Khánh An

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    27
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Khánh An

  1. Bệnh tật đeo theo để khổ đời Con người vì bệnh phải mòn hơi Bệnh xui quân tử không tròn chí Bệnh khiến nam nhi phải lỡ thời Bệnh chuyển trần gian thành địa ngục Bệnh mờ non nước áng mây trời Phải chăng không bệnh là hy hữu? Nên mộng xuân hồng phải tả tơi! Một nhà thơ nào đó đã đặc tả bệnh khổ, một trong ba nỗi khổ lớn nhất của nhân sinh, đầy hình tượng mà cũng vô hình chân thực. Thực vậy, già, bệnh, chết là ba cửa ải phải qua của đời người, mà trong đó bệnh khổ mang tính quyết định. Nếu già mà tỉnh táo, khỏe mạnh, chết mà nhẹ nhàng, thanh thản thì cũng không phải là điều đáng sợ; chỉ có bệnh khổ dày vò thân tâm, khiến chúng ta cầu sống không được, muốn chết không xong mới là điều đáng sợ nhất. Thế nên có người bảo: “Tôi không sợ chết, chỉ cần khi chết ra đi nhẹ nhàng, không bị bệnh tật hành hạ đau đớn.” Nhưng thực ra, sợ chết vốn là bản năng, chấp ngã của con người. Dù lúc bình thời mình có hiểu vô thường và nói cứng bao nhiêu, nhưng khi đối diện cái chết, trước nỗi đau đớn dày vò, cũng như nghiệp lực quá khứ quấy nhiễu, nếu bình thời không có công phu đắc lực, thử hỏi mấy ai là có thể không hốt hoảng sợ hãi, trước vọng tưởng “cái ta” sắp mất của mình? Thực đúng, như những gì mà Thiền sư Quy Sơn đã nói: “Một mai nằm bệnh ở giường, các khổ trói trăn bức bách, sớm chiều lo nghĩ, tâm ý bàng hoàng, đường trước mịt mờ, không biết về đâu? Lúc đó mới biết ăn năn, như khát mới mong đào giếng, chỉ hận sớm chẳng lo tu, đến già nhiều điều lầm lỗi. Lâm chung rối loạn, lưu luyến bàng hoàng.” “Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?” Đây là câu hỏi mà phần lớn chúng ta vẫn mê mờ không rõ. Thế nhưng khi còn khỏe mạnh, chúng ta lại không biết dùng thời gian và năng lực quý báu để tìm câu giải đáp; đợi đến bệnh nặng sắp chết mới bàng hoàng lo sợ, thử hỏi lúc ấy có kịp không? Trong các thứ bệnh, có lẽ ung thư là căn bệnh mà người ta sợ hãi nhất vì mọi người đều nghĩ đây là một thứ bệnh nan y chưa có thuốc đặc trị, ai vướng phải nó như vướng phải án tử hình, nhất định sẽ bị tra khảo, hành hạ đến chết. Duyên lành thay, đức Phật và các vị thiện tri thức đã chỉ cho chúng ta một con đường thấu thóat: đó là quán chiếu bản chất vô thường, vô ngã của nhân sinh, sửa đổi tư tưởng và cách sống của mình, phát huy nguồn ánh sáng vô lượng trong tự tâm, soi sáng cho mình và người trong cõi đời tăm tối. Lại thêm, chỉ cần có tâm sám hối, có niềm tin chắc chắn mở rộng tâm mình đón nhận ánh sáng nhiếp thọ của đức Phật A Di Đà và mười phương chư Phật, chúng ta sẽ thể nghiệm được sức Phật thực không thể nghĩ bàn, sức niệm Phật cũng không thể nghĩ bàn, có thể chuyển hóa bệnh khổ thành an vui, biến đổi Ta bà thành Tịnh độ. Hành trạng sống quên mình, chết an nhiên của các vị cao tăng, đại đức và những ai chân thực niệm Phật là bằng chứng đầy sức thuyết phục cho khả năng vi diệu, bất khả từ nghì của Phật pháp. Vạn hạnh Thiền sư bảo: “Tùy cảnh thạnh suy không sợ hãi” Tuệ Trung Thượng sĩ nói: “Sinh tử thấu đáo rồi, nhàn vậy thôi.” Cũng như vậy, hành giả Tịnh độ đủ lòng tín nguyện, biết rõ và chắc nẻo về của mình: “Hiện tại sống an lạc, tương lai sinh Cực Lạc.” Do đó, bệnh khổ không phải là không có lối thoát, chẳng qua chúng ta có biết cách thoát cũng như đủ niềm tin và công phu để thoát hay không. Cho nên: Nếu biết giữ tâm mình không bệnh Tử sinh nhìn lại chỉ trò chơi! “Thân bệnh mà tâm không bệnh,” đây không phải là câu nói suông mà đã được chứng thực qua cuộc đời của Pháp sư Đạo Chứng. Pháp sư là một vị chuyên trị ung bướu trước kia, sau đó trở thành bệnh nhân ung thư, và cuối cùng xuất gia tu hành, thắng vượt bệnh khổ. Với bi nguyện giúp đời, Pháp sư đã dấn thân vào nẻo khổ , cùng an ủi, khích lệ và chỉ dẫn cho những ai cùng trong cảnh ngộ. Tác phẩm Niệm Phật Chuyển Hóa tế Bào Ung Thư này chính là ghi lại những lời giảng dạy vô giá của Pháp sư. Trên con đường nhân sinh, nhiều gập ghềnh lại lắm hầm hố chông gai này, thử hỏi đã bao lần chúng ta vấp ngã? Có kẻ bỏ cuộc, có người tự đứng lên, song phần lớn là phải nhờ thiện tri thức dìu đỡ. Như các vị Thiền sư trong quá khứ, Pháp sư Đạo Chứng là một vị thiện tri thức vĩ đại của bệnh nhân ung thư trong thời hiện đại. Người đã dìu đỡ chúng sinh vượt qua vũng tối sợ hãi trước cửa ải bệnh khổ, tìm ra nguồn sáng nơi đức Phật Vô Lượng Quang. Người cũng lấy thân mình làm gương, thị hiện thân bệnh mà tâm không bệnh, dùng trí tuệ từ bi và phong thái tự tại giữa bệnh khổ để an ủi, khích lệ và chỉ dạy chúng ta thấy được bản chất nhân sinh, phát huy ánh sáng sinh mệnh, nhằm soi rọi và sưởi ấm cho mình và người. Quả thực như Pháp sư nói: Chúng ta không thể quyết định chiều dài của sinh mệnh, nhưng chúng ta có thể quyết định chiều rộng và chiều sâu của sinh mệnh. Cho nên, học sống một ngày là biết ơn một ngày, học sống một hôm có ý nghĩa một hôm. Vì vậy: Cho dù ngày mai tận thế, Đêm nay sen vẫn trồng Đem lòng gió mát trăng thanh Xưng tán A Di Đà Phật. Quyển sách này còn bao gồm bốn bài chia sẻ tâm đắc của các giáo sư, tiến sĩ hay bác sĩ. Đây đều là những vị có kinh nghiệm bệnh khổ và chiến thắng bệnh tật, vì tất cả từng là bệnh nhân ung thư! Song nhờ biết chuyển hóa tâm niệm, thay đổi cách sống, phát huy tiềm năng sinh mệnh, mà có vị sống đến hơn ba mươi năm sau khi bác sĩ tuyên án tử trong vòng sáu tháng! Quan trọng hơn nữa, họ đã tìm được dòng sinh mệnh vô tận trong đời sống hữu hạn, phong thái tự tại, biết ơn và vị tha giữa thế giới vô thường. Điều này khiến chúng ta càng tin tưởng vào sự vi diệu của Chánh pháp, tiềm năng vô tận của sinh mệnh và sức gia hộ không thể nghĩ bàn của chư Phật! Mỗi dòng trong nguyên tác là một chuỗi châu ngọc vô giá, đem lại nguồn an ủi và khích lệ vô biên cho người đọc. Mỗi tư tưởng của tác giả là một nguồn ánh sánh thanh tịnh, soi rọi thân tâm chúng ta khiến mê lầm tan biến, còn lại tâm mát mẻ sáng trong. Chúng ta có thể cảm nhận trí tuệ và tâm từ bi của Pháp sư đã đem lại niềm tin và an lạc cho mình ngay trong giây phút hiện tại. Cho nên, quyển sách này là thiện tri thức cho những ai đang sống trong bệnh khổ, là thuốc diệu Già Đà trị lành bệnh tật cả hai mặt thân tâm, là ánh sáng xua tan vũng tối sợ hãi, là nhịp cầu cảm thông giữa chư Phật và chúng sinh, là chỗ quay về nương tựa cho những tâm hồn bơ vơ, lạc lõng. Thích Minh Quang kính ghi Tịnh thất Hàn Mai, ngày 27/7/2005 NIỆM PHẬT CHUYỂN HÓA TẾ BÀO UNG THƯ Vướng phải bệnh ung thư hay bệnh nan y nào khác, phải làm cách nào đây? Giả sử bạn là một người tin Phật, niệm Phật đã đến trình độ tâm an nhiên, hoan hỷ thì không cần phải nói gì nữa. Còn như bạn chưa chuẩn bị gì cả, mà bỗng nhiên phát hiện ra mình mắc bệnh ung thư, hay một căn bệnh nan y nào khác, nên trong lòng đau khổ, cuộc sống đầy lo lắng bất an, không biết phải làm cách nào, vậy chúng ta có thể an ủi, khích lệ lẫn nhau. Tôi vốn là một bác sĩ trị bệnh ung thư, mà lại trở thành bệnh nhân ung thư! Có thể vì lý do này, bạn cho rằng tôi là một bác sĩ vừa dở lại vừa dốt, bản thân còn lo chưa xong, thì nói chi làm được việc gì. Vâng, quả thực là như vậy! Rất nhiều người cười tôi. Tôi cũng cảm thấy bản thân mình đáng cười, một người bác sĩ ngu dốt! Song thực ra, trên đời này, chẳng có một bác sĩ nào mà không mắc bệnh. Càng tìm không ra một bác sĩ nào có thể bảo đảm rằng mình không bệnh, không chết! Cho nên, kinh nghiệm mà bản thân tôi trải qua, tuy có một chút đáng cười, song nếu như bạn từ bi không chê bỏ, xin thử kiên nhẫn lắng nghe. Cho dù là vài tờ báo cũ rách, cũng có thể giúp bạn gói chiếc bình hoa xinh đẹp, quý giá của mình, bảo vệ khiến nó không đến nỗi bị va vỡ; một ngọn nến với ánh sáng mờ nhạt mà lúc bình thường không đáng chú ý, lại có thể giúp bạn vượt qua một đêm gió bão, tối tăm, lúc không có điện. Xin bạn hãy xem tôi như vài tờ báo cũ rách, giúp bạn bảo vệ chiếc bình hoa quý giá của mình. Tôi cũng rất sẵn lòng làm một ngọn nến nhỏ, bầu bạn với bạn trong một đêm mưa bão tối tăm, thiếu ánh đèn soi sáng trong cuộc đời! Đường núi gập ghềnh tăm tối, nguyện cùng nhau kết bạn đồng hành. Những năm gần đây, thường có một số bạn mắc bệnh ung thư, do thấy các giáo sư ở Liên Xã Đài Trung lần lượt xuất bản những quyển sách nhỏ được ghi lại từ băng giảng của tôi, nên rất muốn mời tôi cùng thảo luận, học tập, và chia sẻ với nhau những trăn trở hay tâm đắc của mình sau khi mắc phải căn bệnh này. Phần lớn những ai muốn tìm đến tôi, đều là những người đã từng chịu khổ đau, đày ải: Khổ vì bệnh tật hành hạ ; khổ vì quá trình trị liệu; khổ vì những người bên cạnh không thông cảm; khổ vì bản thân lo sợ ám ảnh bởi cái chết; thậm chí có người còn khổ vì bị người thân, hay người yêu hắt hủi, ruồng bỏ! Khi người ta đau khổ, ai cũng hy vọng có người có thể hiểu và thông cảm nỗi khổ trong lòng mình. Lúc sợ hãi đến nỗi giá lạnh cả tay chân, ai cũng kỳ vọng có đôi bàn tay Phật ấm áp, vĩ đại đến cứu độ kịp thời. Lúc vượt qua một đọan đường núi gập ghềnh trong đêm đen, nếu có bạn đồng hành, mình luôn cảm thấy dễ đi hơn nhiều. Chỉ mong trong lúc bạn đau khổ, lo buồn, tôi có thể trở thành một người bạn đồng hành, cùng nhau vượt qua đọan đường nhân sinh nhiều gập ghềnh và đen tối này! Thoát vòng sợ hãi, hết lòng phụng sự. Học sống một ngày, biết ơn một ngày; học sống một hôm, biết vui một hôm. Chúng ta đều là những con người giống nhau, biết khóc, biết cười, biết đau, biết khổ. Dòng máu ai cũng đỏ, nước mắt của ai cũng mặn! Cho nên, khi gặp phải cảnh khốn khó phải bó tay, ai mà không khỏi lo lắng, sợ hãi? Khi biết được trong thân có một cái bướu “ác tính”, không biết nó sẽ hành hạ mình như thế nào, hiếm có ai mà không lo sợ! Khi biết rằng mình sắp chết, lại không biết chết rồi sẽ đi về đâu, ai lại không lo sợ, bàng hoàng? Tôi rất biết ơn sự dạy dỗ của chư Phật, Bồ tát, sư trưởng, cha mẹ và các vị thiện tri thức, đã giúp tôi thoát ra khỏi vũng tối sợ hãi này. Tôi cũng biết ơn tất cả bệnh nhân trong bệnh viện trước kia, đã thị hiện dạy cho tôi rất nhiều bài học. Tôi đã học được làm cách nào để sống qua những ngày tháng như thế này, và học sống một ngày là biết ơn một ngày; học sống một hôm là biết vui một hôm. Tôi cũng từng rất đau khổ; đau khổ đến mức không còn cách nào chịu đựng được nữa! Nhưng dựa vào đức tin, tôi đã tìm lại được những ngày tháng biết ơn và an lạc. Đã từng có người nghe đến đây lắc đầu bảo: Chúng tôi trước khi mắc bệnh đâu có đức tin như vậy; cũng không biết Phật là gì, làm sao mà có tâm biết ơn; Lo sợ đến chết đi được, làm sao mà thanh thản như bác sĩ! Xin bác sĩ hãy nói những điều thực dụng đối với chúng tôi, đừng dính dáng đến kinh Phật, hay những thuật ngữ khó hiểu. Cũng từng có bệnh nhân bảo: Tôi hiện giờ còn tâm trí đâu mà nghiên cứu kinh Phật. Trong lòng lo lắng, mỗi ngày tôi đều tra cứu tài liệu y học, song càng xem lại càng sợ hãi! Có người khuyên nên đọc kinh Phật, nhưng tâm tôi luôn rối rắm, đọc thứ gì cũng không vô! Những lời nói này đã phản ánh thực đúng tâm trạng khốn khó của tất cả người bệnh nói chung. Bản thân tôi không có công phu, cũng không có tư cách, khả năng giảng nói kinh Phật. Tôi chỉ có một số kinh nghiệm qua sự thấy nghe của mình, từ đó rút ra được những bài học và sức mạnh bổ ích, giúp mình tháo gỡ những vướng mắc trong tâm. Tuy những kinh nghiệm này rất nghèo nàn, song cũng có thể chia sẻ cùng bạn. Biết đâu căn cơ của bạn tốt, nhờ đó mà có thể sống vui vẻ, thanh thản hơn tôi nhiều! Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật. Tôi rất thích lời giải thích Phật là gì của một vị Thiền sư. Đó là Ngài Đạo Tín. Ngài bảo: Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật. Trước hết, tôi xin kể ra đây một câu chuyện, hy vọng bạn có thể cảm nhận được đạo lý chứa đựng trong đó. Lúc tôi còn là sinh viên ở Học Viện Y Học, năm thứ hai phải học môn giải phẫu, nghiên cứu cấu tạo toàn bộ xương người. Ví dụ, miếng xương nào có những lỗ gì, có những mạch máu và dây thần kinh nào đi qua lỗ đó…, đều phải ghi nhớ kỹ không được sai sót. Thi rất là khó, không ít sinh viên bị rớt ở môn này. Tháng muời năm đó có kỳ nghỉ lễ, tôi tranh thủ thời gian trở về quê ở Đài Nam vài ngày. Nhưng sau kỳ nghỉ là kỳ thi, cho nên tuy về quê, tôi vẫn đem xương sọ theo học. Chúng tôi học đều dùng xương sọ người thật. Tôi đem cái xương sọ và vài nhánh xương tương đối phức tạp, đựng trong một túi xách đơn giản, ôm trước ngực, cùng mọi người chen nhau bước lên xe lửa trở về quê. Lúc đó, tôi chen tới chen lui trong dòng người đông đảo. Không ai biết trong túi đựng gì, nên ai cũng thản nhiên và không có chuyện gì xảy ra. Sau này tôi mới biết, nếu lúc đó mình đưa xương sọ và mấy khúc xương ra cho mọi người thấy, rồi bảo đó là xưong thật, có lẽ không ai dám đứng gần, không chừng còn nhường chỗ cho mình ngồi nữa! (Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Tứ Tổ Đạo Tín Khai thị cho Pháp Dung, hay còn được gọi là Lại Dung (ông Pháp Dung lười): “Đi đứng nằm ngồi, chạm mặt gặp duyên đều là diệu dụng của Phật”. (T51, no. 2076, p.227, a26-27) Dịch giả chú.) Thực ra, lúc đó tôi cảm thấy việc này rất bình thường. Bởi vì cha tôi là bác sĩ, trong nhà ai cũng nghĩ đó là công cụ để dạy học mà thôi. Hôm sau có một ngừơi chị họ lớn hơn tôi hai tuổi đến chơi.Chị trông thấy tôi ngồi cầm xương sọ, đối chiếu với hình vẽ trên sách, đọc lẫm nhẫm tiếng Latin, nên hiếu kỳ đến chơi. Chị tươi cười cùng xem với tôi, lại còn cầm xương sọ lên, đùa bảo: “À, thì ra hai con mắt là hai cái lỗ sâu hoắm, còn lỗ mũi lại bằng phẳng, trông thực dễ thương!” Chị vừa xem vừa cười. Không biết lúc đó nghĩ sao tôi lại nói: “Những người này hiến xương cho chúng ta nghiên cứu, để sau này mình có thể cứu người, cho nên phải tỏ lòng kính trọng và biết ơn…” Tôi còn chưa nói xong, chị bỗng thét lên một tiếng, quăng xương sọ đang cầm trên tay ra thực xa, khóc mếu máo, trách tôi: “Sao không nói sớm đó là xương người thật?” Tôi vội vã xin lỗi, rồi đi nhặt lại xương sọ. Tôi nhìn thấy mặt chị xám xanh, nước mắt ràn rụa, đang ngồi run rẩy bên cạnh đàn dương cầm. Chị lại nhìn đôi tay của mình, một đôi tay vừa sờ qua xương người chết! Dường như chị rất ghê sợ nó, không biết phải làm sao! Bỏ đi không được, để đó lại thì ghê! Tôi thấy vậy mới nói: “Xin lỗi, thì ra chị không biết đó là xương người thật. Nhưng không phải lúc nãy chị đã xem rất hứng thú hay sao? Xương người cũng không có gì đáng sợ! Tụi em mỗi ngày phải ở chung với xương người đễ nghiên cứu. Chỉ cần có tâm cung kính là được.” Tôi lại còn phải nói nhiều và rất nhiều để an ủi chị. Sau đó chị mới hết khóc, cười nói vui vẻ trở lại. Nhưng từ đó về sau, chị không còn dám sờ đến mấy khúc xương này nữa! Vì sao tôi phải kể lể dài dòng như vậy? Bởi vì câu chuyện này đã cho bản thân tôi một bài học lớn. Đó là: con người thực ra đều sống với thế giới “quan niệm” của mình! Sọ người trước đó và sau không có gì khác nhau, nhưng thái độ tâm lý của chị tôi lại thay đổi một trời một vực! Thì ra, trước đó chị cho rằng nó chỉ là cái xương sọ giả, một công cụ dạy học làm bằng nhựa, nên không chút sợ hãi, lại thích thú vưa xem vừa cười. Sau đó chị lại cho rằng: “Thì ra đây là xương của người chết, thực là kinh khủng!” cho nên mới sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, vội quăng chiếc sọ đó ra xa! Cho dù là xương sọ thực, nếu trong quan niệm của mình cho nó là giả, thì cũng không có gì đáng sợ; ta có thể chơi đùa với nó một cách tự nhiên, vui vẻ. Khi mà trong quan niệm, ta lại đem xương sọ người đơn thuần liên tưởng đến những câu chuyện ma quỷ mà lúc nhỏ mình bị hù dọa hay tưởng tượng, thì nó sẽ trở thành một thứ hết sức kinh khủng! Đối với người không có liên tưởng viễn vông, xương người là thứ rất bình thường, bởi vì tất cả chúng ta ai cũng có một bộ! Bộ xương của mình được bao bọc bên ngoài bởi lớp thịt da, chẳng phải rất bình thường, không có chút gì đáng sợ hay sao? Nhưng người chị họ của tôi khi nghĩ nó là giả, thì vui đùa hết sức tự nhiên; đến khi biết nó là xương người, lại sợ đến phát khóc, trống ngực đánh dồn dập. Đây là chị bị “quan niệm” và óc tưởng tượng quá đáng của mình khống chế mới khiến như vậy. Chúng ta không nên cười chị. Vì thực ra mình cũng không khác gì. Chúng ta đều bị một số quan niệm và óc tưởng tượng lừa dối. Đây có thể gọi là: Sắc chẳng mê người, người tự mê; xương không đáng sợ, người tự sợ! Có rất nhiều lời nói, bản thân nó không làm người ta giận, nhưng người nghe lại tự mình nổi giận. Cũng vậy, ung thư không làm người ta sợ, mà người ta lại tự sợ. Cái sợ này, có thể khiến người đang không việc gì mà tim bỗng đập dồn dập, vốn khỏe mạnh mà lập tức suy sụp cả người! Trạng thái tâm lý, ý niệm có tính quyết định, có sức mạnh không thể nghĩ bàn. Khi tôi còn làm việc trong bệnh viện, từng phát hiện một sự thật như sau. Bệnh nhân ung thư trị liệu bằng phóng xạ hay hoá chất, do đó huyết cầu của họ phần lớn sẽ giảm. Nói chung, người bệnh vốn không biết số lượng huyết cầu mình bao nhiêu, và số lượng nhiều ít có ý nghĩa như thế nào, nhưng họ đều quan niệm số huyết cầu càng giảm thì càng không tốt. Bệnh viện có tiêu chuẩn, số lượng huyết cầu giảm đến mức độ nào thì phải tạm ngưng điều trị. Có một số người bệnh vì bạch huyết cầu giảm thấp, nên tạm thời nghỉ ngơi vài ngày. Khi họ ở nhà cảm thấy sức khoẻ khá hơn, liền trở lại bệnh viện tái khám. Phần lớn những người này đều cho rằng huyết cầu của mình nhất định sẽ tăng lên. Nên khi bước vào phòng khám, họ thường tươi cười và nói với tôi: “Mấy hôm nay khá lên nhiều lắm, lại ăn ngon miệng!” Họ cũng vui vẻ đi thử máu lại, rồi đem phiếu xét nghiệm về cho tôi xem. Lúc tôi đang coi pjiếu xét nghiệm, người bệnh đều hỏi: “Bạch huyết cầu của tôi bao nhiêu?” Nếu như tôi nói ra số liệu thực sự ghi trên phiếu, có thấp hơn so với lần trước, là điều mà họ không ngờ đến, thì dường như vẻ mặt ai cũng trầm xuống, tay chân như thoát lực, giọng nói yếu ớt: “Sao lại thấp như vậy?” Một lát nữa, họ có thể còn suy sụp đến mức không đủ sức đi về nhà! Chúng ta thử nghĩ xem, cũng là một thân này, mà trước sau chỉ có một giây mà đã khác nhau như trời vực! Chỉ cần nghe đến con số huyết cầu mà người ta không ngờ đến, thì tâm liền thất vọng và lo lắng! Tình trạng sức khoẻ mà trước đây mình cho là đã khá hơn bỗng lập tức trở nên suy sụp, yếu đuối! Nó phác tác còn nhanh hơn bất cứ thuốc độc nào! Từ chỗ này chúng ta có thể nhận ra một đạo lý. Đó là tâm niệm của con người có tính quyết định và sức mạnh không thể nghĩ bàn! Tâm lý ảnh hưởng đến công năng miễn dịch. Thí nghiệm khoa học cho thấy, sự thay đổi trạng thái tâm lý quả thực có thể sinh ra một số vật chất ảnh hưởng đến sinh lý. Ví dụ lúc chúng ta nóng giận, trong cơ thể sẽ sinh ra độc tố rất giống hay tương đồng với nọc rắn. May mà gan của con người có công năng giải độc, nên những chất độc do nóng giận sinh ra này không đến nỗi khiến chúng ta mất mạng! Nếu công năng giải độc của ai yếu kém, hoặc cao huyết áp, hay người mắc bệnh tim, thì chất độc do nóng giận gây ra đủ để làm người đó mất mạng. Cho nên, việc “giải độc” triệt để cần phải ngay “tâm niệm” của mình mà hạ thủ công phu. Tâm niệm thay đổi, thân thể cũng thay đổi theo. Viện Nghiên Cứu Ung Thư Quốc Gia ở Mỹ có một công trình nghiên cứu cho thấy: Nhà nghiên cứu có thể đoán trước đúng một trăm phần trăm người bệnh có chiến thắng được bệnh ung thư trong vòng từ một đến hai tháng hay không. Điều mà khoa học căn cứ không phải là khối u lớn hay nhỏ hay mọc ở chỗ nào, cũng không phải căn cứ vào kết quả xét nghiệm theo máy móc, càng không phải là số liệu có được từ kết quả thửmáu, mà hoàn toàn căn cứ vào “trạng thái tâm lý” của người bệnh! Tâm mới chính là gốc rễ của vấn đề. Có đến hàng ngàn công trình nghiên cứu cho thấy, do chịu áp lực nên khiến cho tuyến ngực teo lại, có nghĩa là công năng miễn dịch trở nên suy yếu. Theo kết quả thí nghiệm, những trạng thái tâm lý xấu như nóng giận, lo buồn v.v…. đều có thể đưa đến sự suy yếu công năng miễn dịch, khiến dễ sinh bệnh ung thư và các bệnh truyền nhiễm khác, cũng như khiến việc điều trị mất đi công hiệu. (Bởi vì cần phải thông qua công năng miễn dịch của bản thân người bệnh, thì việc trị liệu mới có hiệu quả). Điều này cho thấy, tâm niệm có sức mạnh vô cùng. Cho nên cần phải đem tâm niệm của mình chuyển thành tâm niệm Phật. Phật chính là tâm sáng suốt, an vui, không có lo buồn. Nếu niệm Phật, tâm tự nhiên sẽ trởnên sáng suốt, an lạc và có sức mạnh. Tâm niệm Phật thì vừa có thể buông xả những áp lực, vừa có thể tránh được những độc tố sinh ra bởi những tâm lý xấu, lại vừa tăng trưởng sức miễn dịch. Chúng ta cần phải biết rằng, áp lực là do tâm mình tự “tiếp nhận” lấy. Chỉ có những việc mà mình quá quan tâm, vướng mắc, mới có sức đè nặng lên tâm lý. Nếu thay đổi tâm niệm, không nghĩ rằng đó là gánh nặng, thì sức ép tự nhiên không còn tồn tại và mình cũng không phải “tiếp nhận” lấy gánh nặng này. Nếu chúng ta quyết tâm chỉ tiếp nhận ánh sáng của Phật (niệm Phật), thì không còn có tâm nào để tiếp nhận gánh nặng tâm lý đó nữa. Cho nên cần phải luyện tập: “Nhận hay không nhận là do tự tâm mình quyết định.” Vạn pháp do tâm tạo, niệm Phật an vui nhất. Nghiên cứu khoa học cho thấy, khi người ta vui vẻ, bộ não sẽ tiết ra chất hoá học, như chất Endorphins và Enkephalins. Chất Endorphins giúp tăng sản lượng tế bào T (lymphocyte), giống như tăng thêm số lượng cảnh vệ, hay quân đội. Còn chất Enkephalins giúp tế bào T tăng thêm sức mạnh để chiến thắng tế bào ung thư, đồng thời giúp tế bào T trở nên linh hoạt, có hiệu quả hơn. Cho nên “tâm niệm” chính là vị tổng chỉ huy của đội quân miễn dịch. Đây là kết quả thực nghiệm khoa học, cũng là chứng minh lời đức Phật dạy: “Vạn pháp duy tâm tạo.” Người niệm Phật nguyện sinh về thế giới Cực Lạc, chính là nguyện: Không có các khổ, chỉ hưởng an lạc; hay nói khác đi, chính là nguyện khiến tâm luôn ở trong trạng thái an lạc, vui vẻ. Phật A Di Đà còn được gọi là Phật Hoan Hỉ Quang, nên thường niệm Phật chính là thường hoan hỉ, thường tạo ra tất cả những chất tăng thêm sức miễn dịch. Cho nên đức Phật được xưng là Vô Thượng Y Vương, tức là vị Thầy thuốc vua của tất cả thầy thuốc! Còn hoan hỉ niệm Phật chính là thuốc bổ tốt nhất! Một tử tù bị lời nói, óc tưởng tượng doạ chết. Nhà tâm lý học từng làm một thí nghiệm đối với một người tử tù như sau. Họ bịt mắt một người tử tội và để anh nằm trên một chiếc giường, rồi bảo: “Chúng tôi sẽ cắt đứt gân máu nơi cổ tay anh, máu sẽ chảy ra từng giọt, từng giọt… Đến khi máu chảy hết, anh sẽ chết!” Nói xong, họ giả vờ dùng một vật gì đó gạch mạnh lên cổ tay anh ta, song thực ra không có rách da. Kế đó nhà tâm lý lại dùng nước mà nhiệt độ tương đồng với nhiệt độ máu, nhễu từng giọt, từng giọt lên tay anh ta, khiến anh có cảm giác thực sự là dòng máu ấm của mình đang chảy. Họ lại dùng một chiếc thùng thiếc đặt phía dưới cánh tay để hứng nước, khiến anh nghe được tiếng tí tách như máu đang nhỏ. Họ lại bảo: “Máu của anh đang chảy ra từng giọt một, chảy một lát sẽ hết máu. Bây giờ chỉ còn lại vài phút, thời gian sắp đến rồi!”Quả nhiên thời gian vừa đến, người tử tù đã thực sự chết đi vì sợ! Thực ra, anh chẳng có chảy một giọt máu nào, cũng không bị rách một chút da, mà hoàn toàn bị lời nói và cảnh tưởng tượng lừa dối mà chết đi tức tưởi. Đây là một thí nghiệm tương đối tàn nhẫn, chúng ta tạm gác qua vấn đề này