vanti67 phụ một tay nha
TẦNG THỨ SÁU
ĐỊA BÀN CHÍNH TRÂM
Gọi là Tiên Thiên Kinh Bàn, hay còn gọi là La Kinh. Trước hết phân ra Bát Quái để định vị, lập hướng. Tiên Thiên Địa Chi chỉ có 12 Chi ở 12 vị, gọi là 12 Lôi Môn, làm Thi-Cốt Long. lấy Chính Trâm mà luận định. Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu là ngôi chính của Trời Đất; Dần, Thân, Tị, Hợi là nơi Trường Sinh của Ngũ Hành; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là chổ Ngũ khí Quy nguyên (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ trở về gốc) cho nên Hậu Thiên vận dụng Chính Trâm, thì Chi nào cũng có Chính đính (chơn chính).
Địa chi thuộc Âm, tĩnh mà không động. Hậu Thiên thêm vào Tứ Duy và Bát Can: Tứ Duy là Càn, Khôn, Cấn, Tốn; Bát Can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Lấy Tứ Duy và Bát Can thuộc về Dương và chủ động. Lấy ở giửa ranh giới của 12 Chi và Tứ Duy, Bát Can tức nơi giao giửa Âm và Dương là lúc Khí hậu thay đổi ở khoảng đó. (cái này các anh chị, các bạn có thể thấy ở tầng tứ 29, nơi giao nhau giửa chúng luôn là điểm giao Tiết Khí). Nên ở khoảng Thiên Địa là có Âm thì cần phải có Dương, tức như trong Âm Chi phải có Dương Can, không thể hỗn độn được. Âm nhờ Dương nên không bị Hư, Dương nhờ Âm nên không bị Cô (đơn lẻ). Hai khí tự nhiên có sự hoá sinh, sinh hoá huyền diệu. Người xưa chế tạo ra Chính Trâm cũng không ngoài sự biến hoá của 12 Chi, Địa bàn vốn làm gốc rễ của Trung trâm, Phùng trâm và Xuyên sơn, Thấu địa. Những ngôi Sinh, Vượng, Hưu, Tù của Ngũ Hành, hoặc thường lệ của Âm, Dương thuận, nghịch di chuyển tự đấy (12 Địa Chi) mà suy ra cả. Trên có thể phân độ của các vị Tinh tú, dưới có thể hoạch định được địa phận của các phương, rất huyền diệu và đầy đủ. Người trí thức nên thuộc hiểu cái đó.
Đời sau người ta dùng Chính Trâm phân 24 sơn, là gốc do ở Vua Văn Vương hoạch định Bát Quái, mỗi quái quản tam sơn (3 phương) vị:
_ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu ở bốn ngôi chính, tức là Khảm, Ly, Chấn, Đoài, là 4 quẻ tàng.
_ Càn, Khôn, Cấn, Tốn ở bốn phương bàng (tứ duy), là 4 quẻ hiển.
ĐỊA VỊ CỦA TỨ CHÍNH VÀ TỨ DUY
BÁT QUÁI CHÍNH VỊ PHỤ VỊ TẢ, HỮU THUỘC QUẺ
Khảm Chính Bắc Nhâm, Quý tàng
Ly Chính Nam Bính, Đinh tàng
Chấn Chính Đông Giáp Ất tàng
Đoài Chính Tây Canh, Tân tàng
Càn Tây Bắc Tuất, Hợi hiển
Khôn Tây Nam Mùi, Thân hiển
Tốn Đông Nam Thìn, Tị hiển
Cấn Đông Bắc Sửu, Dần hiển
Trong đây gồm đủ cả vị Chính, vị Thiên, ngang Trời, dọc Đất đều thấu suốt hết cả, dùng để Cách Long, Định Huyệt, Lập Hướng, Thừa Phong, Tiêu Sa, Nạp Thuỷ, Cất nhà, An phần, trọn phôi Âm Dương, tác dụng rất rộng rãi, vô cùng. Trong này bày Lục Giáp tại Bát Môn thì suy ra Ngũ Vận Lục Khí, Ngũ Hành điên đảo, còn dùng nhiều việc khác vô cùng vậy! Cổ nhân có câu " Thức đặc Gủ Hành điên đảo điên, tiên thị nhân gian Địa trung Tiên". Nghĩa là: Biết được phép dụng của Ngũ Hành xoay chuyển xuôi ngược, đảo lộn, tức là Tiên trong thế gian rồi!
