-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Trắc nghiệm hay Bạn Rin86 còn bài nào nữa không?
-
Nguyễn Sinh Hùng đăng đàn nói về kinh tế Việt Nam Theo VNN, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhận định về tương lai kinh tế Việt Nam “Phó Thủ tướng phấn khởi: "Thu nhập bình quân đầu người hiện nay 1.200 USD, nhưng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương lai thì đến 2020 sẽ là 3.000 USD, và lần lượt tăng 6.000, lên 12.000 và sẽ đạt 20.000 năm 2050". Chúng ta cứ giả định là con số thu nhập bình quân đầu người hiện nay là 1200 USD mặc dù theo ước tính của cả WB, IMF và CIA thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam đều chỉ khoảng 1060 USD trở xuống. Nhưng cứ giả định là con số của ta tốt hơn của Mỹ, tức là GDP bình quân đầu người hiện nay là 1.200 USD, chúng ta thử tính xem tới năm 2020 liệu con số này có lên tới 3000 USD không? Có thể tính tốc độ tăng GDP đầu người bằng cách lấy tốc độ tăng trưởng bình quân trừ đi tốc độ tăng dân số. Trong năm 2005, tốc độ tăng dân số của Việt Nam là 1,35%. Giả sử rằng trong 10 năm tới, dân số Việt Nam tăng ổn định ở mức 1% mỗi năm thì tốc độ tăng trưởng GDP cần phải bao nhiêu để đạt tới mức thu nhập bình quân đầu người 3000 USD trong 10 năm tới. Gọi tăng trưởng GDP là g ta sẽ có công thức: 1200*(1+g-0.01)^10=3000. Không khó có thể tính ra g=0.106 hay 10,6%. Như vậy chúng ta sẽ phải duy trì tốc độ tăng trưởng GDP thường xuyên liên tục ở mức 10,6% trong 10 năm tới mới có thể đạt được điều này. Không biết ông Hùng dựa vào đâu để tin là Việt Nam có thể lập được kỳ tích này khi trong quá khứ, chưa có năm nào Việt Nam đạt tăng trưởng 2 chữ số cả và tăng trưởng GDP trung bình trong 9 năm qua cũng chỉ vào khoảng 7,2%. Trên thế giới cực kỳ hiếm nước nào có thể đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 2 chữ số trong suốt 1 thập niên. Thành tích thần kỳ như Trung Quốc trong thập niên 1990 cũng chỉ đạt 9,5% một năm. Cũng lưu ý là cách tính này được áp dụng với mức giá không đổi, tức là tăng trưởng GDP thực tế chứ không phải tăng trưởng GDP danh nghĩa. Bởi nếu tính theo tăng trưởng GDP danh nghĩa thì sẽ phụ thuộc rất nhiều vào biến động của đồng USD trên thị trường. Lấy một ví dụ không có thực là nếu sang năm 2011, Chính phủ quyết định nâng giá đồng VN lên 10 lần so với đồng USD thì lúc đó GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ tăng đạt luôn $12000 mà chẳng cần phải làm gì, hehe. Nhưng rõ ràng đó không phải ý của Phó Thủ tướng mà ở đây, ông muốn nói tới $3000 trong năm 2020 là $3000 theo thời giá hiện nay. Chính sự phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái danh nghĩa này cũng là lý do ngày nay người ta không hay dùng GDP theo tỷ giá chính thức mà dùng theo ngang giá sức mua (PPP). Nếu tính theo ngang giá sức mua thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện ở mức 2700-2900 USD. Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân Trả lời câu hỏi của Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết [ông Thuyết kỳ này được hỏi nhiều nhỉ- ông này có lẽ là đại biểu có trình độ và có các câu hỏi sát và sắc nhất trong Quốc hội hiện nay], Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho biết: “So với năm 2006, đến nay (2010), lương giáo viên đã tăng gấp 2,1 lần, vào khoảng 2,5 - 4 triệu đồng/tháng, cao hơn so với các ngành khác". Không phải quá khó để kiểm định câu nói này của ông Nhân được đưa ra để chứng minh cho thành công của ông trong thời gian ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Câu này có hai mệnh đề, thứ nhất là lương giáo viên tăng gấp 2,1 lần và thứ hai là lương giáo viên cao hơn so với các ngành khác. Còn có một cách hiểu trong mệnh đề thứ 2 là mức tăng lương giáo viên cao hơn các ngành khác nhưng có vẻ như ông Nhân muốn nói theo cách hiểu thứ nhất vì mệnh đề “cao hơn các ngành khác” được đưa ra sau khi ông nêu ra mức lương giáo viên hiện nay "vào khoảng 2,5-4 triệu đồng/tháng". Ở đây có vấn đề không nhỏ là tại sao ông Nhân lại đưa ra một khoảng quá rộng như vậy, thay vì nêu ra mức lương trung bình của giáo viên. Chúng ta thử kiểm định hai mệnh đề trên. Ở mệnh đề thứ nhất, vì hiện nay mới là giữa năm 2010 nên TCTK chưa có số liệu về năm 2010 mà chỉ có số liệu về năm 2009. Theo số liệu của TCTK thì tiền lương trong giai đoạn 2006-2009 của một số ngành như sau: Bảng sau là Thu nhập trung bình hàng tháng của lao động ở khu vực Nhà nước được lấy từ Niên giám thống kê tóm tắt 2009 của TCTK. Cột 2 và 3 là thu nhập các ngành trong hai năm 2006 và 2009. Cột 4 là mức tăng trong 4 năm này. Cột 5 là mức tăng thực tế sau khi trừ đi lạm phát. Lạm phát được tính bằng cách tính dồn chỉ số CPI các năm 2007, 2008 và 2009 do năm 2006 được chọn làm mốc. Tính trung bình, giá cả năm 2009 sẽ cao hơn 42,3% so với năm 2006. Sau khi trừ đi lạm phát thì mức thu nhập trung bình toàn xã hội trong năm 2009 tăng 12% so với năm 2006, còn ngành giáo dục tăng 18,2%. Do hầu hết người lao động trong ngành giáo dục đều thuộc khu vực Nhà nước nên con số này sẽ phản ánh thu nhập hàng tháng của người lao động trong ngành giáo dục. http://img199.imageshack.us/img199/7965/statinl.jpg So sánh kết quả này với phát biểu của ông Nhân, có thể thấy hai điều: - Thứ nhất, thu nhập danh nghĩa (chứ không chỉ lương) của ngành giáo dục trong năm 2009 chỉ tăng 68% so với năm 2006. Sau khi loại trừ yếu tố lạm phát thì thu nhập này chỉ tăng 18,2%, thấp hơn nhiều con số tăng 2,1 lần mà ông Nhân đưa ra. Nếu kể cả năm 2010 thì thu nhập của người làm giáo dục cũng chỉ tăng chừng 25% là cùng. - Thứ hai, thu nhập người làm trong ngành giáo dục tuy được nâng lên và có tốc độ cao hơn tốc độ tăng của đa số các ngành khác nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình của tất cả các ngành. Tiền lương trung bình của ngành giáo dục năm 2009 là 2.7 triệu trong khi trung bình của tất cả các ngành là 3,1 triệu. Như vậy mệnh đề “cao hơn so với các ngành khác” của ông Nhân là không chính xác. Có thể phát biểu của ông Nhân căn cứ vào số liệu chi trả lương của Bộ giáo dục. Thật tiếc là hiện nay những số liệu này chưa được công khai và thuận tiện cho tiếp cận nên khó kiểm định. Nhưng theo số liệu của TCTK thì rõ ràng phát biểu của ông Nhân không thể đúng, nếu không nói là rất sai.
