-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận. Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một mình hùng cứ một cõi trời nam, thì tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6 tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa đã thiếu nợ của ta vậy. Lịch in vào sách và lịch khắc trên mặt trống : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy . Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ). Đi sâu vào chi tiết : Hướng tiến chung : Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người, đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng hồ ). Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo chiều quay chung ấy. Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong dòng 6 con như đã nói, thì phương tí ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương sinh, ngày đầu năm thiến văn, các loại vật đông miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy. Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ của những gì như người làm việc đồng án vắng nhà. Phương mẹo dậu : Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2 bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người phải lo làm việc tế lễ. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. ] Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. [/url][/size][/font] (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). [/url][/size][/font] Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. [/url][/size][/font] Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : [/url][/b][/size][/font] Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote, ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập, ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm ) đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía nó mọc bây giờ. (còn nữa)
-
(Tiếp theo) Một quyển lịch cổ xưa Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời. Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng. Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm. Nếu vậy thì không những không có gì là mê tính ( thờ chim, vật tổ mặt trời, mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học, chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải giật mình là đằng khác nữa. Cách đếm ngày và đêm Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ. Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày. Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận. Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy. Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm. [/size][/font]Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư. Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm. Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính : Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng. Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ). Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa. Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày. Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ. Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm 30). Bắt đầu đếm từ đâu ? Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng. Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng. Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con. [/size][/font]Thực hành việc ghi lịch và xem lịch : Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ. Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm. Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6. ( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ). Quyển Âm Lịch dùng cho nhiều năm : Như vậy, ta thấy quyển lịch này dùng được cho nhiều năm và chúng tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ vẫn dùng được, để có thể mệnh danh là Nguyệt Lịch Vạn Niên. Làm sao biết chính xác năm nào nhuận vào tháng nào ? Điều ấy chưa có tài liệu nào khác để hiểu thêm. Có lẽ người xưa đã dùng lối chiêm nghiệm về khí tiết trong nhiều năm, nhiều chu kỳ, thấy có diễn biến trở lại như cũ mà bồi bổ dần cho sự hiểu biết chăng ? Biết đúng tháng nào đủ, thiếu , hoặc hai ba tháng đủ liền, hai ba tháng thiếu liền, và nhất định vào đâu trong năm, tất cũng do chiêm nghiệm. Hoặc còn một dụng cụ để ghi nhớ nào khác, trên một mặt trống khác, hay một vật nào khác mà ngày nay chưa tìm ra ? Điều ta có thể biết chắc được là người xưa đã quan sát tinh tế rồi chiêm nghiệm trước, sau mới tính toán, để lại chiêm nghiệm nữa, mà kiểm điểm những tính toán kia. Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép rằng : mùa đông tháng 12 (Năm Ai Công thứ XII) có châu chấu phá hoại. Quý Tôn hỏi Khổng Tử, ông đáp : “Tôi nghe rằng: chiều mà không thấy sao hoả nữa thì côn trùng ẩn phục hết. Nay sao hoả vẫn còn thấy chuyển vận về phía Tây, chắc các nhà làm lịch đã lầm”. Ý nói theo lịch Trung Hoa là tháng chạp. Đáng lý ra thì sao hoả không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ phải ẩn phục hết rồi vì lạnh. Thế mà nay sao hoả vẫn còn thấy hiện, côn trùng còn phá phách, như vậy các nhà làm lịch Trung Hoa thời ấy đã lầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận nữa mới phải. Đó chính là thể thức và phương pháp làm lịch chung cho cả mọi giống dân trên thế giới, mà quyển lịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đã có sẵn những gì để phòng hờ chỗ ghi năm dư tháng nhuận, thì trước khi nó hiện ra là một bảng lập thành, dòng dõi các tù trưởng Giao Chỉ không phải chỉ chừng năm ba thế hệ. Chúng ta có thể đoán không sợ sai lầm là ít nhất cũng phải mươi cái chu kỳ 180 năm (tức ít nhất là 1800 năm cho đến khi cái trống Ngọc Lũ đầu tiên được đúc), còn hơn nữa thì không dám biết. Những kết quả chiêm tinh lịch số riêng : Vâng, riêng của dòng tù trưởng Giao Chỉ. Đây là những bằng chứng hùng hồn nhất cho biết đích xác hồi đầu lịch sử, giống dân Giao Chỉ ở gốc tổ sống mà chẳng dính dáng gì về văn hoá với giống người Trung Hoa. (còn tiếp)
-
Trung Quốc mua đỉa tốn kém 1 đ, sau này không mua nữa thì Việt Nam tốn kém 9 đ để tiêu hủy đỉa. Các bạn Trung Quốc hay chơi trò lợi trước hại sau với Việt nam Như ngày xưa đã từng mua móng trâu bò Phải tỉnh táo.
-
ACE ơi, tình cờ xem được 01 cái hợp đồng hay Up lên để mọi người cùng xem nhé ===================================================================== Hợp đồng Tình Yêu Bản hợp đồng này chứng nhận Anh : Thiên Sắc Em : Mai Phương Thúy Sẽ có một Tình yêu nồng thắm nếu Anh đồng ý các điều khoản sau: Điều 1: Luôn chung thuỷ với Em, không được "bắt cá hai tay”. Điều 2: Chấp nhận Em đi chơi và đùa giỡn với nhóm bạn mà không có Anh. Hơn nữa, Anh phải luôn cố gắng hoà hợp với những đứa bạn thân nổi tiếng khó chịu của Em. Điều 3: Tặng một món quà cho Em vào mỗi tuần. Có thể không mắc tiền, Em vẫn rất vui khi có cảm giác được Anh quan tâm thật nhiều. Điều 4: Không đứng một góc trong các buổi dạ hội, mà phải cùng ra khiêu vũ với Em, sau đó ăn uống một cách vui vẻ. Điều 5: Phải luôn gọi điện thoại cho Em khi đã hứa. Dù điều này có thể chạm đến quyền tự do cá nhân của Anh, nhưng giá Anh biết được Em mong nghe giọng nói của Anh như thế nào. Điều 6: Thay vì́ than vãn, rên rỉ, hãy cùng xem các chương trình truyền hình Em ưa thích, đồng thời đừng tỏ ra quá ghen tỵ khi Em tỏ ra yêu thích anh chàng đóng vai Thượng Nghị Sĩ trong bộ phim “Chuyện Tình ở MaHattan” (Nói nhỏ nha: Anh dễ thương hơn anh ta nhiều ). Điều 7: Khi cá độ hay chơi thể thao,chơi game “thua” bạn bè, thì không được cáu kỉnh, trút giận với Em. Điều 8: Đừng đem Em ra làm đề tài bàn luận khi tṛò chuyện với đám bạn (trừ khi Anh nói tốt về em). Điều 9: Đừng xem Em là một người bạn gái một cách thuần tuý, Em cọ̀n muốn làm người bạn tri giao của Anh. Điều 10: Khi Em bệnh, phải đến thăm và tặng Em thật nhiều bánh kẹo, cùng những lời yêu thương thật ngọt ngào. Điều 11: Luôn có những cử chỉ yêu thương và thật nhiều nụ hôn nồng nàn mỗi khi ta bên nhau. Điều 12: Anh đừng tỏ ra chán nản hay bực bội mỗi khi Em bắt đầu nói về một bộ áo đầm mới, hay màu son môi… nào đó. Điều 13: Liên tục nhắc nhở Em không lặp lại những thói quen xấu như cắn móng tay, hay ngủ quên, trễ giờ hẹn với Anh… chẳng hạn. Điều 14: Đừng nói lúng búng, nhát gừng trong miệng mỗi khi Em hỏi Anh về một vấn đề nào đó. Em rất thích nghe Anh bày tỏ ý kiến của riêng mình. Điều 15: Bỏ tất cả mọi việc và đến với Em khi Em gọi điện cho Anh. Bởi v́ chắc chắn lúc đó Em đang rất cần có Anh bên cạnh hơn bao giờ hết. Điều 16: Anh phải luôn gọn gàng , sạch sẽ khi đến gặp Em . Đừng để cho Em nh́n thấy cái áo nhăn nhúm của Anh.. Điều 17: Không được để Em nói chuyện” một mình”, c̣òn Anh cứ dán mắt vào TV xem bóng đá !? Điều 18: Hăy chịu khó tìm hiểu các sở thích và thói quen của Em. Đừng thắc mắc tại sao Em lại…mê “shopping” và “điệu một tí” đến thế ! Điều 19: Hãy viết cho Em thư, thiệp, bài hát, thơ tình để Em biết chắc rằng Anh luôn nghĩ về Em ( Em hứa sẽ không cho ai biết đâu ! ). Điều 20: Khi Em…60 tuổi, Em vẫn thích được Anh tặng hoa hồng và gọi Em bằng những danh xưng…ngọt ngào (như Anh vẫn gọi Em bây giờ í ! ). Điều 21: Hãy luôn là “bóng tùng” của em (kể cả trong việc…nội trợ !?). Bởi khi bên Anh, Em bỗng trở nên…mềm yếu biết bao, Em cần bờ vai của Anh để tiếp cho Em sức mạnh. Điều 22: Đưa Em đi du lịch Anh nhé, (ít nhất một năm một lần) bởi em chỉ muốn nhìn ngắm và chia sẻ những điều tuyệt vời của thế giới này cùng Anh. Điều 23: Không được bỏ em một mình (nếu đi công tác, phải gọi cho Em ít nhất một lần một ngày, nếu đi quá 3 ngày phải được Em đồng ư hoặc có Em đi cùng). Bởi Em chỉ cảm thấy an toàn khi có Anh bên cạnh. Điều 24: Không được sử dụng “Tứ đổ tường”, vì em luôn quan tâm đến sức khoẻ của Anh và Hạnh phúc của chúng ta. Điều 25: Đừng xem em là một cô bé, bởi vì em đă thật sự trưởng thành trong tình yêu của hai ta. Tp.HCM , ngày 01 tháng 04 năm 2011 Kí tên Anh, Thiên Sắc (đã ký) *** Đến phần Em, Em hứa cũng thực hiện tốt những điều quy định trong bản “Hợp Đồng Tình Yêu” này. Kí tên Em, Mai Phương Thúy (đã ký)
-
Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó. Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ. Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ. /photos/image/042011/16/chu1.jpg Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ. Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi. Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói. /photos/image/042011/16/chu2.jpg Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn. Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này. Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này. /photos/image/042011/16/chu3.jpg Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã. Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. /photos/image/042011/16/chu4.jpg Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng. Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”. Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18. Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời. /photos/image/042011/16/chu5.jpg Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác. Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào. Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay. Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần. Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này! /photos/image/042011/16/chu6.jpg Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp. Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng. Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện. Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên. Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà. Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế. Theo VTC
-