Biết thì làm được hợp Long, Huyền Quan thông khiếu. Phép dùng thì trước hết đặt La Kinh trên Long Tích (sống đất mô lên) chiếu phân biệt 4 cái Đại Thuỷ Khẩu, rồi sau lấy đến Tả toàn, Hữu toàn mà luận định
Thành Hiền xưa nói: "Ất Bính giao nhi xu Tuất. Tân Nhâm hội nhi tụ Thìn. Sửu Ngưu nạp Canh Đinh chi khí. Kim Dương thu Quý Giáp chi linh". Bốn câu quyết này bàn về Lý khí của Tiên Thiên, Hậu Thiên, cần phải hiểu tường tận về 4 cái Thuỷ Khẩu của 4 cục:
VÍ DỤ:
1_ Như phương Mẹo, Thuỷ từ Ất chuyển lại là Hữu toàn Thuỷ, Ất thuộc Âm Mộc thì phải phối hợp với Thuỷ ở phương Bính là Dương Hoả, rồi chảy ra phương Tuất là Mộ Thuỷ Khẩu của Hoả cục. Được như thế là Phu Thê tương phối, hợp lẽ. Nếu phối với Thuỷ ở phương Canh chảy ra phương Sửu, hoặc phối với Giáp chảy ra Mùi, hay phối với Nhâm chảy ra Thìn...thì phạm về Dương Sai. Ví như nam nữ gặp nhau ngoài đường mà nhận càn làm chồng, làm vợ vậy.
2_Như phương Ngọ, Thuỷ từ Bính chảy qua là Tả toàn Thuỷ, Bính là Dương Hoả thì phải phối với Thuỷ ở Ất là Âm Mộc, rồi chảy ra Tuất là Thuỷ Khẩu. Được như thế là Phu Thê tương phối thì đúng tốt. Nếu phối Tân Thuỷ mà chảy ra ở Thìn, hoặc phối với nước ở Quý mà ra ở Mùi, hoặc phối với Đinh mà ra ở Sửu...là phạm về Âm Thác. Đó chẳng khác nào Âm Dương hỗn tạp, người đi đường vơ bậy làm chồng, vợ vậy.
Hai đoạn trên đây là nghĩa của câu "Ất Bính giao nhi xu Tuất".
3_Như Thuỷ từ phương Tân chảy sang phương Dậu là Hữu toàn Thuỷ, Tân là Âm Kim thì phối với Nhâm là Dương Thuỷ, mà xuất ra ở Thìn là Mộ Khố của Thuỷ cục, được như thế là Phu Thê tương phối tốt. Nếu phối với Canh Thuỷ mà chảy ra ở Sửu, phối với Giáp Thuỷ chảy ra ở Mùi, phối với Bính Thuỷ chảy ra ở Tuất là phạm Dương sai.
4_Như Thuỷ từ Nhâm chảy sang Tý là Tả toàn Thuỷ, Nhâm là Dương Thuỷ thì phối với Tân là Âm Kim, rồi chảy ra ở Thìn, được như thế mới là Phu Thê tương phối. nếu phối với Đinh Thuỷ mà chảy ra ở Sửu, phối với Quý Thuỷ mà chảy ra ở Mùi, phối với Ất Thuỷ mà chảy ra ở Tân là phạm bệnh Âm Thác.
Hai đoạn trên đây là giải nghĩa của câu "Tân Nhâm hội nhi tụ Thìn"
5_ Như phương Ngọ mà nước từ phương Đinh chảy lại là Hữu toàn Thuỷ, Đinh là Âm Hoả thì phải phối hợp với Thuỷ ở phương Canh là Dương Kim, rồi chảy ra ở Sửu là Mộ Thuỷ Khẩu của Kim cục, được như thế mới đúng là cách Phu Thê tương phối. Nếu phối Bính Thuỷ xuất ở Tuất, hay phối Giáp Thuỷ xuất ở Mùi, phối Nhâm Thuỷ xuất ở Thìn, là phạm về bệnh Dương Sai.
6_ Như Thuỷ từ phương Canh chảy sang Dậu là Tả toàn Thuỷ, Canh là Dương Kim thì phối hợp với Đinh là Âm Hoả, rồi chảy ra ở Sửu, được như thế mới là Phu Thê chính phối. Nếu phối Quý xuất Mùi, phối Ất xuất Tân, phối Nhâm xuất Thìn là phạm Âm Thác.
