mỏ tiền sử, và rất nhiều di tích bí ẩn khác đã được khai quật. Nó không chỉ làm dấy lên sự tò mò của con người, mà còn gửi một thông điệp quan trọng tới những nhà khảo cổ học – đây là lúc để đẩy nguồn gốc của nền văn minh nhân loại về một thời kỳ vô cùng xa xưa.
  10. Chuyện cậu bé mù xây cầu [MINH HUỆ 6-3-2006] Ông Bao Chủng (999-1062) thời Nam Tống, còn gọi là ông Bao Thanh Thiên hay Bao Công, nổi danh là một vị quan thanh liêm mẫu mực và có tài xử án. Đưới đây là một trong rất nhiều câu chuyện được lưu truyền trong dân gian về ông. Bao Công thiết diện vô tư, một vai quen thuộc trong tuồng dân gian Thủa ấy ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mươi tuổi, gẫy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ. Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ. Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin què quặt gom những tảng đá lớn về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến. Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù dã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng. Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ. Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây. Bấy giờ nhằm lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo gia kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “宁行恶勿行善” (ninh hành ác vật hành thiện: thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện). Trở về kinh đô sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy rất vướng mắc về việc này, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không báo cáo lên nhà Vua về sự kiện hy hữu đó. Nhà Vua hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Nhà Vua cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc. Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “宁行恶勿行善”! Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì. Nhà Vua rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Vua xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Vua bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc. Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù loà, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời. Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn có phúc phận chuyển sinh làm hoàng tử.”
  11. Văn hóa Thần truyền: Muốn biết kiếp sau thế nào, hãy xem kiếp này đã làm những việc gì [MINH HUỆ 8-6-2007] Thành Hàng Châu có một cửa hiệu tơ tằm nọ, mở cửa đã hơn mười năm. Chủ nhân của trang trại tuổi đã hơn 50 nhưng tâm địa vẫn bất lương. Một năm, khu vực đó phát sinh hỏa hoạn, lửa cháy lan đến cửa hiệu tơ tằm ấy. Phía sau cửa hiệu là nhà của một gia đình nghèo, cả nhà có 3 người, sinh sống bằng nghề giặt là quần áo, khi ra vào nhà thì nhất định phải đi qua cửa hông của hiệu tơ tằm bên cạnh. Lúc lửa đang cháy dữ dội, gia đình nghèo ấy cả 3 người không ngừng kêu thất thanh “Mở cửa ra!” hy vọng có thể thoát qua cửa hông mà bảo toàn mạng sống. Ngờ đâu người chủ cửa hiệu vì để thuận tiện vận chuyển hàng hóa, dùng sức khóa chặt cửa hông, không cho mở. Đến lúc chuyển đồ đạc xong, lửa cũng đã dập tắt đi rồi, thì cả nhà nghèo kia đều đã bị chết cháy. Một năm sau, chủ cửa hiệu tơ tằm đột ngột qua đời. Một đêm nọ, ông ta báo mộng cho con trai nói rằng: “Ta hại chết cả nhà người ta, Âm Tào không cho chuyển sinh làm người nữa, mà phải nhập thai heo. Hiện giờ ở tại một nhà nông nọ có một heo mẹ sinh được 4 heo con, con heo mà trên thân có cái bớt màu đỏ chính là ta đó. Con hãy hỏi vị nông dân kia, xin mua rồi đưa ta về nhà nuôi, để tránh bị người ta xâu xé”. Nói xong khóc lớn. Con trai ông ta sau khi tỉnh dậy, cảm thấy cảnh mộng sao mà giống y như thật, bèn dựa theo những lời cha chỉ dẫn trong mộng mà tìm đến nơi ấy. Quả nhiên là có một con heo mới sinh trên người có cái bớt màu đỏ thật. Con heo nhỏ nhìn thấy con trai tới thì kêu gào thảm thiết đứng lên, điệu bộ giống như đang lạy lục van xin. Con trai ông ta liền dùng tiền mua nó về nhà, còn chuẩn bị một gian phòng cho nó ở, hơn nữa còn thuê người hầu hạ nó. Mỗi ngày tắm gội sạch sẽ cho heo, cho nó ăn toàn những thức ăn hạng nhất, đối đãi với nó giống như đối với cha mình khi còn sống. Được mấy ngày, người con trai lại nằm mộng thấy cha nói rằng: “Ta khi còn sống tội ác tày trời, sau khi chết nếu đã tái sinh thành súc vật mà ăn uống sinh hoạt vẫn như người lúc còn sống, thế thì chỉ có tăng thêm tội nghiệp. Sau này, con không cần cho ta ăn thức ăn hạng nhất, lại càng không tắm gội cho ta nữa, chỉ có thể chăn nuôi ta. Nếu không, ta sẽ khó trả ác nghiệp quá nặng của mình. Sau khi chết điều gì ta cũng đều hiểu rõ, nhưng cũng chỉ biết hối hận mà thôi. Con nhất định cần phải biết yêu quý thân người và làm việc thiện đó!”. Người xưa có câu: “Muốn biết kiếp trước đã làm những gì, hãy xem kiếp này được thụ hưởng thế nào; muốn biết kiếp sau sẽ ra sao, hãy xem kiếp này đã làm những việc gì”, làm cho người ta tin tưởng ở Luật Trời có thiện ác báo ứng. Kỳ thực, hiện nay bất kể mọi người trong quá khứ từng làm sai điều gì, bây giờ không còn quan trọng nữa, bởi vì Phật Pháp từ bi, vẫn cấp cho con người một cơ hội tốt. Cần nhất chính là hôm nay, là thời khắc mấu chốt để lựa chọn tương lai cho bản thân mình, không nên lại lạc đường lần nữa, không nên tạo ra nỗi hối hận mà vĩnh viễn sẽ không cách nào quên được. Bảo trì thiện niệm, yêu quý sinh mệnh, thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ mà hành động, đó mới là lựa chọn sáng suốt của những sinh mệnh chân chính. Tích đức phúc báo [MINH HUỆ 13-8-2006] Lý Giác (Li Jue), người hạt Giang Dương, Quảng Lăng, triều đại nhà Đường (618–907) là người tính tình hiền lành và cẩn thận, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời bán lương thực. Năm 15 tuổi, Lý Giác tiếp quản việc mua bán của gia đình. Khi khách đến, ông đưa cân cho khách hàng tự cân, hơn nữa ông cũng không lấy tiền theo giá thị trường mà chỉ lấy giá đủ để trang trải cuộc sống và phụng dưỡng cha mẹ. Nhà họ Lý mua bán lương thực, lạ thay, ngày càng được nhiều người biết đến. Lấy làm lạ, cha ông bèn hỏi cách ông bán hàng. Biết chuyện, cha ông cảm động lắm, nói: “Hồi cha bán hàng, cha biết có nhiều người bán hàng dùng mánh khoé các loại để thu lời kể cả bằng cách dùng cân các cỡ. Cân to để mua vào, cân nhỏ để bán ra. Dẫu viên chức nhà nước có đến thanh tra định kỳ vào mùa xuân, thì thủ đoạn đó vẫn tiếp tục. Còn cha lúc nào cũng dùng một chiếc cân, và tự nghĩ rằng mình là người công bình lắm rồi. Nay thấy con bán hàng như vậy, mới biết như cha vẫn là chưa đủ. Ấy vậy, con bán hàng vừa chạy vừa đảm bảo thu nhập cho gia đình. Đúng là ông Trời phù trợ cho con.” Đến năm 80 tuổi, ông Lý Giác vẫn bán lương thực ở chợ. Bấy giờ có một người cũng tên là Lý Giác được bổ nhiệm là tiết độ sứ Hoài Giang. Ông Lý Giác bán hàng, vì nể trọng, nên đã đổi tên mình thành Lý Khoan (Li Kuan). Tiết độ sứ Lý Giác từ ngày nhậm chức đã làm rất nhiều việc thiện cho dân: mở mang đường sá, trợ giúp người nghèo… Một hôm nằm mộng thấy đến một hang động hùng vĩ, và choáng ngợp trước phong cảnh đẹp đẽ với dòng suối đầy hoa thơm cỏ lạ, chim ca bướm lượn mây lành vờn quanh. Đi một chập, ông gặp bức tường đá khắc chữ vàng “Lý Giác”. Ông vui mừng quá đỗi và tự nhủ: Đời này mình làm nhiều việc thiện nên sau được lên cõi tiên. Chợt có hai tiên nữ bay qua, ông bèn hỏi, và được biết rằng đây là động trời Hoa Dương Động, và tên người khắc trên vách đá không phải là ông Lý Giác tiết độ sứ, mà là ông Lý Giác tại Dương Giang. Tỉnh mộng, ông quyết định đi tìm xem ông Lý Giác tại Dương Giang là ai. Sau nhiều nỗ lực, ông được biết rằng nay ông Lý Giác kia đã đổi tên thành Lý Khoan, và ông ta đã trở thành người tu Đạo từ năm ông 60 tuổi. Ông bèn thân chinh đến thăm ông Lý Khoan tại nhà, mong cầu học hỏi thuật tu Đạo. Gặp mặt, ông Lý Khoan không nói về thuật tu Đạo, mà chỉ kể về cuộc đời bán hàng của mình. Câu chuyện làm ông Lý Giác hiểu ra, và tán thán: “Đời này ông đã làm điều mà người thường rất khó làm nổi. Với những gì tôi đã làm, cũng không thể sánh với đức mà ông đã tích được trong đời này”. Ông Lý Giác ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: “Giờ tôi đã hiểu. Luật nhân quả là đúng. Một người dẫu nghèo nhưng biết tích đức, thì Trời cũng phù hộ độ trì, thậm chí đưa tên vào danh sách tiên. Cũng là một bài học giáo huấn cho con người thế gian”. Vì ông Lý Giác nhắc lại yêu cầu, nên ông Lý Khoan cũng truyền lại thuật tu Đạo và căn bản tu tâm dưỡng tính cho ông. Ông Lý Khoan vẫn mạnh khoẻ dù đã ngoài 100 tuổi. Một hôm ông bảo con cháu rằng: “Ta ở đây đã lây rồi, và cũng không còn việc gì ở thêm nữa, dẫu rằng ngày nào ta cũng tu luyện”. Chẳng bao lâu sau ông qua đời vào nửa đêm. Ba ngày sau, người nhà nghe thấy tiếng rắc rắc trong quan tài. Họ mở ra và chỉ thấy quần áo ở lại, nhưng thân thể ông đã biến mất. Đó là câu chuyện ông Lý Khoan tích đức cõi người, tu luyện thành Tiên và đã rời khỏi trần thế như thế nào. Có thể ông đã đến động trời Hoa Dương Động như ông Lý Giác đã từng nằm mộng thấy.
