-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Bạn có tin không khi biết hành tinh xanh của chúng ta "đội giá" tới 99 tỉ tỉ tỉ VNĐ cơ đấy! Tờ Daily Mail đưa tin, Greg Laughlin, một nhà khoa học thuộc trường Đại học California, Mỹ đã sáng tạo ra công thức để tính toán giá trị của Trái Đất. Và theo ông, hành tinh thân yêu của chúng ta đang ở mức giá là 3 triệu tỉ bảng Anh (khoảng 99 tỉ tỉ tỉ VNĐ). Trái đất được đinh giá "đắt" nhất hệ mặt trời. Ảnh: Corbis. Theo giáo sư Greg Laughlin, “mức giá” trên dựa theo các tính toán về tuổi của trái đất, kích thước, nhiệt độ, trọng lượng và những chỉ số quan trọng khác. Với “giá tiền” ở mức “khủng” kia, Trái đất của chúng ta trở thành hành tinh “đắt” nhất Hệ mặt trời. Sao Hỏa chỉ ở mức 10.000 bảng, trong khi đó, sao Kim (Venus) có giá chưa đến… 1 xu. Hệ Mặt Trời có tới khoảng 1235 hành tinh lớn nhỏ, phần lớn trong số chúng có “giá” không cao bởi khí hậu quá khắc nghiệt. Ảnh minh họa: Getty Images. Giáo sư Laughlin còn “định giá” hầu hết các khám phá của tàu vũ trụ Kepler mang về. Tàu quan sát Kepler được phóng lên vũ trụ 2 năm về trước mang sứ mệnh đi tìm kiếm những hành tinh mới. Và việc “định giá” các hành tinh của giáo sư Laughlin diễn ra khoảng 1 năm trước. Hành tinh Gilese 581c được cho là giống Trái đất nhất, nhưng cũng chỉ đáng giá 100 bảng (khoảng 3,3 triệu VNĐ), trong khi đó, hành tinh KOI 326.01 lên tới mức 150.000 bảng (khoảng 4,9 tỉ VNĐ). Hành tinh càng lâu đời thì càng có giá trị cao, khối lượng và kích thước của hành tinh nếu “na ná” như Trái đất thì hành tinh đó càng có giá trị vì khả năng sự sống tồn tại trên hành tinh đó càng cao. Giáo sư Laughlin cho biết những hành tinh có giá trị từ 60 triệu bảng trở lên mới đáng để nghiên cứu. Và ông cũng hy vọng sau khi biết được giá trị “khủng” của Trái đất, mọi người sẽ có ý thức bảo vệ mái nhà chung hơn. Vài con số thống kê về Trái Đất Diện tích bề mặt: 510.072.000 km² (trong đó 148.940.000 km² là đất liền, chiếm 29,2 %, 361.132.000 km² là nước, chiếm 70,8 %). Thể tích: 1,0832073×1012 km3 Khối lượng: 5,9736×1024 kg ==================================================================== Bình loạn: Không biết ông giáo sư làm ra cái công thức gì. YPN có ý kiến là lấy giá đất 1m2 ở quận 1 Tp.Hồ Chí Minh, sau đó đem nhân với diện thích trái đất,
-
Hey, thì ra bí kíp là đây. Phen này YPN quyết mua sách này và đăng ký làm thầy phong thủy Còn trấn yểm quá dễ, cứ mua đại bác để ở cửa thì còn sợ ai
-
Hoa nhài - vẻ đẹp thanh lịch của đất Hà Nội Không biết tự bao giờ, hình ảnh của hoa nhài đã gắn bó với vẻ đẹp thanh lịch của đất và người Hà Nội... Hàng hoa trên phố cũ Góc phố Đội Cấn giáp với chợ Ngọc Hà những buổi sớm mai thường có một bà cụ già lặng lẽ bên rổ hoa nhài. Trong dòng người xe hối hả, chẳng mấy ai để ý bà cụ già nua ấy. Còn cụ dường như cũng chẳng để ý đến dòng người tấp nập trước mặt, cũng không chào mời người mua. Lân la trò chuyện, biết tên cụ là Trịnh Thị Dần, năm nay đã 86 tuổi, người làng Ngọc Hà gốc. Cụ Dần mái tóc bạc trắng, nhưng tiếng nói còn mạnh mẽ và hàm răng nhuộm đen đều tăm tắp. Cụ Dần kể, ngày xưa ở làng Ngọc Hà trồng rất nhiều hoa nhài. Mỗi nhà đều dành đất để trồng vài luống hoa. Thế nhưng thời buổi "tấc đất tấc vàng" bây giờ còn rất ít người trồng hoa nhài, bởi thu nhập từ việc trồng hoa nhài cũng chẳng đáng là bao, lại còn phải chăm bón vất vả. Nhiều nhà bán đất hoặc làm nhà cho thuê có thu nhập cao hơn. Hoa nhài mà cụ Dần bán có hai loại: một loại chỉ toàn bông trắng tinh, bán cho những người mua về ướp chè nhài, bán chè hoặc tào phớ; một loại hoa nhài cành bán cho những ai thích mua về cắm trong nhà. Theo cụ Dần, hoa nhài bắt đầu nở rộ từ từ tháng 4 đến tháng 6. Vào chính vụ, có hôm cụ bán hàng cân bông hoa nhài. Hoa nhài cành thì đầy rổ lớn. Từ mùa thu hoa ít dần và mùa đông thì hầu như không có. Vào thời điểm đó, cụ Dần bán kèm thêm các loại cây lá trong vườn như: lá vông, lá đề, lá ngải, tía tô, hẹ... Việc chăm bón hoa nhài cũng phải có cách riêng. Cụ Dần bảo: "Chăm hoa cũng chăm trẻ con, cũng phải cho nó ăn uống". Về mùa đông, phải buộc nó vào và chăm tưới tắm, nếu không sẽ bị chết. Phải bón đất phù sa cho cây để mùa xuân cây đâm chồi, cho hoa nhiều." Theo lời cụ, hoa nhài muốn thơm không được hái non. Phải hái vào buổi chiều, cho đến tối, không hái vào buổi sáng, hoa bị nước mưa hoặc sương vào thì không thơm. Thu nhập từ hoa nhài của cụ cũng không đáng kể bởi mỗi nắm hoa giá chỉ vài nghìn đồng. Hôm nào bán nhiều thì được gần một trăm nghìn, ngày ít thì chỉ 2-30.000 đồng. Số tiền ấy còn phải trả công cho người làm đất, rồi mua đất phù sa để bón cho cây. Dù tuổi đã cao, nhưng cụ Dần hàng ngày vẫn thích chăm bón cho hoa nhài để không phải dựa vào con cháu và cho thêm vui tuổi già. Khách của cụ Dần thường là khách quen. Chị Bùi Thu Phương (hiện sống ở số nhà 130 Đốc Ngữ - Hà Nội) cho biết chị mua hoa nhài đơn giản vì thích hương thơm thanh khiết của nó gợi nhớ Hà Nội xưa và cũng vì niềm yêu mến vẻ mộc mạc, giản dị của người bán. Còn bà Nguyễn Thị Thanh Bình (ở phố Ngọc Hà), sau khi mua một nắm hoa nhài và vài mớ rau hẹ, rau ngải đã động viên cụ Dần rằng: Các cụ chăm bón cho hoa, bán hoa như thế này cho thêm vui khoẻ, vận động được thì khí huyết nó lưu thông, tinh thần thoải mái, sảng khoái... Xin giữ lại chút hương xưa Câu chuyện với cụ Dần đang rôm rả thì cụ bà Ngô Thị Phương (73 tuổi) cũng người làng Ngọc Hà- là bạn già bán hoa nhài giống cụ Dần tới góp chuyện. Trên chiếc rổ của cụ Phương cũng chỉ còn vài nắm hoa nhỏ. Cụ Phương kể rằng, trước kia nhà cụ cũng nhiều đất trồng hoa nhài, nhưng bây giờ thì chỉ còn khoảng 100 mét vuông, vì đất chia cho con cháu cả rồi. Theo như lời cụ Dần và cụ Phương, các cụ cũng chẳng biết còn được trồng nhài đến khi nào nữa, vì nếu con, cháu bán đất thì cũng đành chịu. Chắc là hình ảnh những vườn hoa nhài với những bông hoa nhỏ xíu, trắng tinh, với hương thơm thoảng nhẹ, gắn bó với vẻ đẹp của đất Hà Thành sẽ ngày càng vắng bóng... Tạm biệt hai cụ già làng hoa Ngọc Hà, tôi cứ thầm mong các con, cháu cụ đừng bán đất, để các cụ vẫn có niềm vui tuổi già bên những luống nhài, để những người yêu loài hoa này vẫn còn có dịp thưởng thức hình ảnh và hương thơm của một loài hoa đã từng gắn với hình ảnh của một Hà Nội êm đềm, thanh bình, xưa cũ.../. St
-
@Tuấn Diệp Ý kiến của bạn là chính xác, có nghĩa là 2 hình đã đưa lên không phải là một ( một cái là chùa một cột và một cái là văn khuê các). Cám ơn bạn
-
Ý NGHĨA TÊN GỌI HÀ NỘI Sau khi diệt triều Tây Sơn, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên ( vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ) vị vua này tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xoá bỏ Bắc Thành ( gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc ) ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh trong đó có 15 tỉnh trực thuộc trung ương. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Tây Sơn, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam. - phủ Hoài Đức gồm 3 huyện : Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm - phủ Thường Tín gồm 3 huyện : Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên - phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện : Sơn Minh ( nay là Ứng Hòa ), Hoài An ( nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức ), Chương Đức ( Nay là Chương Mỹ - Thanh Oai ) - phủ Lý Nhân gồm 5 huyện : Nam Xang ( nay là Lý Nhân ), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ ( 1831 ). Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sông, vì tỉnh mới Hà Nội được bao bọc bởi 2 con sông : sông Hồng và sông Đáy. Như vậy tỉnh Hà Nội lúc đó gồm thành phố Hà Nội, nửa chính đông tỉnh Hà Tây ( chính là tỉnh Hà Tây thời Pháp thuộc ) và toàn bộ tỉnh Hà Nam. Như vậy rõ ràng tỉnh Hà Nội có đại bộ phận nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đáy. Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử ( Thiên Lương Huệ Vương ) : "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ tức ư Hà Nội" ( nghĩa là : Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội ). Nguyên ở Trung Quốc thời Mạnh Tử ( thế kỷ III tr.CN ) phía bắc sông Hoàng gọi là đất Hà Nội, phía Nam là Hà Ngoại. Vùng đất Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chạy theo hướng Bắc - Nam, trở thành ranh giới giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông sông Hoàng nên thời cổ có tên là đất Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây. Thực sự cũng có việc dùng câu sách Mạnh Tử nói trên, nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, người ta mới dùng tên Hà Đông ( dựa vào tên Hà Nội đã có từ trước ) St
-
Chùa Một Cột chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/moz-screenshot-3.png Chùa Một Cột nhìn từ phía sau Khuê Văn Các Khuê văn các - Thiên quang tỉnh, nơi giao hoà của đất, trời Khuê văn các (nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao. @Tuấn Diệp Hình ảnh chùa một cột và hình ảnh Văn khuê các là khác nhau. Đã có sự nhầm lẫn Cám ơn bạn.