Đó là hai giấc mơ của một người đàn ông đã in đậm dấu ấn của mình trên nhiều công trình của Việt Nam trong thập kỷ qua. Một giấc mơ đang trở thành hiện thực và một, có lẽ còn đang dang dở… Khát vọng nhỏ và thương vụ mạo hiểm đầu tiên /files/articles/2011/1051630/ovqhoi4211-1.jpg"Tại sao mình lại không thể biến cái người ta không thể thành cái ta có thể?".Hơn 20 năm trước, anh cùng một người bạn trí thức trẻ Việt Nam đi qua nhiều nước châu Âu. Trên đường từ sân bay Athens - Hy Lạp về khách sạn, vừa bước lên xe thì người lái taxi tò mò hỏi: "Các ông từ đâu tới? Có phải từ Nhật không?". "Không", "Hàn Quốc? Trung Quốc? Singapore? Thái Lan?" - "Không, chúng tôi từ Việt Nam tới". Nghe vậy, anh ta đột nhiên buông cả 2 tay lái và reo lên: "Ồ, Việt Nam. Việt Nam - Hồ Chí Minh". Tiếng reo hoan hỉ của người lái xe khiến anh trào dâng một niềm tự hào, tự hào vì mình được là người dân của nước Việt Nam, đất nước của vĩ nhân Hồ Chí Minh. Nhưng niềm vui đó đột ngột bị dập tắt khi ngay sau đó, người lái xe giơ tay làm súng, miệng hô "Pằng... Pằng... Pằng", biểu lộ sự đồng cảm với nhân dân Việt Nam. Buồn, vì bạn bè nước ngoài hình như chỉ biết đến một Việt Nam anh dũng, kiên cường trong chiến tranh, chứ không phải là một Việt Nam cường thịnh về kinh tế. Day dứt khôn nguôi vì điều đó, suốt chặng đường trở về Việt Nam, người thanh niên trẻ đó thầm hứa sẽ cống hiến hết tài năng, sức lực để xây dựng Việt Nam trở thành một nước giàu mạnh. May vì khi đó, đất nước đang bước vào cuộc đổi thay lớn. Cha anh, một trí thức Tây học đã nghỉ hưu, chỉ trước khi công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986 một năm, đã lập ra một cơ sở dệt may với mong muốn vực dậy ngành dệt nhuộm truyền thống của làng, tạo việc làm, cải thiện cuộc sống khó khăn của người dân quê mình. Những ngày sống bên cha, anh đã học được nhiều điều, từ tầm nhìn, ý chí vượt khó và cả cách vun đắp những hoài bão của mình. Nhưng phải tới khi anh quyết định sản xuất nước khoáng, chân trời mới mới mở ra cho anh. Số là từ trước năm 1990, Nhà nước đã đầu tư nhiều cho công tác tìm kiếm và thăm dò dầu khí. Rồi những năm 1993-1996, các giếng khoan thăm dò dầu khí được cải tạo để khai thác nước khoáng. Nhưng nguồn nước quý giá từ độ sâu khoảng 3.000 m này chỉ được sử dụng phục vụ cho nhân viên công ty khai thác dầu khí. Trong khi đó, những nhãn hiệu nước khoáng nước ngoài đang "lấn sân" trong nước, với giá bán đắt ngang bằng giá xăng. "Xót của", cộng với sự tự ái "tại sao nước ngoài làm được, vậy mà Việt Nam lại không" khiến anh quyết định đầu tư khai thác. Gửi mẫu nước khoáng sang Italy và mừng húm khi kết quả cho thấy, đây là mỏ nước có nhiều khoáng chất quý hiếm, rất tốt cho sức khỏe con người. Vậy là quyết định đầu tư 4 triệu USD để nhập dây chuyền sản xuất nước khoáng từ Italy. Nhiều người khuyên ngăn, thậm chí chỉ trích, nhưng anh vẫn kiên trì thực hiện dự định. Một năm sau, khi chai nước khoáng Vital có mặt trên bàn của các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế, các khách sạn sang trọng và đơn đặt hàng tới tấp bay về, người ta mới gật gù thầm khen tay giám đốc trẻ táo bạo dám nghĩ, dám làm. Trăn trở cho hướng đi mới Thành công ban đầu chưa khiến anh hài lòng. Những chuyến đi dài đã mở ra cho anh tầm nhìn và những khát vọng mới mẻ. Anh hiểu, một đất nước được thừa nhận là cường thịnh, có vị thế trên chính trường quốc tế phải là đất nước có nền kinh tế mạnh. Và một nền kinh tế mạnh phải có những doanh nghiệp mạnh, thương hiệu mạnh mang tầm quốc gia và quốc tế, giống như khi nhắc đến Hàn Quốc, người ta biết Hyundai, Samsung, hay nhắc đến Nhật Bản, là Toyota, Honda... Việt Nam thì sao? Câu hỏi đó luôn thường trực trong anh. Và rồi, lời giải đáp đã được tìm thấy một cách ngẫu nhiên. Năm 2000, anh vào TP.HCM để tìm đất xây dựng văn phòng đại diện. Một buổi tối đi trên đường Nguyễn Huệ, anh phát hiện một mảnh đất rộng, quây kín tôn, điện đóm tối om. Hỏi ra mới biết, đây là một dự án bất động sản của chủ đầu tư Singapore, do gặp khủng hoảng kinh tế (1997) nên bị phá sản. Chủ đầu tư đã "rao bán" cả ở nước ngoài nhưng không có người mua. "Tại sao mình lại không thể biến cái người ta không thể thành cái ta có thể?". Và anh đã tìm ra cơ hội ngay trong thời khủng hoảng một cách tình cờ như vậy. Nhiều năm sau, giới kinh doanh Việt Nam vẫn xem việc thâu tóm hàng loạt mảnh đất "vàng" ngay tại trung tâm Thành phố trong giai đoạn đó là một nước cờ rất táo bạo và vô cùng khôn ngoan. Hai năm sau, tại mảnh đất đầu tiên anh mua ở 19-25 Nguyễn Huệ, một cao ốc văn phòng cao 20 tầng, trị giá 20 triệu USD, được khánh thành vào đúng thời điểm nền kinh tế bắt đầu phục hồi. Có đất trong tay, phải làm gì với nó? Xé nhỏ từng mảnh chờ được giá rồi bán, hay xây nhà chung cư như nhiều chủ đầu tư khác để thu về một "mớ" tiền lớn? Nhớ lại những chuyến đi ra nước ngoài, thấy người dân họ sống trong những cộng đồng với các sản phẩm dịch vụ cao cấp, anh không khỏi chạnh lòng. Xa hơn, rộng hơn, cả nước chưa có một khu đô thị hiện đại, khang trang, là bộ mặt của đất nước, là biểu hiện cho sự phát triển trong đời sống người dân. Ai chẳng mong khi cuộc sống tốt đẹp hơn, sẽ được sống trong một môi trường sống hoàn mỹ. Và thế là anh quyết định đầu tư vào phân khúc bất động sản cao cấp trong sự ngần ngại của nhiều người. Thậm chí, nhiều người đã không ngại khi nói thẳng với anh là "điên" khi bỏ 80 triệu USD để tạo lập dự án. Cách làm của anh cũng bị cho là "điên" khi anh chối bỏ cách làm thông thường, mà trực tiếp bay khắp thế giới "tuyển mộ" những công ty tư vấn, thiết kế kiến trúc, thi công, xây dựng hàng đầu về để thực hiện dự án. Anh cũng là người tiên phong trong làng bất động sản khi bỏ ra hàng chục tỷ đồng xây dựng nhà mẫu để khách hàng "thực mục sở thị" căn hộ, biệt thự mà mình sẽ mua. Quả thật, The Manor mà anh và các cộng sự của mình đã triển khai xây dựng cho đến hôm nay vẫn là một hiện tượng của thị trường bất động sản với kiến trúc cảnh quan hiện đại, tinh tế và không gian sống đẳng cấp, nội thất quan trọng. Nửa thập kỷ để hoàn thành một giấc mơ Năm 2002, khi anh cùng vợ đứng trên tầng thượng của Tòa nhà Chrysler ở Thành phố New York, câu hỏi lúc mua khu đất đường Nguyễn Huệ lại vang lên trong anh. Chrysler Building không phải là tòa nhà cao nhất, nhưng chưa bao giờ bị lu mờ hay lãng quên vì nó là niềm tự hào của người New York. "Mình sẽ xây dựng một tòa tháp để người Việt Nam tự hào, như người New York có Chrysler Building, hay người Malaysia tự hào có tòa tháp đôi Petronas". Anh tự nhủ như vậy. Khi ý tưởng xây dựng một tòa nhà cao nhất Việt Nam được tiết lộ, cả giới địa ốc, bất động sản không khỏi ngạc nhiên, xen lẫn nghi ngờ. Trước đây, chưa người Việt Nam nào có đủ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm để xây dựng những tòa nhà vượt chiều cao 40 tầng. Hầu hết các dự án cao tầng ở Việt nam thời điểm đó đều do nhà đầu tư nước ngoài triển khai. Nhiều tờ báo "đả kích" dự án cao 262 m của anh. Anh lẳng lặng mời các công ty hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới như AREP, Zapata Studio, LERA, Turner (Mỹ), Hyundai (Hàn Quốc). DSA (Anh)... cùng nghiên cứu để xây dựng công trình. Mơ ước ấp ủ đó là Việt Nam phải được hiện diện trên bản đồ kiến trúc thế giới bằng chính công trình của mình, một đóa sen thanh thoát vươn lên bầu trời TP.HCM. Để thực hiện khát vọng này, anh buộc phải bỏ thêm hàng trăm triệu USD, giảm 30% diện tích sử dụng. Hàng chục chuyên gia giỏi các nước đã tụ họp trên một du thuyền ở Vịnh Hạ Long để cùng anh tính toán. Và kết quả của những đêm thâu đó, cũng như những nỗ lực của bao ngày tháng vất vả trên công trình là, ngày 31/10/2010, Tháp Tài chính Bitexco, công trình đẳng cấp thế giới cao 262 m được khánh thành. Tháp Tài chính Bitexco Financial Tower, với kiến trúc và tiện nghi đẳng cấp, là biểu tượng của sự phát triển kinh tế và thịnh vượng không chỉ của TP.HCM, mà còn của cả Việt Nam. Đến đây, không khó để nhận ra nhân vật của chúng ta chính là Vũ Quang Hội, Chủ tịch Tập đoàn Bitexco, người đàn ông "nói ít, làm nhiều" với những ý tưởng kỳ lạ. Anh chính là người đã ví những bất động sản của mình, những The Manor, Bitexco Financial Tower, khách sạn 5 sao JW Mariott Hà Nội... như những "chiếc Phantom Rolls Royce" dành cho người Việt Nam. Ai cũng mơ được sở hữu những chiếc Rolls Royce đẳng cấp, nhưng chỉ có anh mới làm ra được những chiếc "Rolls Royce" cho người Việt Nam. Giấc mơ "sản xuất" những "chiếc Rolls Royce trong bất động sản" đã chiếm trọn một thập kỷ của anh. Giấc mơ này đã tròn. Nhưng còn một giấc mơ khác, từ thời trai trẻ, có lẽ sẽ mãi dở dang. Ít ai biết rằng, người đã để lại những dấu ấn sâu đậm bằng các công trình hiện đại, đặc sắc lại là một kỹ sư chế tạo máy của Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. "Làm doanh nghiệp là một nỗi khổ của tôi. Tôi đã từng ước mơ mình sẽ trở thành một ông đồ", anh Hội tiết lộ. Ngoài các dự án đã hoàn thành trong lĩnh vực bất động sản, hàng loạt dự án khác như Khách sạn 5 sao JW Marriott Hà Nội, Khu đô thị Nam đường Vành đai 3, Tháp Bến Thành, Khu đô thị mới Tứ giác Nguyễn Cư Trinh... đang được thực hiện dưới sự chèo lái của vị thuyền trưởng Bitexco. Giấc mơ trở thành "ông đồ" của anh đã không thể trở thành hiện thực. Nhưng những khát vọng, hoài bão xây dựng một thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam vươn khỏi tầm quốc gia và hội nhập với thế giới, những ý tưởng táo bạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm thực sự là điều đáng học tập ở "ông đồ" Vũ Quang Hội. Tôi gặp anh Hội vài lần. Lần nào anh cũng vội. Tình cờ mới hay, anh Hội sinh năm 1963, tuổi Quý Mão. Nguồn ĐẦU TƯ
-
Chọn nghề theo ngày sinh Bạn có biết không, ngày sinh có tác động không nhỏ tới sự thành công trong sự nghiệp của bạn đấy. Vì vậy ngày sinh là một trong nhiều yếu tố để bạn xem xét khi chọn nghề. Thử mà xem, sẽ biết ngay bài viết này “phán” có đúng hay không!:lol: Bạch Dương (21/03-19/04) Bạn là người nhiệt tình, tỉnh táo, trực tính, có tham vọng, cứng cỏi và sáng tạo. Một sự nghiệp về truyền hình phát thanh, quảng cáo hoặc kiến trúc sẽ phù hợp với bản chất giàu tham vọng và sáng tạo của bạn. Do bạn là một nhà lãnh đạo bẩm sinh nên quân đội hoặc cơ quan pháp luật cũng sẽ là điểm đến hấp dẫn. Kim Ngưu (20/04-20/05) Bạn là người thực tế, làm việc có phương pháp, quả quyết, kiên nhẫn, chân thực và biết hoạt động theo nhóm. Hãy tìm kiếm công việc thuộc các lĩnh vực ngân hàng, kế toán và nghiên cứu khoa học. Song Sinh (21/05-21/06) Bạn rất lạc quan, tò mò, thông minh và luôn tràn đầy năng lượng. Bạn cần một công việc tạo được sự hứng thú và có cơ hội đi lại nhiều như hướng dẫn viên du lịch, nhà thám hiểm hoặc vị trí bán hàng cần phải di chuyển thường xuyên. Cự Giải (22/06-22/07) Bạn là người giàu tưởng tượng, can đảm, biết chăm sóc và che chở người khác. Bạn giỏi nhất trong việc đưa ra các lời khuyên, vì vậy hãy xem xét đến ngành luật, tâm lý học, giảng dạy, y tá hoặc công tác xã hội. Sư Tử (23/07-22/08) Bạn là người ghét gò bó, thích giao du, tự lập và sinh ra để lãnh đạo với niềm khát khao thực sự đối với quyền lực. Những đặc điểm đó sẽ giúp bạn trở thành những CEO, giám đốc, biên tập viên giỏi. Lý tưởng nhất là làm việc trong chính phủ. Xử Nữ (23/08-22/09) Tỉ mỉ, dí dỏm, vui tươi, ưa hoàn hảo, hướng chi tiết, chăm chỉ và ngăn nắp cùng với sở trường về ngôn ngữ - đó là bạn. Do đó, lựa chọn nghề nghiệp hoàn hảo của bạn là kỹ sư, nhà thống kê, nhà nghiên cứu hoặc biên dịch viên. Thiên Bình (23/09-22/10) Bạn có tài ngoại giao, hấp dẫn, giỏi giao tiếp, dễ gần và có tinh thần sẵn sàng hợp tác. Cảm nhận của bạn về việc hợp tác cùng với thỏa hiệp đồng nghĩa bạn sẽ làm tốt ở chiếc ghế luật sư, nhà môi giới, nhà thương thuyết hoặc nhà quản lý. Bọ Cạp (23/10-21/11) Bạn có cảm nhận trực giác rất nhạy bén, thông minh, có óc phân tích, chăm chỉ, tích cực, tận tụy và tháo vát. Với bản tính thích giải quyết những bí ẩn, bạn rất phù hợp với công việc điều tra, luật, vật lý học, nghiên cứu và viết lách. Nhân Mã (22/11-21/12) Bạn có thái độ tích cực, năng lượng vô hạn, yêu thích du lịch. Một vị trí bán hàng sẽ là lý tưởng. Ngoài ra bạn có thể nghiên cứu công việc PR, quản lý xã hội. Ma Kết (22/12-19/01) Bạn rất cứng cỏi, đáng tin cậy, có trách nhiệm, giỏi tổ chức, hướng mục đích, có tư duy lô gíc và tháo vát. Bạn sẽ phát triển với các vị trí quyền lực hoặc có liên quan đến tiền hoặc toán học. Hãy xem xét vị trí IT bởi bạn cũng rất yêu thích phần mềm và máy tính. Bạn còn phù hợp với nghề bác sĩ, thư ký hoặc luật sư. Bảo Bình (20/01-18/02) Thông minh, độc đáo, nhân đạo, nhìn xa trông rộng là đặc điểm của bạn. Hãy lựa chọn các công việc về thiên văn học, lịch sử tự nhiên, hàng không, nhiếp ảnh, thơ ca. Song Ngư (19/02-20/03) Bạn là người hào phóng, thân thiện, nhạy cảm, có óc thẩm mỹ, nồng nàn và linh hoạt. Bạn sẽ làm tốt trong bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào như kịch, văn học, hội họa, âm nhạc. Nhưng đam mê của bạn cũng khiến bạn đủ khả năng đảm đương công tác từ thiện xã hội và thẩm phán