  12. Một Đạo sỹ nói về số mệnh Tác giả: Lục Văn [MINH HUỆ 28-7-2007] Vào triều Thanh, hiền giả Kỳ Hiểu Lam viết cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký”, trong đó ông miêu tả về một vị Đạo sỹ tài ba đàm luận về số mệnh. Nội dung rất sâu sắc và thiết thực cho đến tận ngày nay. Dưới đây là nội dung chủ yếu của câu chuyện: Minh Thịnh là huyện lệnh của huyện Hiền. Ngày nọ ông tiếp nhận một vụ án oan, muốn vì dân thường mà xử lại, nhưng lại sợ thượng cấp không vừa ý, vì thế mà rất lưỡng lự. Trong số thuộc hạ có người tên là Môn Đấu, người này có một người bạn có công năng đặc dị, vì vậy Minh Thịnh bèn phái Môn Đấu đi thỉnh mời vị kia để đoán trước sự tình và chỉ cho cách làm thế nào mới tốt. Môn Đấu tuân lệnh đến thỉnh mời. Vị kia nghe xong trang trọng trả lời, “Minh Thịnh huyện lệnh thân như cha mẹ của chúng dân trong huyện, thì nên xem xét dân chúng có bị oan hay không, hơn là dò xét thượng cấp có vừa ý hay không. Chẳng lẽ ông ấy đã quên câu chuyện của Lý Vệ tiên sinh năm xưa?” Môn Đấu trở về, bẩm báo lại đầu đuôi mọi sự. Minh Thịnh vừa nghe thì giật mình cả sợ, nhớ lại xưa kia Lý Vệ tiên sinh đã từng kể cho ông ta một câu chuyện. Nhưng người này là người như thế nào mà lại biết được chuyện ấy? Thật là thần kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, Minh Thịnh giờ đã biết cần xử lý vụ việc ra sao. Trước khi trở thành quan Tri phủ, một lần Lý Vệ lên thuyền vượt sông, thì gặp một vị Đạo nhân. Để tiết kiệm chút tiền mọn, một hành khách đã tranh cãi với chủ thuyền. Đạo sỹ thở dài, “Đối với một kẻ sắp bị chết đuối, ông ta vẫn còn tranh cãi chỉ vì một chuyện tầm thường, thật là không đáng!”. Lý Vệ nghe xong, lúc đó không hiểu Đạo sỹ nói lời ấy là có ý gì. Một lát sau, đột nhiên một cơn gió mạnh bắt đầu thổi trên sông. Vị hành khách kia không giữ được thăng bằng, bị ngã xuống nước và chết đuối. Lý Vệ giờ mới biết vị Đạo sỹ có năng lực siêu phàm. Lúc đó, gió càng ngày càng mạnh, con thuyền chòng chành muốn lật. Đạo sỹ bước chân theo trận đồ, không ngừng niệm thần chú. Cơn cuồng phong rất nhanh chóng dừng lại, mọi người đều được cứu sống. Lý Vệ hướng về Đạo sỹ bái ba bái tạ ơn cứu mạng. Đạo sỹ bèn nói, “Vừa rồi người kia chết đuối, là vì mệnh của ông ta đến đó đã tận, ta không thể cứu được. Ông là quý nhân, hôm nay gặp họa nhưng được giải cứu, cũng là trong mệnh đã định như vậy, ta không thể không cứu. Cho nên ông không cần cám ơn ta”. Lý Vệ nghe xong, thụ giáo được rất nhiều, lại bái tạ và nói: “Nghe ngài dạy bảo, từ đầu tới cuối tôi đều được lợi ích. Từ nay về sau cả đời tôi sẽ an phận mà thủ mệnh”. Đạo sỹ nói, “Ông nói lời này không hoàn toàn là đúng. Một cá nhân đối với vinh nhục, thăng trầm, phú bần, đều không truy cầu thì người đó là đang an phận, tức là an mệnh, chính là thuận theo tự nhiên. Không an mệnh, tức là lừa đảo lẫn nhau, đấu đá với nhau, chuyện xấu gì cũng làm. Những việc như vậy thảy đều tạo nghiệp. Ví như Lý Lâm Phủ, Tần Cối, bọn họ nếu có thể thủ mệnh, thuận theo tự nhiên, thì sau đều được làm Tể Tướng, bởi số mệnh đã định như thế. Nhưng bọn họ năm đó chỉ vì tranh giành địa vị Tể Tướng, mà bài trừ những người trái ý, dùng hết tâm kế mà hãm hại trung lương, đâu biết rằng dù có cố hay không thì sau này đều được làm Tể Tướng, vì thế chỉ là tự mình gia tăng ác nghiệp mà thôi. Về phần quốc kế dân sinh lợi hay hại thế nào không thể nói mệnh; đối diện với trăm họ đang trong cảnh khốn cùng, oan ức, thì không thể để mặc như thế, nhưng cần tùy kỳ tự nhiên. Hết thảy những người phụ trách thì đều phải chịu trách nhiệm. Gia Cát Khổng Minh từng nói: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi, còn về việc thành hay bại, lợi hay không, thì thần không rõ, nhưng cũng có khả năng lường trước được!”. Chính là đạo lý ấy. Trời Đất dưỡng dục nên nhân tài, quốc gia thiết đặt vị trí cho các cấp quan lại, mục đích là để ích nước lợi dân. Thân là quan lại, nắm giữ quyền hành, mà bó tay ủy thác hết cho số mệnh, thì Trời Đất cần gì phải sinh ra những người tài như thế, quốc gia cần gì phải thiết lập quan lại như thế? Cao nhân thánh hiền cần phải hiểu được Mệnh, đó chính là đạo lý chân thực, hy vọng ông có thể lĩnh hội được toàn diện”. Đạo sỹ nói xong xuống thuyền, nhanh chóng biến mất.