có nhân đạo hay không, nhưng nó đã chỉ ra một sự thực: Tâm niệm và lòng tin có thể quyết định vận mệnh của chúng ta! Người tử tội này có thể bảo là một vị Bồ tát! Tuy rằng anh ta bị dọa sợ đến chết, nhưng kết quả cuộc thí nghiệm này giúp chúng ta phần nào hiểu và tin được đạo lý “tất cả do tâm tạo” của nhà Phật. Tôi thường kể cho người bệnh nghe về cuộc thí nghiệm này. Trước đó họ rất lo lắng, buồn khổ, nhưng sau khi thực sự hiểu được đạo lý này, họ biết rằng có thể dùng tâm niệm mình để thay đổi vận mệnh. Cho nên, họ không còn tự dọa lấy mình, dùng óc tưởng tượng hành hạ bản thân, oan uổng rước lấy lo sợ, đau khổ. Khơi dậy lòng tin, tế bào sẽ phấn chấn, an vui. Tôi còn nhớ, lúc nhỏ đã đọc qua một bài tập đọc, được phiên dịch từ tiếng nước ngoài. Sau khi đọc xong, tôi cảm động đến mức rơi lệ, mãi đến bây giờ vẫn còn ấn tượng rất sâu đậm. Bài văn kể lại câu chuyện một người bệnh nặng, cảm thấy mình sắp chết. Mỗi ngày người đó nằm trên giường bệnh nhìn ra cửa sổ. Lúc đó mùa thu sắp qua, chuẩn bị bước vào mùa đông. Mùa đông ở nước ngoài rất lạnh, lá cây rơi rụng trơ trụi. Người bệnh nhìn lá rụng trong lòng rất cảm thương. Một hôm, người bệnh nằm mơ thấy có người bảo: “Khi những chiếc lá trên cây bên ngoài cửa sổ hoàn toàn rụng hết, sinh mệnh của anh cũng sẽ kết thúc.” Khi tỉnh dậy, nhớ đến giấc mộng đêm qua, anh càng bi quan. Mỗi ngày anh nhìn những chiếc lá rơi rụng mà lòng thấp thỏm âu lo, sức khoẻ sa sút. Thực vậy, mỗi một chiếc lá rụng là tăng thêm một phần sợ hãi, và giảm đi một phần sức khoẻ của anh. Có một vị bác sĩ nhân hậu đến thăm, nhận thấy vẻ bi thương của anh mới dọ hỏi và biết được đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, vị bác sĩ này nghĩ cách giúp đỡ. Sắp đến ngày có tuyết rơi, một buổi tối trời nổi cơn gió mạnh, giá rét căm căm, dường như tất cả những chiếc lá trên cây đều rơi rụng cả. Trong đêm tối người bệnh tuy không trông thấy bên ngoài, nhưng trong lòng đoan chắc rằng không còn chiếc lá nào trên cành, trong tâm hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng sáng sớm hôm sau, người bác sĩ nhân hậu đó lại đến, chỉ cội cây ngoài cửa sổ và bảo: “Anh xem, lá trên cây đều rơi rụng cả, song có một cành lá vẫn còn kia. Cơn gió mạnh tối qua dù có hung dữ đến đâu, cũng không làm nó rơi rụng. Đây thực là một phép mầu. Điều này cho thấy bệnh tình của anh nhất định cũng gặp được phép mầu, sẽ bình phục trở lại!” Người bệnh nhìn ra ngoài khung cửa sổ, quả nhiên lá cây đều rụng sạch, chỉ còn lại những cành cây trơ trụi, khẳng khiu. Nhưng kỳ lạ sao, nếu nhìn kỹ, vẫn còn vài chiếc lá nguyên vẹn trên một cành cây. Nhìn thấy cảnh này, lại nghe lời bác sĩ khích lệ, tinh thần anh phấn chấn trở lại, cả người sung sướng, không bao lâu hết bệnh, trở lại bình thường. Các bạn có biết vì sao câu chuyện này khiến tôi cảm động và có ấn tượng sâu sắc hay không? Bởi vì những chiếc lá còn lại trên cành trải qua cơn giông bão, chính được vị bác sĩ đó vào lúc giữa đêm leo lên cây, tìm cách dán chặt chúng vào cành, nhằm để an ủi, khích lệ, giúp người bệnh có niềm tin, hy vọng, và vui vẻ sống. Những chiếc lá không rụng này tuy giả, nhưng lòng tin của người bệnh là thực, và sức mạnh của nó sinh ra cũng là sự thực! Từ thực tế này, chúng ta có thể hiểu được “niềm tin” có sức mạnh mang tính quyết định! Chúng ta có thể quyết định thời gian còn lại của đời mình phải sống an lạc, vui vẻ, không bị bệnh tật ảnh hưởng! Đây là điều không ai có thể ngăn cản được chúng ta! Bào thai là khối u lớn nhất trong cơ thể. Tôi từng đọc qua một câu trong sách y học về khoa phụ sản: “Thai nhi là khối u lớn nhất trong cơ thể!”Quả thực, thai nhi trong bụng mẹ phân hoá, càng lúc càng lớn, người mẹ không thể nào khống chế được. Ngay cả nhóm máu của thai nhi cũng có thể khác với mẹ. Người mang thai là người mang trong người một sinh mệnh khác mà mình không thể khống chế. Trong sách còn bảo đó là khối u lớn nhất trong thân thể con người! Nhưng tâm lý của người mẹ lại không sợ hãi, phần lớn còn rất vui sướng. Đây là vì người mẹ nhìn thấy phần lớn người có mang đều không sao cả, cho nên tự nhiên không sợ hãi. Giá như, nhóm những người mắc bệnh ung thư nhưchúng ta ai cũng có thể sống vui vẻ, an lạc thì những người sau này mắc căn bệnh này cũng không có lo lắng, sợ hãi. Không ai quy định mắc bệnh ung thư là phải sầu thương ủ rủ, buồn khổ khóc lóc. Chúng ta có thể phấn chấn tinh thần, sống một cách thoải mái, tự tại. Bài học từ cây đu đủ. Chỗ tôi ở có trồng một cây đu đủ. Cây đu đủ này từng là vị bác sĩ và cũng là thầy của tôi. Sao lại nói như vậy? Có một dạo, dạ dày và ruột của tôi bị khối u ung thư bức ép, cho nên ăn uống đều khó khăn, người trở nên gầy ốm. Một hôm tôi tình cờ trông thấy cây đu đủ này. Thực vô cùng kinh ngạc! Thân cây đu đủ còn nhỏ hơn ống quyển chân tôi, chỉ lớn hơn bắp tay của tôi một chút. Lại nữa, nó cũng không cao, có thể nói đó là một cây đu đủ vừa thấp lại vừa nhỏ. Nhưng trên thân của nó lại trổ ra rất nhiều trái, đeo bám đến mấy lớp, ít lắm cũng hơn ba mươi trái! Mỗi trái đu đủ đều lớn hơn khối u ung thư của tôi. Nhưng cây đu đủ này không vì những trái vừa nhiều, vừa to, vừa nặng trên thân mà ngã xuống! Thậm chí nó còn mọc rất thẳng, không nghiêng một chút nào. Tôi nhìn nó mà lòng vô cùng xúc động trước sức sống kiên cường, nên bất giác nước mắt lưng tròng, tỏ lòng tôn kính bảo: “Đu đủ ơi, ngươi thực là vị thầy của ta, ta sẽ học hỏi nơi ngươi.” Muốn thực sự học được như cây đu đủ cũng không phải là điều dễ dàng. Nhưng chúng ta chẳng lẽ lại không bằng cây đu đủ vừa thấp vừa bé đó sao? Lẽ nào chúng ta lại yếu đuối như vậy? Từng có một vị dược sĩ trẻ tuổi mắc bệnh ung thư rất bi quan và cuộc sống của cô cũng trở nên ảm đạm như ngày tận thế! Song thực ra cô không đến nỗi gì cho lắm. Nếu không nói ra, bạn cũg không biết cô ta mắc bệnh. Bên ngoài cô mập mạp hồng hào, sắc mặt cũng không đến đỗi, nhưng bởi vì tinh thần cô ta rất khổ, nên giáo sư Viện Y Học đưa cô đến tìm tôi để cùng khích lệ lẫn nhau. Lúc cô đến, tôi đưa cô đi thăm cây đu đủ, nói với cô về bài học mà cây đu đủ đã dạy cho tôi. Cô nghe xong cảm động đến rơi nước mắt. Chúng tôi cùng nhau chắp tay hướng về cây đu đủ tỏ lòng kính trọng, phát tâm học tập đức tính kiên cường của nó. Trái đu đủ mọc từ thân cây ra, đã có thể mọc ra thì cũng có thể gánh vác! Bướu từ thân chúng ta mọc ra, thì chúng ta cũng có thể chịu đựng, xử lý thoả đáng. Đây là niềm tin căn bản! Tiềm năng cơ thể con người là vô tận. Thân thể của chúng ta vốn chỉ là một cái trứng thụ tinh bé tí trong lòng mẹ, thế mà nó đã phát triển thành đủ mọi giác quan. Những giác quan này tự mình lớn lên và đều có công năng khác nhau, có thể nói đó là một điều không thể nghĩ bàn! Cho dù bạn không quan tâm đến, da thịt bạn vẫn đổi mới mỗi ngày. Người không học ngành y có lẽ không biết rằng trong thân mình có những cơ quan nào. Nhưng tuy bạn không biết, chúng từnhỏ vẫn giúp bạn làm rất nhiều việc tốt. Tiềm lực của chúng thật vô cùng. Trước đây, tôi được nghe thầy Tiêu Vũ Dung giảng Phật Pháp. Người dạy chúng tôi phải có tâm biết ơn đối với cơ thể. Ngài đã nói đến một việc rất lý thú. Đó là lúc chúng ta dùng cơm, chén đũa dính dầu mỡ nếu không dùng nước rửa chén để rửa thì không sao sạch được. Nhưng dạ dày và ruột chúng ta ăn biết bao nhiêu thứ dầu mỡ mà trước giờ mình đâu có cần nước rửa chén hay bất cứ thuốc tẩy rửa nào! Ruột và dạ dày tự nó biết xử lý mà không cần chúng ta dạy dỗ, can thiệp! Vậy bạn nói xem, có phải chúng ta có được một thân thể rất giỏi giang, rất khéo léo hay không? Nó thực sự có Phật tánh, lại còn có đầy đủ tiềm năng lớn mạnh trong đó. Cho nên chúng ta phải gắng sức khai phát, vận dụng tiềm năng này, mà không phải chỉ biết trách móc, chà đạp nó. Thông thường, người ta hay: lúc chưa bệnh sống bê bối, vô độ, đó là chà đạp thân thể; lúc có bệnh lại trách móc nó! Ông chủ nên có lòng từ bi và biết ơn. Bạn thấy, tim của mình đã đập không ngừng từ nhỏ. Lúc chúng ta ngủ nó cũng không ngủ, vẫn tiếp tục đập, chưa từng xin chúng ta nghỉ phép một ngày, cũng như chưa từng có đình công! Nói ra, chúng rất cực khổ. Hiện nay, tuyệt đối tìm không ra một nhân viên nào làm việc hết lòng, hết sức như vậy. Cho nên khi các cơ quan trong thân mình thỉnh thỏang có mệt, có bệnh, chúng ta cũng nên cảm thông nỗi cực khổ mà đối xử với chúng với thái độ từ bi và biết ơn, cũng như cho chúng có cơ hội điều chỉnh và khôi phục. Chúng ta không nên một mực trách móc, bài xích, dường như có mối thù không đội trời chung với chúng, cần phải lập tức cắt bỏ, quyết phải tiêu diệt không chút lưu tình! Nếu bướu mọc nơi mà mình không thể cắt, không thể tiêu diệt ngay lập tức, thì mình lại lo sợ, bực bội, trách móc. Chúng ta thử nghĩ: Giả như bình thường có một ông chủ đối với nhân viên của mình không chút quan tâm, giúp đỡ, một khi nhân viên có chút gì sai lầm, lại muốn lập tức khai trừ! Bạn bảo xem ông chủ đó có quá đáng hay không? Tin rằng ông chủ mà như vậy thì nhân viên đều phản lại! Một ngày trước và sau khi phát hiện ung thư. Chúng ta thử nghĩ xem, một ngày trước khi phát hiện ra ung bướu, thì khối u đó vẫn tồn tại trong thân, vả lại kích thước lớn nhỏ vẫn giống nhau. Lúc ấy, mình mang khối u đi khắp nơi, làm việc và cười nói với mọi người. Vậy tại sao một khi trong đầu mình có ý niệm: “Tôi mắc bệnh ung thư,” thì thế giới trở nên mưa gió, tối tăm, không còn cười tươi được nữa! Chúng ta ai cũng biết, mỗi người khi sinh ra đều chú định sẵn có ngày sinh mệnh kết thúc. Đây không phải là điều mà khi mắc bệnh ung thư mới biết. Nếu mình vì sinh mệnh sẽ kết thúc mà lo sợ, thì lẽ ra từ khi sinh ra đã bắt đầu lo sợ rồi, mà không phải đợi khi bị tuyên bố là mắc bệnh ung thư mới lo sợ! Có thể chuyển hóa tế bào sai lầm. Thực ra tế bào ung thư vốn cũng là những tế bào tốt, như những công dân tốt, trong thân thể của ta. Do phải chịu bức ép, tổn thương, đả kích nên chúng mới bất đắc dĩ thay đổi, phân hóa thành những tế bào sai lầm. Những tế bào sai lầm này sẽ bị thân thể chúng ta quản chế. Bởi vì thân thể của chúng ta giống như một tổ chức xã hội, nó có hệ thống cảnh sát, đối với những tế bào mọc sai, thì bạch huyết cầu, lymphocyte của chúng ta có công năng phát hiện, quản chế và điều chỉnh. Giả sử lúc thể lực chúng ta suy yếu, cuộc sống không điều độ, thì công năng của hệ thống cảnh sát (hệ thống miễn dịch) sẽ trở nên suy yếu, khiến những tế bào mọc sai không được điều chỉnh, không biết cải đổi lỗi lầm. Chính những tế bào sai lầm này lại sinh ra những tế bào sai lầm đời thứ hai. Cứ như vậy tiếp tục sinh sản, dần dà chúng sẽ biến thành một đòan thể tự phát triển, đây chính là “ung bướu.” Điều này giống như một đứa trẻ tốt, nhưng gặp phải hoàn cảnh xấu, thì nó cũng bị ảnh hưởng, tâm lý tốt sẽ dần dần thay đổi, trở nên xấu tính, rồi đi gia nhập băng đảng, chiếm cứ địa bàn, gây gỗ đánh nhau. Đây giống như là ung bướu. Nhưng ngược lại, đứa bé biến chất thành xấu đó cũng có thể trở lại người tốt! Chỉ cần chúng ta hiểu biết, giúp nó loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện khiến nó hư đốn. Đối với đứa bé đó, có người chủ trương cứ giết phứt đi là giải quyết được vấn đề. Song giết nó đi rồi sau đó có thực sự đã giải quyết được vấn đề hay không? Nếu hoàn cảnh xấu của toàn xã hội không thay đổi, thì sau này những đứa trẻ tốt khác cũng lại trở thành những đứa bé xấu. Vậy rốt cuộc phải giết đến mức độ nào đây? Đứa bé trở nên xấu là có nguyên nhân. Chúng ta cần phải hiểu rõ và loại trừ nguyên nhân đó, đồng thời cảm hoá, thì đứa trẻ sẽ trở nên tốt. Tế bào chúng ta cũng giống như vậy, không phải chỉ cần giải phẫu, giết sạch tất cả là được! Những người thuộc băng đảng có thể sửa đổi tu thành Phật, thì