-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Bạn Tập sang singapore lại phát biểu linh tinh, về biển đông rồi. Bạn hư quá Không tin bạn tí nào Mời ACE xem bên dưới ================================================== Tập Cận Bình ngang nhiên khẳng định đảo ở biển Đông thuộc Trung Quốc Tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS) sáng 7-11, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngang nhiên khẳng định rằng các đảo ở biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ thời cổ xưa. Ông Tập Cận Bình phát biểu tại Đại học quốc gia Singapore (NUS) - Ảnh:Reuters Theo báo Straits Times, ông Tập nói đảo ở biển Đông thuộc Trung Quốc cổ xưa, do đó Trung Quốc phải “giữ gìn chủ quyền và lợi ích biển của mình” (?). Ngay sau đó, ông Tập nhấn mạnh Trung Quốc đang tìm cách giải quyết những vấn đề tồn tại giữa họ và các nước đang “chiếm một số đảo” (?) (dù những đảo này không thuộc chủ quyền của Trung Quốc - PV) ở biển Đông thông qua đối thoại hòa bình. Chủ tịch Trung Quốc cam kết rằng: “Sẽ không bao giờ có vấn đề gì về tự do hàng hải ở biển Đông hoặc quyền bay trên khu vực này". Trong bài phát biển tại NUS, ông Tập nói điểm bắt đầu và mục đích cơ bản trong chính sách về biển Đông của Trung Quốc là duy trì hòa bình và ổn định. Người đứng đầu Trung Quốc cho rằng môi trường ổn định cho sự phát triển là “lợi ích chung của tất cả các nước châu Á”. Tất cả các quốc gia châu Á hiện nay đang đứng trước nhiệm vụ quan trọng nhất là đảm bảo sự phát triển mạnh và bền vững, điều này đang đòi hỏi một môi trường hòa bình và ổn định. “Đây là lợi ích chung của các nước châu Á. Các nước ngoài châu Á nên hiểu và tôn trọng điều này và nên đóng vai trò xây dựng” - ông Tập nói. Chủ tịch Trung Quốc còn “khuyên” các nước châu Á nên phối hợp để giữ hòa bình và ổn định. “Chúng ta không bao giờ để sự thù hận chia rẽ mình”- ông Tập nói trước các sinh viên và đại biểu tại NUS. Theo Straits Times, Trung Quốc đang có những tranh chấp chủ quyền biển đảo với các nước trong khu vực biển Đông, Bắc Kinh đòi chủ quyền gần trọn khu vực này. Gần đây, Trung Quốc ồ ạt cho xây dựng bồi đắp đảo ở biển Đông, động thái gây phản ứng và quan ngại trong cộng đồng quốc tế. Ông Tập Cận Bình có chuyến thăm chính thức Singapore trong hai ngày 6 và 7-11. Chiều cùng ngày, ông có cuộc gặp với lãnh đạo Đài Loan Mã Anh Cửu tại khách sạn Shangri - La. theo http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151107/tap-can-binh-ngang-nhien-khang-dinh-dao-o-bien-dong-thuoc-trung-quoc/998965.html
-
Phụ huynh sốc với bản dịch mới của bài thơ Sông núi nước Nam trong SGK lớp 7 Bài thơ Sông núi nước Nam vốn được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam, với những câu thơ quen thuộc, nay đã được dịch khác đi và in trong SGK Ngữ văn lớp 7 tập 1 khiến nhiều phụ huynh sốc! Dư luận bức xúc trước bản dịch bài thơ Sông núi nước Nam Mới đây, trên các trang mạng xã hội đang bàn tán xôn xao về phần dịch trong bài thơ: “Sông Núi Nước Nam” của Lý Thường Kiệt, không chính xác và bị “cải biên”, khiến phụ huynh cũng như các học sinh đang khá bức xúc. Cuốn sách Ngữ Văn lớp 7 do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành. Nếu trước đây, bài thơ: “Sông Núi Nước Nam” được dịch là: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”, thì nay ở trang 62 sách Ngữ văn lớp 7 tập I, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) phát hành lại dịch như sau: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Vằng vặc sách trời chia xứ sở/ Giặc dữ cớ sao phạm đến đây/ Chúng mày nhất định phải tan vỡ”. Như vậy, từ 4 câu thơ quen thuộc với hàng triệu học sinh, phụ huynh nay đã được “cải biên” 3 câu thơ sau so với bản dịch trước. Theo nhận định của nhiều phụ huynh, bản dịch sau trúc trắc, khó đọc và không hay như bản cũ. Phần dịch thơ trong sách Ngữ văn lớp 7 tập một mới đây. Người có nickname Đinh Nho Anh thốt lên: "Ôi trời. Tam sao thất bản! "Tuyên ngôn độc lập" mà bị "bôi nhọ" này sao! Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục ở đâu…" Trong khi đó, một bạn có Nickname Pham Phuc Thinh phản ánh: Cái này ông Darwin gọi là "Sự biến dị"... Xin lỗi dịch thơ kiểu này bảo sao bọn nhóc nó không chán môn Ngữ văn?! Học thơ như thế này mà yêu văn học mới lạ. Bản văn dịch như kiểu này thì làm mất đến 90% cái thần của bài thơ... Bạn nghĩ sao về 2 từ "vằng vặc" và " tan vỡ" liệu nó có mạnh mẽ quyết liệt và khẳng định bằng 2 cụm từ "rành rành" và "đánh tơi bời" không? Còn người có Nickname Thuha Nguyen lại bàn luận: Cái sự "tan vỡ" hơi bị ép duyên, nhưng cách dịch này không làm sai lệch tinh thần bài thơ. Vấn đề là chúng ta đã quá quen với vần điệu cũ, nên thấy cái này hơi gợn, hơi khó tiếp nhận. Trong khi đó, người có nickname Mong Thuy Bui lấy ví dụ của chính mình: "Vụ này chị cũng đang bức xúc đây. Hôm trước trên đường chở con đi học, con gái chị đọc, chị đọc cho nó nghe bài dịch ngày xưa được học. Con phán một câu xanh rờn "mẹ dịch không đúng bài con học". Nghe nó đọc xong mà chị muốn rớt xuống đất và nghĩ bụng kiểu này thì không thể nào dạy con theo kiến thức mình học rồi". Nghĩa khác, nhưng ý thơ không có gì thay đổi PV Infonet đến Công ty Sách và Thiết bị Trường học, ở 45 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội mua cuốn sách Ngữ văn lớp 7 tập I và nhận thấy, bài thơ này dịch đúng như dư luận phản ánh. Nội dung của bài thơ Sông Núi Nước Nam. Nhân viên bán sách tại nhà sách này khẳng định: “Ở đây không bao giờ bán sách lậu. Sách bán ở đây toàn bộ lấy từ nhà xuất bản, có dám tem kiểm định đầy đủ”. Có cuốn sách trên tay, PV Infonet nét nhận thấy, sách này được NXBGDVN phát hành vào tháng 8/2015. Nhóm tác giả chủ biên gồm: Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình Chú (Chủ biên phần Văn)- Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)- Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn). Ngoài ra còn có các biên tập viên Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Văn Long – Bùi Mạnh Nhị - Lê Xuân Thại – Đỗ Ngọc Thống. Để hiểu rõ hơn về vấn đề nội dung trong cuốn sách nêu trên, PV Infonet đã liên hệ với PGS.TS Đỗ Ngọc Thống – Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục Trung học – Bộ GD&ĐT, một trong những người biên tập cuốn sách Ngữ văn lớp 7 tập 1 này. PGS. TS Đỗ Ngọc Thống trao đổi với PV Infonet:Từ ngữ của bài thơ không giống như trước, nhưng ý nghĩa của bài thơ không có gì thay đổi. PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho biết: “Thời tôi đi học thì họ dịch: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Nhưng một bài thơ có thể dịch ra nhiều nghĩa khác nhau, nhưng ý của bài thơ thì không thay đổi”. “Chính vì vây, đến thời điểm này, các nhà Hán nôm, cụ thể ở đây là ông Nguyễn Khắc Phi và Nguyễn Đình Chú dịch là: Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Vằng vặc sách trời chia xứ sở/ Giặc dữ cớ sao phạm đến đây/ Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Từ ngữ của bài thơ không giống như trước, nhưng ý nghĩa của bài thơ không có gì thay đổi. Khi phát hành sách đã có các nhà thẩm định rồi, nên không sai được. Tôi cũng tham gia biên soạn sách Ngữ văn tập I lớp 7, nhưng chỉ biên soạn Tập làm văn”. theo http://phapluattp.vn/giao-duc/phu-huynh-soc-voi-ban-dich-moi-cua-bai-tho-song-nui-nuoc-nam-trong-sgk-lop-7-589746.html ============================================= Các bác giỏi chữ thì dịch cho phù hợp, vì ngoài chuyện đúng chữ nghĩa, còn phải dúng ngữ cảnh nữa "Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời" hay hơn "Chúng mày nhất định phải tan vỡ" ngàn lần Lời dịch cũ rất hay, uy nghiêm, hùng tráng, thể hiện ý chí đánh tan quân thù Lại buồn ngủ
-
Ông Tập Cận Bình phát biểu 20 phút tại Quốc hội Việt Nam Sáng 6-11, Tổng bí thư, chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã dẫn ngạn ngữ “mất hàng ngàn vàng mua láng giềng gần” khi phát biểu hơn 20 phút trước Quốc hội Việt Nam. Ông Tập Cận Bình đang phát biểu - Ảnh: Lê Kiên Trước đó, khi ông Tập Cận Bình bước vào phòng Diên Hồng nơi các đại biểu Quốc hội đang họp, các đại biểu Quốc hội đã đứng dậy, đồng loạt vỗ tay. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã thay mặt Quốc hội Việt Nam đón ông Tập Cận Bình. Theo chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng: "Đây là lần đầu tiên đồng chí Tập Cận Bình tới thăm Việt Nam ở cương vị cao nhất, tin tưởng rằng chuyến thăm sẽ thành công tốt đẹp, tạo bước tiến mới trong quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc”. Để nghe bài phát biểu của ông Tập Cận Bình, các đại biểu Quốc hội đeo tai nghe để nghe phiên dịch trực tiếp qua tai nghe này. Trước Quốc hội Việt Nam, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã khẳng định mong muốn hai nước Việt Nam - Trung Quốc sẽ trở thành những láng giếng tốt, cùng nhau phát triển. Ông Tập Cận Bình đã tỏ ra là một người rất am hiểu thơ văn, ca dao, tục ngữ của hai nước khi trong bài phát biểu của mình ông đã nhiều lần dùng các tứ thơ, ngạn ngữ của hai nước để minh chứng cho nội dung mình nói. Nói về quan hệ hai nước, ông Tập trích dẫn ngạn ngữ Trung Hoa: "Huynh đệ đồng tâm, ký lợi đoạn kim" (anh em đồng làm thì đủ sắc bén để cắt vàng). Ông Tập cho rằng hiện nay tình hình của thế giới đang có những diễn biến phức tạp thì hai nước Việt - Trung với “núi liền núi, sông liền sông” càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau để vượt qua thử thách, khó khăn, cùng nhau phát triển. Ông Tập đề nghị: Thứ nhất, thực tiễn chứng minh rằng phương hướng sẽ quyết định vận mệnh. Thực tiễn đã chứng minh là nhân dân, hai Đảng, hai nước đã lựa chọn đúng con đường phát triển và cả hai dân tộc cần phải kiên định lòng tin, chung tay tiến lên, quyết không để thế lực nào cản trở sự hợp tác đó. Phía Trung Quốc kiên định ủng hộ Việt Nam xây dựng XHCN và mong muốn Việt Nam phát triển càng nhanh càng tốt. Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc cần hợp tác tốt với nhau trong bối cảnh thế giới đang có những rối ren. Hệ thống quốc tế đang có những sự phát triển theo hướng công chính và hợp lý nhưng đồng thời cũng có những rối ren bất ổn. Việt Nam và Trung Quốc phải cùng nắm bắt thời cơ để xây dựng cộng đồng cùng vận mệnh châu Á thông qua đó thúc đẩy cộng đồng vận mệnh chung của nhân loại. Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng tốt của nhau. Ông Tập dẫn ngạn ngữ “mất hàng ngàn vàng mua láng giềng gần” và cho rằng đây là câu ngạn ngữ mà nhân dân hai nước đều dùng, đều tâm đắc. Ông Tập Cận Bình nhấn mạnh đã là láng giềng thì khó tránh xảy ra va chạm nhưng hai bên cần kiên trì giải quyết, vì khi đã được đại sự thì không khó để giải quyết tiểu sự. Đồng thời đã là bạn bè tốt thì phải thường xuyên viếng thăm nhau. Càng đi thăm nhiều thì càng gần gũi. 11g10 phút, ông Tập Cận Bình đã kết thúc bài phát biểu của mình. Thay mặt Quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng đã cảm ơn bài phát biểu với những đánh giá tốt đẹp của ông Tập Cận Bình về những thành tựu của Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội mong rằng trong dòng chảy hữu nghị, những định hướng trong quan hệ và lãnh đạo cấp cao sẽ được thực hiện nghiêm túc, đưa hai nước vượt qua những trở ngại, kiểm soát bất đồng, cùng phát triển vững chắc hơn vì sự ổn định của hai nước và thế giới. 11g15 phút ông Tập Cận Bình đã chào các đại biểu, rời khỏi phòng Diên Hồng. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (phải) thay mặt Quốc hội đón ông Tập Cận Bình - Ảnh: V.Dũng Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, trong cuộc hội kiến sáng 6-11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhất trí tăng cường giao lưu hợp tác giữa quốc hội hai nước. Tại cuộc hội kiến, ông Hùng cho rằng trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực không ngừng thay đổi, diễn biến phức tạp, Việt Nam và Trung Quốc cần phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết hữu nghị, tăng cường hợp tác cùng có lợi, kiểm soát tốt và xử lý thỏa đáng bất đồng, cùng nhau tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để tập trung hợp tác, phát triển. Lãnh đạo hai nước cần coi trọng việc xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển, trên nguyên tắc tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, vì lợi ích lâu dài của hai Đảng, hai dân tộc. Ông Hùng cũng đề nghị Quốc hội hai nước cần tăng cường hợp tác, tham khảo kinh nghiệm của nhau, nhất là trong việc nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Ngoài ra, các cơ quan chuyên trách của Quốc hội hai nước, nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt - Trung của hai Quốc hội cần đẩy mạnh hơn nữa giao lưu, hợp tác và trao đổi kinh nghiệm về công tác lập pháp, công tác giám sát và ra quyết sách đối với các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Theo ông Hùng, hai bên cần quan tâm, chỉ đạo sát sao hơn nữa để thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác thực chất, nhất là về kinh tế thương mại phát triển theo hướng cân bằng, chất lượng và hiệu quả, ưu tiên quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan mật thiết đến đời sống của người dân; góp phần đem lại hạnh phúc cho nhân dân hai nước, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước không ngừng phát triển. Về phần mình, ông Tập Cận Bình khẳng Đảng và Nhà nước Trung Quốc luôn coi trọng và ủng hộ việc tăng cường giao lưu hợp tác giữa Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc và Quốc hội Việt Nam cũng như giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, cho rằng đây là thành tố quan trọng của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Việt Nam. Ông Tập Cận Bình hoan nghênh Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Trung Quốc trong thời gian tới. Ông Tập Cận Bình bắt tay một số đại biểu Quốc hội Việt Nam - Ảnh: Việt Dũng Ông Tập Cận Bình đến thăm Quốc hội Việt Nam sáng 6-11 - Ảnh: V.Dũng theo http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20151106/ong-tap-can-binh-phat-bieu-20-phut-tai-quoc-hoi-viet-nam/998236.html ============================================================== D/c Tập này phát biểu cũng giống d/c Mao ngày xưa nói, rất là xã giao mà thôi Nói và làm là 2 khái niệm khác nhau hoàn toàn. Ngày xưa d/c Mao nói tình hữu nghị Việt-Trung như :"Môi hở răng lạnh" và Bác Hồ cũng đã nói: "có khi răng cắn vào môi" (thực tế cho thấy là răng nó cắn vào môi mấy lần rồi) Tóm lại là không bao giờ tin bạn "chung cuốc" này :ph34r:
-
Vị sứ thần Việt nào dám giương cung bắn... Mặt Trời? Đó chính là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346) đời nhà Trần. Ông quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Dương (nay là làng Long Động, xã Nam Tân, Nam Sách, Hải Dương), đỗ Trạng nguyên vào năm 1304 triều vua Trần Anh Tông. Sau khi thi đỗ, Mạc Đĩnh Chi được ban chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia tức quản lý kho sách của thư viện Hoàng gia. Sau đó thăng dần lên Hàn lâm Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung. Ông làm quan trải bốn triều vua Trần: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông. Ông được cử đi sứ 2 lần sang nhà Nguyên vào các năm 1308 và 1324. Quanh chuyện đi sứ của ông có nhiều điều thú vị. Một lần, đoàn sứ bộ đi đến cửa quan thì đã muộn, cửa quan đã đóng. Sứ bộ ta gọi cửa mãi mà không được. Một lúc sau thấy từ trên vọng lâu thòng xuống một mảnh giấy, trên đó là một vế đối, thách sứ giả ta đối được thì mới mở cửa quan cho đi. Vế ra như sau: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan (Tới cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua). Đây là một vế đối khó, phải tìm được một câu trong đó một từ phải được lặp lại 4 lần và một từ phải được lặp lại 3 lần tương ứng với hai từ ở vế ra. Mạc Đĩnh Chi đã rất nhanh ý, lấy ngay hoàn cảnh của mình lúc này để đối lại: Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước). Nói là mời tiên sinh đối trước (ý nhún nhường) nhưng bản thân đây đã là một vế đối hoàn hảo rồi. Câu này cũng có chữ đối được lặp lại 4 lần và chữ tiên được lặp lại 3 lần, ý tứ rất chỉnh. Những người giữ cửa quan đành phải mở cho đoàn sứ bộ của ta đi qua. Khi Mạc Đĩnh Chi được diện kiến vua Nguyên, vua ra vế đối: "Nhật: hoả, vân: yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ (mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng). Có ý tự phụ ta đây là vua của Thiên triều, là bậc Thiên tử, như mặt trời đỏ có thể thiêu cháy tất cả, còn các nước chư hầu như mặt trăng yếu ớt, chỉ dám sáng vào ban đêm, còn ban ngày sẽ bị mặt trời thiêu cháy. Với sự thông minh, mẫn tiệp và dũng cảm, Mạc Đĩnh Chi đã khẳng khái đối lại: "Nguyệt: cung, tinh: đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Mặt Trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rơi mặt trời). Vế đối lại của Mạc Đĩnh Chi rất chỉnh, ý tứ rất mạnh mẽ. Câu đối tỏ rõ bản lĩnh của sứ thần, chẳng khác gì nói rằng mình có thể bắn thẳng vào mặt vua Nguyên! Quả thật là táo bạo. Vua Nguyên dù hậm hực nhưng đành chịu tài sứ giả, chẳng bắt bẻ vào đâu được. Mạc Đĩnh Chi suốt đời sống liêm khiết, vì vậy tuy làm quan mà vẫn nghèo. Có lần đang đêm vua sai người lén bỏ 10 quan tiền trước cửa nhà ông. Sáng ra ông thấy tiền liền đem nộp triều đình, nhưng không ai nhận cả. Vua nói: Tiền đó không ai nhận thì là của nhà ngươi, ngươi hãy cầm lấy mà dùng. Thật ra đây chỉ là một hình thức trợ cấp mà nhà vua có ý dành cho Mạc Đĩnh Chi. Về sau ông được cháu 7 đời là Mạc Đăng Dung truy tôn là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng đế. theo http://kienthuc.net.vn/tham-cung/vi-su-than-viet-nao-dam-giuong-cung-ban-mat-troi-353529.html ======================================================= Quá hay. Người tài đất Việt đời nào cũng có :D
-