  13. Người cổ đại nghĩ gì về những tư tưởng tục tĩu [MINH HUỆ 26-06-2008] Có một câu châm ngôn cổ: “Tất cả ma quỷ đều phát sinh từ ham muốn.” Tôi tin rằng chắc chắn có một vài chân lý nào đó liên quan đến nó. Vì vi phạm những tiêu chuẩn đạo đức về tình dục, con người đã tạo ra số lượng nghiệp lực rất to lớn. Trước khi có sự bại hoại về tiêu chuẩn đạo đức, người ta không tán thành những người có ham muốn tình dục. Ở Trung Quốc trong Triều Đại Thanh (1644-1911 A.D), Ji Xiaolan là một quan chức nổi tiếng và là chủ biên của Si Ku Quan Shu (Ghi chú: tuyển tập những quyển sách được biên soạn trong suốt triều đại Thanh). Ông đã viết một cuốn sách gọi là Yue Wei Cao Tang Biji ( tham khảo dịch sang tiếng Anh: The Thatched Study of Close Scrutiny) trong đó ông ghi lại nhiều câu chuyện lạ thường mà ông đã nghe được hay bản thân trải qua. Một trong những câu chuyện diễn ra như sau: Hoàng đế đã phái một viên quan tới vùng mà ngày nay được biết là Đài Loan về việc thông thương chính thức. Trên đường đến Đài Loan, ông đã ở lại một khách sạn. Vào một buổi tối ở đó, ông đã nhìn thấy một cô gái xinh đẹp lộng lẫy đang lén nhìn trộm qua tường vào trong sân nơi mà ông đang ở. Ông đã lớn tiếng và giận giữ quát mắng cô và ra lệnh cho đầy tớ tìm kiếm cô, nhưng họ đã không tìm thấy cô. Buổi tối khi đang ngủ, Ji Xiaolan đã bị đánh thức bởi một âm thanh và một mảnh ngói bay vào gối ngủ của ông. Ông đã la lên một cách tức giận: “ Là một con yêu quái, Sao ngươi dám xúc phạm đến sứ giả của triều đình? Giọng của một cô gái từ bên ngoài cửa sổ: “ Ngài là một quan chức triều đình. Suốt ngày tôi đã cố để tránh ngài, nhưng ngài đã nhìn thấy tôi, la mắng tôi và tìm kiếm tôi. Tôi không muốn Chư Thần biết điều này và không muốn bị khiển trách. Do vậy, tôi đã thực sự lo lắng.” “Tuy nhiên, khi ngài đi ngủ, ngài lại nghĩ rằng có thể tôi là con gái của chủ khách sạn này. Ngài đang suy tính trong đầu một kế hoạch để lấy tôi làm vợ hai của ngài. Tất nhiên ngài không biết rằng bất kể tư tưởng nào mà ngài có, Chư Thần đều biết. Khi một người hình thành trong đầu họ một tư tưởng xấu, nó sẽ thu hút sự quấy rối của một linh hồn ma quỷ. Dưới hoàn cảnh này, Chư Thần sẽ không thể khiển trách ma quỷ được. Vì vậy, khi tôi ném một mảnh ngói vào ngài, ngài thực sự không có quyền để nóng giận.” Khi nghe cô giải thích, ông ta cảm thấy thất vọng và xấu hổ. Trước khi trời sáng, ông đã ra lệnh cho đầy tớ thu dọn hành lý và rời đi. Từ câu chuyện trên chúng ta có thể thấy những châm ngôn như vậy của người cổ đại như là “Chư Thần luôn theo dõi bạn” và “Bạn nghĩ gì, Chư Thần đều biết” đến từ đâu. Ngay khi một người hình thành trong đầu một tư tưởng tục tĩu dâm dục, Thần đã có thể biết và xem thường khinh miệt người này. Một linh hồn ma quỷ có thể đựơc đến quấy nhiễu người này. Do vậy, một người không được nói hoặc hành động một cách tục tĩu, và thậm trí phải tránh nuôi dưỡng những tư tưởng ý niệm tục tĩu dâm ô đó. Ngày 25 tháng 6, 2008
  14. Vị thầy tu ham ngủ [MINH HUỆ 15-11-2009] Phật Thích Ca Mâu Ni thường dạy các đệ tử của Ngài phải chăm chú toàn tâm học kinh Phật, và dạy họ không được buông lơi hay lười nhác. Hầu hết các đệ tử của Ngài đều làm theo lời dạy của Ngài và tu luyện tinh tấn, do vậy họ đã đắc Đạo và đạt Quả Vị khi loại bỏ nhiều lo lắng và đau khổ. Nhưng có một vị thầy tu không tinh tấn. Khi những người khác luyện công thì anh ta đi ngủ. Các đệ tử đồng môn đã cố góp ý với anh ta, nhưng anh ta vẫn không thay đổi. Điểm yếu nhất của vị thầy tu này là ngủ quá nhiều. Hàng ngày, anh ta đi ngủ sau bữa ăn. Khi ngủ anh ta đóng chặt cửa và ngủ một mình trong phòng. Không ai có thể đánh thức anh ta dậy, bất kể họ cố gắng đến đâu. Một hôm vào buổi trưa, sau khi đi xin ăn trên phố, vị thầy tu đã trở về với cái bụng no nê. Anh ta đi thẳng về phòng và lên giường ngủ. Có thể nghe thấy tiếng ngáy từ phòng anh ta đến tận sáng hôm sau. Sáng hôm sau, đến lúc Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Phật Pháp cho mọi người, tất cả đệ tử đều có mặt, ngoại trừ vị thầy tu ham ngủ. Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi: “Tại sao người đệ tử ham ngủ kia không đến?” Một đệ tử nhanh chóng đứng lên trả lời: “Thưa Đức Phật, cậu ấy vẫn ngủ từ trưa hôm qua tới giờ. Chúng con không thể đánh thức cậu ấy bất kể chúng con cố gắng thế nào.” Phật Thích Ca Mâu Ni nhớ rằng vị thầy tu chỉ còn bảy ngày để sống. Nếu anh ta chết trong khi ngủ suốt thời gian, thì cái chết của anh ta sẽ mang tới bất hạnh cho anh ta. Phật Thích Ca Mâu Ni rất thương xót cho vị thầy tu. Ngài đã hướng dẫn đệ tử của Ngài tụng kinh và đi cùng A-nan tới thăm vị thầy tu trong phòng. Họ có thể nghe thấy tiếng ngáy như sấm trước khi đi tới phòng của vị thầy tu. Khi mở cửa phòng, họ chỉ nghe thấy tiếng ngáy to hơn. Vị thầy tu vẫn nằm ngủ say trên giường. A-nan đã gọi tên vị thầy tu trong vài phút, nhưng anh ta không trả lời và vẫn ngủ. Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi tới giường của vị thầy tu và nhẹ nhàng lay anh ta. Vị thầy tu lập tức tỉnh dậy. Nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni đứng trước và đang từ bi nhìn vào mình, vị thầy tu lập tức đứng dậy cúi lạy Phật Thích Ca Mâu Ni và nói: “Đức Phật tôn kính, xin tha thứ cho con vì thất lễ.” Phật Thích Ca Mâu Ni nói với anh ta: “Con chỉ còn bảy ngày để sống. Ta không thể chịu được khi thấy con chết trong khi ngủ quá nhiều và không đạt được Chính Quả. Ta tới đây để đánh thức con.” Vị thầy tu đã bị sốc. Anh ta chưa bao giờ biết rằng anh ta có thể chỉ còn sống được bảy ngày nữa. Anh ta sợ hãi và không biết phải làm gì. Phật Thích Ca Mâu Ni an ủi anh ta và nói: “Đó là duyên phận của con. Vài đời trước, khi con là một thầy tu, con đã đắm mình trong ăn ngủ và không bao giờ suy nghĩ về ý nghĩa của Pháp. Con đã không tuân thủ giới luật của