tế bào ung thư cũng có thể chuyển hoá thành tế bào lành mạnh. Tôi từng quen biết một số người xuất thân từ băng đảng, lại còn giao tiếp với họ rất vui vẻ. Tôi cũng tôn trọng họ. Họ không phải đều là xấu cả, thậm chí có người còn rất ưu tú, biết nhạy cảm với việc thiện. Chẳng qua trong một lúc nào đó do nhân duyên không tốt, họ có mối khổ tâm bất đắc dĩ, nhất thời không thể giải quyết, nên đã đi một bước sai lầm. Nếu có ai thực sự cảm thông cho lập trường và mối khổ tâm của họ, thì trong một niệm họ cũng có thể trở lại là người tốt. Sau khi Phật tánh thiện lương của họ được khai phát, thậm chí họ còn vượt qua một số người bình thường. Chúng ta biết rằng nhân duyên là cái có thể thay đổi. Tế bào cũng giống như vậy, có thể biến thành xấu, mà cũng có thể trở nên tốt. Tế bào ung thư có thể trở thành tế bào bình thường. Y học có một thí nghiệm về việc cấy nuôi tế bào ung thư. Lúc mà điều kiện được khống chế tốt, quả thực có thể khiến tế bào ung thư trở nên bình thường, rồi biến thành tế bào tốt. Chúng ta cần phải lắng lòng lại để phản tỉnh về nguyên nhân khiến những tế bào này trở nên xấu, rồi cố gắng dứt trừ nguyên nhân đó. Khi nhân duyên thay đổi, tế bào có thể trở nên tốt, hay ít ra chúng cũng không phát triển thêm. Một sinh mệnh khác, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta. Huống chi là tế bào trong tự thể.Chúng ta thử nghĩ xem, tế bào ung thư của mình có lớn như con mèo nhỏ hay không? Con chó hay con mèo nhỏ là một sinh mệnh khác, là một nhóm tế bào khác. Giả như một con chó nhỏ hay con mèo nhỏ leo lên mình chúng ta, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta, huống chi ung bướu là một nhóm tế bào trong thân thể của mình. Nó lại còn nhỏ hơn con chó nhỏ, hay con mèo nhỏ. Vậy chúng ta có nhất thiết phải sợ nó không? Cho dù gặp phải rắn độc cũng không nhất thiết phải sợ! Ung bướu cũng chưa chắc gây cho chúng ta tai hại gì! Rắn mắt kính còn có thể cảm nhận lòng thành sám hối niệm Phật, huống chi là tế bào của mình. Chúng tôi có một vị thầy, là người hết sức chân thật. Một hôm vị thầy đó đi xe máy trên đường núi, do nhìn không rõ, thấy một sợi dây nằm vắt ngang qua đường, liền cho xe cán qua phần đuôi của nó. Lúc đó mới phát hiện đó là con rắn, một con rắn mắt kính rất độc! Thầy không vì sợ mà cho xe chạy luôn. Thầy bước xuống xe, khởi tâm từ bi, xem con rắn có bị thương hay không. Con rắn lúc mới bị cán qua, liền vươn cao đầu và phần thân trên ngó thầy, xem chừng rất hung dữ, như là định xông tới. Thầy lúc đó không suy nghĩ gì cả, liền quỳ xuống chắp tay hướng về con rắn đảnh lễ như là lễ Phật, sám hối sự sơ suất của mình, sau đó còn niệm Phật cho con rắn. Con rắn đó thấy như vậy, dường như thực sự hiểu được ý của thầy, liền cúi đầu xuống nằm im, sau đó từ từ bò đi khỏi. Chúng ta xem, một chúng sinh được gọi là rắn độc, còn cảm thông được tâm niệm từ bi mà thay đổi thái độ và hành vi, huống chi là một số tế bào bất đắc dĩ phải trở nên xấu trên thân chúng ta. Thực ra, năng lượng những tế bào nhỏ này rất yếu, sức ảnh hưởng của nó cũng không là bao. Chúng ta có một thân thể to lớn hơn nhiều, thì tâm niệm, năng lượng và sức ảnh hưởng cũng to lớn hơn nhiều. Về mặt lý luận, chúng ta lẽ ra có thể là thay đổi những tế bào nhỏ này mới đúng. Chỉ cần khéo léo vận dụng tâm niệm này mạnh mẽ, phát huy sức ảnh hưởng tốt đẹp, thì chúng ta có thể thay đổi những tế bào ung thư nhỏ này. Huống chi chúng ta còn có Phật tánh rộng lớn vô biên và Phật lực bất khả tư nghì. (còn nữa)
  2. (Tiếp theo) Hiện tại sống không an vui và đem hạnh phúc cho mọi người, dù sống lâu cũng vô dụng. Dần dần tôi cảm thấy, thì ra một ngàn lạy hay mười ngàn lạy, chẳng qua chỉ là một lạy hiện tiền mà thôi, không cần phải để tâm, càng không cần phải nhọc lòng nghĩ đến cái lạy kế tiếp, chỉ thọ dụng sát na hiện tiền được tiếp xúc với Phật mà thôi. Cổ đức bảo: “Bầu trời muôn thuở, một sớm gió trăng.” Bầu trời từ muôn thuở đến nay, chính là gió trăng hiện tiền mà bạn đang thấy. Cho nên, một sớm gió trăng nào cũng đều là bầu trời muôn thuở cả. Đây gọi là: Vĩnh viễn an vui không phiền muộn, chính là mỗi phút giây hiện tại đều an vui không phiền muộn. Giá như hiện tại mình không thể sống vui vẻ và phát huy dòng sinh mệnh để gây dựng hạnh phúc cho mọi người, thì thực ra có giành được ngày mai cũng vô dụng, giành được sinh mệnh lâu dài hơn cũng vô dụng. Tôi vẫn thích một câu nói cũ: Giả sử ngày mai tận thế, Đêm nay sen vẫn gieo trồng, Đem lòng gió mát trăng thanh Xưng tán A Di Đà Phật. Hiện tại sống an lạc, tương lai sanh Cực Lạc. Dù cho mình có giải quyết được tất cả mọi việc, mọi bệnh tật trên thế gian, đến cuối cùng vẫn còn lại vấn đề không sao tránh được đó là cái chết và vấn đề luân hồi chịu khổ sau khi chết. Cũng may, có đức A Di Đà từ bi phát ra bốn mươi tám lời nguyện, là chỗ nương tựa cho chúng ta trong vòng sinh tử. Tôi chính mắt trông thấy rất nhiều người niệm Phật khi lâm chung được thấy đức Phật đến tiếp dẫn, hoan hỉ nhẹ nhàng vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Cho nên tôi đã suy nghĩ kỹ qua, mắc bệnh ung thư rồi phải làm sao? Cách tốt nhất là ngay trong hiện tại phải sống vui vẻ, sống can đảm trong thế giới Tịnh độ từ bi. Nắm lấy hiện tại, giữ tâm Phật, làm việc tốt, thường niệm Phật, đây chính là hiện tại đã “vãng sinh” trong cảnh giới an lạc, mới không sống thừa chết uổng. Người như vậy khi mạng chung lại càng an lạc, vì người niệm Phật chỉ cần tín nguyện kiên cố, đức Phật nhất định hiện tiền từ bi gia hộ, khiến chúng ta an nhiên, tự tại, không khổ không loạn, và tiếp dẫn chúng ta hoan hỉ vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Xin chú ý, ngay khi sống là có thể vãng sinh (di dân) đến thế giới Cực lạc có thọ mạng vô lượng, mà không phải khi chết đi mới gọi là vãng sinh. Vãng sinh Cực Lạc là đến cõi Phật du học nâng cao trình độ, phát huy đầy đủ tiềm năng Phật tính, khả năng độ mình độ người, rồi trở lại thế giới khổ đau, hoạn nạn để cứu độ chúng sinh, viên mãn nguyện lớn vĩnh hằng. Bạn nghĩ xem, còn có phương pháp nào tốt hơn thế nữa không? Vạn cổ trường không, nhất triêu phong nguyệt. Đây là câu nói của Thiền sư Sùng Tuệ, núi Thiên Trụ ở Thư Châu. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, có vị Tăng xin khai thị, sư bảo: “Bầu trời muôn thuở, một sớm gió trăng.” Im lặng một chút, sư lại hỏi vị Tăng: “Xà lê thể hội không?” (T51, no. 2076, p. 229, c12). Dịch giả chú. 18 Hiện tại an lạc, tương lai Cực Lạc! Cùng Bồ tát Cực Lạc Đồng phong thái an lạc Cùng đức Phật Di Đà Đồng từ bi nhu hoà. Chúng ta tin vào sức Phật, hay tin vào sức nghiệp? Đức tin của chúng ta khác nhau, nên kết quả cũng trở nên khác nhau. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên Chuyển Tế Bào Ung Thư Thành Rừng Công Đức. Biến trở lực thành động lực. Ở đây chúng tôi sẽ giới thiệu một câu chuyện người thực, việc thực. Đây là câu chuyện cảm ứng nhờ lòng tin vào sức Phật của cư sĩ Lý Mộc Nguyên, một Hoa kiều ở Singapore. Ông dùng lòng tin và nghị lực hết sức kiên cường của mình để niệm Phật A Di Đà, và đem thân tâm cống hiến cho chúng sinh, cống hiến cho Phật giáo, nhờ đó đột phá được bệnh ung thư, cũng như bệnh tim nghiêm trọng của mình. Ông không những không bị ma bệnh đánh ngã, mà còn dùng ung bướu như máy bơm, tạo ra sức mạnh hoạt động, nỗ lực hoằng dương Phật giáo. Ông không những mở ra con đường học Phật rộng rãi, tươi sáng cho Singapore, mà còn đem lại một nguồn năng lượng lớn, nhằm củng cố niềm tin và khích lệ cho chúng ta, những người đồng cảnh ngộ. Tìm cầu chân lý, làm tròn đạo hiếu. Vị cư sĩ họ Lý này là người nhiệt thành, hào sảng. Ông từ nhỏ đã thích tìm hiểu chân lý, phàm việc gì cũng tìm chứng cứ xác thực, mà không tin theo một cách mù quáng. Ông cũng rất hiếu thảo. Khi nghe mẹ mắc bệnh ung thư, tất cả mọi việc, dù là nhỏ nhặt trong cuộc sống, như đút cơm, dọn rửa tiểu tiện v.v…, ông đều đích thân làm. Trong ba năm chăm sóc bệnh cho mẹ, ông có nhân duyên được tiếp xúc với Phật pháp, cũng đích thân thể nghiệm được diệu dụng của niệm Phật. Ban đầu cha của ông cực lực phản đối việc ông tin Phật học Kinh. Chẳng qua ông rất dễ thương, biết cha mình như vậy, nên học thuộc lòng Kinh, rồi lúc tụng kinh lại cầm tờ báo, giả như đang xem báo, mà thực ra trong lòng đang đọc thầm Kinh văn. Ông tuy có duyên tiếp xúc với Phật pháp, cũng rất nhiệt tình phục vụ cho Phật giáo và đại chúng, nhưng khi sư phụ khuyên ông ăn chay, ông lại bảo: “Con ghét nhất là ăn chay.Tại sao đang bình thường như vậy lại đi ăn cỏ?” Ông thèm ăn thịt cá, mà lại còn ăn rất nhiều, nên trọng lượng thân thể từng lên đến chín mươi ký lô, vòng eo số 48. Có người chọc ghẹo, bảo ông mua quần áo một lần phải mua hai bộ, một bên mặc một bộ! Ung thư di căn, ho ra máu. Bác sĩ bảo sống không quá sáu tháng. Năm 1982, ông bỗng nhiên ho ra máu. Sau kết quả kiểm tra, bác sĩ cho biết là ông bị lao phổi. Nhưng sau khi trải qua một thời gian điều trị bệnh lao, bệnh tình ông không chút thuyên giảm. Lúc đó đi bệnh viện kiểm tra kỹ thêm nữa, mới phát hiện là bệnh ung thư! Phổi của ông chẳng những có bướu, mà ngay cả ruột cũng có bướu, thậm chí trong tạng phủ cũng có hiện tượng di căn! Bác sĩ bảo bệnh tình khó có hy vọng, chỉ có thể sống không quá sáu tháng. Đem thâm tâm phụng sự chúng sinh, an nhiên niệm Phật Ông là một người rất có trí tuệ, đã chứng minh được lòng tin sâu sắc của mình đối với sức Phật trước cửa ải sinh tử này. Sau khi ông ho ra máu, sư phụ cũng khuyên ông nên nghỉ ngơi, nhưng ông không chịu. Ông phát tâm vì đại chúng phục vụ, quyết không thể bỏ dở nửa chừng. Ông bảo “Con không quan tâm gì cả, con chỉ nhất tâm niệm Phật.” Ông biết bệnh tình nghiêm trọng, nên giao phó hết sự nghiệp cho vợ quản lý kinh doanh, ngay cả thẻ tín dụng ông cũng trả lại ngân hàng. Sau đó ông một lòng đem sinh mệnh của mình ra phụng sự Phật giáo, sống một ngày là cống hiến một ngày, an tâm niệm Phật, quyết chí vãng sinh thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Ngay trong hiện tại ông đã sống trên đất Tịnh độ, trong ánh từ quang an lành của đức Phật. Ông phục vụ tình nguyện trong Hội Phật Giáo Cư Sĩ Lâm. Tất cả các hoạt động hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sinh, ông đều đem sinh mệnh mình ra thực hiện. Ông bảo: “Tôi đã đem thân này giao cho long thiên hộ Pháp rồi!” Ông tin Phật pháp, cho rằng tâm thanh tịnh, thì không có bệnh. Ông nghe lời sư phụ khai thị: “Phải kiểm điểm lại tâm niệm của mình. Nếu làm vì bản thân mình thì đó là ma, nếu làm vì đại chúng thì đó là Phật.” Ông tuân theo nguyên tắc này vì đại chúng phục vụ. Kết quả trải qua sáu tháng, thậm chí đến sáu năm, rồi mười năm, mà ông vẫn không đổ bệnh, không chết! Cho đến hiện giờ ông vẫn sống rất khoẻ, lại còn thường tổ chức đoàn Phật tử đi Trung Quốc đại lục, hộ trì Phật pháp nơi này. Ông hiện nay là hội trưởng Hội Cư Sĩ Lâm Singapore, lễ thỉnh Pháp sư Tịnh Không ra sức hoằng dương Pháp môn Tịnh độ, lại còn định thành lập làng Di Đà, mỗi ngày đều hoạt động tinh tấn. Thọ Bồ tát giới. Năm 1988, nhân Tổng Hội Phật giáo tại Singapore có tổ chức giớí đàn, sư phụ mong ông hộ trì, phát động mọi người thọ giới. Ông nghĩ: Nếu mình khuyên mọi người thọ giới, thì mình cũng phải phát tâm thọ giới. Sư phụ khuyên ông thọ Bồ tát giới, nhưng lúc đó ông còn rất thích ăn thịt, nên thưa với sư phụ rằng, ông chỉ có thể ăn chay được mỗi tháng mười ngày mà thôi. Lúc đến giới tràng, ông bị một vị thầy quở rằng: “Làm Bồ tát gì, mà còn ăn thịt chúng sinh!” Sau khi thọ giới, trước khi ra về, ông gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị cơm canh cá thịt để đợi ông. Kể nghe cũng lạ, khi ông về đến, cảm thấy trong nhà có mùi hôi, giống như mùi