Kỳ quái "trấn" tượng gà trống giải cứu chồng khỏi... số đào hoa Nếu gặp trắc trở trong tình duyên, người phụ nữ chỉ cần đặt tượng gà trống trong phòng riêng là có thể khơi nguồn cho “vận hoa đào”, tình duyên, cơ hội hôn nhân sẽ hanh thông? Còn với những người đàn ông có số đào hoa, để chế ngự điều này, nhiều phụ nữ cũng chọn cách đặt tượng gà trống trong nhà để giữ chồng. Phải chăng phong thuỷ có thể tạo ra khả năng kỳ diệu hay đó chỉ là những lời đồn thổi? Bỏ tiền mua niềm tin tình duyên? Thời gian gần đây, bên cạnh việc sử dụng thuật phong thuỷ vào việc xem hướng nhà, hoá giải vận hạn..., nhiều thầy phong thuỷ quảng cáo có thể vận dụng phong thuỷ để “cải thiện” chuyện hôn nhân, tình cảm trắc trở. Thậm chí, trên các trang chuyên về phong thủy còn đưa ra nhưng “chiêu” giữ ý trung nhân có một không hai để câu khách. Tượng gà trống được quảng cáo là bí quyết giúp kích hoạt tình duyên, “hãm” số đào hoa của đàn ông. Trong quá trình tìm hiểu về việc sử dụng thuật phong thuỷ vào chuyện hoá giải đường tình duyên trắc trở, PV đã có trong tay bản danh sách một số địa chỉ chuyên cung cấp vật phẩm phong thuỷ có tiếng ở Hà Nội. Theo anh Nam, người chuyên tư vấn kiêm cung cấp vật phẩm phong thủy (phố Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội), tượng gà trống mạ vàng 24k được xem là bí quyết kích hoạt đường tình duyên của những người phụ nữ muộn duyên cũng như khắc ngự số đào hoa của đấng mày râu. Trao đổi với PV, anh Nam cho hay, từ đầu tháng 3 đến nay, đã có 5 khách muộn duyên tìm đến cơ sở của anh đặt tượng gà trống để kích hoạt “vận hoa đào”. Theo tư vấn của anh anh Nam, lâu nay, người ta cứ lầm tưởng rằng, phong thuỷ chỉ là chuyện hoá giải vận khí cho ngôi nhà hay chọn hướng làm sao để làm ăn phát đạt nhưng ít ai nghĩ rằng, phong thủy vẫn để dành một phần “đất” không hề nhỏ để quan tâm chăm sóc cho nữ giới. Lý do vì phụ nữ là “nội tướng” gia đình và cũng là người chịu mang thân “liễu yếu đào tơ”, sắc xuân chỉ một thời nên trong phong thuỷ, có thuật để trợ giúp người nữ vận dụng được cả hai giai đoạn trong cuộc sống của mình, lúc chưa lấy chồng và sau khi đã lập gia đình. Anh Nam cũng cho hay, tượng gà trống có giá dao động từ 5- 8,5 triệu đồng. Mẫu gà trống đúc đồng vàng nguyên khối, phủ vàng 24k có kích thước cao 22cm, trọng lượng 1,25kg đang được nhiều người lựa chọn nhất. Trong vai một khách hàng, chúng tôi đã tìm đến cửa hàng phong thủy Đống Đa (Xã Đàn, Hà Nội) đặt mua tượng gà trống mạ vàng. Tại đây, nữ nhân viên cửa hàng tư vấn, tượng gà trống bằng đồng nguyên chất của Hồng Kông có giá đắt nhất là 2 triệu đồng, tượng gà trống mạ vàng dao động 2- 3,5 triệu đồng. Cũng theo nữ nhân viên này, gà trống vốn là con vật tượng trưng cho bình minh, ánh sáng. Vì thế, gà trống trong phong thủy thường dùng để trấn, hóa giải những mối quan hệ tình cảm ngoài luồng gây vận khí không tốt cho gia đình, chiêu tài lộc. Thậm chí, gà trống còn trấn được cả ma tà, quái khí?! Chỉ cần đặt ở trong phòng riêng, ở đầu giường hay trong tủ quần áo (đặt một đôi, ở hai bên góc tủ) thì tượng gà trống có thể kích hoạt tình cảm, hôn nhân? Để lấy lòng tin của chúng tôi, nữ nhân viên còn dẫn dắt câu chuyện về một đại gia trên phố Hoàng Hoa Thám (Hà Nội) đã chi 10 tỉ đồng dát vàng sáu con gà đặt lên trên nóc ngôi biệt thự của mình để chấn hưng sự sống, thu hút sinh khí. Gà trống gáy sẽ báo tin vui vào buổi sáng mang hàm nghĩa tốt và thúc đẩy sự phát triển trong kinh doanh? Trên một số diễn đàn phong thuỷ còn đưa ra lý giải, sở dĩ dùng hình tượng gà sẽ “trấn” được thói trăng hoa của chồng là bởi sao đào hoa thuộc mộc, tượng trưng cho tình duyên lãng mạn trong mối quan hệ với người khác giới. Nếu sao này "quá vượng" sẽ khiến cho người đàn ông dễ sa vào những mối quan hệ ngoài luồng. Trong khi đó, sao thiên hình xuất phát cung dậu (con gà), mang hành kim mà kim lại khắc chế được mộc (đào hoa). Với lý giải đó, chiêu bài trị thói trăng hoa của các đức ông chồng được không ít các bà vợ mê mẩn tin làm theo, đua nhau sắm tượng hình gà trống bằng vàng để đặt trong tủ quần áo của chồng. Sáng kiến kỳ quái của những hoạn thư thời @ Đem thắc mắc về chuyện nhiều người cho rằng dùng tượng gà trống “trấn” trong nhà có thể khiến phụ nữ muộn duyên kích hoạt đường tình duyên cũng như khắc chế được thói trăng hoa của cánh mày râu đến chuyên gia phong thủy Nguyễn Hồng Quang- Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi được biết nhiều người dùng tượng gà trống để hãm... “thuỷ khí”. Vị chuyên gia này cho hay, trước dịp trước Tết Nguyên đán Ất Mùi, chị Xuân Nội (Thạch Thất, Hà Nội) có mời thầy phong thuỷ đến xem lại hướng nhà thì được thầy phán, trong nhà bày biện quá nhiều đồ vật màu đen làm suy yếu vận thế của người đàn ông và khiến cho toàn bộ thủy khí không tốt chạy sang người phụ nữ. Chính vì thế, thầy đã tư vấn chị Nội "trấn" phong thủy bằng hình tượng một chú... gà trống giúp tình cảm vợ chồng hoà hợp. Khi nghe thầy phán, chị Nội cũng bán tín bán nghi bởi 2 năm nay, vợ chồng chị thường xuyên cãi cọ, lục đục, thậm chí anh chồng có nhiều biểu hiện bất thường khiến chị nghi ngờ chồng có quan hệ ngoại tình. Nhưng với quan niệm “có kiêng có lành”, chị Nội đã không ngần ngại chi hơn 10 triệu đồng mua tượng gà trống đặt trong phòng ngủ để hãm “thủy khí”, xoá thói trăng hoa của chồng. Chuyên gia phong thủy Nguyễn Hồng Quang hài hước cho rằng, việc đặt gà trống để trấn cung đào hoa lại gây nên những hiệu ứng ngược. Bởi con gà được gắn với câu truyền "mạnh như kê", ám chỉ “chuyện ấy” ở loài gà cực kỳ mạnh mẽ. Không khéo các bà vợ vì quá mê tín mà lại gánh hậu quả khiến cho “chuyện ấy” ở bên ngoài của đức lang quân lại được dịp bùng phát mạnh hơn! "Những phương pháp được cho là trấn phong thủy bằng gà trống, hạ thủy khí để trị thói trăng hoa của các ông chồng cũng như kích hoạt hôn nhân của những cô gái muộn duyên là không đúng. Tôi chưa baogiờ thấy trong phong thủy có những bài như vậy. Đó là những sáng kiến kỳ quái, chưa được kiểm định", ông Quang nhấn mạnh. Tuy nhiên, vị chuyên gia này không phủ nhận việc dùng tượng gà trống trong thuật phong thuỷ. Trong phong thủy, biểu tượng gà trống thường được sử dụng khá phổ biến, có thể là giải trừ các thế sát cho ngôi nhà của chủ nhân. Theo quan niệm ngũ hành, gà (Dậu ở hướng Tây) là con vật thuộc hành Kim, phù hợp khi bài trí ở hướng Tây của căn phòng. Ngoài ra, bạn có thể bài trí gà trống tại văn phòng hay phòng khách (hướng Nam) để thu hút may mắn cho gia chủ trong cuộc sống và công việc. Một chuyên gia công ty Phong thuỷ Nhất Nam cho rằng: “Xét về mặt chiêu tài, mặc dù không có được tác dụng lớn như biểu tượng cóc ba chân nhưng vẫn có thể bài trí biểu tượng gà trống trong nhà để thu hút tài lộc. Gà trống gáy vào buổi sáng và vui mừng chào đón ngày càng được sử dụng trong văn phòng và các doanh nghiệp giúp thúc đẩy sự nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, con gà trống, với tư thế vương giả của chúng cũng được cho là rất tốt cho các nhà lãnh đạo”. Trao đổi với PV, nhà nghiên cứu phong thủy Nguyễn Cung Hà- Phó giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và ứng dụng văn hóa Á Đông cho hay, theo quan niệm dân gian, tượng gà trống cũng được dùng trong phong thuỷ. Tuy nhiên, thông thường người ta chỉ đặt trong phòng làm việc hay trước cửa nhà, một số mệnh tuổi thì mới kiêng để lộ thiên. Việc sử dụng linh vật phong thủy trước hết cần quan tâm đến đặc tính của linh vật như nguồn gốc, hình dáng, chất liệu phù hợp với cung mệnh của gia chủ. Các linh vật phong thủy hiện nay thường có giá khá đắt, từ vài triệu đến hàng trăm triệu đồng. Nếu sử dụng không đúng sẽ rất lãng phí, thậm chí rước họa vào thân. Nguồn http://www.vaas.org.vn/ky-quai-tran-tuong-ga-trong-giai-cuu-chong-khoi-so-dao-hoa-a14027.html ==================================================== Mời ACE xem thông tin giải trí nhé Ai tự mua gà về, tự làm, thì tự hưởng :blink:
-
Người Việt nên ứng xử ra sao với chuyến thăm của ông Tập Cận Bình? (GDVN) - Sự đón tiếp chân tình, trọng thị của chúng ta sẽ tạo ra bầu không khí hữu nghị, thân thiện để làm tiền đề cho việc hai bên ngồi vào bàn đối thoại với nhau. LTS: Xung quanh chuyến thăm chính thức Việt Nam của ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cuối tuần này, dư luận Việt Nam còn những nhận thức khác nhau. Tiến sĩ Trần Công Trục gửi cho Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết của ông về vấn đề này, xin giới thiệu cùng quý bạn đọc. Ông Tập Cận Bình thăm chính thức Việt Nam khi còn là Phó Chủ tịch nước, ảnh: Tân Hoa Xã. Một sự kiện đối ngoại quan trọng của Việt Nam sắp diễn ra trong ngày 5, 6/11 này khi ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên thăm chính thức Việt Nam trên 2 cương vị, người đứng đầu đảng và nguyên thủ quốc gia Trung Quốc. Chuyến thăm được nhiều kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước phát triển lành mạnh, đồng thời là cơ hội để hai bên thống nhất lại một lần nữa thỏa thuận nguyên tắc mang tính pháp lý phố biến, phản ánh tinh thần thật sự cầu thị, bình đẳng, cùng có lợi, nhằm định hướng và chỉ đạo cho hai bên tiếp tục đàm phán thực chất, giải quyết các mâu thuẫn bất đồng về Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông vốn đang trở thành lực cản trong quan hệ hai nước. Bởi lẽ có những bất đồng mâu thuẫn liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông cùng những hành động phá vỡ hiện trạng mà phía Trung Quốc tiến hành, bất chấp luật pháp và dư luận quốc tế nên khiến dư luận bất bình, lo ngại. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến một số quan điểm trong dư luận Việt Nam tỏ ra không thiện chí, thậm chí là phản đối chuyến thăm này. Tuy nhiên cá nhân tôi cho rằng quan điểm này lợi bất cập hại. Tình cảm thiêng liêng với chủ quyền quốc gia dân tộc của mỗi người con đất Việt đều đáng nâng niu, trân trọng, lắng nghe, nhưng cách thể hiện sao cho có lợi nhất cho đất nước, cho dân tộc, cho cộng đồng khu vực và quốc tế trong bối cảnh phức tạp như hiện nay mới là điều đáng bàn và nên thống nhất trong hành động. Cha ông ta vẫn dạy rằng "cả giận mất khôn" để răn con cháu, trong tình huống khó khăn nào cũng phải cố giữ bình tĩnh, sáng suốt để xử lý các tình huống, đừng để cái nóng giận nhất thời nó lôi mình đi quá xa. Đó là trong đời sống thường nhật của mỗi người, trong quan hệ giữa hai quốc gia mà lịch sử đã từng có nhiều khúc mắc, thăng trầm với nhau như Việt Nam và Trung Quốc, nhất là những khúc mắc khó khăn phức tạp như vấn đề Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa hiện nay, chúng ta càng cần phải tỉnh táo và sáng suốt hơn. Quan hệ giữa hai nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc có những giai đoạn hòa bình, hữu nghị, đồng chí anh em và cũng có những giai đoạn hai bên hai đầu chiến tuyến, xung đột và đổ máu. Những lúc quan hệ hai nước khó khăn, trục trặc, tâm lý xã hội, công tác tuyên truyền, áp lực dư luận ở mỗi nước có hảnh hưởng tác động rất lớn đến quyết sách của các nhà lãnh đạo. Trong khi đó cả hai đều xác định, dù mâu thuẫn đến đâu thì nhà có thể chuyển chứ nước láng giềng thì bất di bất dịch. Do đó tìm cách chung sống hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ môi trường khu vực ổn định, bảo vệ công lý và lẽ phải mới là lựa chọn tối ưu. Bởi vậy cá nhân tôi cho rằng trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Chủ tịch Tập Cận Bình, chúng ta với tư cách chủ nhà cần có sự tiếp đón trọng thị, lịch sự, văn minh theo đúng thể thức ngoại giao dành cho nguyên thủ quốc gia. Thứ nhất, điều đó thể hiện truyền thống nhân văn, hiếu khách của người Việt Nam từ xưa đến nay; Thứ hai là phù hợp với thông lệ quốc tế và cách ứng xử văn minh trong quan hệ đối ngoại quốc tế hiện nay; Thứ ba là để đáp lễ về mặt ngoại giao đối với sự tiếp đãi trọng thị mà phía Trung Quốc đã dành cho lãnh đạo nước ta, đặc biệt là chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong tháng 4 vừa qua. Ông Tập Cận Bình đã tổ chức tiếp đón trọng thị Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc tháng 4 vừa qua, ảnh: Tân Hoa Xã. Thứ tư và quan trọng hơn cả theo cá nhân tôi là, sự đón tiếp chân tình, trọng thị của chúng ta sẽ tạo ra bầu không khí hữu nghị, thân thiện để làm tiền đề cho việc hai bên ngồi vào bàn đối thoại với nhau một cách thiện chí, cầu thị, trên cơ sở pháp lý quốc tế để tìm cách tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn, đặc biệt là vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của Việt Nam cũng như khu vực, quốc tế ở Biển Đông. Muốn đàm phán hòa bình, đầu tiên phải có thiện chí đối thoại. Không ai muốn chiến tranh, xung đột, giải quyết mâu thuẫn bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là ưu tiên lựa chọn cho cả hai phía Việt Nam, Trung Quốc cũng như các bên có liên quan khác ở Biển Đông. Muốn làm được điều này, các bên liên quan phải thực sự có thiện chí và cầu thị trong đối thoại. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của ông Tập Cận Bình thiết nghĩ là cơ hội quý chúng ta không nên bỏ qua. Đặc biệt lần này ông Tập Cận Bình sẽ có bài diễn văn đọc trước Quốc hội Việt Nam - cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Thời điểm diễn ra chuyến thăm cũng là lúc Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa có nhiều diễn biến phức tạp. Đây là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đặt ra cho chúng ta. Thiết nghĩ lúc này dư luận đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước nên đồng lòng cùng ủng hộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bang giao, chuẩn bị phương án đón tiếp và trao đổi với phía Trung Quốc. Làm sao để chúng ta bảo vệ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong khi vẫn giữ vững được hòa bình, ổn định cho chính chúng ta cũng như khu vực và quốc tế. Trước khi ông Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và Trợ lý Trưởng ban Liên lạc đối ngoại đảng Cộng sản Trung Quốc đã tổ chức họp báo về nội dung chuyến thăm, trong đó có đề cập đến vấn đề Biển Đông, tất nhiên là theo quan điểm và cách hiểu của Trung Quốc. Thiết nghĩ các cơ quan tham mưu của Việt Nam cũng nên có động thái tương tự để dư luận hiểu hơn, đồng cảm, chia sẻ với lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong vấn đề đấu tranh gìn giữ chủ quyền, bảo vệ hòa bình phát triển. Một bộ phận dư luận lo lắng, thậm chí bức xúc dẫn đến những hành động phản đối gây bất lợi cho chuyến thăm có thể là do thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin về cách thức Việt Nam chúng ta xử lý vấn đề Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa như thế nào, có đề cập vấn đề này với lãnh đạo Trung Quốc hay không và đề cập ra sao. Do đó việc tuyên truyền, giải thích những nội dung này để tạo môi trường đồng thuận, hiểu biết, chia sẻ của xã hội cũng là việc nên làm, vừa thể hiện sự tôn trọng lắng nghe ý kiến người dân, vừa thể hiện sự tôn trọng với khách. Tôi tin rằng, hơn ai hết người Việt Nam, đặc biệt là các vị lãnh đạo đất nước, sẽ biết cách để ứng xử khôn khéo, thích hợp nhất và có hiệu quả nhất trong quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc. Bởi vì, chúng ta đã có khá nhiều bài học lịch sử trải qua 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc! Ts Trần Công Trục theo http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Nguoi-Viet-nen-ung-xu-ra-sao-voi-chuyen-tham-cua-ong-Tap-Can-Binh-post163077.gd =================================================== Bác Trần Công Trục nhiều năm làm Trưởng ban biên giới Chính Phủ, nên quá hiểu "chung cuốc". Đồng ý với quan điểm này Nhưng cũng còn băn khoan là không biết bạn "Tập" nói cái gì trước Quốc hội Viet Nam ?
-
" Lịch sử Việt Nam từng bị xuyên tạc bằng tiếng Tàu, tiếng Tây và bây giờ bằng tiếng Mỹ. Đấy là sự thật đắng cay không ai chối cãi được! " Với cái mác là GS Mỹ và thêm sự phát triển rộng của truyền thông phương tây, những bài viết xỏ lá của Kelley này rất ảnh hưởng đến Lịch sự Việt Nam. Mời ACE xem bài viết của ông Hà Văn Thùy viết, đăng trên http://www.vanhoahoc.vn/. =================================================================== HỌC GIẢ MỸ VIẾT GÌ VỀ SỬ VIỆT? Hà Văn Thùy Lời của người viết Như mọi người đọc Việt Nam khác, tôi rất quan tâm tới những gì học giả nước ngoài viết về đất nước mình bởi hy vọng, họ cung cấp những tư liệu mới và có những khám phá giúp soi sáng lịch sử dân tộc. Nhưng rồi sớm thất vọng khi thấy có những người bước vào lịch sử Việt với thái độ mục hạ vô nhân, đem cái hiểu biết thiển cận của họ xúc phạm cả một dân tộc. Chẳng đặng đừng trước hồn thiêng tổ tiên bị lăng mạ, tôi một kẻ không học hàm học vị, cũng chẳng ăn lương của cơ quan nào, buộc lòng phải lên tiếng. Không nghĩ những gì mình viết hoàn toàn là chân lý, tôi kính mong tác giả và học giả cao minh chỉ ra những điều bất cập để được học hỏi thêm. Sau năm 1975, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu Việt Nam của xã hội Mỹ, một lớp nhà Việt học người Mỹ xuất hiện. Dẫn đầu là Keith W. Taylor. Vốn là cựu chiến binh Việt Nam với vốn tiếng Việt và những trải nghiệm trong chiến tranh, ông đến với môi trường đại học và nhanh chóng trở thành học giả tên tuổi. Chỉ 8 năm sau, 1983, ông công bố cuốn Việt Nam thời khai sinh (The Birth of Vietnamese). Tôi đã hồ hởi đón nhận cuốn sách này với hy vọng, từ bên kia Trái đất, bằng nguồn tư liệu riêng, tác giả cung cấp cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam. Nhưng rồi sớm thất vọng vì đó là cuốn sách nhạt nhẽo, gần như là sự nhai lại những gì đã có trong thông sử Việt, không cung cấp điều gì mới, ngoài một số tư liệu thời Bắc thuộc mà ví tính thứ yếu của nó, các sử gia Việt Nam đã không sử dụng. Không những thế, tôi buộc phải phản biện những bài Tôi đã bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào (talawas.org 30.4.05), Các xung dột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX (talawas 30.5.05) và Cách nhìn mới về Việt Nam (BBCVietnamese.com 12.9.03) Một người khác là Liam Kelley, phó giáo sư Đại học Manoa, còn có tên Việt là Lê Minh Khải. Không chỉ viết nhiều mà tác giả còn lập leminhkhaiviet.blog để đăng tải những bài được dịch sang tiếng Việt. Bài viết này được dành riêng để trao đổi với tác giả. I. Điểm một số bài viết của Liam Kelley. 1. Về bài: “Hồng Bàng thị truyện” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt Nam thời trung đại. Regarding article: " Hong Bang Story" as a traditionally was constructed of Vietnamese medieval Phản bác ý tưởng cho rằng “có thông tin về các giai đoạn xa xưa của lịch sử trong các công trình của người Việt Nam, vốn không tồn tại trong các nguồn tư liệu Trung Hoa, các học giả về cơ bản đã kết luận: người Việt Nam hẳn đã có những truyền thống lịch sử của riêng mình được họ lưu truyền bằng miệng và rồi cuối cùng được viết ra ngay khi vùng đất của họ thoát khỏi sự cai trị của Trung Hoa,” Liam Kelley viết: “Tôi cho sự thảo luận vềHồng Bàng thị truyệntrong bài tiểu luận này đã chứng minh rằng các vua Hùng không có thật. Thay vào đó, họ được kiến tạo ở thời trung đại với tư cách là một bộ phận của một quá trình trong đó đầu tiên giới trí thức tinh hoa Hán hoá ở Đồng bằng sông Hồng đã kiến tạo ra, sau đó khớp nối một bản sắc riêng vào các khái niệm thuộc di sản văn hoá của người Trung Hoa” Để khẳng định luận điểm của mình, tác giả đưa ra những chứng cứ sau: a. Không hề có một cộng đồng dân cư ổn định ở đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên: “Các học giả Việt Nam cho rằng những phát hiện khảo cổ học ở đồng bằng sông Hồng từ thế kỉ đầu trước CN, như các trống đồng Đông Sơn, và những bằng chứng về các cuộc khởi nghĩa trong xấp xỉ một ngàn năm Trung Hoa cai trị, như cuộc khởi nghĩa của chị em họ Trưng ở thế kỉ đầu sau CN, đều chỉ ra sự tồn tại của một nhóm dân cư ổn định ở khu vực này trong suốt thời kì dài. Tuy nhiên, kiểu chứng cứ này không nhất thiết ủng hộ cho một tuyên bố như thế. Thứ nhất, việc kết hợp các di vật khảo cổ với nhóm người đã tạo ra những câu chuyện trongLiệt truyệnđòi hỏi một điều là người ta đã phóng chiếu sự tồn tại của một nhóm sắc tộc được cho là đã tồn tại trong lịch sử (“người Việt”) được nhận dạng từ các văn bản trung đại lên những di vật khảo cổ tiền sử…” “Hệ quả là, các học giả Việt Nam không chất vấn sự tạo dựng [khái niệm] “nhân dân/dân gian” của họ và xem xét mức độ khác biệt của khái niệm “nhân dân/dân gian” với quan niệm của Vũ Quỳnh ở thế kỉ XV.” b. “Và một vấn đề có can hệ nhiều hơn là:Liệt truyệnđược ghi chép bằng chữ Hán cổ, một ngôn ngữ không được dùng rộng rãi để nói và hẳn là không được những người được cho là thuộc phạm trù vua Hùng biết đến trong hầu hết lịch sử được biết của nó. Hơn nữa, nếu những cư dân đó sở hữu một kiểu cổ xưa của cái rốt cuộc sẽ trở thành ngôn ngữ tiếng Việt [sau này], như một số học giả ở Việt Nam tin tưởng, thì phải nhận thức rằng thứ ngôn ngữ nói đó đã thay đổi khá đột ngột qua các thế kỉ, đặc biệt là khi khối từ vựng Trung Hoa xâm nhập vào, trước hết là ở một mức độ hạn chế bắt đầu trong thời nhà Hán (206 trước CN – 220 sau CN), và rồi rộng mở hơn trong suốt thời kì trung đại. Vì vậy, nếu những thông tin cốt lõi trong một câu chuyện nhưHồng Bàng thị truyệnbắt nguồn trong các câu truyện dân gian được lưu truyền từ thời viễn cổ, thì các học giả cần phải giải thích làm thế nào có thể xảy ra điều đó, và những sự lưu truyền nào đã chuyển tải các thông tin khi ngôn ngữ tiếng Việt phát triển qua các thế kỉ và khi những thông tin truyền miệng này rốt cuộc được dịch sang tiếng Hán cổ.” c. “Hồng Bàng thị truyện” gần gũi với những văn bản Trung Hoa khác như Thục chí: “Rõ ràng như mong đợi, thông tin trong đoạn văn này rất giống với đoạn mở đầu Hồng Bàng thị truyệncủaLiệt truyện.