-
Một vài tấm bản đồ của Hà nội xưa
-
Một vài hình ảnh xưa và nay của Hà Nội, mảnh đất nghìn năm văn hiến, với hồ Gươm, với bích đào Nhật Tân, chợ hoa Hàng Lược, với hoa sữa, với quán cóc liêu xiêu... đã và sẽ luôn là một phần trái tim chúng ta. Hà Nội hôm nay khác xưa rất nhiều. Cùng nhìn lại bóng dáng kinh thành xưa qua những bức ảnh để thấy được sự đổi thay của mảnh đất rồng bay. Hồ Gươm liễu rủ Những mái nhà Hà Nội xưa và nay Cầu Thê Húc trên hồ Hoàn Kiếm xưa và nay Ngọn tháp Hòa Phong cổ bên hồ Gươm nay là phố Đinh Tiên Hoàng. Chùa Một cột xưa và nay. Một góc hồ Gươm ngày xưa và hiện nay. Đền Voi Phục (Cầu Giấy) trước đây và hiện nay. Cầu Giấy ngày xưa và ngày nay. Phố Tràng Tiền ngày xưa và hiện tại Thành cửa Bắc xưa và hiện tại
-
Văn hóa ẩm thực Hà Nội xưa và nay Nấu và thưởng thức các món ăn là cả một nghệ thuật của người Hà Nội, chẳng thế mà cho đến tận bây giờ thói quen ấy vẫn tồn tại và trở thành một nét văn hoá riêng độc đáo, hấp dẫn bất cứ ai khi mới đặt chân đến nơi này. Cái tinh tế trong ẩm thực Hà Nội thể hiện ở cách chế biến, cách thưởng thức đúng cách, ở tấm lòng người trao kẻ nhận. Mỗi món ăn Hà Nội đều có hương vị, nét đẹp riêng và đặc biệt là có truyền thống, cách thưởng thức truyền đời, chẳng thế mà nó không chỉ là những thức ăn thông thường mà được nâng lên thành nghệ thuật ẩm thực... Bún ốc Tây Hồ - Pháp Vân (Thanh Trì) Chúng tôi tìm đến một quán nhỏ ở phố Phù Đổng Thiên Vương mà với nhiều người sành ăn, đây là hàng bún ốc ngon vào loại hiếm ở Hà Nội bây giờ. Trước đây, nhắc tới bún ốc Hà Nội người ta nhớ ngay tới hai làng nổi tiếng Tây Hồ và Pháp Vân - Thanh Trì. Chị Hòa bán bún ốc ở đây cũng quê Pháp Vân. Mẹ chị gánh bún ốc bán rong hơn 40 nǎm, sau truyền nghề lại cho chị. Hàng chị là địa chỉ quen thuộc của nhiều người Hà Nội vì bún ốc ở đây từ khẩu vị đến cách trình bày đều rất... Hà Nội. Chị Hòa tâm sự với chúng tôi: ’’Tôi rất tự hào vì vẫn giữ được những nét xưa của bún ốc. Ở Hà Nội bây giờ chỉ có mình hàng tôi còn bán bún ốc nước nguội chấm đúng như ngày xưa’’. Ngày xưa, người Hà Nội hay ăn ốc lọ nhưng giờ họ ăn cả bún chan như phở, nhưng nhiều người sành ăn vẫn còn thích ăn bún chấm. Ảnh: blog.360.yahoo Bún ốc chỉ nên ăn từ sáng đến trưa, tối người Hà Nội không ăn bún ốc, khác với phở. Bún ốc ngon trước hết phải có vị cay chua của ớt, của bỗng rượu. Bún ốc có 2 - 3 cách ăn: có thể chan, có thể chấm, có thể ăn nóng hoặc ăn nguội. Bún ốc không thay đổi nhiều lắm như các món ăn Hà Nội khác: vẫn là ớt trưng, vẫn là tía tô. Không có thứ gì cần tía tô và ớt trưng nhiều như bún ốc. Bát bún ốc của Hà Nội rất đẹp vì nó có màu đỏ của ớt trưng, màu tím của tía tô và sợi bún trắng... Xôi Đã là người Hà Nội không ai là không từng thưởng thức món xôi một lần, phải nói rằng, xôi Hà Nội có một phong vị riêng mà không trùng với bất cứ xôi ở nơi nào khác. Buổi sáng sớm, tiết trời còn mát mẻ, sau một giấc ngủ êm đềm, con người tĩnh tại thoải mái, bạn có bao giờ nghĩ rằng thưởng thức một bát xôi vào buổi sáng là cách thư giãn tốt nhất không ? Người Hà Nội thì hay có thói quen như thế, giản dị, mộc mạc và thanh bình biết bao nhiêu. Mỗi loại xôi có một hương vị khác nhau và được ăn kèm với các loại thức ăn khác nhau. Chẳng hạn như xôi trắng ăn kèm với ruốc, thịt kho tàu, giò chả, lạp xường vừa thơm, vừa mềm. Xôi gấc có vị ngọt được ăn kèm với chả mỡ. Xôi lạc, xôi đỗ xanh ăn kèm với vừng và ruốc. Còn xôi xéo, chắc chắn phải có thêm đậu xanh xắt lát mỏng và trên bát có hành phi thơm vàng ngậy... Ảnh: skyscrapercity Thật ra, việc nấu xôi cũng chẳng mấy khó khǎn và bất kể ai cũng nấu được. Chẳng hạn như muốn nấu xôi đậu xanh, chỉ cần chọn loại gạo nếp cái hoa vàng, ngâm gạo, đậu xanh từ tối hôm trước, để qua đêm cho mềm. Sau đó, vo gạo, đãi đậu thật kỹ rồi trộn đều. Cho thêm một chút muối, xóc lẫn vào gạo, đậu rồi đổ vào chõ đồ cho đến khi hạt gạo dẻo trong và hạt đậu nở bung là được. Đối với xôi lạc, cách nấu có hơi khác. Người nấu phải luộc chín nhân lạc trước cho mềm, sau đó bóc vỏ lạc rồi trộn với gạo nếp, pha thêm muối và đổ vào chõ đồ... Riêng xôi gấc, thay vì cho muối, người nấu cần cho thêm đường. Trong các loại xôi, xôi xéo được coi là khó nấu nhất. Sau khi xôi chín, người nấu phải xới xôi cho tơi, để nguội rồi trộn với đậu xanh nấu chín. Đến lúc ăn xôi, phải xắt mỏng nắm đậu xanh đã được đồ chín, thêm chút mỡ nước, hành phi vàng thơm phủ lên trên. Khi đó, bát xôi xéo của sẽ có được vị ngọt của gạo nếp,vị bùi của đậu xanh, vị béo của mỡ nước và vị thơm của hành phi, ăn ngon tuyệt. Miến lươn Ngày nay, việc chế biến và thưởng thức món miến lươn đã khác xưa rất nhiều. Miến lươn Hà Nội xưa được sắp vào bát nhỏ, thường là bát chiết yêu (loại bát chôn nhỏ, miệng loe) miệng bát chỉ lớn hơn bát ǎn cơm một chút. Miến rửa sạch đã trần nước sôi, được trần lại vào nồi nước dùng lươn mầu nâu nâu cho miến nở, thấm độ đậm, ngọt của nước dùng rồi cho vào bát. Những miếng thịt lươn đã xào săn lại mà vẫn phô mầu vàng óng của da lươn. Hành hoa và rau răm thái nhỏ tăn - thường thái trước khi cho vào bát để giữ mùi thơm, hành răm thái càng nhỏ càng tiết mùi thơm nhiều hơn. Rắc hành răm thái nhỏ lên thịt lươn rồi chan nước dùng. Nước dùng lươn mầu nâu nâu ngọt trên mức bình thường, vì phải đậm đặc mới nổi vị, chỉ chan sâm sấp chứ không chan võng vì miến đã ngấm nở đủ bằng nước dùng nên không trương nở thêm nữa, hơn nữa, miến là miến tầu làm bằng đỗ xanh nên sợi miến nhỏ mà ròn chứ không nát. Cuối cùng rắc hạt tiêu. Riêng tiêu, bà hàng rất thuộc ý khách, vị nào nghiền cay bà không rắc tiêu mà dùng thìa nhỏ xúc một phần tiêu sọ giã giập. Ảnh: muivi Miến thấm đượm nước dùng, thịt lươn xào săn ăn hơi dẻo rất rõ vị lươn, lại được tẩm ướp nên thơm mùi tiêu và mùi nước mắm ngon thật hấp dẫn. Bát miến lươn, ăn tới miếng cuối cùng vẫn còn nóng. Hà Nội xưa hình như lạnh hơn bây giờ. Món miến lươn hấp dẫn mọi mùa, nhưng vào những ngày đông lạnh còn hấp dẫn hơn nhiều. Bởi vì rét đến mấy, khi bê bát miến lươn thơm phức, nóng hổi lên là quên hết mọi rét mướt. Miến lươn không múc vào bát to, không có kèm theo giá đỗ và hành khô phi, không chan võng nước dùng chẳng thấy mùi lươn đâu như bây giờ, và đặc biệt là thịt lươn không tẩm bột rán khô cong và ròn để khi ăn chẳng biết là lươn hay trạch hay một loại bánh rán ròn gì đấy vì khó mà phân biệt, khó mà nhìn