Phật Pháp. Con đã không tích được chút phúc lành hay đức nào, bởi vậy con đã chuyển sinh thành một con mọt gạo trong 50.000 năm. Sau đó con đã chuyển sinh thành một con ốc sên, một con trai, và một con nhậy trong 50.000 năm cho mỗi loại.” “Trong những kiếp trước, con thích sống trong những nơi tối tăm không có ánh sáng, và con rất trân quý cơ thể và cuộc sống của con. Điều khác thường hơn là tất cả bốn sinh mệnh khác nhau của con đều thích ngủ và có thể ngủ trên 100 năm khi chúng ngủ. Con đã không cố gắng tinh tấn một tí nào. Sau 200.000 năm, cuối cùng con đã trả nợ được tội lỗi mà con đã phạm. Sau đó con đã chuyển sinh thành người và trở thành một thầy tu.” “Bây giờ con đã trở thành một thầy tu, con nên học và tu luyện tinh tấn để bù đắp lại thứ mà con đã mất trước kia. Ta không mong rằng con vẫn còn quá chấp trước vào ăn và ngủ giống như con trong 200.000 năm trước. Tại sao con luôn cảm thấy như là con ngủ không đủ? Đừng quên hậu quả mà con đã chịu đựng 200.000 năm trước đây.” Phật Thích Ca Mâu Ni ngừng nói. Vị thầy tu đỏ mặt vì hổ thẹn. Anh ta nhanh chóng hối lỗi với Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi anh ta tự phê bình bản thân và hối hận sâu sắc, tất cả những ý niệm tư tưởng nhiễu loạn của anh ta đã biến mất. Lúc cuối đời, anh ta đã đắc được quả vị La Hán. Một ngày chỉ có 24 giờ. Mọi người thường nói rằng thời gian trôi qua trong nháy mắt. Người trung bình ngủ tám tiếng một ngày. Những người ngủ nhiều có thể dành phần lớn thời gian của họ để ngủ và mơ và do vậy làm được rất ít việc trong một đời. Vài chục năm trôi qua rất nhanh trong thế giới con người. Bạn sẽ thực sự hối tiếc nếu bạn không kiên định nắm chặt thời cơ. Đôi khi bạn cảm thấy như cuộc sống quá dài, nhưng bạn không biết khi nào cái chết sẽ mang bạn đi. Lúc đó, bạn sẽ không làm được một việc tốt nào, không thực hiện được những nhiệm vụ mà bạn cần phải làm và sứ mệnh mà bạn cần phải hoàn thành. Tệ hại hơn, có thể bạn đã hoàn toàn không cố gắng để làm các việc. Không gì có thể giúp đỡ bạn được nữa, bất kể bạn cả thấy hối tiếc thế nào. Bạn có thực sự muốn trở thành một con sâu ngủ trong đời sau của bạn không? Vị thầy tu ngủ nhiều cuối cùng đã nhận ra rằng anh ta cần phải tận dụng thời gian còn lại và không được uể oải hay buồn ngủ. Người tu luyện nhấn mạnh vào dũng mãnh tinh tấn trong tu luyện Phật Pháp. Làm sao một người uể oải và buồn ngủ có thể tinh tấn như một mãnh sư? Người tu nên tận dụng từng phút, ngủ ít, và tu luyện nhiều hơn để thành công trong tu luyện.
  15. Văn hóa Thần truyền: Thấy lợi trọng nghĩa không nhặt của rơi Bài của Thanh Ngôn [MINH HUỆ 25-5-2007] Vào triều Minh có một tú tài tên là Hà Nhạc, thường gọi là Úy Trai. Có một ngày, Hà Nhạc ban đêm đi đường nhặt được 200 lạng bạc, trở về không dám nói với người nhà chuyện này, vì sợ người nhà khuyên giữ lại số bạc đó. Sáng sớm hôm sau, Hà Nhạc mang bạc tới chỗ đã nhặt được, trông thấy một người đang tìm kiếm, liền hỏi người ấy số lượng và dấu hiệu của số bạc đó. Kết quả đều phù hợp, Hà Nhạc liền lấy bạc trả lại cho người ấy. Người ấy muốn lấy một ít bạc tặng Hà Nhạc để tạ ơn, Hà Nhạc nói: “Tôi nhặt được bạc không ai biết, nếu muốn nói thì đều là của tôi. Những thứ ấy tôi đều không cần, làm sao tham tiền này được?“. Người mất của bái tạ rời đi. Hà Nhạc từng làm giáo thư trong một nhà hoạn quan. Một ngày, hoạn quan có chuyện phải vào kinh thành, gửi một cái rương tại chỗ Hà Nhạc, trong rương có mấy trăm lạng vàng, hoạn quan nói với Hà Nhạc: “Đợi đến ngày khác tôi lại đến lấy“. Bẵng đi mấy năm, vị hoạn quan vẫn bặt vô âm tín. Hà Nhạc sau khi nghe nói có một người cháu của vị hoạn quan kia đang đến, cũng không phải tới lấy cái rương, nhưng Hà Nhạc trọng nghĩa khinh lợi chủ động lấy cái rương đưa cho người cháu của vị hoạn quan, để cho người ấy mang trả lại cho hoạn quan. Thấy lợi trọng nghĩa là đạo lý và bổn phận làm người, trong giới tu luyện còn coi trọng việc đó hơn nữa. Đức và Nghiệp là hai loại vật chất tồn tại xung quanh thân thể con người, nếu một thứ gì đó không phải là của bản thân, nhưng lại dùng thủ đoạn bất chính hòng “có được” nó, ấy chính là dùng Đức quý giá của bản thân mà hoán đổi, lại còn có thể tạo ra nhiều Nghiệp lực. Cho nên thấy lợi vong nghĩa chính là những việc làm tổn
  16. Văn hóa truyền thống: Kẻ trộm cũng có Đạo Bài của Từ Hoa [MINH HUỆ 24-5-2007] Những năm Càn Long triều đại nhà Thanh, huyện Sùng Đức (xưa gọi là huyện Thạch Môn), tỉnh Chiết Giang, có một viên tri huyện là Chương Thanh, xuất thân là người đọc sách, học vấn uyên thâm, làm quan thanh liêm, thanh danh cực tốt trong dân chúng. Chương Thanh đến huyện Sùng Đức đảm nhiệm chỉ có mấy năm, huyện đã trở nên an bình trật tự, dân chúng an cư lạc nghiệp, đêm không cần khóa cửa. Lúc này, khắp huyện kế bên trộm án xảy ra liên tục, nhân tâm nhốn nháo. Bên trên có văn thư xuống, điều Chương Thanh sang huyện lân cận làm tri huyện, chỉnh đốn tình hình ở đó. Chương Thanh một mình đến huyện ấy nhậm chức, lập tức sử dụng các biện pháp nghiêm khắc kịp thời. Kể cũng lạ, từ khi Chương Thanh đến nhậm chức, đạo tặc liền im hơi lặng tiếng, không còn xảy ra vụ trộm nào nữa. Chương Thanh rất nhanh chóng chỉnh đốn cả huyện trở nên an bình hòa hợp. Mấy tháng sau, Chương Thanh đưa người nhà đến ở cùng. Ba năm nhậm chức đã qua, Chương Thanh cùng gia quyến lên thuyền trở về quê. Dân chúng tự nguyện tụ tập tại bến để tiễn Chương Thanh. Chương Thanh từ biệt mọi người, đột nhiên trước mắt chợt lóe lên một bóng người, đôi kính cận đang mang đã không cánh mà bay. Chương Thanh chấn động, suýt nữa ngã xuống sông, may mà phu thuyền nhanh tay giữ chặt. Kính mắt không cánh mà bay, khiến Chương Thanh nghĩ mãi không lý giải được, nói rằng bị trộm mất, thì đôi kính ấy không đáng tiền, trộm nó làm gì? Nói là đánh mất, sao lại không có chút