Đặc biệt, cũng nhưHồng Bàng thị truyện,văn bản này tạo nên sự kết nối về phả hệ với một thủ lĩnh Trung Hoa huyền thoại, có một đứa con được sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa một phụ nữ địa phương với một hậu duệ của vị thủ lĩnh ấy, và rồi có những thành viên khác của gia đình cá nhân ấy được phong làm người cai trị địa phương ấy. Nói khác đi, cả Liệt truyệnvàHoa Dương quốc chítạo ra một câu chuyện giống nhau nhằm kết nối những địa điểm tương ứng với một nhân vật ở thời cổ đại của Trung Hoa.” Liễu Nghị truyện: “Tất nhiên, có vô số câu chuyện về rồng và tiên trong văn học Trung Hoa liên quan đến những khu vực phía Nam sông Dương Tử. Theo đó, để xác định xem liệu có bất kì cái gì thống nhất trong câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ hay không, sẽ là khôn ngoan khi trước hết nên đào xới danh mục các câu chuyện Trung Hoa viết về rồng và tiên. Chỗ tốt nhất để bắt đầu có lẽ làLiễu Nghị truyện,và như đã biết, có những mối liên hệ rõ ràng giữa câu chuyện đó với câu chuyện về Kinh Dương Vương và Thần Long. Và hoá ra, cũng có những sự tương đồng giữaLiễu Nghị truyệnvà đoạn văn trongLiệt truyệnđã dẫn ở trên.Những mối liên hệ ở đây không trực tiếp như những mối quan hệ liên quan đến Kinh Dương Vương và Thần Long, nhưng chúng gợi ý một cách mạnh mẽ rằng câu chuyện này ít nhất gợi một số ý tưởng cho câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ.” d. “Việt/Yue” như là một khái niệm tự xưng. “Sự ảnh hưởng của lịch sử và văn học Trung Hoa đối vớiHồng Bàng thị truyệnlà cực kì có ý nghĩa, ở chỗ nó hoàn toàn ủng hộ lập luận rằng câu chuyện này là một kiến tạo thời trung đại. Với sự thật đó, chúng ta cần phải xét lại toàn bộ hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam để điều chỉnh cho đúng với thực tế này. Bằng những gì tiếp theo, tôi sẽ cố gắng phác thảo đại lược một đề cương của một sự diễn giải thay thế về lịch sử Việt Nam thời trung đại và sớm hơn, cái có thể giúp lí giải về người viếtHồng Bàng thị truyệnvà lí do viết. Thứ nhất, đối lập với niềm tin rằng “nhân dân” của Đồng bằng sông Hồng ở thiên niên kỉ đầu trước CN đã sở hữu bản sắc nào đó mà họ duy trì suốt cả nghìn năm Trung Hoa cai trị, tôi cho rằng chúng ta có thể nhận thấy xu hướng từ từ trong một phần của giới tinh hoa Hán hoá, những người sống ở một khu vực trải dài từ vùng Bắc Việt Nam ngày nay đến tận Quảng Đông là sử dụng khái niệm “Việt” (Yue) để tự xưng,” Không thể không nói rằng, đó là những chứng cứ có vẻ vững chắc, khiến cho sử gia Việt Nam không có đường phản bác, đành giữ thái độ im lặng. Tuy nhiên, trên thực tế, tri thức lịch sử về Việt Nam và phương Đông mà tác giả dựa vào để đưa ra những ý tưởng trên, đã lạc hậu, bị thế kỷ XXI phủ nhận, khiến cho những luận cứ đó trở nên vô giá trị! Nếu thế kỷ XX, khoa học nhân văn phương Đông được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Hoa tâm cho rằng, con người xuất hiện tại Tây Tạng sau đó xâm nhập Trung Hoa rồi từ Trung Hoa tràn xuống Việt Nam và Đông Nam Á, đem theo văn minh “khai hóa” vùng đất này; thì vào cái ngày định mệnh 29 tháng 9 năm 1998, khi công trình Quan hệ di truyền của dân cư trung Quốc (Genetic Relationship of population in China) (1) được công bố, nền tảng của cái “khoa học” thống trị một thời ấy đã sụp đổ! Phát kiến của khoa học thế kỷ mới khẳng định: - Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra tại châu Phi 180.000 năm trước. - 70.000 năm cách nay, người tiền sử theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam. - 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư ra các hải đảo Đông Nam Á, tới Ấn Độ. - 40.000 năm trước, do khí hậu phương bắc ấm lên, người từ Việt Nam đi lên khai phá vùng đất ngày nay có tên là Trung Hoa. Với phát kiến động trời này, tri thức nền tảng về phương Đông đã thay đổi. Xu hướng của lịch sử không phải “Hoa tâm” mà là sự thật ngược lại: Việt Nam chính là trung tâm phát tích của dân cư và văn hóa phương Đông! Năm 2004, khi tiếp cận thông tin trên, tôi đã dừng mọi công việc văn chương, tập trung toàn tâm lực để khảo cứu thời tiền sử phương Đông. Sau mười năm, cùng hàng trăm bài báo, tôi đã công bố ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2007); Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học, 2008): Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn học, 2011) và cuốn thứ tư đang trên bàn biên tập viên nhà xuất bản Trí thức: Viết lại lịch sử Trung Hoa. Từ khảo cứu của mình, tôi khám phá rằng, khoảng 5000 năm TCN, tại miền trung Hoàng Hà và cửa sông Dương Tử, do người Việt Australoid tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc (những người cũng từ Việt Nam lên nhưng do di cư riêng rẽ, đã giữ được nguồn gen thuần chủng, sau này sống tập trung trên đất Mông Cổ) sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, dần trở thành chủ thể của văn hóa Ngưỡng Thiều, Hà Mẫu Độ và sau đó làm nên văn hóa Long Sơn nổi tiếng. Ở thời điểm này, những thủ lĩnh người Việt là Phục Hy, Thần Nông xuất hiện. Vào khoảng năm 2879 TCN xảy ra việc Đế Minh chia đất và phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ. Là những người đánh cá và đi biển thành thạo, dân cư vùng cửa sông Dương Tử đã giao thương bằng thuyền tới Đài Loan, Indonesia, Philippine, Việt Nam và hiểu các vùng đất này. Sử Trung Hoa ghi, khoảng năm 2700 TCN, xảy ra cuộc xâm lăng của người phương Bắc vào Trác Lộc ở bờ nam Hoàng Hà. Trong trận này, Đế Lai (văn bản Trung Hoa ghi là Si Vưu) tử trận còn Lạc Long Quân đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái, Sông nguồn dùng thuyền vượt biển đổ bộ vào Nghệ An Việt Nam. Sau này, do sức ép của quân xâm lăng, người Việt từ vùng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên) và duyên hải phía đông di cư tiếp xuống phương Nam. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid phương Nam xuống, chuyển hóa đại bộ phận dân cư Đông Nam Á thành Mongoloid phương Nam. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á (2) xảy ra ở nửa sau thiên niên kỷ III TCN. Trên đất Việt Nam, khảo cổ và nhân chủng học xác nhận cuộc di cư này: khoảng 4000 năm trước, người Phùng Nguyên từ mã di truyền Australoid chuyển sang người Đông Sơn Mongoloid phương Nam. Đặc biệt tại di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình, có tuổi trên 2000 năm TCN, phát hiện khu mộ táng với 30 thi hài người Australoid và Mongoloid được chôn chung (3). Đây là chứng cứ vững chắc cho thấy người Mongoloid từ phía bắc xuống chung sống với người bản địa Australoid để rồi chuyển hóa di truyền toàn bộ dân cư sang Mongoloid phương Nam, là tổ tiên người Việt Nam hiện đại. Như vậy, khảo cổ học và nhân chủng học xác nhận, dân cư đồng bằng sông Hồng hiện nay không phải đám trôi sông lạc chợ mà là cộng đồng được hình thành từ hơn 4000 năm trước! Trên vùng đất chiếm được cùa tộc Việt ở nam Hoàng Hà, người Mông Cổ lập vương triều Hoàng Đế. Do sống chung, họ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Với thời gian, người Hoa Hạ được Việt hóa và thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội vương quốc Hoàng Đế, tạo dựng các triều đại Nghiêu, Thuấn, Vũ… Là con cháu người Việt, sống trên đất đai Việt, người Hoa Hạ thấm nhuần văn hóa Việt, tôn Phục Hy, Thần Nông làm tổ cùng với Hoàng Đế. Người Việt từ Trong Nguồn (tên cũ của đồng bằng Trung Nguyên) và duyên hải phía đông Trung Hoa di tản về Việt Nam, định cư ở vùng đất cao của đồng bằng sông Hồng đang được bồi tụ, đã mang theo ký ức về Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Từ ký ức, họ lập những ngôi mộ gió và sau đó xây đền kính ngưỡng thờ các vị cho đến nay. Với quá trình lịch sử và sự hình thành dân cư Việt Nam như vậy thì bốn “chứng lý” mà tác giả L. Kelley dẫn trên không những không ủng hộ mà trái lại còn phản bác lập luận của chính ông: - Không phải là “Không hề có một cộng đồng dân cư ổn định ở đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên” mà đó là khối dân cư đông đảo mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, hình thành từ hơn 4000 năm trước, tiếp nối truyền thống Việt cổ, làm nên văn hóa Đông Sơn. - Những ghi chép trong Thục Chí, truyện Liễu Nghị hay Hồng Bàng thị truyện… là những phiên bản của truyền thuyết lập nước Xích Quỷ, Văn Lang lưu truyền trong cộng đồng người Việt vùng Ba Thục, Lưỡng Quảng và Bắc Việt Nam. - “Việt/Yue” như là “một khái niệm tự xưng” là điều hoàn toàn có thật. Bởi lẽ, khoảng 18.000 năm trước, khi sáng tạo ra chiếc rìu đá mới, người Hòa Bình đã tự hào là chủ nhân công cụ tiên tiến của nhân loại nên tự gọi mình là người Việt với chữ Qua (戈). Khoảng 12.000 năm trước, khi phát minh ra cây lúa nước, người Việt tự xưng là tộc Việt với chữ Việt bộ Mễ (粤). Và khoảng 4000 năm trước, khi sáng tạo chiếc rìu bằng đồng, người Việt lại tự xưng bằng danh hiệu mới: chữ Việt bộ Tẩu (越)! - Về thắc mắc quan trọng của tác giả là ngôn ngữ: “Liệt truyệnđược ghi chép bằng chữ Hán cổ, một ngôn ngữ không được dùng rộng rãi để nói và hẳn là không được những người được cho là thuộc phạm trù vua Hùng biết đến trong hầu hết lịch sử được biết của nó...” có thể giải đáp dễ dàng: Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán. Người từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa đã mang theo tiếng nói của mình. Trải qua lịch sử hàng vạn năm sống trên đất Trung Hoa, đại bộ phận dân cư Trung Hoa là người Việt. Tiếng Trung Hoa là tiếng Việt được nói theo ngữ pháp Mông Cổ(4). Không những vậy, chính chữ tượng hình Trung Hoa cũng do người Việt sáng tạo để ký âm tiếng Việt!(5) Phân tích ở trên cho thấy, “Hồng Bàng thị truyện” dù được ghi vào thời Trung đại và có những thêm bớt không phù hợp của (những) người chép thì nó vẫn là hồn cốt của sự kiện có thật xảy ra trong quá khứ, được lưu giữ nơi ký ức sâu thẳm của cộng đồng người đông đảo, sống trên địa bàn rộng lớn nay là Trung Hoa và Việt Nam, trong suốt thời gian gần 5000 năm. Đó hoàn toàn không phải một “truyền thống được kiến tạo”! 2. Về bài “Từ ngữ Thái (Tai) và vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt Nam” Trong chuyên luận dài gần 20.000 chữ: “Từ ngữ Thái (Tai) và vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt Nam,” L. Kelley do chỗ cho rằng “quan lang”, “mị nương”, “bồ chính”, “cổ”… là những từ gốc Thái đi vào tiếng Việt ở thời Trung đại, đã khẳng định: “Người Thái và người Việt không phải là anh em sống hài hoà thời cổ và sau đó đi những con đường khác nhau. Thay vào đó, họ là những tộc người khác nhau trở thành láng giềng ở thời Trung đại và đấu tranh với nhau cho đến khi người Việt rốt cuộc đã giành được sự thống trị lên người Thái ở khu vực lớn hơn Đồng bằng sông Hồng vào thế kỉ XV.” Xin thưa rằng, lịch sử văn hóa là hoạt động xã hội của con người trong thời gian và không gian. Do vậy, muốn hiểu lịch sử, văn hóa của một cộng đồng người, điều tiên quyết là phải hiểu biết về họ. Xin hỏi giáo sư: Người Việt là ai? Người Thái là ai? Mã di truyền của họ là gì? Nguồn gốc phát tích từ đâu? Trải qua quá trình lịch sử thế nào để rồi cùng sống trên đất Việt? Tôi dám chắc, giáo sư không trả lời được! Do vậy, việc bàn về từ nào của Việt, từ nào của Thái rồi chuyện họ sống với nhau ra sao trong quá khứ chỉ là chuyện nói mò! Tôi rất thông cảm với giáo sư vì biết rằng, cho tới cuối thế kỷ trước, chưa có lời giải cho những câu hỏi trên! Nhưng theo tôi, sự thể thế này: - 70.000 năm trước, hai đại chủng người Australoid và Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam. Họ gặp nhau, hòa huyết, cho ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid. Sau khi sống chung với nhau ít nhất 30.000 năm trên đất Việt, họ không chỉ có chung huyết thống mà còn chung văn hóa, trong đó tiếng nói Lạc Việt là ngôn ngữ nền. Từ 40.000 năm cách nay, các chủng người Việt chia tay nhau lên khai phá Trung Hoa. Có cơ sở để cho rằng, từ Tây Bắc Đông Dương, một bộ phận người Tày-Thái theo hành lang Ba -Thục lên Tây Bắc Trung Quốc, chiếm lĩnh vùng Thiểm Tây, Sơn Tây, sau này trở thành chủ nhân nền văn hóa Ngưỡng Thiều nổi tiếng. Chính họ đặt tên cho những địa danh có từ “cổ/gu” còn tới ngày nay ở vùng này. Đó cũng là ngôn ngữ và văn hóa tạo nên kinh Thi theo phát hiện của Maspéro như được dẫn trong bài viết. Về người Thái, từ rất sớm, sách sử ghi rằng: vợ Đế Khốc, ông vua thứ tư của vương triều Hoàng Đế là bà Khương Nguyên, một người con gái thị tộc Thái (Thai thị nữ): “Chu Hậu Tắc, tên Khí. Mẹ người thị tộc Thái, tên là Khương Nguyên. Khương Nguyên là nguyên phi của Đế Khốc.” (周后稷,名弃。其母有邰氏女,曰姜原。姜原为帝喾元妃.) Một dòng khác trong Lạc Việt đi lên Trung Hoa, khai phá đồng bằng Trong Nguồn, thuộc Sơn Tây, Hà Nam, nơi sau này là đất phát tích của ông vua sáng lập triều Hán. Vị nữ hoàng đế duy nhất của Trung Hoa Võ Tắc Thiên đặt tôn hiệu của mình là Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金轮圣神皇帝) và Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝). Điều này chứng tỏ bà là người Việt. Căn cước Việt của bà còn ở chỗ tên sữa, tên gọi khi con gái là Mỵ Nương! Như vậy chứng tỏ “mỵ nương” không chỉ là sở hữu riêng của người Thái mà là chung cho các tộc Việt. Cũng vậy, cổ/gu là từ Việt cổ, được biến âm từ “kẻ” rất phổ biến ở Bắc Bộ! Vì thế, Mỵ Nương trong truyện Sơn tinh, Thủy tinh không hề là cô “công chúa người Thái” như L. Kelley tưởng tượng! Có thể lịch sử của một bộ phận người Tày-Thái là thế này: từ Việt Nam, họ đi lên Tây Bắc Trung Quốc, sáng tạo văn hóa Ngưỡng Thiều, Long Sơn. Khi vùng này bị người Mông Cổ xâm lăng, một bộ phận dân cư chung sống với người Mông Cổ, góp phần sinh ra người Hoa Hạ. Một trong những mỵ nương người Thái lấy Đế Khốc, sinh ra tổ nhà Chu. Sau này, do sự xâm nhập, chèn ép của dân du mục phương tây, người Thái làm cuộc di cư lớn từ Thiểm Tây, Sơn Tây vào Hà Nam rồi vượt Trường Giang xuống Quảng Tây. Tiếp đó, họ di cư vào Lào, Thái Lan, Miến Điện. Tại Việt Nam, do số dân Việt quá đông nên người Thái xâm nhập không nhiều và chỉ có thể sống ở vùng ngoại vi. Như vậy là, sau thời gian đằng đẵng đi xa, một bộ phận người Thái trở về đất tổ tiên của mình. Những người từ Trung Quốc trở về Lào, Thái Lan gọi chi thứ tư của Thập nhị chi là Thỏ. Tuy vậy, vẫn có một bộ phận người Thái không di cư mà sống bám trụ tại Việt Nam và các nước khác như Thái Lan, Lào… Người Thái ở Điện Biên là tộc người đã sống từ xa xưa trên đất Việt bởi lẽ trong sổ Chóng Bang (Một kiểu sách bói toán) của họ chép chi thứ tư trong Thập nhị chi là Mẩu, tức Mão. Phát biểu của W.G. Solheim II: “Có nhiều nét tương đồng và không có sự khác biệt quan trọng giữa người dân thời đá mới ở Bản Kao với người Thái hiện nay” (2) làm chứng cho việc này! Như vậy, hoàn toàn không như L. Kelley nghĩ, “họ là những tộc người khác nhau trở thành láng giềng ở thời trung đại và đấu tranh với nhau cho đến khi người Việt rốt cuộc đã giành được sự thống trị lên người Thái.” Đó là quá trình hòa nhập của người Thái vào cộng đồng Việt khi nhà nước Việt hình thành! 3. Về bài Kinh Dịch và những thông điệp lạc lõng Để phản bác bài Kinh Dịch là của người Việt của học giả Nguyễn Thiếu Dũng, L. Kelley viết: “Gần đây có người chuyển tiếp cho tôi một bài báo xuất hiện trên một tờ báo điện tử giật tít “Kinh Dịch là của người Việt”. Đã có một nỗ lực trong nhiều năm nay trong bộ phận một nhúm người để chứng minh rằng văn bản cổ ấy do người “Việt” sáng tạo ra. Đó là một nỗ lực rất đậm chất dân tộc chủ nghĩa nhằm cố nói lấy được rằng tri thức và văn hoá “Việt” có trước tri thức và văn hoá “Tàu” và rằng Trung Quốc do đó đã vay mượn từ “Việt”, và không có điều ngược lại, như vẫn thường được tin là vậy. Tôi cần phải đọc nhiều hơn nữa các công trình của Kim Định, nhưng tôi tin rằng nỗ lực nhằm cho thấy “phương Nam” đã sáng tạo ra nền văn hoá mà giờ đây “phương Bắc” ca ngợi đã bắt đầu từ ông ấy (nhưng có lẽ có những ví dụ sớm hơn về tuyến lập luận này chăng?). Tôi đã băn khoăn từ lâu về cái gì đã thúc đẩy người ta duy trì nỗ lực tạo ra luận điểm này, khi mà hầu hết mọi người không tin vào những gì họ nói. Có phải nó chỉ là chủ nghĩa dân tộc? Liệu lòng tự ái dân tộc chủ nghĩa có thực sự mạnh mẽ đến thế? Do một sự trùng hợp ngẫu nhiên đáng kinh ngạc, một người bạn của tôi làm việc cho NASA đã gửi cho tôi một file âm thanh vào sáng nay về một loại thông điệp mà các máy ghi âm không gian của NASA đã thu thập được từ một nơi nào đó bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta. Bạn tôi nghĩ kiểu âm thanh đó nghe giống tiếng Việt, nên anh ấy gửi cho tôi. Có một chút khó nghe, nhưng tôi nghĩ họ đang nói…Kinh Dịch là của người Việt! Không hề đưa ra một chứng cứ hay luận lý nào để phản bác đối phương mà đã quy kết nặng nề họ là dân tộc chủ nghĩa sao tránh khỏi vội vàng và võ đoán?! Việc “hầu hết mọi người không tin” đâu phải là một chứng lý để phủ định? Biết bao điều nhiều người không tin mà có thật! Nhân loại đã từng không tin là Trái đất tròn thì có gì lạ khi nhiều người không tin kinh Dịch là của người Việt! Của đáng tội, cần gì vị giáo sư đại học phải phí sức đẩy một cánh cửa đã mở sẵn?! Những câu chữ hùng hồn trên chỉ nói lên rằng: giáo sư chẳng biết gì về điều mình nói! Có sự thực mà giáo sư không ngờ là chính học giả Trung Quốc cũng không dám nhận kinh Dịch là của họ. Trong một bài được in trên "Thế giới những điều chưa biết" (phần lịch sử, khảo cổ), Nhà xuất bản Giang Tô, Trung Quốc, năm 2008. Sau khi dẫn cổ thư “Bào Hy họa quái”, tác giả đưa ra cật vấn: “người ta liền nảy sinh nghi vấn rằng chẳng lẽ một thứ phức tạp như vậy mà lại do một nhân vật trong truyền thuyết là Phục Hy sáng tạo ra?” Phủ nhận Phục Hy, tác giả dẫn ý kiến cho rằng Bát quái có khả năng là do người triều Thương dùng giáp cốt để chiêm bốc, đã suy diễn từ các đường vân nứt do bị cháy trên mai rùa mà thành, đó là sáng tạo vào đời nhà Thương, chứ không phải là do Phục Hy sáng tạo ra vào thời thượng cổ theo truyền thuyết.” Thấy thuyết này không ổn, thuyết khác được đưa ra: “Còn “Kinh dịch” thì rất có thể là tác phẩm của thời nhà Chu, rất khó hiểu, cho nên Khổng Tử thời Xuân Thu đọc “Dịch”, vi biên tam tuyệt, tức ban đầu đến cả Khổng Tử đọc cũng không hiểu, đọc đi đọc lại, khiến cho dây da trâu buộc thẻ tre bị đứt tới 3 lần. Cuối cùng khi đã đọc hiểu rồi, Khổng Tử đã chỉnh sửa thêm, và như thế, “Kinh dịch” liền trở thành kinh điển của Nho gia.” Nhưng lại cũng có những người cho rằng, Bát quái và “Kinh dịch” đại diện cho quá trình diễn tiến nhận thức của người Trung Quốc cổ đại đối với các hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội… Mỗi một giai đoạn phát triển đều không thể chỉ là sự sáng tạo phát minh của một người nào đó, mà là một quá trình diễn tiến có sự kế thừa và phát triển trước sau, liên tục không ngừng. Nói họ Phục Hy sáng tạo ra Bát quái kì thực là đã quá đơn giản hóa vấn đề này.” Bài viết kết luận: “Giải thuyết cuối cùng trong số 3 giải thuyết trên tuy khá hợp lí, nhưng nó đã phủ định giải thuyết “Bào Hy họa quái” đã được lưu truyền từ mấy ngàn năm nay ở Trung Quốc, nên lại rất khó lòng được mọi người tiếp nhận. Rút cục Bát quái là do ai sáng tạo? Khi còn chưa tìm ra được lời giải đáp tốt hơn, thì vẫn đành phải dựa theo lời trong sách xưa mà qui công về cho họ Phục Hy theo truyền thuyết thôi.”