-
Một ngày đẹp trời cuối năm 2007, nắng trải thảm vàng suộm cả Hà Nội. Trong khuôn viên Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam hàng trăm người đã tề tựu về đây để chứng kiến một sự kiện văn hoá chưa từng có: bắn nỏ thần “bách phát bách trúng” của cụ An Dương Vương ngay dưới gầm… máy bay. Tò mò, hồi hộp và… căng thẳng, những người ở thế kỷ XXI dường như đều “chập chững” và “mày mò” khám phá một bí ẩn của cha ông cách đây hàng ngàn năm: bí ẩn nỏ thần ! “Chiếc nỏ thần” cao 1m2, sải cung cũng rộng chừng ấy. Lẫy nỏ là một sợi dây gai được bện lại công phu, có cái cọc trâu (mỏ neo) được chặt từ gốc một cây tre bánh tẻ. Bệ phóng tên được khoét năm rãnh, một lúc có thể đặt năm mũi tên bắn ra nhờ sức đẩy của sợi dây gai. Phía cuối thân nỏ, hai cái mấu gỗ giống hệt như cái nắm đấm ngoài cánh cổng trong những ngôi làng cổ Đường Lâm, có trục xoay hệt như một thiết bị tời của chiếc ròng rọc. Kéo dây Đó là chỗ để nương hai sợi dây đặt hai bên thân nỏ, để kéo dây cung đặt vào chốt. Một cái “đầu ruồi” điều chỉnh tầm ngắm có chia những vạch xanh đỏ. Cả chiếc cung đồ sộ như một con chim ưng khổng lồ, đặt lên bệ gỗ có điều chỉnh độ dốc – hẹp, độ chếch của chân (giá đỡ cung). Hồng tâm đặt cách xa 50 mét. Chiếc nỏ thần An Dương Vương – vũ khí chủ lực của người Việt trong cuộc chiến chống quân xâm lược Triệu Đà thuở trước, đã được những người con hậu duệ của các cụ, tái dựng lại và… tò mò chờ đón. Tiến sỹ Nguyễn Việt – giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á – tác giả của công trình tái hiện lại thứ vũ khí kỳ bí và hoang sơ của cha ông cách đây hàng ngàn năm. Ông Việt gọi chiếc nỏ thần được chuốt từ chiếc móng vuốt của thần Kim Quy là chiếc “máy nỏ”, bởi vì dựa trên những nghiên cứu về mặt vật lý, về kỹ thuật vũ khí quân sự…, chiếc “nỏ thần An Dương Vương” mà ông và các cộng sự phục dựng, một lúc bắn ra được… 5 mũi tên. Nó còn kém rất xa con số “bách phát” (trăm mũi tên một lúc) của phụ vương nàng Mị Nương. Thế nhưng, dù thế nào đi nữa, đó cũng là kết quả của những nỗ lực sau rất nhiều ngày tháng ông Việt nghiên cứu, khảo sát và thực địa tại những bản Mường cổ của Hoà Bình – nơi được coi là còn lưu giữ nhiều nhất những thông tin liên quan đến nguồn gốc của nỏ thần An Dương Vương. Lắp tên Buổi thuyết trình ngoài trời của ông Việt có máy chiếu kết nối với chiếc máy tính xách tay hiện đại. Khách mời là các sỹ quan, các cán bộ, chiến sỹ, những “chiến binh” của thế kỷ XXI đang nghiên cứu và áp dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ vũ khí vào công cuộc xây dựng nền Quốc phòng, vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nắng xuyên qua mấy cây xà cừ cổ thụ như những vòng hoa di động làm cho buổi thuyết trình càng thấm đẫm những nét văn hoá tâm linh… Một đoàn chừng mươi người bà con người Mường (Kim Bôi – Hoà Bình) được mời đến dự. Các cụ mang theo dàn chiêng Mường. Có cụ còn xách theo cả những chiếc ná (nỏ) đã lên nước đen bóng. Nhưng, so với chiếc máy nỏ của ông Việt phục chế, những chiếc nỏ săn bắn thủ công của các cụ người Mường, chỉ là bậc… con cháu. Vật liệu chế tạo nỏ là những vật liệu Mường truyền thống: cánh nỏ bằng một loại tre luồng đặc biệt, hiện chỉ còn rất thưa thớt trong một số gia đình hoặc trên các cánh rừng nguyên sinh ở độ cao trên 500 m. Thân nỏ làm bằng gỗ nghiến và sao đỏ với dạng thớ mịn nhưng quánh, dẻo. Dây căng cánh nỏ làm từ sơ gai tôm, một loại gai chỉ dành riêng cho nỏ. Khi se sợi gai người Mường dùng nhựa lá khoai lang hay nhựa cây sắn thuyền để làm chúng săn chắc nhưng mềm dẻo. Lẫy nỏ làm bằng tre, tay quay làm bằng gỗ chắc. Mũi tên nỏ làm từ thân cau già đính đuôi cánh bằng mo cau hoặc lông ngỗng. Chế tạo một máy nỏ đầy uy lực có thể bằng các dụng cụ thô sơ: rìu chặt, khoan tay tương ứng với hệ công cụ – kỹ thuật Đông Sơn. Những mũi tên bằng đồng được đúc bằng khuôn hai mang, dựa trên những mũi tên khai quật được ở Cổ Loa. Cán tên làm bằng thân cau, vì thân cau không có khấc, khá thẳng tiện dụng để làm những cán tên dài . Cánh tên làm bằng mo cau cho độ bền và trọng lượng phần đốc tên. Mũi tên Anh thanh niên người Mường vạm vỡ mặc đồng phục Mường, tiến lên trước đám đông. Ống tên được mang ra. Mỗi mũi tên dài và to gấp hai cái đũa ăn cơm, được vót từ tre cật. Đầu mũi tên bọc sắt nhọn. Hai chiếc mỏ neo ốp hai bên được ngoặc vào dây cung. Hai đồng chí sỹ quan mang quân phục đi tới giúp anh thanh niên người Mường quay tời để kéo dây cung lên lẫy. Mũi tên đầu tiên được đặt lên bệ cung. Nheo mắt. Ngắm. Lại chỉnh chân. Đầu cánh cung hơi chếch so với hồng tâm. Hạ xuống. Bẻ lại giá đỡ. Đám đông xôn xao bàn tán. Và hồi hộp. Nghẹt thở! Ngắm bắn Bàn tay đặt vào chiếc lẫy. Dây cung ghì cánh cung cong veo, tựa như một thân hình lực lưỡng đang cong người để lấy sức rướn cho lần bật. Tựa như một cái ức mềm mại và oai hùng của con chim ưng lướt trên đại ngàn. Đám đông như ngừng thở. Gió như ngừng thổi. Hồi hộp. Hai anh vệ binh yêu cầu đám đông nép vào hai bên, tránh xa cánh cung một khoảng cách cần thiết, sợ “tên rơi, đạn lạc”. Nắng như vàng lại. Tách. Chiếc lẫy được thả. Sức đầy tiềm ẩn của dây cung, cánh cung được giải phóng, chuyển hết sang mũi tên. Mũi tên xé gió lao đi, không ai kịp nhìn thấy. Chỉ nghe một tiếng “tách” của vật nhọn cắm vào tấm gỗ ván có dán hồng tâm. “Phập”! Mũi tên găm vào vòng số 3, cách hồng tâm chừng ba đốt ngón tay. Tiếng vỗ tay rầm rầm. Mũi tên đầu tiên, dù chưa vào trùng tâm điểm, nhưng đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Trúng đích Lần lượt các sỹ quan thay nhau lên bắn thử. Lại nheo mắt. Lại chỉnh giá đặt nỏ. Chọn mũi tên. Nheo mắt. Tời dây cung. Thả lẫy. Phập. Những mũi tên găm chặt vào tấm ván. Một anh lính chạy tới, nhổ ra. Anh kêu lên: mũi tên găm thủng cả mặt sau!. Một em bé, cơ hồ thấp quá, trèo lên chiếc máy bay hiện vật để nhìn cho rõ. Mấy anh bảo vệ cũng đã bị cuốn vào cuộc bắn nỏ thần, quên cả việc đuổi cậu bé không cho trèo lên hiện vật của bảo tàng! Mặt trời sắp lên tới chính ngọ. Nắng gay gắt hơn. Đám đông nép vào gốc cây. Một vài người chui xuống gầm chiếc máy bay trốn nắng. “Chiếc máy nỏ” – mô hình tái hiện nỏ thần An Dương Vương, vẫn lừng lững đứng dưới nắng, tựa như một con linh điểu đứng sưởi nắng. Cánh cung bằng hẳn một cái tay tre, oai hùng như một cái ức của người khồng lồ. Đám “hậu duệ” thế kỷ XXI của cụ An Dương Vương vẫn không thôi bàn tán về bí mật của một truyền thuyết cách đây hàng nghìn năm… Nguồn : Sưu tầm từ Báo Quân đội nhân dân.
-
Tôi có suy nghĩ như thế này: Nếu cách đây 5.000 năm mà bắn trúng hồng tâm ở cự ly 50m là tuyệt vời rôì. Đó có lẽ là sự phát minh hoành tráng nhất của thời đại lúc đó. Còn việc tái hiện bách phát bách trúng nữa thôi
-
Chùm ảnh vòi rồng kỳ quái lần đầu tiên xuất hiện ở Đài Loan Tờ Nhật báo Apple Đài Loan ngày 13/5 đưa tin, ngày hôm qua 12/5 một trận lốc xoáy hình thành vòi rồng cao khoảng 50 m đã hoành hành khu Tân Bắc miền Bắc đảo Đài Loan, rất may không có thương vong nào về người. "Hắc long" xuất hiện Những người dân ở khu Tân Bắc cho biết, nhiều bậc cao niên cả đời chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng vòi rồng xuất hiện ở đây. Các nhà khí tượng phân tích, địa hình miền Bắc đảo Đài Loan không thuận lợi cho việc hình thành vòi rồng, trong lịch sử ngành này cũng chưa từng ghi nhận xảy ra hiện tượng vòi rồng bao giờ. Khoảng 1h 15 phút chiều qua, mây đen phủ kín bầu trời Tân Bắc. Theo lời kể của những người trực tiếp chứng kiến hiện tượng thiên nhiên hùng vĩ này, lốc xoáy bắt đầu xuất hiện ở bãi đỗ xe, sau đó mạnh dần lên và hình thù liên tục thay đổi giống như một con rồng đang bay trên bầu trời. Tuy không có thương vong nào xảy ra, nhưng những khu vực mà nó quét qua thì cây cối đổ nát, nhà cửa tốc mái, xe ô tô cũng bị lật ngược chổng 4 bánh lên trời. Xe hơi bị "hắc long" vật chổng 4 bánh lên trời
-
'Sốc' với ca dao, tục ngữ tự chế của giới trẻ Một nữ SV hí hửng khoe áo của mình với dòng chữ “Yêu anh mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, thấy anh nghèo thì thôi”. Sử dụng những câu ca dao tục ngữ bị biến dạng, những câu danh ngôn, câu nói nổi tiếng bị cắt xén… đang là “mốt” của giới trẻ hiện nay. Hiện diện trên áo… Trào lưu mặc áo thun “slogan” thu hút bạn trẻ từ hơn hai năm nay. Những áo thun với những dòng chữ “Đẹp trai bẩm sinh”, “Tôi giàu tôi có quyền”…không còn xa lạ gì với mọi người. Cách đây khoảng hai tháng trở về trước, trên áo chỉ in những dòng chữ là các câu tự nói của các bạn, thích gì nói đó và yêu cầu những cửa hàng in vào, có cả những dòng chữ “Tôi yêu Môi trường”, “Hãy vì thành phố xanh sạch đẹp”…khiến mọi người ủng hộ, hoan nghênh vì nghĩ rằng từ những slogan này đem đến những thông điệp ý nghĩa dành cho bạn trẻ thì giờ đây, thay vào đó là các bạn cắt xén những câu ca dao tục ngữ, biến những câu danh ngôn trở nên méo mó để in lên. 'Sốc' với ca dao, tục ngữ tự chế của giới trẻ Những kiểu áo và dòng chữ "chế biến" đang được nhiều bạn trẻ ưa thích“Lúc đầu mình mới nhìn áo của hai cô nàng mình cứ nghĩ đó là “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền…”, thế nhưng nhìn kỹ thì mới ngỡ ngàng khi lời Bác Hồ dạy đã được thay bằng “Không có việc gì khó - chỉ sợ mình không liều – Không có việc gì khó, chỉ sợ tiền không nhiều”, Lan Anh, nữ SV trường ĐH Tài chính Marketing kể. Lan Anh cho biết “Đây là hiện tượng rất đáng báo động của giới trẻ. Các bạn có thể thỏa sức sáng tạo, tuy nhiên làm biến dạng những câu nói nổi tiếng, những câu danh ngôn hay ca dao tục ngữ là điều không nên”. Huy Tuấn, SV trường ĐH quốc tế RMIT thì không khỏi bất ngờ trước nhóm bạn cùng lớp thường đồng phục đến lớp với quần jean và áo thun in dòng chữ trước ngực: “Học, học nữa, học mãi. Đuối thì nghỉ”. “Chẳng hiểu các bạn ấy nghĩ gì nữa, một câu nói nổi tiếng của một vị lãnh tụ như Lê Nin lại trở thành như vậy”, Tuấn thở dài. “Đúng là áo có chất lượng vải không tốt tí nào, nhưng chúng mình vẫn rất thích vì có in những câu nói độc đáo như vậy. Những câu “ca-rao” tục ngữ được “chế biến” như vậy nghe thật vui”, một nữ SV hí hửng khoe áo của mình với dòng chữ “Yêu anh mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, thấy anh nghèo thì thôi”. Theo SV này, hiện có rất nhiều bạn trẻ sử dụng những loại áo in ca dao tục ngữ bị biến dạng kiểu này. “Mình mặc, mấy bạn thấy hay hay thế là mua theo, ở lớp mình hiện nay nhiều bạn khoái những dòng chữ như thế này lắm”, nữ SV này cho biết thêm. …Và trên mạng xã hội Cộng đồng mạng chính là nơi tập trung nhiều nhất những câu nói dạng này. Thử truy cập trên hơn 500 trang Facebook khác nhau của các thành viên là những bạn trẻ, không khỏi bất ngờ khi hầu hết đều chế những câu tục ngữ, ca dao đăng tải trên trang cá nhân của mình. Có thể kể những câu đại loại như “Yêu em mấy núi cũng trèo – Khi em mang bụng mấy đèo anh cũng dông”, “Ta về ta tắm ao ta – Sảy chân chết đuối có người nhà vớt lên”, “Cá không ăn muối cá ươn – Không có xe xịn thôi đừng yêu em”… Tại một trang cá nhân của một bạn trẻ tên N.T., câu status (tình trạng) “Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Mai sau có lúc ra đường đập nhau” đã thu hút gần 100 bạn yêu thích và hơn 300 câu bình luận. ============================================================ Potay với mấy bạn trẻ thể hiện mình
-
Chính xác Mỗi con người đều có cái giỏi riêng của mình Ngô Bảo Châu giỏi toán nhưng không có nghĩa cái gì cũng giỏi và cái gì cũng đúng. Việc Châu so sánh CHHV như thế là không chính xác.