rõ, khó mà khẳng định mùi vị. Không hiểu vì sao món quà miến lươn Hà Nội bây giờ lại thế ?... Do thất truyền ? Do khẩu vị mới ? Do không để ý đến món ăn Hà Nội xưa? Thật tiếc khi các quán hàng Hà Nội không còn bán miến lươn ngày xưa nữa. Phở Hà Nội Nhắc tới quà Hà Nội không thể không nói tới phở. Phở Hà Nội xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 với những cái tên phở Thìn, phở Giảng, phở Đông Mỹ bán gánh. Ngày nay, có thể tìm thấy những tiệm khá ngon ở Bờ Hồ, Bát Đàn, Lý Quốc Sư, Lò Đúc. Riêng phở bò ông Thìn giữ được hơn 50 năm, và mở rộng tới 7 cửa hàng ở Hà Nội. Người Hà Nội nay ăn cả phở gà, nhưng theo nhiều người sành ăn chỉ có phở bò chín mới đúng là Hà Nội. Ảnh: my.opera Nhà văn Băng Sơn từng nói: Tôi rất đồng ý với cụ Nguyễn Tuân, tôi là thế hệ sau nhưng ăn phở Hà Nội phải là phở bò chín. Thịt bò chín thái mỏng thơm, ngon. Phở mà ăn với giá, với quẩy hay là với trứng như nhiều người vẫn ăn bây giờ không được. Phở thì gia vị rất quan trọng. Ngày xưa, những hàng phở gánh đỗ ở đầu phố thì cuối phố đã ngửi thấy mùi nước dùng phở thơm lừng... Bánh cuốn Thanh Trì Từ 60 năm nay, những ai mê bánh cuốn Thanh Trì không phải lặn lội quá xa. Với một góc nhỏ phố Tô Hiến Thành, với những cái mẹt thôn dã, hàng sáng bà Hoành thu hút biết bao nhiêu khách. Chỉ với 2000 đồng, bạn đã có thể thưởng thức bánh cuốn Thanh Trì tráng mỏng ăn với chả, thứ chả không pha bột như nhiều hàng bây giờ. Gia đình bà Hoành đã 5 - 6 đời tráng bánh cuốn, và nay các cô con dâu của bà lại tiếp tục. Chị Nguyễn thị Thanh - con dâu bà Hoành: Tráng bánh cuốn ngon và mỏng phải biết xay bột và xe bánh. Xe phải khéo, xe chậm quá thì dễ bị rách bánh, xe nhanh quá thì có thể sẽ bị dòn hoặc lại quá dày. Ảnh: ttvnonl Cái tinh tế trong ẩm thực còn được thể hiện ở bữa ǎn của từng gia đình Hà Nội. Bữa cơm gia đình của người Hà Nội mang một phong cách riêng: từ bày đặt mâm, bát đũa sạch sẽ, món ăn thanh tịch, đơn giản không đắt tiền nhưng bày phải đẹp mắt thanh lịch và cao quý. Trong thời kinh tế thị trường, nghệ thuật ẩm thực Hà Nội đã bị giản tiện đi rất nhiều, hy vọng thế hệ trẻ ngày nay có ý thức hơn nữa trong việc gìn giữ cái đẹp, cái thanh trong nếp ăn uống của người Tràng An xưa. St
-
Ôi, mọi người có thể ra đường tập thể dục rồi, không cần đến công viên nữa
-
Kim cương đang giảng đạo cho những người phàm phu ở diễn đàn nghe hả ? Tưởng sang năm mới bớt lảm nhảm chứ
-
YPN thấy vấn đề này cần tách bạch ra thôi 1-vào chùa đăng ký làm phật tử, có pháp danh, lâu lâu đi cúng chùa là việc của phật tử, nhà chùa không quy định hay ràng buộc với phật tử cụ thể. 2-Phật tử(nào đó) ham muốn tình dục cũng là bình thường. Miễn là đừng làm bậy vi phạm pháp luật. 3-Phật tử với người không phật tử thì như nhau thôi, có nghĩa là không có chuyện cải số phận gì cả. 4-Bà này nêu viện dẫn lời trụ trì nào đó, thì có thể là nói xạo
-
Chuyện này kể tiếp phần 2: Quỷ sứ đạp 1 phát nên Thiên Sứ bay lên Thiên Đình, vừa đến cửa thì gặp Thánh Pedro gác cổng. Thánh Pedro nói tiêu chí lên Thiên Đình là trong cuộc đời phải nói thật. Thiên Sứ vội trình bày chuyện Diêm Vương xác nhận là nói thật nên mới phải bay lên Thiên Đình Thánh pedro gật gù và mở latop kết nối internet tốc độ cao để kiểm tra thông tin. Thánh Pedro cũng quát lên: Thiên Sứ thì nói thật, nhưng vẫn không cho vào Thiên đình. Thiên Sứ vội hỏi: tại sao? Thánh Pedro trả lời nho nhỏ: Sự thật thì đúng rồi, nhưng cũng cần nhiều người phải hiểu Thánh Pedro lại quát to: nhiều người không hiểu, có nghĩa là không thật rồi. Thế là Thiên Sứ cứ bay đi bay về giữa Thiên Đình và Địa Ngục, mỏi quá nên bay về nhà đến nay.
-
Nhà đầu tư không nên mạo hiểm trong thời điểm hiện tại 16/02/2011 Hàng loạt các cổ phiếu vốn hóa thị trường lớn bất ngờ quay đầu tăng điểm trong đợt khớp lệnh định kỳ cuối đã kéo theo VNIndex đóng cửa tăng tới 3,82 điểm trong khi trước đó có lúc chỉ số này giảm tới gần 5 điểm. Mở đầu phiên giao dịch, VIC tăng nhẹ, MSN và BVH giảm mạnh cùng với các cổ phiếu khác đã khiến VN Index kết thúc phiên giao dịch định kỳ mở cửa mất 4,77 điểm. Sau đó một số cổ phiếu phục hồi, VN Index quay đầu tăng nhẹ trong suốt phiên giao dịch liên tục và bất ngờ tăng mạnh trong 15 phút cuối. Kết thúc phiên giao dịch, BVH , PVD , PVF tăng trần, VIC tăng 3.000 đ, NTL tăng 2.000 đ kéo VN Index lên mức 517,87 điểm. Trong các cổ phiếu tăng trần này có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ khối ngoại với lượng mua chiếm một tỷ lệ đáng kể trong đó. Các cổ phiếu ngành điện đồng loạt tăng trần trong phiên giao dịch ngày hôm qua còn lại duy nhất TMP tăng 400 đ, TBC tăng 200 đ, còn lại PPC , KHP giảm 200 đ, VSH giảm 100 đ. IJC sau nhiều phiên tăng trần trước đó hôm nay đã giảm sàn với 667.340 đơn vị được khớp lệnh. Nhóm cổ phiếu nhỏ tăng trần có CMT , CMV , NHW nhưng thanh khoản không đáng kể. Tuy VN Index tăng điểm nhưng thanh khoản thị trường lại giảm nhẹ so với phiên giao dịch hôm qua. Cả thị trường có 34,37 triệu đơn vị được khớp lệnh tương đương với giá trị giao dịch 825,97 tỷ đồng. GTT thanh khoản cao nhất thị trường với 2,46 triệu đơn vị được khớp lệnh, tiếp đến SSI 1,89 triệu, STB 1,55 triệu, ITC 1,44 triệu, ITA 1,33 triệu. Khối ngoại mua mạnh ITC , HAG , ITA , PVD , DPM . Sau nỗ lực đảo chiều không thành công trong phiên, VN Index kết thúc phiên đã đảo chiều xanh điểm với BVH , PVF , PVD được đánh lên tăng trần. Đây được coi là phiên thứ 4 thị trường trong xu hướng điều chỉnh khi cục diện chủ yếu của thị trường trong phiên hôm nay vẫn là giảm điểm nhưng thời điểm cuối phiên bật tăng đem đến nhiều kỳ vọng cho nhà đầu tư trong các phiên giao dịch sắp tới. Thực chất, do một số cổ phiếu có sức nặng tác động đến mức độ tăng nhẹ của chỉ số, nhưng nếu loại trừ mức độ ảnh hưởng thì thị trường vẫn trong xu hướng điều chỉnh. Hiện tại, các chỉ báo kỹ thuật chưa cho thấy được dấu hiệu điều chỉnh đã dừng nhưng nếu thanh khoản được cải thiện thì khả năng phục hồi của VN Index là có thể xảy ra. Thị trường có lẽ sẽ tiếp tục bị chi phối nhiều bởi các cổ phiếu trụ cột khi chưa có thông tin hỗ trợ đủ mạnh giúp cho dòng tiền quay trở lại thị trường. Nhà đầu tư không nên mạo hiểm, dùng đòn bẩy trong giai đoạn hiện nay nếu thị trường có tín hiệu phục hồi trở lại, tiếp tục gia tăng tỷ trọng cổ phiếu nếu thị trường điều chỉnh về mức hỗ trợ mạnh 500 điểm.