(6) Ở đây người ta vì sợ “khó được lòng” đám đông nên đã hy sinh chân lý! Rõ ràng luận thuyết cuối cùng là hợp lý nhưng bị bỏ qua để rồi mèo vẫn hoàn mèo, mọi chuyện lại trở về điểm xuất phát! Đúng là Phục Hy khôngg thể làm ra Dịch mà đó là công trình của hàng nghìn người diễn ra trong hàng nghìn hàng vạn năm. Nhưng một khi đã thành tựu, thì theo tập quán xưa, công quy vu trưởng, người ta phong tặng sáng kiến của cả cộng đồng cho vị thủ lĩnh tôn kính, cũng như từng quy cho Thần Nông công “giáo dân nghệ ngũ cốc” hay Hoàng Đế làm ra Nội kinh… Nhưng Phục Hy là ai? Sách nói, ông sống khoảng 4800 năm TCN. Thời kỳ này, đất Trung Hoa hoàn toàn là giang sơn của người Việt. Phải 2000 năm sau, với cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, người Hoa Hạ mới ra đời. Đó là lớp con lai của con cháu Phục Hy, Thần Nông với những chiến binh Mông Cổ của Hoàng Đế. Nhận thức ra gốc gác ấy, người Hoa Hạ gọi mình là Viêm Hoàng tử tôn! Tại Hội thảo quốc tế Dịch học tại Sơn Đông Trung Quốc năm 2011, học giả Việt Nam Trần Ngọc Thêm đã chứng minh rằng triết lý âm dương hình thành từ thực tiễn đời sống nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, hai từ “âm dương” bắt nguồn từ hai từ “mẹ” và “trời” trong các ngôn ngữ Đông Nam Á (ina – yang). Cặp khái niệm “âm dương” với trật tự âm trước dương sau được hình thành trên cơ sở tổng hợp hai cặp khái niệm quan trọng bậc nhất trong cuộc sống của người trồng lúa nước là “mẹ cha” và “đất trời”. Nó mang đậm nét dấu tích của một truyền thống văn hoá trọng nữ Đông Nam Á, khác hẳn truyền thống trọng nam Trung Hoa thể hiện qua hai cặp từ “phụ mẫu” và “thiên địa”. ThS. Nguyễn Ngọc Thơ đưa ra hàng loạt biểu hiện của tư tưởng âm dương ngũ hành trong mọi lĩnh vực phong tục, tập quán, truyền thuyết, v.v... của Việt Nam từ xưa đến nay như những minh chứng cho tính nguyên thủy, tính tự phát của tư tưởng âm dương, lưỡng phân lưỡng hợp trong truyền thống văn hoá Việt Nam và Đông Nam Á. Bình luận về các báo cáo của đoàn Việt Nam, GS. Ngô Di (Viện nghiên cứu Chỉnh thể học California, Mỹ) nhận xét rằng: “Lâu nay giới nghiên cứu Dịch học thường chỉ dựa vào sách vở xưa và các tư liệu khai quật được từ lăng mộ mà bỏ qua quá trình phát triển lịch sử của nó. Chu dịch chắc hẳn phải là kết quả sự đóng góp của cư dân nhiều vùng, là sản phẩm phát triển qua nhiều thời đại. Do vậy việc tìm hiểu nguồn gốc Dịch học phải được mở rộng ra để nhìn từ nhiều góc độ như các học giả Việt Nam đang làm, chứ không phải chỉ giới hạn ở một nơi, bằng một loại chứng cứ quen thuộc. Tổng kết phiên hội thảo này, GS. Vương Tuấn Long (Viện nghiên cứu tư tưởng truyền thống Trung Quốc thuộc Đại học Sư phạm Thượng Hải) kết luận: Trong báo cáo của mình, GS. Trần Ngọc Thêm đến từ Việt Nam đã cho thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm trong truyền thuyết mà phải đi tìm trong sự phối hợp giữa điều kiện tự nhiên với bối cảnh lịch sử - xã hội của thực tiễn cuộc sống. Bằng những nghiên cứu tỷ mỷ, với những dẫn chứng rõ ràng, trên cơ sở phân tích tính đặc thù của cuộc sống nông nghiệp lúa nước, tác giả đã chứng minh có sức thuyết phục về nguồn gốc Đông Nam Á của tư tưởng âm dương. Hai báo cáo của các nhàkhoa họcViệt Nam liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất, cho thấy kiểu văn hoá âm dương ưu tiên mẹ hơn cha, địa hơn thiên, với một tư duy lưỡng phân lưỡng hợp rất thú vị. Nó rất khác lạ với truyền thống trọng nam Trung Hoa và khái niệm lưỡng nghi vốn rất quen thuộc ở Đông Bắc Á. (7) Đó là sự thật mới được khám phá, không hề có trong cổ thư. Cố nhiên, L. Kelly không biết! Đáng trách là ở cuối bài, giáo sư L. Kelley diễn trò đùa nhả! Điều này chứng tỏ tác giả đã không biết gì về người mình tranh biện. Nay vào tuổi 73, ông Nguyễn Thiếu Dũng từng là giảng viên Đại học Huế. Sau 1975 ông ở nhà làm thày lang chữa bệnh, nghiên cứu Đông y, Dịch lý. Ông đã phát hiện biểu tượng Âm là những dấu chấm …. Còn biểu tượng Dương là vạch liền - trên trống đồng. Trung thiên đồ do ông khám phá được nhiều nhà Dịch học Việt Nam ghi nhận, coi như cống hiến mới cho Dịch học. Trong những comments trao đổi giữa ông Dũng và Kelley, tôi thấy lời lẽ của ông nhu thuận chân tình, thực lòng muốn bàn về học thuật nhưng Kelley lại luôn tránh né! Chơi trò bất nhã với học giả đáng kính, tác giả không khỏi mang tiếng là thiếu lễ! II. Nguyên nhân những sai lầm của L. Kelley Có thể thấy hai nguyên nhân dẫn tới sai lầm của vị giáo sư Đại học Manoa. Một là bất cập về phương pháp luận. Tác giả đã áp dụng phương pháp luận là chỉ căn cứ vào văn bản. Phương pháp như vậy có thể phù hợp với phương Tây, nơi mà các quốc gia hình thành muộn và các sự kiện lịch sử được ghi chép khá đầy đủ, lại được lưu trữ tốt. Công việc của sử gia là đọc các văn bản rồi đưa ra những ý kiến của mình. Với Việt Nam, phương pháp như vậy chưa đủ. Bởi lẽ, lịch sử Việt Nam quá dài, trong đó có 1000 năm bị nước ngoài thống trị rồi khi giành được nước thì chiến tranh liên miên. Tài liệu lịch sử của Việt Nam không những ít mà còn bị cướp phá, thiêu hủy. Những gì còn sót lại thì nhiều khi đã bị xuyên tạc. Người phương Tây có ngạn ngữ: nửa chiếc bánh mì là bánh mì nhưng nửa sự thật không còn là sự thật! Do vậy, những văn bản hiện có, dù rất quý nhưng cũng không hẳn là sự thật lịch sử. Một khi cho đó là tất cả lịch sử sao tránh khỏi chủ quan, phiến diện? Vì vậy, viết sử Việt Nam rất khó. Đó không chỉ là những trang giấy mà người viết phải hiểu được hồn của sử! Điều này không dễ đối với học giả nước ngoài vốn xa lạ với văn hóa Việt. Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là, cũng như học giả phương Tây khác, L. Kelley mắc phải cái mà tôi gọi là bẫy kiến thức. Cái bẫy này do chính học giả phương Tây dựng lên trong thế kỷ trước. Đó là việc áp đặt cho phương Đông quan niệm Hoa tâm. Xuất phát từ thuyết con người xuất hiện ở Tây Tạng, đi vào Trung Hoa rồi sau đó xuống Đông Nam Á, học giả của Viễn Đông Bác Cổ cho rằng, Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Người Trung Hoa đã sáng tạo văn minh: tiếng nói, chữ viết, kinh Dịch, Nho giáo, Lễ, Nhạc… rồi truyền bá tới các dân tộc “man di” Đông Nam Á. Quan niệm như thế trở thành gông cùm trói buộc học thuật thế giới suốt thế kỷ XX! Nhưng sang thế kỷ XXI, một sự thật khác được phát lộ: Không phải Hoa tâm mà chính Việt tâm mới là dòng chảy của lịch sử phương Đông! Không phải từ Bắc xuống mà từ Việt Nam, người Việt mang nguồn gen, tiếng nói, công cụ đá mới, cây lúa, cây kê cùng văn hóa nông nghiệp đi lên xây dựng Trung Hoa! Đấy là khám phá làm đảo lộn quan niệm về lịch sử, văn hóa phương Đông. Nhưng do sức ỳ trí tuệ, không đủ khả năng tiếp nhận thông tin mới, nhiều học giả phương Tây, trong đó có L. Kelley, vẫn ngụp lặn trong tư duy cũ! III. Kết luận Lịch sử Việt Nam từng bị xuyên tạc bằng tiếng Tàu, tiếng Tây và bây giờ bằng tiếng Mỹ. Đấy là sự thật đắng cay không ai chối cãi được! Bằng những bài viết của mình, L. Kelley dường như muốn đập phá tan hoang ngôi đền sử học Việt Nam được gầy dựng từ xưa và dầy công vun đắp suốt trong nửa thế kỷ của nuớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là sự phủ định quyết liệt chính những sử gia Việt Nam hiện đại, là tác giả hay đồng tác giả của cuốn sử Việt hôm nay! Điều không bình thường là vì sao giới sử gia Việt Nam hoàn toàn im tiếng?! Có lẽ, lời đáp sát hợp nhất là họ không thể trả lời! Không thể bởi lẽ cùng đọc chung những cuốn sách mà họ khai thác khía cạnh này, trong khi đối phương khai thác khía cạnh khác, họ không có lý lẽ để phản bác! Xin dẫn chứng: khi Trần Trọng Dương “eureka” “Kinh Dương Vương chỉ là sản phẩm của văn hóa Tàu” thì các nhà khoa bảng đành ngậm tăm, thậm chí có người còn hùa theo nữa! Điều này cũng giống như trước đây, khi thấy một người tuyên bố: “Những từ như Kẻ, Mơ… chẳng hề là tiếng thuần Việt gì ráo trọi mà tất cả 100% Made in China” thì dù rất bức bối nhưng Trần Quốc Vượng chỉ có thể than thở với Cao Xuân Hạo: “Biết ông ta nói bậy nhưng không làm sao phản bác được!” (8) Sở dĩ vậy vì sử gia Việt và L. Kelley cùng đứng trên hệ quy chiếu Hoa tâm, một hệ quy chiếu chỉ cung cấp cái nhìn lịch sử từ 2000 năm trở lại nhưng là bị nhìn lộn ngược! Tuy nhiên một khi thoát khỏi hệ quy chiếu này, bước sang hệ quy chiếu Việt tâm, mọi chuyện trở nên sáng rõ. Khi giác ngộ điều này, chắc chắn, L. Kelley sẽ thấy, muốn thành nhà Việt học tử tế, phải viết khác trước! Còn học giả Việt Nam sẽ được trang bị vũ khí tuyệt vời để khám phá lịch sử, văn hóa kỳ vĩ của dân tộc. Thứ vũ khí ấy đã có và mỗi ngày được rèn thêm sắc bén. Nhưng vì sao họ không dùng để đến nỗi trở thành kẻ tội đồ khi không bảo vệ được bát hương trên bàn thờ tổ tiên? theo http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-truong-xa-hoi/2648-ha-van-thuy-hoc-gia-my-viet-ve-su-viet.html
-
Giáo sư đại học đề xuất đàn ông ế nên dùng chung vợ 24/10/2015 - 18:06 (GMT+7) Trước khủng hoảng mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc, một giảng viên Đại học tại Triết Giang (Trung Quốc) đã đưa ra giải pháp “đa phu” ở các vùng nông thôn. Giáo sư Tạ, giảng viên đại học Tài chính và Kinh tế Chiết Giang. Trước đây, chúng ta mới chỉ thường nghe thấy chế độ đa thê, nghĩa là một ngườiđàn ông có thể được lấy nhiều vợ. Tuy nhiên, hiện nay tại Trung Quốc tình trạng mấtcân bằng giới tính đang trở nên trầm trọng. Ước tính tới năm 2020, tại nước này, nam giới sẽ nhiều hơn nữ giới 33,8 triệu người. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng này là do tình trạng nạo phá thai để chọn giới tính vì tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và Trung Quốc chỉ cho phép mỗi cặp vợ chồng sinh một con nên nhiều cha mẹ muốn đứa con duy nhất của mình là con trai. Trước vấn nạn này, Giáo sư Tạ Tác Thơ, giảng viên của trường Đại học Tài chính và Kinh tế Chiết Giang đã đưa ra giải pháp: Những người đàn ông nghèo không lấy được vợ nên nhóm lại và kiếm một người phụ nữ dùng chung, gọi tắt là chế độ “đa phu”. Trên blog cá nhân, ông Tạ cho rằng, đa phu là một giải pháp nên đưa vào áp dụng ở Trung Quốc. “Trong các vùng xa xôi và nghèo đói, các anh em trai chia nhau một bà vợ, và họ vẫn sống rất hạnh phúc, chan hòa”, ông Tạ viết. Tuy nhiên, đề xuất này đã dấy lên làn sóng phản đối dữ dội. Nhiều người cho rằng, ý tưởng này là “một sự sỉ nhục”. Trong cuộc thăm dò trên Weibo, 66,5% trong 7.700 người được hỏi trả lời rằng họ không đồng ý với ý tưởng đa phu. Trước phản ứng này, ông Tạ vẫn khẳng định đây là giải pháp tốt bởi theo ông, nếu hơn 30 triệu đàn ông độc thân không lấy được vợ, họ sẽ phạm tội, gây mất ổn định trật tự. theo http://www.baogiaothong.vn/giao-su-dai-hoc-de-xuat-dan-ong-e-nen-dung-chung-vo-d125031.html ============================================================== Ở vùng sâu vùng xa của "Chung cuốc" thì thực tế là gia đình mấy anh em giai lấy chung 1 vợ, vì quá nghòe, vì quá ít phụ nữ, . . . Cái đề xuất này không mới, nhưng nó tạo tâm lý sĩ diện của đờn ông thôi mà, vì quen 1 ông lấy nhiều bà
-
Sử gia Dương Trung Quốc: Suy thoái văn hóa chạm ngưỡng, đẩy dân tộc đến hiểm họa khôn lường Gameshow trên các kênh truyền hình chính thống ngày càng vô bổ, đầy rẫy cảnh dung tục, cởi áo, cãi nhau thiếuvăn hóa, trẻ em rộ “mốt” nam giả nữ… Phim ảnh Việt chạy theo mô típ đồng tính bệnh hoạn, phổ biến cảnh sex và bạo lực đẫm máu cốt để câu khách. Những yếu tố cấu thành nên văn hóa đang ngày càng trở nên thiếu văn hóa. Sử gia Dương Trung Quốc cho rằng với cách duy trì như thế này, sự suy thoái sẽ chạm ngưỡng và sẽ đẩy dân tộc này đến những hiểm họa khôn lường. - Ông có nhận xét như thế nào, về thực trạng nền văn hóa nước ta, khi rất nhiều giá trị văn hóa đã bị suy thoái đến mức đáng báo động? Trước hết phải thấy, thực trạng này không phải bây giờ mới được nói ra, mà nó đã được nhắc đến ở rất nhiều diễn đàn khác nhau, về tình trạng đạo đức xuống cấp, và sự suy thoái của văn hóa. Sử gia Dương Trung Quốc Đã có những hiện tượng đáng báo động, khi tiêu cực xã hội gia tăng, hay những vụ án nghiêm trọng liên tiếp xảy ra. Ở đó không chỉ đơn thuần là sự biến dạng của nhân cách, mà là sự tan vỡ của rất nhiều hệ giá trị đạo đức truyền thống, như quan hệ trong gia đình, quan hệ thầy trò và nhiều quan hệ xã hội khác. - Có vẻ như để lý giải cho hiện tượng ấy, người ta nói nhiều đến nguyên nhân trực tiếp, về sự chi phối của đồng tiền, mà quên đi nguyên nhân cốt lõi, bắt nguồn từ nền văn hóa, thưa ông? Nguyên nhân của nó, người ta nói nhiều đến sự thay đổi của đời sống kinh tế. Nhưng thực ra, điều quan trọng nhất, nguyên nhân sâu xa nhất, đó chính là vai trò của văn hóa. Văn hóa chính là môi trường, và môi trường ấy chúng ta có thể soi chiếu ngay vào lịch sử để thấy tầm quan trọng. Có những thời kỳ chúng ta rất khó khăn về kinh tế như thời kỳ chiến tranh chẳng hạn, nhưng vì sao các mối quan hệ xã hội vẫn còn những yếu tố tích cực, thậm chí rất trong sáng? Còn trong thời mở cửa, hãy thử đi khảo sát một vùng đất có các dự án giải tỏa đất đai, nơi người dân đang sống một cuộc sống bình dị nhất, bỗng nhiên có trong tay nhiều tỷ bạc, mà không biết dùng số tiền ấy vào việc gì, đầu tư ra sao cho ra lợi nhuận, thay vào đó là sự tranh giành chia chác, những bi kịch nảy sinh trong chính gia đình. Từ ấy, trở lại với sự nghèo, thậm chí nghèo hơn, đau khổ hơn vì bên cạnh cái nghèo là sự tan vỡ của bao nhiêu giá trị đạo đức. Gameshow cởi áo dung tục trên sóng truyền hình 'Bệnh hoạn' - Trước khi nói đến văn hóa vĩ mô, đã thấy ngay tình trạng đáng báo động từ những yếu tố cấu thành nên văn hóa. Văn hóa chính thống đang bị che lấp bởi những yếu tố giải trí, nhảm nhí và vô bổ: Các gameshow dung tục, cởi áo, cãi nhau trên sóng truyền hình, trẻ em bắt đầu có “mốt” nam giả nữ, giới trẻ xây dựng phim sitcom bệnh hoạn… Những chương trình truyền hình thực tế, phần lớn được xây dựng theo kịch bản, mô hình có sẵn, mua bản quyền của nước ngoài. Nhưng đến khi áp dụng vào Việt Nam có độ chênh do đặc trưng văn hóa. Những chương trình ấy được thực hiện trong môi trường văn hóa còn nhiều điều chưa chuẩn mực, thậm chí hỗn loạn, nên các yếu tố tiêu cực có cơ hội phát triển mạnh mẽ, kích thích giá trị tầm thường, nhu cầu tầm thường và tầm nhìn hạn hẹp. Tất nhiên, đặt trong bối cảnh chung, nếu không có tất cả những chương trình giải trí ấy, đời sống tinh thần của người dân sẽ trở nên nghèo nàn, nhưng điều cần làm, là sự cân nhắc và thay đổi phù hợp với môi trường văn hóa hiện có. Biết rằng những chương trình mua bản quyền của nước ngoài họ đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt với phiên bản gốc, nhưng không phải vì thế chúng ta nhân danh chuyện đó để bê y nguyên của họ áp đặt vào chúng ta được. Vấn đề trở lại là cách ứng xử thế nào, và ở đây vai trò của nhà nước, của các hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội rất quan trọng. Những vai trò ấy, không phải không có, nhưng dường như nó đã để lại lỗ hổng rất lớn. - Những chương trình văn hóa chính thống thưa thớt người tham dự, ít người quan tâm, nhưng nhữngchương trình giải trí vô bổ tràn lan trên sóng giờ vàng lượng người xem ngất ngưởng. Một người trẻ sẽ không vào xem một bộ phim lịch sử dù được mở cửa tự do, nhưng sẽ rạch tay đòi tự tử nếu bố mẹ không cho tiền mua vé xem chương trình của thần tượng… Cuộc đấu tranh để lấy lại sự cân bằng này bao giờ cũng có 2 cách, một cách là ngăn tiêu cực, bên cạnh đó là kích thích tích cực, xây dựng những chương trình tích cực, để tạo ra môi trường lành mạnh hơn. Còn các bạn trẻ, điều đó khó trách, bởi một phần lỗi của chính xã hội, chứ không phải từ các cá nhân. Tất cả đều có quyền lựa chọn, vậy nếu họ không chọn những điều nghiêm túc, chính thống thì phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Tôi nghĩ, nó do phương thức thể hiện. Tại sao phim lịch sử không có người xem, bảo tàng vắng bóng, hãy thử hỏi xem bản thân những điều ấy đã hấp dẫn chưa? Nhà nước đã đầu tư bao nhiêu cho văn hóa? Hay đầu tư cũng không có hiệu quả. Lúc đó lại nói đến câu chuyện trình độ và sự thiếu chuyên nghiệp. Những bộ phim sitcom bệnh hoạn - Trong khi các cơ quan chức năng đang điều chỉnh định hướng báo chí, nhất là các trang báo mạng điện tử, về việc tiếp cận, phổ biến tin tức liên quan đến lĩnh vực văn hóa giải trí, thì ở lĩnh vực truyền hình, dường như mọi thứ lại khá thoáng và cởi mở? Tôi ủng hộ việc điều chỉnh cách đưa tin của các trang báo mạng, nhưng rõ ràng có điều gì đó đang diễn ra với lĩnh vực truyền hình, như một sự thả nổi. Vì đó là lĩnh vực có tác động rất lớn đến người dân, bởi trong con mắt của họ, cứ cái gì xuất hiện trên truyền hình là chính thống. Tất nhiên chúng ta không phải kiểm soát để biến tất cả đều trở nên cứng nhắc, nhưng cần nghiên cứu để có sự điều chỉnh hợp lý. Diễn biến hòa bình đáng sợ - Dường như, đã đến lúc cần sự nhìn nhận nghiêm túc thực trạng nền văn hóa, đạo đức đang xuống cấp nghiêm trọng. Và đặt ra câu hỏi gay gắt: Những gì đang diễn ra cổ súy cho thứ văn hóa gì? Liệu có đưa dân tộc này đến hiểm họa? Nếu chúng ta không giải quyết từ gốc, và có cái nhìn đúng đắn hơn về tầm quan trọng của văn hóa, tôi e rằng sẽ không dừng lại ở sự suy thoái về đạo đức, sự tan vỡ các giá trị truyền thống, mà với cách duy trì như thế này, sự suy thoái sẽ chạm ngưỡng, đẩy dân tộc này đến những hiểm họa khôn lường. Đó là một thứ ‘diễn biến hoà bình’ đáng sợ. - Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” để nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội, nhưng đầu tư vào lĩnh vực mang tầm tối quan trọng này hình như đang ít ỏi? Nhà nước dường như còn ít đầu tư vào lĩnh vực này, và hình như những gì đã được đầu tư còn chưa mang lại hiệu quả. Chúng ta vẫn thường cảm tính để đưa ra câu trả lời, nhưng cần một nghiên cứu thật kỹ, xem nguyên nhân chính của sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức bắt nguồn từ đâu, có tác động ra sao, nhất là trong bối cảnh đất nước đang hội nhập, có nhiều yếu tố chưa được định hình. Trong quá trình hội nhập ấy, có những cái chúng ta giữ bản sắc, nhưng có những cái phải học hỏi, ví dụ câu chuyện về tri thức tình dục ai cũng phải biết, phải đượcgiáo dục chứ không phải che đậy như ngày xưa nữa. Ví dụ để đánh giá loại phim dành cho đội tuổi nào, người ta có hẳn hệ thống tiêu chí, quy định, để nếu anh vi phạm thì sẽ bị xử lý như thế nào. Những nghiên cứu ấy sẽ đưa ra cách giải quyết phù hợp, tìm lại những giá trị văn hóa đã, và đang tan vỡ. Ta nhớ có thời kỳ đất nước gắn liền với hai chữ chiến tranh, bao cấp, có những chuẩn mực thời đó có thể khắc nghiệt, nhưng lại phù hợp trong một giai đoạn lịch sử. Rõ ràng trong quá trình đổi mới này, tôi không dám nói mình buông lỏng, nhưng mình đã không quan tâm đúng mức tới văn hóa. Thí sinh cãi nhau vô văn hóa trên sóng truyền hình Thuốc an thần không chữa được bệnh - Chúng ta vẫn thường nói đến giải pháp giáo dục văn hóa từ trong nhà trường, đó không còn là câuchuyện mới, nhưng hiệu quả, thì còn nhiều điều cần bàn? Cần một sự đồng bộ hóa, giáo dục văn hóa và tạo ra môi trường văn hóa, bắt kịp xu hướng thời đại. Không thể dừng lại ở cách giáo dục văn hóa nửa vời. Có thể thấy, câu chuyện bóng đá người trẻ có thể thể hiện được sự văn hóa của mình, câu chuyện đám tang của một danh nhân họ thể hiện được, nhưng môi trường ấy quá ít, trong khi môi trường khác thì xuất hiện hàng ngày. Mà theo quy luật tâm lý, cái xấu thì dễ học hơn, cái tốt, càng đàng hoàng tử tế không dễ học, nhất là trong xã hội này. Những nhà nghiên cứu văn hóa trong hoạch định chính sách, cần đưa ra những nhận thức dựa trên cơ sở khoa học, bởi nếu không có khả năng nhận thức và suy xét, rất có thể anh lại đưa ra chính sách sai lầm. Văn hóa, giáo dục hay đời sống xã hội đều nói đến hệ thống giá trị, và nhiều hệ thống giá trị của chúng ta đang đảo lộn. Trào lưu giả gái đáng báo động trên truyền hình - Liệu có giải pháp nào mang tính tức thời hơn, để ngăn chặn tình trạng suy thoái văn hóa, mà không phải quá trình diễn tiến lâu dài và mô phạm trên sách vở, bởi vấn đề đã được đặt ra một cách bức thiết? Xã hội là phức hợp rất phong phú và đa dạng, anh không thể lấy một yếu tố, mà phải tổng hòa tất cả những giá trị chung được thừa nhận. Yếu tố suy thoái văn hóa phải được nhìn từ gốc, và giải quyết triệt để từ những cái ‘hắt hơi sổ mũi’ ban đầu, trước khi nó thành ung nhọt nặng nề. Đây không còn là câu chuyện giải quyết từ ngọn, giải quyết từ ngọn đôi khi hết sức giả. Tôi lấy ví dụ ngay những cuộc phát động rất tốn kém, như một kiểu hình thức chủ nghĩa mà chúng ta duy trì như thứ thuốc an thần. Mà nên nhớ, thuốc an thần không chữa được bệnh. Hay như việc nói dối, từ lâu đã được quan niệm là việc rất xấu trong xã hội. Nhưng có thể thấy từ trong giáo dục đến hoạt động xã hội, chúng ta vô tình hay hữu ý đã kích thích nói dối. Đứa trẻ trong nhà trường được dạy cách nói dối, người lớn được dạy cách lên án tham nhũng, nhưng lại ký 2 chữ ký trong một cuộc họp để lấy thêm một suất bồi dưỡng tương xứng với tiền đi taxi tới dự. Chúng ta hồn nhiên như không với tất cả những điều ấy, nhưng thực chất, nó chính là cái hắt hơi sổ mũi đầu tiên. Chúng ta không chịu động não, không chịu thay đổi từ gốc, thì không thể tìm ra phương thức giải quyết. Các thí sinh trong một chương trình dùng khăn Piêu của người dân tộc Thái làm khố của người Tây Nguyên. - Cái ‘giả’ ấy, chính là vỏ bọc khoác bên ngoài che đi sự xuống cấp đến mức đáng báo động của văn hóa? Sự thật đang diễn ra như này, dù được phủ lên trên rất nhiều hào nhoáng bóng bẩy, nhưng bên trong nó sẽ càng mưng mủ, sưng tấy lên, và hậu quả sẽ nguy hại đến mức không lường trước được. Cho nên tôi vẫn nói một nguyên lý tưởng như rất đơn giản, là dám nhìn thẳng vào sự thật, nói lên sự thật, để làm cho sự thật thay đổi theo chiều hướng tích cực. - Nhưng chúng ta đã xây dựng rất nhiều hệ thống chế tài, liệu có thể áp dụng triệt để như một cách giải quyết ‘dọn đường’ cho sự thay đổi về lâu dài, ví như một chương trình quá lố lăng lên sóng truyền hình, có thể phạt, và cấm chiếu; một bộ phim cổ súy cho lối sống lệch lạc, có thể đưa ra những hình thức xử phạt đích đáng? Tôi cho là nên có sự chia sẻ về thông tin, giữa những người làm chương trình ấy, với công chúng và cơ quan quản lý. Ví như một chương trình được mua bản quyền, có những ràng buộc về quy định chúng ta phải chấp nhận, nhưng sẽ phải có cách tác động để phù hợp hơn với văn hóa trong nước, hạn chế mặt tiêu cực. Hay ai cũng biết, hệ thống truyền hình có tác động rất mạnh mẽ đến đời sống nhân dân, có thể sử dụng ngay hiệu quả của nó để phát huy những chương trình đề cao yếu tố văn hóa. Còn khi có những ý kiến được đưa ra, tôi nghĩ nhà đài nên chủ động giải thích, trao đổi và điều chỉnh, không nên thả nổi, dẫn đến việc người dân bức xúc, nhà đài hành thì xử theo tư duy của mình, lợi nhuận của mình. theo http://vtc.vn/su-gia-duong-trung-quoc-suy-thoai-van-hoa-cham-nguong-day-dan-toc-den-hiem-hoa-khon-luong.2.524181.htm ============================================================= Nhức cái đầu