-
Bài thơ: Tuyển Chồng Tuyển chồng chất lượng Lương tháng không tiêu Không được nói nhiều Không cho cãi vợ Phải biết đi chợ Nấu nướng ,quét nhà Không được la cà Rượu chè cờ bạc Không được lười nhác Phải tắm hàng ngày Không được xỉn say Không hay "tá lả" Không được quậy phá Không đánh vợ con Không béo , không lùn Không gầy ,không ốm Thức khuya dậy sớm Nghe vợ chăm con Biết mua phấn son Làm quà cho vợ Mua đồ không hớ Cao ráo, thông minh Thấy con gái xinh Không được xí xớn Không được tí tởn Gái gú, bia ôm Râu ria bờm xờm Phải cạo cho sạch Nếu nhà có khách Được phép ra oai Nhưng không có ai Vợ là số một Không được ngu dốt Không được sở khanh Phải biết làm lành Dù vợ có lỗi Không được phạm tội Không được ba hoa Không được bép xép không được xét nét Soi mói vợ con Biết nấu ăn ngon Đủ đầy dinh dưỡng Tuyển chồng chất lượng Mại zô mại zô
-
Nét văn hóa trong trang phục của người Hà Nội Trong kho tàng văn hóa dân gian có câu ngạn ngữ "ăn Bắc, mặc Kinh", để chỉ nét đẹp của người kinh đô Thăng Long từ xưa đến nay qua trang phục mang đậm dấu ấn Hà thành cổ kính, thanh lịch. Đến ngày nay, nhiều ca dao, tục ngữ vẫn còn lưu truyền, ngợi ca vẻ đẹp con người được quần áo tôn thêm gấp bội. Vẻ đẹp của một người phụ nữ phải là: "Khăn nhung vấn tóc cho vừa Đi giày mõm nhái, đeo hoa cánh bèo. Quần thâm lĩnh Bưởi cạp điều Hột vàng quấn cổ ra chiều giàu sang". Vẻ đẹp của các công tử con nhà giàu thị dân cũng đã có tiêu chí một thời: "Thấy anh áo lượt xênh xang, Đồng hồ quả quít, nhẫn vàng đeo tay, Cái ô lục soạn cầm tay, Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều". Hay: "Giày ban bóng láng nuột nà, Khăn xếp chữ nhất, quần là nếp tư". Trải qua tiến trình dựng và giữ nước, cách ăn mặc của người Hà Nội cũng có sự thay đổi theo mỗi thời đại, nhưng vẫn giữ được nét thanh lịch, đậm nét văn hóa của vùng Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. 1. Trang phục người Hà Nội thời Hùng Vương Chứng cứ khoa học cho thấy người Hà Nội biết cách ăn mặc đẹp từ thời Hùng Vương. Nhìn vào những hình trang trí trên trống đồng Cổ Loa (đào được trong lòng đất Cổ Loa, Đông Anh - Hà Nội) đã có thể hình dung được người Hà Nội khi đó trong trang phục ngày hội: đầu đội mũ có gắn lông chim, quần áo cũng làm bằng long chim. Cũng có thể đó là hình những chiến binh đang cầm vũ khí, trên vũ khí lại được cắm lông chim vì chim dường như là vật tổ của cộng đồng người Việt cổ khi đó, hình ảnh này được miêu tả đáng yêu và phổ biến trên trống đồng. Cũng có cảnh đôi trai gái giã gạo, người con trai được miêu tả như mặc khố chứ không phải mặc áp ngày hội. Hình ảnh trang phục còn được thể hiện hết sức sống động và duyên dáng nơi tượng người phụ nữ khắc họa trên cán dao găn thời này: mặc áo chẽn, bó gọn lưng ong, váy dài chấm gót, có nhiều hoa văn đẹp trên váy áo, thắt lưng ngang hông, đầu đội mũ cao, thắt dải ngang trán. Đối với trang phục thường ngày thời kỳ này không khác biệt nhiều so với trang phục của người dân Văn Lang - Âu Lạc nói chung: Nam mình trần, đóng khố, thân thể, chân tay đều có xăm hình giao long (rồng) và các hình khác. Nữ mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực bó sát vào người, phía trong mặc yếm che kín. Hai loại áo này có thể là chui đầu hoặc cài khuy bên trái, trên áo cũng có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng làm cho thân hình tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả xuống phía trước và sau người, tận cùng bằng những tua rủ. Váy bó sát thân với mô típ chấm tròn, những đường gạch chéo song song và hai vòng tròn có chấm ở giữa. Màu sắc thường là màu vàng, đen, đỏ nâu, xám nhạt, vàng nhạt. Các loại vòng tay, vòng cổ chân và vòng tai bằng đá, bằng đồng cũng là những vật liệu trang sức phổ biến cả ở nam và nữ. Đặc biệt, có những vòng hoa tai bằng đá gắn quả nhạc hay hình con thú. Những chuỗi hạt thường thấy gồm các hạt hình trụ, trái xoan hay hình cầu. Đàn ông đàn bà đều nhuộm răng đen và có tục ăn trầu cho đỏ môi. Trang phục người Hà Nội thời Lê mạt Sang thời Lê mạt do cơ cấu chính trị trong triều đình có nhiều thay đổi và trở nên phức tạp bởi hệ thống cung vua phủ chúa nên lối phục sức của tầng lớp quý tộc cũng ít nhiều thay đổi: Vua mặc long cổn, đội mũ tam sơn hay áo hoàng bào mang đai ngọc; Chúa mặc áo bào tía, đội mũ xung thiên mang đai ngọc; Hoàng thái tử (con vua) mặc áo xanh đội mũ dương đường; Vương thế tử (con chúa) mặc áo đỏ đội mũ cánh chuồn dát vàng, bố tử kỳ lân... Học trò và người thường khi có công việc đều mặc áo thâm, dân quê mặc áo vải thô màu trứng. Đến cuối thời Lê thì ai cũng mặc áo thanh cát màu thâm, xanh sẫm, màu sừng, màu trắng ít dùng. Có thời kỳ màu sừng là màu của tầng lớp vương, công, khanh, sĩ. Nhưng về sau bất kể người sang hèn đều mặc màu này. Còn các màu xanh sẫm, xanh nhạt thì lại cho là quê không dùng nữa (Phạm Đình Hổ (Vũ Trung tuỳ bút)). Trang phục người Hà Nội thời kỳ cận đại Người Hà Nội thời cận đại rất chú ý đến cách ăn mặc. Khâu đầu tiên là chọn lựa chất liệu của quần áo. Chất liệu may áo ưa chuộng, lúc đó là the mà phải là the dệt bằng tơ tằm, dệt thưa, nhuộm thâm, thường là the làng La Cả. Chất liệu may quần của nữ là lĩnh làng Bưởi mới là hàng tốt nhất, sợi mịn, mặt bóng. Quần của nam giới là lụa trắng làng Cổ Đô. Ngoài ra, một số chất liệu vải cao cấp cũng hay được dùng như: sa, xuyến, băng, là, xồi, đũi, nhiễu.... đều là sản phẩm của các làng nghề ở Hà Nội hay các tỉnh lân cận sản xuất. Một số hàng đặc biệt hơn dành cho vương hầu là đoạn, gấm, vóc,... Thị dân các phố nghề, buôn bán, lao động thì ưa quần áo màu thâm, trắng và nâu. Quần áo nuộm bằng củ nâu vừa bền màu vừa bền sợi. Phường Đồng Lâm có nghề nhuộm vải nâu nổi tiếng. Thiếu nữ mới lớn thích nhuộm màu nâu non để tôn thêm vẻ đẹp nước da trắng ngần. Các ông bà thì thích nhuộm màu tiết dê. Phường Hàng Đào lại có nghề nhuộm điều. Trang phục người Hà Nội cuối thế kỷ XVIII đầu XIX Cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, trang phục của người Hà Nội đã có nhiều thay đổi cả về chất liệu lẫn kiểu dáng. Những loại vải như the, lĩnh, lượt, là được sử dụng khá phổ biến với những kiểu dáng chính như tứ thân cho nữ, áo dài cài chéo vạt cho nam. Sang trọng nữa, đàn ông, đàn bà mặc áo dài lụa trắng bên trong, ngoài lồng áo may bằng sa, xuyến hoặc băng (là những loại vải mỏng có độ bóng, đôi khi có hoa). Vương hầu, quan chức thì dùng hàng đoạn, gấm, vóc. Đoạn gần như lĩnh nhưng dày hơn. Vóc là thứ đoạn mỏng có hoa đồng màu, còn gấm có hoa dệt màu sặc sỡ hoặc bằng kim tuyến. Hà Nội xưa còn có loại áo mặc trong đám cưới, do nhà chủ giàu có may cho tất cả các khách đến ăn cưới. Xong việc, những áo ấy được nhuộm lại, đem bán rẻ, gọi là “Cố y”. Dân lao động thì chủ yếu dùng áo vải nhuộm nâu, vải mỏng nhuộm nâu non lại là mặt hàng ưa thích của các cô gái bình dân để may áo cánh. Người khá giả cũng dùng màu nâu nhưng là lụa, đũi nhuộm nâu. Thế hệ người già thường thích màu tiết dê, tam giang. Phường Đồng Lầm (nay là làng Kim Liên, quận Đống Đa) có nghề nhuộm nâu nổi tiếng. Lúc này, màu vàng vẫn bị cấm, chỉ dành riêng cho nhà vua và áo khoác các tượng Thần, Phật. Màu đỏ chủ yếu dùng trong tầng lớp công, hầu, khanh, tướng. Vóc đỏ hay gấm đỏ tươi còn được gọi là màu đại hồng. Con quan to mới sinh ra cũng mặc áo đỏ. Còn nhà giàu chỉ khi bố mẹ khao thượng thọ mới được con cháu mừng cho chiếc áo the đỏ. Phường Hàng Đào chuyên làm nhuộm điều. Màu hoa đào bị coi là lẳng lơ, không đứng đắn, thường dùng cho người múa hát. Màu xanh nhạt “hồ thuỷ” hoặc “thiên thanh” được dùng nhuộm áo mặc lót trong hoặc để lót lần trong áo kép, áo bông. Các cô gái vùng ngoại thành lại thích màu hoa hiên. Mặc áo cánh nâu non, yếm lụa, thắt lưng màu hoa hiên, cũng là “mốt” một thời của các cô gái Hà Nội. Chị em nhỏ nhắn thì ưa thắt một dây lưng màu quan lục, hay tam giang cho nổi rõ cái lưng ong. Kiểu áo phổ biến vẫn là tứ thân, thắt lưng bằng dải lụa màu, còn gọi là “ruột tượng”. Nhà buôn thành thị, nhà giàu xứ quê, còn đeo vào thắt lưng một bộ “xà tích” bằng bạc với chiếc ống vôi nhỏ, quả đào xinh xinh đựng thuốc lào cũng bằng bạc và chùm chìa khoá. Ngoài ra kiểu áo 5 khuy, tay rộng cũng được giới nữ 36 phố phường chấp nhận. Khi mặc, chỉ cài 4 chiếc, để hở khuy cổ, khoe cái yếm cổ xây, ôm lấy cái cổ trắng nõn nà, cao ba ngấn. Phụ nữ phố phường hay dùng yếm trắng. Phụ nữ ngoại thành dùng yếm nâu. Hội hè mặc yếm đào, yếm hoa hiên. Các bà đứng tuổi ưa cổ xẻ, từ cổ yếm có 3 đường khâu xoè ra. Nam giới mặc áo dài năm thân, vải thâm, có khuy tết chỉ hoặc khuy đồng, khuy bạc, khuy ngọc... người hào hoa phong nhã thì mặc áo sa trơn, áo trong và quần màu trắng. Mùa rét, dùng áo kép, có thêm lần vải lụa lót màu tươi, áo bông cộc, trần quân cờ. Khi mặc, người ta còn có thắt lưng bao xanh duyên dáng kèm theo. Một vài trường hợp thực dụng hơn, người ta thắt một cái "ruột tượng: thay cho thắt lưng để đựng tiền và các thứ lặt vặt. Một số người còn đeo bên cạnh thắt lưng một chiếc xà tích bằng bạc đựng vôi ăn trầu. Có khi áo tứ thân còn thêm một vạt để cài khuy, thường là 5 khuy. Bên trong áo tứ thân là yếm trắng, yếm đào. Ngoài trang phục ra thì trong cách ăn mặc của người Hà Nội còn có nhiều thứ phụ trang đi kèm như giày dép, mũ, nón, ô, lại thên chút đồ trang sức bằng vàng, bạc như vòng, nhẫn, dây, xuyến... để làm tăng vẻ đẹp ngoại hình. Đáng chú ý nhất trong trang phục phụ nữ là những tà áo dài. Áo dài có từ bao giờ cũng khó xác định, có thể đã hơn trăm năm, nhưng ngày nay trở thành trang phục đẹp nhất, tiêu biểu cho cách ăn mặc đậm đà tính dân tộc của phụ nữ Việt Nam. Tại nhiều hoạt động đối ngoại của đất nước, áo dài trở thành lễ phục không thể thiếu được. Có thể chiếc áo dài Huế cùng với chiếc nón lá Huế chóp nhọn du nhập ra Hà Nội từ lâu, nhưng chỉ đến nửa đầu thế kỷ XX, áo dài mới được người Hà Nội tiếp nhận và cải tiến nhiều. Áo dài cũng từ đó trở thành trang phục gắn bó với phụ nữ thủ đô. Nam giới mặc áo có 5 thân, cài khuy tết chỉ hay khuy đồng, khuy bạc, khuy ngọc. Mùa đông thì cả nam và nữ thường dùng áo bông. 6. Trang phục người Hà Nội từ thế kỷ XIX đến ngày nay Hà Nội trong nửa đầu thế kỷ XX có những phố nổi tiếng về bán vải như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Vải. Các phố may quần áo nổi tiếng là Hàng Trống, Hàng Gai. Bên cạnh các diễn biến về trang phục triều đình, sự hiện diện của các loại trang sức ở thành Thăng Long trong các tầng lớp nhân dân rất là phong phú. Một số phường ở kinh thành đã đặt tên, nói lên sự sầm uất của các sinh hoạt liên uan đến vấn đề trang phục. Hàng Giầy bán giầy dép. Hàng Đào vào ngày các chợ phiên, tấp nập người La Khê, La Cả đến bán the, lụa, lượt, là, người Mỗ bán lụa, người Bưởi bán lĩnh... Bên cạnh trang phục, sự thanh lịch của người Hà Nội còn thể hiện ở nón mũ đội đầu. Đẹp nhất là nón làng Chuông, nhưng bộ quai thao làm duyên cho nón lại được làng Triều Khúc dệt. Vì thế, có câu ca: "Hà Nội thì tết quai tua, Có hai con bướm đậu vừa xung quanh". Còn có nón mền giải, nón tam giang dành cho ông già, nón lá cho con nhà giàu, nón lá sen cho trẻ con, nón ba tầm. Sau này, nhiều loại mũ cũng theo văn minh phương Tây vào Hà Nội. Có mũ cát, mũ lưỡi trai, mũ phớt, mũ nồi,... Về mùa đông, vẻ duyên dáng của nam thanh nữ tú còn được tô điểm thêm các loại khăn đội đầu hay quấn cổ. Có khi là khăn nhiễu hay khăn nhung có thêm một đoạn độn tóc bằng vải để vấn quanh đầu. Sau này, các thiếu nữ Hà Nội thường có chiếc khăn san mỏng quấn hờ quanh cổ để làm đẹp nhiều hơn là để ấm. Nam giới có loại khăn đầu rìu hay khăn xếp. Bên cạnh việc đi giày sau này, còn phổ biến hơn cả là các loại guốc tre, guốc gỗ, dép quai ngang, dép mũ cong hình lá đề Trong những năm đầu thế kỷ XXI, ngoài những trang phục đã trở thành lễ phục của cả nước như áo dài cho phụ nữ, áo vest, sơ mi, quần Tây cho nam giới, người Hà Nội còn sáng tạo ra muôn vàn mốt quần áo mới thích hợp với mọi tầng lớp nhân dân và cũng chịu ảnh hưởng của thời trang quốc tế. Hà Nội đã trở thành 1 trong 2 trung tâm thiết kế và biểu diễn thời trang lớn nhất nước. Các tên phố liên quan đến trang phục tăng lên nhiều so với thời Lê: phố hàng Hài, phố hàng Nón, phố hàng Bạc, phố hàng Vải, phố hàng Chỉ, phố hàng Lược, phố hàng Bông, phố hàng Gai, phố Thợ Nhuộm v.v..., từ đây có thể khai thác được nhiều tư liệu về vấn đề trang phục. Có nhà nghiên cứu đã cho rằng vấn đề Mặc thời phong kiến là "một phần của pháp chế". Ngày nay với mỗi người, mặc là một phần nhân cách, với xã hội đó là văn hóa, với lịch sử, đó là bước tiến văn minh. Trang phục đặc biệt đậm nét và lâu dài là nữ phục, là lĩnh vực mà bản sắc dân tộc biểu hiện và bảo lưu khá. Đây là một vấn đề văn hóa văn minh dân tộc, giúp cho các thế hệ mai sau có cái nhìn cụ thể, chính xác hơn về quá khứ Thăng Long - Hà Nội và góp phần xây dựng đời sống văn hóa người Hà Nội. Như một quy luật tất yếu của lịch sử, trang phục của người Thăng Long-Hà Nội đã có nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên nét riêng độc đáo từ vẻ đẹp lịch sự, trang nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách quần áo cùng với lối trang sức Hà thành vẫn được bảo tồn như là một đặc trưng riêng của văn hóa Hà Nội, luôn được các thế hệ Hà Nội gìn giữ ngay cả trong thời chiến tranh gian khổ đến những năm bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc ở thời kinh tế thị trường. Nhìn lại quá trình lịch sử, trang phục của người Thăng Long - Hà Nội đã có nhiều thay đổi qua từng thời đại. Tuy nhiên cái vẻ đẹp lịch sự, tranh nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách quần áo thì vẫn được bảo tồn như là một đặc điểm riêng của trang phục Hà Nội. Có nhà văn nói rằng, người Hà Nội trong bộ quần áo cần lao giản dị mà vẫn đượm vẻ phong lưu. Nơi mỗi vạt áo của những người con đất Thủ đô ấy dường như ta vẫn thấy hồn Thăng Long vương vất. St