-
Rất nhiều bạn trẻ Việt ngày nay cho rằng Valentine là một ngày lễ được du nhập từ phương Tây, một ngày lễ ngoại. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ trong các lễ hội của dân tộc, chúng ta sẽ thấy tổ tiên người Việt cũng đã có một ngày lễ hội Valentine thuần Việt hết sức hấp dẫn và đặc sắc, thậm chí còn mãnh liệt hơn cả phương Tây. Đó là lễ hội Miếu Trò ở Lâm Thao Phú Thọ, hay còn gọi là lễ hội “linh tinh tình phộc”. Chỉ riêng tên gọi “linh tinh tình phộc” hoặc “nõ nường” đã gợi cho người nghe một điều gì đó liên quan đến những hoạt động của tình ái. Một đoạn trích trong tác phẩm “Đêm hội nõ nường” của nhà văn Cao Sơn cũng thể hiện ý này: “Ngay cả các cụ cao niên nhất trong làng cũng không ai biết rõ Lễ hội Nõ Nường có tự bao giờ, chỉ biết cứ hai năm một lần, nhằm năm nhuận, đến hai tám tháng hai âm lịch là Hội diễn ra: rước linh tượng Nõ và Nường - mô phỏng hai cái đặc trưng riêng nhất của đàn ông và đàn bà". Dân Việt ta từ lâu lắm cũng đã có một Valentine của riêng mình, một Valentine đầy máu sắc hội hè, đầy những hấp dẫn, đầy những kích thích rạo rực và hết sức nhân văn. Nõ và Nường đều được làm bằng nan tre cật, được phết giấy và cắm những cành lá nhỏ ở những vị trí thích hợp, trông như thật. Vào Hội, dân làng chọn ra các trai thanh nữ tú để khiêng kiệu. Nõ được rước đi từ đền thờ Ông. Nường rước đi từ đền thờ Bà. Hai kiệu Nõ Nường gặp nhau ở ngã ba đường cái quan, vờn nhau, quấn lấy nhau rồi song song cùng tiến về khu sân rộng trước hai đền. Lại vờn, lại múa và rồi trong tiếng hò reo, tiếng trống chiêng được thúc lên đến cực đỉnh thì Nõ và Nường đâm xuyên qua nhau và bùng cháy. Rồi thì đèn đuốc được tắt hết. Dân làng tản ra , những cặp vợ chồng trẻ, những cặp tình nhân chụm đầu bàn tán, phỏng ước. Chỉ có 7 chàng trai và 9 cô gái được làng tuyển chọn kỹ lưỡng trong vô số những nam thanh nữ tú của làng đã đăng ký tham dự từ trước. Số 7 và số 9. Số 7 tượng trưng cho khí dương, cho trời, cho hạt giống. Số 9 tượng trưng cho khí âm, cho đất, nơi tiếp nhận hạt giống. Có chênh lệch vậy để nói rằng đất còn nhiều, cơ hội gieo trồng còn lớn, cứ thoải mái và đừng bao giờ mất hy vọng ở mùa sau. Đám trẻ được làng chọn sẽ tản ra, cánh trai đi trước, tìm đến bên thửa ruộng ngồi thổi kèn lá, cánh con gái được bịt mắt, ngậm trên môi chiếc bẹ lúa non làm kèn cứ lắng theo tiếng kèn lá của người trai thổi mà tìm đến. Tiếng kèn gọi bạn. Tiếng lá bắp đáp lời bạn tình. Râm ran. Rộn lên rồi lắng dần. Và rồi ngay tại bờ ruộng, trong đêm yên tĩnh và bóng tối đồng loã, chở che của đêm cuối tháng, những cuộc giao hoan, ân ái được diễn ra. Người ta gọi đó là cách dạy cho lúa cách sinh sản. Sáng hôm sau, những cặp đã tìm được nhau sẽ gặp làng trình báo để làng làm lễ cưới chính thức. Người ta tin rằng những cặp trai gái được thành thân theo nghi lễ này đều được thần linh phù hộ và có một cuộc sống đầy may mắn.” (Trích Đêm hội nõ nường - nhà văn Cao Sơn)
-
Lại sắp đến ngày rằm tháng Giêng, Cung nhà Trần xưa ở phủ Thiên Trường (nay là thành phố Nam Định), bây giờ đang náo nức chuẩn bị đón người về xin ấn. Năm nay, kế hoạch tổ chức lễ hội sẽ có nhiều đổi mới, để giảm bớt sự quá tải, cũng như những sự cố đáng tiếc có thể xảy ra. Tuy nhiên, tâm lý của đa phần người đi dự lễ vẫn là muốn cầu thăng tiến cho cả năm. Chính điều này đã để lại cho nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Bảo, Chủ tịch Chi hội Di sản văn hóa Phúc Chí (Hội Di sản văn hóa Việt Nam) nhiều suy ngẫm. TT&VH xin giới thiệu bài viết của ông. 1. Cùng với việc mở cửa tự do tín ngưỡng cho nhân dân theo chủ trương của Nhà nước, lễ hội đền Trần mấy năm nay trở lên tấp nập, người về dự đông đến mức lạ thường, nhất là từ khi có các vị lãnh đạo Nhà nước về đóng ấn (dấu). Như những năm trước mà tôi chứng kiến, thì từ ngày 14, bắt đầu lúc 17 -18h, dòng người từ khắp các tỉnh thành đổ về đây để dự lễ. Tất cả các tuyến đường xuyên qua nội ngoại vi thành phố Nam Định đều ùn tắc, 21h trở đi thì cả khu vực sân bãi kéo từ cửa đền ra tận quốc lộ 10, hướng đi Thái Bình, hướng đi Ninh Bình, hướng đi Hà Nội, cả ba phía đều đông nghẹt như như nêm những người và xe cộ. Hàng vạn xe ô tô các loại nối đuôi nhau xếp dọc dài hàng chục km, hai bãi đỗ ô tô rộng gần 6ha mà vẫn không đủ sức chứa, nhiều xe phải chui vào các nhà dân, các trụ sở cơ quan ở bốn phía xung quanh đền. Còn xe máy thì không biết bao nhiêu mà kể. Nhiều xe không còn chỗ có chủ trông giữ, các chủ xe đành khóa cửa an toàn rồi bỏ mặc bên vệ đường mà đi vào hội. Được biết tỉnh Nam Định, có năm, huy động tới gần 2.000 chiến sĩ và quân đội, cùng với hàng trăm bảo vệ là người của phường sở tại tham gia bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Lễ Khai ấn đền Trần bản chất là một lễ hội rất giàu ý nghĩa. Ảnh: InternetCó năm, tất cả các phía vào cổng đền đều được dựng nên hàng rào bằng sắt để ngăn dòng người không thể vào được sân chính, bởi vì ở đó là nơi đón khách Nhà nước cấp trung ương về làm lễ và đóng ấn. Khách vào đền được chia làm hai loại, loại thẻ xanh thì chỉ được vào qua hàng rào sắt thứ nhất, đứng đợi ở hai bên tả hữu (Cổ Trạch phía Đông, Trùng Hoa phía Tây). Chỉ có loại thẻ đỏ mới vào được sân khai ấn. Số thẻ đỏ chỉ vào khoảng trên dưới 1.500 người tức là bằng một phần ngàn số người tham gia lễ hội và có mong muốn lấy được tờ ấn. Bởi thế mới có chuyện xô đẩy nhau, bẻ gãy, đạp đổ hàng rào sắt là chuyện dễ xảy ra (sức người mà). Chuyện mật độ người đông như thế nên trộm cắp cũng phải xảy ra, thôi thì điện thoại di động, ví tiền, đồng hồ và những đồ kim loại quý đeo trên người... kẻ xấu cứ thích cánh lấy đi. Chuyện may cả năm chưa thấy nhưng chuyện rủi đầu năm đã xảy ra trướ c khi giờ khai ấn điểm linh. Thế mới biết kẻ gian rất xem thường cả chốn cửa thần linh. Bảo không linh thì sao dại gì mà vượt chặng đường dài cả trăm, cả ngàn km về được đến đây, còn chuyện kẻ gian làm chuyện xấu ở những nơi này chả biết thế nào về hậu vận. 2. Trở lại lịch sử khai ấn của nhà Trần, vào năm 1239 tại phủ Thiên Trường, vua Trần làm lễ tế tổ tiên và mở tiệc chiêu đãi phong chức cho những quan quân có công, đến khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thì lễ khai ấn bị gián đoạn, phải đến năm 1262 Thượng hoàng Trần Thánh Tông mới cho mở lại. Việc mở lại lần này tiếp đến bao giờ thì dứt cũng không thấy sử sách nào ghi và bản thân chiếc ấn cũ mang dòng chữ “Trần triều chi bảo” cũng không còn. Mãi đến năm 1822 vua Minh Mạng qua đây mới cho khắc lại ấn mới và mang dòng chữ “Trần triều điển cố” và thêm chữ “Tích đức vô cương”. Từ đó hàng năm cứ đến ngày rằm tháng Giêng, từ 23h ngày 14 đến 1h sáng ngày 15 là diễn ra lễ khai ấn, đây là một tập tục văn hóa rất có ý nghĩa nhân văn, vừa tri ân tiên tổ vừa nhắc nhở nhau chấm dứt các hoạt động vui chơi để chuẩn bị bắt tay vào công việc mới với những luồng sinh khí mới. Ngày nay, việc đồn thổi giá trị thiêng liêng từ tờ ấn ở đền Trần đã đi đến chỗ thái quá thành dị đoan. Kẻ bất tài, tham nhũng, lười biếng nhưng lại những mong thăng tiến thì xã hội đương thời cũng chẳng thèm chấp nhận, huống hồ anh linh các vị vua Trần dưới thời Đại Việt quốc gia, ba lần đánh tan giặc ngoại xâm càng không bao giờ ủng hộ cho cái lối “ nằm ngửa chờ sung rụng” như thế. 3. Tôi cũng có đôi lần đi lễ hội đền Trần nhưng là cốt để thắp nén nhang tri ân và ngưỡng mộ đức tài thao lược của các vua Trần và xem khai ấn, tuyệt nhiện không có ý cầu may bởi ngẫm mình là kẻ học chưa hết chữ, chỉ số IQ ở vào hạng xóa mù, vốn cơ bản là cuốn sổ hưu, hơn 40 năm trời lội suối trèo đèo, cả đạn bom ngoài tuyến lửa... nên có cầu thì cung cũng chẳng có nữa. Đi nhận ấn bây giờ nói như một nhà báo bạn tôi: “Mỗi lần nhận ấn là một lần tự hứa với mình, với tổ tiên sông núi về trách nhiệm trước công việc mình đang làm chứ không phải hy vọng vào may rủi. Và may trong lĩnh vực nào chứ tài hèn đức mỏng lại gặp may trong đường hoạn lộ thì quả là tai họa cho người liên quan đến trách nhiệm của mình”. Chuyện lễ hội và nghi thức đóng ấn ở đền Trần đang có nhiều ý kiến nêu lên là bỏ. Bỏ thì mất một kỳ lễ hội rất nhiều ý nghĩa truyền thống văn hóa, có nên chăng chỉ là bỏ phần đóng ấn. Lãnh đạo Nhà nước từ nay nên bỏ hẳn việc đóng ấn như đã làm. Bởi làm như thế vô tình đã đổ dầu thêm vào đốm lửa dị đoan, làm cho ngọn lửa thêm bùng cháy. Mà thay vào đó là việc vinh danh, trao phẩn thưởng cho những công dân Việt Nam lập công xuất sắc hàng năm thì hay biết mấy. Nếu được như thế thì những mục đích cầu may, thăng tiến vô vọng ấy sẽ giảm đi rất nhiều, người đến lễ hội cũng giảm đi làm cho trật tự trị an trở lại bình thường. Chỉ có thế thì lễ hội đền Trần mới thực sự là một dịp tri ân báo đức, báo công với các thế hệ vua Trần. Nguyễn Văn Bảo (Hội Di sản văn hóa Việt Nam) =================================================================================================================== Có lẽ nên mời Giáo sư Ngô Bảo Châu làm người đại diện khai ấn năm nay và sẽ có đông học sinh, sinh viên tham dự
-
Sư phụ Thiên Sứ thì chỉ làm thầy thôi. Tin mới nhận là sư huynh Thiên Đồng đang chuẩn bị mở lớp phong thủy tiến sĩ.