cảm giác nào cả, ông không khỏi cứ mãi lắc đầu, cảm thấy hết sức kỳ quái. Cũng may trong hành lý vẫn còn cặp kính khác, chưa đến nỗi không còn nhìn được nữa. Vì vậy, ông phất tay, bảo phu thuyền bắt đầu đi. Buổi tối hôm đó, thuyền tạm dừng đỗ qua đêm tại một trấn nhỏ ở ranh giới của 2 huyện. Sáng sớm ngày hôm sau, Chương Thanh đột nhiên phát hiện 10 cái rương gỗ lớn đặt ở trong thuyền tất cả đều đã biến mất không còn dấu vết. Đó chính là toàn bộ gia sản, Chương Thanh không khỏi kinh hãi há miệng trợn mắt, “Bọn đạo tặc to gan lớn mật, ta chưa rời khỏi huyện, chúng đã liền nổi dậy hoành hành, còn trộm cắp ngay trên đầu ta, thật sự là ghê tởm! Như thế xem ra cặp kính bị mất hôm qua dám chắc cũng chính là bọn trộm này lấy mất”. Làm sao bây giờ? Chương Thanh suy nghĩ: “Đám đạo tặc này trộm được rồi, chắc hẳn đã xa chạy cao bay, biết bọn chúng ở đâu mà tìm, hỡi ôi, tự dằn lòng mà quên đi vậy“. Nghĩ thế, Chương Thanh thở dài, bảo nhà thuyền rời bến. Thuyền đi 3 ngày, rốt cục đã về đến quê hương của Chương Thanh một cách bình an. Chương Thanh nhìn phía xa xa, chỉ thấy trên bến chỉnh tề xếp đủ 10 cái rương lớn, nhìn qua thật là quen thuộc, trông giống như mấy cái rương mà mình đã bị đánh cắp. Chương Thanh cảm thấy mười phần kỳ quái, vội vàng cập bến, nhanh chân nhảy lên bờ chạy tới mà xem. Trời hỡi, quả nhiên là mấy cái rương của mình, thật là may mắn! Trên cái rương còn có một phong thư, chặn lên trên là cặp kính vốn đã không cánh mà bay lúc trước. Chương Thanh vừa mừng vừa sợ, lúc này mở phong thư ra, chỉ thấy trong thư nói rằng: Gửi Chương đại nhân: “Bọn tôi là một nhóm đạo tặc, vào thời ông nhậm chức, chúng tôi ái mộ thanh danh liêm khiết chính trực của ông, chưa bao giờ trộm cắp tại huyện mà ông cai quản. Nhưng là, lúc ông rời khỏi huyện có mang theo 10 chiếc rương gỗ rất lớn, không khỏi khiến chúng tôi hoài nghi không rõ ông có phải là vị thanh quan như thế hay không. Cho nên, bọn tôi đầu tiên lấy trộm đôi kính sau lại lấy trộm mấy cái rương gỗ, cũng là để cảnh báo cho ông thấy. Mở xem tất cả mấy cái rương gỗ, thấy tài sản của ông ngoài sách với sách ra, tất cả có chưa đến 32 ngân lượng. Mọi người thường nói: “Nhất Nhâm Thanh Tri Phủ, Thập Vạn Tuyết Hoa Ngân” (một viên tri phủ thanh liêm nhậm chức, cũng có được 10 vạn ngân lượng). Ông làm huyện lệnh nhiều năm, nhưng vẫn nghèo như không. Thấy rõ ông đích thực là một vị quan thanh liêm, bách tính đã không nhìn lầm ông. Bọn tôi lúc trước đã mạo phạm nhiều, thật sự xin lỗi, đặc biệt xin trả lại những vật đã lấy trộm trước kia, mong được Đại nhân bao dung tha thứ“. Nguyên lai là như thế! Chương Thanh trong lòng cảm thán, không khỏi lẩm bẩm: “Thật là! Thực sự là đạo tặc cũng có đạo!” Người thời cổ có tiêu chuẩn đạo đức rất cao, tin Trời tin Thần, tiêu chuẩn thiện ác phổ quát là từ nội tâm của con người. Người xấu làm việc xấu vẫn có một thước đo chuẩn mực cho riêng mình. Những việc có liên quan đến vấn đề lương tâm, hoặc đối với người Đại thiện cùng với thanh quan, những đạo tặc có lương tri đều không dám xâm phạm.
  17. Không thể đùa bỡn với Thần [MINHHUỆ 01-04-2007] Vương Thiên Khanh là người thành Kiến Xương (nay là Nam Thành, tỉnh Giang Tây), có đạo thuật huyền ảo phi thường. Ông có đồ đệ là Trịnh Mỗ, người ta thường gọi là Trịnh Đạo sỹ, theo Vương Thiên Khanh nhiều năm, học hỏi được “Ngũ lôi pháp”, có thể thỉnh mời Lôi Thần, gọi mưa hoặc trừ yêu. Mỗi lần đều là hễ cầu là được. Vào những năm đầu thời Thiệu Hưng dưới triều Tống Cao Tông, Trịnh Đạo sỹ đến huyện Lâm Xuyên. Có mấy vị khách tới thăm Trịnh Đạo sỹ. Bọn họ muốn được gặp Lôi Thần. Trịnh Đạo sỹ ban đầu cự tuyệt, nhưng họ nhất mực thỉnh cầu mãi, cuối cùng Trịnh Đạo sỹ từ chối không được, miễn cưỡng bằng lòng đáp ứng. Trịnh Đạo sỹ lần nào làm phép cũng thường giống nhau: niệm chú vẽ bùa, tay cầm bảo kiếm, lớn tiếng tuyên hô. Sau một hồi, thấy gió lạnh gào thét, sương mù che phủ, mưa giăng đầy trời, một vị Thần đầu đội mũ cao, tay cầm búa thần, tới trước mặt Trịnh Đạo sỹ, nói rằng: “Đệ tử là Lôi Thần, nghe lời Trịnh Pháp sư triệu gọi, đến đây nghe lệnh. Xin mời sai bảo!” Trịnh Đạo sỹ nói: “Bởi có mấy vị bằng hữu của ta muốn được gặp ông cho nên mới triệu ông tới, chứ không có chuyện gì cả”. Lôi Thần nghe Trịnh Đạo sỹ nói thế, rất là phẫn nộ, bảo ông ta: “Đệ tử mỗi lần được triệu gọi, đầu tiên phải bẩm báo Thiên Đế, được phê chuẩn rồi mới tới đây. Sau khi xong việc, trở lại Thiên Đình, lại phải hồi báo Thiên Đế. Hôm nay ngài triệu tôi tới chỉ để mua vui, ngài làm như thế, tôi biết bẩm báo với Thiên Đế thế nào đây? Tôi cầm búa sét trong tay, không thể đi mà không làm gì. Trịnh Pháp sư, ngài phải chịu nhận nhát búa này”. Lôi Thần lúc này giơ búa thần lên, nhắm đầu Trịnh Pháp sư bổ xuống. Mấy vị khách ở đó đều sợ hãi rụng rời, ngã xuống đất bất tỉnh. Một lát sau mọi người tỉnh lại, thì thấy Trịnh Đạo sỹ đã chết rồi. ( Chuyện này nằm trong sách “Di kiên bính chí”, quyển số 14). Khi viết ra câu chuyện này, tôi nhớ lại một cuộc nói chuyện với những người bạn của tôi, một người là lão Trần rất tin Thần, và người kia là lão Lưu không tin Thần. Họ là bạn tốt nhưng lại thích tranh cãi với nhau. Một lần lão Lưu nói: “Ông bảo là có Thần, thế ông gọi Thần đến đây cho tôi xem xem!”. Lão Trần trả lời: “Tôi mời Thần không đến, tôi mời ông tỉnh trưởng đến đây còn chẳng được nữa là. Nhưng mà quả thật là có ông tỉnh trưởng. Ông không nhìn thấy tỉnh trưởng, Chủ tịch nước, Tổng thống Mỹ; chung lại không thể nói rằng không có tỉnh trưởng, không có Chủ tịch nước, không có Tổng thống Mỹ đúng không? Ông không có gặp mấy vị đó, không có nghĩa là họ không tồn tại. Lại nói, Thần so với tỉnh trưởng, Chủ tịch nước, Tổng thống Mỹ, so với hết thảy thường nhân, đều cao hơn vô số lần. Chúng ta là thường nhân, lẽ nào có thể tùy tiện mời Thần xuống đây được sao?”.