chuột chết, nhưng lại tìm không ra xác con chuột nào cả. Sau đó ông mới phát hiện, mùi hôi đó xuất phát từ nồi thịt kho mà thường ngày ông thích ăn! Từ đó về sau, ông chỉ cần ngửi đến mùi thịt, thì cảm thấy là mùi chuột chết, tự động không dám ăn. Ông bảo: “Chính tôi cũng không dám tin, một người ham ăn thịt như mình, rốt cuộc lại có thể ăn chay!” Đây chính là chỗ bất khả tư nghì trong Phật Pháp! Buông xả bản thân, vì Phật giáo. Khắc phục bệnh tim nghiêm trọng. Lý cư sĩ không những có bệnh ung thư mà còn có bệnh tim mạch, bệnh cao máu và bệnh tiểu đường nghiêm trọng. Ba mạch máu tim của ông bị nghẽn. Hai sợi trong đó bị nghẽn đến chín mươi lăm phần trăm. Một sợi bị nghẽn chín mươi phần trăm. Bác sĩ bảo ông phải mổ, vì nó hết sức nguy hiểm, có thể khiến cơ tim bị xơ cứng bất ngờ, đưa đến cái chết đột ngột. Ngày ông định đi nhập viện giải phẫu tim cũng là ngày giới Phật giáo có việc rất quan trọng cần ông giúp đỡ. Ông nghĩ chắc Bồ tát bảo mình đừng đi mổ, cho nên đến trước bàn Phật thắp hương thưa: Con không đi mổ nữa! Sau đó ông gọi điện đến bệnh viện hủy bỏ ca mổ tim này, đi lo việc Phật sự. Giữa việc mình và việc đại chúng, ông đã chọn vì Phật giáo, vì đại chúng, không nghĩ gì đến việc lợi hại, đắc thất cá nhân, ngay cả việc sống chết của bản thân mình cũng buông xuống! Chỉ cần việc có ích cho chúng sinh là nhiệt thành, đích thân thực hiện. Ông mỗi ngày niệm Phật, không tiếc sức mình vì Phật giáo, vì đại chúng phục vụ. Ông không những lo Hội Phật Giáo Cư Sĩ Lâm, thư viện Phật học, mở lớp huấn luyện, bồi dưỡng Phật pháp, từ lớp giáo lý cho trẻ em, đến lớp người già, chăm sóc cho họ, dạy họ niệm Phật, thậm chí ông còn đến nhà tù giảng dạy Phật pháp, đi trợ niệm cho người lâm chung và giúp người chết tắm gội, thay y phục…, chỉ cần là việc lợi ích, giúp chúng sinh học Phật, ông đều làm một cách nhiệt tình và cẩn thận chắc chắn. Kết quả bệnh ung thư của ông không sao, mà bệnh tim cũng không cần phải mổ, tự nhiên khỏi hẳn! Sau đó ông đi bác sĩ kiểm tra lại, được biết ba mạch máu tim bị nghẽn đã tự nhiên trở lại bình thường, còn thân thể càng lúc càng mạnh khoẻ. Ông mỗi ngày có thể bơi đến một ngàn năm trăm mét, thậm chí có thể mỗi lần bơi đến năm ngàn mét. Ngồi thuyền mọi người cảm thấy say sóng, riêng ông thì không, lại còn có thể giúp bác sĩ chăm sóc người bệnh! Đi Trung Quốc đại lục đến vùng giá rét, ông mặc rất ít mà vẫn không cảm thấy lạnh. Không phải là phép mầu, mà do nguồn tâm tiêu diệt gốc bệnh, khiến tế bào tổ chức mới trở lại. Bác sĩ và mọi người nói chung đều cho rằng trường hợp của ông là phép mầu. Nhưng Pháp sư Tịnh Không bảo: “Đây không phải là phép mầu, đây là hiện tượng bình thường. Chúng ta bệnh, suy già đều vì trong lòng của mình có các độc tố như tham, sân, si, lại thêm các thứ ô nhiễm và mê lầm, vì vậy có bệnh, có già.” Pháp sư cho rằng bệnh của Lý cư sĩ sở dĩ khỏi là vì ông dứt sạch những chất độc bệnh tật bên trong, khiến tâm trở nên thanh tịnh, chân thành và từ bi. Do đó, tế bào toàn thân của ông mới tự động tổ chức, sắp xếp trở lại, thân thể cũng tự nhiên hồi phục sức khoẻ. Bị vu cáo, chịu trắc trở, càng dũng mãnh tinh tấn. Ông buông xả tất cả tâm tư, ham muốn cá nhân, chỉ hết lòng niệm Phật, vì đại chúng phục vụ. Do đó ông không những cải thiện được bệnh tình, khoẻ mạnh trở lại, mà còn có thể khắc phục mọi chướng ngại, khó khăn của hoàn cảnh xung quanh. Ông tình nguyện đem hết sức mình phục vụ Phật giáo, song lại bị một số người hiểu lầm, thậm chí vu cho ông là tham ô, rồi đi thưa kiện. Ông bị cục điều tra Singapore tra xét, thẩm vấn đến mười ba lần. Kết quả nhân viên cục điều tra không những chứng thực ông không có tham ô, mà còn cảm động vì ông, nên bảo ông đi thưa trở lại những người đã vu cáo mình. Nhưng ông bảo: “Tôi đã thọ giới Bồ tát, tôi không muốn làm như vậy!” Ông chỉ một lòng giúp đỡ chúng sinh học Phật, không muốn cùng chúng sinh kết duyên ác. Tuy gặp rất nhiều trắc trở, chướng ngại, nhưng ông đều không có thoái tâm, trái lại càng tin tấn dũng mãnh vì Phật giáo, vì chúng sinh mà cống hiến, phục vụ. Niệm Phật hoá giải tai hoạ tù tội. Ông cho rằng nghiệp chướng của mình còn rất nặng, nên cần phải siêng năng niệm Phật. Ngay ngày quy y, ông cũng gặp phải chướng ngại. Mỗi lần gặp chướng ngại, ông càng chứng thực sự bất khả tư nghì của sức niệm Phật, càng tăng trưởng niềm tin đối với công đức niệm Phật. Lúc trước ở Singapore, cây xăng còn chưa có nhiều, cho nên ông lái xe đều chuẩn bị thêm một bình xăng dự bị để ở thùng xe sau. Chúng ta biết tình hình an ninh ở Singapore trước giờ rất tốt, có tiếng trên thế giới. Cảnh sát lúc nào cũng chú ý đến sự an toàn của người dân. Ngày quy y, ông gặp cảnh sát chặn xe lại giữa đường xét hòi. Cảnh sát thấy sau thùng xe của ông có một thùng xăng, lại có chiếc áo tràng màu đen, nghi rằng ông đi đốt nhà, cướp giật, nên đưa ông về trạm giam ở cục cảnh sát. Cảnh sát nói với ông rằng: “Hôm nay là thứ bảy, cảnh sát trưởng không đến. Ngày mai là chủ nhật, thứ hai là ngày lễ Quốc khánh, thứ ba ông phải ra toà! ” Ông vì vậy bị đưa vào trại tạm giam. Trong đó đã có hai người tuổi khá lớn, là dân đạp xe ba bánh, vì cờ bạc mà bị bắt. Lý cư sĩ suy nghĩ: Ở trong đây phải làm sao đây? Ông bắt đầu lớn tiếng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, lại còn mời hai vị đạp xe ba bánh cùng niệm. Hai vị này không thèm để ý, ông càng lúc càng niệm lớn tiếng. Ông lại nhớ đến lúc quy y, Pháp sư Diễn Bồi có nói: “Hôm nay là muời chín tháng sáu, mọi người ngoài việc niệm thánh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm, cũng có thể niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà.” Do đó, ông lại lớn tiếng niệm: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật…, niệm đến hơn mười một giờ, có một vị cảnh sát đến mở cửa, bảo với ông: “Ông ra ngoài, cảnh sát trưởng cho gọi.” Ông cảm thấy rất lạ, vừa rồi cảnh sát mới nói, hôm nay là thứ sáu, cảnh sát trưởng không đến. Sao bây giờ lại đến? Ông bước ra ngoài xem, cảnh sát trưởng mới hơn ba mươi tuổi. Cảnh sát trưởng hỏi: Sao ông bị bắt? Ông đáp: Tôi trên xe có để thêm một thùng xăng, họ bảo tôi đi đốt nhà. Tôi lại có mang chiếc áo tràng màu đen, họ bảo tôi định đi ăn cướp. Ông lại chỉ chiếc áo tràng, rồi nói với viên cảnh sát: Ông xem, tay áo tràng này rộng như vậy, nếu đi ăn cướp thì chạy thực bất tiện, sẽ vấp ngã! Cảnh sát trưởng lại hỏi: Họ có đối xử không tốt với ông không? Ông đáp: “Không có.” Cảnh sát trưởng bảo: “Vậy thì ông có thể ra về.” Cảnh sát trưởng còn bảo một cảnh sát giúp ông mang bình xăng để lại trên xe. Trước khi ra về, Lý cư sĩcòn trở lại phòng tạm giam, bảo với hai người bị giam chung khi nãy: “Các ông thấy không, tôi niệm Phật có thể được ra. Còn các ông lại không chịu niệm, không chịu tin lời tôi!” Tâm thay đổi, vận mệnh thay đổi; thân và hoàn cảnh cũng thay đổi. Lý cư sĩ cả đời gặp nhiều chướng ngại, nhưng tin vào sức Phật, chưa từng thoái chí nản lòng. Ông kiên trì dùng sức niệm Phật và sức phát nguyện để chiến thắng sức nghiệp. Có một lần đi núi Cửu Hoa ở Trung Quốc đại lục, ông gặp một người rất giỏi về bói toán. Người này bảo: Ông sẽ bị liệt, không thể đi được. Vị ấy còn khuyên ông mau mau trở về. Lý cư sĩ đáp: “Tôi tin Phật và Bồ tát! Tôi không tin cũng như không quan tâm đến chuyện đó!” Từ việc này đến việc khác, ông đã chứng minh cho chúng ta thấy sức mạnh của lòng tin và tâm nguyện niệm Phật, nhất định thắng được sức nghiệp. Ông không những không bị liệt, lại còn đi đứng nhanh nhẹn. Tâm của ông đã chuyển hoá, thân thể theo đó đổi thay, thế giới hoàn cảnh cũng thay đổi. Buông bỏ những thứ không mang được. Siêng tu công đức mang theo được. Chúng ta phải hiểu danh lợi và quyến thuộc trên thế gian đều là những thứ không mang theo đựơc. Chỉcó công đức, phước đức tu hành mới mang theo được, sử dụng được. Ông đã phán đoán, lựa chọn rất có trí tuệ. Ông chọn buông xả danh lợi, là những thứ không mang theo được; chọn dùng sinh mệnh để gieo nhân lành, tu tập tất cả công đức, là những thứ mang theo được. Nếu chúng ta liên tục gieo trồng hạt giống tốt vãng sinh Tây Phương thành Phật, thì nhất định có thể sinh về thế giới Cực Lạc và đều được thành Phật. Đây là quả báo tốt đẹp nhất. Phật A Di Đà, Công đức không lường. Một niệm tương ưng, Sáng toả mười phương. Phóng sinh là để lòng từ bi phát sinh và cũng để cứu lấy sinh mệnh mình. Câu chuyện của vị tiến sĩ chiến thắng bệnh ung thư máu. Tôi có một người bạn đồng học, hiện là giáo sư một trường Đại học ở Mỹ, cũng là một nhà khoa học về thực phẩm rất có tiếng trên trường quốc tế. Khi anh đang học trung học, bỗng nhiên mắc phải một cơn bệnh nặng. Cha mẹ đưa đi xem bác sĩ khắp nơi, làm rất nhiều xét nghiệm cực khổ, một hôm ở Tổng y viện Vinh Dân, xét nghiệm thấy ở tấm phim X quang nơi phần ngực của anh, có một vết đen lạ. Nhưng lúc đó bác sĩ cũng chưa có kết quả chẩn đoán chính xác. Người bạn học này của tôi vì chịu rất nhiều đau khổ, nên tâm anh rất từ bi, hiểu được nỗi đau khổ của người khác. Lúc lên Đại học, anh bắt đầu học Phật, lại còn phát tâm thọ năm giới. Sau khi thọ giới, anh lại càng chí thành, tinh tấn. Vì kiên trì giữ giới, bỏ học vị thạc sĩ (master) sắp có được. Lúc đang học chương trình master ở Mỹ, bài vở và việc thực nghiệm rất bận, mỗi ngày thức đến mười hai giờ đêm hay một giờ sáng. Lâu ngày do học và làm việc quá sức, lại thiếu ngủ nghỉ, cũng như ăn uống thất thường, dần dần khiến anh xuất hiện một số triệu chứng, môi trở nên trắng bệch. Khi sắp lấy được học vị Thạc sĩ, lần cuối phải làm một cuộc thực nghiệm. Cuộc thực nghiệm này phải giết rất nhiều chuột mới có thể hoàn thành. Anh bản tính vốn từ bi, lại thêm tinh thần trì giới, nên kiên quyết không sát sinh, dứt khoát buông bỏ học vị Thạc sĩ sắp có. Người nhà và bạn bè đều trách: “Tại sao chịu cực khổ ở Mỹ lâu như vậy, cuối cùng lại bỏ đi? Mọi người chịu cực ở Mỹ cũng chỉ vì học vị này. Anh sắp có được tại sao lại bỏ? Chẳng lẽ chỉ vì không muốn giết chuột lại bỏ nó sao?...” . Lòng từ bi, trí tuệ học Phật, vượt thắng dục vọng công danh. Anh là một người rất ôn hoà, nên không muốn biện luận gì cả. Nhưng tâm trí tuệ và từ bi học Phật đã vượt thắng tâm công danh, lợi lộc của thế gian. Do đó, anh đổi ngành học, không còn cần phải sát sinh để nghiên cứu. Anh lại cực khổ rất lâu để có được học vị Thạc sĩ. Tích luỹ mệt nhọc lâu ngày thành bệnh. Mắc bệnh ung thư máu. Vì việc nghiên cứu, anh làm thực nghiệm nhiều năm, đến nửa đêm còn cần phải quan sát kết quả thực nghiệm. Thức đêm lâu ngày, ăn uống, sinh hoạt không điều độ, nhọc mệt nhiều năm, vượt quá sức chịu đựng, nên khi anh về nước, tôi phát hiện sắc mặt anh trắng bệch, dường như hồng huyết cầu trong người của anh đã giảm xuống nghiêm trọng. Thì ra lúc đó, bệnh ung thư máu của anh đã phát triển đến một giai đoạn rồi. Kết quả xét nghiệm, chỉ số đáng sợ, nhưng lại không hề gì. Bác sĩ xét nghiệm, trị liệu cho anh ở Mỹ, cũng chính là tác giả sách giáo khoa huyết dịch học của chúng ta, giáo sư Sheeling. Giáo sư xem qua bệnh trạng của anh, rồi lắc đầu, cho rằng không có phương pháp trị liệu nào tương đối tốt cả. Bạch huyết cầu của anh chỉ còn bằng một phần ba, một phần tư của người bình thường. Hồng huyết cầu còn lại cũng chưa được một nửa. Nếu mức huyết tiểu bản (platelet) thấp lẽ ra phải xuất huyết. Tôi lúc trước từng thấy bệnh nhân, có người huyết cầu thấp đến số năm mươi ngàn, thì đã xuất huyết khó mà cầm lại được. Còn huyết tiểu bản của anh chỉ có ba bốn mươi ngàn, nhưng trước giờ anh chưa từng xuất huyết, vẫn khoẻ mạnh. Tĩnh tâm niệm Phật, mỗi huyết cầu đều trở nên cao thủ võ lâm. Một cái có thể địch lại mười cái, trăm cái. Người bạn học này của tôi, đã trải qua đủ mọi xét