-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
6 sai lầm chiến lược của Khổng Minh Giadinh.net - Không ai phủ nhận tài năng kiệt xuất của Gia Cát Khổng Minh về chính trị - ngoại giao, nhưng việc dùng binh của ông có đến mức thần thánh như chúng ta vẫn nghĩ? Chỉ cần đọc “Tam quốc diễn nghĩa” - cuốn sách ca ngợi Gia Cát Lượng hết lời - cũng có thể tìm ra nhưng sai lầm lớn của ông trong lĩnh vực quân sự suốt quãng đời giúp nhà Thục. Sai lầm 1: Thất thủ Kinh Châu Năm 219, Quan Vũ lúc bấy giờ trấn thủ Kinh Châu đã đem quân tấn công quân Tào Tháo và chém Bàng Đức, nhưng lại mất cảnh giác với quân của Tôn Quyền mà không để ý rằng Tôn Quyền đang có âm mưu lấy lại Kinh Châu. Kết quả Kinh Châu bị mất và Quan Vũ, Quan Bình (con Quan Vũ) đã bị chết. Đối với việc này, Quan Vũ chịu trách nhiệm trực tiếp, nhưng Gia Cát Lượng không chỉ đạo cặn kẽ cho Quan Vũ nên gây sai lầm lớn. Ông chưa nhận thức đủ nhược điểm của Quan Vũ là người nóng tính nên đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tin tức Kinh Châu thất bại báo về, cả Lưu Bị và Gia Cát Lượng hối hận nhưng không kịp. Sai lầm 2: Thất bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy Thất bại thứ hai là thất bại Hồ Đình vào năm 222. Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và năm đó, mượn danh nghĩa trả thù cho Quan Vũ nên đã tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược “liên Ngô chống Tào” của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết rõ đánh Ngô hại nhiều hơn lợi, nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị, nên dẫn đến thất bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy. Sai lầm 3: Không theo kế của Nguỵ Diên chiếm Trường An Khi Khổng Minh ra Kì Sơn lần thứ nhất, Nguỵ Diên đã hiến một kế cực hay: đi theo hang Tý Ngọ chỉ một trận là chiếm được toàn bộ Tây Trường An (Hạ Hầu Mậu trấn giữ vốn là tướng Ngụy vô mưu). Nhưng Gia Cát Lượng nhất quyết không nghe. Nếu thực hiện theo kế Ngụy Diên, theo nhiều nhà quân sự, có thể cục diện Tam Quốc sẽ thay đổi lớn theo hướng có lợi cho nhà Thục. Nói về chuyện đối xử với Ngụy Diên, Gia Cát Lượng cũng chứng tỏ sự đố kỵ của mình. Các nhà phân tích cho rằng: Ngụy Diên làm phản, chính vì Gia Cát Lượng gieo vào lòng ông tư tưởng phản trắc mà thôi. Vừa mới gặp Ngụy Diên, Gia Cát Lượng đã thét quân chém đầu vì lý do: thuộc hạ mà phản chủ (trong khi đó, Gia Cát Lượng cũng thu nạp biết bao hàng tướng với lý do: từ bỏ chỗ tối về với chỗ sáng). Rồi sau đó Gia Cát Lượng liên tiếp trù dập Ngụy Diên. Ra quân thì chuyên cho Diên làm tiên phong, nhưng dâng kế nào cũng không nghe. Như vậy thì làm sao Ngụy Diên - một tướng tài - có thể đội trời chung với Gia Cát Lượng?! Sai lầm 4: Làm mất Nhai Đình Nhai Đình là yết hầu của Hán Trung. Hán Trung là địa bàn chiến lược của nước Thục. Gia Cát Lượng hiểu rất rõ tầm quan trọng của Nhai Đình, nên khi cử Mã Tốc trấn giữ, đã bắt ông này phải viết bản quân lệnh, nếu để mất là phải chém đầu. Sự cẩn thận này không thừa, nhưng điều đó phỏng có ích gì khi Gia Cát Lượng đã nhìn người không đúng. Trước khi chết, Lưu Bị từng dặn Khổng Minh rằng: “Mã Tốc là kẻ lẻo mép, không có thực tài, quyết không được trọng dụng”. Vậy nhưng Gia Cát Lượng không nghe, vẫn trao yết hầu vào tay kẻ chỉ biết cúc cung tận tuỵ với mình, mà không có thực tài. Sai lầm 5: Tự làm suy yếu đất nước Với tham vọng lớn thống nhất Trung Nguyên, Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn đều thất bại, do nguyên nhân lương thảo không đầy đủ, hoặc sức của địch quá mạnh, hoặc nội tình nước Thục mâu thuẫn mà nửa chừng lui quân. Việc đánh nhau liên miên, không tích trữ được quân lương, của cải, khiến đất nước suy kiệt nhanh chóng và lòng dân ai oán. Sai lầm 6: Phò tá kẻ bất tài hoang dâm vô độ Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: “Tài năng của ông cao hơn Tào Tháo gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ, còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó”. Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ. Lưu Thiện nối ngôi Thục đế mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Sau này Lưu Thiện hoang dâm vô độ, tin dùng nịnh thần, mặc dù có thể lên thay Lưu Thiện nắm quốc gia, đưa Thục lớn mạnh như di huấn của Lưu Bị, nhưng Gia Cát Lượng quyết giữ đạo nghĩa cổ hủ, làm bề tôi đến lúc chết. Kết quả Thục suy yếu rồi sau bị diệt vong. Chính vì thế mới có nhận định: Cơ đồ nhà Thục do một tay Khổng Minh dựng nên và cũng một tay ông hất đổ đi.
-
Mời quý vị xem tiếp thông tin trên internet về Gia cát lượng ====================================================== Gia Cát Lượng đã mượn đao giết Quan Vũ? Gia Cat Luong da muon dao.. Chướng ngại lớn nhất cho việc nắm quyền lực của Gia Cát Lượng là ai? Thực không có gì phải nghi vấn, đó chính là Quan Vũ. Quan Vũ kiêu hùng đã sớm nổi danh. Năm Kiến An thứ 19 (năm 214), Lưu Bị tấn công Ích Châu, Mã Siêu ở Tây Lương tới đầu quân. Mã Siêu vốn là một hổ tướng có tiếng đương thời. Lưu Bị được bèn lập tức phong làm Bình Tây tướng quân, địa vị tương đương với Quan Vũ. Quan Vũ ở Kinh Châu nghe được tin cực kỳ bất mãn, lập tức viết thư cho Gia Cát Lượng “Như Siêu có thể so với ai?”. Gia Cát Lượng viết thư khéo léo đáp lại rằng: “Mạnh Khởi (Mã Siêu) tài kiêm văn vũ, dũng liệt hơn người, là hào kiệt một thời…. nhưng cũng chẳng sánh được với tướng quân…”. Quan Vũ đọc xong thư mà dương dương tự đắc. Năm Kiến An thứ 24 (năm 219) Lưu Bị tự xưng làm Hán Trung vương, muốn trọng dụng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân “Gia Cát Lượng bèn nói với tiên chủ: Danh vọng của Trung không thể cùng với Quan, Mã, nay lại tương vi. Mã, Trương ở gần có thể nói tường tận. Quan nay ở xa chỉ e không vui. Có nên hay chăng? Tiên chủ nói: Ta tự có cách giải thích” (Thục thư – Hoàng Trung truyện). Lưu Bị nói “Ta tự có cách giải”, thực ra chỉ là phái Ích châu tiền bộ Tư Mã Phí Thi đi trước. Tam Quốc chí - Phí Thi truyện viết: “Lưu Bị sai Thi tới phong Quan Vũ làm Tiền Tướng Quân, Vũ nghe được Hoàng Trung phong làm Hậu tướng quân bèn đại nộ mà rằng: Đại trượng phu sao có thể cùng sánh ngang với lão binh. Không chịu thụ phong”. Quan Vũ cuồng vọng tới thế, Gia Cát Lượng sao không trừng trị mà người lại còn lựa ý của Vũ để mà lấy lòng? Cô (ta) nay có Khổng Minh, như cá gặp nước, các người chớ nói nhiều. Vũ, Phi bèn thôi” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Có thể thấy Quan Vũ, Trương Phi vốn không đặt Gia Cát Lượng vào trong mắt mình, đối với Lưu Bị càng ngày càng thân với Gia Cát thì lòng không vui. Tượng Khổng Minh Năm Kiến An thứ 13 Tào Tháo xuất quân xuống phía nam. Muốn một trận quét sạch Đông nam, Lưu Bị thân cô thế quả, lại không có chốn dung thân, tình hình ngàn cân treo sợi tóc. “Gia Cát Lượng năm đó 27 tuổi, tự dâng sách lược, thân đi sứ Tôn Quyền, cầu viện nơi Ngô hội, Quyền cũng có ý với Bị, lại them thấy Lượng kỳ nhã, càng thêm kính trọng lập tức sai ba vạn quân tới phù trợ Bị. Bị được đắc dụng cùng Vũ đế giao chiến, đại phá được quân địch, thừa thắng ruổi quân, Giang Nam được bình” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng lập được đại công, không những củng cố lại địa vị trong tập đoàn Lưu Bị mà còn gây được uy tín. Quan Trương hai người cũng không còn dám xem thường nữa. Nhưng Quan Vũ từ sự khinh thị của quá khứ mà biến thành đố kị Gia Cát Lượng. Vương Phu Chi đối với việc này từng nói: “Chiêu Liệt bại ở Trường Bản mà quân của Vũ toàn vẹn, Tào Tháo qua sông, mà không một tay thi thố được. Mà Gia Cát công đông sứ, Lỗ Túc tây kết, định phân bang giao hai nước, Tôn thị phá Tào. Công không ở Vũ, mà ở Lượng. Lưu Kỳ nói : Triều đình dưỡng binh ba mươi năm mà nay đại công ở tay một nho sinh. Cho nên Vũ càng kị Gia Cát và kị Túc”. Quan Vũ và Trương Phi tính cách vốn không giống nhau “Vũ thiện đối đãi với sĩ tốt nhưng kiêu căng kinh bạc đối với sĩ đại phu, Phi thì yêu kính quân tử nhưng ghét kẻ tiểu nhân” (Thục thư – Trương Phi truyện). Trương Phi đối với những sĩ đại phu có tài năng thì mười phần kính trọng, nhưng Quan Vũ đối với sĩ đại phu thì khó chịu. Gia Cát Lượng lại là sĩ đại phu đứng đầu trong tập đoàn của Lưu Bị, đương nhiên cũng ở trong đó. Gia Cát Lượng đối với việc Quan Vũ coi thường mình cũng thực rõ ràng nhưng vì kị việc Vũ “tình như thủ túc” đối với chủ công, lại thêm rằng thời gian theo Lưu Bị so với Quan Vũ thì muộn hơn nhiều, quan chức cũng kém hơn Quan Vũ, nên không thể không khéo léo mà xử thế. Gia Cát Lượng tính toán không phải là như thế nào để trừng phạt Quan Vũ, mà là giải quyết vấn đề từ căn bản, chờ đợi thời cơ để giết Quan Vũ. Năm Kiến An thứ 24, Quan Vũ phát động chiến dịch Tương Phàn, tuy uy trấn Hoa Hạ, nhưng cuối cùng dẫn tới việc Kinh châu thất thủ, bản thân thì bị Tôn Quyền giết chết. Trong đó có rất nhiều điểm khiến người ta phải nghi ngờ. Trước và sau chiến dịch Tương Phàn, sứ giả hai nước Ngô, Ngụy qua lại không ngừng, cùng bàn mưu tấn công Quan Vũ, có thể nói là không dong trống mở cờ mà lặng lẽ phối hợp với nhau. Lưu Bị và Gia Cát Lượng đối với việc này hòa toàn không biết nên không hề ra một mệnh lệnh nào cho Quan Vũ. Điểm làm người ta nghi ngờ là, Khi Tào Tháo đem quân xuống Ma Bi, không ngừng điều khiển Vu Cấm, Bàng Đức, Từ Hoảng tới viện trợ Phàn thành, hành động quân sự lớn như thế, Thục Hán cũng không hề sử dụng bất cứ một đối sách nào. Cuối cùng Quan Vũ thất bại mà chạy ra Mạch Thành, trước cảnh toàn quân sắp bị tiêu diệt mà viện binh của Thục quân vẫn không thấy đâu. Điều này cũng là một điểm rất đáng nghi ngờ. Quốc học đại sư Chương Thái Viêm có kiến giải độc đáo rằng: “Bại ở Lâm Thư (nơi Quan Vũ bị giết) Gia Cát Lượng không lấy một tốt tới cứu viện. Kẻ ngu muội cười rằng không biết nhìn xa…” Họ Chương luận rằng Gia Cát Lượng bởi thấy “Quan Vũ là một hổ tướng… không trừ đi tất về sau sẽ khó trị được, nên không tiếc Kinh Châu, mượn tay người Ngô, để lấy mạng của Quan Vũ”. Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, tay nắm trọng binh, cực kiêu ngạo cuồng vọng, không những đời sau (Sau khi Lưu Bị chết) khó đối phó, mà ngay khi Lưu Bị còn sống Gia Cát Lượng cũng khó lòng vượt qua được chướng ngại Quan Vũ. Muốn nắm được đại quyền. Gia Cát Lượng tình nguyện đánh đổi Kinh Châu, mượn tay người Ngô để trừ khử Quan Vũ. Kiến giải này của Chương thị thực là gan lớn. Đây đương nhiên chỉ là phỏng đoán. Họ Chương đối với những lí do nêu trên cho là chưa đủ, không lâu sau lại bổ sung thêm rằng: “Việc chính ở tay tiên chủ, Vũ Hầu đương sách hoạch việc an dân, chẳng thể lĩnh hết... Bại ở Kinh châu trước ở chỗ khinh Ngô, sau ở chỗ không có viện quân, đấy cũng chính là lỗi ở tiên chủ”. Đem việc bại ở Kinh Châu mà nói là do Lưu Bị có lòng khinh địch, thực hơi có phần khiên cưỡng. Khi đó thực là Gia Cát Lượng không thể quản hết được việc quân chính đại quyền nhưng rõ ràng Gia Cát Lượng biết việc Quan Vũ tấn công Tương Phàn vào lúc điều kiện chưa đủ chin muồi, hoàn toàn đi ngược lại với Long Trung đối là đợi thiên hạ có biến, và sách lược hai đường cùng bắc phạt Tào Ngụy. Nhưng trong Tam Quốc Chí chính văn và cả bản chú của họ Bùi thì đều không hề thấy ghi chép Gia Cát Lượng khuyên gián. Quan Vũ Hơn nữa, cho dù Lưu Bị có sủng tín, thoải mái với Quan Vũ, không coi Long Trung đối là gì. Nhưng sau khi chiến dịch Tương Phàn chiến thắng, Lưu Bị, Gia Cát Lượng không thể không toàn lực quan sát từng bước của chiến dịch. Cho dù đường đi lối lại giữa Xuyên, Ngạc có cách trở, giao thông không tiện, tin tức truyền bá khó khăn, nhưng cả chiến dịch Tương Phàn từ tháng 7 năm Kiến An thứ 24 tới tháng 12 thì kết thúc, thời gian dài gần một nửa năm. Thục Hán bây giờ là một chính quyền hoàn chỉnh, không thể thiếu những con đường truyền tin. Quan Vũ tiến công Tương Phàn, giữ Kinh Châu binh lực không đủ, lại thêm lúc này liên minh Tôn Lưu đã bị phá vỡ, “bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở sau”, Tôn Ngô lúc nào cũng có thể tới cướp Kinh Châu. Gia Cát Lượng là người hiểu thấu binh pháp, chẳng nhẽ cũng không biết việc này? Ai cũng đều biết Gia Cát Lượng một đời làm việc cẩn thận, không hề có chuyện mạo hiểm. Sao lại không nhắc nhở Lưu Bị đây? Phương Thi Minh tiên sinh trongLưu Bị và Quan Vũ đã làm biến đổi nguyên ý của Chương Thái Viêm tiên sinh, đem “Gia Cát Lượng không trừ Quan Vũ tất đời sau khó trị được” mà đổi thành “Lưu Bị không trừ (Quan Vũ) thì đời sau khó trị được”. Cách “ghép cành” này thực không thể được. Tôi cho rằng chỉ cần Gia Cát Lượng làm đúng chức trách của một quân sư, lúc nào cũng có thể đem tình thế nguy hiểm của Kinh Châu mà nói với Lưu Bị. Lưu Bị cùng Quan Vũ tình thân như thủ túc, không thể nào chỉ có đứng nhìn việc Quan Vũ chiến bại ở Lâm Thư mà không một binh một tốt cứu viện. Cho nên người thực sự đưa Quan Vũ lên đoạn đầu đài không phải ai khác mà là chính là Gia Cát Lượng.Chức thừa tướng, Gia Cát Lượng là lựa chọn cuối cùng? Sau khi Quan Vũ chết, địa vị và quyền lực của Gia Cát Lượng được nâng cao rõ rệt nhưng vẫn chưa tới mức “trên vạn người, dưới một người”. Sau khi vào Thục, Lưu Bị tín nhiệm Pháp Chính hơn hẳn Gia Cát Lượng. Đối với điều này Gia Cát Lượng cũng rất rõ. Lưu Bị Đông Chinh “phục nỗi nhục Quan Vũ”, quần thần thay nhau khuyên gián, Lưu Bị nhất loạt đều không nghe. “Năm Chương Vũ thứ 2 đại quân thất bại, trú ở Bạch Đế, Lượng than rằng: Pháp Hiếu Trực (Pháp Chính) nếu còn, chắc có thể ngăn được chủ công Đông hành, dù có Đông hành cũng không tới nguy địa thay!” (Thục thư – Pháp Chính truyện). Đối với việc Lưu Bị phát động cuộc chiến ở Di Lăng, Gia Cát Lượng có ngăn cản hay không, bởi sử không chép nên không thể biết được. Nhưng từ lời nói trên có thể thấy được rằng Pháp Chính ở trong lòng Lưu Bị thực Gia Cát Lượng không thể bằng! Lưu Bị nhập Xuyên chủ yếu là nhờ công Pháp Chính, Pháp Chính không những trợ giúp Lưu Bị lấy được Ích Châu, định Hán Trung, kiến lập được công lao trác việt, lại “có thừa trí thuật, hiểu ý chủ nhân”. “Tiên chủ cùng với Tào công tranh, thế có bất lợi, nên lui, nhưng tiên chủ đại nộ mà không chịu lui, bèn không dám can gián nữa. Tên bắn như mưa, Chính bèn lên phía trước tiên chủ, tiên chủ nói rằng “Hiếu Trực che tên” Chính nói “Minh công là giường cột sao có thể giống với bọn tiểu nhân được” Tiên chủ bèn nói “Hiếu Trực, ta với ngươi cùng đi”… Từ đó đủ thấy Pháp Chính đối với Lưu Bị có thể nói là lấy thân tương trợ, việc việc đều thủ tín với Bị. Công phá được Thành đô Lưu Bị phong Chính là Thục quận thái thú, Dương Vũ tướng quân, ngoài giữ chốn kinh kỳ, trong làm mưu thần… Pháp Chính thân kiêm chức vụ trọng yếu ở trong ngoài, cũng chính là sự thể hiện của việc Lưu Bị cực kỳ tín nhiệm. Có người nói với Gia Cát Lượng rằng : “Pháp Chính làm thái thú Thục quận mà tung hoàng, tướng quân nên khởi bẩm chủ nhân, giảm bớt uy khí. Lượng đáp rằng: Chủ nhân phía bắc sợ Tào Tháo thế mạnh, đông sợ Tôn Quyền bức hiếp, gần đây lại thêm việc của Tôn phu nhân, tiến thoái khó khăn, Pháp Hiếu Trực lại là người phù trợ, sao có thể ngăn được Pháp chính không làm theo ý mình được” (Thục thư – Pháp Chính truyện) Gia Cát Lượng phản ánh tình hình thực tế đương thời, nhưng cũng có thể thấy đây chính là Gia Cát Lượng tự trào lộng mình. Một mặt là Pháp Chính tung hoành ngang dọc không coi Gia Cát Lượng vào mắt; một mặt chính là Gia Cát Lượng đối với việc Pháp Chính tung hoành, tác uy tác phúc cũng đành bất lực. Pháp Chính tung hoành ngang dọc Gia Cát Lương đương nhiên không vui. Nhưng làm thế nào để làm giảm quyền thế, Gia Cát Lượng tự có sự tính toán. Lưu Bị cùng với Tào Tháo tranh đoạt Hán Trung bởi binh lực không đủ nhưng vẫn “yêu cầu phát binh, Quân sư Gia Cát Lượng bèn hỏi Dương Hồng, Hồng đáp: “Hán trung là yết hầu của Ích Châu, việc tồn vong vốn nằm ở đó, nếu không có Hán Trung ắt không có Thục, đấy cũng chính là cái họa từ cửa vào vậy. Việc như nay, đàn ông đương chiến, đàn bà làm vận lương, phát binh còn nghi ngờ gì?”