-
Chuyện bây giờ mới kể: Chúc tết Sư phụ và được lì xì cái phong bì đo đỏ Ăn ngon và uống say xưa. Về nhà Mở phong bì ra Trời ui, thấy tờ 100 usd. Hihihi sướng quá nhà nước ơi.
-
Làm gì có tiến sĩ phong thủy
-
I. Đặt vấn đề Cuộc tranh chấp biển Đông vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp biển Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, vả lại, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà hơn thế nữa nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ. Cuộc va chạm mới đây giữa một chiếc tàu nghiên cứu hải dương của Mỹ với 5 tàu chiến Trung Quốc, sau đó là cuộc khẩu chiến trên các báo của hai bên, phía Mỹ giải thích vùng biển này là biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực hiện các nghiên cứu biển trong vùng đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng biển thuộc chủ quyền của họ. Vấn đề này lại làm nóng lên yêu sách của Trung Quốc về các đảo, đá và vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” gây nhiều tranh cãi. Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực do Trung Quốc yêu sách gần 80% biển Đông là vùng nước lịch sử của họ sẽ có tác động rất lớn đến việc phân định các đường biên giới biển của khu vực này trong tương lai, và cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền lợi trên biển của Việt Nam. Do đó, nhu cầu nghiên cứu vấn đề này là một vấn đề cần thiết. II. Các yêu sách về “đường lưỡi bò” Yêu sách về “đường lưỡi bò” được đưa ra một cách không chính thức từ hai chính quyền: một là Cộng Hòa Trung Hoa, sau thất bại năm 1949 phải chạy ra Đài Loan (từ thời điểm này gọi là chính quyền Đài Loan), và từ chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949 tới nay (gọi tắt là chính quyền Trung Quốc). 1. Yêu sách về đường lưỡi bò của Cộng Hòa Trung Hoa Theo một số học giả cả ở Trung Quốc và ở Đài Loan[1] thì năm 1935, để đối phó với yêu sách của Pháp đối với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, Cộng hòa Trung hoa đã cho xuất bản một bản đồ chính thức đầu tiên là Zhongguo Nanhai gedao yu tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”. Tháng 2 năm 1947, Bộ nội vụ đã tiếp tục cho xuất bản Bảng tài liệu tra cứu tên cũ của các đảo biển ở biển Đông, trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau đó, tháng 1 năm 1948, Bộ Nội Vụ nước Cộng Hòa Trung Hoa chính thức công bố một bản đồ có tên Nanhai zhudao weizhi tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), tháng 2 năm 1948 bản đồ này được xuất bản chính thức, trên bản đồ này có xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là đường hình chữ “U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” bởi nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống biển Đông[2], đường này được thể hiện trên bản đồ lúc này là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn. Trong bản đồ đó đường chữ “U” hay “đường lưỡi bò” này được thể hiện bao trùm xung quanh cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông, đó là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels), Trường Sa (Spratlys) và Pratas (Trung Quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung quốc gọi là Trung Sa). Hình 1: Bản đồ vẽ đường lưỡi bò của Đài Loan năm 1988[3] “Đường lưỡi bò” này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, chạy xuống phía Nam tương tự như hình dáng của bờ biển Đông và Đông Nam Việt Nam tới cực Nam của bãi đá san hô Scaborough Shoal (Tăng Mẫu) và sau đó quay ngược lên phía Bắc theo hướng đi song song với đường bờ biển phía Tây Sabah của Malaysia và Palawan của Philippines và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo Bashi nằm giữa Đài Loan và Philippines. Đường này được vẽ tùy tiện và không có tọa độ xác định chính xác[4]. Năm 1988, sau cuộc đụng độ giữa hải quân của Trung Quốc và Việt Nam, một nhóm học giả của Đài Loan đã được tập trung lại để nghiên cứu về vấn đề “vùng nước lịch sử” và bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò”. Một học giả của Đài Loan là Yann Huei Song sau khi tổng kết các quan điểm của các học giả Đài Loan trong nhóm nghiên cứu cho biết có hai nhóm ý kiến của các học giả Đài Loan về vấn đề này: Một nhóm cho rằng vùng nước được bao bọc trong “đường lưỡi bò” được coi như là “vùng nước lịch sử” của Cộng Hòa Trung Hoa. Lập luận này được chứng tỏ bởi hai lý do, thứ nhất, khi bản đồ được xuất bản vào năm 1948, không có sự phản đối cũng như không có phản ứng nào được đưa ra, thứ hai, việc yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử đã không vi phạm Điều 4(1) của UNCLOS (Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982). Nhóm thứ hai thì chống lại quan điểm này, họ cho rằng yêu sách vùng nước lịch sử của Cộng Hòa Trung Hoa khó có thể biện minh được: đó là “đường lưỡi bò” được vạch ra một cách tùy tiện, không thể định vị đường này trên biển vì thiếu hệ thống tọa độ cũng như khái niệm về vùng nước lịch sử đã trở nên lỗi thời, khó có thể sử dụng để trợ giúp cho yêu sách của chính quyền Đài Loan. Tuy nhiên, cuối cùng Ủy ban nghiên cứu về vấn đề này của Đài Loan đã chấp thuận với quan điểm của nhóm đầu tiên. 2. Yêu sách về đường lưỡi bò của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Trung quốc đưa ra những yêu sách về đường lưỡi bò dựa theo quan điểm của bản đồ xuất hiện đường lưỡi bò đầu tiên của Cộng Hòa Trung Hoa năm 1948. Năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, quốc gia này sau đó thay thế Cộng Hòa Trung Hoa trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Năm 1949, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như trên bản đồ trước đó gồm 11 đoạn. Tuy nhiên, đến năm 1953, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Trong suốt một thời gian dài, mặc dù cho xuất bản bản đồ có thể hiện “đường lưỡi bò” như trên, nhưng cả Chính phủ Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về “đường lưỡi bò” đó. Còn về phía Trung Quốc thì tháng 7 năm 1996, nhà xuất bản Thông tin kinh tế Hồng Kông cho xuất bản cuốn “The petropolitics of the Nansa islands – China’s indisputable legal case” của Phan Thạch Anh (Pan Shi Ying)[5], theo lời của ông ta thì “chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thông qua việc ấn bản các bản đồ này muốn gửi ba thông điệp tới cộng đồng quốc tế: a. Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử. b. Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau thay bằng 9 đoạn) đã được vạch ra theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa và đường bờ biển của các quốc gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó của chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý. c. Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc “chưa dứt điểm” để lại những khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai. Năm 2003,Li Jin Ming và Li De Xia của Trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) đã công bố một bài viết đăng trên tạp chí Ocean Development and International Law, tiếp tục trình bày và làm rõ về lập luận đối với “đường lưỡi bò” này. Hai học giả này đã tổng kết một số quan điểm của các học giả Trung Quốc, trong đó hầu hết là khẳng định về chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo và các vùng nước xung quanh các đảo đó nằm trong “đường lưỡi bò”. Các học giả Trung Quốc này được hai học giả trích dẫn đã đưa ra quan điểm là “đường lưỡi bò”bao trùm hầu như toàn bộ biển Đông này thể hiện “danh nghĩa lịch sử” của Trung Quốc, và vùng nước bên trong, do con đường này bao bọc xung quanh là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của Trung Quốc. Mặc dù “Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ các cột nước của vùng biển Đông”, nhưng “tất cả các đảo và vùng nước kế cận trong đường biên giới này phải thuộc quyền tài phán và kiểm soát của Trung Quốc”. Như vậy, lập luận về chủ quyền đối với các đảo, đá, bãi nằm trong “đường lưỡi bò” cũng như bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò” của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa cũng có nhiều điểm tương tự và bắt nguồn từ bản đồ đầu tiên thể hiện đường này của Cộng Hòa Trung Hoa trước đó. Hình 2: Bản đồ vẽ đường lưỡi bò của Trung Quốc năm 1999[6] III. Phân tích các yêu sách về “đường lưỡi bò”theo luật quốc tế 1. Yêu sách của Cộng hòa Trung Hoa Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong một số hoàn cảnh hạn chế. Điều 10 (6) của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng nước như vậy, và một số các vịnh biển mà không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính thức của một “vịnh” theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian. Tuy vậy, các cường quốc trên biển, đặc biệt là Mỹ, đã nỗ lực giữ cho khái niệm này không được chấp nhận rộng rãi nhằm duy trì sự tự do hàng hải. Khái niệm về yêu sách lịch sử được chấp nhận vào năm 1951 bởi Tòa án quốc tế (ICJ) khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước này. Những yêu sách về chủ quyền lịch sử cũng được chấp nhận trong những hoàn cảnh thích hợp tại Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải. Gần đây, trong vụ án Vịnh Fonseca, Tòa án quốc tế đã chấp nhận vịnh Fonseca là một vịnh lịch sử và vùng nước của nó là vùng nước lịch sử. Năm 1962, Ủy ban pháp luật quốc tế đã thực hiện một nghiên cứu với tựa đề: “Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vịnh lịch sử”, trong nghiên cứu này đã có những câu trả lời cho câu hỏi những tiêu chuẩn nào sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp của một yêu sách chủ quyền lịch sử. Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất là hai điều kiện sau: 1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này. Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là vùng nước lịch sử thì quy chế pháp lý đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng nước này được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải chứng minh được là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bao bọc trong “đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ quyền đối với các vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh hải thì quốc gia yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử. a. Đối với yêu sách như các vùng nội thủy Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thủy, một quốc gia ven biển thực thi chủ quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tàu nước ngoài không có quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thủy của quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó. Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi là vùng nội thủy không? Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan là không[7], bởi những lý do sau đây: thứ nhất, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” như là vùng nội thủy. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” này từ khi “đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm 1948, và chính quyền Cộng Hòa Trung Hoa đã không có một hành động nào ngăn cản các tàu nước ngoài qua lại vùng này. b. Đối với yêu sách như “lãnh hải”. Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS) thì: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Mọi quốc gia có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình. Tàu thuyền nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng lãnh hải của các quốc gia ven biển, trừ khi có các điều khoản, điều ước chuyên môn khác. Đối với vùng trời phía trên lãnh hải, các máy bay nước ngoài được quyền bay qua không gây hại. Vậy thì câu hỏi tiếp theo là các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” có thể được coi là lãnh hải của Trung Quốc không? Câu trả lời của Yann Huei Song cũng là không. Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ năm 1948 khi bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày ở trên, máy bay của nước ngoài không được phép bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh hải quốc gia ven biển. c. Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo. Khái niệm về các vùng nước quần đảo là một khái niệm mới trong luật biển quốc tế, được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS III), theo đó, các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở thẳng của quần đảo là vùng nước quần đảo, nó không phải là nội thủy, cũng không phải là lãnh hải. Một quốc gia quần đảo có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ quyền quốc gia “được mở rộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng như đến đáy của vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các nguồn tài nguyên ở đó”. Tàu nước ngoài được quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu biển và máy bay nước ngoài được quyền có đường hàng hải, đường hàng không đi qua vùng nước quần đảo. Do chế độ pháp lý của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn hội nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 – 1982) và bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” xuất bản lần đầu năm 1948, nên khó có thể chứng minh được vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” đó có được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng Hòa Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình đối toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường này, thay cho quyền đi qua không gây hại và quyền được qua lại các tuyến hàng hải và hàng không đã được ấn định của vùng nước quần đảo. Vì thế, có thể kết luận là toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem là các vùng nước quần đảo của Cộng hòa Trung Hoa. 2. Yêu sách của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng nước trong đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài. Điều này thật không đơn giản, bởi vì: Thời điểm mà Trung Quốc thực sự đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa là năm 1909, với hành động của Lý Chuẩn, tuy nhiên lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh thổ vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816. Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát [8]. “Đường lưỡi bò” không thể hiện được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế khó mà biểu thị là một đường biên giới được. Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc dù “đường lưỡi bò” đã xuất hiện trên các bản đồ xuất bản ở Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này như các vùng nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã không tuyên bố như vậy trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III[9]. Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít nhất các quốc gia phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra. Như vậy, kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó. Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhấn mạnh rằng: “Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”[10]. Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy, Tuyên bố và các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm 1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được phân định bởi “đường lưỡi bò”[11]. Tuyên bố về đường cơ sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập mờ này của họ bởi họ yêu sách một đường cơ sở nối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề cập gì đến Trường Sa. Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[12], và thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc hay tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Malaysia, Philippines và Trung Quốc cho thấy không thể nói là “đường lưỡi bò” được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, có thể nói là yêu sách này chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế. IV. Kết luận Yêu sách về “đường lưỡi bò” bắt đầu từ một bản đồ của Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948. Sau này, cả Đài Loan và Bắc Kinh đều đã dựa vào bản đồ đó để biện minh cho yêu sách về vùng biển này trên biển Đông. Bản chất thực sự của yêu sách này vẫn đang bị bao phủ bởi sự bí ẩn, cả Trung Quốc và Đài Loan đều mập mờ với các tuyên bố không rõ ràng. Tuy nhiên, những hoạt động của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc thực tế đang yêu sách tất cả các vùng nước và tài nguyên nằm trong vùng biển này. Những phân tích về yêu sách này theo luật pháp quốc tế cho thấy vì cơ sở pháp lý thiếu thuyết phục cho nên “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không đưa ra những yêu sách lịch sử của mình với các tọa độ rõ ràng, và giữ im lặng về bản chất của đường lưỡi bò và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bọc bởi đường đó”. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng không nhất trí được với nhau về chế độ pháp lý của vùng biển bị bao bọc bởi đường lưỡi bò này[13]. Các học giả Trung Quốc đã nỗ lực tìm mọi luận cứ biện minh cho yêu sách này của họ, còn các học giả nước ngoài thì đưa lại những ý kiến khách quan hơn. Nhóm Mark J Valencia cho rằng: “ một yêu sách của Trung Quốc coi biển Nam Trung Hoa là một vùng nước lịch sử không thể đứng vững được dưới góc độ pháp luật quốc tế hiện đại”[14]. Xa hơn nữa, Hamzah cho rằng: “ Một số nước yêu sách toàn bộ biển Nam Trung Hoa như là của riêng họ dựa trên cơ sở lịch sử. Các yêu sách như vậy chẳng có gì là lạ và chẳng đáng đề cập đến… Yêu sách đơn phương đối với toàn bộ biển Nam Trung Hoa của một quốc gia sẽ chẳng có gì chú ý đến.. Dù suy diễn như thế nào chăng nữa cũng không thể coi biển Nam Trung Hoa như là vùng nội thủy hoặc hồ lịch sử để làm cơ sở khẳng định yêu sách. Vì vậy, khu vực yêu sách này là phù phiếm, không có căn cứ và không hợp lý…Tôi cố gắng thuyết phục tất cả các quốc gia bác bỏ các yêu sách đối với toàn bộ biển Nam Trung Hoa (hay đòi hỏi một khu vực có liên quan) vì không có cơ sở nào trong luật cũng như trong lịch sử”[15]. Dựa trên pháp luật quốc tế hiện đại, chúng ta có thể kết luận về yêu sách về “đường lưỡi bò”này của Trung quốc “không có cơ sở yêu sách nào trong luật quốc tế cho yêu sách lịch sử đó[16]”, “yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể coi là một vấn đề pháp luật nghiêm chỉnh”[17]. “Các yêu sách về khu vực như thế là mơ hồ và lố bịch giống như Sắc chỉ của Giáo Hoàng ngày 4/5/1993, chia đại dương thế giới cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha”[18]. Hoàng Việt, Giảng viên Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
-
Đường yêu sách 9 đoạn không được thừa nhận ham vọng đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc với cơ sở pháp lý quốc tế thiếu thuyết phục chưa bao giờ được cộng đồng quốc tế thừa nhận chính thức – ý kiến của độc giả gửi về VietNamNet xung quanh việc Trung Quốc cung cấp dịch vụ bản đồ trực tuyến “Map World”, trong đó vẫn tiếp tục thể hiện đường yêu sách 9 đoạn trên Biển Đông. Không phải lần đầu tiên Trung Quốc “công bố” tham vọng về đường yêu sách 9 đoạn ở Biển Đông, độc giả Trần Chính (Hà Nội) cho hay hành động mới nhất của Trung Quốc không chỉ tái diễn vi phạm chủ quyền của Việt Nam, mà hơn bao giờ hết, Trung Quốc, với thái độ “phớt lờ” luật pháp quốc tế, ngày càng quyết liệt thực hiện tham vọng ôm trọn hầu hết diện tích Biển Đông. Điều đáng nói, tham vọng đó dựa trên ý chí chính trị lớn hơn cơ sở pháp lý quốc tế cần thiết phải có. Trung Quốc chưa bao giờ “nói to” được cái lý của mình. Đó là cơ sở pháp lý quốc tế của đường yêu sách mang tính thuyết phục được cộng đồng quốc tế thừa nhận chính thức. Biển Đông không thuộc về một quốc gia riêng lẻ, đường yêu sách 9 đoạn do đó là tham vọng đơn phương với tất cả sự khó hiểu. “Không đưa ra được căn cứ pháp lý quốc tế tín nhiệm chính thức nên Trung Quốc dường như chọn thái độ mập mờ về bản chất của đường lưỡi bò và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bọc bởi đường yêu sách 9 đoạn”, độc giả nêu. Độc giả Nguyễn Quyết (Hà Nội) đồng tình ngay cả lấy mốc thời gian trở ngược quá khứ lịch sử phong kiến xa xưa, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng nào thuyết phục về chủ quyền trên hầu hết toàn bộ Biển Đông rộng lớn một cách liên tục, hòa bình. Vì lẽ đó, đường yêu sách 9 đoạn tự vẽ là sự thừa nhận vô lý. “Map World cũng như các bản đồ trước đó của Trung Quốc thể hiện đường yêu sách 9 đoạn khiến ngày càng gia tăng sự nghi ngại về tham vọng bành trướng Biển Đông của quốc gia này”, độc giả Quyết viết trong thư phản hồi. Độc giả Hữu Hào (TP HCM) cũng cho rằng một yêu sách mang tính đơn phương không có cơ sở nào cả trong luật pháp quốc tế lẫn trong lịch sử như yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc là sự đi ngược phát triển của luật biển quốc tế hiện đại. Cách hành xử “nói một đằng làm một nẻo” sẽ gây tổn hại đến hình ảnh của một cường quốc luôn khẳng định sự trỗi dậy của mình là “hòa bình” và yêu chuộng hợp tác! Điều này đặt câu hỏi về thái độ ứng xử thực chất của Trung Quốc khi mà chỉ mới đây không lâu, lời cam kết của Trung Quốc cùng ASEAN trong một hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực thi đầy đủ tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) vẫn chưa ráo mực? Độc giả cho rằng, Trung Quốc cần có cách ứng xử một cách có trách nhiệm hơn trong vấn đề Biển Đông vì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực : “Chủ quyền lãnh hải luôn là vấn đề nhạy cảm. Trong khi các nước trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế nỗ lực tìm kiếm giải pháp công bằng cùng chấp nhận được cho các bên liên quan tranh chấp ở Biển Đông, qua đó đảm bảo hòa bình, ổn định lâu dài cho khu vực, thì hành động hôm 18/1 của Trung Quốc chỉ làm cho tình hình thêm rối ren, phức tạp”, độc giả này nhấn mạnh. Đồng tình với độc giả Hào, độc giả Thái Hà (Đà Nẵng) cho rằng thay vì chọn cách mập mờ, im lặng về đường lưỡi bò khó hiểu 9 nét hay 11 nét như trước đây, Trung Quốc không nên lẩn tránh mà cần hành xử một cách có trách nhiệm thông qua việc đối thoại với các nước trong khu vực về các khác biệt nảy sinh, thể hiện trách nhiệm là thành viên tin cậy của các cơ chế luật pháp quốc tế như Công ước về Luật biển hay Tuyên bố DOC về ứng xử ở Biển Đông. “Tôi không ảo tưởng sẽ xảy ra chuyện một ngày nào đó Trung Quốc bỏ đường lưỡi bò hình chữ U trong các bản đồ của họ. Sẽ không bao giờ có chuyện đó. Vậy thì thái độ của các nước ra sao? Trung Quốc ứng xử trách nhiệm thế nào là điều phải rõ. Rõ ràng cơ chế đối thoại chung và những hành xử có tính ràng buộc pháp lý là sự cần thiết ”, độc giả Thái Hà nêu quan điểm. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng cả về lịch sử lẫn pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông - bản đồ của Trung Quốc thể hiện đường yêu sách 9 đoạn trên Biển Đông là sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam nghiêm trọng - nhiều độc giả gửi thư phản đối hành động này của Trung Quốc. Độc giả Thành Lưu (Thanh Hóa) cho rằng để Biển Đông không “dậy sóng” thì trước hết phải chấm dứt câu chuyện đường lưỡi bò. Đường lưỡi bò, vốn không có giá trị pháp lý quốc tế chính thức thuyết phục, chừng nào còn tồn tại, sẽ khó giải quyết những bất ổn ở Biển Đông.Trung Quốc cần phải xem xét lại tham vọng đơn phương của mình với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc sâu sắc.