nghiệm đau khổ. Anh cũng biết được tình trạng bệnh của mình, nên không muốn nhập viện trị bệnh. Anh kiên trì ăn chay, nhưng thay đổi nội dung thức ăn và ăn uống giữ gìn điều độ. Anh còn kiên trì niệm Phật, sinh hoạt bình thường, lại tiếp tục đeo đuổi học vị Tiến sĩ ở trường Đại học Wisconsin tại Mỹ. Trong đám bạn bè, nếu không nói ra, không ai biết anh mắc phải chứng bệnh nghiêm trọng như vậy. Khi anh lo rằng huyết cầu của mình quá thấp, tôi bảo với anh: “Không sao đâu. Anh không cần phải lo lắng khi xem bản báo cáo xét nghiệm. Số huyết cầu của anh tuy ít, nhưng nếu mình biết chuyên tâm niệm Phật, tĩnh tâm trở lại, thì mỗi huyết cầu đều là cao thủ võ lâm, mỗi cái có thể địch lại mười cái, trăm cái. Giống như một vị tướng giỏi còn quý hơn một trăm tên lính quèn! Cần gì phải lo lắng với mấy con số trên giấy xét nghiệm, chỉ cần sống an lạc bình thường là được!” Quá khứ qua rồi chớ vấn vương Tương lai chưa đến chẳng lo lường Hiện tại tâm bình thường là đạo Niệm Phật tự nhiên sẽ kiết tường. Sớm tối tụng kinh niệm Phật vẫn lấy được bằng Tiến sĩ như thường. Nói thực ra, với tình trạng như vậy, đối với người khác thì đã chết từ lâu, nhưng anh vẫn lấy được bằng Tiến sĩ ở trường Đại học Mỹ. Anh không luận là mỗi ngày bận rộn bao nhiêu, vẫn sớm tối tụng kinh niệm Phật. Nhờ sức Phật gia hộ, cũng như nhờ sức công đức giữ giới không sát sinh, tâm thành niệm Phật, khiến anh có thể sống an lạc bình thường. Đây là sự cảm ứng âm thầm không thể nghĩ bàn. Duyên kỳ ngộ tôn trọng Phật pháp, hiếu kính chư tăng. Anh hết sức kính ngưỡng ân sư, hoà thượng Thích Sám Vân. Khi ân sư đến Mỹ hoằng pháp, anh đã sắp xếp thời giờ để có thể đích thân lái xe đưa sư phụ đi, lại còn thuê chiếc xe rất lớn, để thầy có thể nghỉ ngơi trong đó. Chiếc xe lớn như vậy, người khác lái không nổi, nhưng anh với sức khoẻ yếu như vậy, vẫn hoan hỉ đích thân lái. Anh lại còn thỉnh sư phụ lưu trú ở nhà mình. Tôi cảm thấy anh quả thực đem tấm lòng của người con chí hiếu ra đối xử với sư phụ. Khi anh mua được một chiếc ghế mới ngồi rất êm và dễ chịu, câu đầu tiên của anh là: “Sau khi này khi sư phụ Sám Vân đến, tôi sẽ thỉnh sư phụ ngồi ở chiếc ghế này! ” Kế đó anh quả thực chuẩn bị sẵn chiếc ghế này, để dành lần sau sư phụ đến ngồi. Lòng cung kính, gần gũi của anh với các bậc cao tăng, đại đức, quả nhiên có được sự gia hộ không thể nghĩ bàn. Khi hoà thượng Sám vân đến Mỹ, anh đến tham dự Phật thất do hoà thượng chủ trì. Một lần trong pháp hội, có một người Mỹ thuộc tôn giáo khác, không biết nhân duyên gì ông cũng đến chùa Trang Nghiêm ở NewYork. Lúc đó, vị người Mỹ này bỗng trông thấy toàn thân của hoà thượng phóng ra ánh sáng chiếu soi đại chúng. Ông này lấy làm kỳ lạ, mới thố lộ với mọi người. Lúc ở chùa Trang Nghiêm, lão Pháp sư Hiển Minh là một vị rất từ bi và có nhãn lực sắc bén, nhìn qua là biết người bạn học này của tôi mắc bệnh. Ngài mới âm thầm nhờ một vị cư sĩ là một người tinh thông y học và dịch học. Ông vốn là một vị tướng lãnh trước đây, sau về hưu liền ẩn cư. Ngoài Pháp sư Hiển Minh ra, mọi người đều không biết ông là người tinh thông y học. Ông từ bi nhận lời nhờ của Pháp sư để khám bệnh cho bạn tôi, lại thường gọi điện đến thăm hỏi bệnh tình. Vị cư sĩ này dùng một số rau cải, trái cây phối hợp với nhau để trị liệu. Mọi người mắc bệnh này, phần lớn điều trị đến độ rụng tóc, lở môi, thường cần phải vô máu luôn, có thể nói mỗi ngày phải nằm viện, còn phải bị cách ly. Nhưng bạn tôi mỗi ngày ăn trái cây và rau cải, lại mập mạnh ra và còn có thể tập thể thao, thường đánh cầu mỗi ngày từ một đến hai tiếng. Anh mỗi ngày đều hoan hỉ niệm Phật, trước giờ không cần phải vô máu. Mắc bệnh sáu bảy năm, không nỡ để cha mẹ biết. Anh bạn của tôi rất hiếu thảo, mắc bệnh nghiêm trọng và gặp nhiều trắc trở đến như vậy nhưng vẫn giấu, không cho cha mẹ biết. Chỉ có vợ của anh biết nên từ bi chăm sóc, phối hợp. Trải qua sáu bảy năm mà cha mẹ hoàn toàn không biết, bạn bè cũng không nhận ra. Anh nghĩ cha mẹ tuổi đã cao, lại đang sống ở Đài Loan, không nên để ông cụ bà cụ phải lo lắng phiền não về bệnh tình của mình. Từ bi, phước vô lượng. Trì giới, vui vô cùng. Phóng sinh là cứu lấy sinh mệnh của mình. Tôi nhận ra ai có tâm từ bi thì người đó có phước báu đặc biệt. Nói phóng sinh là khai phóng khiến lòng từ bi phát sinh. Anh thà bỏ học vị mà mọi người đang theo đuổi để phóng sinh cho những con chuột thí nghiệm. Anh vốn vô sở cầu, chỉ vì không đành lòng trước nỗi khổ chúng sinh, lại tôn trọng giới luật của đức Phật nên không sát sinh. Anh trong tình trạng bệnh nặng, lẽ ra phải chết, nhưng vẫn cảm kích nói với tôi rằng: “Tôi thực sự gặp phải cao nhân rồi!” Quả thực có người xuất hiện để cứu anh. Đó là vị dùng phương pháp trị liệu nhẹnhàng không gây đau đớn hay phản ứng phụ giúp anh phục hồi sức khoẻ, tìm lại mạng sống. Anh lúc trước trong tình trạng “thà trì giới mà chết”, kết quả thành ra “không chết cũng không khổ.” Anh hiện nay còn có thể đến các nơi trên thế giới để diễn giảng học thuật, sắc mặt cũng hồng hào trở lại. Tôi có một người bạn bác sĩ chuyên khoa về huyết dịch, vốn học chung trường trước tôi mấy khoá. Khi biết về quá trình bệnh trạng của anh, người bạn bác sĩ này rất lấy làm kinh ngạc vì nhiều người mắc bệnh sau anh đã lìa đời. Nhưng huyết cầu của anh nhờ sức từ bi gia trì của Phật, một huyết cầu phát huy công năng của mười huyết cầu! Anh thể hội được sự diệu dụng bất khả tư nghì của Phật pháp, càng chuyên tâm học Phật. Anh bạn này của tôi có tâm từ bi, có phước báu đặc biệt. Bạn gái của anh cũng không như những người khác thay vì bỏ rơi anh, lại còn vui vẻ kết hôn và chăm sóc anh. Hai người mỗi ngày đều sống hạnh phúc, tươi cười, cùng nhau tu học . Một câu chuyện niệm Phật lý thú, không thể nghĩ bàn. Lại còn có câu chuyện lý thú, không thể nghĩ bàn. Vợ chồng anh bạn tôi thường tổ chức các khoá niệm Phật thường tu chung với các Hoa kiều và du học sinh ở Mỹ. Một hôm mùa đông, mọi người hẹn nhau ở nhà anh dự khoá niệm Phật bảy ngày. Bạn bè khắp nơi tụ họp. Có người lái xe đến từ xa cách đó đến ba giờ trong thời tiết tuyết lạnh trắng xoá. Không ngờ mẹ của anh ở Đài Loan nói muốn sang Mỹ. Vì bà cụ trước giờ phản đối việc học Phật, niệm Phật, nên vợ chồng anh biết bà cụ sẽ không vui, nếu ra mặt phản đối mạnh mẽ, lại ảnh hưởng đến những người có nhiệt tâm từ xa đến tham dự niệm Phật. Nên hai vợ chồng mới bàn nhau nhờ người em trai chăm sóc trước cho bà cụ ít ngày. Em trai của anh cũng du học ở Mỹ. Vợ chồng anh thành tâm cầu Phật gia hộ, giúp cho cả hai bên đều hoan hỉ, Phật sự được thành công không bị trở ngại. Mẹ của anh vừa đến, người em trai rước về nhà mình ở trước ít hôm, tạm thời chưa đưa qua nhà người anh mình. Bà cụ lấy làm lạ, khăng khăng bảo: “Tao cứ qua nhà nó xem sao! ” Sau đó quả nhiên bà đi qua thật. Nhà hai anh em cách nhau không xa, đi bộ chỉ vài phút là đến. Bà trước đó cũng thường đi qua, biết đường rất rõ. Nhưng hôm đó thật lạ. Bà đi mấy tiếng đồng hồ mà cũng không tìm ra được nhà! Không ngờ đi sao lại gặp một công viên đẹp, mới ở đó chơi rất vui vẻ. Sau đó bà lại đi bộ về nhà người em nghỉ ngơi. Bà nghĩ thầm: “Lạ thật, sao lại tìm không ra nhà?” Bà không cam tâm, quyết định ngày mai một mình lại đi kiếm. Nhưng cũng thật lạ. bà lại tìm không ra, chỉ gặp được công viên và ở đó chơi. Mãi đến khoá niệm Phật của họ kết thúc, bà cụ mới tìm được nhà của anh. Khi bà cụ tìm được càng cảm thấy kỳ lạ. Bà nghĩ: “Rõ ràng là gần lắm, ngay tại chỗ này, tại sao lúc trước mình đến tìm mỗi ngày lại không ra? Chẳng qua, mỗi ngày ra công viên chơi cũng rất vui!”. Mọi người qua chuyện này cảm thấy sức Phật thực không thể nghĩ bàn. Mọi người cùng nhau họp lại niệm Phật, Bồ tát hộ pháp đồng gia hộ, sắp xếp đâu vào đó rất tốt đẹp. (còn nữa)
  3. Khanh an xin giới thiệu tiếp đến mọi người cuốn "Những chuyện niệm Phật cảm ứng mắt thấy tai nghe" để giúp những người hữu duyên thêm tăng trưởng niềm tin nơi pháp môn niệm Phật - Pháp môn tu học thù thắng, bất khả tư nghì. Ngưỡng mong tất cả chúng sinh đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật Đạo. A- Di -Đà- Phật. NHỮNG CHUYỆN NIỆM PHẬT CẢM ỨNG MẮT THẤY TAI NGHE Tác giả: Lâm Khán Trị Dịch giả: Tỳ Kheo Thích Hoằng Chí Lời người dịch Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1]) và Kinh Đại Tập ([1]) là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v… cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ. Và trên thực tế chúng ta thấy hành giả tu Tịnh độ ngày một nhiều. Thế nhưng dịch giả nhận thấy những sách viết về Tịnh độ thì dường như quá ít! Đã thế, mà trong số ít ỏi đó lại còn có những sách nội dung chẳng những không làm tăng trưởng niềm tin nơi hành giả, mà còn gây cho hành giả thêm hoang mang. May thay, dịch giả được đại đức Thích Minh Quang hiện đang du học ở Đài Loan, trong một chuyến về nước tặng cho quyển “Những Truyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe” này, dịch giả xem thấy rất hay, cảm thấy quyển sách này nếu được dịch ra chữ Việt và in ấn lưu hành thì có thể giúp tăng trưởng tín tâm nơi hành giả tu Tịnh độ rất nhiều, nên dịch giả không ngại vốn liếng Hán học còn nông cạn và văn từ tiếng Việt cũng rất vụng về, mạnh dạn phát tâm dịch quyển sách này ra chữ Việt, để các hành giả tu Tịnh nghiệp cùng xem, với ước nguyện thông qua quyển sách nhỏ này, mọi người càng thâm tín hơn nơi pháp môn thù thắng mà mình đã chọn. Ngưỡng mong trên Hòa Thượng bổn sư (Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh) chứng minh, cùng toàn thể chư liên hữu hoan hỷ với pháp sự này. Đây là lần đầu tiên dịch giả mạo muội cầm bút dịch một quyển sách Phật ra mắt đại chúng, chắc chắn sẽ có rất nhiều sai sót. Ngưỡng mong được các bậc cao minh chỉ giáo. Nam mô A Di Đà Phật Mùa Hạ năm Tân Tỵ Dịch giả cẩn bút Tỳ kheo Thích Hoằng Chí Lời tựa Tuyết Lô lão nhân Lý Bính Nam ([1]) Sách vở của Tam Đại (ba đời: Hạ, Thương, Chu ) như thế nào? Gặp ngọn lửa của nhà Tần, nên nay không còn biết! Còn lưu lại chỉ là sách vở từ nhà Hán trở về sau. Nhìn tổng quát những Kinh, Sử, Tử, Tập đều không ngoài hai chữ “Nhân Quả”. Lấy đó làm gương, làm khuôn phép thì phong hóa trong xã hội được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Trong phần Tập (một trong bốn phần Kinh, Sử, Tử, Tập) thì có những tiểu thuyết giả sử, tiếp diễn đến nay vẫn thịnh hành và sự phổ cập đến các hàng độc giả, thực ra còn vượt lên trên cả Kinh, Sử. Chỉ có điều chất lượng của tiểu thuyết không đồng đều, nên không được xếp vào văn hiến. Nhưng những loại tiểu thuyết có nhiều loại phức tạp như loại lịch sử, loại phong tục, loại võ hiệp, loại thần quái, loại ngụ ngôn biếm đời, loại tình yêu nam nữ, v.v… Thể loại tuy nhiều, nhưng đều dùng “thiện ác” để khuyên răn đời, lấy đó làm tông chỉ. Do có công năng giúp đỡ cho Kinh, Sử, cho nên các bậc danh nho, học sĩ đều không bài xích nó, nhưng có những chuyện có hư cấu, dùng từ khoa trương quá đáng; cũng có cái vừa phải xác đáng, cho nên có người tin, có người không tin, vì vậy sách Mạnh Tử có lời than: “Tin hết vào sách không bằng không có sách!”, đây là vì ghét sự khoa trương quá đáng. Sách đã như vậy mà lòng người phần nhiều cũng không đồng: có người tin những điều ghi chép trong sách xưa; có người thì tin những lời nói của người nay; có người tin sách không tin người; có người tin người không tin sách; có người tin xưa không tin nay; có người tin nay không tin xưa. Như thế thì chẳng phải đều tin hết, cũng chẳng phải đều chẳng tin hết. Quyển sách này người biên soạn là người nay, những điều người nay ghi chép là những việc nay. Người nay thì nhiều người quen; việc nay thì nhiều người biết, cho nên chẳng có hư cấu và khoa trương quá đáng, như thế thì sao mà không tin? Nếu tin thì tăng thêm phước đức, làm cho phong hóa xã hội được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Tác phẩm ghi lại những chuyện nhân quả này được viết ra là vì người có lòng tin, cũng làm ra là vì người chưa có lòng tin. Người chưa có lòng tin hiện nay chưa chắc sau này không tin, cho nên tác phẩm được viết ra cũng không uổng phí vậy. Có người bảo: “Cái nhân quả mà ngài nói, tôi không dám bác, nhưng những chuyện cảm ứng ghi ở đây, không khỏi đáng nghi?”