. Khi đó Thục quận thái thú Pháp Chính theo tiên chủ bắc hành, Lượng trong biểu dâng muốn phong Hồng tạm giữ chức Thục quận thái thú, mọi việc đều được làm tốt thì có thể lĩnh luôn chức vụ” (Thục thư- Dương Hồng truyện). Hán Trung là “yết hầu của Ích Châu”, việc được mất liên quan tới sự tồn vong của chính quyền Thục Hán. Việc này chẳng nhẽ Gia Cát Lượng không hay? Đối với việc yêu cầu phát binh gấp thì chính là mệnh lệnh của Lưu Bị, sao có thể chống lại? Gia Cát Lượng hỏi Dương Hồng mục đích chỉ có một đó chính là mượn cơ hội để tiến cử Dương Hồng vào việc lo phát binh, tiện cho việc thay thế Pháp Chính làm Thục quận thái thú. Trong tình thế Pháp Chính không ở đó Lưu Bị cũng đành chấp nhận. Dương Hồng kịp thời đưa quân dội, lương thảo vật tư tới tiền tuyến là Hán Trung, nếu việc làm tốt có thể giữ nguyên chức Thục quận thái thú. Pháp Chính mất đi vị trí quan trọng là bên ngoài giữ chốn kinh kỳ, quyền thế bị giảm đi phần lớn. Nhưng mâu thuẫn giữa Gia Cát Lượng và Pháp Chính vẫn chưa hết. “Gia Cát Lượng và Chính, tuy tính không giống nhau nhưng lấy công mà hỗ trợ”. Cái gọi là “lấy công mà hỗ trợ” thực ra chỉ là bề mặt, nhưng “tính không giống nhau” mới là bản chất. Đối với sự thông minh tài trí của Pháp Chính, Gia Cát Lượng cũng thực sự kính phục: “Trí thuật của Chính làm Lượng cảm thấy tài lắm” (Thục thư- Pháp Chính truyện). Càng quan trọng hơn nữa Pháp Chính là người duy nhất trong đám mưu thần mà có thể nói Lưu Bị nghe được. Điểm này chính Gia Cát Lượng cũng cho là không bằng. Bởi thế nếu như Pháp Chính sống lâu ắt hẳn mâu thuẫn sẽ còn hơn nữa. May mắn cho Gia Cát Lượng chính là năm thứ 2 khi Lưu Bị xưng Hán Trung Vương, thì Pháp Chính bệnh mà qua đời. Khi Lưu Bị xưng đế thì Quan Vũ, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung đều đã mất. Trương Phi tuy nhiên là tình thủ túc với Lưu Bị nhưng dẫu sao cũng chỉ là một viên võ tướng. Mã Siêu là tướng hàng, tâm thường mang lòng phản trắc, càng không đáng tín nhiệm. Thái phó Hứa Tĩnh lại là người thanh đạm. Lưu Bị ngó trước sau, ngoài Gia Cát Lượng thì không ai có thể giao được trọng trách lớn. Từ khi tức vị liền phong Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, sau khi Trương Phi chết lĩnh chức Tư lệ hiệu úy. Gia Cát Lượng phấn đấu mười lăm năm, cuối cùng cũng leo lên được cái ghế Thừa tướng của mình thực ra cũng chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của Lưu Bị? bantinsom.com
-
Khổng Minh thì là người tài rồi, nhưng mà tài giỏi cỡ nào thì thua, vì qua ngòi bút của tác giả, Khổng Minh cũng giống thần tiên. Mời quý vị xem tiếp 1 đoạn thông tin này ==================================================================== Những phát hiện khoa học kỳ lạ về Khổng Minh Nhung phat hien khoa hoc.. Trong khoa học, kỹ thuật, tạo ra được một chuyển động vĩnh cửu là một công việc dường như không thể. Để một vật chuyển động, nó bắt buộc phải chịu một lực tác động từ bên ngoài. Chính vậy mà vào đầu thế kỷ hai mươi, khi bộ tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc Diễn Nghĩa được dịch ra tiếng Anh, nó đã tạo ra một chấn động trong làng khoa học thế giới. Các nhà khoa học đọc đi đọc lại những sáng chế của Khổng Minh nhưng không thể hiểu nổi. Nhiều người nghi ngờ bản dịch nên đã cố công học tiếng Hán để nghiên cứu nguyên tác nhưng vẫn không tìm thấy các bí mật ở trong đó. Những người nản chí thì cho đó là những tưởng tượng của nhà văn. Nhưng có khá nhiều người vẫn còn tin vào khả năng thần kỳ của nền kỹ thuật Trung Quốc và tin vào nhận định: tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa là một tác phẩm lịch sử có tới bảy phần thực. hổng Minh là một nhân vật mưu lược, quyền biến, trung thành và đặc biệt có những khả năng được người dân Trung Quốc tôn sùng như một vị thánh.Trong những trận đánh liên miên từ khi Lưu Bị còn chưa có đất dụng võ cho tới khi thiên hạ (nước Trung Hoa xưa) chia thế chân vạc, Khổng Minh đã thể hiện bản lĩnh của một vị quân sư, một vị tướng hiểu thời, hiểu thế và do vậy, hầu như ông không có đối thủ thực sự trên chiến trường. Cho đến gần cuối đời, Khổng Minh mới gặp một địch thủ thực sự cho dù người này luôn nhận mình kém cỏi so với ông. Đó chính là Tư Mã Ý, người đã đặt nền tảng thống nhất đất nước Trung Hoa cho con trai mình. Trong cuộc đấu sức, đấu trí với Tư Mã Ý, Khổng Minh đã để lại cho hậu thế hai “bí kíp” lớn nhất về sự sáng chế khoa học. Đó là phép “rút đất” và những con trâu ngựa gỗ có thể tự động vận chuyển lương thực. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã chứng minh được nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao của người Trung Hoa cổ. Vậy nếu như khôi phục được hai “bí kíp” kia thì đó là một điều thần kỳ đối với cuộc sống nhân loại. Trong một trận chiến, để dụ tướng giặc, Khổng Minh ngồi trên xe nhỏ bốn bánh được quân lính đẩy ra giữa trận. Tướng giặc thấy vậy, cáu tiết đuổi theo bắt cho kỳ được. Khổng Minh truyền quay xe và chạy. Ba phía khác lần lượt xuất hiện một cái xe y như thế với Khổng Minh khăn áo là lượt.(Đó chính là ba viên tướng đóng thế Khổng Minh) Tướng giặc liền nhằm một cỗ xe và đuổi riết. Chiếc xe do người đẩy chỉ chạy chầm chậm nhưng quân giặc với đàn ngựa chiến không sao đuổi được. Càng đuổi, chiếc xe càng chập chờn trước mắt. Đuổi nhanh, xe chạy nhanh, đuổi chậm, xe chạy chậm lại. Và tất nhiên, tướng giặc không thể bắt nổi chiếc xe đó. Xét về tốc độ thì một chiếc xe bốn bánh do người đẩy không thể chạy nhanh bằng nước phi của một con ngựa chiến được. Hiển nhiên trong chuyện này phải có một yếu tố "kỹ thuật" nào đó. Các nhà khoa học nghiên cứu một hồi cũng không thể đưa ra một giả định hay hơn các nhà nghiên cứu quân sự được. Họ cho rằng, cuộc chiến giữa hai bên diễn ra ở vùng núi Kỳ Sơn rất hiểm trở và rừng rậm um tùm. Khổng Minh lại là một người ưa dùng nghi binh và dùng “tà pháp” đánh vào tâm lý của đối phương nên phép "rút đất” được lý giải như sau: Do chiếc xe bốn bánh dùng sức người đẩy chắc chắn không thể sánh với tốc độ của ngựa chiến được mà ngựa chiến vẫn không đuổi kịp là vì hai điều: thứ nhất; chiếc xe không có thực trên cùng một đường chạy, thứ hai, có nhiều chiếc xe giống nhau tham gia vào phép “rút đất" này. Mặc dù người Trung Hoa đã sử dụng gương hay những mặt đồng tạo hình ảnh từ rất sớm nhưng nếu cho rằng Khổng Minh đã dùng gương tạo ra một ảo ảnh trên đường chạy là một điều hoang đường. Bởi vì nếu Khổng Minh có thể sử dụng kỹ thuật phản chiếu qua gương như vậy thì ông cần gì phải bố trí ba tướng khác đóng giả y hệt mình ở ba góc trận.? Loại trừ khả năng này, chúng ta đến với khả năng thứ hai. Khổng Minh là một người đặc biệt nhạy cảm về địa thế chiến trường. Với ông, nếu tận dụng được địa thế thì một dòng suối cũng nhấn chìm được cả đoàn quân. Chúng ta thử hình dung trận địa diễn ra ở những sườn núi, sườn đồi mấp mô. Do đó, tầm mắt của đối phương bị che lấp liên tục. Khổng Minh đã dùng các tướng đóng giả mình và phục sẵn ở lưng chừng các mỏm núi có rừng bao phủ. Câu chuyện diễn ra từa tựa như truyện cổ tích lũ rùa tinh khôn chạy thi với thỏ. Khi tướng giặc chạy lên điểm cao thì nhìn thấy chiếc xe, nhưng khi chạy xuống lòng chảo (dù rất nhỏ) viên tướng đó cũng sẽ mất tầm nhìn trong một đoạn thời gian. Đoạn thời gian này đủ để chiếc xe ấy lẩn vào rừng cây và chuyển vào một vị trí định sẵn. Khi tầm nhìn của tướng giặc mở ra, viên tướng đó sẽ lại thấy một chiếc xe khác y nhệt như thế xuất hiện. Do đã nắm chắc địa thế và lại là người chủ động khiêu khích giặc nên Khổng Minh đủ sức bố trí phép “rút đất” như vậy. Ở đây có một câu hỏi lớn đặt ra là ông đùa giỡn với tướng giặc thế làm gì khi ông có thể tóm gọn kẻ thù trong lúc viên tướng đó sa vào thế trận của ông. Chúng ta nên nhớ rằng, Khổng Minh chỉ có chưa đến mười vạn quân so với vài chục vạn quân Ngụy. Hơn nữa, trước khi ra Kỳ Sơn đánh Ngụy, Khổng Minh phải để lại một số lượng lớn quân để giữ nước. Lực lượng của Khổng Minh chỉ bằng một phần nhỏ của quân địch. Chính vậy nên Khổng Minh đã dùng cách này để "hù doạ” quân địch. Có lẽ sự thật về phép “rút đất” từng làm bao nhiêu nhà quân sự, nhà khoa học và độc giả phải đau đầu nằm trong câu chuyện cổ tích của người Việt: Rùa chạy thi với thỏ. Trong chiến tranh, lương thực tiếp tế cho các đoàn quân là điều kiện sống còn. Do địa hình vùng núi Kỳ Sơn rất phức tạp, dốc đá hiểm trở nên việc vận chuyển lương thực vô cùng khó khăn. Tư Mã Ý có lý khi cho rằng chỉ cần không ra đánh, cứ cố thủ, quân của Khổng Minh hết lương thực tất phải tự vỡ. Quả nhiên quân Thục gặp những rắc rối về việc vận chuyển lương thực. Do địa hình quá là hiểm trở nên những con ngựa kéo xe rất nặng nề và thường xuyên chết cả đàn vì chướng khí. Khổng Minh gọi thợ lấy gỗ và vẽ mẫu để làm trâu ngựa gỗ. và thật lạ lùng, những con trâu ngựa gỗ ấy kéo xe lương thực đi như không trên những sườn núi cao. Nếu con người hiện đại biết được cách chế tạo trâu ngựa gỗ thì chúng ta sẽ tiết kiệm được bao nhiêu năng lượng. Tuy nhiên nhiều người cho rằng Khổng Minh đã phù phép để cho các con vật bằng gỗ ấy cử động được. Có một “chứng cứ khoa học” rằng khi Tư Mã Ý thấy vậy liền cho quân bắt lấy một con mang về tháo rời ra. Tư Mã Ý cũng là một nhà kỹ thuật đại tài nên ông bắt chước y như đúc các kích thước của con trâu gỗ và tạo ra được cả một bầy dùng để kéo xe. Như vậy cấu tạo đặc biệt của trâu ngựa gỗ đã tạo ra hành động của chúng. Nhưng chúng ta đều biết những con trâu ngựa gỗ đó không thể tự tạo ra một bộ máy chuyển động vĩnh cửu để hoạt động được. Yếu tố ngoại lực chắc chắn phải xuất hiện, nhưng nếu đẩy nó như đẩy xe thì tội gì phải chế tạo trâu ngựa gỗ cho thêm rắc rối. Trâu ngựa gỗ giúp cho quân lính chuyên chở lương thực rất nhẹ nhàng, do đó nó ưu việt hơn nhiều là phải đẩy một cái xe. Các nhà nghiên cứu quân sự trở lại với địa thế hiểm trở của những ngọn núi Kỳ Sơn. Để vận chuyển lương thực, những đoàn xe đó tất nhiên phải đi men theo các sườn núi đá. Những con đường mấp mô, gập ghềnh khi lên cao khi xuống thấp. Đây chính là địa thế dành cho trâu ngựa gỗ. Trong khớp nối ở mỗi ống chân gỗ, người thợ sẽ tiện một đĩa gỗ tròn sao cho cơ thể con trâu có thể trượt về đằng trước hay trượt về đằng sau một khoảng bằng bán kính của đĩa gỗ. Như vậy nếu đứng trên một mặt phẳng thì con trâu hoặc là chúi về phía trước hoặc là trượt về phía sau chứ không thể đứng thẳng được. Tất cả các khớp nối của bốn chân con trâu, con ngựa đều tuân thủ nguyên tắc này. Khi mang các bao lương thực trên lưng, sức nặng ấy sẽ tạo ra một lực đẩy rất mạnh hoặc về phía trước hoặc về phía sau. Trên địa hình mấp mô, gập ghềnh, sau khi trọng lượng lương thực "dúi” phần lưng nó về phía trước, theo con trượt, lưng nó sẽ lại trở lại phía sau theo đà lắc. Nhưng nếu như thế thì chúng vẫn chưa thể đi được, nhất là khi đà dốc chỉ đủ "dúi” nó tới gần đỉnh cao nhất của dốc đá lồi lõm trên đường. Mặc dù có địa thế lồi lõm như thế, để có thể đi được, những con trâu ngựa gỗ đó vẫn cần một ngoại lực nào đó. Điều này một lần nữa được hé mở qua bộ phận lưỡi của chúng. Khi Tư Mã Ý dùng trâu ngựa gỗ chuyển lương thực, Khổng Minh đã cho quân của mình bôi mặt giả làm quỷ để doạ quân Ngụy. Để cướp lương thực, quân Thục chỉ cần tháo lưỡi của trâu ngựa gỗ là chúng không đi được. Như vậy ngoại lực sẽ truyền qua lưỡi và tác động lên các trục tròn qua những thanh sắt "chuyển lực”. Bộ khung sắt lnày nằm kín trong bụng trâu ngựa gỗ và nó được kéo quay tròn như thể một cái guồng nước. Nó có bốn thanh chính. Khi thanh thứ nhất và thanh thứ hai quay làm cho chân trước và chân sau phía bên kia của con trâu “trượt” về phía trước thì hai thanh còn lại "gạt” hai chân còn lại về phía sau, tạo ra một chuyển động nhịp nhàng. Đặc biệt chuyển động này tận dụng tối đa sự "xuống dốc, lên dốc” của mặt đường gập ghềnh. Như vậy, các nhà khoa học hiện đại kết luận, chắc chắn sợi dây "dắt” trâu ngựa gỗ sẽ được buộc vào lưỡi của chúng. Một hoặc hai người lính sẽ “dắt” trâu bằng cách kéo nhẹ vào dây khi đà lăn gần hết, để tiếp tục tạo cho chúng một đà lăn mới. Trên lý thuyết, các nhà phân tích “giải mã” được cấu tạo của những con trâu ngựa gỗ. Tuy nhiên chưa có ai làm thực nghiệm. Điều này có thể vì nhiều lý do nhưng lý do lớn nhất là, những con trâu ngựa gỗ (như trên) nếu có thể chế tạo được thì cũng không mang lại ích lợi cho con người bởi vì hệ thống giao thông hiện nay đã quá hiện đại và rất khó có thể tìm thấy những con đường lồi lõm dù ở cả những miền núi cao./ bantinsom.com