-
Chuyện kể của một nhà văn đi máy bay Vietnam Airlines Ngay từ lúc vào cửa máy bay của VNA mang số hiệu 534 tôi biết chắc tổ bay đã thấy tôi được đưa đến bằng xe đẩy và thấy tôi cà lết tới chỗ ngồi nhưng suốt chuyến bay tôi không nhận được một lời hỏi han. LTS: Trong những ngày này, trên các diễn đàn đang xôn xao bàn luận về vụ việc của HLV Lê Minh Khương trên chuyến bay VN1169 đêm 18.4, bàn luận về cách ứng xử, thái độ phục vụ, tinh thần cầu thị và lắng nghe của Vietnam Airlines. Có ý kiến khen, nhiều ý kiến chê nhưng tựu trung lại vẫn là những ý kiến mang tinh thần xây dựng, góp ý với mong muốn thương hiệu Vietnam Airlines xứng tầm là hãng hàng không quốc gia, xứng đáng với slogan "Cất cánh cùng non sông", mong muốn Vietnam Airlines ngày càng phát triển và nhận được sự yêu thương, tin cậy của khách hàng. Cũng trên tinh thần đó, báo điện tử Dân Việt xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà văn Từ Sơn, mang tựa đề Bình thường và... "bình thường", đã đăng trên báo Văn nghệ số 39 ngày 26.9.2009. Sau hơn một tháng du ngoạn châu Âu, tuần cuối cùng tôi không may bị đau thần kinh tọa khiến chân trái cứng đơ không di lại được. Tình hình sức khoẻ như vậy khiến tôi và “bà xã” hết sức lo lắng. Con trai tôi (đang sống và làm việc tại Thụy sĩ) gọi diện thoại cho hãng hàng không Air France (hãng bay nối tuyến Hanoi - Zurich - Hanoi với Vietnam Airlines) và văn phòng đại diện Vietnam Airlines báo đề nghị họ bố trí dịch vụ chăm sóc hành khách bị đau ốm bất ngờ hồi hương thuận lợi và an toàn. Hãng hàng không trả lời con tôi:” Xin ngài yên tâm. Đây là trách nhiệm của chúng tôi “.Sáng sớm 12.9 vừa rồi, con trai tôi đưa tôi và vợ tôi ra sân bay Zurich. Làm thủ tục xong, nhân viên hàng không đưa chúng tôi dến phòng chờ dành cho người tàn tật. Mấy phút sau, một nam nhân viên đưa xe đẩy tới, mời tôi ngồi lên xe và bảo vợ tôi cùng đi theo. Anh nhân viên nhẹ nhàng đẩy xe đưa tôi theo một đường dành riêng vắng vẻ, lên xuống thang máy và các cửa an ninh đến vài ba lần mới tới được chỗ xe ô tô chuyên dụng đón người ốm ra tận cầu thang máy bay. Nhân viên xe đẩy bàn giao hết sức kỹ lưỡng và dặn dò lái xe đưa chúng tôi đi sao cho chu đáo. Lái xe nhanh chóng mang hành lý xách tay của chúng tôi đặt lên xe rồi dìu tôi lên chỗ ngồi, tự tay thắt dây an toàn cho vợ chồng tôi và luôn miệng nói: “Tốt, tốt rồi. Ông bà yên tâm”. Đến cầu thang chiếc máy bay City Jet mang số hiệu 5111 của Air France anh lái xe bảo chúng tôi ngồi yên tại chỗ để anh đi lo thủ tục với phi hành đoàn. Mang hành lý, dìu tôi lên máy bay đều do nhân viên phi hành đoàn lo liệu. Mọi việc xong, lái xe và nhân viên phi hành đoàn ký biên bản bàn giao. Anh lái xe bắt tay chúng tôi, chúc lên đuờng bình yên. Chúng tôi hết lời cám ơn anh. Anh nói: “Đây là nhiệm vụ của chúng tôi. Bình thường thôi mà”. Trên đường bay tới Paris, tôi bàn với vợ:” Chân anh đã đỡ nhiều có thể túc tắc đi làm tiếp thủ tục check-in ở sân bay Charles De Gaulle được, khỏi phải làm phiền bạn”. Vợ tôi đồng ý vì biết đến Paris chúng tôi còn 3 tiếng đồng hồ chờ đợi mới đến giờ bay về Việt Nam. Máy bay hạ cánh ở sân bay Charles De Gaulle sau hơn 1 giờ bay. Chúng tôi thản nhiên (riêng tôi cố chịu đau chút ít) theo hành khách ra cửa máy bay. Nhưng “âm mưu” của chúng tôi không đạt vì cô tiếp viên đã ngăn chúng tôi lại, chỉ cho chỗ ngồi ở một hàng ghế và nói:” Quý vị phải ngồi chờ chừng 4 phút, xe ô tô chuyên dụng của chúng tôi sẽ đến đón hai vị và giúp các vị làm tiếp các thủ tục cho tới khi các vị chuyển sang máy bay của Vietnam Airlines”. Hành khách bình thường đã lên xe bus vào nhà ga. Tôi thấy đội làm vệ sinh máy bay tới. Họ định lên máy bay làm nhiệm vụ thì bị cơ trưởng ra lệnh phải chờ chuyển xong hành khách bị đau đi mới được lên máy bay làm nhiệm vụ. Bốn phút trôi qua. Xe chuyên dụng chưa tới. Cơ trưởng đích thân đến gặp chúng tôi xin lỗi và xin hẹn chờ thêm 5 phút nữa. Cơ trưởng còn thăm hỏi chúng tôi về sức khoẻ, về chuyến đi và xin lỗi liên tục. Tôi nói:”Chờ thêm mấy phút chúng tôi không thấy phiền. Chúng tôi rất cảm dộng về sự chăm sóc ân cần của các ông nhất là khi thấy toàn bộ tổ bay ngồi lại chờ chúng tôi mà chưa rời khỏi máy bay như lệ thường”. Xe đến. Bàn giao, ký nhận , dặn dò lái xe. Toàn tổ bay tiễn tôi lên xe, bắt tay tạm biệt, chúc may mắn. Chúng tôi ra sức cám ơn. Cơ trưởng nói:”Đây là trách nhiệm của chúng tôi đối với hành khách đau ốm. Bình thường thôi mà”. Lại bình thường! Sao họ đáng yêu thế. Anh lái xe đưa chúng tôi đi gần như vòng quanh sân bay chừng hơn 20 phút (có lẽ cả hai ba chục cây số) theo đường dành riêng để đến nhà ga thứ nhất. Ở đó lái xe lại bàn giao chúng tôi cho một nữ nhân viên da đen đã đứng đón sẵn. Chúng tôi cám ơn. Anh lái xe lại nói:”Nhiệm vụ bình thường của tôi thôi”. Cô nhân viên đẩy xe đưa tôi lòng vòng trong nhà ga tới chỗ lên xe bus chuyên dụng chở chúng tôi về ga chính (ga Terminal ). Lại bàn giao, dặn dò. Chúng tôi cám ơn.Bạn nói:”Bình thường thôi mà”. Đến ga chính, một cô nhân viên da trắng xinh đẹp đã chờ sẵn. Cô đẩy xe đưa tôi đến cửa làm thủ tục check-in của Vietnam Airline. Cô nhân viên dịch vụ bảo tôi ngồi yên trên xe đẩy.Cô cầm hộ chiếu của chúng tôi di làm thủ tục trong khi cửa làm thủ tục chưa mở. Mấy phút sau, thủ tục ưu tiên cho chúng tôi đã làm xong. Cô nhân viên dịch vụ lại đẩy xe đưa chúng tôi đến tận cửa chờ lên máy bay. Cám ơn. Chào. Lại nói:”Bình thường...”. Tôi tưởng từ phút ấy tôi chỉ việc chờ đến giờ mở cửa ra máy bay, tôi sẽ cố gắng lết chân đi chừng 100 bước trong dường ống là vào máy bay ngồi vào chỗ ngon lành. Nào ngờ 11h25 là giờ mở cửa vào máy bay thì 11h10 cô nhân viên lúc nãy lại đưa xe đẩy đến và nói với tôi:” Tôi sẽ đẩy xe đưa ông và phu nhân đến tận cửa máy bay, giao ông cho phi hành đoàn mới xong nhiệm vụ”. Nói rồi cô đến thương lượng, trình giấy tờ, bàn giao với nhân viên an ninh cho tôi được lên máy bay trước khi máy bay nhận khách hàng loạt. Lúc bấy giờ tôi thấy một số hành khách là quan chức ngoại giao mang hộ chiếu đỏ cũng nhường sự ưu tiên lên máy bay trước cho tôi. Xe đẩy đưa tôi đến tận cửa máy bay. Cô nhân viên vội vàng bắt tay tôi và nhà tôi rất chặt, chúc lên đường về nước bình an. Cảm động không nói lên lời, chúng tôi đăm đắm nhìn cô nhân viên dịch vụ mãi mới nói lắp bắp được lời “Cám ơn nhiều!”.Cô nhân viên cũng cảm động vẫy chào chúng tôi và lại nói:” Nhiệm vụ bình thường của tôi thôi mà. Chúc ông bà bình yên”. Cô tiếp viên hàng không Việt nam thấy tôi cà nhắc tìm hàng ghế ghi trong phiếu lên máy bay liền giơ tay chỉ rồi quay mặt lại ngay. Tôi cà lết một lúc rồi cũng đến được hàng ghế của mình. Tôi nín đau rướn ngưòi tự tay cất hành lý xách tay của chúng tôi lên ngăn (vì nhà tôi với không tới). Thôi thế là yên ổn. Sau 11 giờ bay, 4h30 sáng 13.9.09 máy bay dáp xuống Nội bài. Tôi cà lết tới chỗ làm thủ tục nhập cảnh. Người ta phải xếp hàng chờ khá dài vì giờ ấy mới chỉ có 4 cửa làm thủ tục. Khoảng gần hai mươi phút sau người ta mới mở thêm vài cửa nữa cho khách bớt thì giờ chờ trình diện. Tôi lại lết đến chỗ có ghế ngồi chờ lấy hành lý. Sân bay lúc này mới có rất ít nhân viên làm việc. Cạnh ghế tôi ngồi chờ có mấy cái xe đẩy dành cho người ốm hoặc tàn tật nhưng tôi chẳng thấy ai hỏi han gì mình. Tôi cũng chẳng lấy làm lạ vì ngay từ lúc vào cửa máy bay của VNA mang số hiệu 534 tôi biết chắc tổ bay đã thấy tôi được đưa đến bằng xe đẩy và thấy tôi cà lết tới chỗ ngồi nhưng suốt chuyến bay tôi không nhận được một lời hỏi han. Thậm chí khi cho ăn nhẹ 2 giờ trước khi hạ cánh cô tiếp viên còn quên không đưa nước uống cho vợ tôi, mặc dầu vợ tôi xin uống nước cà chua. Cô ta có “vâng” nhưng rồi lại “quên” lấy nước cho khách (!). Có lẽ đây cũng là “điều bình thường”. Tôi chợt nhớ: hôm 19.7.2009 máy bay của VNA mang số hiệu 535 đưa tôi đi từ Hà Nội đến Paris đã khởi hành chậm hơn 1 giờ đồng hồ (hai lần xin lỗi khách khi khách đã ngôi yên trên máy bay vì “lý do kỹ thuật” ) và khi đến nơi nhận hành lý 2 va li của chúng tôi đều bị bẻ khoá. Đồ đạc chẳng mất gì ngoài một cái kính râm (chẳng biết là bị lấy trộm hoặc do sơ xuất của nhân viên soi hành lý nghi ngờ có đồ quốc cấm đã dỡ ra kiểm tra rồi làm rơi đâu đó). Tôi nghĩ: có lẽ đó cũng là những điều người ta cho là ”bình thường”(!). Về Hà Nội đã được non một tuần. Chân tôi đã đỡ đau nhiều nhưng lòng tôi nhói lên một nỗi đau khác vì băn khoăn: Bao giờ chúng ta có được những con người làm nhiệm vụ chăm sóc con người mang trong mình cung cách ân cần và tinh thần trách nhiệm cao như những nhân viên hãng hàng không Pháp và các nhân viên dịch vụ mặt đất ở Thụy Sĩ và ở Pháp? Tôi hết sức biết ơn về sự giúp đỡ của họ. Hy vọng ai đó đọc bài viết nhỏ này giúp tôi một lần nữa chuyển đến những con người dễ thương ấy lòng biết ơn của chúng tôi. Tôi hy vọng sự bất bình thường (mà người ta đã quá quen đến mức coi là bình thường), vô cảm trong cung cách phục vụ con người của chúng ta hiện nay ở không ít nhân viên công vụ thuộc không ít lĩnh vực sẽ liên tục bị xã hội lên án mạnh mẽ và xoá bỏ để có được thật nhiều những “công bộc” của nhân dân như Bác Hồ hằng mong muốn. Liệu những người đang được dân đóng thuế để nuôi họ làm việc cho dân, có nhận thức được một cách đầy đủ trách nhiệm của mình và biến nhận thức ấy thành tình cảm tự nhiên của tình người bằng sự ân cần, chu đáo khi thực thi nhiệm vụ bình thường của mình mà nhân dân đã giao phó cho họ hay không? =========================================================================================================== Thêm 01 bài này nữa, thì tôi nghĩ là chúng ta có đủ thông tin để nhận xét về vụ việc của VN airline và Huấn luyện viên Lê Minh Khương, dù là ai đúng ai sai .
-
Tôi copy thêm 1 vài viết nữa trên mạng, để mọi người cùng xem nhé ============================================================================ Dân làng võ nói gì về vụ lùm xùm trên máy bay? HLV trưởng đội tuyển Karatedo Việt Nam Lê Công Võ sư Đoàn Đình Long, Trưởng bộ môn Taekwondo Vũ Xuân Thành, VĐV Nguyễn Văn Hùng nêu ý kiến về sự việc xảy ra với võ sư Lê Minh Khương trên máy bay. Võ sư Lê Công - HLV đội tuyển karatedo Việt Nam: Tôi không có mặt trực tiếp trên chuyến bay nên không biết chính xác sự việc như thế nào nhưng quan điểm của tôi là bất kỳ hành khách nào, khi đã lên máy bay thì không nên to tiếng và phải tuân thủ hướng dẫn của phi hành đoàn. Còn trường hợp của anh Khương lại khác. Thông qua báo chí và ý kiến của nhiều nhân chứng, trong đó có đạo diễn Trần Lực, ca sỹ Quang Hà thì anh Khương không có biểu hiện gây rối. Rõ ràng nhân viên Vietnam Airlines đã hành xử rất kém, thiếu chuyên nghiệp. Thiếu gì cách thuyết phục hành khách khi người ta chỉ muốn lấy lại cuống vé. Nói không quá, chứ dân võ như chúng tôi, để đối phó với vài nhân viên an ninh chẳng khó khăn gì. Nhưng may là Khương đã bình tĩnh không đánh lại, chứ nếu Khương mà làm như vậy thì không thể chấp nhận được. Dù sao đây cũng là bài học kinh nghiệm chung cho các HLV, VĐV Việt Nam - những người thường di chuyển nhiều bằng máy bay trong mỗi chuyến tập huấn, thi đấu. VĐV Nguyễn Văn Hùng - cựu tuyển thủ Taekwondo từng 5 lần vô địch SEA Games: Nghe tin tôi cảm thấy rất bức xúc, đặc biệt khi người bị hành hung là thầy của tôi. Dân võ thường bao giờ cũng suy nghĩ rất cẩn trọng trước khi làm chuyện gì đó, hơn nữa thầy Khương lại là người điềm đạm. Với những người đã di chuyển nhiều bằng máy bay ở Việt Nam thì đều biết chuyện bị chậm vài tiếng đồng hồ so với giờ bay xảy ra quá nhiều và mọi người phải chấp nhận khi đã mua vé. Sau những sự việc như này, tôi hy vọng Vietnam Airlines sẽ biết cách trân trọng khách hàng hơn, vì sự phát triển của chính họ. Ông Vũ Xuân Thành -Trưởng bộ môn Taekwondo, Tổng cục TDTTHiện đang tồn tại hai luồng ý kiến trái ngược nhau về sự việc anh Khương bị hành hung. Phía Vietnam Airlines có lý khi cho rằng hành khách khi lên máy bay phải tuân thủ quy định. Còn anh Khương với tư cách hành khách cũng có quyền lợi của mình khi đã bỏ tiền ra mua vé và phải được phục vụ tận tình. Chúng tôi đã yêu cầu anh Khương có văn bản tường trình chân thực mọi diễn biến rồi mới có thể đưa ra ý kiến được. Võ sư karatedo Đoàn Đình Long: Phải trực tiếp có mặt trên máy bay mới có thể khẳng định đúng sai như thế nào nhưng theo sát vụ việc này qua các báo, tôi thấy sai sót đầu tiên thuộc về nữ tiếp viên hàng không. Đáng ra khi anh Khương đòi lại cuống vé, cô ta phải có trách nhiệm thuyết phục, giải thích, xin lỗi hành khách nếu đã làm mất, chứ việc báo cáo với cơ trưởng, để máy bay đang di chuyển lại buộc phải quay lại bến đỗ thì thành chuyện lớn rồi. Tiếp theo, nhân viên an ninh khi lên máy bay chưa biết sự việc ra sao đã bẻ tay, chích dùi cui điện là sai rồi. Tôi nghĩ, nếu anh Khương đã đúng, thì nên kiện. Đó là cách để nhân viên hàng không biết cần phải tôn trọng khách hàng hơn.