. Ôi, nhân quả là hiện tướng của Sự; cảm ứng là động thái của Lý. Sự và Lý, Động và Hiện nếu có thể tách làm hai, thì làm gì có nhân quả? Lại có người nạn vấn rằng: “Nhân quả, Kinh, Sử đã nói rõ rồi, cần chi đến những chuyện cảm ứng này?”. Đáp: “Ông không nghe việc phương tiện khéo léo trong kinh Pháp Hoa sao? Thuyết pháp thì hàng trung căn, hạ căn không khế ngộ; thuyết thí dụ thì hàng thượng căn trung căn đều nghe; thuyết nhân duyên thì ba căn đều thông suốt, mà quyển sách này đã giúp thêm được cho Kinh, Sử, thế há chẳng tốt hơn sao?”. Như ai thực sự tin được điều này, mới có thể thấy được chỗ thâm áo của Kinh, Sử. Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 58, Cuối Xuân năm Kỷ Dậu Lý Bính Nam ghi 1. MỘT CÂU PHẬT HIỆU KHỞI TỬ HỒI SINH Có một vị liên hữu ở làng Bắc Đồn, ngoại ô của Đài Trung tên là Lại Lâm Trị, vì chồng của bà tên là Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn, năm nay bà sáu mươi bốn tuổi. Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên xã chùa Từ Quang nghe thuyết pháp; hai thời khóa tụng sáng, tối chỉ biết niệm Phật. Bà có một người con gái tên là Lan, năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh được một đứa con trai tên là Đạt Tử. Mười ba năm trước lúc Đạt Tử vừa mới ba tuổi, một hôm đi chơi trước cổng, bỗng nhiên có một con heo nái chạy lại đụng ngã Đạt Tử, từ hôm đó trở đi bị sốt cao, hôn mê bất tỉnh, theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc thang gì đều vô hiệu, hai mươi ngày sau thì chết! Vào khoảng 8 giờ tối là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử trên nền gạch trong phòng khách dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc chuẩn bị xong, dự định sáng mai đem đi chôn. Thím Tuấn nhìn thấy đứa cháu chết đi, vô cùng đau lòng, chiều tối đó đến thời khóa, bà vẫn cứ lên niệm Phật như thường, nhưng tình cảm đau thương khó mà ngăn chận. Bà vừa niệm Phật vừa khóc, hướng lên Phật Bồ Tát nói rằng: “ Nam mô A Di Đà Phật , Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Các Ngài sao không phò hộ cho con? Vùng này chỉ có mình con tin Phật, niệm Phật, vậy mà người ta còn cười con, đã nghèo mà còn bày đặt tin Phật, niệm Phật cái gì? Sau này nhất định họ càng cười con! Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài sao không phò hộ cho con?”. Thím Tuấn lại khóc to lên một hồi, rồi nặng nề lên giường đi ngủ, nhưng nhớ lại đứa cháu dễ thương bị chết đi, bà lăn qua lăn lại hoài mà không ngủ được. Vào khoảng 4 giờ hơn, bỗng nhiên thấy một đạo kim sắc quang minh (ánh sáng màu vàng) từ trong hư không xẹt thẳng vào trong nhà khách, ánh sáng rực rỡ không thể nghĩ bàn. Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên nghe được tiếng của Đạt Tử hơn hai mươi ngày không biết khóc và tay chân cứng còng khóc ré lên! Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội vã tới xem, thấy hai tay của Đạt Tử đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa sợ, bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là không thể nghĩ bàn. Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng Đạt Tử đi Bắc Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện tỉnh Đài Trung. Lúc đó thím Tuấn yêu cầu tôi phụ giúp bà đưa cháu đi bệnh viện nhập viện! Đạt Tử liền được đưa đi bệnh viện ở Đài Trung vào Khoa Nhi. Nhưng khi thím Tuấn nhìn thấy mấy chục đứa nhỏ bị viêm màng não trong bệnh viện bị biến dạng kỳ quái: có đứa mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân không động đậy gì hết, trong lòng rất là buồn. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai năm, sức khỏe vẫn chưa bình phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng hết bệnh hay không cũng không dám chắc! Thím Tuấn mới nói với tôi: “Về tình hình kinh tế nhà tôi làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng được?!”. Tôi liền khuyên bà rằng: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khôn ngoan, lại đi tính dại một lúc! Đạt Tử là nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới chết mà được sống lại, tôi nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu giúp, rồi mới phó mặc mạng cho trời!”. Thím Tuấn vẫn còn do dự chưa quyết định, rốt cuộc tôi lại khuyên bà: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe hay không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh Đạt Tử niệm Phật không được gián đoạn”. Thím Tuấn cuối cùng bị tôi thuyết phục, bèn làm thủ tục nằm viện điều trị! Đạt Tử nằm viện trị liệu được tốt đẹp, sốt cao đã lui dần; tròng đen con ngươi vốn đã bị lật vào trong chỉ còn thấy tròng trắng nhìn không thấy người, cũng ngày một khôi phục như cũ; dần dần cũng đã nói chuyện lại được, xưng hô với người thân cũng từ từ rõ ràng lại. Khoảng một tuần thím Tuấn muốn về nhà, liền kêu A Lan lại thay thế cho bà chăm sóc Đạt Tử. Nhưng có điều kỳ lạ là thím Tuấn vừa ra khỏi cổng bệnh viện, thì bệnh của Đạt Tử lại nặng trở lại, trong miệng nổi lên hai cái lưỡi và trạng thái hôn mê cũng trở lại, còn chảy máu đầy cả miệng, bác sĩ liền dùng bông gòn nhét vào giữa hai hàm răng. Thím Tuấn vừa về đến trong nhà, con rể bà liền nói: “Má à! Má về làm gì? Nhanh chóng đi vào bệnh viện lại đi! Nhanh đi! Nhanh đi!”. Thím Tuấn trở lại bệnh viện, vừa thấy biến chứng của cháu như thế liền vội ngồi xuống bên mình cháu, chí thành niệm Phật. Kỳ tích lại phát sanh lần nữa, thật là vạn đức hồng danh linh nghiệm không gì bằng! Bà niệm được nửa giờ, Đạt Tử đã thở nhè nhẹ đi vào giấc ngủ, lúc thức dậy, chứng bệnh hai lưỡi đã hết, thật là Phật pháp vô biên. Thím Tuấn đi về chỉ có ba tiếng đồng hồ mà bệnh tình đã biến đổi xấu nghiêm trọng như thế. Khi trở lại, vừa qua niệm Phật thì bệnh càng lúc càng hồi phục bình thường. Đến ngày thứ mười ba, bác sĩ tuyên bố ngày mai có thể xuất viện. Mọi người đang vui mừng, nhưng vào lúc nửa đêm bệnh của Đạt Tử lại lần nữa biến đổi xấu nghiêm trọng, phát sốt rất cao, trong khoảnh khắc thím Tuấn vô cùng hốt hoảng, nhứt thời không có cách gì, bèn lấy mười đồng kêu A Lan đi ra chợ tìm thầy tướng số đưa ngày sinh tháng đẻ của Đạt Tử cho thầy đoán xem số mạng của nó có tới số chết chưa? A Lan đi xem số mạng về nói: “Trong số mạng của Đạt Tử mang chứng tê liệt, năm ba tuổi chắc chắn bị phát sởi mà chết!”. Lúc đó bác sĩ và y tá lại đến chẩn bệnh, lột hết quần áo của Đạt Tử ra xem, phía sau lưng phát hiện đầy những chấm đỏ nhỏ, liền lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thằng bé này đột nhiên lại phát sởi, sau khi bị viêm màng não lại bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì thật không còn cách trị!”. Thím Tuấn và A Lan trước đã nghe đoán số mạng sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói sẽ chết càng đau lòng vô cùng! Lúc đó lại hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng. Lúc đó tôi cũng ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật, mới đặc biệt gia bị, khiến Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở trong bệnh viện y dược dễ dàng thuận tiện, chớ nếu sau khi xuất viện về nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Không tin, ở lại thêm một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải khẩn thiết hơn nữa ở bên cạnh nó niệm Phật, không được gián đoạn, không nên nản lòng!”. Lúc đó tôi cũng chỉ an ủi họ như thế thôi, thật ra tôi còn sốt ruột hơn họ nữa! Một tuần lễ trôi qua, trải qua sự trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên Đạt Tử đã vượt qua cửa ải tử vong một cách an nhiên, có thể xuất viện được rồi. Nhưng theo nguyên tắc của bệnh viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải qua bác sĩ tái khám một lần. Khi bác sĩ khám lại cho Đạt Tử, miệng nói luôn không ngớt: “Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng nghiêm trọng quá sức như thế, lại mau khỏi như vậy?”. Liền hỏi thím Tuấn: “Trong miệng bà không ngớt niệm những gì vậy?”. Thím Tuấn nói: “Niệm A Di Đà Phật”. Bác sĩ nghe xong nói: “Mẹ tôi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì sao không biết niệm A Di Đà Phật?”. Đáng tiếc thím Tuấn không biết trả lời, lỡ mất một cơ hội! Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức khỏe cùng với những đứa trẻ bình thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại sao biết tự mình ăn cơm, lại biết nói chuyện, biết đi?”. (có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên hơi bị thần kinh - dịch giả). Thím Tuấn liền đổi tên nó lại là “A Châu” Thời gian qua như tên, mới chớp mắt, A Châu năm nay đã mười bảy tuổi, anh ta thường ngày làm việc rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có lễ giáo nhân nghĩa. 2. BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT Đầu tuần tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô gái cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”. Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật. Cuối cùng chúng ta hãy nghiên cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thế mà hơn khoa học. Hãy xem các bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như thằng nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, còn khả năng khỏi hay không còn không dám chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đoán về âm dương, đoán là chỉ sống có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải nạn, gặp dữ hóa lành. Nhưng có lẽ có người sẽ hoài nghi: “Niệm Phật thì không chết ư?”. Đương nhiên tôi không dám nói quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử. Nhưng trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm Phật có phải là “chí tâm” niệm hay không? Nếu như không chí tâm, niệm Phật ắt không có cảm ứng, không tự trách mình, lại đi trách ai đây? 3. PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG QUANG GIA BỊ Đây là một câu chuyện thật xảy ra vào ngày mồng 9 tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52 (Dân Quốc sơ niên là 1911) do niệm một câu đại chú vương vạn đức hồng danh mà được cảm ứng không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ Lại ở trong vùng nông thôn mới do thành phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi, bà ta đã từng dẫn đứa cháu mới 5 tuổi của bà sang một vị liên hữu tên Lý Kim Phương đối diện với nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh”. Gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là một pháp môn phương tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật. Buổi trưa mồng 9 hôm đó, bà họ Lại đang làm việc trong nhà bếp, bỗng dưng đầu bà cúi gục xuống, toàn thân co giật. Đứa cháu 5 tuổi đó thế mà rất thông minh, thấy tình trạng như thế, vội vã chạy sang nhà đối diện lớn tiếng kêu lên: “Bà cụ ăn chay ơi! Bà cụ ăn chay ơi! Mau qua giúp bà của con “thâu cảnh”. Vị liên hữu Lý Kim Phương lập tức đến nhà bếp bà Lại, vừa xem, bà giựt mình hốt hoảng, chỉ thấy bà Lại hai con mắt trắng dã, đã hôn mê bất tỉnh nhân sự, bà mẹ chồng hơn 70 tuổi đang đỡ một bên hông phải của bà ta; đứa con trai lớn đang đỡ hông bên trái, hai người đều sợ đến mức chỉ biết kêu la. Vị liên hữu Lý Kim Phương bảo họ cần phải trấn tỉnh và mọi người phải cùng nhau niệm A Di Đà Phật. Như thế niệm được khoảng 20 phút bà Lại đang trong hôn mê thở ra một hơi, mới mở miệng nói: “Ông ta đứng ở kia kìa, bảo tôi đi với ông ta”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Ông ta là ai vậy?”