-
Mời quý vị xem tiếp phần viết của tác giả này ============================================================= Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình. Chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người… Thuật "rút đất" hay một trò ú tim của trẻ nhỏ? Đối lập với cái gian hùng của Tào Tháo là cái “kiêu hùng” của Lưu Bị, cũng có cách xử lý mà không người nào làm được, ông ta dùng nước mắt để tranh thiên hạ. Lưu Bị thích khóc đến nổi tiếng. Lưu Bị dưới sự trợ giúp của Từ Nguyên Trực, đóng quân Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo, khí tượng ngày một thịnh. Nhưng Tào Tháo đã bắt chước bút tích của Từ Mẫu đưa cho Nguyên Trực, khiến cho ông ta phải rời bỏ Lưu Bị. Lưu Bị khóc rằng: “Nguyên Trực đi rồi, ta sẽ không biết làm thế nào?”, rồi ngưng nước mắt mà ngóng theo. Từ Thứ vì điều này mà tâm tư nhiễu loạn, nước mắt lưng tròng, khi sang phía Tào Tháo từ đầu chí cuối không đưa ra một kế sách nào. Lưu Bị ba lần đến lều cỏ, gặp phải lời từ chối khéo của Khổng Minh, khóc rằng: “Tiên sinh không xuất sơn, thiên hạ sẽ sống như thế nào?”. Lưu Bị nói đi nói lại, càng động đến tâm sự sâu kín, tâm tư trăm mối, lúc đó “nước mắt thấm ra tay áo, làm ướt hết cả vạt áo”. Khi Lỗ Túc Đông Ngô đòi Kinh Châu, Lưu Bị lại khóc, dày vò những thủ hạ của Lỗ Túc không biết xử trí thế nào, cuối cùng không hoàn thành được nhiệm vụ. Khi tin Quan Vũ bị sát hại truyền tới, Lưu Bị “thét lên một tiếng lớn, hôn mê ngã vật xuống đất”, lệ thấm ướt vạt áo, ba ngày không ăn. Biểu hiện huynh đệ tình thâm. Lưu Bị từ đầu chí cuối đều dùng nước mắt để cảm động văn thần võ tướng, khóc để giành được một địa bàn lập nghiệp rồi cũng dùng khóc để có được vị trí vua đất Thục. Là thủ hạ của một vị quân vương khóc rất nhiều, việc khóc của Gia Cát Lượng cũng rất có bản lĩnh. Chí ít việc khóc của ông ta cũng có thể cùng Lưu Bị tạo nên công trạng. Nhưng Lưu bị dù nói gì đi nữa, cũng có một chút vì quốc gia mà khóc. Còn việc khóc của Gia Cát Lượng cũng chỉ là kiểu mèo khóc chuột, mượn sự thương xót để giải hiềm nghi mà thôi. Gia Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi, vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số người khác nữa đến phúng viếng. Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du, bày lễ vật, tự rót rượu, đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu Du sinh thời anh hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp Tôn Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca ngợi tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan tài của Chu Du, ông đau đớn nói: “Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!”. “Hồn phách có linh, xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong thiên hạ, sẽ không tìm thấy đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!”. Ông ta nước mắt như suối, bi thương khóc lóc không dừng, thực là cảm động lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm đó không ai là không bị nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh không có ai không bị tình cảm của ông ta cảm hóa. Gia Cát Lượng giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều bị tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là người trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu Du đâu đã chết nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là không ai ăn hiếp Giang Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện trước thế nhân một giả tượng rằng: không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen, việc ông tức khí mà chết hoàn toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà tôi vẫn còn tới khóc viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối với một người đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật còn hơn lang sói. Nghe nói loài cá khi ăn thực vật, có một loài có biểu hiện rất giống con người: chảy nước mắt. Loài cá quả thực là có biết chảy nước mắt, chỉ là chúng hoàn toàn khóc không phải vì thương tâm mà là do lượng muối dư thừa trong cơ thể nó bài tiết ra. Chức năng bài tiết của thận cá không được hoàn thiện như, trong cơ thể dư thừa quá nhiều muối, cần phải dựa vào một tuyến muối đặc thù để bài tiết. Tuyến muối trong cơ thể loài cá nằm rất gần vùng mắt của cá. Tuyến muối này có thể giúp loài cá tiêu giảm bớt lượng muối trong nước biển, từ đó mà nước biển nhạt đi. Vì thế, tuyến muối là dụng cụ làm nhạt nước biển của thiên nhiên. Nước mắt của loài cá này hoàn toàn không phải là do tình cảm mà là một loại giả từ bi, giả thương tâm, giả cảm thông. Loại nước mắt này chỉ là một tuyến ở vùng phụ cận của mắt làm ra một trò đùa quái đản, chỉ cần khi cá ăn, loại tuyến phụ sinh bài tiết ra một loại dung dịch muối của tự nhiên. Trong cuộc sống loại ngụy quân tử giả từ bi này thật đáng mỉa mai! Tiếng khóc “ghi dấu kinh điển” của Gia Cát Lượng chính là lần khóc chém Mã Tốc. Gia Cát Lượng ra Kì Sơn bắc phạt, ban đầu giành thắng lợi, giành được ba quận vùng Lũng Tây, thanh thế làm chấn động Ngụy quân. Đột nhiên có tin báo, Tư Mã Ý xuất quan, hành quân cấp tốc. Gia Cát Lượng liệu định chắc rằng Tư Mã Ý sẽ lấy Nhai Đình, chặn yết hầu của quân Thục. Vì thế muốn phái một thượng tướng danh tiếng đến trấn thủ ở Nhai Đình, không ngờ Mã Tốc muốn được nhận nhiệm vụ, cam kết “nếu như thất bại, chém đầu cả nhà”. Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên giấy còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến. Chỉ vì ông ta có sự giao hảo riêng với Gia Cát Lượng, lại là một nhân vật thuộc phái Kinh Tương. Chỉ vì cho ông ta một cơ hội kiến công lập nghiệp, Gia Cát Lượng đã không nghe lời mọi người mà đề bạt Mã Tốc. Kết quả, Mã Tốc sau khi tới Nhai Đình đã chống lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa đốt núi, tuy Thục quân mấy lần cứu viện nhưng rốt cục Nhai Đình vẫn mất. Sau khi Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng phải sửa chữa cục diện thất bại của mình, thân là chủ tướng ông ta không thể đổ thừa trách nhiệm cho ai. Nhưng là một để bảo toàn danh dự cho bản thân, nên đã đem toàn bộ sai lầm trong cuộc chiến đó đẩy hết cho Mã Tốc, luôn miệng nói là thất bại Nhai Đình là một sự kiện trọng đại trong chiến tranh. Mẫ Tốc không cách gì đã trở thành vật hy sinh của ông ta. Gia Cát Lượng chém khi chém Mã Tốc có ba lần ông ta chảy nước mắt như loài cá. Gia Cát Lượng của những người nghiện games Lần khóc thứ nhất là trách mắng sai lầm của Mã Tốc. Nói Nhai Đình là gốc của quân Thục, ngươi đã lấy sinh mạng cả gia đình để lĩnh trách nhiệm nặng nề đó, nay mất đất mất thành, tất sẽ bị xử chém. Lúc đó Mã Tốc cầu xin rằng sau khi giết chết ông ta có thể ban ân tha chết cho con ông ta, Gia Cát Lượng bị lời khẩn cầu của một người sắp chết làm cho cảm động, ông ta lập tức đáp ứng thỉnh cầu, đổng thời chảy nước mắt nói: “Ta và Nhữ Nghĩa (tên tự của Mã Tốc) là huynh đệ, con của ông cũng chính là con của ta, không cần dặn dò quá nhiều”. Ý là muốn Mã Tốc yên tâm mà đi. Mã Tốc vốn có giao hảo với Gia Cát Lượng, nay vì lợi ích của bản thân, ông ta không thể không giết Mã Tốc. Giờ đối diện với đề xuất cuối cùng của một người cha cho con mình, lương tâm của ông ta cũng không hoàn toàn mất đi. Lần thứ hai khóc là lần can gián của Tưởng Uyển. Trong cách nhìn của Tưởng Uyển: “Nay thiên hạ chưa định, mà giết người mưu trí, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?”. Khổng Minh cũng biết rằng Mã Tốc cũng có chỗ khả dụng. Trước đây Mã Tốc đã vì Khổng Minh hiến kế hai lần và cả hai lần đều giành được thắng lợi lớn: Lần thứ nhất là bảy lần bắt Mạnh Hoạch, ông ta kiến nghị lấy công tâm làm đầu. Một lần khác là lợi dụng kế phản gián, gây xích mích trong quan hệ giữa Tào Duệ và Tư Mã Ý, kết quả là Tư Mã Ý bị biếm về quê. Gia Cát Lượng không phải không biết tài năng của Mã Tốc Mã Tốc không chết nhất định trở thành cánh tay đắc lực của ông ta, nhất định có thể giúp ông ta đối phó với một số người như Lý Nghiêm,… Nhưng ngày hôm nay nếu như không chết, rất có thể địa vị của ông ta trong tập đoàn Kinh Tương sẽ bị lung lay. Giết chết Mã Tốc cũng giống như chặt đứt một cánh tay của ông ta. Lúc đó nội tâm của ông ta cực kì phức tạp mâu thuẫn, làm sao ông ta không thương tâm cho được? Lần thứ ba là sau khi nhìn thấy thủ cấp của Mã Tốc, Không Minh lại không nén nổi sự đau đớn nội tâm, khóc lớn không thôi. Lúc này Tưởng Uyển vẫn ngoan cường hỏi: “Nay kẻ ấu trĩ thường mắc tội, đã xử theo quân pháp, thừa tướng hà cớ gì phải khóc?”. Đây là lần đâu tiên Khổng Minh nghĩ tới thất bại do việc mình dùng người không đúng gây ra, và lại sai lầm này là không thể thông cảm được. Gia Cát Luợng từ sau khi Lưu Bị chết, gạt bỏ sự độc chiếm quyền bính của Lý Nghiêm, …. Gia Cát Lượng khóc Chu Du, khóc Mã Tốc là giả nhân nghĩa lấy lòng người, vừa ăn cướp vừa la làng. Là một kẻ đầy mưu mẹo trên chính trường, ông ta rất giỏi vận dụng những biểu tượng để ngụy trang cho chính mình. Tào Tháo ba lần cười cũng có ba lần khóc. Ông ta khóc lần thứ nhất là khóc toàn gia đình mình bị Đào Khiêm giết chết, ai không thương cha thương mẹ, Tào Tháo khóc, có thể nói là khóc một cách thực tâm. Lần thứ hai khóc là khóc Điển Vi. Năm đó, Tào Tháo dẫn quân thảo phạt Trương Tú, bị trúng kế của Trương Tú, thân bị bao vây. Điển Vi sau khi mơ thấy cảnh đó, tỉnh dậy đã “ra sức hướng về hành quân”, đến chết cũng không lui, máu chảy đầy đất mà chết nhờ thế mà Tào Tháo thoát hiểm. Tào Tháo sau khi chỉnh đốn quân đội, đánh lui Trương Tú, lập tức làm lễ tế Điển Vi, tự thân mình khóc tế ông ta. Hai năm sau, Tào Tháo lại dẫn quân tới Uyển Thành tấn công Trương Tú, Tào Tháo đột nhiên khóc lớn, còn nói, ta từng đau đớn mất con trưởng, cháu yêu, nhưng ta chỉ khóc đại tướng Điển Vi của ta. Đây cũng là lần Tào Tháo khóc để lấy lòng người. Lần thứ ba khóc là khóc Quách Gia sau thất bại trong trận Xích Bích, “Nếu có Phụng Hiếu ở đây, ta đã không cô độc đến thế này”. Lần khóc này là để che đậy cho sai lầm của bản thân mình cũng là trách mắng bọn mưu sĩ vô năng, đương nhiên ông ta không quên rẳng Tuân Húc từng nhắc nhở ông ta về kế trá hàng, kế liên hoàn của Đông Ngô và cả chuyện gió Đông nữa nhưng là do Tào Tháo không nghe. Lần khóc này là sự che đây ngụy trang cho sai lầm của bản thân ông ta mà cũng là bộc lộ sự gian xảo giả dối của ông ta. Tập Tạp Xỉ bình Gia Cát Lượng nói: “Vì thiên hạ chủ trì đại cục, muốn đại thu lực vật mà không lượng tài năng mà nhậm trọng trách, theo tài phó nghiệp; biết đó là một lỗi nặng, không tuân sự nhắc nhở của minh chủ, giết người hữu ích, thật khó mà gọi là người có trí được vậy”. Tập Tạp Xỉ cho rằng Gia Cát Lượng không đủ để gọi là người có trí nhưng ông ta không nhìn thấy rằng tuy Gia Cát Lượng tuy không phải là người có trí nhưng mà ông ta là bậc có mưu. Chỉ nhìn mấy lần ông ta dùng nước mắt để tạo ra cái thanh danh hiền thần hiếu tử cũng có thể thấy là đã đạt tới đỉnh cao của kẻ giết người không dao. Trên thế giới vốn không có hận thù vô duyên vô cớ, cũng không có tình yêu vô duyên vô cớ. Là một con người có thất tình lục dục, phải sống trên trên cõi hồng trần tục thế, không cách nào thoát khỏi những hỷ nộ ai lạc do cuộc sống mang lại. Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người./. vietimes.com.vn
-
Thần đèn Hai vợ chồng đang chơi gôn tại một sân gôn cực kỳ đắt tiền, bao quanh bởi những ngôi nhà cực kỳ sang trọng. Khi chơi đến lỗ thứ ba, chồng dặn dò vợ (một phụ nữ rất xinh đẹp): “Em yêu, hãy thận trọng, vì nếu trái banh lỡ va vào một cửa kính, thì chúng ta phải đền một số tiền lớn đấy”. Người vợ làm một cú đánh mạnh và tất nhiên trái banh bay thẳng vào cửa kính lớn nhất của một ngôi nhà sang trọng nhất. Người chồng tức giận, rầy vợ, sau đó hai người đến gõ cửa ngôi nhà. Một giọng nói trả lời: “Mời vào!” Người chồng mở cửa ra và nhìn thấy một cái chai bể ở góc nhà, các mảnh chai văng đầy phòng khách. Một người đàn ông ăn mặc sang trọng đang ngồi trên ghế bành hỏi: “Chính các người đã làm bể cửa kính?” “Vâng, nhưng chúng tôi rất lấy làm tiếc.” “Thật ra các người đã giải thoát cho tôi. Tôi là một vị thần bị giam trong cái chai này trong suốt 1.000 năm. Vậy để trả ơn các người, tôi xin tặng ba điều ước. Nhưng vì có hai người, nên tôi sẽ tặng mỗi người một điều ước, còn điều ước thứ ba sẽ dành cho tôi. ” Người đàn ông hỏi người chồng: “ông ước điều gì?” Người chồng trả lời: “Tôi muốn mỗi tháng nhận được 1 triệu USD” “Được thôi, kể từ ngày mai ông sẽ nhận được số tiền này vào mỗi đầu tháng”. Vị thần quay qua người vợ và hỏi: “Còn điều ước của bà là gì?” “Tôi muốn có một ngôi nhà ở mỗi nước trên thế giới.” “Được thôi. Kể từ ngày mai bà sẽ nhận được giấy chủ quyền của các ngôi nhà này.” Người chồng hỏi vị thần: ” Vậy điều ước của ông là gì?” “Ta bị nhốt trong cái chai này trong hơn 1.000 năm và suốt thời gian này ta không được gần với phụ nữ. Do đó, điều ước của ta là được gần với vợ ông.” Hai vợ chồng nhìn nhau một hồi và cuối cùng người chồng nói: “Được thôi, với 1 triệu USD mỗi tháng và tất các các ngôi nhà trên thế giới, tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể đồng ý điều này, em nghĩ sao?” Người vợ trả lời: “Em đành phải đồng ý thôi” Vị thần đưa người vợ vào phòng ngủ… Hai tiếng đồng hồ sau, vị thần hỏi người vợ: ” Này, chồng em bao nhiêu tuổi vậy?” “40, sao ông lại hỏi tuổi?” ” Thật không thể tưởng tượng! Bởi vì đã từng tuổi này rồi mà ông ta còn tin là có thần thánh !”