-
Lại bàn về đường lưỡi bò trong Biển Đông Việc duy trì một con đường không khoa học, không khách quan, không phù hợp luật pháp quốc tế làm xấu đi hình ảnh một đất nước Trung Quốc trỗi dậy hòa bình. Ngày 26/1/2011, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã ra tuyên bố phản đối việc Cục Đo đạc Bản đồ quốc gia Trung Quốc từ ngày 18/1/2011 cung cấp dịch vụ bản đồ trực tuyến "Map World", trong đó vẫn tiếp tục thể hiện đường yêu sách 9 đoạn trên Biển Đông. Hành động này diễn ra ngay khi Trung Quốc - ASEAN đang có cuộc họp về DOC (Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông) tại Côn Minh (Trung Quốc), chứng tỏ Trung Quốc vẫn cố tình đi ngược lại những chuẩn mực chung của luật biển quốc tế. Sau công hàm ngày 7/5/2009 của Phái đoàn thường trực CHND Trung Hoa tại Liên hợp quốc lần đầu tiên thông báo yêu sách đường lưỡi bò với cộng đồng quốc tế, tháng 4/2010, các quan chức Trung Quốc lại tuyên bố trong một cuộc gặp với quan chức Mỹ về quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc ở Biển Đông, không nhượng bộ trong việc đòi chủ quyền theo đường lưỡi bò, tương tự như Đài Loan và Tây Tạng. Đồng thời với việc tăng cường các hoạt động trên biển, các học giả Trung Quốc và Đài Loan phối hợp tìm nhiều cách giải thích khác nhau để bảo vệ cái gọi là sự đúng đắn của đường lưỡi bò trên diễn đàn hàng loạt các hội nghị quốc tế về an ninh khu vực. Anfred Hu, Đại học Quốc gia Cheng Kung, Đài Loan cho rằng quan điểm của Trung Quốc về đường chữ U đứt khúc 9 đoạn là nhất quán và đã được quốc tế công nhận rộng rãi. Đường này trước kia gồm 11 đoạn đã được Vụ lãnh thổ và biên giới thuộc Bộ Nội vụ Trung Hoa Dân quốc thể hiện trên bản đồ từ năm 1946 và không có nước nào phản đối. Điều này thể hiện sự sử dụng lâu đời và danh nghĩa lịch sử của con đường. Ji Guaxing, GS Đại học Thanh Hoa - Bắc Kinh bổ sung đường biên giới truyền thống trong biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX cho đến năm 1947 trong các bản đồ tư nhân. Vào nửa năm đầu 1947, Bộ Nội vụ Trung Hoa Dân quốc mới chính thức vẽ đường chữ U. Tháng 2/1948, Bộ Nội vụ cho biết đã in bản đồ hành chính Trung Quốc chính thức yêu sách chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong phạm vi đường chữ U. Trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối đường chữ U này. Điều đó chứng tỏ họ đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường chữ U cũng như tính chất lịch sử của nó. Điều đó cũng chứng tỏ họ đã công nhận cả bốn quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc. Ông cho rằng các nước đã có sự hiểu nhầm khi áp dụng Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982. Không có điều khoản nào trong Công ước cho phép các quốc gia ven biển mở rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình lại đòi hỏi chủ quyền các đảo nằm trong các vùng biển đó nhưng thuộc quốc gia khác. Hơn nữa, Công ước Luật biển lại công nhận và bảo vệ danh nghĩa lịch sử. Vì vậy không thể dùng Công ước Luật biển làm cơ sở xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo và vùng nước phụ cận. Biển Đông có diện tích 3,5 triệu km2 trong khi đường chữ U chỉ chiếm 55% diện tích đó chứ không phải 80% như các nước tuyên truyền. Tuy nhiên, ông thấy khó xử khi Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc năm 1992 lại không có ngoại lệ cho Biển Đông, nghĩa là sẽ có một vùng nước lịch sử nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, mặc dù điều 14 của luật này có nói quy định này không ảnh hưởng đến quyền lịch sử của CHND Trung Hoa. Ông tìm cách xoa dịu dư luận bằng lập luận đường chữ U không phải là đường vùng nước lịch sử mà là đường vùng nước lịch sử đặc biệt, nghĩa là Trung Quốc có một số quyền lịch sử xác định trong đường đó như một số ưu tiên về hàng hải, đánh cá và khai thác tài nguyên. Vùng chồng lấn giữa đường vùng nước lịch sử đặc biệt này của Trung Quốc với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác sẽ tạo ra các vùng tranh chấp khác nhau. Mô hình "gác tranh chấp cùng khai thác" có thể áp dụng phía bên trong đường chữ U với 50/50 phân chia lợi tức giữa Trung Quốc và các nước. Công thức phân chia 40/60 mà Trung Quốc hưởng phần ít hơn sẽ áp dụng cho các vùng nước nằm ngoài đường chữ U. Cần thấy rằng các tác giả trên quá tự tin khi khẳng định rằng đường chữ U đã được cộng đồng quốc tế công nhận và các quốc gia liên quan không có sự phản đối. Trước hết, thời điểm xuất hiện của đường lưỡi bò còn chưa được các tác giả thống nhất. Thứ hai, nguồn gốc đường này chỉ là một dạng xuất bản tư nhân. Thứ ba, một đường lúc thì 11 đoạn, lúc thì 9 đoạn, vẽ tùy tiện, không tọa độ, không rõ ràng làm sao có khả năng thể hiện một đường yêu sách biên giới rõ ràng theo đúng các quy định của luật quốc tế để các quốc gia khác phải bận tâm. Thứ tư, vào thời điểm đường lưỡi bò đang được Bộ Nội vụ Trung Hoa in trên bản đồ, Pháp đã đưa tàu và quân ra đóng giữ đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tiếp tục duy trì danh nghĩa chủ quyền kế thừa từ Nhà nước phong kiến An Nam và hoạt động chiếm hữu theo luật quốc tế của Pháp năm 1933. Hoạt động thực tiễn này chẳng phải là sự phản đối hùng hồn ý định yêu sách hai quần đảo bằng cách vẽ đường chữ U từ phía nước láng giềng phương Bắc đó sao? Thứ năm, Hiệp ước hòa bình San Francisco 1951 không đả động chút gì tới đường chữ U. Ngay cả Tuyên bố của Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1951 về dự thảo Hiệp ước San Francisco cũng đâu có nhắc gì đến đường chữ U. Vì vậy không thể nói đã có sự công nhận quốc tế. Thứ sáu, thực tế tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như đòi hỏi của Philippines, Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy không thể nói đường chữ U trên Biển Đông mà Trung Quốc vạch ra đã được các nước khác công nhận. Thứ bảy, ngay cả những nước không liên quan gì đến tranh chấp cũng thể hiện quan điểm không đồng tình. Mỹ không công nhận bất kỳ vùng biển nào không gắn với đất liền và đảo. Indonesia cho lưu chuyển tại Liên hợp quốc ngày 8/7/2010 Công hàm không chấp nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc. Lập luận đường chữ U là đường vùng nước lịch sử đã không thể thuyết phục được cộng đồng quốc tế vì ngay cả trong tài liệu chuẩn bị cho Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1958 trong danh sách các vùng nước lịch sử của thế giới không có tên một vùng nước nào trong Biển Đông. Công ước Luật biển năm 1982 đâu có chấp nhận một vùng nước lịch sử nào. Điều 15 của Công ước mà các tác giả Trung Quốc viện dẫn chỉ quy định trường hợp phân chia lãnh hải rộng 12 hải lý theo đường cách đều hoặc trung tuyến trừ khi có danh nghĩa lịch sử hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Không có bất kỳ một quy định nào viện dẫn danh nghĩa lịch sử cho vùng biển rộng hơn 12 hải lý chứ đừng nói cách bờ vài trăm hải lý như đường chữ U. Cho nên không thể nói Công ước luật biển công nhận và bảo vệ cho danh nghĩa lịch sử. Các tác giả Trung Quốc đành đưa ra một khái niệm mới đường chữ U là đường vùng nước lịch sử đặc biệt. Thế nhưng việc vach một đường yêu sách vùng biển rồi đòi chủ quyền trên các đảo nằm trong phạm vi đường đó không chỉ không phù hợp với Công ước luật biển năm 1982 mà còn đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản mang tính lịch sử của luật biển quốc tế là Đất thống trị biển. Phải có chủ quyền trên đất liền và các đảo mới có quyền đòi hỏi mở rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton đã phát biểu rất đúng tại Hội nghị ARF 17 tại Hà Nội tháng 7/2010 rằng: “Phù hợp với luật tập quán quốc tế, yêu sách hợp pháp vùng biển trong Biển Đông cần phải được bắt nguồn chỉ từ các yêu sách hợp pháp với đất liền và đảo”. Và khó có thể tưởng tượng được một vùng nước lịch sử đặc biệt lại nằm trong cùng một vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc tìm cách giảm số liệu vùng biển trong phạm vi đường chữ U từ 80% xuống 55% không che đậy được thực chất của vấn đề độc chiếm Biển Đông. Vì ngay trong đề nghị tiếp sau, Ji Gouxing đã đưa ra công thức 50/50 cùng khai thác trong phạm vi đường chữ U và 40/60 ngoài phạm vi đường chữ U nghĩa là công thức gác tranh chấp cùng khai thác được áp dụng trên toàn bộ Biển Đông chứ đâu dừng ở con số 80%. Việc duy trì một con đường không khoa học, không khách quan, không phù hợp luật pháp quốc tế làm xấu đi hình ảnh của một đất nước Trung Quốc trỗi dậy hòa bình, đồng tác giả của năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và là trở ngại chính cho mọi giải pháp giải quyết tranh chấp trong Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. ____________________________________________________________________ Hình ảnh của Trung quốc đã xấu rồi, ai cũng biét mà.