  18. Văn hóa Thần truyền: Trực ngôn can gián – thản nhiên vô tư Bài viết của Trí Chân [MINH HUỆ 8-5-2007] Vào thời Xuân Thu, Yến Anh làm quan nước Tề. Vào năm thứ 3 đời vua Tề Trang Công, quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh chạy trốn đến nước Tề. Tề Trang Công thịnh tình khoản đãi ông ta, nói với quần thần: “Loan Doanh rất có tài, ta thiện đãi ông ấy, muốn ông ấy giúp ta thành tựu đại nghiệp”. Yến Anh và Loan Doanh trước đó đã gặp mặt nói chuyện với nhau, lúc này Yến Anh mới nói với Trang Công: “Loan Doanh là người xảo quyệt bất lương, hắn và thần từng nói chuyện với nhau nên thần hiểu rõ điều này. Thần thấy hắn đối với Chúa công thì dùng lời lẽ cực kỳ nịnh bợ, không câu nào là chân tình cả. Hắn cố ý làm như thế là bởi có dụng ý bất thiện, Chúa công cần phải đề phòng”. Trang Công không chịu nghe, đối với Loan Doanh vẫn tin yêu như trước. Loan Doanh tại nước Tề kết giao với các quan đại thần, tặng quà hối lộ khắp nơi, cực lực kết bè với nước Ba, nhiều người đều bị hắn lung lạc lôi kéo và nói tốt cho hắn. Yến Anh hết sức can gián Trang Công, thỉnh cầu vua hãy đề phòng Loan Doanh, cuối cùng Tề vương kiềm chế không được, mở miệng mắng to: “Ngươi chẳng biết tốt xấu, chẳng lẽ Loan Doanh với ngươi có thù oán hay sao, ngươi mỗi ngày đeo bám theo ta nói bậy về ông ấy, ta xem ra kẻ gian ác chính là người như ngươi đó!”. Yến Anh không kiêng sợ, nói: “Chúa công yêu thích lời ngon tiếng ngọt, Loan Doanh liền lợi dụng điều này. Nếu nói người như vậy là trung, thế thì ai là kẻ bất trung? Thần không thẹn với lương tâm, vì có lòng liêm sỉ nên không nịnh hót bợ đỡ, chỉ có kẻ gian ác mới không xem trọng liêm sỉ mà thôi”. Qua một năm, Loan Doanh làm nội gián cho nước Tấn chân tướng đã bại lộ, Trang Công không tự phản tỉnh, mà lại chỉ trích Yến Anh nói chuyện vô lý, phạm thượng. Năm Tề Trang Công thứ 6, Trang Công bị quyền thần là Thôi Trữ giết chết, không ai dám đi phúng điếu. Yến Anh bất kể an nguy, ôm thi thể Trang Công khóc lớn. Thôi Trữ nói với Yến Anh: “Chúa công đối với ngươi cũng không trọng dụng, ngươi vì sao mà khóc hắn?”. Yến Anh nghiêm mặt nói: “Trung thì không siểm nịnh, gian thì không nói Chân. Ta thân là bề tôi, đương nhiên tận trung, sao có thể chỉ biết trách người đã chết, không có đại nghĩa như thế được?”. Tả hữu hai bên Thôi Trữ muốn giết Yến Anh, Thôi Trữ đối với Yến Anh từ lâu cũng đã căm hận thấu xương rồi, nhưng lại nghĩ khác, quay ra nói với thủ hạ: “Hắn không sợ chết, giết hắn ích gì? Hắn được trăm họ ngưỡng vọng, thả hắn ra lại có thể thu phục được nhân tâm”. Thôi Trữ vì để củng cố quyền thế, thiết lập uy tín, bèn đưa toàn bộ văn võ bá quan trong triều đến trước miếu Thái Tông, phái hơn 1.000 binh mã trong ngoài vây chặt, bức bách bọn họ phải tuyên thệ phục tùng ông ta. Ai không phục tức thì bị xử tử. Đã giết chết 7 người, không khí mười phần khủng bố. Đến phiên Yến Anh. Mọi người nín thở, chỉ thấy Yến Anh ung dung giơ cao chén rượu, ngửa mặt lên trời bi phẫn mà than rằng: “Đáng hận thay! Thôi Trữ vô đạo giết quân vương. Phàm kẻ nào làm điều ác, trợ Trụ hành ác sẽ không được chết tử tế!”. Nói xong cạn chén. Thôi Trữ thẹn quá nổi khùng, hung hăng dùng kiếm chĩa thẳng vào ngực Yến Anh, muốn ông sợ mà phục tùng tuyên thệ. Yến Anh tuyệt không kiêng sợ, lớn tiếng trả lời: “Yến Anh ta quyết không khuất phục ngươi đâu!”. Thôi Trữ định xuống tay. Lúc đó, một thuộc hạ tâm phúc của ông ta mới can rằng: “Ngàn vạn lần không được! Ngài giết Trang Công là bởi vì hắn vô đạo, người dân trong nước không phản ứng gì nhiều, nhưng nếu Ngài giết Yến Anh, thì rất có thể sẽ phiền toái đó”. Thôi Trữ chẳng thể làm gì, tức giận đuổi Yến Anh đi. Tề Cảnh Công kế vị, Yến Anh thấy vua tin yêu Lương Khâu Cư, hoàn toàn tiếp nhận những lời siểm nịnh, bất giác trong lòng buồn phiền. Một ngày, Lương Khâu Cư lại mở miệng nịnh nọt Cảnh Công, Cảnh Công nói với chúng thần rằng Lương Khâu Cư và vua hết sức hòa hợp. Yến Anh bước ra nói: “Thần thấy chẳng hòa hợp. Lương Khâu Cư rõ ràng tự dưng tâng bốc Chúa công, toàn là vô căn vô cứ, đó chính là những lời siểm nịnh mà thôi. Ông ta có thể là “tương đồng” với Chúa công, nhưng không phải là “hòa hợp”, bệ hạ nghĩ kỹ xem có phải là như thế không?”. Cảnh Công bối rối, nói: “Điều này có gì phân biệt chứ?”. Yến Anh nói thẳng: “Đương nhiên không giống nhau. “Hòa hợp” thì giống như là nấu canh vậy. Dùng nước, lửa, giấm, tương, muối, mơ cùng các chủng loại khác lường tính gia giảm cho điều hòa, trộn đều, trước tiên dùng lửa mà nấu, loãng thì thêm cái, cạn thì thêm nước, như thế món ăn sẽ được thơm ngon đúng vị. Đạo quân thần cũng giống như thế, Chúa quân mà đúng, chúng thần cần phải cật lực ủng hộ. Chúa quân không đúng, chúng thần cần phải chỉ ra mà sửa. Như vậy, quốc gia mới có thể yên ổn, chính sự mới không bị tổn thất”. Cảnh Công nghe cảm thấy mù mịt, Yến Anh lập tức nói tiếp: “Lương Khâu Cư vì để mua vui cho Chúa công, bất kể đúng sai, thuận theo Chúa công hành sự xuất ngôn, trước sau hòng bảo trì sự nhất trí với Chúa công, đó là cố sức “tương đồng” hay là thực sự “hòa hợp” đây? Như thế đối với Chúa công đối với quốc gia có ích lợi gì đây? Vô cớ tâng bốc làm tăng thêm tâm kiêu ngạo của Chúa công. Nghe theo lời hắn như vậy, giống như canh đã loãng lại thêm nước vào, sẽ nhạt không ra vị gì nữa. Nếu cây đàn chỉ có mỗi một thanh âm, thì chẳng ai muốn nghe nó hát”. Cảnh Công nghe xong thì hiểu ra, không nhịn được buột miệng khen hay. Cảnh Công nói với chúng thần: “Lâu nay nghe nói Yến Anh dũng khí hơn người, một lòng trung nghĩa, hôm nay ta rốt cuộc đã được nhìn thấy. Ông ấy không sợ chọc ta nổi giận, dám nói điều mà người khác không dám nói, đó mới đích thực là trung thần chân chính”.