-
Cha đẻ ATM- ông là ai ? Chắc bạn cũng thấy rằng ATM (Automated Teller Machine - máy giao dịch tự động) đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam? Vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào có ATM, người dùng có thể thực hiện các giao dịch mà không cần đến Ngân hàng. Nhưng có khi nào đó giao dịch trên ATM bạn băn khoăn rằng ATM có từ bao giờ không? Để phần nào giải đáp những băn khoăn này, chúng tôi xin góp với các bạn vài câu chuyện lượm lặt trên Internet về việc ATM đã ra đời như thế nào. Giải mã ẩn số “Tôi không tin” – đó là câu trả lời của đa số mọi người khi được hỏi “Bạn có tin cha đẻ ATM là người Việt Nam không?”. Ai cũng nghĩ đó có thể là người Anh, người Pháp, người Mỹ hay một người nước nào đó nhưng không ai nghĩ đó là người Việt Nam. Sự thật là phát minh đó mang tên một người Việt Nam – Ông Đỗ Đức Cường. Cảm nhận đầu tiên khi được nói chuyện với ông là gần gũi, nhiệt tình và thông thái. Ông luôn trân trọng khi nói chuyện với bất kỳ ai, từ một người nông dân, anh xe ôm đến người tri thức. Bạn có thể nhìn thấy ông say sưa giải thích về các phát minh với một người tri thức mặc com lê, và bạn cũng có thể nhìn thấy một sự say sưa tương tự khi ông nói chuyện với một người nông dân chân đất. Thích làm việc ở chân cầu thang để được gặp gỡ mọi người. Trong ví lúc nào cũng có hàng chục thẻ ATM. Là tác giả của trên 50 phát minh và sáng chế, 20 năm làm việc tại ngân hàng Citibank - Mỹ, chuyên viên cao cấp cho ngành ngân hàng Hoa Kỳ, là Đại sứ thiện chí của Liên Hiệp Quốc. Trở về Việt Nam năm 2003, hiện ông là cố vấn cao cấp cho ngân hàng Đông Á. Chết đói và may mắn của số phận Sinh ra và lớn lên ở vùng quê Đức Phổ, Quảng Ngãi. Những năm tuổi thơ nghèo khó. Các anh chị em lần lượt chết vì đói. 6 tuổi ông cũng đã chết hụt một lần và sống lại ngay kề miệng huyệt. Sau này ông luôn tự nhủ: “Phải làm giàu, không chỉ bản thân mình giàu có mà mọi người cũng phải giàu có, vì khi mình nghèo thấy số phận hẩm hiu quá!” Có lẽ đó chính là một dấu ấn góp phần tạo nên ý trí vươn lên mạnh mẽ của ông. Từ sinh viên Y khoa thành cha đẻ ATM Khởi đầu sự nghiệp học hành tại trường Đại học Y khoa Sài Gòn. Sau đó chuyển sang học ngành Kỹ cơ khí tại Đại học Phú Thọ (Đại học tổng hợp). 1963, trong kỳ kiểm tra của một phái đoàn của Nhật nghiên cứu về trí thông minh người Việt Nam ông là người có chỉ số thông minh cao nhất. Ông được cấp học bổng sang Nhật học tại Đại học Osaka. Ông vừa đi học vừa làm thêm tại công ty Toshiba. Một phát minh bất ngờ đã đưa ông đến Mỹ. Gặp Giám đốc ngân hàng Citibank (Mỹ) trong một buổi ca nhạc do ông tổ chức. Ngay lúc đó ông nhận được một lời mời đến Citibank cùng đề nghị: “Dùng kĩ thuật để kiếm cho ngân hàng 1 tỉ khách hàng”. Ông đưa ra 20 câu hỏi buộc ông chủ của Citibank phải thừa nhận 20 cái sai của ngân hàng và từ chối lời mời làm việc. Sự nhiệt tình, thẳng thắn cùng lời cam kết sẽ ủng hộ ông “lội ngược dòng” của Tổng giám đốc đã thuyết phục ông gia nhập Citibank. Mục tiêu của ông là “bình dân hoá dịch vụ ngân hàng”.Trong thời gian này, ông đồng phát minh ra máy ATM. Đó chính là một bước tiến lớn của nhân loại trong lĩnh vực ngân hàng. Trở về Việt Nam Tháng 6/2003 trở về Việt Nam sau 40 năm để tham gia phiên họp đầu tiên về WTO ở Việt Nam, trợ giúp Seagames 22 và giúp WB làm bản báo cáo về viễn cảnh tốt đẹp của Việt Nam. Người đầu tiên tìm gặp lại là mẹ. Nỗi buồn sau 40 năm gặp lại mẹ lâm bệnh nặng. Chợt thấy mọi thứ trở nên vô nghĩa, ông biết rằng “Mẹ chỉ có một trên đời”. Từ bỏ mức lương cả triệu USD/năm, chấp nhận mất hết cổ phiếu chưa đáo hạn, ông rời Mỹ về Việt Nam để chăm sóc mẹ. Lời khuyên cho ngành ngân hàng Việt Nam Trở về Việt Nam cùng mong muốn góp công sức cho việc phát triển ngành ngân hàng, đưa ngân hàng đến từng người dân. Ông đã nhận lời làm tư vấn cho nhiều ngân hàng Việt Nam. Theo ông “ngân hàng Việt Nam nói chung có rất nhiều khiếm khuyết: không minh bạch và khó khăn về vốn và nguồn nhân lực”. Tuy vậy theo đánh giá của ông thì chúng ta cũng có nhiều lợi thế “người Việt, đất Việt, ngân hàng Việt. 83 triệu dân, 47 ngân hàng, 5 triệu tài khoản, 2,5 triệu thẻ”. Ông Đỗ Đức Cường đã tư vấn và đưa ra 4 lời khuyên cho dịch vụ ngân hàng: 1. Quần chúng hoá dịch vụ ngân hàng, biến ngân hàng thành dịch vụ của cả xã hội chứ không chỉ là câu lạc bộ của người giàu. 2. Bình dân hoá dịch vụ để cô bán cà phê, anh lái xe ôm cũng có thể giao dịch với ngân hàng. 3. Chuyên nghiệp hoá đội ngũ cán bộ. Để phục vụ tốt thì lúc nào cũng phải mỉm cười và coi người sử dụng dịch vụ là người tiêu dùng. 4. Hiện đại hoá đi từ dân dụng đến chuyên dụng. Đừng cạnh tranh kỹ thuật mà phải tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Khi được hỏi cái gì là khởi đầu cho những phát minh của ông, ông Cường trả lời: “Lúc nào tôi cũng nghĩ rằng khởi đầu của mọi tìm tòi khám phá của mình đều xuất phát từ cuộc sống. Cuộc sống khó khăn quá, cần cải thiện nó tốt hơn. Tôi tìm ra nguyên lý sống của mình là đừng xa xôi mà hãy nhìn, hãy yêu, hãy chăm sóc cuộc sống trước mắt cho thật tốt cái đã. Như thế tự nhiên thành công sẽ đến với mình”. Câu chuyện về ông Đỗ Đức Cường là câu chuyện về một con người chân chất, mộc mạc, gần gũi như chính mong muốn của ông: “Để cô bán cà phê, anh lái xe ôm cũng có thể giao dịch với ngân hàng”.
-
4/7 phần của cơ thể thuộc về linh hồn GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, nguyên viện trưởng Viện Văcxin, tác giả cuốn sách "Khoa học và vấn đề tâm linh" khẳng định, linh hồn là bất tử và tồn tại sau khi chúng ta chết. Dựa trên các quan điểm của triết học Đông Tây, kết hợp với các bí truyền cổ đại, những trải nghiệm bất khả trị của các tôn giáo, tín ngưỡng thế giới... đã khẳng định cấu tạo con người gồm 7 phần gồm: Thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần. Trong đó, chỉ có thể xác là hữu hình. 6 phần còn lại là năng lượng không đặc như thể xác. Phần nữa loãng hơn là năng lượng về linh cảm, đây là những cái xếp vào năng lượng chưa phải tế vi. Thân thể tế vi gồm: Ngoại cảm, nhân quả, trí tuệ (tài năng di truyền), linh hồn là 4 phần thuộc về vật chất mịn. Vía, linh hồn, chức năng linh cảm... là những phần sau khi chết vẫn còn, chỉ chết phần xác. Phần kia còn mãi và giữ được nhân cách của con người - linh hồn. Theo GS.TS Phan Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người, khoa học ngày càng phát triển, với nhiều phát minh quan trọng cho phép con người có thể hiểu biết về thế giới xung quanh nhiều hơn và do đó nhiều cái từ "vô hình" đã trở thành hữu hình. Chẳng hạn, cách đây trên 70 năm, các nhà khoa học đã đưa ra giả thiết về sự tồn tại của vật chất tối, chiếm 90% trong vũ trụ nhưng người ta không thấy và nắm bắt được bằng các khí cụ khoa học và người ta coi nó là "bóng ma vũ trụ". Gần đây, sự kiện Bullet Cluster - sự đụng độ giữa hai thiên hà - người ta đã quan sát được và có bằng chứng về sự tồn tại của "vật chất tối" và "vật chất tối" dần sáng tỏ trong thế giới vô hình. Có những cái chúng ta chưa nắm bắt được thì nó vô hình và đến lúc nắm bắt được sẽ trở thành hữu hình. Tương tự, mỗi con người có thể coi là một tiểu vũ trụ, trong đó có phần hữu hình và phần vô hình. Những gì chúng ta thấy được rõ ràng thì là hữu hình, còn những gì chỉ mới cảm nhận hoặc phỏng đoán, suy luận dựa trên một số quan sát gián tiếp vẫn thuộc "vô hình". Hào quang trên ngôi mộ! Cũng theo GS.TS Phan Anh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người, khi dùng một loại máy chụp ảnh đặc biệt, trong một số điều kiện nào đó, người ta chụp được con người với những vùng hào quang xung quanh. Đó là những quầng sáng nhiều màu sắc bao bọc xung quanh cơ thể. Một số quan sát về hào quang của những bệnh nhân ở phút cuối đời cho thấy, lúc này hào quang dần tách khỏi cơ thể và thoát ra ngoài khi người bệnh đã ngưng thở. Sau 49 ngày, người ta lại thấy hào quang trở lại trên ngôi mộ và sau đó rời đi luôn. Như vậy, hào quang quan sát được không phải là thứ ánh sáng phát ra từ vật chất mà nó là một phần tồn tại cùng vật chất, là phần vô hình tồn tại song song với hữu hình. Hào quang chứa đựng những thông tin gì và cùng với hào quang, còn có năng lượng vô hình nào tồn tại song song nữa? Nó có liên quan gì đến vật chất tối, năng lượng tối hay không... cho đến nay con người chưa biết hết. Nhưng qua quan sát, đúc kết và trải nghiệm thực tế cho thấy, năng lượng siêu hình chứa đựng các thông tin về con người vẫn tồn tại, vận động, chuyển hóa và có thể có tác động qua lại lên thế giới hữu hình. Có cơ sở để suy luận rằng, "hào quang" của cơ thể sống chính là "hồn", còn khi cơ thể sống không tồn tại nữa thì hào quang tách ra cùng với một phần năng lượng siêu hình thành phần vô hình thuộc về "tiểu vũ trụ". 4.800 bức thư chứng minh sự tồn tại của linh hồn GS.TS Đoàn Xuân Mượu cho biết, chứng minh sự tồn tại của linh hồn có rất nhiều nghiên cứu có cơ sở vững chắc. Đặc biệt, cuối thế kỷ XIX, BS Camille Flammarion, người Pháp đã bỏ ra 60 năm để nghiên cứu xem sau khi chết con người có còn lại gì không? Khi nghiên cứu ông đã không dùng phương pháp siêu hình như các nhà khoa học khác mà dùng phương pháp thực chứng của khoa học chính thống để nghiên cứu. Ông thu thập chứng cứ từ khắp các địa phương trong nước Pháp và từ nhiều nước trên thế giới. Các thông tin được chuyển tải trong 4.800 bức thư từ những nguồn đáng tin cậy và được kiểm chứng chặt chẽ. Các bức thư này nói lên tính đa dạng sự xuất hiện linh hồn của người quá cố bởi chính những người thân và bạn bè của họ. Từ 4.800 bức thư nhận được, BS Camille Flammarion nhận xét, những người đã chết tiếp tục sự tồn tại sau cái chết của thể xác. Họ tồn tại ở dạng vô hình mà ta không thể sờ, không thể thấy bằng mắt trong điều kiện bình thường. Sự tồn tại của họ hoàn toàn khác của chúng ta. Đôi khi họ tác động lên tâm thức của chúng ta và qua đó ta cảm nhận được sự hiện hữu của họ. Chúng ta thấy họ như khi họ còn sống, từ cách ăn mặc, cử chỉ, giao tiếp. Đó là sự giao lưu giữa linh hồn người chết và linh hồn người sống. Đây không phải là hoang tưởng mà là hiện thực. Từ linh hồn phát ra những sóng nhẹ, khi tiếp cận với người sống có sóng cùng tần số thì tạo ra hình ảnh trong não bộ của người sống, khi ấy linh hồn vô hình, trở lên hữu hình. Thúy Nga
-
Linh hồn nặng 21g? Vốn luôn nung nấu ý định thu thập bằng chứng về linh hồn, năm 1901, Duncan MacDougall, một bác sĩ phẫu thuật ở bang Massachusetts (Mỹ) đã thuyết phục được một số bệnh nhân gần đất xa trời cho phép ông cân họ trong lúc lâm chung bằng một chiếc cân cải tiến đặc biệt. Trường hợp đầu tiên là một người mắc bệnh lao. Từ lúc bắt đầu hấp hối, người bệnh đã được đặt lên cân. Theo ghi chép của MacDougall: "Ngay khi sự sống vừa ngừng lại thì đĩa cân phía bên không có người bệnh bỗng nhiên trĩu xuống, giống như có thứ gì đó vừa bị lấy khỏi thi thể". Nhìn trên mặt cân, vị bác sĩ thấy người quá cố đã nhẹ đi 21g. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Duncan MacDougall, người đã thử dùng cân để xác định sự tồn tại của linh hồn Hơn một năm sau đó, MacDougall tiếp tục tiến hành thí nghiệm với 5 bệnh nhân khác. Ba người trong số này cũng xảy ra hiện tượng giảm trọng lượng đột ngột từ 11 - 43g khi vừa trút hơi thở cuối cùng. Một trường hợp phải ngừng thí nghiệm vào phút cuối và một trường hợp không thấy cân nặng thay đổi. MacDougall cho rằng, trường hợp này là do người bệnh được đưa lên cân quá muộn. Còn các trường hợp khác, trọng lượng giảm đi do linh hồn thoát ra khỏi cơ thể. MacDougall lặp lại thí nghiệm tương tự với 15 con chó, nhưng không ghi nhận trường hợp nào giảm trọng lượng khi chết. Kết quả này càng củng cố lòng tin của ông, rằng đây là hiện tượng chỉ xảy ra với con người, vì chúng ta có linh hồn, còn các loài động vật khác thì không. Phát hiện của MacDougall được đăng tải trên Thời báo New York và một số tạp chí chuyên ngành uy tín. Nó trở thành đề tài cho một số tác phẩm văn học và một bộ phim. Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn tin rằng, linh hồn của chúng ta nặng 21g. Tuy nhiên, đa số các nhà nghiên cứu đều nhận định rằng phát hiện này là vô nghĩa. Quy mô nghiên cứu quá nhỏ, chỉ với 6 bệnh nhân nên kết quả không thuyết phục. Hơn nữa, với trình độ y học khi đó, việc xác định đúng thời điểm người bệnh thực sự lìa đời rất khó chính xác. Chất lượng của cân cũng có thể không đáng tin cậy. Chiếc cân mà MacDougall dùng để cân người bệnh có độ chính xác dao động trong khoảng 5g. Trong khi chiếc cân mà ông sử dụng trong thí nghiệm với chó sau này chính xác tới 1,75g. Có lẽ vì thế mà kết quả 2 thí nghiệm khác nhau. Giữa hai thế giới Quan sát thời điểm một người lìa đời để tìm dấu hiệu của linh hồn cũng là ý tưởng mà nhiều nhà khoa học khác quan tâm. Trong một nghiên cứu công bố năm 2009, TS Lakhmir S. Chawla, Đại học George Washington (Mỹ) đã theo dõi 7 trường hợp bệnh nhân giai đoạn cuối khi bác sĩ ngừng các phương tiện trợ sinh (thuốc, máy thở) để họ ra đi nhẹ nhàng. Chawla quan sát chỉ số BIS (chỉ số lưỡng phổ, có giá trị từ 0 - 100, tương ứng với từng mức độ từ hôn mê sâu đến tỉnh táo hoàn toàn). Khi chưa ngừng thiết bị trợ sinh, BIS ở mức xấp xỉ 40 hoặc cao hơn. Khi ngừng thiết bị, BIS giảm xuống dưới 20 trong vài phút và tim ngừng đập. Nhưng điều bất ngờ là sau đó, chỉ số BIS ở cả 7 bệnh nhân chết tim đều tăng vọt lên mức từ 60 - 80. Thời gian này kéo dài từ 1 - 20 phút rồi đột ngột giảm và về gần mức 0. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Linh hồn có thực sự tồn tại? Ảnh minh họa: IE Một nghiên cứu khác của David Auyoung (Trung tâm Y khoa Virginia Mason, Mỹ) mô tả 3 bệnh nhân tổn thương não. Trước khi ngừng thiết bị trợ sinh, BIS của cả 3 người ở mức xấp xỉ 40, trong đó có một người BIS gần bằng 0. Sau khi rút thiết bị, BIS tăng vọt lên gần 80 và ở mức này trong 30 - 90 giây, sau đó giảm thẳng về gần 0. Bệnh nhân được tuyên bố là đã chết. Những kết quả nghiên cứu này khiến giới khoa học rất băn khoăn. Điều bí ẩn là tại sao hoạt động điện não có thể bùng nổ sau thời điểm rút thiết bị trợ sinh, khi mà các mô não đã chết về mặt chuyển hóa, không còn nhận được máu và oxy. Một số quan điểm cho rằng, nguyên nhân là do mức kali ngoại bào dư thừa dẫn đến hiện tượng này. Quan điểm khác nghi ngờ nguyên nhân là hiện tượng chết nơ ron do canxi. Tuy nhiên, mọi cách giải thích đến nay đều chưa làm thỏa mãn các nhà nghiên cứu. Trong giới nghiên cứu tâm linh từ lâu đã tồn tại một giả thuyết cho rằng, trải nghiệm cận tử hay trạng thái ảo thân (cảm thấy đang bay lơ lửng trên cơ thể của chính mình, gặp người thân đã khuất hay nhìn thấy ánh sáng phía cuối đường hầm) xảy ra khi linh hồn rời khỏi thể xác. Hiện tượng bùng nổ hoạt động điện não trước khi chết càng khiến một số người tin vào giả thuyết này cũng như sự tồn tại của linh hồn. Vấn đề là nếu linh hồn thực sự có trong mỗi con người thì nó tồn tại dưới dạng nào và sau khi chúng ta chết, linh hồn sẽ đi về đâu? Chụp được ảnh linh hồn? Kết quả thí nghiệm của MacDougall đã thu hút một số nhà nghiên cứu tham gia vào cuộc tìm kiếm linh hồn. Năm 1910, Walter Kilner, kỹ thuật viên tại Bệnh viện St Thomas’s (Anh) tuyên bố đã chế tạo được một bộ kính lọc đặc biệt, có thể cho phép quan sát được trường năng lượng của con người. Patrick O’Donnell, một chuyên gia X-quang tại Chicago (Mỹ) đã sử dụng thiết bị này để quan sát một người sắp chết. Khi bác sĩ tuyên bố bệnh nhân qua đời, O’Donnell thấy trường năng lượng tỏa ra xung quanh thi thể như một vầng sáng và biến mất ngay sau đó. Tiếp tục quan sát thi thể cũng không phát hiện năng lượng nữa. Hương Tiên (theo Huffington Post, Fortean Times, Discover)
-
Bên ngoài bộ não Theo GS Bruce Greyson, trưởng khoa Nghiên cứu tri giác (DOPS) thuộc Đại học Hệ thống Y tế Virginia (Mỹ), trải nghiệm cận tử xảy ra ở 10% bệnh nhân ngừng tim. Khi tỉnh lại, người bệnh có thể mô tả chính xác mọi hoạt động xung quanh khi họ bất tỉnh. Điều đáng nói là trong nhiều trường hợp trải nghiệm cận tử, điện não đồ và các bằng chứng y khoa khác cho thấy, não bệnh nhân không còn dấu hiệu hoạt động khi hiện tượng này diễn ra. Ông Pim van Lommel, chuyên gia về trải nghiệm cận tử tại Bệnh viện Rijnstate (Hà Lan) đồng tình về vấn đề này. Ông cho rằng, khi ở trạng thái cận tử, "người bệnh không những có ý thức, mà ý thức của họ còn mở rộng hơn bao giờ hết. Họ có thể suy nghĩ hết sức rõ ràng, hồi tưởng chi tiết về thời thơ ấu và cảm thấy sự liên hệ chặt chẽ với tất cả mọi người, mọi vật xung quanh. Trong khi não họ hoàn toàn không có dấu hiệu hoạt động". file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Nếu linh hồn tồn tại sau cái chết, nó có thể được một cơ thể khác tiếp nhận. Theo GS Peter Fenwick, Viện Tâm thần học thuộc Đại học Kings (Anh): "Nếu có thể chứng minh rằng con người vẫn tiếp nhận thông tin khi họ bất tỉnh và thoát xác thì đó là bằng chứng không thể tranh cãi về việc ý thức tồn tại tách rời bộ não". Có lẽ, ý tưởng về linh hồn cũng xuất phát từ hoàn cảnh này. Con người từ thời cổ xưa, khi trải qua trạng thái ảo thân, cho rằng khi đó phần tinh thần rời khỏi phần thể xác. Từ đó, họ bắt đầu tin vào sự tồn tại bên ngoài cơ thể. Linh hồn ra đời từ đâu? Bằng chứng khoa học đáng ngạc nhiên nhất về linh hồn xuất phát từ lĩnh vực cơ học lượng tử, hay nói cụ thể hơn là từ những nghiên cứu về các hiện tượng hạ nguyên tử tạo ra ý thức. Quan điểm truyền thống cho rằng, ý thức của chúng ta được hình thành từ mạng lưới hàng tỷ nơron. Nhưng hai giáo sư Stuart Hameroff (Đại học Arizona, Mỹ - ảnh) và Roger Penrose (Đại học Oxford, Anh) đã xây dựng một lý thuyết, theo đó, ý thức còn là sản phẩm của quá trình tính toán lượng tử diễn ra ở vi ống, một dạng cấu trúc siêu nhỏ của tế bào não. Trước đây, nhiều người cho rằng một cơ chế như vậy không thể tồn tại, vì các máy tính lượng tử được tạo ra ban đầu chỉ có thể hoạt động ở môi trường vô cùng lạnh chứ không phải ở mức nhiệt độ cao như ở não. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong 5 năm gần đây cho thấy, cơ học lượng tử tham gia vào khá nhiều quá trình sinh học không lạnh, trong đó có quang hợp. Một công trình của Anirban Bandyopadhyay (Viện Khoa học Vật liệu Quốc gia Nhật Bản) còn hé mở khả năng các bit thông tin lượng tử có thể gắn kết trong môi trường nhiệt độ cao của các vi ống đơn lẻ ở tế bào. Trạng thái gắn kết giữa các vi ống được tạo ra nhờ năng lượng sinh học. Khi quá trình cung cấp máu và oxy ngừng lại, sự gắn kết không còn, nhưng thông tin lượng tử không mất đi. Nó có thể phát tán vào vũ trụ, tồn tại và tiếp tục hoạt động dưới một hình thức nào đó. Nếu bệnh nhân được cứu sống, thông tin sẽ được não tiếp nhận trở lại. Có lẽ vì thế mà những người từng có trải nghiệm cận tử có thể nhận biết thế giới xung quanh khi họ bất tỉnh. Nếu như giả thuyết này là đúng, thì câu hỏi đặt ra là: Quá trình lượng tử tạo thành ý thức xuất hiện từ đâu? Câu trả lời, theo GS Penrose và một số nhà khoa học, là từ vụ nổ lớn Big Bang. Theo quan điểm này, mọi dạng ý thức đều được tạo ra cùng thời điểm với vũ trụ. Và nếu linh hồn có tồn tại thì nó cũng gắn với khởi nguồn của vũ trụ. Sự đầu thai của linh hồn Ý tưởng của GS Penrose ám chỉ đến một cơ chế để ý thức tiếp tục tồn tại sau khi thân thể con người đã chết. Nhưng nó sẽ đi về đâu? Theo GS Hameroff: "Nếu người bệnh không được cứu sống, ý thức sẽ đi vào vũ trụ và biết đâu có thể một ngày nào đó sẽ được một cơ thể khác tiếp nhận trở lại". DOPS hiện đang lưu giữ khoảng 1.400 hồ sơ về các trường hợp được cho là thuộc dạng này. Phần lớn đó đều là những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp. Các em có thể kể vanh vách trước đây mình là ai, sống ở đâu, làm gì, trông như thế nào và nhiều chi tiết khác. Ian Stevenson, một trong những chuyên gia tâm thần học hàng đầu nước Mỹ, người sáng lập DOPS bắt đầu thu thập những câu chuyện về tiền kiếp từ năm 1960. Trong số các tài liệu ông ghi nhận được, có nhiều trường hợp một đứa trẻ được sinh ra có bớt ở đúng vị trí vết thương mà các em đã bị trong kiếp trước. Một số luôn bị ám ảnh sợ những sự vật, hiện tượng đã gây ra cái chết trong tiền kiếp. Stevenson và các đồng nghiệp của ông chưa bao giờ khẳng định rằng hiện tượng đầu thai thực sự xảy ra. Họ chỉ cố gắng thu thập các bằng chứng về nó. Trong khoa học, những bằng chứng này có thể chẳng bao giờ đủ để khẳng định linh hồn con người tồn tại sau cái chết về thân xác và sau đó tái sinh trở lại trong một cơ thể mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể khẳng định rằng không có linh hồn. Hương Tiên (Theo Discover và Popular Mechanics)
-
Tính cách người Sài Gòn Thực ra thì ở đâu cũng có người này người kia, nhưng mỗi miền đất thường sẽ có một số nét chung nhất định mà người ta bắt gặp. Sẽ là rất không công bằng nếu như vơ đũa cả nắm. Tuy nhiên biết thêm một số tính cách đặc trưng của một miền đất nào đó cũng rất hay, phải không? Lang thang cà-phê Sài Gòn một lúc thì phát hiện ra bài viết này. Sống ở miền Nam khá lâu nên tôi cảm nhận được những gì bài viết nói là khá chính xác. Mà nói đúng hơn thì tính cách người Sài gòn cũng hòa chung trong tính cách người dân Nam bộ. Mộc mạc và gần gũi. Tính cách người Sài gòn Tính cách người SG cũng khó mà không hiểu được, vì họ thẳng tính, bộc trực, trong bụng nghĩ thế nào thì lời nói như vậy, và họ thích bộc bạch suy nghĩ của mình với bạn bè. SG mưa nắng thất thường, nên tính tình của người SG cũng thất thường. SG mưa đó, rồi nắng đó, người SG cũng vậy, vui đó, rồi buồn đó. Nếu bạn yêu một cô gái SG, bạn nên chuẩn bị tâm lý. Ai mà biết được, khi bạn đặt một nụ hôn của mình lên gương mặt đáng yêu đó, bạn sẽ nhận được một gương mặt lạnh lùng đáng sợ, hay bạn sẽ nhận được một nụ cười làm mát dịu cả SG đang mùa nóng nực này. Còn nếu bạn yêu một anh chàng SG, thì cũng nên chuẩn bị tâm lý, anh ta vừa cãi lộn với bạn một trận kinh hoàng xong, quay ngoắt đi một mạch khỏi nhà bạn, thì 10 phút sau anh ta quay ngoắt lại, rủ em ơi rảnh không, tụi mình đi chơi đi, tỉnh bơ. Nhưng SG mưa hay nắng thì cũng có mùa. SG không có đủ 4 mùa như Hà Nội, chỉ có 2 mùa mưa nắng. Tôi thích cái thời tiết ở Hà Nội, vì ở đó, tôi được thưởng thức thế nào là cái nóng oi người, thế nào là cái rét nàng Bân, gió mùa đông bắc, chứ ở SG, tôi mặc một bộ đồ cả năm cũng thấy thích hợp, chẳng cần mua đồ đông hay xuân gì cả. Người SG cũng vậy, tính tình không phức tạp, thậm chí, bạn có thể đoán trước tâm lý của họ, nếu bạn quen họ lâu ngày. Tôi có một cô bạn người HN, cô này chỉ nói chuyện với tôi chưa đến 5 lần, thế mà cô ấy nhận xét tôi chính xác, chẳng biết có phải con gái HN quá nhạy cảm, hay con trai SG quá đơn giản. Người SG suy nghĩ đơn giản, nói chuyện cũng đơn giản, không văn hoa, không rào đón, không ẩn ý, không mỉa mai châm biếm sâu xa. Tính tình của người SG rất thoáng, nhưng không dễ dãi. Nên người SG đi đâu cũng lập thân được. Mà người SG cũng sẵn sàng đón bạn bè khắp cả nước đến SG lập thân, cùng chung tay xây dựng một thành phố phát triển, phồn thịnh và năng động nhất cả nước như ngày hôm nay. “Hợp tác phát triển đôi bên cùng có lợi” là quan điểm chung của người SG hôm nay, cho dù đối tác là người mình ưa hay không ưa. SG không phải là thiên đường như nhiều người vẫn nghĩ. Ở SG bạn dễ bị shock, ngay cả tôi, trước phong cách suy nghĩ và làm việc của người SG. SG không bao giờ ngủ, ngay cả trong khi ngủ SG cũng vẫn thao thức về những việc của ngày mai. Người SG có thể làm việc trong bất kỳ môi trường nào. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, cafe, massage, câu cá, giải trí, bất cứ ở đâu, bạn cũng có thể bị người SG kéo bạn vào cuộc làm ăn của họ. Người SG bây giờ, làm việc đến 12h trưa, nghỉ ngơi trò chuyện một chút đến 1 giờ rồi bắt đầu làm việc tiếp là chuyện bình thường, mà trong cả lúc nghĩ ngơi đó, họ cũng có thể “tranh thủ” với một đối tác nào đó. Ở SG, nếu bạn không năng động, không thực sự giỏi, thì bạn sẽ thấy rất khó khăn để kiếm sống, còn nếu bạn là người có tài, thì SG luôn mong mỏi sự đóng góp của bạn. Đó là lý do, ngày càng nhiều người từ những địa phương khác đổ xô đến SG làm ăn, công chức, nhân viên, ca sĩ, nhạc sĩ, những người lao động tay chân đã chọn SG làm ngôi nhà thứ 2 của họ. Thậm chí, họ chỉ đến SG kiếm tiền thôi, rồi về quê nhà lại, SG cũng vẫn chấp nhận, không định kiến, không cục bộ, lúc nào cũng mở rộng vòng tay, như bản tính của người SG, đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại. Người SG không giận ai lâu bao giờ, trái lại, người SG rất dễ tha thứ. Nếu bạn chọc giận cô bạn gái SG của mình, bạn hãy chịu khó dỗ ngọt vài câu, cô ấy sẽ nguôi cơn giận ngay. Con trai SG cũng vậy, ít khi nào để bụng chuyện gì. Bực mình là cứ thế oang oang, ầm ĩ một lúc, hết, là hết. Người SG không mời lơi. Người SG thảo ăn, tôi nghe mẹ tôi nói vậy. Mời là mời, khách không ăn là giận, chứ người miền khác, mời mà khách ngồi vào ăn là không thích, chỉ mời thế thôi. Người SG uống cũng vậy, uống là uống thiệt tình, uống khi nào chủ xỉn khách xỉn mới về, chứ không có bỏ cuộc giữa chừng. Tôi có khá nhiều cơ hội gặp gỡ và tiếp xúc với bạn bè nhiều nơi, tôi thấy chỉ có người SG là làm biếng. Mà công nhận, SG làm biếng thật. Nhưng khi họ siêng, họ làm việc rất tích cực và có hiệu quả. Bạn bè tôi nhận xét người SG hiền, dễ tin người, tôi thấy đúng. Người SG không biết ăn miếng trả miếng, người SG không thù dai. Giận thì giận, tức thì tức, nhưng mà hết tức hết giận xong thì huề, hìhì, huề là huề, chứ không phải huề và vẫn còn quê. Người SG sống đơn giản, ít suy nghĩ, ít để bụng, hay chia sẻ và luôn dang tay chào đón những điều mới mẻ đến với mình. Cũng như cái thời tiết của SG vậy, mưa là mưa, nắng là nắng, lâu lâu thì vừa mưa vừa nắng, nhưng căn bản, thì đất SG quanh năm cũng chỉ có nắng, gió và mưa mà thôi… khá dễ hiểu phải không bạn…
-
Theo số liệu chung thì nguồn thu thuế của tỉnh Quảng Nam năm 2011 là khoảng 2.800 tỉ Xây tượng đài hết có 430 tỉ, chỉ chiếm có khoảng 15% nguồn thu thôi mà.