-
Bạn nên mua cái la bàn và xác định hướng cửa nhà là bao nhiêu độ, thì mới có thông tin để trả lời cho bạn ths
-
56,000,000,000 USD là số tiền Việt Nam dự định đi vay để làm tuyến đường tàu hỏa cao tốc Bắc Nam [1]. Số tiền này: = 1,435 tấn vàng (một ngàn bốn trăm ba mươi lăm tấn vàng): là số vàng 56 tỉ USD có thể mua được, tỉ giá vàng thế giới ngày 29 tháng 5 năm 2010 là 39,024 USD/kg vàng [2]. Số vàng này nặng bằng 23,916 nam thanh niên VN 60 kg. = 52,830,188 năm: là số năm mà một người VN phải làm việc để trả đủ 56 tỉ USD, không ăn uống và mỗi năm kiếm được 1.060USD [3], hay tương đương 1,320,754 người khỏe mạnh làm việc suốt đời (40 năm). Nếu tính bằng tờ tiền 100 USD [4], 56 tỉ USD: = 560 tấn: là khối lượng cân được (1 triệu đô nặng đúng 10 kg), nặng bằng 11,200 cô gái VN 50kg. = 717m3: là thể tích của 56 tỉ USD, chiếm bằng 2 căn nhà rộng 70m2 và cao 5m. = 87,335km: nếu nối các tờ tiền theo chiều dài (100USD dài 15.6cm), hơn gấp đôi chu vi trái đất là 40,000km. = 37,124km: nếu nối các tờ tiền theo chiều rộng (100USD rộng 6.6cm). = 69.4km: nếu chồng các tờ tiền lên nhau (100USD dày 124 micron). = 5.8km2: nếu xếp các tờ tiền cạnh nhau (= 580 héc ta ruộng). http://doroteos2.files.wordpress.com/2009/...le-of-money.png 56 tỉ USD mua được: = 168 tàu ngầm Kilo lỗ đen của Nga (VN đã đặt mua 6 chiếc = 1.8 tỉ USD [5]). = 373 máy bay tàng hình F22 tối tân nhất của Mỹ (150 triệu USD/chiếc [6]). = 10,980 máy bay riêng của ông Ðoàn Nguyên Ðức, chủ Hoàng Anh Gia Lai (loại Beechcraft King Air 350, giá mua 5.1 triệu USD [7]) = 166 máy bay Airbus 380, loại lớn nhất thế giới và có thể chở tới 853 khách (337.5 triệu USD/chiếc [8]) = 3,636 trực thăng Apache AH-64 (15.4 triệu USD/chiếc [9]). Nếu vay 56 tỉ USD, mỗi người VN, từ trẻ mới sinh ra cho tới già yếu sắp chết (tổng cộng 86 triệu người [3]), sẽ tự nhiên bị nợ nước ngoài 651 USD. Số tiền này: = 12,375,510 đồng (theo tỉ giá trên VNexpress ngày 30 tháng 5 năm 2010, 1USD = 19,010 đồng). = 4.5 chỉ vàng SJC (theo giá vàng trên VNexpress ngày 30 tháng 5 năm 2010, chỉ mua vào = 2,765,000 đồng). Xin lưu ý là tuy đã mang nợ 4.5 chỉ vàng (4 chỉ rưỡi), bạn vẫn phải trả tiền vé tương đương 80% vé máy bay để được leo lên tàu [10].
-
Sư phụ ơi, cho phép đệ tử nhận xét vụ này là có lẽ chủ nhà lại đi nhờ thêm người khác tư vấn rồi và xây cái WC chỗ đó ( chắc là phong thủy tàu)
-
Đại biểu Trần Tiến Cảnh (Hà Nam) cao hứng kết luận, đường sắt cao tốc là giấc mơ đẹp của người dân cả nước, là cơ hội thay đổi cả bộ mặt nền kinh tế, “không thông qua là… IQ thấp”. nguồn: dantri.com.vn Theo thông tin trên, thì mình là ngưới có IQ thấp rùi, vì phản đối kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc mà. :(
-
Cá bác bấm quẻ thì hay, nhưng tôi lại lo là có bạn nào đấy, căn cứ vào thông tin này mà đi cá độ bóng đá thì nguy :(
-
Vị nữ anh hùng thời kỳ đổi mới có công góp sức xây dựng Nông trường Sông Hậu và có vi phạm về quản lý kinh tế, xét kỹ thì công nhiều hơn tội. Cái chính là vị nữ này và UBND tỉnh Cần thơ có mâu thuẫn ở chỗ sử dụng đất đai của nông trường, vì Cần thơ lên thành phố thì có nhu cầu mở rộng đất, mà đất nông trường thì quá rộng và vị anh hùng thì bảo vệ (hay bảo thủ ?) cho rằng đất nông trường nên giữ nguyên. Có lẽ đến tháng 10/2010 đại hội tỉnh đảng bộ Cần thơ bầu người mới, vị lãnh đạo mới này sẽ có tư duy mới, thì có thể vị nữ anh hùng thoát nạn.