-
Đường lưỡi bò và 'chuẩn mực kép' của Trung Quốc Đưa đường lưỡi bò vào bản đồ trực tuyến "Map World" khi lời cam kết của Trung Quốc cùng ASEAN nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực thi đầy đủ tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) chưa kịp lắng xuống khiến công luận một lần nữa phải lấy làm khó hiểu. Phải chăng, có một khoảng cách giữa những mỹ từ và hành động thực chất của cường quốc đang trỗi dậy này? Đường yêu sách vô lý Đường "lưỡi bò", "chữ U" hay "đứt đoạn"... là những cách gọi khác nhau mà các học giả trên thế giới dùng để chỉ yêu sách của Trung Quốc đối với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven Biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính quyền Trung Quốc (Quốc dân Đảng) vẽ ra vào năm 1947 và sau đó được CHND Trung Hoa tiếp tục sử dụng nhưng có sửa đổi (bỏ bớt hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn). Công hàm của Trung Quốc đệ trình lên Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng ngày 7/5/2009 có lẽ là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về ý nghĩa pháp lý quốc tế của đường yêu sách 9 đoạn và cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố sơ đồ đường yêu sách này với thế giới. Ngoại trừ các học giả Trung Quốc, tất cả các học giả nước ngoài đều chỉ rõ, đường lưỡi bò của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn. Vùng nước trong "đường lưỡi bò" chiếm 80% diện tích Biển Ðông mà Trung Quốc cho là "vùng nước lịch sử" là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một vùng biển lớn nhất nhì thế giới thuộc về quyền tài phán của một nước. Thậm chí, Indonesia, một nước không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông cũng phải chính thức gửi công hàm phản đối "đường lưỡi bò", cho rằng bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc là "rõ ràng không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các quy định của Công ước Luật biển 1982". Thế giới sẽ nghĩ gì về hành động vừa qua của Trung Quốc trong khi mới tháng 10/2010, nước này cùng ASEAN đã long trọng "cam kết triển khai đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng tới thông qua bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trên cơ sở đồng thuận, qua đó góp phần vào hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực"? Đáng nói hơn, động thái này xảy ra chỉ vài ngày trước khi cuộc họp cấp ngoại trưởng Trung Quốc - ASEAN để kỷ niệm 20 năm hợp tác. Khoảng cách giữa mỹ từ và hành động thực tế Đây không phải là lần đầu tiên, cường quốc đang lên tại khu vực "nói vậy mà không làm vậy". Nhiều năm qua, sự trỗi dậy Trung Quốc đi liền với mối lo ngại về cái gọi là "mối đe dọa Trung Quốc" trong cộng đồng quốc tế. Cho rằng thế giới đang hiểu nhầm mình, Trung Quốc bằng nhiều cách thức, khi lặng lẽ, lúc ồn ào, cố gắng làm an lòng phần còn lại của thế giới về một chiến lược phát triển hòa bình của nước này. Tranh thủ mọi cơ hội, mọi diễn dàn, khu vực và quốc tế, người Trung Quốc đang tỏ ra muốn "minh bạch hóa" chiến lược phát triển, nhất là các chính sách an ninh gắn với sự đầu tư ngày càng lớn cho quân sự. Những cụm từ "phát triển hài hòa", "phát triển chung", "an ninh chung", "hợp tác", "đối tác bình đẳng", "tin cậy lẫn nhau", "đối tác có trách nhiệm"... thường xuyên xuất hiện trên cửa miệng của giới lãnh đạo Trung Quốc. Khẩu hiệu hòa bình và chống bá quyền được giới chức Trung Quốc tận dụng mọi cơ hội phô diễn. Khi Biển Đông nóng lên, những phát ngôn mang tính trấn an như thế của lãnh đạo Trung Quốc càng xuất hiện với tần suất dày đặc, nhất là tại các diễn đàn khu vực, nơi các nước láng giềng chia sẻ mối lo về an ninh khu vực. Còn nhớ, năm ngoái, nhân vật thứ 3 của giới quốc phòng Trung Quốc, Trung tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội đã hai lần trấn an đại diện các quốc gia Đông Nam Á và nước lớn, rằng "quân đội Trung Quốc không đe dọa an ninh nước nào". "Sự phát triển năng lực của quân đội quốc gia Trung Quốc không nhằm thách thức, đe dọa hay xâm lược quốc gia nào mà trước hết và trên hết là để đảm bảo an ninh của Trung Quốc", ông Mã Hiểu Thiên nói. "Duy trì an ninh trong khu vực là lợi ích và bổn phận của Trung Quốc"... "Trung Quốc không bao giờ nhắm tới bá quyền, ngay cả khi mạnh hơn". Cố gắng thuyết phục thế giới hiểu đúng về Trung Quốc và tham vọng phát triển của nước này, nhấn mạnh xây dựng quan hệ đối tác thực sự dựa trên sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thế nhưng, hành động của Trung Quốc, nhất là liên quan đến Biển Đông lại buộc thế giới đặt những dấu hỏi nghi ngờ. Những lời trấn an của lãnh đạo Trung Quốc không thể an lòng thế giới, nhất là khu vực, khi những hành động của giới chức nước này lại "một mình một lối". Từ đường ranh giới chữ U đòi chủ quyền trên Biển Đông tham lam "lờ đi những giới hạn luật pháp được quy định bởi Công ước Luật biển Quốc tế 1982" (nhận xét của PGS Peter A. Dutton, Viện Nghiên cứu Hàng hải, trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ) đến những hoạt động thực tế mang tính hiếu chiến trên Biển Đông, Trung Quốc đã phá vỡ cam kết "giữ nguyên trạng", "không làm căng thẳng tình hình" mà nước này đã ký năm 2002 với các quốc gia ASEAN trong Tuyên bố về các nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC). Kể từ giữa năm 2009, Trung Quốc liên tục "gây chuyện", với từng nước riêng rẽ liên quan đến tranh chấp, trực tiếp và gián tiếp, và với cả khu vực. Xây dựng đơn vị hành chính, đơn phương cấm đánh bắt cá, bắt giữ và đòi tiền chuộc với các tàu cá của các quốc gia Đông Nam Á, va chạm với tàu Mỹ, xây dựng cơ sở hải quân khổng lồ ở đảo Hải Nam, tổ chức tàu tuần tra, tập trận không quân và hải quân trong khu vực tranh chấp... là những bước leo thang của Trung Quốc trong việc làm căng thẳng tình hình Biển Đông. Vậy mà, trong cuộc họp báo trước hội nghị Côn Minh, Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Đồng Hiểu Linh còn cảnh báo: Việc làm nóng lên và phức tạp hóa vấn đề Biển Đông sẽ ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN! Có vẻ như, cái gọi là "cam kết", "hợp tác", "không đe dọa"... đã được Trung Quốc tự định chuẩn theo cách hiểu của riêng mình. "Phương cách đơn phương Trung Quốc" không chỉ được áp dụng trong giải thích luật biển quốc tế, mà trong những thuật ngữ hoa mỹ nước này dùng để dựng hình tượng về mình cũng như mô tả về quan hệ tốt đẹp với láng giềng. Thay vì dùng lời nói thuyết phục thế giới và khu vực "hiểu đúng" về Trung Quốc với tư cách "cổ đông có trách nhiệm" trong cộng đồng quốc tế, có lẽ, đến lúc Trung Quốc dựng hình tượng ấy bằng hành động cụ thể, trước hết và trên hết bằng việc minh bạch hóa vấn đề an ninh Biển Đông với hành động thiện chí và xây dựng thực sự. Và thay vì sử dụng phương cách Trung Quốc để rồi trách thế giới hiểu nhầm mình, Trung Quốc cần thực sự áp dụng phương cách và chuẩn mực quốc tế trong hành xử, để làm thế giới tin. Việc Cục Đo đạc và Bản đồ Trung Quốc đưa đường lưỡi bò vào bản đồ trực tuyến vào lúc này chỉ làm cho tình hình trên Biển Đông thêm phức tạp, đi ngược lại xu thế và nỗ lực của các nước trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế muốn tìm kiếm một giải pháp ổn định lâu dài cho những tranh chấp Biển Đông. Các vấn đề trên Biển Đông cần được các nước trong khu vực, trên tinh thần tôn trọng chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, tìm ra một giải pháp công bằng mà các bên có thể chấp nhận được. Nguồn: vietnamnet.vn ________________________________________________________________________________ ________________________ Chỉ mỗi mình Trung Quốc mà đòi yêu sách chiếm đến 80% của biển đông, còn các nước khác thì sao? Đúng là nước lớn, cũng làm . . .
-
Kim cương lại lảm nhảm nữa rồi