-
yeuphunu xin góp thêm với UBND tỉnh Quảng nam 1.000.000 đ, để xây dựng tượng Mẹ Việt Nam to lớn nhất thế giới luôn.
-
Lấy Việt Nam làm trung tâm, với câu hỏi vệ tinh của Mỹ sẽ rơi ở đâu Quẻ: Tử - Đại An Dự đoán: Vệ tinh sẽ rơi về hướng tây của Việt Nam ở vùng đất rộng lớn ==> có thể là rơi vào Ấn Độ.
-
Theo luật cũ thì chỉ cần tham nhũng tiền của ngân sách (tiền thuế của nhân dân) 500tr là dựa cột ==> đòm Các bác sếp bay giờ lỗ hàng ngàn tỉ thì sao nhỉ ? Đó cũng là tiền thuế mà ???
-
Khủng bố bằng núi đôi Chẳng phải cứ Bin La đen mới khủng bố, nếu các quí cô này ra ngoài, chắc đàn ông cũng chết đứng, xe cộ ùn tắc, giao thông tê liệt, cảnh sát cũng thẫn thờ bỏ lơ nhiệm vụ, để mặc bọn khủng bố làm sao thì làm. Chúng ta đã từng nghe vào hồi năm 2010, tại Anh, một quí cô suýt làm chết ngộp tình nhân (vì núi đôi nặng tới 13 kg đè lên chàng, khiến chàng nằm bất động, tưởng đã chết…). Các quí ông cần biết trên thế giới có rất nhiều kẻ khủng bố, dưới nhiều danh tính khác nhau, cần nhận dạng để “đề phòng, tránh, “kẻo mang họa” vào thân…. Bí quyết nào để quí cô có núi đôi khủng bố, chắc phải qua một đợt huấn luyện đặc biệt của đội SEAL 6 tận bên MỸ đấy… Ui chao ! Nữ cảnh sát “khủng bố” đàn ông này, nếu đi bắt tội phạm sẽ rất dễ bắt được, vì tội phạm sẽ ngây người ra để ngắm và tiếc rẻ, không muốn chạy nữa. Vì hiếm lắm mới gặp, chứ dễ gì thấy đâu…Được chạm tay nàng là mê hồn… Ngộp thở chưa , kakaka .
-
Chị Hiền hiện đang "nuôi" khoảng 400 con, còn họa sĩ Thành Chương thì xếp không biết bao nhiêu chó đá ở cái “biệt phủ” rộng mênh mông của mình trên Sóc Sơn. Từ gốc cây, cột đá, từ mảnh vườn, góc sân, cửa lớn, cửa bé đều có một vài con chó đá sứt mẻ, lên vết rạn thời gian ngồi chễm chệ. Ngôi nhà sàn cổ lợp cọ, tường trát đất trộn rơm của họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức nằm sâu trong một con ngõ nhỏ ở đường Bưởi. Ngoài cổng xếp một hàng tượng phật bằng sắt hoen gỉ, trong cổng gần 100 con chó đá cổ với những hình thù rất sinh động ngồi chỗm chệ theo hàng lối. Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức và những chú chó đá giản dị. Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức bảo, đàn chó đá có nhiệm vụ... giữ nhà. Ối người khi nghe nói vậy thì bảo anh dở hơi, hâm nặng. Thế nhưng, với giới họa sĩ thì họ biết rằng, Nguyễn Mạnh Đức là một người hiểu biết cực kỳ sâu sắc về văn hóa "nuôi" và thờ chó đá của người Việt. Nguyễn Mạnh Đức không những là tay buôn nhà sàn nổi tiếng miền Bắc mà còn là tay sưu tầm chó đá cổ số một của nước ta. Cố nhà văn Kim Lân (cha của họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức) hồi trẻ luôn "nuôi" mấy con chó đá, con thì gác cổng, con gác cửa nhà, thậm chí gác cả phòng ngủ. Mấy anh chị em nhà họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức mê chó đá từ khi còn bé tí tẹo cũng bởi vì thế. Những chú chó đá xếp đầy vườn nhà họa sĩ Đức. Bố mải viết văn, viết báo, mẹ đi làm, mấy chị em chỉ biết chơi đùa với chó đá. Thậm chí còn cưỡi chó đá đến nhẵn bóng cả lưng nó. Chính vì hình ảnh con chó đá lặn vào tâm hồn tuổi thơ nên anh có ấn tượng rất sâu về nó. Hồi về các vùng quê sáng tác, thấy người nông dân đem chó đá quẳng ra bờ sông, bờ ruộng, vứt chỏng chơ ngoài vườn, anh thấy thương cho nó, nên bỏ dăm ba đồng ra mua rồi khuân về bày kín vườn. Đám buôn đồng nát thấy lão họa sĩ này thích sưu tầm chó đá nên hễ thấy người dân bỏ đi là nhặt về đem bán cho anh. Giá mỗi con chỉ dăm chục ngàn. Gặp con chó đá đẹp, đám đồng nát gạ gia chủ bán bằng được dù với giá cao. Tất nhiên, Đức "nhà sàn" thấy chó đá đẹp, cổ thì dù có bán nhà cũng phải mua bằng được, chứ không đành lòng để người ta đem... nung vôi. Cứ cần mẫn sưu tầm như vậy, nên có thời điểm khắp trong nhà ngoài ngõ, sân vườn nhà họa sĩ Đức chỉ thấy toàn... chó đá. Giới họa sĩ là những người thích "nuôi" chó đá nhất, và nếu cần thì chỉ việc "alô" cho Đức "nhà sàn" là muốn bao nhiêu cũng có. Còn nhớ, năm 2000, họa sĩ Nguyễn Minh Thành mở triển lãm có tên "Bữa tiệc", đã phải mượn 300 con chó đá của Đức "nhà sàn". Triển lãm này gây tiếng vang khá lớn vì lạ mắt, độc đáo. Triển lãm đã dựng lại một nền văn hóa "nuôi" chó đá cổ xưa của người Việt. Hàng trăm con chó đá với những khuôn mặt biểu cảm khác nhau cùng chung vui trong một bữa tiệc. Người xưa thường đẽo chó đá và đặt trước cửa nhà. Sau triển lãm ấy, Nguyễn Minh Thành thì nổi tiếng, còn Nguyễn Mạnh Đức thì hốt bạc. Bởi vì, triển lãm kết thúc, số chó đá ấy đã bán hết veo. Mỗi con bán được vài triệu, con đẹp thì bán được với giá vài chục triệu, bằng mảnh đất ven nội thành Hà Nội thời bấy giờ. Cũng từ đấy, Đức "nhà sàn" bận tối mặt, tối mũi từ sáng đến đêm, lang thang hết miền quê này đến miền quê khác, rồi tạo dựng cả một đường dây mua bán đồng nát chuyên thu mua chó đá của người dân khắp vùng Bắc Bộ. Ai cần bao nhiêu chó đá cũng có, từ con cổ đến con mới tinh, từ con giống y hệt đến con thô mộc, từ con có già vài chục ngàn đến con có giá vài chục triệu, Đức "nhà sàn" cũng đáp ứng được tuốt. Chú chó đá trông coi phủ Thành Chương từ trên cao. Số lượng chó đá anh sưu tầm rồi bán cho anh em họa sĩ, cho các nhà doanh nghiệp, cho những người thích "nuôi" cho đá phải đến vài ngàn con. Tuy nhiên, hầu hết người ta chỉ mua một hoặc hai con để chôn trước cửa nhà, trước cửa cơ quan, còn đại gia đình nhà họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, gồm ông anh họa sĩ Thành Chương và bà chị - họa sĩ Nguyễn Thị Hiền thì mỗi người "nuôi" đến vài trăm con trong nhà. Được biết, chị Hiền hiện đang "nuôi" khoảng 400 con, còn họa sĩ Thành Chương thì xếp không biết bao nhiêu chó đá ở cái “biệt phủ” rộng mênh mông của mình trên Sóc Sơn. Từ gốc cây, cột đá, từ mảnh vườn, góc sân, cửa lớn, cửa bé đều có một vài con chó đá sứt mẻ, lên vết rạn thời gian ngồi chễm chệ. Thậm chí, trước miếu thờ Thiên, tôi đếm đến 30 con, ngồi gác cổng, với đủ vẻ mặt khác nhau, con mếu máo, con nghệt mặt, con xí xớn, con cười toe toét rất sinh động. Miếu thờ Thiên ở Biệt phủ Thành Chương có tới mấy chục chú chó đá với đủ các vẻ mặt khác nhau. theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, lịch sử của nước ta là chiến tranh, giặc dã liên miên, rồi người chết vì đói kém, bệnh tật, vì oan nghiệt... do vậy con người luôn sống trong hoang mang, lo sợ. Để có được cảm giác an tâm thì họ nuôi con chó để nó giữ nhà. Nhưng con chó bình thường thì chỉ coi giữ được phần dương, còn muốn canh giữ phần âm thì phải "nuôi" chó đá. Do vậy, người ta đẽo một con chó đá và chôn trước cổng hoặc cửa nhà. Người miền Bắc thường có tính lo toan nhiều nên mới "nuôi" chó đá, còn người miền Nam thì không có phong tục này. Xưa kia, ở hầu hết các công trình như cổng làng, cổng chùa, đình, thậm chí cả đầu những chiếc cầu, cống… các cụ già đều chôn chó đá để trấn trạch. Nhiệm vụ của chó đá là xua đuổi tà ma, yêu quái vào nhà quấy nhiễu, xua đuổi bệnh tật, mang đến tài lộc cho gia chủ. Chính vì nó có ý nghĩa như vậy nên một số người am hiểu văn hóa cổ của dân tộc thường tặng nhau con chó đá với ý nghĩa mang lại nhiều tài lộc. Một số doanh nghiệp mua chó đá của Nguyễn Mạnh Đức để bày biện trong những ngày khai trương, hoặc chôn nó ở trước cổng cơ quan. Con chó đá không những mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc mà nó còn có ý nghĩa về mặt thẩm mỹ. Chính vì vậy, giới kiến trúc và giới họa sĩ rất mê chó đá – con vật giản dị, mang đậm hồn quê, chứ không phải sư tử hay rồng phượng. Có con chó đá bày biện trong nhà, ngoài vườn, kiến trúc ngôi nhà sẽ trở nên hài hòa và mang những nét văn hóa độc đáo. Các đại gia bây giờ thích chơi sư tử, nghê hoặc rồng đá để thể hiện sự giàu có, quyền lực. Ngày xưa, nhìn vào con chó đá ngồi ở cổng là người ta có thể nhận biết gia đình đó là giàu có, sang hèn ra sao. Những nhà giàu, có thế lực, am hiểu phong tục thường thuê thợ khéo đục chó đá to lớn, giống chó thật, cổ đeo cả chuông, khánh. Những trọc phú thì thường chơi chó gốm, đẹp, to, dữ dằn, bệ vệ, thể hiện sự giàu có về vật chất. Đức "nhà sàn" cũng như đại gia đình anh thì chỉ thích loại chó đá mà dân chúng "nuôi". Loại chó đá này chỉ mang dáng dấp của con chó chứ không thật giống. Để làm ra nó, người ta không cần có lý thuyết, mô hình gì, chỉ cần vài đường đục đẽo đơn giản cho ra hình dáng. Khi xây nhà, người ta thường tự đục đẽo lấy, do vậy, mỗi con chó đá mang một dáng dấp, hình dạng khác nhau. Người đẽo chó đá có tính cách như thế nào thì nó biểu hiện ra con chó đá như vậy. Mỗi gương mặt con chó đá có một đời sống khác nhau rất sinh động: con bệ vệ, oai phong, con tham ăn, tham uống, con yếu đuối, hiền lành, con dữ dằn, ma mãnh, con lo âu, sợ hãi, con vui vẻ, hoan hỉ... Những con chó đá bình dân này rất tự nhiên, không theo quy ước gì và do vậy nó mang tính cách điệu rất cao. Chó đá gần gũi, đơn giản, gắn với đời thực chứ không thần thánh hóa như những con nghê đá, sư tử đá, rồng đá thường thấy trưng bày ở nhà giàu ngày nay. (Theo VTC News)
-
Trận bóng lạ: Thua cuộc phải cởi đồ Ngày 10/9 tại Dunedin (New Zealand) đã diễn ra một trận bóng bầu dục vô cùng đặc biệt. Vận động viên tham gia cuộc chơi bao gồm cả nam và nữ, lứa tuổi khác nhau. Điều đặc biệt hơn nữa, cánh mày râu phải ‘ra trận’ trong trạng thái không mảnh vải che thân còn nữ giới cũng ‘mát mẻ’ với trang phục ‘kiệm vải’. Theo luật chơi truyền thống, mỗi khi đội nữ thua một bàn thì 1 vận động viên nữ lại phải cởi bỏ một món đồ trên người... Nếu trận “thua đậm”, các cô gái thậm chí sẽ phải khỏa thân, cùng đội bạn tranh cướp bóng. Mặc dù quy định khác thường và hết sức lập dị nhưng cuộc thi này vẫn thu hút được rất đông bạn trẻ tham dự hàng năm. Năm nay, đội bóng nam Blacks của Dunedin, New Zealand và đội nữ đến từ Tây Ban Nha tên gọi Conqueror đã có một trận cầu “nẩy lửa” hấp dẫn. Bất chấp sức mạnh và sự táo bạo của các chàng trai, những thiếu nữ trẻ mạnh dạn “lăn xả” tranh bóng và khẳng định năng lực của mình bằng sự khéo léo phối hợp nhịp nhàng. Một số hình ảnh trong trận thi đấu đặc biệt này: Nam khỏa thân, nữ mặc đồ "mát mẻ" tham gia trận đấu. Cô gái ở ảnh dưới đã phải lột bỏ áo ngoài sau bàn thua đầu tiên của đội minh Các vận động viên 'lăn xả' tranh cướp bóng Đội bóng nam và nữ thi đấu bóng bầu dục Mỗi khi đội nữ thua 1 bàn thì một vận động viên nữ lại phải cởi bỏ 1 món đồ trên người =========================================================================================== Ước gì mình tham gia nhỉ
-
Theo tôi, thì đây là vây cá mà thôi Phải nói là con cá này có vây dài Còn cánh thì phải (có thể) bay được và sống trên cạn các bạn china sướng quá, tự nhận là cánh thôi
-
Vụ Bảo Sơn thâu tóm Bảo Long: Nổi giông khi 'núi' đè 'rồng' Tập đoàn Bảo Long mới đây đã có tờ trình gửi UBND thành phố Hà Nội và các cơ quan chức năng về việc xin “cứu xét để được tiếp tục hoạt động” sau khi đã tiến hành bán cổ phần cho tập đoàn Bảo Sơn. Trong tờ trình của mình, ông Nguyễn Hữu Khai, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Y dược Bảo Long cho biết trong quá trình hoạt động, do khó khăn tài chính nên đã phải kêu gọi đầu tư bên ngoài. Ngày 12/2/2011, ông Nguyễn Trường Sơn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư - Xây dựng và Du lịch Bảo Sơn đã tới bàn bạc và ký biên bản ghi nhớ hợp tác đầu tư. Cụ thể, phía Bảo Sơn cam kết đầu tư vốn để nâng cấp bệnh viện đa khoa Bảo Long thành bệnh viện tiên tiến ngang tầm quốc tế; nâng cấp xưởng sản xuất đông dược Bảo Long đạt tiêu chuẩn quốc tế GMP và đưa Trường Phổ thông Võ thuật Bảo Long thành trường phổ thông quốc tế. Ngày 3/3/2011, hai bên đã đi đến ký kết “Hợp đồng chuyển nhượng vốn cổ phần và tài sản doanh nghiệp cùng bản quyền thương hiệu sản phẩm”. Theo hợp đồng này, Bảo Long phải chuyển nhượng cho Bảo Sơn 100% vốn cổ phần của các cổ đông và phần vốn góp bổ sung của các cổ đông với giá trị sinh lời tính đến ngày chuyển nhượng cùng toàn bộ diện tích đất, tài sản xây dựng trên đất, bản quyền thương hiệu sản phẩm của Công ty Cổ phần Tập đoàn Y dược Bảo Long; Công ty TNHH Bệnh viện đa khoa tư nhân Bảo Long và Trường Phổ thông Võ thuật Bảo Long, với tổng giá trị chuyển nhượng là 227,5 tỷ đồng. Phía Bảo Long cho rằng Bảo Sơn hiện đã làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ cổ phẩn, thay tên gọi của bệnh viện đa khoa Bảo Long thành bệnh viện đa khoa Bảo Sơn…, nhưng chưa thanh toán hết tiền và không thực hiện cam kết kinh doanh. “Ông Nguyễn Trường Sơn hứa sau đó sẽ chuyển tiền trả cho các thành viên Bảo Long để tất toán hết công nợ. Chúng tôi đã ký, nhưng đến nay ông Sơn vẫn chưa hề trả đồng nào. Theo hợp đồng chuyển nhượng tài sản và cổ phần, ông Sơn còn phải trả chúng tôi hàng trăm tỷ đồng…”, tờ trình của ông Nguyễn Hữu Khai viết. Tuy nhiên, theo phản hồi mới nhất từ phía Bảo Sơn, doanh nghiệp này đã thanh toán 227 tỷ đồng cho Bảo Long, nhưng Bảo Long không đồng tình vì cho rằng số tiền này mới chỉ là giá trị toàn bộ diện tích đất và giá trị công trình xây dựng trên đất, trong khi các khoản còn lại như: vốn cổ phần của các cổ đông, phần vốn góp bổ sung của các cổ đông, hạ tầng kỹ thuật, vườn hoa cây cảnh và thương hiệu của 3 đơn vị trên chưa được tính. Chưa rõ UBND thành phố Hà Nội và các sở ngành chức năng sẽ giải quyết thế nào đối với tờ trình này của ông Nguyễn Hữu Khai. Tuy nhiên, trên góc độ kinh tế, có thể thấy đây là một vụ thâu tóm mà các bên chưa thực sự thống nhất được một cách trọn vẹn các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, dẫn đến các tranh chấp không đáng có. ============================================================================================== Theo thông tin trên thì người đọc hiểu rằng Bảo Long đã bán toàn bộ cổ phần cho Bảo Sơn với giá 227 tỉ, không có chuyện hợp tác gì cả. Việc gì cũng sẽ căn cứ trên hợp đồng thôi Việc gởi tờ trình lên UBND Hà Nội là sai, phải gởi cho tòa án là nơi giải quyết.