-
Bà Bành Lệ Viện gặp “sự cố trang điểm” ở London Trong buổi yến tiệc được tổ chức tại London (Anh) tối 21/10, Đệ nhất phu nhân Trung Quốc Bành Lệ Viện bất ngờ bị "tai nạn hóa trang" khi chụp ảnh. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng phu nhân Bành Lệ Viện, đã tham dự buổi tiệc do giám đốc Trung tâm Tài chính London Alderman Alan Yarrow chủ trì tối 21/10. Vợ của giám đốc Trung tâm Tài chính London Alderman Alan Yarrow, bà Gilly Yarrow, vui mừng chào đón Đệ nhất phu nhân Trung Quốc. Tuy nhiên,Đệ nhất phu nhân Trung Quốc Bành Lệ Viện đã gặp "sự cố trang điểm" khi chụp ảnh. Những bức ảnh ghi lại cho thấy, khuôn mặt của bà Bành lộ rõ lớp bột màu trắng trên trán và mũi. Nguyên nhân là do phấn phủ silica phản chủ khi bị ánh đèn flash của máy ảnh chiếu vào. Đệ nhất phu nhân Trung Quốc nâng cốc chúc mừng trong buổi tiệc. Vợ chồng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chụp ảnh cùng vợ chồng giám đốc Trung tâm Tài chính London Alderman Alan Yarrow và Hoàng tử Andrew trong buổi tiệc tại Guildhall. Vợ chồng ông Tập Cận Bình cười tươi trong buổi tiệc. Buổi tiệc có sự tham dự của Hoàng tử Andrew, Công tước xứ York (ngoài cùng bên phải). Bà Bành Lệ Viện lấy lại vẻ đẹp quý phái sau sự cố trang điểm. ...và vỗ tay sau bài phát biểu tại buổi tiệc của Chủ tịch Tập Cận Bình. theo http://vietbao.vn/The-gioi/Ba-Banh-Le-Vien-gap-su-co-trang-diem-o-London/150577282/159/ ============================================================== Ái chà chà, sau lớp son phấn đẹp đẽ là bộ mặt nhìn . . . hì hì
-
Đến tòa ly hôn, vợ đâm chết chồng ngay tại sân tòa Ngay sau khi cả hai vợ chồng làm xong các bản tự khai tại tòa án để giải quyết ly hôn, ông Vũ Quang Hiển đã bị vợ rút dao đâm chết tại sân tòa án. Tối 16-10, tin từ Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước cho hay đã tiến hành mổ tử thi, khám nghiệm hiện trường để điều tra nguyên nhân cái chết của ông Vũ Quang Hiển (54 tuổi, ngụ thôn 5, xã Đăng Hà, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước). Theo thông tin ban đầu, khoảng 11g cùng ngày, ông Hiển và vợ là bà Đinh Thị Hiền (45 tuổi) đến Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng để làm thủ tục ly dị. Sau khi viết xong bản tự khai hai người ra về. Tuy nhiên, khi vừa ra đến sân tòa, hai người cãi vã lớn tiếng. Quá bực tức nên bà Hiền đã rút con dao gọt trái cây thủ sẵn trong người đâm nhiều nhát vào người chồng, trong đó có nhát chí mạng trúng tim khiến ông Hiển gục chết ngay sân tòa. Sau khi gây án, bà Đinh Thị Hiền đã bị công an bắt ngay tại chỗ. Được biết, bà Hiền và ông Hiển từng ly dị rồi lại tái hôn năm 2012. Hai người chưa có con chung. Thời gian gần đây hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên lại đến tòa làm thủ tục ly hôn. Theo http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20141016/vo-chem-chet-chong-ngay-tai-san-toa/659125.html ====================================================================== Thời thế đã thay đổi, các anh trai cẩn thận nhé :blink:
-
Viettel khai trương mạng Halotel tại Tanzania Thứ sáu, 16/10/2015, 10:25 (GMT+7) (SGGP).- Ngày 15-10, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) chính thức khai trương dịch vụ viễn thông với thương hiệu Halotel tại thị trường Tanzania. Với hơn 50 triệu dân, Tanzania là quốc gia đông dân nhất trong số 8 thị trường nước ngoài mà Viettel đang cung cấp dịch vụ. Halotel - thương hiệu được Viettel lựa chọn cho dự án của mình tại Tanzania là mạng viễn thông duy nhất phủ sóng di động, đặc biệt là 3G trên toàn quốc. Viettel cũng xây dựng hạ tầng cáp quang của Halotel lớn gấp 2,5 lần tổng số cáp quang trục quốc gia của Tanzania. Xây dựng hạ tầng cáp quang tại Tanzania. Ảnh: Viettel Việc chính thức kinh doanh tại Tanzania, thị trường thứ 4 ở khu vực châu Phi sau Mozambique, Cameroon và Burundi giúp Viettel mở rộng hiện diện và nâng cao đáng kể tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực này. Viettel hiện chính thức kinh doanh tại 10 nước ở khu vực châu Á, châu Mỹ và châu Phi với tổng dân số hơn 260 triệu người, 75 triệu khách hàng. Tổng doanh thu của Tập đoàn Viettel năm 2014 đạt gần 10 tỷ USD, trong đó doanh thu từ hoạt động kinh doanh viễn thông tại nước ngoài đạt 1,2 tỷ USD. ===================================== Rất cần những tập đoàn năng động như Viettel
-
Hàng trăm người sập bẫy 'đại tá quân đội Mỹ' qua mạng Cảnh sát ghi nhận có 162 người chuyển gần 10 tỷ đồng nộp phí cho món quà của "đại tá quân đội" gửi về bị "kẹt ở sân bay". Ngày 13/10, Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tục ghi nhận những nạn nhân nghi bị người nước ngoài lừa đảo gần 10 tỷ đồng qua mạng xã hội. Trước đó, đầu tháng 7, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ (PC46) Công an Đồng Nai nhận đơn của bà Nguyễn (ngụ huyện Long Thành) tố cáo bị người đàn ông xưng tên Eric Townsend (53 tuổi) lừa đảo. Theo nạn nhân, Eric Townsend làm quen với bà trên mạng xã hội, giới thiệu là đại tá quân đội Mỹ, đang chiến đấu tại Afghanistan. Ông ta cho biết vợ đã qua đời nên muốn tìm bạn gái tâm sự. Sau một thời gian trò chuyện, Eric Townsend hứa sẽ đến Việt Nam kết hôn với bà Nguyễn. Ông ta bảo gửi cho "vợ sắp cưới" thùng quà có 1,8 triệu USD cùng một số giấy tờ liên quan. Những ngày sau đó, bà Nguyễn nhận được email của người xưng là Steven cho biết thùng hàng Eric Townsend chuyển cho bà khi đến sân bay Việt nam đã bị kẹt, cần một số tiền "thông quan". Tin lời, bà Nguyễn chuyển 2,2 tỷ đồng vào 6 tài khoản mà người này đưa, trong đó 5 tài khoản đứng tên người Việt Nam, một tài khoản đứng tên người nước ngoài. Mở rộng điều tra, Công an Đồng Nai xác định có 162 bị hại trên cả nước cũng chuyển gần 10 tỷ đồng vào 6 tài khoản mà bà Nguyễn bị lừa. Mới đây, Công an Quảng Ngãi cũng đang mở rộng điều tra đường dây lừa đảo bằng thủ đoạn tương tự của nhóm người nước ngoài, chiếm đoạt nhiều tỷ đồng của các phụ nữ Việt Nam. Hồi cuối tháng 9, TAND TP HCM đã tuyên phạt Mbouwe Ebubu (41 tuổi, người Nam Phi) 7 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hành vi tương tự. theo http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/hang-tram-nguoi-sap-bay-dai-ta-quan-doi-my-qua-mang-3294960.html =================================== Lòng tham đã làm con người ngu muội, chán nhỉ
-
Thủ tướng Thái Lan Prayuth nguyên là một tướng Quân đội Hoàng gia Thái Lan. Từ tháng 10/2010, ông là tư lệnh lục quân Thái Lan. Ngày 22/5/2014, ông đã chỉ huy cuộc đảo chính và lên làm Thủ tướng. Ngày chuyển về dinh Thủ tướng ông ta đã chọn đúng ngày tam nương. Tuy thông tin này đăng từ 2014, nhưng cho chúng ta thấy là Thái lan liên tục phạm ngày Tam nương, nên chính trường Thái lan vẫn còn mất ổn định
-
Thủ tướng Thái Lan dùng nước thánh và phong thủy cầu may 10/09/14 10:13 (GDVN) - Ông Prayuth xem xét kỹ và lựa chọn thời điểm 9 giờ sáng 9/9 để "nhập trạch" trụ sở mới. Thủ tướng Thái Lan Prayuth. Bưu điện Hoa Nam ngày 10/9 đưa tin, trong khi chuẩn bị tới Văn phòng Thủ tướng ở Bangkok làm việc, Thủ tướng Thái Lan Prayuth Chan-ocha đã tìm đến sự trợ giúp tâm linh. Ông Prayuth 60 tuổi đã dẫn đầu một cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính phủ tiền nhiệm hôm 22/5. Sau khi lên kế hoạch tỉ mỉ, ông đã có hệ thống dập tắt các lực lượng bất đồng chính kiến. Giống như nhiều chính trị gia và các tướng quân sự trước ông, Prayuth tin vào thần linh và bói toán. Hôm Thứ Hai, ông cùng các thành viên đoàn tùy tùng dã được nhìn thấy rước tượng Phật và các biểu tượng tôn giáo được cho là đem lại may mắn vào Văn phòng Chính phủ. Nhưng niềm tin của Prayuth đi xa hơn tôn giáo, tín ngưỡng thông thường khi hồi tuần trước Prayuth đã nói với một người thân cận rằng ông đã phải dội nước thánh từ đầu đến chân bởi vì kẻ thù đã cố gắng để nguyền rủa ông. Các quan chức quân đội Thái Lan nói rằng theo quan điểm của họ, các hoạt động nghi lễ tâm linh để tránh khỏi cái ác không có khả năng ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ. "Giống như hầu hết người Thái, Thủ tướng Prayuth có một sự tôn trọng sâu sắc với thế giới tâm linh, nhưng chính sách của ông sẽ được quyết định bởi tính cấp thiết, tính thực tiễn và nhu cầu của nhân dân", Phó phát ngôn viên quân đội Thái Lan Veerachon Sukhontapatipak cho biết. Thời gian bắt đầu làm việc tại Văn phòng Thủ tướng lần đầu tiên cũng được ông Prayuth xem xét kỹ và lựa chọn thời điểm 9 giờ sáng 9/9 để "nhập trạch" trụ sở mới. 9 được xem là một con số tốt lành ở một đất nước ccon số có nghĩa với tất cả mọi thứ. Đồ đạc trong Văn phòng của ông Prayuth được sắp xếp theo các nguyên tắc của phong thủy. Bàn làm việc của Thủ tướng Thái Lan được đặt ở phía Đông phòng làm việc được xem như sẽ hỗ trợ mọi thứ thông đồng bén giọt. Màu sắc trong tòa nhà Văn phòng Chính phủ Thái Lan chủ yếu là xanh lá cây vì đây là màu đặc trưng của quân đội và Prayuth, chỉ huy quân đội, một người phụ tá nói. Thành viên của đoàn tùy tùng đặt 3 pho tượng Phật trong tòa nhà Văn phòng Chính phủ để "tiêu diệt ma chướng". Những người chỉ trích nói rằng sự tồn tại của những niềm tin này gây tổn hại cho nền dân chủ và quá trình chính trị nên được quyết định bởi ý chí của người sống chứ không phải là niềm tin tâm linh và các vì sao. Kan Yuenyong, một nhà phân tích chính trị tại Siam Intelligence Unit cho biết: Không chỉ Prayuth, hầu hết các nhà lãnh đạo Thái Lan đều có niềm tin vào tâm linh. Nó có thể là điều nguy hiểm, bởi thay vì phân tích một tình huống theo sự kiện và tình hình chính trị thực tế, họ có thể dựa vào chiêm tinh bói toán để thay thế và làm trầm trọng thêm một tình hình biến động. theo http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Thu-tuong-Thai-Lan-dung-nuoc-thanh-va-phong-thu ======================================== Mấy bác Thailand này cũng mê phong thủy quá hỉ :D Dùng cả nước thánh của bên Thiên chúa. Trong văn phòng thì trấn luôn tượng Phật. Hiz hiz
-
Nỗi buồn của nhà sáng chế ra xe chạy bằng nước lã 06/10/2015 05:02 (TNO) Cả đời say mê với khoa học với nhiều công trình 'mang tầm vóc quốc tế' nhưng nay đã 75 tuổi, kỹ sư Vũ Hồng Khánh vẫn buồn phiền vì những công trình của ông chưa được chuyển giao, áp dụng. Khí tách ra được dùng làm nhiên liệu đốt cháy có nhiệt độ rất cao Trong một khu nhà cũ kỹ dưới chân cầu Niệm (TP.Hải Phòng), có một cỗ máy đầy chú thích được viết bằng tay và ông Vũ Hồng Khánh bảo đây là máy tách oxy và hydro từ... nước. Ông lấy một chai nước đổ vào máy, đồng thời uống luôn một ngụm để chứng minh đó là... nước. Khoảng 20 giây khởi động, một luồng khí từ trong máy thoát ra ngoài qua một đường ống, ông bảo đó là hydro và châm lửa đốt và tạo ra một ngọn lửa sáng rực, màu đỏ hồng. Ông Khánh nói hydro là khí đốt cho nhiệt lượng cao nhất và dùng ngọn lửa để hàn một thanh thép chỉ trong khoảng nửa phút. Theo ông Khánh, với 1 lít nước, chiếc máy này có thể hoạt động liên tục trong 10 tiếng đồng hồ. Rồi ông dẫn hydro vào một chiếc máy cũ trông giống như một chiếc xe máy, mỗi khi ông Khánh điều chỉnh đường ống thì chiếc máy cũng nổ to hoặc bé, giống như người ta vặn ga xe máy. Bỗng một tiếng nổ chát chúa, ông Khánh mặt tỉnh bơ, nói: “Máy cũ, lấy ở bãi rác nên bị hở, không sao đâu”. Ông Khánh bên những bằng khen, ảnh kỷ niệm Rồi ông bảo: “Sinh nghề tử nghiệp mà cháu, tai nạn trong lúc chế tạo là chuyện bình thường. Có lần ông tách hydro vào lọ thủy tinh, khi ngó đầu vào kiểm tra thì khí bốc cháy, làm trụi hết lông mày. Một lần khác thì bị cháy sạch tóc”. Nói xong về chiếc máy máy tách hydro và oxy từ nước, ông Khánh dẫn tôi ra chiếc máy “chế tạo nhiên liệu tên lửa”. Cũng theo nguyên lý tách hydro và oxy từ nước, nhưng chiếc máy này tiên tiến, cao cấp hơn khi hydro thu được dưới dạng chất lỏng, cũng cháy và tạo ra tiếng rít như tên lửa thật. Tôi đứng xa đến 2 m mà vẫn thấy hơi nóng phả vào mặt. Ông Khánh và chiếc máy tách hydro, oxy từ nước Nguyên lý hoạt động của hai chiếc máy này là dùng phương pháp điện phân để tách hydro, oxy khỏi nước. Nước khi cho vào máy sẽ được pha thêm chất phụ gia. Hydro sau khi được tách ra sẽ dẫn về những bình giảm nhiệt rồi dẫn ra để sử dụng. Bảo quản hydro an toàn nhất là hóa lỏng ở nhiệt độ âm cao. Tuy nhiên việc này sẽ tốn chi phí lớn nên ông Khánh chưa làm được. Chính vì vậy, ngoài việc sử dụng để hàn nhiệt, cắt gọn thì chiếc ô tô với động cơ đốt trong chạy bằng hydro tách từ nước là ứng dụng tốt nhất của ông. Ông Khánh mất vài triệu để cải tiến chiếc Kia Morning của mình. Ông gắn máy tách hydro lên xe, bơm khí tách được vào động cơ đốt trong cùng với xăng để làm cho xe hoạt động. Kết quả, chiếc xe tiết kiệm được 35% nhiên liệu so với xe thông thường. Mặc dù mới dừng lại ở mức thử nghiệm nhưng "sản phẩm" này đã cho thấy tính thực tiễn từ “dự án” tách hydro từ nước của ông Khánh. Trong khu nhà kho cũ kỹ này, ông Khánh đã tự chế ra nhiều điều thú vị. Đó là xăng sinh học, công nghệ tái sinh dầu thải, máy cắt hơi tự động, máy cắt sắn tự động. Việc suy nghĩ, sáng tạo với người kỹ sư từng tốt nghiệp khoa Chế tạo máy, Trường đại học Bách khoa Hà Nội là không ngừng nghỉ. Ông nói: “Kiến thức có thể ở khắp mọi nơi, mỗi người tùy vào khả năng sẽ vận dụng, sáng tạo kiến thức theo những cách khác nhau. Tôi trung thành với khoa học và khoa học đã mang lại tất cả cho tôi”. Ông Khánh cũng từng lập một doanh nghiệp tư nhân mang tên Khánh Hòa chuyên sản xuất vành xe đạp bằng dây chuyền tự động. Những năm 2000 đến 2005 là thời kỳ hoàng kim. Vành xe đạp inox Khánh Hòa không chỉ được ưa chuộng trong nước mà còn xuất khẩu tới một số nước châu Á. Thế nhưng, vì nhiều lý do, doanh nghiệp của ông đã dừng hoạt động từ 5 năm trước. Có tiền, ông đầu tư vào nghiên cứu khoa học. Ông bảo: “Càng ngày những nghiên cứu của tôi càng mang tầm vóc quốc tế. Như công trình tách hydro từ nước tôi đang hoàn thiện để xin cấp bằng sáng chế, độc quyền để có thể áp dụng vào công nghệ sản xuất động cơ đốt trong, chế tạo tên lửa và các vũ khí khác. Nói chung là thay thế những nguyên liệu đang dùng như gas, dầu, than đá”. Rồi ông chỉ vô số bằng khen, giấy chứng nhận, huy chương các loại treo trong xưởng và phòng làm việc... Ông Khánh bên những văn bản, giấy tờ chứng nhận sản phẩm, công trình nghiên cứu của mình Tiếc rằng, theo ông Khánh, hàng trăm phát minh, đề tài của ông vẫn nằm im trong xưởng. Ông trăn trở: “Nhà nước mình chưa mạnh dạn đầu tư cho những nhà khoa học thực tiễn. Tôi hay anh Hòa (chế tạo tầu ngầm), anh Hải (chế tạo máy bay) cứ mãi say mê nghiên cứu nhưng rồi để đấy”. Ông Khánh cho biết cũng đã có đối tác nước ngoài tìm đến ông muốn hợp tác nhưng ông đều từ chối. Ông bảo những “phát minh” của mình chỉ nên áp dụng cho nước nhà. Năm 2012, tại Hà Tĩnh, ông Khánh đã ký một hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất vành xe inox với giá trị hơn 37 tỉ đồng nhưng dự án đổ bể vì đối tác... thiếu tiền. theo http://www.thanhnien.com.vn/doi-song/noi-buon-cua-nha-sang-che-ra-xe-chay-bang-nuoc-la-616078.html ============================================ Thông tin báo chí đăng tải về vụ này cũng mấy lần. Không hiểu vì sao không thấy Chính phủ có ý kiến. Dù không công nhận hay phản biện gì, thì cũng công bố cho mọi người biết ntn
-
Nỗi lo bây giờ thành sự thật: Người Hồi giáo tị nạn yêu cầu hủy Lễ hội bia Oktoberfest ở Đức ! Nguồn: Á Châu Thời Báo 09/30/2015 Nỗi lo bây giờ đã trở thành sự thật, chỉ còn là vấn đề về thời gian khi dòng người tị nạn đổ xô vào Châu Âu bắt đầu áp đặt những tư tưởng Hồi giáo của họ lên châu lục này. Morad Almuradi, một người Hồi giáo ở Hà Lan đã tổ chức một cuộc vận động trên trang Change.org yêu cầu Hội đồng thành phố Munich hủy bỏ Lễ hội 16 ngày bia Oktoberfest. Đây là những gì anh ta viết: “Thưa Hội đồng thành phố Munich, Tôi viết tâm thư này để lôi kéo sự chú ý của các người về những vấn đề mà tôi và nhiều tín đồ Hồi giáo khác cảm thấy bất công. Tôi muốn nói rằng: Lễ hội bia Oktoberfest là một sự phỉ báng và bài xích đạo Hồi. Chúng tôi đã cố không để tâm tới Lễ hội, nhưng đã có quá nhiều những hành động mà chúng tôi cho rằng nó phi Hồi giáo như: uống quá nhiều bia rượu, khỏa thân nơi công cộng, và nó ảnh hưởng đến chúng tôi. Chúng tôi hiểu rằng: Oktoberfest là Lễ hội truyền thống của nước Đức, nhưng chúng tôi không thể chịu đựng được sự kiện mang tính phi Hồi giáo này, vì nó xúc phạm đến tất cả những người đạo Hồi trên thế giới. Chúng tôi yêu cầu các người hủy bỏ Lễ hội Oktoberfest ngay lập tức ! Chúng tôi cũng tin rằng: Lễ hội Oktoberfest cũng có thể ảnh hưởng đến những đồng đạo Hồi giáo tị nạn đến từ Syria, Iraq, Afganishtan. Hủy bỏ Lễ hội Oktoberfest sẽ giúp họ rất nhiều trong việc ghi nhớ những giá trị truyền thống của đạo Hồi. Cảm ơn sự quan tâm của các người. Chân thành, Morad Almuradi.” ====================================== Châu âu lo đánh IS, nhưng còn mầm mống ngay trong lòng thì làm sao mà xử ? Dân hồi giáo mong muốn nhập quốc tịch châu âu, là thành công bước đầu, sau đó là thể hiện quyền dân chủ, hihi đúng là được voi, đòi tiên :ph34r:
-
Đây mới là dân chơi phong thủy chính hiệu của China nè :D ông này có lẽ phải sơn nhà màu xanh, mặc áo xanh, quần xanh, chén cơm màu xanh, ăn đậu xanh luôn. . . tóm lại cái gì cũng xanh cho hợp mạng. ============================================= Sơn vách núi thành màu xanh cho hợp phong thủy Cho rằng màu xám trắng của vách núi ảnh hưởng xấu đến ngôi nhà, một người đàn ông ở Trùng Khánh, Trung Quốc, đã thuê người sơn hẳn vách núi thành màu xanh cho hợp phong thủy. Yang Zhigang đã thuê hẳn một đội công nhân khoảng năm đến sáu người và cùng nhau leo lên vách núi chênh vênh cao đến 900 mét để phun sơn. Hơn 2,000 mét vuông diện tích trên vách núi màu xám đã biến thành xanh một tuần sau đó. Tuy chưa biết màu sơn mới sẽ ảnh hưởng thế nào đến phong thủy của ngôi nhà nhưng chính quyền địa phương đã đang xem xét về mức độ thiệt hại môi trường cũng như trách nhiệm của ông Yang trong việc này. Còn bản thân ông lại cho rằng vách núi trông đẹp hơn nhiều với màu xanh mới. "Tôi nghĩ vách núi trông rất đẹp với nước sơn mới. Chuyện này thì có gì để mà bàn cãi đúng với sai?", ông hỏi. theo http://dantri.com.vn/chuyen-la/son-vach-nui-thanh-mau-xanh-cho-hop-phong-thuy-20150807091110958.htm