-
Tôi copy bài viết này, để chúng ta có thêm thông tin tham khảo nhé ================================================================== Trải lòng một tiếp viên trẻ Vietnam Airlines về việc "tấn công hành khách" Có người nói “lên máy bay là sợ tiếp viên 1 phép, phản ứng là bị đánh ngay”, có không những chuyện phi thực tế ấy? Chúng tôi là hãng hàng không quốc gia, chứ không phải hang hàng không mafia. Tiếp viên chúng tôi động não chứ không động thủ. Tiếp viên Vietnam Airlines phục vụ hành khách.Những ngày gần đây có lẽ chủ đề về tiếp viên hàng không chúng tôi trở thành một hot topic và thu hút nhiều ý kiến đóng góp nhất. Cảm thông có. Phản đối có. Chê trách có. Lên án thì nhiều vô kể. Thầy chúng tôi hỏi “Có chạnh lòng không?” Thưa, có chứ. Chạnh lòng lắm chứ, buồn nhiều lắm chứ, và đôi khi là một nỗi ức nghẹn cổ họng và cay xè đôi mắt. Tôi nói lên đây không phải là một lời biện minh hay phân trần với tất cả những người đã từng là hành khách của VNA, chưa từng là hành khách của VNA và cả những người trong và ngoài ngành. Tôi nói lên đây, để mong nhìn thấy những dòng nghĩ suy chân thành nhất, để nghe những đóng góp chân thành nhất, để cảm nhận thấy nỗi mong đợi của hành khách với chúng tôi và cả những mong đợi nơi chúng tôi về hành khách, những con người mang đến CÁI SỐNG cho VNA. Đã ai từng vỗ ngực xưng tên rằng mình là người hoàn hảo? Chưa từng đúng không ạ? Vì một lẽ, con người ta chẳng ai là hoàn hảo cả. Ta có nhan sắc thì ta khuyết trí khôn, ta có trí khôn thì ta thèm nhan sắc. Ta có danh vọng thì ta khuyết bình yên, ta thừa bình yên thì lại khát khao chút nổi tiếng… Chẳng ai là hoàn hảo. Mỗi con người một điểm mạnh. Cũng ngần ấy con người ấy có khuyết điểm riêng của mình. Mỗi con người một cách nhìn. Thì cũng ngần ấy những ý kiến lại cứ đánh nhau bôm bốp. Tôi xin mạn phép nói lên ý kiến của mình về đề tài hot nhất những ngày qua. Chuyện về VNA và chuyện về HLV trưởng Lê Minh Khương. Tôi sẽ chẳng trình bày dài lê thê, kể lể, lải nhải để mang cái thắng về phần mình. Tôi chỉ muốn nói rằng: TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU CÓ MỘT PHẦN LỖI. 1. Tiếp viên có lỗi vì thiếu sự khéo léo trong cách giải quyết vấn đề phát sinh lúc ấy. Giá như lúc ấy ta nhẹ nhàng hơn một chút, ta khéo hơn một chút thì có lẽ ông HLV ấy đã có cách cư xử khác. 2. Ông HLV có lỗi vì chính cái tôi và sự thể hiện bản lĩnh của mình. Tôi xin lỗi ông vì lời nhận xét của mình. Nhưng nếu lúc ấy, ông xử dụng đúng tinh thần võ đạo, sự bình tĩnh, thì có lẽ sẽ không quá căng thẳng như bây giờ, đúng không ạ? 3. Bộ phận mặt đất tại Đà Nẵng cũng có một phần lỗi. Lỗi của các anh chị là ở chỗ QUÊN. Quên trả lại boarding pass cho hành khách sau khi nhận từ tiếp viên trưởng, để đến khi máy bay đóng cửa và lăn ra runway thì xảy ra chuyện thế này. 1, 2 và 3… Lỗi là ở tất cả chúng ta, nên có trách thì chắc là chúng ta sẽ trách đều tất cả, hoặc không thì… hãy không trách ai cả. Tâm lý của hành khách khi lên máy bay là chỉ duy nhất một mục đích, đến nơi an toàn, được chăm sóc và hạ cánh đúng giờ. Chúng tôi cũng có cùng suy nghĩ ấy, vì chúng tôi cũng mong được về nhà đúng giờ với gia đình lắm chứ. Nhưng ở đời, nhân tính sao bằng trời tính. Chúng ta thay đổi được sở thích, hình ảnh, quần áo, nhưng liệu có thay đổi được mây, mưa, gió, bão, những thứ thuộc quyền sở hữu của ông trời? Tôi, chúng tôi, và chúng ta đều lệ thuộc vào thời tiết của tự nhiên ấy. Chuyến bay không thể đáp tại sân bay tới, phải bay đến nơi khác để đáp chờ. Lo lắng không? Có chứ. Nôn nóng về sớm không? Có chứ. Mong thời tiết khá khẩm hơn để cất cánh được ngay khi có thể không? Có chứ. Tất cả chúng ta, tổ bay, tổ tiếp viên, và hơn mấy trăm hành khách đều có cùng những mong muốn như thế. Bực bội không? Có chứ, còn bao nhiêu là chuyện chờ mình giải quyết nữa chứ. Mệt mỏi không? Có chứ, mệt đầu tiên là mệt tâm lý, tinh thần mỏi nhừ với những việc delayed và divert thế này, và mệt cả thân thể nữa chứ. Hành khách mệt, chúng tôi hiểu lắm, vì chính chúng tôi cũng mệt. Vì có mấy ai hiểu rằng trước chuyến bay ấy, chúng tôi, có khi đã phải thực hiện 1 chuyến ban sớm? Với tần suất 1 ngày 8 lần cất hạ cánh, chúng tôi cũng cảm thấy… nhừ… Đó chỉ là phần tiếp viên chúng tôi thôi, còn tiếp viên trưởng thì còn cả 1 áp lực nặng nề với ngần ấy chặng bay trong ngày. Nào tài liệu, nào thông tin, nào giấy tờ, nào phát ngôn, nào là đủ cả. Chúng tôi mệt 1 thì các anh chị tiếp viên trưởng mệt 10. Thế nên có đôi khi, họ cũng không điều khiển được tình huống và điều khiển được ngữ điệu trong câu nói của mình. Và cũng có thể, cùng 1 câu nói, nhưng ngữ điệu khác đi thì hành khách cũng sẽ hiểu lệch sang ý khác của mình. Những ai đã và đang làm lãnh đạo chắc sẽ hiểu áp lực của các anh chị tiếp viên trưởng. Những ai nhìn thấu đáo, mong hãy hiểu cho họ đôi phần… Còn về những người mượn gió bẻ măng hay mượn gió tạo tên cho mình thì có lẽ thành công của họ gặt được là những ánh nhìn phản diện. Một người cho mình là có tiếng, rằng thì là lên án và có ý kiến mà theo anh ta bảo rằng “nói bằng trái tim”, trên một bài báo nào đó đã gào lên rằng “tôi nhận thấy mình không được bảo đảm về sự an toàn trên chuyến bay,…” rằng thế này, thế nọ… Xin thưa cùng anh, khi anh nhảy choi choi lên vào lúc rối ren, từ deluxe phóng lên gần khoang C, ý kiến, phản ứng… Thì chính những hành động đó đang uy hiếp chính sự an toàn của anh đấy ạ. Có lẽ anh là hành khách di chuyển thường xuyên bằng máy bay nhưng anh có chắc mình nắm rõ những gì thuộc về an ninh và an toàn bay? Liệu anh có biết thế nào là uy hiếp an toàn bay? Và liệu anh có biết những hậu quả cho những việc uy hiếp an toàn bay ấy như thế nào chăng? Vì lý do gì mà việc không liên quan đến mình mà anh lại nhảy đông đổng lên, trong khi hơn 200 hành khách khác thì vẫn yên tọa và hợp tác cùng tiếp viên? Có lý do gì không ngoài việc tự PR cho mình bằng việc làm của một bà tám???Tôi đã đọc những bài viết và những ý kiến của những người ngoài cuộc trên vài bài báo khác nhau trên mạng, những bức tranh biếm họa ẩn chứa và công khai lên án VNA. Tôi chỉ xin hỏi, rằng bao nhiêu phần trăm sự thật trong những câu chuyện của các bạn viết ra trên những trang báo ấy? Hãy như trong chuyện lùm xùm này, các anh chị có thấy tiếp viên hành hung hành khách không? Tiếp viên trực tiếp khóa tay và dung dùi cui với khách à? Có không nhỉ? Rõ ràng là không. Ấy vậy mà qua miệng các anh chị, qua lời viết mọi chuyện khác hoàn toàn. Có người nói “lên máy bay là sợ tiếp viên 1 phép, phản ứng là bị đánh ngay”, có không những chuyện phi thực tế ấy? Chúng tôi là hãng hàng không quốc gia, chứ không phải hang hàng không mafia. Tiếp viên chúng tôi động não chứ không động thủ. Tiếp viên chúng tôi không ít người bị khách nóng giận mà tát thẳng vào mặt, chỉ biết khóc, vì chỉ cần phản ứng lại là chúng tôi sai hoàn toàn. Tiếp viên hành hung hành khách, liệu có hay không??? Có người lại nói “lên máy bay, chúng nó đưa đồ ăn ra là phải ăn, không ăn cũng phải ăn”, có không nhỉ, những anh chị đã từng và chưa từng là hành khách của chúng tôi? Hay những lúc ấy chúng tôi phải hỏi lại vì sợ mời sót khách, mời uống những loại nước khác khi khách không muốn ăn, những chuyến bay có bánh mì, chúng tôi hỏi mời bánh mì, có mỳ tôm thì hỏi mời mỳ tôm. Tôi muốn hỏi, chúng tôi bắt khách ăn như quán cơm tù để làm gì??? Chúng tôi đâu có bán suất ăn mà bắt khách ăn để kiếm tiền??? Chúng tôi làm việc và tạo hình ảnh cho cả một thương hiệu VNA. VNA là tất cả chúng tôi, từ mặt đất, đến kỹ sư, từ check in đến phi hành đoàn. Chuyến bay tốt, toàn thể được khen, VNA có tiếng vang. Nhưng chỉ cần có chuyện thì TV chúng tôi bị hành khách lên án không thương tiếc. Đúng, đúng là trong cái tập thể ắt không thoát khỏi tình trạng có người này, kẻ nọ. Ngón tay còn có ngón ngắn, ngón dài. Có thể anh chị đi trên chuyến bay này không hài lòng, chúng tôi thành thật xin lỗi, nhưng chúng tôi vẫn mong đón tiếp các anh chị trên một chuyến bay khác để sửa đổi những gì chúng tôi thiếu sót, để chúng tôi có cơ hội mang đến cho các anh chị một sự hài lòng và một nụ cười trên gương mặt các anh chị. Dù rằng chuyến bay này hay chuyến bay sau, và dù rằng tiếp viên này hay tiếp viên khác, bạn có sai, chúng tôi vẫn sẵn sàng cố gắng sửa chữa. Vì một lẽ, CHÚNG TÔI LÀ ANH CHỊ EM CÙNG CHUNG 1 MÁI NHÀ VNA. Dù rằng tuổi nghề của tôi là rất non so với các anh chị đã gắn bó cùng nghề này gần 20 năm, nhưng tôi cũng đã từng chứng kiến hay trực tiếp tham gia trên những chuyến bay đặc biệt. Tôi cũng đã từng viết lên những cảm nhận của những chuyến bay ấy. Tôi cũng đã từng thật sự rất hạnh phúc vì những bài viết của mình được các anh chị đọc, hiểu những cảm nhận của tôi, hiểu cái nghề mà tôi nói riêng và chúng tôi nói chung đang theo, tôi hạnh phúc ghê lắm. Mẹ chồng nàng dâu có yêu thương nhau lắm nhưng đôi lần cũng có xích mích, hiểu nhầm ý nhau. Còn chúng tôi, phận dâu trăm họ, trăm triệu “mẹ chồng”, chúng tôi vẫn mong tất cả hài lòng, mong sự cảm thông và hợp tác. Những thành phần cá biệt tôi không nhắc đến. Nhưng với chúng tôi, những con người thật sự yêu cái phận dâu trăm họ này vẫn luôn mang trong mình 1 tinh thần đồng nhất “hài lòng khách đến, vừa lòng khách đi” Trăm nghe không bằng một thấy. Nói dài 100 trang giấy cũng không bằng 1 lần cảm nhận thực tế. Một cỗ xe ngựa không thể tiến lên phía trước khi 2 con ngựa mỗi con một hướng đi riêng. Sự bất đồng nhất sẽ không bao giờ có sự thành công. Sự hài lòng chính là cỗ xe ngựa ấy, mong 1 lần được cảm thông cùng nhau, mong 1 lần hợp tác cùng nhau giữa hành khách và tiếp viên để nụ cười trên mỗi gương mặt chúng ta đều trọn vẹn… Nếu những lời nói của tôi có xúc phạm hay làm phật lòng ai, thì tôi thành thật xin lỗi. Tự tâm tôi chỉ mong chúng ta thật sự hiểu nhau. Tự tâm tôi chỉ mong những lời nói không thực biến mất. Tự tâm tôi mong những đóng góp chân thành cho chúng tôi. Không có lỗi sai nào mãi mãi không được sửa chữa… Nguon: Theo Phunutoday, VN
-
Phải xác nhận là các thanh niên này anh hùng thật, cầm dao kiếm chém nhau trực tiếp, không sợ chết. Oai chứ nhỉ Vậy chứ nhận giấy gọi nhập ngũ là trốn chui trốn nhủi. Sức trẻ cần cống hiến cho Đất nước thì không dám, không dám ra Trường Sa bảo về Tổ Quốc Chán
-