-
SINH VIÊN GIAO LƯU Trai Bách Khoa như chim anh vũ Gái Sư Phạm như cành liễu rũ, Gái Bách Khoa như củ sắn lùi Trai Sư Phạm như khỉ cụt đuôi, Chim anh vũ đậu trên cành liễu Để khỉ cụt đuôi ôm củ sắn lùi! Đây đúng là giọng điệu của mấy tên Bách Khoa sang tán tỉnh các cô Sư Phạm đây mà. Để thu hút các nàng mấy chàng tự cho mình là “chim anh vũ” và tâng bốc các nàng là “cành liễu”. Mấy tên này quả là gian sảo hết mức, không từ một thủ đoạn nào kể cả nói xấu người khác. Ngưòi cao thượng không làm gì để hạ thấp kẻ khác chứ? Gái Bách Khoa và trai Sư Phạm sẽ nghĩ gì khi nghe sự dàn xếp có vẻ “môn đăng hộ đối”: Chim anh vũ đậu trên cành liễu Để khỉ cụt đuôi ôm củ sắn lùi! Ơ... ơ... các bác Sư Phạm đâu chả nhẽ chịu nhịn à? Em mà vậy á, đừng hòng. Xem “mấy củ sắn lùi” khoa Anh trả đũa đây này: Gái khoa Anh như hoa thiên lý Trai Cơ khí như... khỉ mắc phong! Đáng đời dám chê “ao nhà lắm rêu”, cái đồ mắc phong... long! Mấy anh Cơ khí những tưởng chỉ bận rộn với máy móc, “vai u thịt bắo mồ hôi dầu” mà cũng thơ văn, đáo để ra phết: Mai này trời nổi cơn dông Thì hoa thiên lý rớt bên hông máy cày! Ác quá đấy mấy ông ơi! Trường Bách Khoa mới có khoa Anh mà mấy ông nỡ trù dập người ta vậy sao? Khổ nhất bác học ngành Y. Thiên hạ đang xì xào đầy ra kia kìa: Em ơi đừng lấy thằng Y Bẩy năm chờ đợi còn gì là xuân?! Hic, hic... chẳng phải các cô gái đang sợ ế đó sao? 7 năm chờ các chàng thì có mà lão hoá hết à? Dân Kinh Tế là chúa châm chọc: Lấy chồng đừng lấy Thú Y Lúc buồn nó... thiến còn chi là đời? Eo ơi! Nghe khiếp, hơi quá đáng đấy. Dân Thú Y vội chấn an: Lấy chồng thì lấy Thú Y Lấy thằng Kinh Tế... chi li từng đồng! Đúng rồi, mấy ông Kinh Tế “su-zu-ki” lắm. Lấy ông ấy về khéo mình thành các “khái niệm” hết, đến tiền ăn bánh đúc cũng không có mà ăn ấy chứ! Sinh viên khoa Không lưu - Trường Hàng Không Việt Nam nghe vậy vội lên tiếng: Em ơi cứ lấy Không Lưu Sáng anh đi trực, tối về với em! Nghe có vẻ an toàn và hấp dẫn đấy chứ? Đúng là “thừa nước đục thả câu”. Nhưng... các bác đâu, đối lại đi chứ? Hỡi các chàng sinh viên tài ba... hoa!?!
-
“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi Em rước đèn đi khắp phố phường Lòng vui sướng với đèn trong tay Em múa ca trong ánh trăng rằm Đèn ông sao với đèn cá chép Đèn thiên nga với đèn bướm bướm Em rước đèn này đến cung trăng Đèn xanh lơ với đèn tím tím Đèn xanh lam với đèn trắng trắng Trong ánh đèn rực rỡ muôn màu …” (Rước đèn tháng tám - Đức Quỳnh, Văn Thành) Ở Việt Nam, trong một năm có 4 cái tết chính, mỗi tết lại ứng với một mùa, một tiết và mang một ý nghĩa nhất định. Tết trung thu là một trong 4 tết quan trọng nhất trong năm theo nông lịch cổ; đó là: Tết đầu xuân (Tết nguyên đán), tết giữa thu (Tết trung thu), đệm giữa là tết vào hè (Tết đoan ngọ) và tết đầu đông (Tết cơm mới 10-10) Theo phong tuc người Việt, Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mùa thu, tức là hôm rằm tháng tám hằng năm – tính theo lịch ta. Tháng tám âm lịch theo truyền thuyết là đêm thu đẹp nhất trong năm vì trăng thật to tròn, sáng và đẹp. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh trái ra sân cúng mặt trăng. Nhân dịp tết này, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em thì rước đèn, đi xem múa lân, ca hát các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức một mâm cỗ. Ở một số nơi tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích. Phá cỗ trung thu Đây còn được coi là ngày tết của trẻ em, gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Tết Trung Thu cũng là ngày tết truyền thống của một số quốc gia ở Châu Á như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Ngoài ra, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em rất phong phú, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy và đèn ông sao. 1. Nguồn gốc Tết Trung thu Theo truyền thuyết, Tết Trung Thu có từ vài ba ngàn năm nay. Người Trung Hoa thời cổ đại sống bằng nghề chăn nuôi và trồng trọt. Suốt mùa hè trời nắng ấm, người dân chăn nuôi và săn bắn dễ dàng, đầu tháng 8 lại thu hoạch nông sản phẩm, đến rằm tháng 8 bầu trời xanh biếc, trăng rằm trong sáng, cả nhà vui vẻ đoàn tụ, tượng trưng cho " trời và đất hợp nhất", nên mới có Tết Trung Thu. Thời đó, Tết Trung Thu đơn thuần là ngày lễ cúng thần nông, chỉ có cơm rượu, không có các loại bánh như ngày nay. Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ thời Xuân Thu. Tuy vậy, trước đời Đường văn tự chưa phát triển, sử sách viết về Tết Trung Thu không nhiều lắm. Từ đời Đường trở đi, nhiều nhà thơ hoặc văn nhân viết những bài thơ hay tác phẩm về Tết Trung Thu, người đời sau mới biết được truyền thuyết và tập tục của nó. Từ đó Tết Trung Thu trở thành ngày lễ cố định hàng năm. Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc. Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian. Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ. Lại có chuyện kể rằng một vị tướng tên là Lưu Tú ở đời nhà Tây Hán, từ năm 206 trước Tây lịch tới năm 23 Tây lịch, trong lúc quân tình khốn quẫn đã cầu Thượng Đế giúp cho quân lính có đồ ăn để chờ quân tiếp viện. Sau khi cầu Thượng Đế, quân lính tìm được khoai môn và bưởi để ăn. Nhờ đó sau này Lưu Tú mới bình định được toàn quốc và lên làm vua tức là vua Quang Võ nhà Hậu Hán. Ngày mà Lưu Tú cầu được linh ứng là ngày rằm tháng tám. Từ đó nhà vua truyền lệnh cứ đến rằm tháng tám là làm lễ tạ trời đất và thưởng trăng bằng khoai môn và bưởi. Ngày lễ trọng thể vui tươi này được gọi là Tết Trung Thu. Người Đại Hàn gọi Tết Trung Thu là ngày hội Chosuk. Trong dịp vui mừng của ngày hội này, người dân Đại Hàn thường bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thượng Đế cho họ được mùa, nên đã nghỉ ngơi vui chơi trong 3 ngày. Trước đây giao thông chưa thuận tiện, vào ngày hội Chosuk, những người buôn bán làm ăn ở thành phố thường về quê nhà thăm bà con họ hàng thân thích, những người sống ở quê nhà thì tổ chức hội hè như người Việt chúng ta đón mừng ngày Tết Âm Lịch. Trước ngày hội Chosuk một tháng, các công ty thương mại lớn ở Đại Hàn thường giảm giá hàng cho khách mua về làm lễ vật tặng nhau. Trong ngày hội Chosuk, người Đại Hàn ăn loại bánh làm bằng bột nếp và đậu xanh trộn với đường, họ gọi là "songpyon". Dịp này thanh thiếu nhi Đại Hàn thích nhẩy bài "Kang Kang Su Vol Lae" Rằm tháng 8 người Nhật Bản tổ chức ngày hội Hounen Odori (Hounen có nghĩa là hạnh phúc và giầu có, Odori có nghĩa là nhẩy múa). Dịp này họ thường ra sau vườn hoặc ngồi trước cửa ngắm trăng và ăn mừng ngày hội Hounen Odori bằng loại bánh hình cái gối làm bằng gạo (rice dumplins) người Nhật gọi là "Tsukimi dango". Đối với người Việt Nam thời cổ đại, Tết Trung Thu được diễn tả trong "Việt Nam Phong tục" của tác giả Phan Kế Bính với tục: Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng, trong đó thì lễ vật hàng đầu là bánh mặt trăng, ngày nay gọi là bánh Trung Thu. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp... Theo các nhà khảo cổ học, Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, từng được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, là một trong những Trống Đồng Đông Sơn có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà “Tang thương ngẫu lục” đã miêu tả. Theo "Tang Thương Ngẫu Lục", tác phẩm chữ Hán của 2 nhà văn Việt Nam Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thời vua Lê chúa Trịnh, Tết Trung Thu được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ chúa. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa thu là mùa của thành hôn. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả người Pháp P.Giran cũng từng viết trong “Magie et Religions Annamites, Paris: Challamet, 1912" về Tết Trung Thu: Từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Theo phong tục Việt Nam, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bầy cỗ cho các con để đón trăng rằm. Các vị mua và làm đủ các loại đèn lồng thắp bằng nến treo trong nhà hoặc cho các con mang đi rước đèn cùng bè bạn. Cỗ mừng Tết Trung Thu gồm: bánh Trung Thu, các loại bánh kẹo khác, trái cây... nhiều hay ít tùy hoàn cảnh của mỗi gia đình. Trong văn học nghệ thuật có nhiều tác phẩm thơ ca, hội họa, âm nhạc miêu tả Tết Trung Thu, trong đó có bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Có bầu có bạn can chi tủi Cùng gió cùng mây thế mới vui Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười 2. Phong tục tín ngưỡng trong Tết Trung Thu Việt Là một nước nông nghiệp nên Tết Trung Thu ở Việt Nam chứa đựng nét tín ngưỡng riêng, đó chính là tín ngưỡng trong lễ thức nông nghiệp, bao gồm cả phần lễ và phần hội. Tinh thần của Lễ thức đó, trước hết thể hiện ở ý thức của người nông dân đối với mùa vụ. Tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi” (bia chùa Đọi,1121), người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi. Dưới ánh trăng thu, các lão nông uống trà, nhắm rượu, ngắm trăng, thưởng nguyệt, chiêm nghiệm dự đoán tiên tri. Bởi vậy mà thành ngữ dân gian ta vẫn có câu “Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám”. Bánh Trung Thu Người Việt hiện nay còn giữ được ít nhất hai lễ trong rằm tháng Tám. Đó là lễ cúng trăng (trời đất) và Lễ cúng gia tiên trên bàn thờ Tổ. Cả hai lễ đều có những lễ vật tương tự như nhau: Hoa, các loại quả, bánh nướng, bánh dẻo, rượu. Riêng lễ cúng gia tiên có thêm đĩa xôi. Ngoài những sản phẩm nông nghiệp là hoa quả, rượu, xôi, có hai loại bánh mà người Việt dành riêng cho lễ cúng Rằm tháng Tám là bánh dẻo và bánh nướng, một loại tròn, một loại vuông, phản ánh nhận thức thô sơ của người Việt cổ: Trời tròn, đất vuông. Khi phá cỗ người ta tin rằng các loại lễ vật đều mang một ý nghĩa thiêng liêng, ăn uống để tiếp thêm sức mạnh của trời đất, làm cho ta có đủ sức chống lại mọi thiên tai, thiên dịch. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau. Người Việt xưa không mấy khi dùng đèn lồng, trừ Rằm tháng Tám, người ta đua nhau làm đèn lồng, mua đèn ông sao, đèn con thỏ, đèn con cóc (thiềm thử), đèn cá chép,…Đó là những vật phẩm biểu trưng nhiều hàm ý. Đèn con thỏ biểu hiện cho mặt trăng (ngọc thỏ). Đèn con cóc (thiềm thử) biểu thị sự cầu mong mưa thuận gió hòa của cư dân trồng lúa nước theo điển tích “con cóc là cậu ông trời”. Đèn cá chép là bắt nguồn từ tích cá chép vượt vũ môn, cá chép hóa rồng, với ý nguyện cầu mong cho nhân hòa, vật thịnh, con cháu học hành giỏi giang, tấn tới. 3. Rộn ràng - Tết Trung Thu Múa sư tử - múa lân: Một hoạt động không thể thiếu được trong phần hội của rằm tháng Tám đó là múa sư tử (thực ra là múa lân vì sư tử không có sừng). Người Việt dùng múa sư tử trong nhiều lễ hội với những ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Trong cơ cấu của đội múa gồm có 3 nhân vật: Sư tử, tráng sĩ, ông địa. Sư tử là biểu trưng của Trời (Thiên), còn Tráng sĩ là Nhân, ông Địa là Đất. 3 nhân vật không đối kháng mà luôn tạo ra sự phối hợp hài hòa, Thiên - Địa - Nhân hòa hợp là ước vọng sâu xa của cư dân lúa nước Việt Nam. Với những người cho là múa lân thì lại có sự giải thích khác. Họ cho rằng Lân là con vật cực hiền (nhân thú). Con Lân chỉ xuất hiện khi thánh nhân ra đời hoặc thời thịnh trị. Cho nên, múa Lân trong ngày tết Trung thu là cầu mong cho vua sáng, tôi hiền, đất nước thái bình, hưng thịnh. Nó chẳng những thể hiện ở ý thức mà cả trong hành động. Lân còn gọi là Kỳ Lân. Kỳ là tên con đực, Lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng), là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được. Vào lúc xẩm tối Rằm tháng tám, tiếng trống múa sư tử (múa lân) náo động các phố phường, làng xóm. Mỗi đám rước sư tử có khoảng mươi - mười lăm người, quần áo chẽn, khăn võ sinh, chân đi hài sảo. Một màu đen tuyền. Thắt bao lưng xanh đỏ, bỏ múi lòe xòe. Ba anh đảm nhận việc đội đầu, cầm đuôi sư tử và đánh côn. Tung côn là người giỏi nhất đám, chỉ huy chung. Một đầu côn gắn quả mây, to hơn trái cam. Quả mây đan mắt cáo, bên trong là một quả cầu gọt bằng gỗ xốp nhẹ cỡ bằng quả chanh. Mấy người này ít nhiều phải nắm được vũ thuật. Hai người khiêng trống cái, một người cầm chũm chọe. Những người còn lại đi song hàng hai bên giữ trật tự, bảo vệ an toàn cho đoàn. Sau khi tuần hành qua các đường chính, vào lúc trăng sắp lên giữa đỉnh đầu, các phường sư tử chia nhau rẽ vào các phố buôn bán giàu có, tìm đến nơi nhà cao cửa rộng. Chọn được gia chủ có của nổi của chìm, đám rước dừng lại trước cửa để biểu diễn. Bắt đầu là điệu chào của sư tử, tiến thoái đúng lễ nghi kính cẩn. Chiếc côn được nâng cả bằng hai tay lễ phép. Tiếng trống, tiếng chũm chọe thôi thúc mạnh mẽ hơn. Đám rước sư tử trổ hết ngón nghề của mình. Trước tấm ''thịnh tình'' của sư tử, gia chủ đành mở rộng cửa nghênh tiếp. Vợ chồng, con cái, thân thuộc bắc ghế thưởng ngoạn. Cuối cùng là phần lĩnh tiền thưởng, chấm dứt trò múa chúc tụng đêm rằm. Tiền thưởng nhiều khi khá lớn, nhưng gia chủ không phát tận tay. Họ dùng một vuông vải đỏ hoặc một tờ giấy hồng điều gói tiền lại rồi treo lên xà nhà. Phường sư tử phải công kênh nhau hai ba người mới lấy nổi. Múa sư tử đòi hỏi nhiều sức lực, biết sử dụng vũ thuật khéo léo. Thêm vào đó là đức tính kiên trì, dũng cảm, nhanh nhẹn, tháo vát. Phải chăng, ở một góc độ nào đó, múa sư tử đã thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc ta lúc hội hè, khi tết nhất. Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Đã có bài hát về Múa sư tử như sau: “Thùng thình thùng thình trống rộn ràng ngoài đình Có con sư tử vui múa quanh vòng quanh Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làng Dưới ánh trăng vàng em cất tiếng hát vang” Rước đèn: Ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được. Hát trống Quân: Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận tức là hát theo vần, theo ý hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. “Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu Cán đây rất dài, cán cao qua đầu Em cầm đèn sao em hát vang vang Đèn sao tươi màu của đêm rằm liên hoan...” (Chiếc đèn ông sao: Phạm Tuyên) Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Sau này, điệu hát trống quân đã được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc đại phá quân nhà Thanh vào năm 1788. Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài cho một số binh lính giả làm gái để trai gái đôi bên hát đối đáp với nhau trong khi người ta đánh trống theo nhịp ba để phụ họa. Do đó, quân lính vui mà bớt nhớ nhà. Điệu hát trống quân được thịnh hành từ thời Nguyễn Huệ trở đi. Người Trung Hoa không có phong tục này. Trò chơi dân gian: Trò chơi dân gian cho trẻ em ở nước ta có những đặc điểm nổi bật: dễ chơi, em nào cũng tham gia được chơi ở địa điểm nào cũng được, lại có cả hát kèm theo, giàu tính trí tuệ và không tốn tiền. Trò chơi dân gian cho trẻ em có thể chia ra làm nhiều loại. Có loại lợi dụng sức gió như chơi chong chóng, chơi trò đánh gậy, thả diều... Chỉ cần hai mảnh lá dứa bện chéo vào nhau, cắm một cái gai nối với một khúc cành tre bằng cái đũa, có lỗ, là trẻ em đã có cái chong chóng quay tít. Cầm chong chóng chạy ngược gió thì thích biết bao. Còn thằng đánh gậy ư? Chỉ là cành dâu, tiễn khúc, có cả chân tay, đầu mình, hai tay nối với cái "gậy". Cái gậy lại buộc với hình tròn bằng lòng bàn tay. Tất cả nối liền nhau, treo lên trước gió. Gió thổi vào hình tròn làm cái gậy quay tít. Thằng đánh gậy trở nên sinh động như võ sĩ đang múa. Thả diều thì khỏi phải nói. Chiều hè lộng gió, cánh diều bay bổng trời cao. Tiếng sáo ngân trong trẻo. Lũ trẻ nằm trên bờ đê cỏ xanh, ngẩng mặt lên dõi nhìn, sung sướng. Những trò chơi dùng lửa hoặc ánh sáng như rước đèn ông sao, đèn lồng, đèn hình cá... vào đêm Trung thu hẳn không gì lộng lẫy và huyền ảo hơn. Đặc biệt nhất là đèn kéo quân (còn gọi là đèn cù). Khi ngọn nến được đốt lên, chong chóng quay, đèn cũng quay. Thế là các con vật tự nhiên chạy. Có lẽ từ cái trò chơi này, bài dân ca "Đèn cù" đã ra đời. Ông cha ta đã biết tận dụng luật đối lưu của không khí để tạo nên trò chơi thông minh và sinh động. Những trò chơi dùng nước cũng không ít. Trẻ em có thể gấp con thuyền giấy, hoặc một cái lá khô hay cái bẹ hoa chuối đã có thể thành thuyền được gió đưa đi bong bong trên mặt nước. Thời sau này, các em cho dính một tí xà phòng bánh vào đuôi mảnh giấy rồi thả ngay trong thau nước. Xà phòng tan, tạo ra lực đẩy mảnh giấy lao đi, dễ làm mà cũng không kém phần thích thú. Trò chơi dân gian Việt Nam góp phần rèn luyện trí tuệ cho trẻ em. Các em có thể ngồi quanh bàn cờ hàng giờ và tính toán nước đi sao cho thắng. Chỉ với hình vẽ bằng than, gạch non hay phấn trên sân và một ít sỏi hoặc đá dằm, các em đã có thể "chơi ô ăn quan" được rồi. Người chơi muốn thắng phải tính rải quân như thế nào để cuối cùng thu được nhiều quân của đối phương về mình. Phần lớn các trò chơi cho trẻ đều có tác dụng rèn năng lực khéo tay, nhanh mắt. Từ hòn đất sét dẻo và mềm, các em có thể nặn ra đủ thứ quả hoặc con vật cực kỳ sinh động. Trẻ con theo mẹ đi chợ, đố cháu nào bỏ qua được mẹt tò he của bác thợ nặn bằng bột trắng, vàng, xanh, đỏ... những Thánh Gióng cưỡi ngựa, Quan Công, chú Tễu... hồn nhiên và hấp dẫn. Riêng các bé gái rất mê đánh chuyền. Chỉ với 10 que chuyền và một quả chuyền bằng quả ổi xanh, quả cà, quả bưởi con bị rụng hoặc véo hòn đất dẻo vo tròn lại là xong. Các em vào trò: tay tung quả lên, lại phải nhặt que chuyền rồi bắt quả cho đúng, miệng phải nói từng câu cho hợp, cho nhịp nhàng với từng động tác. Vì thế mắt phải tinh, tay phải nhanh, khéo và chính xác. Từ nhặt một que mỗi lần đến hai que, ba que... và cuối cùng là 10 que. Các que ấy được rải ra nên rất khó vơ, làm sao trong một giây phải vơ gọn, vơ hết, không rơi que nào và lại bắt gọn quả chuyền cũng bằng bàn tay ấy. Thế mới khó. Làm được mới giỏi. Trò chơi dân gian còn mang tính thể thao, rèn luyện sức mạnh và sự dẻo dai cho trẻ. Chỉ với cái mo cau rụng, đứa ngồi, đứa kéo chạy vòng quanh sân đã trở thành chiếc xe bong bong. Rồi nhảy dây, đá cầu, đu, nhào lộn,... đều cần đến cơ bắp vừa mạnh vừa chính xác. Cái trò "trồng nụ trồng hoa" chẳng cần dụng cụ gì mà hấp dẫn hết chỗ nói. Đây chính là môn thể thao nhảy cao không cần xà. Mới đầu nhảy qua một hai bàn chân dựng đứng thì dễ, đến khi cả bốn bàn chân và bốn nắm tay của cả hai trẻ chồng lên cao thì có lẽ đã đến sáu bảy mươi phân, nhảy qua không chạm quả là không phải đùa. Tính tập thể kết hợp với ca hát cũng là nét độc đáo của trò chơi dân gian cho trẻ em. Điệu múa kỳ lân đêm Rằm tháng Tám, trò chơi "thả đỉa ba ba", vừa chơi vừa hát những câu đồng dao bao nhiêu trẻ tham dự cũng được. Do cuộc sống lao động gắn liền với thiên nhiên hoang sơ nên trẻ em sớm biết chơi với các con vật. Ngoài chim muông, trẻ em còn biết đưa chuồn chuồn, châu chấu, cào cào vào trò chơi. Đón trăng: Tự bao đời nay, trung thu gắn liền với trăng, bởi vậy cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên khi tết trung thu bắt nguồn từ Tết trông trăng. Theo thần thoại, trước hết trăng là một vị nữ thần cô độc, thuộc về nữ giới, có rất nhiều quyền lực không kém gì thần mặt trời. Có lẽ vì thế mà chúng ta có hai loại lịch: Âm lịch và Dương lịch. Tuy vậy, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm khác nhau về vị thần bí ẩn này. Từ thời thượng cổ đã có trên năm mươi quan niệm và tên khác nhau để gọi thần Trăng. Thậm chí thần Trăng đã có trước các tôn giáo hoàn cầu như đạo Hồi, Bà La Môn qua các danh xưng Arma của người Hittite, thần Sin và Amn của người Ả Rập, thần Chadra của người Hindu, đó là nam thần. Ở Trung Hoa, người ta gọi trăng là nữ thánh qua các tên Hằng Nga, người Indonesia gọi Silewe, các dân tộc hải đảo Polynésien thì gọi trăng là nữ thần Nazarata. Trăng đã được tôn xưng tột đỉnh như tại Hy Lạp, đó là thần Hécate ba đầu, cai quản ba cõi trời, đất và biển cả, có đầy phép thần thông biến hóa, chỉ mang lại điềm lành cho nhân thế mà thôi. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, lễ hội Tết Trung Thu ở Việt Nam cũng có nhiều thay đổi theo thời gian. Song dù thay đổi thế nào thì cái “thần” của nó vẫn còn giữ được, đó là tính chủ thể, sự vui chơi hồn nhiên của trẻ và sự quan tâm của mọi người đối với các em. Tết Trung thu, một lễ thức nông nghiệp ở nước ta, một cái tết của trẻ mà ở đó các em được phát huy hết các đức tính tốt đẹp của mình, được vui chơi thỏa thích, được hòa mình vào trong thiên nhiên kỳ thú và được đắm mình trong vòng tay yêu thương nhân ái của mọi người. Đó là một lễ hội truyền thống đã ăn sâu vào trong tiềm thức người Việt, một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ và bảo tồn. Có lẽ bất cứ một người Việt Nam nào cũng đều có tuổi thơ và đều có những giờ khắc tưng bừng đón Tết Trung Thu, dù đơn giản chỉ có hồng với cốm thôi cũng không thể nào quên cái vui thủa ấy. Vui vì được rước đèn, được tự tay nhặt từng hạt bưởi để xâu thành một chuỗi phơi khô làm đèn thắp đêm Rằm tháng tám, để rồi khi thành người lớn có gia đình và rồi lại sắm tết cho con cái, nhìn chúng múa hát đón trăng trong lòng ai không khỏi bồi hồi nhớ về một mùa trăng năm nào, bên tai lại vọng về bài hát cũ” “Ông giẳng ông giăng, xuống chơi với tôi, có bầu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, có tệp bánh chưng, có lưng hũ rượu, có chiếu bám dù, thằng cu xí xoài, bắt trai bỏ giỏ, cái đỏ ẵm em, đi xem đánh cá, có rá vo gạo, có gáo múc nước, có lược chải đầu, có trâu cày ruộng, có muống thả ao, ông sao trên trời....” St internet
-
Trưng bày 550 hiện vật, hình ảnh chủ quyền biển đảo SGTT.VN - Sáng nay 29.8, sở Văn hoá – thể thao và du lịch Quảng Ngãi tổ chức trưng bày 550 hiện vật, hình ảnh nhằm tôn vinh chủ quyền biển đảo quê hương, đặc biệt là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mở đầu cho “Tuần lễ văn hoá biển đảo Quảng Ngãi”. Ông Đặng Lên (phải), đại diện cho tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện Lý Sơn hiến tặng tờ lệnh liên quan đến chủ quyền quần đảo Hoàng Sa cho quốc gia. Các hiện vật, hình ảnh được giới thiệu đến công chúng lần này gồm: mô hình khinh thuyền của đội hùng binh Hoàng Sa, ghe bầu của thương thuyền buôn bán trên biển năm xưa, hiện vật gốm trục vớt được ở vùng biển Trường Sa, Hoàng Sa và Quảng Ngãi; một số hiện vật mộ chum, mộ vò và đồ tuỳ táng thuộc nền văn hoá Sa Huỳnh có niên đại từ 2.500 – 3.000 năm, hiện vật phù điêu thuộc nền văn hoá Chăm Pa; hình ảnh xoay quanh lễ khao lề thế lính Hoàng Sa tri ân công đức đội hùng binh Hoàng Sa, từng giong buồm ra Biển Đông thực thi sứ mệnh thiêng liêng, cắm mốc khẳng định chủ quyền lãnh hải trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa liên tục từ đầu thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19; lễ hội đua thuyền, cầu ngư… đặc trưng của cư dân vùng biển, đảo Quảng Ngãi. Dự kiến, các hiện vật, hình ảnh nói trên được trưng bày tại bảo tàng Quảng Ngãi đến hết ngày 2.9 tới.
-
Truyền thống quá đi Đêm mát trời vừa nằm vừa đọc truyện cổ tích, đã chợt nhận ra 1 điều - Sơn Tinh đánh nhau với Thủy Tinh là để giành gái…(@___@) - Thạch Sanh đánh nhau với Lý Thông cũng là vì gái…(???) - Tấm và Cám giết nhau vì…giành trai !
-
Chức mừng Sư Phụ và Trung tâm đã bước đầu hoàn thành kế hoạch giới thiệu 5.000 năm nền văn hiến Việt ra với thế giới.
-
Ặc ăc, nếu tôi làm Thủ Tướng thì chỉ đạo cái ông Petro ViệtNam, Petrolimex bỏ tiền ra tài trợ. Thành thật chia buồn cùng giải thưởng môi trường