-
Lập phố 'đèn đỏ', mở casino: Người Việt ai dám vào? - Casino là trò chơi của người giàu, có tiền thì chơi, hay là tệ nạn xã hội? Gần 48% số người được hỏi trong một khảo sát gần đây ủng hộ việc cho người Việt Nam vào sòng bài chơi. Và khoảng 6,6% số người này sẵn sàng chi trên 3 triệu trở lên để thử vận may rủi. Có tiền thì chơi Thái độ của người dân đối với sòng bài ngày nay đã cởi mở hơn rất nhiều so với trước đây - ông Nguyễn Đình Chúc, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển bền vững Vùng, nhận xét. Điều này thể hiện rõ nét ở cuộc khảo sát điều tra xã hội học về vấn đề hợp pháp hoá sòng bài, do Viện này công bố hôm 30/9. Lần đầu tiên Việt Nam nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học đầy đủ về ngành công nghiệp giải trí này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, suy nghĩ về hình thức hợp pháp hoá casino của người dân cũng khá trung lập. Gần 78% người dân được hỏi cho rằng casino là nơi vui chơi có thưởng như mọi loại hình vui chơi khác, số còn lại cho rằng có là trò cho giới nhà giàu. Ngoài ra 16,5% người dân trả lời rằng, casino chỉ là nơi để "giết" thời gian rảnh rỗi trong khi 11,7% thì cho rằng, đó là nơi tiêu tốn và làm lãng phí thời gian. Trong khi có tới 29,3% người dân được hỏi nhìn nhận casino là nơi tập trung các tệ nạn xã hội thì lại có 8,5% người dân nhìn nhận, đó là nơi tạo lập, duy trì các quan hệ xã hội. Đặc biệt, với câu hỏi có nên cho người Việt Nam được vào chơi casino trong nước hay không, theo kết quả khảo sát, gần một nửa (47,8%) người trả lời cho rằng, ai cũng có thể vào chơi được. Lý do ủng hộ là bởi, họ coi đây là nơi giải trí (chiếm 72%), là quyền tự do của người chơi (47,6%), là nơi tìm kiếm vận may (39,6%). Tuy nhiên, cũng có 16,6% ý kiến phản đối, không nên cho người Việt Nam vào chơi. 29,3% quan điểm rằng chỉ nên cho một số đối tượng nhất định vào chơi casino. Họ lo ngại các tác động tiêu cực mà casino gây ra, như suy giảm đạo đức xã hội (62,2%), gia tăng tội phạm có tổ chức (48,6%) và gia tăng bạo lực (43,2%). Năng lực tài chính của người tham gia chơi casino cũng được khảo sát khả cụ thể. Cụ thể, gần 1/3 người trả lời sẵn sàng chi trả dưới 100.000 đồng. Với mức cao hơn, từ 500.000-1 triệu đồng thì có 18,7% số người sẵn lòng chi trả chơi casino. Với 1-3 triệu đồng, tỷ lệ này là 22% và 6,6% người dân trả lời có thể đầu tư 3 triệu đồng để vào chơi casino. Ông Chúc cho biết, khoảng 4,4% số người được hỏi có thu nhập trên 20 triệu đồng và khoảng 20% có thu nhập từ 10-20 triệu đồng, còn lại đa phần thu nhập dưới 10 triệu đồng/tháng. Với một bức tranh như vậy, ông Chúc cho biết, khá nhiều ý kiến đề nghị cần hạn chế các đối tượng tham gia chơi casino, trong đó là giáo viên, học sinh sinh viên, cán bộ nhà nước và lực lượng vũ trang. Những đối tượng này có thể chơi casino với nguồn tiền tham nhũng, hoặc là đối tượng chưa đủ năng lực tài chính. Kiên Giang dự kiến xây khu casino ở Bãi Dài, Phú Quốc Sòng bài cần có cơ quan quản lý Hầu hết các chuyên gia kinh tế góp ý về nghiên cứu này bày tỏ ủng hộ việc hợp pháp hoá casino ở Việt Nam. Ông Mai Quỳnh Nam, Viện nghiên cứu con người, chia sẻ: "Cách đây 2 tháng tôi có tham gia phản biện một nghiên cứu về đổi mới tư duy liên quan đến tệ nạn xã hội, trong đó có cờ bạc. Nhưng nghiên cứu này cũng cho thấy một cách tiếp cận mới đáng suy nghĩ". "Ở đây, rõ ràng có mối quan hệ tương quan giữa quyền con người và mức thu nhập của người dân, có tiền thì quyền cá nhân cao, có tiền là có thể làm được nhiều việc như chơi casino", ông nói. Dẫn lại câu chuyện TP.HCM dự kiến thí điểm phố đèn đỏ, ông Nam bày tỏ: "Việt Nam nên phát triển casino nhưng chú ý đến thể chế chính sách cho rõ ràng bởi đây là vấn đề tương đối nhạy cảm. Muốn thay đổi thể chế quản lý ngành này thì phải thay đổi tư duy". Ông Nguyễn Trọng Xuân, Viện Kinh tế Việt Nam, bày tỏ sự tiếc nuối khi nghiên cứu này chưa đào sâu các vấn đề về kinh tế. "Nếu như khảo sát có thêm nghiên cứu về kết quả chơi lãi, lỗ ra sao của người chơi hay chỉ là bỏ tiền mua vui thì sẽ mang tính kinh tế hơn". Tuy nhiên, "các tác động tích cực của casino như tăng thu ngân sách hay làm phát triển ngành du lịch Việt Nam là có cơ sở khoa học", ông Xuân nhìn nhận. Có kinh nghiệm 7 năm nghiên cứu về lĩnh vực sòng bài, GS. Hà Tôn Vinh cho hay, nhiều tập đoàn quốc tế lớn trên thế giới trong casino thế giới đang nhắm đến Việt Nam như một điểm đến hấp dẫn. Nhiều nước cũng đã có động thái mở cửa casino cho người dân bản địa tham gia như Nhật Bản... Quan niệm "cờ bạc là bác thằng bần" chỉ còn đúng ở thời 50 năm trước. "Nếu như báo cáo bổ sung thêm nghiên cứu về những chuyển biến tích cực ở các dự án đầu tư casino trên thế giới thì sẽ thuyết phục hơn", GS Vinh bày tỏ. Tác giả nghiên cứu, ông Nguyễn Đình Chúc lưu ý, kinh nghiệm các nước cần phải hoàn thiện sớm hành lang pháp lý, thành lập cơ quan chuyên trách quản lý casino. Để tránh các tác động tiêu cực, Việt Nam cần thử nghiệm thí điểm việc người Việt vào chơi casino trước khi chính thức hoá. Đặc biệt, nếu Việt Nam hợp pháp hoá thì công tác tuyên truyền để người chơi kiểm soát được hành vi của mình là cần thiết. theo http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/265002/lap-pho--den-do--mo-casino-nguoi-viet-ai-dam-vao.html ==================================================================== Qui luật thị trường đã có rồi mà, suy nghĩ gì nhiều, có cầu thì ắt có cung Cờ bạc hay mại dâm cũng đã có từ hàng ngàn năm và sẽ tiếp tục tại song hành cùng đời sống con người :D
-
Những vùng đất thiêng: Kỳ bí Hoành Sơn Núi Hoành Sơn nằm trên địa bàn xã Bình Tường (huyện Tây Sơn, Bình Định) được dân gian lưu truyền là nơi được chôn cất cha và anh của Hoàng đế Quang Trung./ Hòn đá oan hồn Đàn tế trời đất trên đỉnh Ấn Sơn... Núi Hoành Sơn nằm trên địa bàn xã Bình Tường (huyện Tây Sơn, Bình Định) được dân gian lưu truyền là nơi được chôn cất cha và anh của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ, ông Hồ Phi Phúc và vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Núi Hoành Sơn không cao, nhưng dài và rộng, đẹp mạnh mẽ. Vùng đất phát vương Theo các nhà phong thủy thì vùng đất này là đại địa và là nơi ẩn chứa long mạch. Núi Hoành Sơn chỉ cao khoảng 364m, được gọi là núi ngang, nhưng trông rất hùng tráng nhờ xung quanh bao bọc nhiều dãy núi, mỗi dãy núi mang mỗi dáng vẻ riêng, rất cổ quái. Ví như Núi Bút còn gọi là Bút Sơn (Hòn Trưng), Núi Nghiên còn gọi là Nghiên Sơn (Hòn Dũng), Cổ Sơn (Hòn Trống), Chung Sơn (Hòn Chuông), Kiếm Sơn (Hòn Hóc Lãnh). Trước mặt là 3 dãy gò cao, đá mọc xếp hàng trông như rồng chầu, hổ phục. Phía dưới là 2 phụ lưu sông Kôn đổ về từ 2 phía Tây - Bắc hợp long tại Phú Phong trông như 2 cánh tay ôm bao bọc. Theo các nhà phong thủy, Hoành Sơn là vùng đất đại địa và hiện nay là 1 trong “Nhị thập bát cảnh” của miền đất võ Bình Định. Hầu hết những địa danh, di tích mới và cũ nói trên đều gắn với những truyền thuyết về phong trào nông dân Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18 do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Theo các nhà nghiên cứu, đứng từ cầu Phú Phong (thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) nhìn lên, trông Hoành Sơn như một án thờ khổng lồ. Bên trái là Bút Sơn, bên phải là Nghiên Sơn giống như 2 cây đèn ở 2 bên án thờ Hoành Sơn. Khi vua Nguyễn Nhạc chưa đào thêm các nhánh sông Kôn ở phía Bắc thì trước án thờ Hoành Sơn là đồng bằng trông như một tấm chiếu để người đến phục bái. Cũng có người cho rằng, 3 ngọn Bút Sơn, Hoành Sơn, Nghiên Sơn được trời đất sắp xếp như một chiếc ngai vàng nằm giữa đất Tây Sơn. Dân gian kể rằng, trước ngày ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một thầy địa lý người Tàu đến nhà Nguyễn Nhạc tá túc, ngày ngày mang địa bàn đi đi lại lại trong vùng Hoành Sơn để tìm phúc địa. Nguyễn Nhạc thấy vậy lén đi theo. Một hôm thầy địa lý tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, ông ta bèn mang hai cành trúc xanh tốt đến cắm ở triền phía Đông dãy Hoành Sơn về hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em nhà Tây Sơn), phía Bắc một cây và phía Nam một cây rồi bỏ đi. Từ đó, ngày nào Nguyễn Nhạc cũng thăm 2 cành trúc nói trên. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng, còn cành phía Nam thì héo khô. Lăng mộ Mai Xuân Thưởng dưới chân núi Hoành Sơn Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam để đánh tráo thầy phong thủy người Tàu. Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại, thấy hai cành trúc đều chết cả, ông ta nhún vai, lắc đầu, có ý bảo rằng dáng thế long mạch của núi Hoành Sơn chỉ là “giả cuộc”, rồi bỏ đi mất. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ rồi hốt hài cốt của cha đem chôn nơi cành trúc phía Bắc. Sau khi chôn mộ cha trên Hoành Sơn, ba anh em nhà Tây Sơn bỗng phát tướng. Gương mặt tỏa hào quang, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em nhà Tây Sơn vốn là người có “thần nhãn”, lại thông thạo về khoa tướng số, nhận thấy anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mang câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em Nguyễn Nhạc rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành Sơn làm căn cứ cùng nông dân phất cờ khởi nghĩa. Năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đòi lại đất Lưỡng Quảng, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc. Thầy địa lý biết mình bị lừa nên trở lại vùng đất Tây Sơn tìm cách phá hoại long mạch để trả hận. Ông tìm gặp lại người xưa và mở lời khuyên Nguyễn Nhạc lấp mấy ngọn phụ lưu sông Kôn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn nước vào ruộng cho nhân dân cày cấy. Vì lợi ích của nông dân, Nguyễn Nhạc làm theo. Sông vừa đào xong, Nguyễn Huệ băng hà ở Phú Xuân vào năm 1792, Nguyễn Nhạc cũng mất vào năm 1793. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, nhà Tây Sơn bị diệt vong. Hóa ra lời “tư vấn” lấp sông này, đào sông kia của ông thầy phong thủy Tàu là nhằm phá đi cái long mạch ở núi Hoành Sơn, quyết trả mối hận bị Nguyễn Nhạc lừa trước kia. Dân gian còn lưu truyền câu chuyện Nguyễn Nhạc được Ngọc Hoàng phong vương ở Bút Sơn, ban kiếm ở Hòn Hóc Lãnh nên gọi Kiếm Sơn, ban ấn ở Hòn Trống nên gọi là Ấn Sơn… Những truyền thuyết này cũng được cố nhà thơ Quách Tấn kể lại trong các sách "Non nước Bình Định", "Võ nhân Bình Định".... Người dân Tây Sơn còn lưu truyền rằng ở ngọn Bút Sơn còn có mộ mẹ chàng Lía (lãnh tụ phong trào khởi nghĩa nông dân đầu thế kỷ 18 ở Bình Định), nhưng đã bị quân Nam Triều Tiên phá từ thời kháng chiến chống Mỹ. Dưới chân Hoành Sơn ngày nay còn có mộ Mai Xuân Thưởng (1860 - 1887), một lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Bình Định. Bạch mã hiện hình Trong sách "Non nước Bình Định," cố nhà thơ Quách Tấn còn kể lại câu chuyện “bạch mã hiện hình” gắn với giả thuyết long thể của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cũng được chôn ở núi Hoành Sơn. Vốn trước đó, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc sở hữu con bạch mã hình dong uy dũng, ông rất quý con ngựa này. Bạch mã gắn bó với ông từ những ngày đầu dựng cờ khởi nghĩa, đi xuyên suốt những trận đánh lừng danh. Sau khi vua Thái Đức Nguyễn Nhạc băng hà, con bạch mã cũng biệt tăm, không ai biết nó đi về đâu. Thời gian sau, đêm đêm, người dân địa phương thấy trên Hoành Sơn có bóng con ngựa trắng, khi thì đi thơ thẩn dưới chân núi, khi thì lên đỉnh đứng hí vang, tiếng hí nghe rất não nùng. Thế là người dân địa phương tin rằng đó là hồn thiêng bạch mã của vua Thái Đức. Vì tôn trọng, từ đó mãi đến bây giờ, có đến hàng trăm năm nay, người dân Tây Sơn không một ai nuôi ngựa trắng. Sau khi chiếm thành Hoàng đế, lên ngôi vua, nghe tin Hoành Sơn có hai ngôi mộ bằng đá, nghi ngờ đó là phần mộ của những người sinh ra ba anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh truyền quan quân quật lên để trả thù. Án thờ trời đất trên đỉnh Ấn Sơn, sau lưng là đỉnh Hoành Sơn Thế nhưng khi mộ được khai quật, chẳng thấy hài cốt đâu, chỉ thấy trong 2 ngôi mộ có bốn chum dầu phụng đã vơi, trong mỗi chum có một ngọn đèn đang cháy leo lét. Nhiều người cho rằng bốn chum dầu này do nhà Tây Sơn chôn. Sau đó, vua quan nhà Nguyễn xới tung núi Hoành Sơn để tìm mộ hoàng tộc nhà Tây Sơn, nhưng vẫn không thấy mộ ông bà Hồ Phi Phúc đâu.... Theo http://nongnghiep.vn/nhung-vung-dat-thieng-ky-bi-hoanh-son-post149118.html | ================================================================= Câu chuyện xem cho zui zui, chỉ thấy chán là gần như chuyện nào về phong thủy gì đó, cũng đính dáng đến thầy tàu, xuất hiện xem long mạch này nọ :ph34r:
-
Ts Trần Công Trục gửi ông Tập Cận Bình: Hãy nên noi gương Thủ tướng Hun Sen TRẦN CÔNG TRỤC 26/09/15 09:11 THẢO LUẬN (4) (GDVN) - Mong ông Tập Cận Bình nên dành thời gian tìm hiểu thấu đáo những vấn đề liên quan đến chủ quyền dưới góc độ pháp lý một cách khoa học, khách quan và cầu thị. Ts Trần Công Trục: Không ảo tưởng Tập Cận Bình xuống thang ở Biển ĐôngTs Trần Công Trục: Làm sao để ngư dân Việt Nam không còn phải đổ máu?Ts Trần Công Trục: Nên tiếp cận thận trọng với Con đường Tơ lụa trên biển LTS: Ông Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Quốc sau cuộc hội đàm với Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng đã có phát biểu công khai về cái gọi là "chủ quyền từ thời cổ đại" của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam và ông Bình cam kết không "theo đuổi mục tiêu quân sự" trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi lấp bất hợp pháp. Xung quanh phát biểu này của ông Chủ tịch nước Trung Quốc, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bình luận của ông và một vài lời gửi đến ông Tập Cận Bình, xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc. Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ. The Wall Street Journal ngày 25/9 đưa tin, trong cuộc họp báo chung với Tổng thống Obama, ông Tập Cận Bình nhắc lại lập luận của mình trước đó rằng Trung Quốc có cái gọi là "chủ quyền" đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam "từ thời cổ đại". Để tìm cách trấn an dư luận và qua mặt Hoa Kỳ, ông Tập Cận Bình lại cam kết: "Hoạt động xây dựng có liên quan mà Trung Quốc đang tiến hành ở Trường Sa không nhằm mục tiêu hoặc gây ảnh hưởng đến bất cứ quốcgia nào và Trung Quốc không có ý định theo đuổi (mục đích) quân sự". Phát biểu của ông Tập Cận Bình không thể qua mặt được Hoa Kỳ Tuy nhiên do đã quá nhiều lần Trung Quốc dùng xảo thuật ngôn từ hòng qua mắt dư luận nên phát biểu của ông Tập Cận Bình không thể tạo được niềm tin đối với các học giả quốc tế. Học giả M. Taylor Fravel, một chuyên gia về quân đội Trung Quốc từ Viện Công nghệ Massachusetts bình luận: "Những gì Tập Cận Bình tuyên bố còn phụ thuộc vào cách người Trung Quốc định nghĩa các thuật ngữ. Thực tế, các thực thể ở Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng (bất hợp pháp) đều đã được quân sự hóa và có lính đồn trú với vũ khí tối thiểu là để phòng thủ." "Những lời hoa mỹ đó có thể giúp Mỹ và những nước khác tham khảo về tuyên bố của Tập Cận Bình đánh gia hành động của Trung Quốc trong khu vực. Nhưng làm như vậy muốn có hiệu quả đòi hỏi phải có một định nghĩa rõ ràng và không quá rộng về mặt quân sự", ông Taylor Fravel nhấn mạnh. Còn theo tường thuật của Reuters ngày 25/9, các nhà phân tích và quan chức Hoa Kỳ thừa biết, việc quân sự hóa các hòn đảo nhân tạo bất hợp pháp đã bắt đầu và câu hỏi duy nhất đặt ra hiện nay là sẽ có bao nhiêu vũ khí mới Trung Quốc sẽ kéo ra lắp đặt tại đây. Họ lưu ý rằng, những bức ảnh chụp từ vệ tinh từ đầu tháng 9 cũng cho thấy Trung Quốc đang tiếp tục nạo vét xung quanh các đảo nhân tạo, một tháng sau khi họ tuyên bố rằng hoạt động bồi lấp, xây dựng (bất hợp pháp) ấy đã dừng lại. Tuần san Quốc phòng của hãng tin quân sự Jane đã công bố ảnh vệ tinh mới nhất trên đá Chữ Thập chụp ngày 20/9 cho thấy Trung Quốc đã hoàn thành đường băng trên bãi đá này và chuẩn bị bước vào hoạt động. Đường băng hoàn thành có thể cho phép Trung Quốc tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng và bắt đầu tuần tra trên quần đảo (Bắc Kinh nhảy vào) tranh chấp. Đường băng quân sự Trung Quốc bồi lấp trên đảo nhân tạo phi pháp ở đá Chữ Thập, Trường Sa, Khánh Hòa, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản. Ảnh: The Wall Street Journal. Những động thái mới nhất này cùng với những gì đã diễn ra trên Biển Đông thời gian qua đã tố cáo bản chất cam kết của ông Tập Cận Bình chỉ là trò "ảo thuật ngôn từ" nhằm che đậy dã tâm và hành động bành trướng của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông. Động thái này nhằm tìm cách hoãn xung, "giảm sóc" các áp lực từ Hoa Kỳ và khu vực về chống chủ nghĩa bành trướng, chà đạp luật pháp quốc tế trên Biển Đông, đe dọa dùng vũ lực, phá hoại hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực. Với 3 đường băng dài hơn 3000 mét có thể cất hạ cánh các máy bay quân sự hiện đại nhất của Trung Quốc, người ngây thơ nhất cũng không thể tin được lời ông Tập Cận Bình. Lập luận của ông Tập Cận Bình về cái gọi là chủ quyền lịch sử Ông Tập Cận Bình nói rằng Trung Quốc có cái gọi là "chủ quyền" đối với Trường Sa "từ thời cổ đại" và có chủ đích tránh né đề cập đến Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc xâm lược và chiếm đóng trái phép từ 1956, 1974 đến nay. Chỉ riêng điều này thôi đã cho thấy sự tùy tiện, ngẫu hứng của một chính khách quốc tế trước các vấn đề pháp lý và lịch sử. Wikipedia giải thích, thời kỳ cổ đại là lịch sử thế giới từ khi con người xuất hiện lần đầu tiên ở Cựu thế giới đến thời Sơ kì Trung Đại ở châu Âu và nhà Tần (221 TCN - 206 TCN) ở Trung Hoa. Lập luận của Trung Quốc về cái gọi là "chủ quyền từ thời cổ đại" với hầu như toàn bộ Biển Đông, bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thực chất là gì? Để làm rõ cái gọi là "chủ quyền từ thời cổ đại của Trung Quốc", xin ông Tập Cận Bình và thuộc cấp vui lòng bỏ chút thời gian đọc kết quả nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ Minh Giang từ Đại học Quốc gia Hà Nội đăng trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam số 21 năm 2013: "Bộ Ngoại giao Trung Quốc thường nói họ có đầy đủ chứng cứ để chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và làm chủ Biển Đông (trong vùng lưỡi bò) từ cách đây hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, trên thực tế họ không đưa ra được một bằng chứng xác thực nào mà chỉ dựa vào những trích dẫn từ các sách cổ của các tác giả Trung Quốc rồi giải thích một cách tùy tiện theo ý mình rằng đó là bằng chứng về việc họ phát hiện và khai thác hai quần đảo này. Với cách thức tập hợp rất nhiều đoạn trích dẫn có dụng ý chủ quan, cắt xén, lắp ghép tùy tiện là một cách tung hỏa mù, khiến những người không có điều kiện tìm hiểu sâu dễ bị đánh lừa là tư liệu của Trung Quốc rất dày dặn. Tuy nhiên, những đoạn trích như vậy hoàn toàn không có giá trị chứng minh việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều nguy hiểm là trong lập luận, Trung Quốc thường đề cao cái gọi là “chủ quyền lịch sử”, theo đó, từ thế kỷ II trước công nguyên, vùng đất nay là Trung Trung Bộ của Việt Nam, từng là một quận của nhà Hán (quận Nhật Nam) và như vậy, vùng biển, các đảo thuộc quận này đương nhiên là của Trung Quốc. Kiểu lý sự này hết sức phi lý và phản khoa học, nếu không nói là rất phản động và đậm chất thực dân. Khi lập luận như vậy họ cũng đã cố tình quên rằng cả nước Trung Hoa đã từng nằm dưới ách cai trị của người Mông Cổ từ năm 1271 đến năm 1368. Theo cách lý sự đó, người Mông Cổ hoàn toàn có thể đòi chủ quyền lịch sử đối với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Để “gò theo” một nguyên tắc rất cơ bản của luật pháp quốc tế là chủ quyền phải được thực thi liên tục (khác với cái gọi là chủ quyền lịch sử), phía Trung Quốc đã cố tìm ra mỗi thời dăm ba sự kiện để chứng minh họ liên tục thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này. Trung Quốc thừa hiểu rằng lập luận về “chủ quyền lịch sử” của họ (dù chẳng ai thừa nhận) thì cũng không thể kéo dài sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, khi người Việt đã giành lại độc lập chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nên họ ra sức tìm kiếm chứng cớ từ đời Tống (thành lập năm 960). Họ viện dẫn các sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát những đoạn nói về hai quần đảo Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường (mà sau này Trung Quốc nói là tên kác của Tây Sa/Hoàng Sa và Nam Sa/Trường Sa). Nhưng như tên gọi của những sách này, “Lĩnh ngoại” là ngoài biên giới Trung Quốc, nói về những chuyện bên ngoài. Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ Minh Giang. “Chư phiên” là các nước Trung Quốc cho là chư hầu của mình, chuyện chép về các nước xung quanh mình. Do vậy, những mô tả về biển, đảo hoặc hải trình đi tới các nước, như Giao Chỉ, Chiêm Thành, Chân Lạp thì tên các quần đảo Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường (mà Trung Quốc cho là Tây Sa và Nam Sa) được nhắc đến để chỉ vị trí hoàn toàn không có ý nghĩa nào trong việc xác định chủ quyền của Trung Quốc. Đấy là chưa kể từ ngữ dùng trong các sách này cho thấy tác giả cũng chỉ nghe truyền lại (truyền văn), chứ không biết đích xác ra sao. Sang đến thời kỳ Trung Quốc bị người Mông Cổ chinh phục, lập ra triều Nguyên (nay Trung Quốc nhận là của Trung Quốc), họ dẫn một vài sự kiện chép trong Nguyên Sử như việc thủy quân nhà Nguyên đi qua “Thất Châu Dương, Thiên Lý Thạch Đường” để nói họ thực thi chủ quyền trên hai quần đảo. Thực ra đây là sự kiện quân Nguyên trên đường đi đánh Giava năm 1293. Hay việc năm 1279 Quách Thủ Kính theo lệnh vua Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn ở 27 nơi, trong đó có một điểm tương đương với Hoàng Sa của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng sự kiện này góp phần khẳng chủ quyền của họ vào thời Nguyên trên quần đảo Hoàng Sa. Khi lập luận, họ không dẫn giải hết rằng cùng thời điểm đó, Quách Thủ Kính đã tiến hành đo đạc trên một phạm vi rất rộng, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc (Xibêri), đúng như chỉ dụ của vua Nguyên là đo đạc thiên văn “bốn biển”. Cần nhớ rằng đế chế Đại Nguyên dưới thời Đại Hãn Khubilai/ Hốt Tất Liệt (1271 - 1294) là thời kỳ hùng mạnh nhất và năm 1279 chính là năm lãnh thổ đế chế mở rộng đến cực đại, với diện tích lên tới 24 triệu km2, nối liền từ Thái Bình Dương sang đến Địa Trung Hải. Nhưng cũng trong giai đoạn lịch sử này quân và dân Đại Việt đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Với đà lập luận như vậy, đến một lúc nào đó, khi có điều kiện Trung Quốc có thể chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ Hàn Quốc và Liên bang Nga. Trung Quốc đặc biệt đề cao cái gọi là “phát kiến hàng hải” của Trịnh Hòa vào thế kỷ XV. Dưới thời Minh, trong khoảng thời gian gần 30 năm, từ năm 1405 đến năm 1433, một quan thái giám là Trịnh Hòa trước sau đã có bảy lần vượt biển xuống Đông Nam Á, sang đến Ấn Độ Dương, qua Hồng Hải tới các nước Ả Rập và thậm chí xuống đến tận bờ biển Đông Phi. Phía Trung Quốc đề cao sự kiện này và đối với Biển Đông, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì họ cho đây là bằng chứng hùng hồn của việc thực thi chủ quyền. Chưa nói đến sự phi lý của việc đồng nhất một chuyến du hành biển xa với việc khẳng định chủ quyền, những người muốn lợi dụng sự kiện này để nói về chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông đã cố tình hay vô ý quên rằng Trịnh Hòa đã công phu vẽ lại cuộc hành trình của mình thành hàng trăm tấm hải đồ. Trên hải đồ vẽ đoạn đi ngang qua Việt Nam, chú thích ở dưới ghi một hàng chữ nhỏ Giao Chỉ dương /Biển Giao Chỉ (交阯洋). Giao Chỉ là tên gọi Việt Nam theo cách của Trung Quốc. Như vậy là ở thế kỷ XV, Đô đốc Trịnh Hòa chắc chắn am tường chủ quyền các vùng biển, hải đảo mà ông đi qua hơn những người Trung Quốc hiện nay. Nếu đúng là đã thuộc về Trung Quốc sau chuyến đi của ông, hay đã là của Trung Quốc từ trước đó như chính quyền Trung Quốc hiện đang tuyên truyền thì trên hải đồ vùng này chắc hẳn phải ghi Đại Minh nam hải, hay chữ gì đó để ghi nhận chủ quyền của Trung Quốc mới đúng." Trung Quốc sử dụng hình ảnh Trịnh Hòa để tuyên truyền quảng cáo cho chiến lược Con đường Tơ lụa mới trên biển thế kỷ 21. Sự thật lịch sử không thể dấu diếm được là từ thế kỷ XIX trở về trước, người Trung Hoa luôn coi biển và đại dương là hiểm họa cho sự tồn tại của họ, một phần vì họ không kiểm soát được, phần nữa vì hoạt động cướp biển luôn luôn đe dọa trong nhiều thế kỷ, tạo thành một mối lo canh cánh cho triều đình phong kiến Trung Quốc. Nhiều chính sách ngăn cấm rất nghiệt ngã được đề ra làm kim chỉ nam cho việc giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa... Đã có những thời kỳ ai đặt chân xuống biển đã bị coi là đại tội, dân chúng bị bắt buộc di cư vào trong đất liền 40 dặm, dọc theo duyên hải từ nam chí bắc không một bóng người. Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa và xác lập chủ quyền phi pháp bằng vũ lực Mãi tới cuối triều nhà Mãn Thanh, trên thực tế là kể từ sau cuộc chiến tranh Nha Phiến, mối đe dọa đến từ vùng ven biển mới làm thức tỉnh ý thức về biển của người Trung Quốc, hình thành một loạt ý tưởng về chiến lược biển. Chính vì vậy, vào đầu thế kỷ thứ XX Trung Quốc mới bắt đầu thực hiện các bước tiến ra phía biển. Mở đầu là sự kiện năm 1909, Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó đã vội vã rút lui. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa. Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Hồ Chủ tịch ký với Cộng hòa Pháp ngày 6/3/1946, Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa. Khi đó, những phản ứng mạnh mẽ của Pháp đối với sự chiếm đóng trái phép của quân đội Tưởng Giới Thạch ở Hoàng Sa và sự suy yếu trước các cuộc tấn công như vũ bão của quân đội Mao Trạch Đông ở trong nước, quân Trung Hoa Dân quốc buộc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, kết thúc khoảng thời gian ngắn chiếm đóng trái phép ở quần đảo này. Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ Hoàng Sa. Lợi dụng thời khắc lịch sử rối ren của Việt Nam khi quân viễn chinh pháp buộc phải rút khỏi lãnh thổ của Việt Nam theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc đã lén lút đưa quân chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Ngày 21/2/1959, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh chiếm nhóm đảo còn lại của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa phát hiện. 82 binh lính Trung Quốc đóng giả ngư dân cùng với 5 tàu đánh cá vũ trang đã bị bắt giữ và áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó đã được trao trả cho Trung Quốc. Sơ đồ tác chiến của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974. Năm 1970, vào lúc công cuộc thống nhất đất nước của Việt Nam đến giai đoạn sắp kết thúc, Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã tiến hành một số hoạt động “ít kín đáo” trên nhóm đảo An Vĩnh - bộ phận phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Nhiều công trình hạ tầng quân sự đã được xây dựng vào năm 1971. Từ ngày 17 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc mở cuộc tấn công vào lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng hùng hậu gồm: một hạm đội gồm 8 tàu chiến, lính thủy đánh bộ… Trước sự chuẩn bị kỹ lưỡng, lực lượng đông và mạnh của Hải quân Trung Quốc, quân đội của Việt Nam Cộng Hòa đã không bảo vệ được phần còn lại là nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Đầu tháng 3.1988, Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép 5 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa (bao gồm các đá Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi) Trung Quốc đã huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa với 9 đến 12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc và một pôngtông lớn để hỗ trợ nhằm chiếm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trong đó, Gạc Ma là bãi đá san hô nằm ở phía nam đảo Sinh Tồn và Sinh Tồn Đông mà Hải quân thuộc lực lượng Quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã tiếp quản vào hạ tuần tháng 4 năm 1975. Như vậy, Trung Quốc dùng vũ lực để xác lập chủ quyền là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Cụ thể, điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định: “Nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác”. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc phải tuân thủ. Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia… Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này. Ông Tập Cận Bình, ảnh: Reuters. Rõ ràng, Trung Quốc đã “biến không thành có” từ đầu thế kỷ XX, bằng thủ đoạn lợi dụng những thời điểm lịch sử để tổ chức đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa vào những năm 1956, 1974, 1988, 1995 và chiếm đóng trái phép đến ngày nay. Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn thực hiện hàng loạt các hoạt động sai trái khác và tổ chức các bước đi tiếp theo nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, biến “vùng biển không tranh chấp thành vùng biển tranh chấp”, tìm mọi cách hiện thực hóa yêu sách đường “lưỡi bò”bao lấy trên 90% diện tích Biển Đông như hàng loạt hành động leo thang gây hấn những năm qua. Vài lời với ông Tập Cận Bình Đó chỉ là vài nét về lịch sử nêu ra để ông Tập Cận Bình và thuộc cấp tham khảo vì ông nhắc đến cái gọi là "chủ quyền lịch sử". Còn trong thực tiễn Công pháp quốc tế không ai chấp nhận lập luận ấy của các ông, bởi cứ theo logic Trung Quốc đưa ra thì đúng như Giáo sư Vũ Minh Giang nói, Mông Cổ có quyền đòi chủ quyền với toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa vì họ từng có "chủ quyền lịch sử". Nếu ông Tập Cận Bình và các thuộc cấp quan tâm muốn tìm hiểu thêm về Công pháp quốc tế quy định như thế nào về vấn đề chủ quyền, nguyên tắc xác lập chủ quyền xin vui lòng đọc thêm bài phân tích của tôi về chủ đề này TẠI ĐÂY. Là người đứng đầu một quốc gia thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, là cái nôi của nền văn minh phương Đông coi trọng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, mong ông Tập Cận Bình nên dành thời gian tìm hiểu thấu đáo những vấn đề liên quan đến chủ quyền dưới góc độ pháp lý một cách khoa học, khách quan và cầu thị. Chỉ có cách đó mới có thể giúp Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ông trở thành một cường quốc thực sự được nể trọng, chứ không phải thực dân kiểu mới khiến ai ai cũng phải đề phòng. Nay ông đã công khai nói trước thiên hạ rằng Trung Quốc có "chủ quyền từ thời cổ đại" đối với quần đảo Trường Sa, thì xin ông hãy noi gương Thủ tướng Campuchia Hun Sen, chứng minh lập luận của mình bằng hành động, hoặc đưa ra bằng chứng, hoặc đối chất trước cơ quan tài phán quốc tế. Và cũng xin ông Tập Cận Bình vui lòng đừng né tránh quần đảo Hoàng Sa và đường lưỡi bò đầy tham vọng. Biết ông sắp sang thăm chính thức Việt Nam, với tư cách một người dân Việt Nam và từng nghiên cứu về luật pháp quốc tế cũng như biên giới lãnh thổ, tôi xin gửi tới ông Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo Trung Quốc vài lời như trên. Trần Công Trục. theo http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Ts-Tran-Cong-Truc-gui-ong-Tap-Can-Binh-Hay-nen-noi-guong-Thu-tuong-Hun-Sen-post162050.gd ======================================================= Bạn Tập nói chuyện "từ thời cổ đại" đã có Trường sa & Hoàng sa là dốt về lịch sử. Cần cho bạn xuống cấp 1, học lại lịch sử :ph34r:
-
ĐH Tôn Đức Thắng tự phong GS: 'Không có lý do dừng' (Giáo dục) - Đó là khẳng định của ông Lê Vinh Danh - Hiệu trưởng ĐH Tôn Đức Thắng trước thông tin trường sẽ dừng thực hiện việc tự bổ nhiệm GS, PGS. Chỉ là chức vụ chuyên môn, không là học hàm suốt đời. Báo Tuổi Trẻ đưa tin, ông Lê Vinh Danh cho biết: "Quy định này vừa ban hành, nội dung và quy trình thì đã đủ nhưng biểu mẫu chưa làm xong, báo Pháp Luật đã biết và đưa lên, thế là cả xã hội quan tâm đến. Chứ thật ra chúng tôi "chưa thực hiện". Tôi không hiểu từ đâu có thông tin Trường ĐH Tôn Đức Thắng dừng lại việc này. Tại sao "dừng"? Việc bổ nhiệm chức vụ chuyên môn cho chuyên gia, nhà khoa học của trường đã được Chính phủ cho phép thí điểm tại Khoản 2.b, Mục II, Điều 1 của quyết định 158 ngày 29/1-2015. Chúng tôi làm việc có cơ sở pháp lý của mình. Không có lý do gì để "dừng". Bên cạnh đó, theo ông Danh Chính phủ có quy định về tiêu chuẩn xét phong học hàm PGS, GS. Nhưng nhà trường được thí điểm tự chủ toàn diện, trong đó có thí điểm việc bổ nhiệm nhân sự là chuyên gia, nhà khoa học vào các chức danh nghề nghiệp tại trường. Nói về bộ tiêu chuẩn riêng của nhà trường, ông Danh cho hay, để xét xem ứng viên có đáp ứng đủ tiêu chuẩn để bổ nhiệm vào các chức danh nghề nghiệp hay không thì tiêu chuẩn xét học hàm có cùng tên của Hội đồng chức danh GS nhà nước về chất và về lượng và nhất là đầy đủ: có tiêu chuẩn cứng, tiêu chuẩn mềm, thậm chí còn cao hơn.Vì thế, nhà trường có quyền thí điểm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn riêng, phù hợp với yêu cầu của nhà trường để xét và bổ nhiệm. "Chúng tôi tham khảo kỹ từ nước ngoài và có các GS nước ngoài cố vấn trong quá trình xây dựng chuẩn. Chúng tôi nghiên cứu cẩn thận, có hội đồng khoa học và đào tạo thông qua chứ không phải bê nguyên xi của nước ngoài về. Xin đính chính là chúng tôi không "phong". Việc "phong hàm" hãy để cho hội đồng nào đó làm. Chúng tôi xét nhà giáo đang công tác tại trường và có nhu cầu so với bộ tiêu chuẩn của chúng tôi xem đủ điều kiện không? Có vi phạm pháp luật không? Có vi phạm đạo đức nhà giáo không?", ông Danh nhấn mạnh. Trường ĐH Tôn Đức Thắng Nếu nhà giáo đạt chuẩn và không có bất kỳ vi phạm gì, trường sẽ bổ nhiệm vào chức vụ tương ứng với tiêu chuẩn mà họ có (trợ lý GS, GS cộng tác, GS; hoặc trợ lý GS nghiên cứu, GS cộng tác nghiên cứu, GS nghiên cứu và GS nghiên cứu xuất sắc). Khi họ hết làm việc hoặc họ vi phạm quy định, trường bãi miễn hoặc tự xin từ nhiệm, có nghĩa trợ lý GS, PGS, GS tại trường chỉ là chức vụ chuyên môn, nghề nghiệp; không là học hàm suốt đời. Nhờ chuyên gia hàng đầu trong ngành ở nước ngoài xét duyệt Nhà trường có quy trình peer review-bình duyệt để tự xét và bổ nhiệm, có sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu trong ngành ở nước ngoài thẩm định. Năm 2007 khi Bộ GD&ĐT quyết định cho phép các trường đăng ký và trường nào đủ điều kiện thì tổ chức đào tạo tiến sĩ, rất nhiều lo ngại nhưng sau 8 năm mọi việc vẫn ổn. "Dĩ nhiên có trường đào tạo tiến sĩ chất lượng khá tốt, có trường trung bình và có trường thật sự chất lượng vẫn còn thấp. Nhưng xã hội đều biết và tự có sự lựa chọn. Đó là một chính sách thông minh. Đào tạo bậc tiến sĩ là một việc làm vô cùng quan trọng vậy mà Bộ GD&ĐT còn cho thí điểm và hệ thống đại học đã chứng minh là làm được, không có loạn tiến sĩ. Thế tại sao hôm nay không ai nhớ và rút kinh nghiệm từ chuyện năm 2007?", ông Danh nêu dẫn chứng cụ thể. Hơn nữa, theo ông, chỉ có suy nghĩ cực đoan và duy ý chí mới cho rằng những từ ngữ như GS, PGS thuộc độc quyền dùng của của một cơ quan nào đó. Hoặc cho rằng những từ đó là độc quyền của Hội đồng chức danh GS nhà nước thì khi các đại học nước ngoài mở và hoạt động tại VN (thí dụ: RMIT), họ xét và công nhận GS, PGS cho họ, họ cũng phải dùng từ khác để khỏi đụng đến độc quyền này hay sao? Trước đây GS để chỉ những người đi dạy và chúng ta có cả GS trung học, GS đại học. Ông GS đại học chẳng buồn gì khi bạn mình ở cấp dạy thấp hơn mình vẫn được gọi là GS bởi ông hiểu mỗi người có mỗi việc, và tên gọi trên dùng để chỉ chung nghề nghiệp của họ. Chỉ từ năm 2008 khi Nhà nước giao quyền cho Hội đồng chức danh GS nhà nước việc công nhận trong toàn quốc mới xuất hiện tâm lý này. Trước đó, trao đổi với Đất Việt, GS.TS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Garvan, Úc cho rằng, đại học chúng ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, thì việc áp dụng các quy trình và chuẩn mực quốc tế trong việc bổ nhiệm các chức vụ học thuật là rất nên khuyến khích. theo http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/dh-ton-duc-thang-tu-phong-gs-khong-co-ly-do-dung-3286654/ ======================================================== ah, Trường ĐH Tôn Đức Thắng đi trước thời đại hay là cầm đèn đi trước ô tô ? Khen cho ông Lê Vinh Danh là hiệu trưởng dám làm điều mới. Thành hay bại trong vụ này thì thấy ngay là bại. Vì . . . :D
-
Hải sâm dạt vào bờ: Do Trung Quốc cải tạo đảo trái phép? (Tin tức thời sự) - Hải sâm liên tục dạt vào bờ biển khiến dư luận cho rằng nguyên nhân do Trung Quốc đang cải tạo trái phép ngoài biển Đông gây lên sự xáo trộn. Đổ xô bắt hải sâm trôi vào bờ biển Phú Quốc Hải sâm liên tục dạt vào biển Trong 3 ngày từ 21-23/9, hàng nghìn con hải sâm đã dạt vào bờ biển ở thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Gần trăm người dân đã đổ xô ra bờ biển Thuận An để nhặt, người nào ít cũng được vài kg, người nhiều thì hàng chục kg. Nhiều người dân cảm thấy thích thú, hào hứng khi nhặt hải sâm bởi đây là loài sinh vật có giá trị kinh tế cao. Mỗi kg hải sâm có giá trị lên tới cả triệu đồng, nhiều người tìm mua. Người dân nhặt hải sâm ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế ngày 23/9. Ngày 18/9, hiện tượng hải sâm trôi dạt vào biển cũng xảy ra ở Phú Quốc, Kiên Giang. Cơ quan chức năng thống kê, có tới 2 tấn hải sâm và trải dài trên 10 km bãi biển Phú Quốc, đoạn từ Dương Đông đến Đường Bàu. "Sống ở đây mấy chục năm nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy hải sâm nhiều như vậy", ông Nguyễn Văn Hải, ngụ thị trấn Dương Đông, Phú Quốc nói. Đến chiều 19/9, hiện tượng này giảm nhiều. Trước đó hồi tháng 3, tại bờ biển Hà Tĩnh cũng xuất hiện hàng chục tấn sò lông, ốc biển ở vùng biển Hà Tĩnh chết không rõ nguyên nhân, bị sóng đánh dạt vào bờ. Nhà chức trách huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) cho biết, khoảng 7 ngày nay, các loại sò lông, ốc mỡ, ốc hương, cùng một số nhuyễn thể khác chết hàng loạt, bị sóng đánh dạt vào bờ biển trên địa bàn các xã Kỳ Ninh, Kỳ Khang, Kỳ Phú. Trong đó, Kỳ Ninh là xã có lượng sò lông, ốc chết nhiều nhất, trải dài dọc bờ biển khoảng 50m, chất nhiều lớp, phủ dày 7-10cm. Nhiều đống vỏ sò được người dân gom lại cao khoảng 4cm. Ở hai xã còn lại, lượng vỏ sò, ốc chết cũng phủ trắng bờ biển. Một số người dân cho hay đây là lần đầu tiên họ chứng kiến việc các loại thủy, hải sản chết hàng loạt mà không rõ nguyên nhân. Do Trung Quốc cải tạo đảo ở Biển Đông? Sáng ngày 24/9, TS. Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, từ trước đến nay đã ghi nhận nhiều trường hợp hải sản trôi dạt vào bờ biển. Đó có thể là do sự thay đổi ở dưới đại dương như dòng thủy triều, san hô, môi trường sinh sống. Khoảng 2 tấn hải sâm dạt vào bờ biển Phú Quốc, Kiên Giang ngày 18/9. TS. Vũ Ngọc Long - Viện trưởng Sinh thái học miền Nam - cho biết, loài hải sâm chủ yếu trú ẩn dưới rạn san hô. Một khi nền đáy san hô bị xâm hại nghiêm trọng có thể trở thành nguyên nhân gây ra hiện tượng hàng nghìn con hải sâm bị sóng cuốn dạt vào bờ. "Sau nhiều đợt khảo sát, chúng tôi nhận thấy tàu thuyền chở khách du lịch và đánh bắt ốc, cá bằng hình thức 'giã cào' đã gây tổn thương cho nền đáy san hô nơi đây. Tàu thuyền chở khách du lịch thả neo thiếu quy hoạch; khai thác ốc hương, cá bằng lưới cào ở tầng đáy, gây phá vỡ môi trường sống của loài hải sâm nên sức chống chịu của chúng suy giảm", ông Long nói. Việc liên tiếp các loài sinh vật biển trôi dạt vào bờ một cách bất thường trong thời gian quan cũng khiến dư luận đặt ra nghi vấn có thể là do Trung Quốc đang cải tạo trái phép ở Biển Đông nên gây ra sự xáo trộn sinh vật biển. Nhận định về điều này, TS. Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế, cho rằng: “Đây là vấn đề lớn, chúng tôi chưa nghiên cứu nên chưa thể kết luận được. Nhưng với ngành thủy sản việc sinh vật biển trôi dạt vào bờ là điều bình thường”. Còn ông Nguyễn Việt Hùng - Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi trường (thuộc Sở Tài nguyên Môi trường Thừa Thiên - Huế) xác nhận: "Việc cải tạo của con người ở ngoài Biển Đông chắc chắn có ảnh hưởng tới sinh vật biển. Cụ thể như thế nào thì cần nghiên cứu cụ thể hơn". Theo TS. Lê Đình Mầu – Viện phó Viện Hải dương học Nha Trang (Khánh Hòa) cho rằng: “Việc cải tạo của Trung Quốc ở ngoài Biển Đông chắc chắn có ảnh hưởng tới sinh vật biển của Việt Nam”. Ông Mầu cho hay, hai tháng trước Viện Hải dương học Nha Trang có tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề Trung Quốc khai thác ở Biển Đông ảnh hưởng tới Việt Nam, khách mời tham dự có cả những chuyện gia đến từ Mỹ, Australia… “Trung Quốc cải tạo ở Biển Đông gây ra sự xáo trộn ở biển, ảnh hưởng tới hệ sinh thái, tập quá sống của các loại. Từ đó ảnh hưởng tới sinh vật biển” – ông Mầu xác nhận. theo http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/hai-sam-dat-vao-bodo-trung-quoc-cai-tao-dao-trai-phep-3286734/ ============================================== Cái bạn xấu china này, phá hoại môi trường, làm ảnh hưởng môi sinh của biển :ph34r:
-
Relax tí nhé :D ============================================ Khi chàng rể cũng có yêu cầu cho bố vợ Một ông có cô con gái đến tuổi lấy chồng. Ngày nọ, ông gọi con lại và bảo hãy đưa người yêu của cô đến cho ông duyệt. Cô gái mừng lắm đi gọi người yêu tới ra mắt ông già. Ngồi nói chuyện được vài câu, cô con gái biết ý ra ngoài cho ông già hỏi chuyện chàng trai. Ông già hỏi chàng con rể tương lai về gia cảnh, ông ưng ý lắm, nhưng vẫn chưa an tâm, ông bắt chàng rể phải hứa với ông vài điều. Chàng trai hỏi: - Bây giờ bố muốn con hứa với bố điều gì thì bố cứ nói? - Ta chẳng có gì, chỉ có mỗi đứa con gái này thôi. Anh phải hứa với ta: không được uống rượu, không hút thuốc, không gái gú, không được đánh đập vợ con, không tiêu xài hoang phí, không đi về quá khuya… thì ta mới cho anh lấy con gái ta về làm vợ! Chàng trai đáp lời: - Con hứa sẽ làm đúng những điều trên, nhưng con mong bố hứa với con một việc. - Việc gì? - Bố đừng nói với ai là bố đã gả con gái mình cho một thằng ngu! - !?! Sưu tầm
-
Xây dựng, phục dựng Văn miếu: Nên hay không? Văn miếu Vĩnh Phúc vừa xây dựng hết 271 tỷ VNĐ Lời tòa soạn: Bấy lâu nay trong dư luận cả nướ cũng như trên địa bàn Nghệ An, trong dư luận đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc có nên xây dựng, phục dựng các văn miếu hay không. Những người bảo nên thì có lý do cho rằng dù là thờ Khổng Tử, là biểu tượng của nên học vấn, và chính trị Nho học, là có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng đã hàng ngàn năm nay, Nho học và Văn miều gắn liền với văn hóa Việt Nam, thậm chí nó là một biểu tượng của văn hóa Việt. Những người không đồng tình với việc xây dựng. phục dựng Văn miếu lại có lý lẽ cho rằng Nho học là nền học thuật – chính trị của Trung Quốc, nó đã lỗi thời, hoàn toàn không còn phù hợp với nền học thuật, với các tư tưởng chính trị - học thuật của xã hội văn minh ngày nay; Hơn nữa, người Trung Quốc đang lợi dụng Nho học, cố tình dựng lại Khổng tử và phô trương ở nước ngoài như một sức mệnh mềm phục vụ cho tư tưởng bá quyền phục vụ cho lợi ích của người Trung Quốc…Bởi vậy, việc không xây dựng, phục dựng văn miếu klhong chỉ vì nó không còn phù hợp mà còn là một biểu thị của tinh thần cảnh giác và phản kháng văn hóa, hơn nữa, là cảnh giác với dã tâm xâm lấn kiểu tằm ăn dâu của nhà cầm quyền Trung Quốc. Để rộng đường dư luận, chúng tôi chủ trương diễn đàn trao đổi về vấn đề này để này. Chúng tôi, và chúng ta, chấp nhận các ý kiến có thể khác nhau trên tinh thần thẳng thắn, minh bạch, khoan dung và xây dựng… BÙI VĂN CHẤT: Việc xây Văn miếu, trong đó có thờ Không Tử là việc bình thường Ở Việt Nam ta, Văn miếu, nơi thờ Không Tử, người sáng lập Đạo Học , cũng là nơi thờ, vinh danh các vị Tiên Hiên bản hạt, những người có công với sự nghiệp giáo dục của nước nhà và chính họ là hiện thân của sự nghiệp đó. Là tượng trưng của nền văn hóa Phương Đông. Văn miếu còn là nơi biểu dương một nền văn học, nền tảng văn hóa / văn minh của một quốc gia, một địa phương trong mọi thời đại. Từ ý nghĩa ấy, Văn miếu cùng những tấm Bia Nghè đã trở thành biểu tượng sống động trong tâm thức mọi người và có sức thu hút, khích lệ tinh thần hiếu học của mọi thế hệ nhằm mở mang dân trí, phát triển dân sinh, gìn giữ phát huy bản sắc, nâng cao vị thế dân tộc… Chẳng thế mà ngay giữa lúc đang cơn binh hỏa, thần tốc tiến ra Bắc Hà đại phá quân Thanh, trước cảnh tượng Văn miếu – Quốc Tử Giám, một Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu của quốc gia, được dựng lên từ thời Lý Thánh Tông (1070) và các triều đại tiếp theo thừa kế mở rông, bị xâm hại, Hoàng đế Quang Trung đã tính đến “ Nay mai xây lại nước nhà / Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian”. Văn miếu- Bia Nghè, đối với văn nhân, chí sĩ là nơi đàm đạo văn chương, thế sự; Đối với sĩ tử là nơi chiêm ngưỡng, gửi gắm ước mơ, nuôi chí tiến thủ. Vốn là đất học, từ thời Lê, Nghệ An đã có các Văn miếu huyện, như Quỳnh Lưu, Đông Thành , Chân Lộc, La Sơn, Thiên Lộc…Ở các tổng, các xã, theo đó, có Nhà Thánh, có Văn từ, Văn chỉ (Nền Văn bên cạnh nền Xã tắc cúng Thần Nông) và hội Tư văn. Hai dãy bia Khoa bảng ở Đình Võ Liệt; Bia Văn chỉ Cát Ngạn; Cuốn “ Lịch triều Khoa bảng Đông- Yên nhị huyên; Đại Đồng khoa lục v.v…là những di sản văn hóa còn tươi nguyên, lưu giữ một minh chứng về ý thức tôn sùng Đạo Học của Xứ Nghệ ta. Cách nay 10 năm, nhằm “Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa dân tộc , Tỉnh ủy Nghệ An đã đưa vào Chương trình hành động, theo Chỉ thị số 20-Ctr/ TU ngày 20 tháng 8 năm 2004, trong đó có Dự án “ Dựng lại khu Văn miếu Nghệ An, tại thành phố Vinh” là một công trình lớn , được quan tâm bàn bạc nhiều nhất. Song, việc chưa thành, vì còn vướng mắc ( nan giải nhất là giải phóng mặt bằng). Tới nay, Nhà Thánh Vinh xưa vẫn là ngôi miếu cổ ‘xác xơ’; Bức đại tự “VĂN TẠI TƯ” (文在茲) và Chuông Văn của Văn Thánh Vinh đang tạm đặt bên Tòa Võ Miếu ( Hồng Sơn). Gần đây, khi nghe ồn về “Dịch xây Văn Miếu”, vấn đề “ Dựng lại Văn miếu Vinh: Nên – Chăng ” lại được nêu lên. Thực ra, việc xây Văn miếu, trong đó có thờ Không Tử là việc bình thường và thờ Các vị Tiên hiền của bản hạt là điều hợp với lòng người . Như Văn miếu các tỉnh đã có hoặc mới dựng lai như Văn miếu Trấn Biên ( khởi động cùng thời với Văn miêu Nghệ An), đã hoạt động rất tốt và có hiệu quả theo đúng tinh thần bảo vệ và phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc có nền văn hiến. TÔ DUY HỢP: Không nên xây dựng Văn Miếu mới để chứng tỏ Văn hóa Việt đã trưởng thành, độc lập với Văn hóa Hán Từ hướng tiếp cận Lý thuyết khinh - trọng ta có thể thấy trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên thì Văn Miếu là rất hợp lý, hợp tình; tuy nhiên trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay nên sử dụng chủ trương "kính nhi viễn chi" của Khổng Tử đối với Văn Miếu. Chỉ phục chế cở sở cũ để tưởng nhớ về một thời đã qua của Văn hóa dân tộc Viết; tuy nhiên không nên phục hồi - cách tân, càng không nên xây dựng Văn Miếu mới để chứng tỏ Văn hóa dân tộc Việt đã trưởng thành, độc lập với Văn hóa Hán, và Văn hóa Ấn! TRỊNH VĂN ĐỊNH: Phục dựng Văn Miếu, xây dựng Viện Khổng Tử - hay “con đường tơ lụa văn hóa” của Trung Quốc? Trước khi trả lời cho câu hỏi nên hay không nên khôi phục Văn Miếu, chúng ta cần đặt vấn đề Văn Miếu, Khổng Tử trong một bối cảnh rộng lớn hơn? Và có một câu hỏi đơn giản hơn là tại sao thời điểm này rộ lên vấn đề phục dựng văn miếu? Lõi của vấn đề là gì? Nó thuộc về vấn đề văn hóa, tôn giáo hay vấn đề chính trị? Nó xuất phát từ nhu cầu của dân tộc hay từ tác động của những trào lưu từ Thiên Triều? Đây hoàn toàn không phải là vấn đề nhỏ. Có hay không một mối liên hệ giữa việc xây dựng Viện Khổng Tử trên khắp toàn cầu và vấn đề phục dựng văn miếu ở Việt Nam. Ý đồ của xây dựng Viện Khổng Tử trên toàn thế giới đã được vô số học giả bình luận, đánh giá. Ở đây chúng tôi không đi sâu bàn về vấn đề này. Có một điểm đặc biệt đáng lưu tâm là, theo giáo sư Lý Linh, Đại học Bắc Kinh, trong cuốn sách nổi tiếng Chó nhà có tang, tôi đọc Luận ngữ của mình, nói một ý đặc biệt quan trọng, sau khi Khổng Tử mất (551-479 TCN), bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán, khuôn mặt tinh thần của Khổng Tử đã được chính trị hóa, mỗi thời kỳ họ dùng ông để phục vụ cho một ý đồ chính trị cụ thể. Việc xây dựng Viện Khổng Tử trên toàn cầu thực chất là việc Khổng Tử tiếp tục được chính trị hóa, nhưng ở quy mô toàn cầu. Một hình ảnh đạo đức là cái mà Trung Quốc cần để tạo sự cạnh tranh với thế giới, bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni, Chúa Giê su… Phục dựng văn miếu ở Việt Nam có xuất phát từ nhu cầu nội tại của văn hóa Việt hay không? Có hai vấn đề cần thiết phải làm rõ, nho giáo, Khổng Tử là hệ giá trị đạo đức và Khổng Tử, Nho giáo bị chính trị hóa. Với tư cách là học thuyết đạo đức, nó đã kết thúc vai trò của nó. Giá trị “nhận đồng” về văn hóa khu vực chỉ có thể được chia sẻ trong cộng đồng nhà nho trước đây. Ngày nay, giá trị này ít được chia sẻ hơn. Do vậy, nó không thuộc về nhu cầu nội tại của văn hóa Việt Nam. Ngày nay, người Việt có thể nhận thức được và tự kiến tạo cho mình một hệ giá trị Việt, là kết tạo của tinh hoa thế giới, và phần nào đó là giá trị của khu vực Đông Á, trong đó có giá trị đạo đức Nho giáo. Đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, sự hiện diện của Trung Quốc ngày càng đậm đặc trên toàn cầu và cả Việt Nam. Tính chất kết nối toàn cầu của Trung Quốc và thế giới được liên thông bởi vành đai kinh tế con đường tơ lụa và con đường tơ lụa trên Biển thế kỷ XXI với trung tâm thế giới là Bắc Kinh, Trung Quốc. Sự hiện diện của Viện Khổng Tử, phục dựng Văn Miếu có thể là “con đường tơ lụa văn hóa” mà Bắc Kinh muốn kiến tạo, tạo ảnh hưởng và “giúp” thế giới dần quen với sự hiện diện, lan tỏa, và sau cùng, là thống trị của văn hóa Trung Hoa trên toàn cầu. Vì vậy, phục dựng Văn Miếu dù vô tình hay hữu ý đều có mối liên hệ với xây dựng Viện Khổng Tử, do vậy tuyệt đối không nên phục dựng Văn Miếu. THÁI HỮU THỊNH: Trước hết, phải hiểu Văn miếu thờ ai? Theo định nghĩa của Từ điển Việt Nam, thì “Văn miếu là để thờ Khổng Tử “. Trong tâm thức của người dân Việt Nam ta xưa, đã nói đến Văn miếu thì đó là đền thờ Khổng Tử. Được biết, để phổ biến, phát huy ảnh hưởng của mình, cho đến năm 2014, Trung Quốc đã thành lập được 450 Học viện Khổng Tử ở100 quốc gia trên toàn thế giới. Ở Việt Nam ta, tiêu biểu,vàlinh thiêng nhất là Văn miếu QuốcTử Giám tại Hà Nội. Đây cũng là nơi thờ Khổng tử và các Nhà Đại khoa bảngcủa đất nước thời xưa. Hiện nay, tại Mỹ và Canada, đã chấm dứt hợp tác với các Viện Khổng Tử, có nơi cấm các Trường Đại học giảng dạy học thuyết Khổng Tử. Hiệp hội Giáo sư Đại học Hoa Kỳ, đã hối thúc các Trường Đại học Phương Tây cắt đứt quan hệ với Học Viện Khổng tử. Ở Việt Nam ta, Nho giáo, gần như đã lụi tàn từ thời Nhà Nguyễn. Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, tiến bộ, có nhất thiết, phải xây dựng mới, xây dựng lại các Văn miếu cũ hay không? Đây vẫn là câu hỏi nhiều người quan tâm và có nhiều ý kiến. Theo tôi là “dứt khoát là không ”. Không chỉ hiện nay, đất nước ta còn nghèo, còn bao nhiêu việc phải lo cho dân. Nào là phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sỹ, mái ấm gia đình cho các em bé mồ côi …mà cảmai đây, khi đất nước giàu lên, thì tôi vẫn hoàn toàn phản đối việc xây dựng mới, phục hồi Văn miếu cũ. Tỉnh Vĩnh Phúc, sang Trung Quốc tham quan, học tập, xây dựng Văn miếu hết 217 tỷ đồng. Nay dư luận phản đối… chưa biết thờ ai ? Tỉnh Hà Tĩnh xây dựng văn miếu có thể đến hơn 70 tỷ đồng, rồi cũng để thờ ai ? Nghệ An ta, tôi có nghe loáng thoáng là phục dựng Văn miếu ở Vinh Tân, thành phố Vinh, đang còn vết tích. Nếu vì đạo học, truyền thống hiếu học của Nghệ An ta, cần phục dựng lại, theo tôi cũng chỉ nên xây dựng 1 cái miếu nhỏ, trang nghiêm, có văn bia thì tốt, để nhân dân đến viếng bái tiền nhân và lấy 1 tên khác chứ không để tên Văn miếu Nghệ An. Ví dụ : “ Đền thờ các vị Đại khoa Nghệ An xưa” , … LẠI NGUYÊN ÂN: Bên Trung Hoa bây giờ người ta không xây thêm Văn Miếu! Những ai bằng hoặc nhiều hơn lớp tuổi tôi (sinh cùng năm sinh nước VNDCCH), hẳn còn nhớ, tại các làng xã xưa kia, trong Nam cũng như ngoài Bắc, thường có các Văn miếu hoặc Văn chỉ. Những kiến trúc ấy hầu hết đã đổ nát và bị dẹp bỏ, nhưng nếu vài nơi còn lại đôi di tích có tên gọi ấy, thì các cư dân bây giờ ở độ tuổi 50-60 trở xuống, hầu hết đều không biết đó là gì. Văn miếu là gì? Đó là miếu thờ Khổng Tử (552 - 479 Tr.CN), người khai sinh học thuyết mang tên ông (cũng gọi Khổng học, Khổng giáo, Nho học, Nho giáo). Học thuyết Khổng Tử ra đời vào thời Xuân thu – Chiến quốc, là một trong vô số học thuyết sản sinh ở thời đại “bách gia tranh minh” ấy, Khổng Tử là một trong số “Bách gia chư tử”. Từ thời Hán (206 Tr.CN - 220) trở đi, suốt hai ngàn năm, các nhà nước quân chủ chuyên chế ở Trung Hoa đều sử dụng Khổng giáo làm hệ tư tưởng chính thống trong việc cai trị, dùng thi cử theo Khổng học để tuyển nhân sự cho bộ máy cai trị; việc này chỉ chấm dứt sau cách mạng Tân hợi (1911). Ở Việt Nam, do bị các đế chế Trung Hoa xâm chiếm và áp đặt nền cai trị suốt 1000 năm (từ Triệu Đà, 207 Tr.CN., đến 938), Khổng giáo cũng được truyền vào trong nước. Sang các triều đại quân chủ chuyên chế độc lập (từ Ngô Vương, 939 đến hết triều Nguyễn thời Tự Đức, 1883), giai tầng thống trị dần dần tiếp nhận mô hình quân chủ chuyên chế của Trung Hoa, từ triều Lý đến triều Nguyễn, đã thống nhất dùng Khổng học làm nền giáo dục chính thống quốc gia, dùng học thuyết Khổng giáo làm quốc giáo (hệ tư tưởng chính thống). Sử cũ ghi nhận: năm 1070 nhà Lý dựng Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long; năm 1075 vua Lý mở khoa thi Nho học đầu tiên để tuyển người cho hệ thống quan chức; 1076 vua Lý đặt ra Quốc Tử Giám và bổ các quan có văn tài đến đấy giảng dạy Nho học. Suốt từ thời điểm kể trên đến tận triều Nguyễn, nền học Nho và khoa cử theo Nho học là nền học duy nhất ở Việt Nam. Quan lại của các triều đại từ Lý đến Nguyễn đều xuất thân từ Nho học. Đạo học (con đường của người đi học, cũng là tôn giáo của họ) mang màu sắc trung cổ rõ rệt, vừa có thuộc tính học vấn, vừa có thuộc tính sùng tín tôn giáo, – là gắn với Nho học, Nho giáo. Giới người học này có một “tụ điểm” để thể hiện sự phụng thờ “đạo học” của mình: ấy là các Văn Miếu (là các miếu thờ Khổng Tử ở các tỉnh thành lớn) hoặc Văn Chỉ (miếu thở Khổng Tử tại các làng xã có nhiều nho sĩ). Những người từng học Nho, dù đỗ đạt cao thấp ra sao, đều họp nhau trong các thứ hội gọi là hội tư văn, hoặc hội đồng môn, thường họp mặt hằng năm vào “thánh đản” tức ngày sinh Khổng Tử (27 tháng 8 âm lịch) tại các Văn Miếu, Văn Chỉ, lễ thánh, ăn thịt uống rượu, luận bàn thời thế. Cái dư luận của giới kẻ sĩ này, ở những thời Nho học thịnh trị, vẫn được coi là “thanh nghị” (“thanh nghị” là khen, “phi nghị” là phê, chê trách, chỉ trích), tức là những dư luận khen chê rất có giá trị, thường có tác động điều chỉnh mạnh mẽ đến nếp sống, phong hóa làng xã. Tất nhiên, ở cuối thời đại thịnh Nho, ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, khoa cử ngày càng bị thương mại hóa, giá trị của những khen chê của giới nhà nho cũng kém dần. Và tất cả đã bị vô hiệu hóa kể từ khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ (ở Trung Hoa sau cách mạng Tân hợi 1911, ở Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945). Ngay trước thời điểm kết thúc chế độ quân chủ, nền học Nho đã bị bãi bỏ từng phần, ở Trung Hoa cũng như Việt Nam, thay bằng nền học mới, với các nguồn kiến thức mới, là những tri thức khoa học khách quan, tiếp nhận từ nguồn Âu-Mỹ. Chính vì vậy, từ khi không còn chế độ quân chủ, các hội tư văn, hội đồng môn của các cựu học trò Nho học đã không còn ý nghĩa thực tế, hầu hết đã không còn hoạt động nữa. Các Văn Miếu, Văn Chỉ ở khắp nơi suốt năm nọ qua năm kia không ai hương khói, mục nát và biến mất dần; một vài ngôi còn sót lại, cũng chỉ có ý nghĩa là những di tích của quá khứ. Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, hay các ngôi Văn Miếu ở Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Huế, Biên Hòa, Vĩnh Long, v.v… đều đang là những di tích như vậy. Vậy thì những ngôi gọi là “Văn Miếu” đang, thậm chí sẽ được dựng mới lên thì sao? Tôi nghĩ đó sẽ là những quái tượng không thể chấp nhận, vì không còn ý nghĩa gì nữa. Ta biết, các kiến trúc tôn giáo được dựng lên, là để phục vụ sự hoạt động của chính các tôn giáo ấy; các ngôi nhà thờ Thiên Chúa, ngôi chùa thờ Phật, hay các ngôi từ đường của các dòng họ – đều có ý nghĩa như vậy, vì các tôn giáo ấy vẫn còn đang đầy sức sống, tận hôm nay! Còn “Văn Miếu”, với tính cách là nơi thờ Khổng Tử và Khổng giáo, thì cái tôn giáo, cái nền học vấn gắn với nó – đã vĩnh viễn chết rồi; những lớp người từng là học trò Nho giáo – cũng vĩnh viễn lùi vào lịch sử rồi. Sẽ lấy đâu ra những con người gắn bó cả cuộc đời với nền học vấn kiêm tôn giáo xưa cũ ấy, mà nếu không có họ thì làm gì có nhu cầu hành lễ vào ngày “thánh đản” 20 tháng Tám hàng năm? Nếu nói đến Nho giáo như dị bản nguyên thủy của sự học ở Đông Á trong đó có Việt Nam, mà Văn Miếu như là “trú sở” thờ tự những người khai sáng lĩnh vực này; thì cũng cần biết, kể từ sau Nho học, nền học vấn, nền giáo dục ở Châu Á, trong đó có nước ta, đã chuyển sang “tân học” từ cách nay trên dưới 100 năm. Nền học từ ấy dựa vào việc truyền bá những tri thức khoa học có nguồn gốc từ các nền học vấn Âu-Mỹ. Đó là những tri thức phân chia theo chuyên ngành, và tuy mỗi bộ môn có những nhà khai sáng, nhà cách tân khác nhau, song đều là những nền học vấn đã thế tục hóa chứ không còn là những nền học vấn thần thánh hóa như Khổng giáo nữa. Do vậy, dù người Việt có tự coi mình là ham học đến thế nào thì cũng không nên vì thế mà lập ra những đền thờ thần “học”! Nếu nói đến Nho giáo như hệ tư tưởng chính thống trong một thời đại lịch sử mà Văn Miếu là một biểu tượng, thì đừng nên quên, từ sau tháng 8/1945 cho đến hiện nay, hệ tư tưởng được coi là chính thống ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lê chứ không phải là Nho giáo. Cũng đừng nên quên, bên Trung Hoa bây giờ người ta không xây thêm Văn Miếu, nhưng lại đang đầu tư lập các “Viện Khổng Tử” ở bên ngoài biên giới Trung Hoa, được coi như một trong những phương cách hữu hiệu truyền lan “sức mạnh mềm” của một tân đế quốc đang trỗi dậy. Lẽ nào những Văn Miếu đã và đang được toan tính dựng mới lên ở Việt Nam, sẽ là “trú sở” tương lai cho những “Viện Khổng Tử”, nơi không chỉ dạy viết dạy nói tiếng Trung Quốc phổ thông, mà còn là nơi hướng dẫn quý bạn nên ăn nói ra sao cho phù hợp với những gì người Trung Hoa mong muốn? theo http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/xay-dung-phuc-dung-van-mieu-nen-hay-khong ====================================================== Nhiều vị thích lập dự án xây dựng thôi, vì xây thì có . . . mà chẳng cần biết nội dung là cái gì