Hia đoạn trên đây là nghĩa của câu "Sửu ngưu nạp Canh Đinh chi khí"
7_ Như Thuỷ từ Quý chảy lại phương Nhâm Tý là Hữu toàn Thuỷ, Quý là Âm Thuỷ thì phối với Thuỷ ở Giáp Dương Mộc, rồi chảy ra ở Mùi là Mộ Thuỷ Khẩu của Mộc cục, được như thế mới là Phu Thê chính phối tốt. Nếu phối với Canh Thuỷ xuất ở Sửu, phối với Bính Thuỷ xuất ở Tuất, phối với Nhâm Thuỷ xuất ở Thìn là phạm Dương sai.
8_ Như Thuỷ từ phương Giáp chảy qua Mẹo là Tả toàn Thuỷ, Giáp là Dương Mộc thì phối với Quý là Âm Thuỷ, mà chảy ra Mùi Khẩu, được như thế mới là Phu Thê tương phối. Nếu phối với Tân Thuỷ xuất ở Thìn, phối với Đinh Thuỷ xuất ra ở Sửu, phối với Ất Thuỷ xuất ra ở Tuất, tức là phạm Âm Thác.
Hai đoạn trên đây là giải nghĩa của câu "Kim Dương thu Quý Giáp chi linh"
Bốn cái đại cục này là lấy cái Thuỷ nhập đường và xuất khứ khẩu (nước chảy lại Minh Đường và chảy ra Thuỷ Khẩu), để phối hợp với Long và Toạ Sơn.
Còn về Tả toàn, Hữu toàn của Long Nhập Thủ, thì cũng lấy cái sự thuận nghịch như phép lệ của Thuỷ.
Ví dụ:
_ Như 5 cái Long Nhập Thủ là Dần, Giáp, Mẹo, Ất, Tốn, năm phương này lấy Giáp Mộc làm Tả toàn Long, tức là Trường sinh Hợi, tính thuận đến Nhâm, lần chuyển đi thì Đế Vượng tại Mẹo, Mộ tại Mùi. Nếu ở Ất quay ngược lại thì lấy Ất Mộc làm Hữu toàn Thuỷ, Trường sinh tại Ngọ, tính lần ngược lại đến Tị, chuyển đi đến Dần là Đế Vượng, Tuất là Mộ.
_ Như 4 cái Long Nhập Thủ là Tị, Bính, Ngọ, Đinh; thì lấy Bính Hoả làm Tả toàn Long, tính thuận thì Trường Sinh tại Dần, Đế Vượng tại Ngọ, Mộ tại Tuất; nếu từ Đinh quay ngược là Hữu toàn Long, thì Trường Sinh tại Dậu, Đế Vượng tại Tị, Mộ tại Sửu.
_ Như 5 cái Long Nhập Thủ là Thân, Canh, Dậu, Tân, Càn; nếu từ Canh chảy lại là Tả toàn Long, tính thuận thì Trường Sinh tại Tị, Đế Vượng tại Dậu, Mộ tại Sửu; nếu chảy từ Tân ngược lại là Hữu toàn Long, thì tính nghịch lại Trường Sinh tại Tý, Đế Vượng tại Thân , Mộ tại Thìn.
_ Như cái Long Nhập Thủ là Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; thì Tả toàn Long là Nhâm Thuỷ, Mậu Thổ, thì tính Trường Sinh tại Thân, Đế Vượng tại Tý, Mộ tại Thìn; Hữu toàn Long thì phân ra Quý lấy Trường Sinh ở Mẹo, Đế Vượng tại Hợi, Mộ tại Mùi; Kỷ Âm Thổ thì tính Trường Sinh tại Dậu, Đế Vượng tại Tị, Mộ tại Sửu.
Phép này là lấy trong Long Nhập Thủ, lấy Thuỷ xuất Mộ khố mà luận định phương vị, Lập Hướng, phải theo đúng như thế mà Tiêu sa, Nạp Thuỷ. Các bậc Tiền Hiền đã kinh nghiệm xác nhận, tường tận minh bạch, hậu học nên thận trọng chớ có sai lầm.
Chính Trâm là kim đỏ ở Địa bàn chỉ giửa Ngọ ở phương Nam, kim đen chỉ vào giửa chữ Tý ở phương Bắc. Lấy Bát Can thì theo phương Lộc, Tứ Duy thì theo phương Mộ. Tám quẻ gồm 8 cung, mỗi quẻ 3 phương, chỉ có Càn, Khôn, Cấn, Tốn là 4 quẻ chính, tức là Tứ Trụ Quái.