-
CHUYỆN YỂU MỆNH CỦA NHÀ MẠC, NHÀ HỒ VÀ GIẢ THUYẾT CHỌN SAI ĐẤT ĐỊNH ĐÔ. Đời nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy. Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp một phần vào đó. LTS: Gần đây nhiều nhà kiến trúc, phong thủy và lịch sử đã lên tiếng kiến giải sự yểu mệnh của một vài triều đại trong lịch sử Việt Nam liên quan đến yếu tố chọn đất xây thành. Có ý kiến cho rằng thế “rồng cuộn, hổ chầu” trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ bị hiểu sai hoặc vận dụng không đúng dẫn tới chuyện cả vương triều đặt trên vùng Âm trạch (tức là đất tốt để làm việc âm), thay vì Dương trạch. Phóng viên đã về tận Cao Bằng, Lạng Sơn và Thanh Hóa, tìm đến các di tích và vùng đất cổ, gặp gỡ những nhân chứng và các nhà phong thủy, lịch sử để tìm kiếm những giả thuyết khả dĩ giải mã sự yểu mệnh của nhà Hồ và nhà Mạc. Từ thành phố Thanh Hóa, đi về phía tây khoảng hơn 50 km, qua ngã ba Kim Tân thêm chừng 1 km nữa, sẽ thấy nơi cuối con đường hiện sừng sững một cổng thành đá ba vòm uốn cong, dưới chân tường cỏ phủ xanh. Đó là cổng chính của một tòa thành cổ, ra đời từ cách đây đã hơn 600 năm: Tây Đô, hay như chúng ta thời nay gọi “thành nhà Hồ”. Vào những ngày này, Ban Quản lý di tích và thành phố Thanh Hóa đang trong quá trình chờ UNESCO xét duyệt hồ sơ công nhận thành nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới, nếu không có gì thay đổi thì năm 2011 sẽ có kết quả. Xét về phương diện kiến trúc, công trình khá độc đáo, theo nhận định của ban quản lý thì “cả khu vực Đông Nam Á không có ngôi thành nào thế này”. Độc đáo bởi lẽ toàn bộ thành xây bằng đá; những tảng đá lớn nặng 2-3 tấn, có khối nặng tới 20 tấn, được xếp vào nhau cực kỳ khít khao, bằng phẳng mà không hề dùng vữa. Tổng diện tích bề mặt đá đo được (mặt ngoài, chưa tính phần lõi) là hơn 10 triệu m2. Người đời nay tới thăm thành có thể kinh ngạc, không hiểu làm cách nào mà thời Hồ (cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15), phu xây thành lại có thể di chuyển những khối đá lớn như thế để xây nên những bức tường có chiều cao trung bình 5-6 m, cổng mái vòm gần 10 m. Đó là chưa kể các tảng đá đều được mài nhẵn, vuông vức, xếp rất khít vào nhau. Nhà nghiên cứu người Pháp L.Bezacier từng nhận xét vào đầu thế kỷ 20: “Ngôi thành này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình...”. Vì lý do này, Tây Đô còn có được gọi là “thạch thành”, nghĩa là thành đá. Ảnh trên: Địa thế thành nhà Hồ (Google maps). Trải qua sáu thế kỷ, một số bức tường đã bị sạt lở, song bốn cổng thành vẫn còn nguyên, trong đó chỉ riêng cổng Nam (cổng chính, mặt tiền) là có ba vòm, các cổng Bắc, Đông, Tây đều “đơn môn” (một cửa). Chiều dài từ cổng Bắc tới cổng Nam là 880 m, Đông sang Tây 877 m, tức là tổng diện tích nội thành gần 1 km2 . Các kiến trúc khác mà sử sách có ghi lại như La Thành (vòng thành ngoài cùng), điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, v.v… đều