  19. Văn hoá Thần truyền: “tướng do tâm sinh” Bài của Nhược Thuỷ [MINH HUỆ 26-11-2009] Thành ngữ “tướng do tâm sinh” là có nội hàm của văn hoá Thần truyền, xuất hiện cả trong Phật gia và Đạo gia. Thông thường chữ tướng ở đây là để chỉ hình thức biểu hiện của sự vật, tức là cái hình tượng xuất hiện bề mặt của các sự vật mà người ta nhìn thấy trong cuộc sống thường ngày; mà biểu tượng ấy biến hoá đa đoan, thảy đều do nhân tâm khác nhau mà thành ra các trạng thái biểu hiện khác nhau. Phật gia giảng “tướng do tâm sinh”, chủ yếu là để chúng sinh hiểu rằng “khả kiến chi vật, thực vi phi vật” (vật có thể thấy kia, thực ra là ‘phi vật’), “vật sự giai không, thực vi tâm chướng, tục nhân chi tâm, xứ xứ giai ngục” (vạn sự vạn vật thảy là không, thấy là thực là vì cái chướng ngại trong tâm; cái tâm phàm tục ấy, đâu đâu cũng là giam ngục). Chữ tướng này là giả tướng, hư tướng, huyễn tướng, chứ không phải chân tướng; thế nên mới bảo người ta đừng chấp trước vào cái tướng này, kẻo bị vạn vật thế gian làm phiền luỵ; nếu từ đó mà siêu thoát ra được, thì ấy là đến bờ hạnh phúc bên kia rồi. Chữ tướng đang nói đến ở đây, thông thường là nói về diện tướng, cũng là nói về tướng mạo của toàn thể cá nhân ấy. “Tướng do tâm sinh” do vậy mà được hiểu là: người ta có tâm cảnh thế nào thì cái tướng mạo là thế ấy, người ta có tâm tư truy cầu gì thì có thể thông qua nét mặt tư thái mà nhận ra được. Trong «Tứ Khổ Toàn Thư» luận thuật rằng: “vị tướng nhân chi tướng, tiên thính nhân chi thanh, vị thính nhân chi thanh, tiên sát nhân chi hành, vị sát nhân chi hành, tiên khán nhân chi tâm” (đừng nhìn tướng mạo người, trước tiên hãy nghe thanh âm của người ta; đừng nghe thanh âm người, trước tiên hãy quan sát hành vi của người ta; đừng quan sát hành vi người, mà trước tiên hãy xét cái tâm của người ta). Âu cũng là nhấn mạnh rằng cái “tâm” quyết định cái “tướng” của con người; rằng biến hoá của diện tướng cũng là biến hoá của tâm biểu hiện ra bên ngoài. Cố sự Bùi Độ, Bùi Chương là một ví dụ rất tốt để minh hoạ. Bấy giờ là thời triều đại nhà Đường, Bùi Độ thuở nhỏ sống cảnh nghèo khổ cơ cực. Một hôm, trên đường gặp một vị Thiền Sư Nhất Hạnh. Đại Sư nhìn tướng mạo Bùi Độ, thấy ánh mắt láo liên, đường gân chạy vào chỗ miệng; ấy là tướng ăn xin đầu phố, đói khổ mà chết; vì vậy bèn khuyên Bùi Độ nên nỗ lực tu khổ hạnh. Mấy ngày sau, Bùi Độ nhặt được trên núi Hương Sơn một chiếc đai ngọc của nữ nhân và tìm trả cho người ta, nhờ thế mà cứu được tính mệnh cha mẹ cô gái ấy. Hôm sau lại gặp Thiền Sư Nhất Hạnh. Đại Sư coi mặt Bùi Độ mục quang trong sáng, thần thái đã khác hẳn. Ngạc nhiên quá, Đại Sư bèn hỏi chuyện, và sau khi nghe kể, ông cười lớn và nói: “tấm thân bẩy thước chẳng bằng khuôn mặt bẩy tấc; khuôn mặt bẩy tấc chẳng bằng cái mũi ba tấc; cái mũi ba tấc chẳng bằng một khối tâm”. Thiền Sư bèn khuyến khích Bùi Độ hành Thiện. Quả nhiên Bùi Độ sau làm trọng thần của bốn đời vua Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, và Đường Văn Tông, là “danh tướng toàn tài”, đương thời đã thành danh “huân cao trung nguyên, vang danh biên ngoại”. Trong sử sách nhìn nhận ông là “đức độ thuỷ chung suốt bốn đời vua”, “uy danh đức độ của ông sánh với Quách Phần Dương”. Bùi Độ có năm người con, đều có danh tiếng rạng rỡ, bản lãnh hơn người. Bùi Chương là người Giang Đông tỉnh Sơn Tây. Cha mẹ của Bùi Chương có quan hệ rất thân với thần tăng Đàm Chiếu Pháp Sư. Pháp Sư giỏi về thuật tướng số, ông coi tướng Bùi Chương, thấy thiên đình bạo mãn, địa các phương viên (đỉnh trán và cằm đầy đặn phúc hậu), là tướng tương lai làm nên sự nghiệp danh giá, nhất định thành tựu. Khi hai mươi tuổi, Bùi Chương cưới Lý Thị làm vợ. Một năm sau đó anh đến Thái Nguyên làm quan, vợ con phải để lại ở nhà. Mấy năm sau Bùi Chương trở về gặp Đàm Chiếu Pháp Sư, thì Pháp Sư rất ngạc nhiên thấy tướng mạo của anh đổi khác hẳn: thiên đình lép kẹp, cằm nhọn, lòng bàn tay có hắc khí xoay chuyển. Pháp Sư bèn bảo rằng anh ta e rằng sẽ gặp hoạ, phải cẩn thận; rồi gạn hỏi xem anh có làm gì thất đức không. Bùi Chương suy xét rồi kể rằng mấy năm ở Thái Nguyên chỉ phạm mỗi việc thông dâm với dân nữ là trái với luân lý mà thôi, chứ không làm gì bất lương cả. Đàm Chiếu Pháp Sư thở dài thườn thượt nói: “Vốn dĩ cậu có tương lai tốt đẹp, sao chẳng biết trân quý? Tư thông với vợ người ta, cậu đã huỷ hết phúc đức của mình rồi. Thật quá là đáng tiếc!” Dần dần về sau Bùi Chương thật sự gặp đại hoạ. Một lần, khi đang tắm thì bị hành thích, một đao trúng bụng, gan ruột phòi ra bỏ mạng. Thời cổ có câu: “hữu tâm vô tướng, tướng do tâm sinh; hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt” (có tâm thì dẫu vô tướng, tướng cũng sẽ do tâm mà sinh; có tướng mà tâm vô, thì tướng ấy cũng tuỳ tâm mà tiêu mất); ấy là ý bảo rằng: hình tướng một cá nhân là tuỳ theo tâm niệm thiện-ác của cá nhân ấy mà biến hoá theo. Kỳ thực, từ Trung Y cổ đại cũng như sinh lý học và tâm lý học hiện đại là có thể thấy rằng đạo lý “tướng do tâm sinh” cũng giản đơn thôi. Cái tướng mạo của người ta là do ‘hình’ và ‘thần’ hợp lại mà thành. Hình tướng thuần thục sinh lý thuận chính; thần thái cũng là bao quát nhân tố sinh lý; cũng phụ thuộc vào sự tu chỉnh của hậu thiên nữa. Nhất cử nhất động từng ý từng niệm trong sinh hoạt, qua thời gian thì dần dần cũng củng cố ra trên khuôn mặt, nghĩa là “hữu chư nội tất hình chư ngoại” (có gì bên trong ắt xuất hình bên ngoài). Tâm niệm nảy sinh, cũng sẽ tác dụng lên thân thể; nếu như tâm niệm an hoà tĩnh tại, thần thanh khí sảng, cái nhìn rộng mở, lỗi lạc quang minh, thì sẽ khiến khí huyết hài hoà, ngũ tạng an định, công năng chính thường, thân thể khoẻ mạnh, ắt sẽ thể hiện ra mặt mũi sáng sủa, thần thái bay bổng; ai gặp mặt cũng cảm thấy thoải mái, cảm thấy thân thiện an hoà một cách tự nhiên. Có thể nhìn nhận quan hệ giữa tướng và tâm như thế này: “tướng” là bề mặt, là biểu hiện bên ngoài; “tâm” là bên trong, là hoạt động bên trong; “tướng” là hư cấu bất thực, ở trạng thái bị động, là phản ánh ra ngoài của “tâm”; “tâm” thế nào thì “tướng” thế nấy; “tướng” là tuỳ theo “tâm” biến hoá mà biến hoá theo, cũng gọi là “cảnh tuỳ tâm chuyển”, “tướng tuỳ tâm thiên” (cảnh thay đổi theo tâm, tướng thiên di theo tâm). Cũng có thể coi “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của “tâm” (theo quan hệ nhân-quả). Nếu bản thân một cá nhân không làm chủ tể nổi tâm của chính mình, thì bị sẽ bị động theo ảnh hưởng và lôi kéo của hoàn cảnh bên ngoài, chính đã là “tâm tuỳ cảnh thiên” (tâm chạy theo cảnh) rồi. Nếu có thể làm được bất động tâm, thế thì, chính là đã chế ước được ngoại cảnh không cho phát sinh biến hoá; cho nên, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng: “Thế gian vạn vật giai thị hoá tướng, tâm bất động, vạn vật giai bất động, tâm bất động, vạn vật giai bất biến” (Vạn vật thế gian đều cái tướng được biến hoá ra, tâm bất động, vạn vật sẽ đều bất đông, tâm bất động, vạn vật sẽ đều bất biến). Vì vậy mới có thể nói, dẫu hoàn cảnh có hiển tướng thế nào đi nữa, thì đều là “tâm” mình quyết định; “tướng” là bóng ảnh bên này của “tâm”. Làm người thì nên có tâm cảnh thế nào? Tuân Tử viết: “tướng hình bất như tướng tâm, luận tâm bất như luận đức”. Cuốn «Thái Thanh Thần Giám» —cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất trong thuật xem tướng thời xưa— có luận về đức thế này: “vi đức chi tiên, vi hành chi biểu” (lấy đức làm đầu, lấy hành vi làm biểu đạt), “đức tại hình tiên, hình cư đức hậu” (đức có trước hình, hình ở sau đức), “khứ nghiệp tùng Thiện, tiêu tai tỵ hung” (trừ nghiệp hành thiện, tiêu tai giải nạn). Nếu trong tâm luôn giữ Chân-Thiện-Nhẫn, thật sự án chiếu theo Chân-Thiện-Nhẫn mọi lúc khi làm bất kể việc gì, thì sẽ mang theo quanh mình ảnh hưởng của “Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh”. Thưa các bạn, các bạn đã đặt công phu vào việc chăm chút từng tâm niệm của mình chưa?