"Bụt khuyên lấy chồng" Đêm qua nằm mộng em mơ Thấy thần linh bảo "Làm Thơ Chọn Chồng" Nên nay em viết đôi dòng Gởi đi khắp nước, chọn chồng qua thơ Ai đọc xin chớ làm ngơ Nếu không em sẽ làm thơ mách thần Tối qua thần dặn vài lần : Con đi nhớ chọn chồng cần phải ngay Chọn người cao lớn dài tay Mặt mày sáng sủa, thiệt ngay một lòng Nhớ đừng chọn kẻ đèo bòng Nếu không con sẽ phòng không suốt đời Chớ chọn những kẻ nhiều lời Tánh hay hậm hực, đánh người đánh ta Ngoài ra không được la cà Đầu đường xó chợ, cửa nhà chẳng lo Miệng thì thuốc lá phì phò Như là kẻ cướp, chờ lo giựt tiền Tối ngày chỉ biết than phiền Nếu không thì chỉ làm tiền vợ con Bây giờ con hãy còn son Nhớ đừng chọc kẻ du côn cao bồi Ra đường đấm đá liên hồi Con mà lấy nó, chắc thôi xuống mồ Con ơi nghĩ kỹ rồi vô Đừng có nhắm mắt nhào vô lấy bừa Thời nay trai trẻ có thừa Chồng sang chồng tốt mơí vừa thân con Chọn chồng nhớ chọn cho ngon Biết yêu biết qúy vợ con hơn mình Chọn ai biết qúy chữ tình Đừng như con bướm, thình lình bay di Tránh xa những kẻ lầm lì Mặt mày nhăn nhó, sắp đi chầu trời Con ơi ! sống ở trên đời Đừng ham phú qúy, lấy người không thương Mai này con có ra đường Chúng bạn sẽ bảo con "phường" tham lam Chọn ai biết nể biết nang Biết suy, biết tính phải ngang rõ ràng Tránh xa những kẻ ngang tàng Chuyên môn lười biếng, chẳng làm việc chi Cả ngày ôm cái ti vi Càkê dê ngỗng, nằm lì chờ ăn Ngày ngày, tháng tháng, năm năm Con mà lấy hắn, chắc thăng tức thì Con ơi hãy nghĩ hãy suy Coi chừng những kẻ chuyên đi gạt tình Họ tuy đẹp dáng đẹp hình Mở miệng thì nói: "mình mình, em em" Con ơi nhìn kỹ lại xem Thứ người như vậy, chớ đem về nhà Một là làm khổ thân ta Hai là khổ mẹ khổ cha trong nhà Một hai con hãy tránh xa Những lời đường mật, qủy ma gạt người Đừng vì bộ mặt tốt tươi Đừng mê đừng đắm, rồi cười lả lơi Con ơi duyên nợ một đời Xin con hãy nhớ chọn người thủy chung Chọn người rộng lương bao dung Kính trên, nhường dưới ở chung thuận hòa Cho dù vạn kiếp trải qua Vẫn luôn khắng khít mặn mà yêu con ======================================================== Tìm được bài thơ hay gởi đến chị em xem nhé
-
YeuPhuNu xin đóng gop 200.000 đ vào quỹ từ thiện Mong rằng Quỹ từ thiện ngày càng lớn mạnh và góp sức cho những mảnh đời khó khăn
-
Haha, Không thấy ai trả lời hết vậy Câu đáp án là 108 câu thành ngữ tất cả. Mời các bạn kiểm tra nhé: Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, đứng núi này trông núi nọ, già kén kẹn hom, ghét của nào trời trao của ấy. Chị nọ phận hẩm duyên ôi, kết tóc xe tơ với một anh chàng mặt nạc đóm dày , xấu ma chê quỷ hờn lại đần độn, ngốc nghếch , vô tâm vô tính , ruột để ngoài da, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, mười tám cũng ừ mười tư cũng gật, học chẳng hay, cày chẳng biết, lúng túng như thợ vụng mất kim, chỉ được cái sáng tai họ điếc tai cày là giỏi! Trăm dâu đổ đầu tằm, giỗ tết cúng bái trong nhà, công to việc lớn ngoài xóm, hai sương một nắng, tất bật quanh năm, một tay chị lo toan định liệu. Anh chồng thì như gà què ăn quẩn cối xay, lừ đừ như ông từ vào đền, như cỗ máy không giật không động. Giàu vì bạn, sang vì vợ, hang xóm láng giềng kháo nhau: "chàng ngốc thật tốt số, mả táng hàm rồng, như mèo mù vớ được cá rán." Chị vợ mỏng mày hay hạt, tháo vát đảm đang, hay lam hay làm, vớ phải chàng ngốc đành nước mắt ngắn nước mắt dài , đèo sầu nuốt tủi, ngậm bồ hòn làm ngọt cho qua ngày đoạn tháng. Nhiều lúc tức bầm gan tím ruột, cực chẳng đã, chị định một liều ba bảy cũng liều, lành làm gáo vỡ làm muôi, rồi anh đi đường anh, tôi đi đường tôi cho thoát nợ. Nhưng gái có chồng như gông đeo cổ, chim vào lồng biết thuở nào ra, nên đành ngậm đắng nuốt cay , một điều nhịn chín điều lành, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, vợ chồng đóng cửa bảo nhau cho êm cửa êm nhà, sao nỡ vạch áo cho người xem lưng, xấu chàng hổ ai? Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Biết chồng tại gia không trót, liền trổ tài điều binh khiển tướng dạy chồng một phen, những mong mở mày mở mặt với bàn dân thiên hạ, không thua anh kém chị trong họ ngoài làng. Một hôm ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, giữa thanh thiên bạch nhật, chị vợ dỗ ngon dỗ ngọt bảo chồng đi chợ mua bò, không quên dặn đi dặn lại: đến chợ phải tuỳ cơ ứng biến, xem mặt đặt tên, liệu cơm gắp mắm, tiền trao cháo múc, đồng tiền phải liền khúc ruột, kẻo lại mất cả chì lẫn chài. Được lời như cởi tấm lòng, ngốc ta mở cờ trong bụng, gật đầu như búa máy, vội khăn gói quả mướp lên đường quyết phen này lập công chuộc tội. Bụng bảo dạ, phải đi đến nơi về đến chốn, một sự bất tín vạn sự bất tin, ngốc quàng chân lên cổ đi như chạy đến chợ. Chợ giữa phiên, người đông như kiến, áo quần như nêm, biết bao của ngon vật lạ, thèm rỏ dãi mà đành nhắm mắt bước qua. Hai tay giữ bọc tiền khư khư như từ giữ oản, ngốc nuốt nước bọt bước đến bãi bán bò. Sau một hồi bới lông tìm vết, cò kè bớt một thêm hai, nài lên ép xuống, cuối cùng ngốc cũng mua được 6 con bò. Thấy mình cũng được việc, không đến nỗi ăn không ngồi rồi báo vợ hại con, ngốc mừng như được của. Hai năm rõ mười, ai dám bảo anh ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Nghĩ vậy, ngốc ung dung leo lên lưng con bò đi đầu, mồm hô miệng hét diễu võ dương oai, lùa đàn bò ra về mà lòng vui như hội. Giữa đường sực nhớ lời vợ dặn, suy đi tính lại, cẩn tắc vô áy náy, ngốc quyết định đếm lại đàn bò cho chắc ăn. Ngoảnh trước ngó sau, đếm đi đếm lại, đếm tái đếm hồi chỉ thấy có 5 con, còn một con không cánh mà bay đi mất. Toát mồ hôi, dựng tóc gáy, mặt cắt không còn giọt máu, ngốc vò đầu gãi tai, sợ về nhà vợ mắng cho mất mặn mất nhạt rồi lại bù lu bù loa kêu làng kêu nước mà than than trách phận, ngốc về nhà với bộ mặt buồn thiu như đưa đám. Thấy chồng về, chị vợ tươi như hoa ra đón, nhưng ngốc vẫn ngồi như bụt mọc trên lưng con bò đi đầu, chắp tay lạy vợ như tế sao: Mình ơi, tôi đánh mất bò, xin mình tha tội cho tôi... Nhìn chồng mặt như chàm đổ mình dường giẽ run, chị vợ không khỏi lo vốn liếng đi đời nhà ma liền rít lên như xé lụa: - Đồ ăn hại. Đàn ông con trai mà trói gà không chặt. Làm sao lại để bò sổng? Sợ thót tim vãi đái, nhưng ngốc vẫn lấy hết sức bình tĩnh để phân trần: - Tôi mua tất cả 6 con, họ giao đủ 6, bây giờ đếm mãi vẫn chỉ 5 con. Nhìn ngốc ta vẫn ngồi như đóng đinh trên lưng bò, chị vợ hiểu rõ đầu đuôi cơ sự, dở khóc dở cười bảo chồng: - Thôi xuống đi! Thiếu đâu mà thiếu, có mà thừa một con thì có!!!
-
Truyện kể có nhiều thành ngữ, tục ngữ nhất THỪA MỘT CON THÌ CÓ! Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, đứng núi này trông núi nọ, già kén kẹn hom, ghét của nào trời trao của ấy. Chị nọ phận hẩm duyên ôi, kết tóc xe tơ với một anh chàng mặt nạc đóm dày, xấu ma chê quỷ hờn lại đần độn, ngốc nghếch, vô tâm vô tính, ruột để ngoài da, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, mười tám cũng ừ mười tư cũng gật, học chẳng hay, cày chẳng biết, lúng túng như thợ vụng mất kim, chỉ được cái sáng tai họ điếc tai cày là giỏi! Trăm dâu đổ đầu tằm, giỗ tết cúng bái trong nhà, công to việc lớn ngoài xóm, hai sương một nắng, tất bật quanh năm, một tay chị lo toan định liệu. Anh chồng thì như gà què ăn quẩn cối xay, lừ đừ như ông từ vào đền, như cỗ máy không giật không động. Giàu vì bạn, sang vì vợ, hang xóm láng giềng kháo nhau:”chàng ngốc thật tốt số, mả táng hàm rồng, như mèo mù vớ được cá rán”. Chị vợ mỏng mày hay hạt, tháo vát đảm đang, hay lam hay làm, vớ phải chàng ngốc đành nước mắt ngắn nước mắt dài, đèo sầu nuốt tủi, ngậm bồ hòn làm ngọt cho qua ngày đoạn tháng. Nhiều lúc tức bầm gan tím ruột, cực chẳng đã, chị định một liều ba bảy cũng liều, lành làm gáo vỡ làm muôi, rồi anh đi đường anh, tôi đi đường tôi cho thoát nợ. Nhưng gái có chồng như gong đeo cổ, chim vào lồng biết thuở nào ra, nên đành ngậm đắng nuốt cay, một điều nhịn chín điều lành, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, vợ chồng đóng cửa bảo nhau cho êm cửa êm nhà, sao nỡ vạch áo cho người xem lưng, xấu chàng hổ ai? Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Biết chồng tại gia không trot, liền trổ tài điều binh khiển tướng dạy chồng một phen, những mong mở mày mở mặt với bàn dân thiên hạ, không thua anh kém chị trong họ ngoài làng. Một hôm ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, giữa thanh thiên bạch nhật, chị vợ dỗ ngon dỗ ngọt bảo chồng đi chợ mua bò, không quên dặn đi dặn lại: đến chợ phải tuỳ cơ ứng biến, xem mặt đặt tên, liệu cơm gắp mắm, tiền trao cháo múc, đồng tiền phải liền khúc ruột kẻo lại mất cả chì lẫn chài. Được lời như cởi tấm long, ngốc ta mở cờ trong bụng, gật đầu như búa máy, vội khăn gói quả mướp lên đường quyết phen này lập công chuộc tội. Bụng bảo dạ, phải đi đến nơi về đến chốn, một sự bất tín vạn sự bất tin, ngốc quàng chân lên cổ đi như chạy đến chợ. Chợ giữa phiên, người đông như kiến, áo quần như nêm, biết bao của ngon vật lạ, thèm rỏ dãi mà đành nhắm mắt bước qua. Hai tay giữ bọc tiền khư khư như từ giữ oản, ngốc nuốt nước bọt bước đến bãi bán bò. Sau một hồi bới lông tìm vết, cò kè bớt một thêm hai, nài lên ép xuống, cuối cùng ngốc cũng mua được 6 con bò. Thấy mình cũng được việc, không đến nỗi ăn không ngồi rồi báo vợ hại con, ngốc mừng như được của. Hai năm rõ mười, ai dám bảo anh ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Nghĩ vậy, ngốc ung dung leo lên lưng con bò đi đầu, mồm hô miệng hét diễu võ dương oai, lùa đàn bò ra về mà lòng vui như hội. Giữa đường sực nhớ lời vợ dặn, suy đi tính lại, cẩn tắc vô áy náy, ngốc quyết định đếm lại đàn bò cho chắc ăn. Ngoảnh trước ngó sau, đếm đi đếm lại, đếm tái đếm hồi chỉ thấy có 5 con, còn một con không cánh mà bay đi mất. Toát mồ hôi, dựng tóc gáy, mặt cắt không còn giọt máu, ngốc vò đầu gãi tai, sợ về nhà vợ mắng cho mất mặn mất nhạt rồi lại bù lu bù loa kêu làng kêu nước mà than than trách phận, ngốc về nhà với bộ mặt buồn thiu như đưa đám. Thấy chồng về, chị vợ tươi như hoa ra đón, nhưng ngốc vẫn ngồi như bụt mọc trên lưng con bò đi đầu, chắp tay lạy vợ như tế sao: - Mình ơi, tôi đánh mất bò, xin mình tha tội cho tôi… Nhìn chồng mặt như chàm đổ mình dường giẽ run, chị vợ không khỏi lo vốn liếng đi đời nhà ma, liền rít lên như xé lụa: - Đồ ăn hại. Đàn ông con trai mà trói gà không chặt. Làm sao lại để bò sổng? Sợ thót tim vãi đái, nhưng ngốc vẫn lấy hết sức bình tĩnh để phân trần: - Tôi mua tất cả 6 con, họ giao đủ 6, bây giờ đếm mãi vẫn chỉ 5 con. Nhìn ngốc ta vẫn ngồi như đóng đinh trên lưng bò, chị vợ hiểu rõ đầu đuôi cơ sự, dở khóc dở cười bảo chồng: - Thôi xuống đi! Thiếu đâu mà thiếu, có mà thừa một con thì có!!! =========================================================================================================== Câu chuyện trên này có rất nhiề ca dao, tục ngữ của Việt Nam Ai mà đếm được chính xác sẽ có thưởng.
-
Tên Thời Xưa Tính Theo Ngày Tháng Năm Sinh Các bạn thử tính xem học và tên của mình theo cách này là tên gì nhé 1- Cách tìm Họ: số cuối cùng trong năm sinh của bạn chính là Họ của bạn thời Cổ Đại. Ví dụ bạn sinh năm 1980 thì số 0 là số cuối cùng, vậy họ của bạn là Liễu 0 : Liễu 1 : Đường 2 : Nhan 3 : Âu Dương 4 : Diệp 5 : Đông Phương 6 : Đỗ 7 : Lăng 8 : Hoa 9 : Mạc 2- Cách tìm tên đệm là Tháng sinh của bạn chính là tên Đệm của bạn, thử tìm xem: 1 : Lam 2 : Thiên 3 : Bích 4 : Vô 5 : Song 6 : Ngân 7 : Ngọc 8 : Kỳ 9 : Trúc 10 : ( ko có tên đệm ) 11 : Y 12 : Nhược 3- Cách tìm tên là Ngày sinh của bạn chính là Tên của bạn rồi: 1 : Lam 2 : Nguyệt 3 : Tuyết 4 : Thần 5 : Ninh 6 : Bình 7 : Lạc 8 : Doanh 9 : Thu 10 : Khuê 11 : Ca 12 : Thiên 13 : Tâm 14 : Hàn 15 : Y 16 : Điểm 17 : Song 18 : Dung 19 : Như 20 : Huệ 21 : Đình 22 : Giai 23 : Phong 24 : Tuyên 25 : Tư 26 : Vy 27 : Nhi 28 : Vân 29 : Giang 30 : Phi 31 : Phúc Ví dụ bạn sinh ngày 21/09/1985 thì tên thời xưa của tôi là Đông Phương Trúc Đình. Cũng hay đấy chứ! Còn tên tôi tính ra là : Hoa NHược Bình Chúc các bạn thành công.