không còn nữa, chỉ để lại dấu tích. Tây Đô độc đáo còn vì đây là ngôi thành đã chứng kiến bảy năm tồn tại của nhà Hồ - một triều đại yểu mệnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông vua nổi tiếng của triều đại này - Hồ Quý Ly - được ghi nhận như là một nhà cải cách đầy tham vọng, đã dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, xây một ngôi “thạch thành” kiên cố đủ cả tường cao, hào sâu, trên vùng đất mà chính ông nhận xét là “long xà ẩm thủy”, “rồng chầu rắn cuộn”. Vậy mà khi quân Minh kéo sang, vua quan Hồ Quý Ly thua chạy dài, thành Hồ chưa (kịp) bị tấn công ngày nào đã thất thủ. “Thế đất xung quanh còn non lắm” Theo giới nghiên cứu thì Hồ Quý Ly đã có sự tính toán, chuẩn bị rất kỹ cho việc chọn đất xây thành, ít nhất là về mặt phong thủy. Thời đó, khu đất xây thành được bao quanh bởi cả sông và núi: Từ cổng Tây đi ra có dòng sông Mã. Phía Đông có dòng sông Bưởi. Phía Bắc gối đầu vào núi Thổ Tượng, còn gọi là núi Voi. Cổng chính mở ra hướng Nam, tiến thẳng về Đún Sơn (tức núi Đún theo tiếng địa phương), là nơi đặt đàn tế Nam Giao - một trong bốn đàn tế xã tắc còn lại ở Việt Nam đến ngày nay. Hồ Quý Ly rất tâm đắc với mảnh đất này, cho là đắc địa, có thể xây nền đế nghiệp lâu dài, bởi sông Mã lớn như con rồng chầu phía tây, sông Bưởi nhỏ hơn uốn lượn như con rắn cuộn phía đông. Hai bên là sông, trước mặt sau lưng là núi, thế vững như vậy, đây hẳn là “mảnh đất long xà ẩm thủy, có thể ở được lục thập niên ký” (tức là trên dưới 60 năm). Cổng Nam thành nhà Hồ, xây từ 1397. Ảnh: Đoan Trang Tiếc thay, không được như mong đợi của Hồ Quý Ly, nhà Hồ chỉ thọ được thất niên. Dân gian có vài giai thoại đồn rằng thảm bại của họ Hồ xuất phát từ sai lầm trong phong thủy xây thành. Giai thoại thứ nhất kể Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết đã dâng thư can nhưng Quý Ly không nghe. Thư viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ (…). Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị”. (Theo giải thích của TS Đỗ Quang Trọng, Trưởng ban quản lý di tích, sở dĩ gọi là “đầu non cuối nước” vì xuôi về phía Nam thì sông Mã và sông Bưởi có gặp nhau ở một điểm, cổng Bắc thành thì gối vào núi Thổ Tượng). Một giai thoại khác cho rằng từ cổng chính thành mở ra một con đường lát đá dài 2,5 km chạy thẳng về đàn tế Nam Giao, con đường này giống như mũi tên, mà núi Đún nơi đặt đàn tế thì uốn vòng như một cánh cung giương sẵn. Hai yếu tố này phối hợp, làm thành một thế cực độc về phong thủy: Tên bắn thẳng vào thành. Song nói chung kể cả nếu không phạm vào cái thế này thì thành nhà Hồ cũng khó vững, bởi như chính Hồ Hán Thương (con trai Hồ Quý Ly) đã nói, mảnh đất này tuy là thạch bàn long xà nhưng “thế đất xung quanh hãy còn non lắm, nên chỉ ở được lục niên ký (sáu năm) mà thôi”. Nhà Hồ đã tính lầm ngay từ khi dời đô về phủ Thanh Hóa. “Anh hùng di hận kỷ thiên niên” Đời nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy. Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp một phần vào đó. Nhà Trần có 175 năm tồn tại, trải 13 đời vua, ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Đất Thăng Long vì thế đã gắn bó quá sâu đậm với lòng dân, với nhà Trần. Dời đô khỏi miền đất ấy khác nào chặt một cái cây khỏi cội rễ của nó. Còn mảnh đất định đô mới, dẫu có là nơi đắc địa với quan niệm của Hồ Quý Ly thì như Nguyễn Nhữ Thuyết thống thiết can: “Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Triều Hồ thất bại. Có lẽ chỉ Nguyễn Trãi là giữ tấm lòng thương cảm với Hồ Quý Ly khi ông viết: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Họa phúc có manh mối không phải một ngày/Anh hùng để mối hận mấy ngàn năm sau). Nguồn: Báo pháp luật HCM
-
Thưa sư phụ Đường linh đây: http://phapluattp.vn/2010060312394492p0c10...-thang-long.htm Cám ơn
-
Cái vụ nốt ruồi, thì phải thấy mới tin.
-
Thành thật chia buồn cùng giá quyến.
-
Bài 2: Vượng khí Thăng Long Về phương diện phong thủy, xây thành, định đô bao giờ cũng được coi là một câu chuyện đậm tính tâm linh, từ chọn hướng đất tới hoạch định kiến trúc, rồi trấn yểm, giữ thành. Những chuyện ấy luôn thần bí và chính vì thế luôn thu hút sự tò mò của dân chúng. Bài 1: Tây Đô thành hoài cổ Gạt bỏ những yếu tố tâm linh chưa giải thích được ngay một cách rộng rãi, giả thuyết sự yểu mệnh của nhà Hồ, nhà Mạc do chọn sai thế đất thực chất là muốn đề cập đến những nguyên tắc cơ bản và quan điểm chức năng trong việc chọn đất để làm thủ đô. Dạo bước dưới chân thành cổ nhà Hồ, tha thẩn trong thành nội Huế, hay thắp nén nhang trong thành Cổ Loa, người ta cảm thấy bồi hồi khó tả khi quá khứ xa xưa như đang vọng về trong từng ngọn cỏ, lớp đá, từng viên gạch cũ…; khi nhìn lại những nơi mà theo sử sách mô tả từng là chốn lầu son gác tía nguy nga, tráng lệ ngày xưa, nay chỉ còn là phế tích. Việt Nam từ buổi lập nước tới nay, trải qua các thời đại đã có nhiều kinh đô: thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), Hoa Lư (Ninh Bình), Thăng Long-Đông Đô (Hà Nội), kinh thành Huế. Nhà Hồ (1400-1407) và nhà Mạc (1527-1592) bị sử cũ coi là “ngụy triều”, cũng có lập thành Tây Đô ở Thanh Hóa và thành nhà Mạc ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Từ lựa chọn của người xưa… Theo một số chuyên gia địa lý, tất cả thành quách dù lớn dù nhỏ đều là nơi phồn hoa đô hội, dân chúng tụ tập, “bé thì là thị trấn, thị tứ, lớn thì làm thành phố, cực thủ thì trở thành thủ đô”. Tất cả thành quách đều có sông núi bao quanh, như Tây Đô có sông Mã, sông Bưởi và núi Thổ Tượng, Đún Sơn; kinh đô Huế có sông Hương, núi Ngự… Chùa Trấn Quốc được xem như một “điểm tâm linh” của Hồ Tây (Hà Nội). Ảnh: ĐOAN TRANG Nhưng để chọn một nơi định đô thì không phải thành phố nào cũng đáp ứng. Các triều đại phong kiến hưng thịnh Việt Nam đã dựa vào khoa địa lý phong thủy để chọn Hà Nội vì Hà Nội lấy núi Ba Vì làm tọa sơn, phía tả có tay long chạy từ Tam Đảo