  20. Văn hóa Thần truyền: Cao Đào “Cửu Đức” [MINHHUỆ 31-5-2009] Khổng Tử nói: “Thuấn hữu thiên hạ, tuyển vu chúng, cử Cao Đào, bất nhân giả viễn hĩ” (Luận ngữ – Đằng Văn Công thượng, phần I). Tạm dịch nghĩa: “Vua Thuấn có được thiên hạ, liền tuyển chọn hiền tài, chọn được Cao Đào, và những kẻ xấu đều lánh xa”. Theo sử sách, Cao Đào là quan trông coi hệ thống Tư pháp thời vua Thuấn, chấp pháp nghiêm cẩn mà công chính, thiên hạ không có ai bị xử oan. Ông chú trọng giáo hóa, chế tác lễ nhạc. Cao Đào là người thành Cao Thành (nay là thành phố Lục An, tỉnh An Huy). Ông quản lý tư pháp, cùng với các vị vua Nghiêu, Thuấn, Vũ được xưng tụng là “Thượng cổ tứ Thánh” (“Bốn vị Thánh thời thượng cổ của Trung Quốc”). Cao Đào cho rằng Thiên Thượng tạo ra vạn vật vốn dĩ có chứa đựng đặc tính mỹ hảo kỳ diệu, vì vậy tuân theo thiên ý, bảo trì đức tính mỹ hảo ấy chính là trách nhiệm thần thánh của con người. Ông còn đề xuất “Thiên mệnh hữu đức”, “Thiên thảo hữu tội”, chuẩn mực “Thánh nhân cửu đức” ( nghĩa là “Trời trao sứ mạng cho người có đức”, “Trời diệt kẻ có tội”, chuẩn mực “9 Đức tính của Thánh nhân”). Cao Đào đề xuất “Cửu Đức” như thế này: “Khoan nhi lật (khoan dung đại lượng nhưng cũng nghiêm túc cung kính), nhu nhi lập (tính tình ôn hòa nhưng lại có chủ kiến), nguyện nhi cung (cẩn thận tỉ mỉ nhưng cũng trang trọng nghiêm túc), loạn nhi kính (có tài trị quốc nhưng cũng thận trọng), nhiễu nhi nghị (giỏi lắng nghe ý kiến của người khác nhưng cũng cương nghị quyết đoán), trực nhi ôn (hành vi chính trực nhưng thái độ ôn hòa), giản nhi liêm (khoáng đạt giản dị nhưng cũng chú trọng cả những việc nhỏ), cương nhi tắc (cương trực nhưng cũng vẹn toàn), cường nhi nghĩa (kiên cường dũng cảm nhưng cũng phù hợp đạo nghĩa)”. Cao Đào cũng đề xuất “Thận thân”, “Tri nhân”, “An dân” làm phương sách để trị quốc. “Thận thân” nghĩa là phải tự nghiêm khắc yêu cầu chính mình, lấy bản thân làm gương, khiến dân chúng kính phục noi theo. Bề trên lệnh cho kẻ dưới, mà bề trên bản thân lại bất chính, thì dân chúng không trọng Đạo lý, có Luật nhưng không phục tùng. “Tri nhân” nghĩa là chọn lấy người có đức có tài, biết mưu cầu lợi ích cho dân. “An dân” ý là: chỉ khi người dân có cuộc sống yên ổn mới thể hiện được Uy đức của bậc Đế vương.
  21. Văn hóa Thần truyền: Tích đức tạo phúc, hành ác tạo nghiệp Bài viết của Thanh Ngôn [MINH HUỆ 02-04-2007] Vào triều Minh, ở vùng Sở Trung có một thư sinh. Anh tâm địa chính trực, lại bẩm sinh có năng lực siêu nhiên là đi về qua lại giữa dương gian và địa phủ. Anh phát hiện rằng người trên thế gian nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” quả nhiên là hết sức đúng đắn. Một lần xuống địa phủ, anh thấy một quyển Ký lục ghi chép toàn bộ những việc thiện ác mà mỗi người trên thế gian đã làm, và phát hiện người trên nhân thế căn cứ theo nghiệp tích ít hay nhiều, thì hoặc là được phúc báo, hoặc là chịu trừng phạt. Anh ta cảm thấy thương xót cho những kẻ đang phải chịu hình phạt leo lên ngọn núi bằng đao kiếm, muốn cứu họ, nhưng họ đều không chịu để anh giúp, mà còn cố leo nhanh hơn. Hoàn toàn chẳng có cách nào cứu được họ. “Tạo nghiệp” mà những cụ già Trung Quốc thường nói đến đối ứng với “tích đức”, cho biết một sự thật là làm việc tốt thì tích đức và sẽ được phúc báo, còn làm việc xấu thì tạo nghiệp và sẽ phải chịu trừng phạt. “Đức” cùng với “nghiệp” đều là vật chất tồn tại thật sự, những ai có công năng hoặc người trong giới tu luyện xưa nay đều có thể chứng thực được điều này. Một ngày nọ, người thư sinh phát hiện trong quyển Ký lục ấy ghi lại việc thê tử của anh đã phạm tội trộm một con gà của hàng xóm, con gà ấy tính cả lông thì cân nặng 1 cân 12 lượng, anh ta bèn gấp trang sách đó lại để đánh dấu. Khi trở lại dương gian, người thư sinh trách hỏi vợ, nhưng người vợ nhất nhất phủ định chuyện này. Người thư sinh vì vậy bèn kể lại hết thảy sự việc tại địa phủ mà anh đã thấy, lúc đó người vợ mới chịu nói thật. Nguyên là con gà hàng xóm đã chạy sang ăn lúa mà cô đang phơi nắng, trong lúc cô đuổi con gà lỡ tay đánh chết nó. Vì sợ hàng xóm sẽ trách mắng, cô bèn đem con gà giấu đi, không kể với ai. Hai vợ chồng đồng thời giật mình kinh ngạc vì quyển sách địa phủ lại có ghi về cả việc ấy. Họ vội vàng tìm con gà đem cân, quả nhiên chính xác 1 cân 12 lượng, không sai chút nào. Hai vợ chồng nhanh chóng bồi thường và xin lỗi hàng xóm. Vài ngày sau, người thư sinh lại đến địa phủ kiểm tra lại quyển sổ ấy. Anh thấy trang sách mà mình đã gấp đánh dấu vẫn còn, chỉ có đoạn ghi chép tội trạng là đã biến mất không còn dấu vết. Thế mới thấy, đích thực là “Thần mục như điện, báo ứng bất sảng” (“Mắt thần như điện, báo ứng chẳng sai”)! Cho nên làm người thì cần tránh làm việc xấu ác tạo nghiệp, nếu không thì nhân quả báo ứng nghĩa là đã làm hại chính bản thân mình. Câu chuyện đó cũng cho thấy một đạo lý, nếu quả thật chúng ta đã phạm điều sai, chỉ cần sửa chữa những lỗi lầm của mình chúng ta sẽ có cơ hội tránh khỏi quả báo. Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào lựa chọn của chúng ta.