-
Cũng cần xem thêm thông tin về Thiền sư Lê Mạnh Thát ================================================================================== Về việc “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động”- Kết luận quá vội vàng, chưa đủ chứng cứ khoa học và thiếu sức thuyết phụcXung quanh những vấn đề Báo Thanh niên nêu ra trong thời gian vừa qua, cho rằng đó là những phát hiện lịch sử của Thiền sư Lê Mạnh Thát và cần viết lại lịch sử dân tộc, phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê (ảnh) – Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam. Từ băn khoăn đến kinh ngạc * Phóng viên: Với tư cách là một nhà sử học, Giáo sư nhìn nhận như thế nào những vấn đề mà Báo Thanh niên đưa ra trong thời gian qua? * Giáo sư PHAN HUY LÊ: Loạt bài 7 kỳ của Báo Thanh niên với đầu đề “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” rất gây sự chú ý của người đọc. Về một mặt nào đó, loạt bài đã gây chấn động trong dư luận xã hội. Tôi đã nhận được rất nhiều thư và điện thoại của bạn đọc, bạn đồng nghiệp và nhiều người yêu lịch sử dân tộc, hỏi về những vấn đề liên quan, ngay khi loạt bài khởi đăng. Đọc kỹ những bài báo đó, ấn tượng đầu tiên của tôi là rất băn khoăn. Không rõ nhà báo Hoàng Hải Vân có phản ánh đúng thực sự thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát về những vấn đề đã đặt ra đó hay không? Thiền sư Lê Mạnh Thát thì tôi đã có dịp gặp gỡ, tiếp xúc trong cuộc hội thảo khoa học về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tổ chức tại Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và sau đó cùng đi thăm các chùa tháp tại Yên Tử. Đó là cuộc tiếp xúc rất cởi mở và để lại trong tôi ấn tượng tốt đẹp về Thiền sư với tư cách là một thiền sư và là một học giả nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy, tôi rất kinh ngạc về thái độ của Thiền sư thể hiện trên Báo Thanh niên. Ví dụ như khi nói về Lê Quý Đôn, nói là “ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá”. Mà điều đó chỉ dựa trên một đoạn ngắn trong “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn viết về Thiền sư Hương Hải, mà trong đó Lê Quý Đôn đã dẫn rất rõ là theo cuốn sách “Hương Hải thiền sư ngự lục” do các học trò của Thiền sư Hương Hải sưu tầm và biên soạn. Dĩ nhiên theo kết quả thẩm định công phu của Thiền sư Lê Mạnh Thát thì những người sưu tầm đã nhầm lẫn, đưa vào tác phẩm một số bài thơ không phải của Thiền sư Hương Hải. Nhưng không ai có thể phủ nhận Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn của dân tộc, có nhiều tác phẩm biên khảo có giá trị, để lại một di sản đồ sộ với nhiều cống hiến cực kỳ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc. Cũng như bất kỳ nhà khoa học nào, nhất là về khoa học xã hội, suốt cả cuộc đời làm việc, trong toàn bộ những tác phẩm để lại, tránh sao được một số sơ suất. Hay thái độ đối với Ngô Sỹ Liên, một nhà sử học lớn, người đã biên soạn bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” thời Lê sơ. Thực ra, bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng có một số sơ suất mà chúng tôi đã phát hiện và đính chính. Và chính Lê Quý Đôn cũng đã bổ chính một số nhầm lẫn cho bộ sách này. Tuy nhiên chỉ với lời bình luận về nhân vật Sỹ Nhiếp viết trên tinh thần Nho giáo mà Thiền sư lại đưa ra những lời bình luận là “nhắm mắt nói càn” và “thật khốn nạn hết chỗ nói”… Tôi hết sức kinh ngạc những điều lời lẽ đó. Tôi không tin rằng đây là lời và thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nhưng dù sao, qua ngòi bút của tác giả Hoàng Hải Vân, thì tất cả người đọc đều cho rằng đó là phát biểu của Thiền sư. Ông là một nhà tu hành và là một học giả, nên tôi vẫn băn khoăn và trong lòng vẫn nghĩ rằng, dù bực bội đến đâu, cũng không thể thốt ra những lời “bất kính” như vậy đối với các bậc học giả tiền bối của dân tộc. * Từ băn khoăn đó, Giáo sư đã tìm hiểu vấn đề này như thế nào? * Cái tôi quan tâm là những nội dung vấn đề được đề cập đến. Tôi không muốn nghiên cứu qua những bài báo nói trên, mà muốn xem xét từ trong các công trình mà Thiền sư đã công bố. Tôi đã đọc những công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và trong tay tôi trước đó có 2 công trình liên quan đến những vấn đề nói trên từ khi mới phát hành. Đó là “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” – tập 1 (từ khởi thủy đến thời Lý Nam Đế); “Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam” - tập 1. Riêng cuốn “Lục độ Tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” (cuốn được xem là cơ sở trích dẫn nhiều nhất trên Báo Thanh niên), vì không có trong tay, mà theo tôi biết thì chỉ in với số lượng nhỏ, phát hành ở TPHCM, nên tôi đã cấp tốc nhờ bạn bè tìm hộ. Hiện tôi có đủ 2 bản: bản xuất bản năm 1972 ở Sài Gòn của Tu thư Đại học Vạn Hạnh và bản thứ hai mới tái bản năm 2005 của NXB Tổng hợp TPHCM. Nội dung 2 bản này hoàn toàn giống nhau. Không có An Dương Vương thì giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? * Khi đã có những cuốn sách này trong tay và nghiên cứu những vấn đề liên quan, Giáo sư có ý kiến như thế nào về những cái gọi là “phát hiện lịch sự chấn động” ở trên Báo Thanh niên? * Tôi thấy loạt bài của nhà báo Hoàng Hải Vân chỉ mới đưa ra một phần nhỏ trong các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nói chung thì báo đã phản ánh đúng nội dung sách, nhưng các tư liệu và lập luận đưa ra chưa đầy đủ. Điều đó dễ hiểu, vì đây là một tờ báo ra hàng ngày, chứ không phải là một tạp chí chuyên ngành. Thiền sư Lê Mạnh Thát là người mà đã gần như dành toàn bộ thời gian và công sức để đi sâu vào việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và theo tôi đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Với những công trình nghiên cứu về các bộ kinh Phật, về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam, Thiền sư là một người chuyên sâu nhất về lĩnh vực này và rất đáng trân trọng. Tuy nhiên từ nghiên cứu Phật giáo chuyển sang nghiên cứu lịch sử dân tộc, thì có nhiều vấn đề cần phải bàn thêm. Đây là hai đối tượng nghiên cứu quan hệ rất mật thiết với nhau, nhưng không phải là một. Phật giáo đã sớm gắn bó với dân tộc và đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch sử gần hai ngàn năm, và Phật giáo đã có những cống hiến rất lớn cho lịch sử dân tộc. Tuy nhiên văn hóa Phật giáo là một dòng, một bộ phận của văn hóa dân tộc, chứ không thể coi là toàn bộ văn hóa dân tộc. Từ lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo chuyển sang lĩnh vực nghiên cứu lịch sử dân tộc, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã đặt ra những vấn đề rất lớn về lịch sử cổ đại Việt Nam, mà điều quan trọng là về mặt khoa học đã giải quyết như thế nào? Tôi xin nói về mấy vấn đề lớn mà Báo Thanh niên đã nêu ra: khẳng định thời kỳ An Dương Vương là không có, không có cuộc xâm lược của Triệu Đà cũng như không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất kể từ cuộc xâm lược của Triệu Đà cho đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và vì thế cuộc khởi nghĩa này được coi là một cuộc kháng chiến… Như thế nước Văn Lang của các vua Hùng kéo dài cho đến năm 43 sau Công nguyên!? Theo nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát, thời An Dương Vương và nước Âu Lạc hoàn toàn là “một phiên bản”, “một hư cấu” dựa theo sử thi Mahabharata của Ấn Độ, và các sử gia Việt Nam đã sai lầm trong quá trình chép sử, từ “Đại Việt sử lược” cho đến các công trình sau này. Khẳng định không có Thục Phán, không có thời kỳ An Dương Vương, thì Thiền sư giải thích như thế nào về sự ghi chép tương đối thống nhất về sự tồn tại của An Dương Vương trong thư tịch Trung Quốc và Việt Nam? Tất nhiên, xung quanh vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc có những vấn đề cần nghiên cứu và xác minh thêm như nguồn gốc của Thục Phán, niên đại của nước Âu Lạc... Thiền sư phủ nhận tất cả những tư liệu trên mà không chứng minh được những bộ sử đó chép sai như thế nào. Đặc biệt luận điểm đó khó đứng vững trước một nguồn tư liệu mà theo tôi giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu cổ sử, đó là khảo cổ học. Tôi có cảm giác, Thiền sư đã bỏ qua, không khai thác và không cập nhật nguồn tư liệu khảo cổ học, nhất là những kết quả khai quật và nghiên cứu gần đây. * Xin Giáo sư nói rõ hơn về những vấn đề khảo cổ học liên quan đến triều đại An Dương Vương? * Trong mấy chục năm vừa qua, khảo cổ học Việt Nam đã có những kết quả rất quý giá, nhất là những di tích trong lòng đất, góp phần làm sáng rõ thêm tiến trình lịch sử dân tộc, nhất là thời tiền sử, sơ sử và cổ đại. Những di tích, những hiện vật khảo cổ học được xem là những bộ phận, là những mảnh của lịch sử còn lưu giữ được cho đến ngày hôm nay. Nó rất khách quan và rất trung thực. Bằng những phương pháp khoa học, từ kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học có thể xác định được niên đại tương đối và tuyệt đối của các di tích với những sai số chấp nhận được, có thể góp phần phục dựng trên một số phương diện nào đó diện mạo của nền văn hóa, cuộc sống của cư dân và một số công trình xây dựng đã sụp đổ... Phủ nhận nước Âu Lạc và An Dương Vương thì tác giả giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? Thiền sư cho rằng đó chỉ là tòa “Kiển thành” do Mã Viện xây mà trước đây đã từng có người đề xuất, nhưng những kết quả khảo cổ học gần đây đã cho phép xác định tòa thành này được xây dựng trước hết từ thời An Dương Vương rồi sau đó, được tiếp tục sử dụng và có thể có những bồi trúc nhất định. Hơn nữa chúng ta còn tìm ra được ở Cổ Loa hàng vạn mũi tên đồng ba ngạnh được coi là “mũi tên đồng Cổ Loa”, rồi tìm thấy trống đồng, gần 100 lưỡi cày đồng cùng hàng loạt di vật của nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học còn cắt một đoạn thành để nghiên cứu và khai quật một số hố trong khu Thành Nội gần đền thờ An Dương Vương. Tại đây đã phát hiện một hệ thống những lò nung và khuôn đúc mũi tên đồng gồm ba mang bằng đá rất khớp với “mũi tên đồng Cổ Loa”, khuôn đúc mũi giáo... Đáng lưu ý nhất là An Dương Vương đã dùng một phần Thành Nội để sản xuất vũ khí, chứng tỏ đây là loại vũ khí cực kỳ quan trọng cần được bảo vệ chặt chẽ. Phát hiện khảo cổ học này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết dân gian coi là “nỏ thần” mà thư tịch cổ Trung Quốc cũng ghi chép là loại vũ khí lợi hại, một lần bắn diệt được hàng trăm, hàng vạn người mà chính Thiền sư cũng đã dẫn trong công trình nghiên cứu của mình. Thiền sư giải thích như thế nào về một thành lũy đang tồn tại trên mặt đất và cả những di tích, di vật như vậy trong lòng đất. Rồi giải thích như thế nào về những đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, ở Nghệ An... gắn liền với những truyền thuyết, những lễ hội dân gian nhằm tôn vinh người có công với dân, với nước. Dĩ nhiên những kiến trúc đó xây dựng về sau nhưng không thể chỉ là sự bịa đặt, hư cấu mà phải xuất phát từ một cốt lõi lịch sử có thật của cuộc sống, của lịch sử dân tộc, có thể từ rất xa xưa! Quá vội vàng khi đòi viết lại lịch sử dân tộc * Một vấn đề được rất nhiều người quan tâm là có cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không? Với quan điểm của mình thì Thiền sư Lê Mạnh Thát không cho rằng đó là một cuộc khởi nghĩa. Cần phải giải thích như thế nào về vấn đề này, thưa Giáo sư? * Về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, theo Thiền sư là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của một nước độc lập, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của một nước bị đô hộ. Trong khi đó, cả sử nước ta và sử Trung Quốc đều chép đó là cuộc “nổi dậy”, là cuộc “làm phản” chống chính quyền cai trị của nhà Hán. Chính Thiền sư Lê Mạnh Thát đã dẫn ra khá đủ những tư liệu này nhưng rồi phủ nhận tất cả và đi đến kết luận như trên. Đứng về phương diện khoa học, các nhà khoa học có quyền đưa ra những giả thuyết trong nghiên cứu khoa học. Những giả thuyết đó có những cấp độ khác nhau: có thể chỉ là mới các ý tưởng đặt ra để nghiên cứu và cũng có thể là những giả thuyết đã có một số cứ liệu nhất định, nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận. Tuy nhiên, những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra, không còn là giả thuyết nữa mà những kết luận đã khẳng định. Từ đó đưa ra những yêu cầu phải loại bỏ thời kỳ này ra khỏi lịch sử dân tộc, thậm chí là phải viết lại lịch sử dân tộc thì thật quá vội vàng. Trong khoa học, mọi phát hiện có cơ sở khoa học đều phải được chấp nhận nếu những phát hiện đó là đúng, được chứng minh một cách vững chắc và bảo vệ được quan điểm đó trước các chất vấn, phản biện khoa học. Trên tinh thần khoa học, dù phát hiện đó có đảo lộn quá trình lịch sử dân tộc như thế nào đi nữa, thì về mặt khách quan, chúng ta vẫn phải chấp nhận. Tuy nhiên, rất tiếc cái gọi là “những phát hiện lịch sử chấn động” mà Báo Thanh niên nêu ra, trên thực tế chỉ mới dừng lại ở mức giả thuyết và đề xuất mà thôi. Không có đủ cơ sở khoa học để chứng minh được những vấn đề đó. Từ vài dẫn chứng trên, tôi nghĩ rằng, một số kết luận của Thiền sư Lê Mạnh Thát là chưa đủ chứng cứ khoa học, chưa đủ sức thuyết phục. Ở đây, có vấn đề khai thác và sử dụng tư liệu, có vấn đề phương pháp luận sử học chưa được sử dụng một cách nghiêm túc. * Trong loạt bài trên Báo Thanh niên, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã nói nhiều về nền văn minh Hùng Vương với tư cách là một thể chế nhà nước đầy đủ có chữ viết, một bộ luật… Đó là một sự đề cao tinh thần dân tộc rất lớn, thưa Giáo sư. * Đọc các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và qua những bài báo đó, chúng ta thấy Thiền sư có một tinh thần dân tộc rất cao. Thiền sư muốn đề cao tính dân tộc và văn hóa Việt Nam, nhất là thời kỳ Hùng Vương. Đó là thiện chí của Thiền sư mà chúng ta cần trân trọng. Nhưng đối với khoa học không thể dừng lại ở thiện chí, mà mọi kết luận cần phải chứng minh một cách khách quan trên cơ sở những nguồn sử liệu được khai thác toàn diện và so sánh, đối chiếu nghiêm túc. Thiền sư khẳng định là từ thời Hùng Vương ta đã có chữ viết phát triển đến trình độ cao, khá hoàn chỉnh, có thể biên soạn luật thành văn, có thể viết bộ “Lục độ Tập kinh”... Rất tiếc là những khẳng định đó lại dựa trên những căn cứ chưa đủ sức thuyết phục. Ví dụ lời tâu của Mã Viện nói luật Việt có 10 điều khác luật Hán, nhưng chưa có gì chắc chắn để coi đó là luật thành văn hay chỉ là luật tục. Bản chữ Hán “Lục độ tập kinh” do Khương Tăng Hội dịch trong thời gian ở Kiến Nghiệp còn đó và một số từ mang cấu trúc ngữ pháp Việt, không phải Hán là một phát hiện lý thú của Thiền sư nhưng từ đó khẳng định là phải dịch trên một văn bản chữ Việt thì còn quá vội. Vấn đề chữ viết của người Việt thời Hùng Vương là một đề tài đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và có người đã dành nhiều công sức tìm kiếm nhưng cho đến hôm nay vẫn còn là vấn đề chưa có đủ cơ sở để kết luận. Có người dựa theo một gợi ý của tác giả sách “Thanh Hóa quan phong” chép rằng chữ Việt cổ gần như chữ Thái ở miền núi xứ Thanh, đi tìm những hình khắc tương tự trên một số đồ đồng Đông Sơn. Có người sưu tầm những hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn ở nước ta và cả vùng Nam Trung Quốc trên địa bàn Bách Việt xưa, đã phát hiện một số hình khắc có thể là ký hiệu chữ viết...Nhưng chỉ mới là những tìm tòi ban đầu, chưa tập hợp đủ những chứng cứ để đưa ra hệ thống ký tự của chữ viết, chưa nói đến việc giải mã hệ thống đó. Những phát hiện của Thiền sư có thể đóng góp phần nào vào quá trình nghiên cứu chữ viết của người Việt cổ, chưa thể coi là kết luận khoa học, tuy rằng trong thâm tâm ai cũng mong đợi điều đó sớm trở thành hiện thực. * Xin cảm ơn Giáo sư. Theo sggp.org.vn
-
Trong việc này, có mấy vấn đề cần xác định cho rõ: 1-Cụ Tảo Ao là chỉ là người giỏi phong thủy (tàu) trong quá khứ. 2-Trong quá khứ, có nhiều người giỏi phong thủy và cụ Tảo Ao (có lẽ) là người nổi tiếng nhất thôi 3-Ai là người ông tổ của Phong Thủy Lạc Việt ? 4-Cơ sở nào để xác định Phong Thủy Lạc Việt đúng hay sai? Tuy nhiên YeuPhuNu cũng đồng ý tham gia gọi hồn, để xem cụ phán gì.