ra tận Quảng Ninh, phía hữu có tay hổ là dãy núi chạy dài qua Ninh Bình, Tam Điệp, ra cửa biển Thần Phù. Tay long dài, tay hổ ngắn tạo thành thế “long bão hổ” không gì quý bằng. Đằng trước là cả một vùng châu thổ sông Hồng làm “minh đường” (được hiểu như khoảng đất, khoảng sân trống trước cửa nhà), rộng mênh mông, xa hơn nữa là biển Đông vỗ sóng. Đó là một thế đất cực vượng, đúng như Lý Thái Tổ đã tuyên trong Chiếu dời đô năm Canh Tuất 1010: “Thành Đại La (…) ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Báo cáo tiếp thu, giải trình về việc mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 12 cũng nhấn mạnh đến vị thế địa lý phong thủy này: Theo phương án mở rộng này, địa thế của Hà Nội tựa vào dãy núi Ba Vì và hướng ra dòng sông Hồng, Hà Nội sẽ luôn giữ được thế rồng cuộn hổ ngồi tiện hướng nhìn sông dựa núi; tiếp nối được giá trị khoa học và nghệ thuật trong lịch sử hình thành và phát triển đô thị Việt Nam là luôn gắn môi trường sống của con người với môi trường cảnh quan thiên nhiên, đó cũng là xu hướng phát triển bền vững nhất mà nước ta cũng như các quốc gia trên thế giới đang hướng tới. Cái mà các nhà nghiên cứu gọi là long mạch đó chính là Hồ Tây và các con sông, hồ khác ở Hà thành: “Hồ Tây lấy nước từ sông Hồng, rồi đổ vào các con sông chảy quanh Hà Nội, đó là mạch long cực đẹp, là nơi tụ khí rất tốt. Mà nguyên tắc của phong thủy là khí tụ thì vật tụ, vật tụ thì tài tụ, tài tụ thì người tụ lại. Hội được nhiều yếu tố tốt đẹp như thế nên Lý Thái Tổ mới lấy đất này làm nơi đóng đô ngàn năm và nó sẽ còn thịnh vượng mãi mãi nếu được tu bổ”. … Đến những nguyên tắc khoa học hiện đại Nhìn trên giác độ khoa học, đó phải chăng là do thời xưa, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, giao thông khó khăn, người ta cần tụ về các khu vực có sông có nước để dễ bề đi lại, vận chuyển (bằng đường thủy)? Ngoài ra, điều này còn xuất phát từ những lý do đã được nhắc tới nhiều như môi trường sông nước tạo ra những vùng châu thổ phì nhiêu, thường là nơi khí hậu trong lành, mát mẻ, tốt cho sức khỏe và sinh hoạt của con người. Trong lịch sử, các đô thị lớn ở nhiều nước trên thế giới đều có một dòng sông lớn chảy trong lòng thành phố. Như thủ đô Washington, DC của nước Mỹ có sông Potomac, Paris có sông Seine, London có sông Thames, Vienne (Áo), Bratislava (Slovaque), Budapest (Hungary) và Belgrade (Serbie) có sông Danube, TP Hambourg (Đức) có sông Elbe, Thượng Hải (Trung Quốc) có sông Hoàng Phố… Đó đều là những con sông đẹp đẽ, thơ mộng, tô điểm cho cảnh quan. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà trong quá khứ, khi còn chưa có khái niệm quy hoạch hiện đại, mảnh đất nơi những sông này chảy qua đã được dân chúng lựa chọn mà tụ về, dần dà trở thành thủ đô hay thành phố lớn. Còn nói về thế tựa núi và núi non bao bọc đó chính là nói về “bức tường thành” ngăn bão tố... Đoạn tường còn sót lại của thành nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Ảnh: ĐOAN TRANG So với các kinh đô cổ khác ở Việt Nam (cũng đều có núi có sông bao bọc) thì Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội vẫn là nơi hội đủ các yếu tố tích cực về địa thế. Ví như thành Tây Đô của nhà Hồ ở Thanh Hóa có núi có non nhưng đó chỉ là phần kéo dài của “tay hổ” ở Hà Nội, địa thế “hợp với loạn mà không hợp với trị”. Nhà Mạc chọn Cao Bằng tuy đất đai hiểm trở nhưng chỉ có núi đồi, đường đi khó khăn. Nói theo ngôn ngữ thời nay thì đó không phải là nơi để làm ăn kinh tế, không chứa được muôn dân, không thể hội tụ dân về định đô muôn đời. Xứ Huế với sông Hương núi Ngự thì núi không cao, sông không sâu, nước chảy lờ đờ, đất không rộng rãi nên chỉ làm thành phố chứ không làm thủ đô được. Theo nhà nghiên cứu Hà Thủy (Tuần Việt Nam, 1-6-2010), đó là lựa chọn địa điểm, quy hoạch cho trung tâm chính trị-hành chính quốc gia (đồng nghĩa quy hoạch đô thị trung tâm quyền lực nhà nước bao gồm các cơ quan hành pháp, lập pháp, cơ quan tư pháp tối cao) là nhiệm vụ hàng đầu, mang ý nghĩa căn bản nhất, làm tiền đề, cơ sở để nghiên cứu thực thi các mục tiêu quy hoạch khác… Phát triển bền vững thành phố thủ đô trước tiên phải phát triển bền vững hạt nhân đô thị đặc thù của thủ đô (tức đô thị trung tâm quyền lực nhà nước, đô thị trung tâm văn hóa-lịch sử). Sự lựa chọn này có tác động quyết định đến vận mệnh của đất nước, không thể xem nhẹ các bài học lịch sử trong nước và quốc tế nhưng rất cần có các nghiên cứu chuyên sâu, khoa học, không theo cảm tính, mê tín, dị đoan “trục tâm linh” nào cả. Nhà nghiên cứu này nhận xét: Các thủ đô ngàn năm tuổi (Roma, London, Paris, Bắc Kinh, New Delhi) vẫn tươi mới, giàu sức sống, đẹp và thịnh vượng với tư cách một thủ đô tập quyền. Hà Nội qua lịch sử ngàn năm đã tự khẳng định là thủ đô trung tâm quyền lực quốc gia và hiến pháp cũng đã khẳng định như thế. Nguồn: http://phapluattp.vn/
-
Không thể tưởng tượng nổi đây là sự thật. Và cũng không thể nghĩ rằng có người cha mẹ lại thản nhiên chấp nhận việc đầu độc đứa trẻ 2 tuổi, là sự bình thường.
-
Bạn Viethp22 ơi mình nghĩ rằng tất cả việc gì, có mục đích thúc đẩy phổ biến rộng rãi kiến thức Phong Thủy Lạc việc, đều đáng khen cả ths
-
Sư phụ Thiên sứ có nhắc đến sách này, thì sách có nhiều giá trị rồi Tôi sẽ download về xem. Cám ơn bạn Viethq22 nhé
-
Trước đây có nghe kể về một người Việt cho bài hay ờ casino Mỹ, nay mới biết thông tin này là anh Nguyễn Văn Mến. Hiz, tôi cũng từng đánh bài ở nước ngoài và thua ( đánh cho vui) nên xin các bạn chỉ xem và đừng chơi
-
Mrs Vanga nay là người nước ngoài, dựa vào quả cầu thủy tinh để tiên đoán, theo sách báo thì cũng có cái đúng. Nhưng mà dự đoán đến chi tiết như trên, thì tôi cũng chẳng tin đâu
-
Chào anh Thiên Khôi Cách hành văn của anh, nghe chán quá. Đây là diễn đàn để trao đổi với nhau về những vấn đề quan tâm, nếu anh xem mà thấy chưa hợp lý thì cùng trao đổi, không nên có ý kiến như thế.