. Bà Lại đáp: “Là ông Lâm chồng tôi”. Vị liên hữu Kim Phương vừa cao giọng niệm Phật vừa nói với hồn quỷ rằng: “Ông Lâm à! Ông không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phò hộ sức khỏe của bà được bình an, vì bà ấy là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo hầu hạ mẹ của ông, dưới còn có con nhỏ chưa trưởng thành, cần phải nuôi dạy, ông nhất thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng của bà Lại lúc đó cũng nói: “Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương nhau mà sống, con không được dẫn nó đi, con nếu dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và mấy đứa nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính là đại bất hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ: “Ông Lâm à! Ông phải nên niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây phương, mới có lối thoát, luân hồi trong sáu đường là cái khổ nói không cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật, ông cũng phải phát tâm niệm A Di Đà Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà Phật”, niệm liên tục không dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe bà Lại bắt đầu nói: “Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng tôi cũng đi rồi”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên tên là gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà phóng quang gia bị”. Bà Lại đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy ngày sức khỏe của bà bình an vô sự (Tam Tiên tức là Tam Tôn-ba vị Thánh cõi Tây Phương- do vì bà Lại không phải tín đồ chính thức của Phật giáo, nên không biết tôn xưng Tam Tôn). Bà Lại lần này bị sự nguy khốn đó, cũng không phải không có nguyên nhân, việc xong bà mẹ chồng của bà ta nói với vị liên hữu Kim Phương rằng: “Thằng Lâm con tôi sau khi kết hôn với con dâu họ Lại này chưa từng có gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Từ ba năm trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương nhớ chồng. Mười mấy hôm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc thảm thiết một trận nữa, cho nên bắt đầu từ hôm đó, đêm nào cũng mộng thấy hồn chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là không chỉ một mình nó mộng thấy, trong nhà lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”. Vị liên hữu Lý Kim Phương có hơi không hiểu: Tại sao một người đã chết ba năm rồi, thần thức còn ôm giữ trong mộ? Riêng tôi, tôi cho rằng việc này có hai cách giải thích: Một là ông Lâm này lúc còn sống, “chấp ngã” rất nặng cho nên sau khi chết đọa vào quỷ đạo vẫn lưu luyến cái thi thể cũ của mình như trước mà trở thành loài quỷ giữ xác! Hai là lúc bà Lại đi ra mộ quét dọn cúng bái, thì những cô hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến hóa ra hình tướng của ông Lâm theo bà ta về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này, người hành thiện, lúc lâm chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra những bà con quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến họ vào đường ác, huống nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp. Hai cách giải thích trên đây, không biết thuộc về cách nào? Những vị độc giả thông minh, các ngài có thể giải đáp cho tôi không? 4. MẸ GIÀ NIỆM PHẬT, CON ĐƯỢC TAI QUA NẠN KHỎI Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm trưởng ban Kim Cang trong Liên Xã ở Đài Trung là một vị đệ tử Phật phát tâm Bồ Tát rất thành khẩn. Nhà của bà ở số 31 đường Nam Kinh trong nội thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà còn độ được cả nhà của mẹ mình. Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Vào ngày mồng 8 tháng 9, tám năm về trước bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong Liên Xã đến đó tuyên giảng chánh pháp, khuyên người niệm Phật. Trong nhà bà thờ phụng tượng Tây phương Tam Thánh, đặt tên là “Tín Nghĩa Đường”, lại còn lấy ngày mồng 8 tháng 9 hằng năm làm ngày lễ kỷ niệm định kỳ. Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả phẩm đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 52, học nhơn (lời khiêm xưng của tác giả sách này: Khán Trị) được mời đến đó giảng Phật Pháp kết duyên. Hôm đó có một bà lão cùng một người nam trong tay bưng một khung kiếng đi đến Tín Nghĩa Đường, trên mặt hai người lộ nét rất vui vẻ, ở trước Phật, năm vóc sát đất, rất là cung kính dập đầu ba lạy, tôi nhìn thấy không khỏi hiếu kỳ liền đến hỏi bà lão: “Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, không biết là nhân duyên gì?”. Lúc đó bà lão lập tức trả lời rằng: “Tôi đến để đáp tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ”. Tôi tìm cho bà ta một chỗ ngồi, thế là bà từ từ nói ra một đoạn nhân duyên tin Phật như sau: “Vào trung tuần tháng rồi, có một đêm tôi nằm mộng thấy răng của tôi toàn bộ rụng hết. Trời sáng thức dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc chiêm bao không tốt lành này nói với em dâu Cẩm Tỉ, cô ta dạy tôi quỳ trước Phật, nhứt tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không”. Bà lão nói một mạch đoạn nguyên nhân trước này, dừng lại một chút lại nói tiếp: “Tôi có đứa con lớn tên là Thành, làm công nhân đốt than trong vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hôm đó nó đang nổi lửa đốt củi, thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn xung quanh, hoàn toàn không thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Lại chạy ra bên ngoài nhìn xem cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó đi lại vào trong nhà, thì bên tai lại nghe tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”. Lúc đó anh Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến bà mẹ già hơn bảy mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn rồi không? Lập tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về thăm nhà. Khi Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than khoảng hơn một trăm bước, thì bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to, quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian nhà của anh ta ở đốt than vừa bị sập xuống, anh Thành lúc đó thở phào ra một hơi, mừng rỡ đã thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó anh vẫn cứ vai mang hành lý lên đường về nhà. Suốt đường đi toàn là đường núi, anh Thành vượt qua mấy ngọn núi rồi, còn phải đi qua một khe núi lớn, khe núi này không có cầu, phải dùng một loại dây thừng to và cái giỏ tre để làm dụng cụ qua lại hai bờ, người ngồi trong cái giỏ tre, trên hai bờ đều có người kéo dây thừng qua lại cho khách, anh Thành cần qua khe núi này cũng không ngoại lệ, ngồi trong giỏ tre, mền bông và các thứ đồ v.v… đều để kế bên, đang lúc được kéo đến giữa khe thì bỗng nhiên dây thừng bị đứt, cả người và hành lý đều bị rớt xuống khe và bị nước cuốn đi, do vì khe sâu mấy trượng, nên nước trong khe chảy rất mạnh, người ở hai bên bờ đều đành bó tay, không có cách gì, chỉ có kêu lên “tội nghiệp” mà thôi! Anh Thành rơi vào trong khe cũng tự lượng không sống được, nhưng bị nước cuốn đi một đoạn, kỳ tích lại phát sanh: anh ta đang quẫy đạp trong nước, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc, bỗng ở trong khe phát hiện một đám cỏ nước, tay mặt tức thời nắm đám cỏ nước đó, chuyển mình một cái liền đứng lại trong nước, sau đó bò dần lên trên bờ, đương nhiên là những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn độc một thân, rốt cuộc được bình an vô sự về đến nhà”. Trên đây là câu chuyện thật, không thể nghĩ bàn như thế, do bà lão đó kể lại, nhờ mẹ già nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai thoát nạn nguy hiểm hai lần. 5. CHỊ LẠY PHẬT, EM TRAI ĐƯỢC NHỜ PHƯỚC Phật và Bồ Tát là thầy tốt, là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng là một vị thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các nhân viên hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong, liền về nhà trước đi tuyên truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai gái không ai không đến niệm Phật, nghe pháp. Gieo giống thì nhất định sẽ nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng. Vào khoảng tháng 5 năm trước, có một hôm vị liên hữu Thủy Cẩm nói với tôi: “Trong xóm nhà của mẹ tôi có một bé gái mười tuổi, rất là thông minh và có căn lành, cô bé lần nào cũng đến tham gia nghe các vị giảng về Phật pháp, cảm thấy rất là hay, bèn phát tâm hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cô chưa lập bàn thờ Phật cho nên sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn thờ Phật để lạy Phật nhờ”. Khoảng mấy tháng sau, đứa con trai ở nhà có bàn thờ Phật kia mắng cô: “Mầy không biết thể diện, không biết xấu hổ, Phật ở nhà tao, không cho mày đến lạy!”. Cô bé này không dám đến nhà kia lạy Phật nhờ nữa, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ nghĩ đến lạy Phật, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm. Có một đêm đang ngủ bỗng nhiên thức dậy, quỳ trên giường, chắp tay niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật”, niệm mãi không thôi. Mẹ của cô cũng thức dậy nói: “Con nhỏ này nửa đêm nửa hôm thức dậy làm gì vậy?”. Cô bèn nói: “Má! Con thấy được kim thân to lớn của Đức Phật A Di Đà, diện mạo tươi vui, từ trong hư không bay đến trước mặt con, con vội vã thức dậy cung kính niệm Phật. Má! Con rất mong có được một tượng Phật để cúng dường. Con cầu xin má thỉnh một tượng Phật về nhà thờ được không má?”. Cô chắp tay lại cầu xin mẹ: “Má! Con nghĩ ra rồi, con heo đất của con ngày mai sẽ đập ra, có được bao nhiêu tiền, nhờ ba đến đường Sa Lộc thỉnh về một tượng, như thế mỗi ngày con đã có Phật, có thể lễ lạy được rồi”. Má của cô ta liền hứa nhận lời. Sáng sớm thức dậy, đập vỡ con heo ra đếm, tất cả được 28 đồng, cha của cô đi đến đường Sa Lộc, tìm được một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đến 50 đồng thỉnh về nhà. Buổi sáng ngày mồng 1 hôm đó liền an vị tượng, mẹ cô chuẩn bị bánh dày đỏ và mua hương hoa quả phẩm v.v… Đang khi cả nhà vui vẻ, bỗng nhiên phát hiện mất đứa em trai bốn tuổi của cô bé! Thế là cả nhà hoảng hốt lập tức cho người đi tìm khắp nơi, đồng thời tổng động viên mấy trăm người bà con trên núi dưới núi chia ra đi tìm, ngay cả mấy ao cá lớn trong làng, cũng đều có người lặn xuống mò tìm, vẫn không tìm ra!… Từ sáng đến tối vẫn không tìm được! Có mấy người cười cha mẹ cô rằng: “Vợ chồng mấy người là người lớn mà đi nghe lời con nít, muốn lạy Phật cái gì! Mấy người ngày hôm nay cũng chính vì bận lo việc an vị tượng Phật mới xảy ra đại họa như thế!”. Tội nghiệp cho cô bé thông minh này, bị người này một câu, người kia một câu đàm tiếu, sợ đến nỗi một mình lén lén quỳ trước tượng Bồ Tát hai mắt đỏ hoe, rơi lệ, khổ sở cầu xin: “Phật, Bồ Tát ơi! Các ngài phải phò hộ cho đứa em trai bốn tuổi của con được bình an về nhà. Nếu như xảy ra điều không may gì, con từ nay về sau không thể tiếp tục lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng xóm đây cũng không dám tin Phật nữa!”. Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn tuổi này sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự (bát tự hà lạc) liền tìm trong tủ lấy ra tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem. Quả nhiên trong quẻ giải viết rất rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai họa bất ngờ! Thế là mọi người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào! Nguyên thằng bé bốn tuổi này, từ lúc sáng sớm, tự mình chạy ra khỏi nhà, cũng không biết là thuận theo đường sắt dọc biển, hay là từ đường đó chạy đi thẳng một mạch đến hơn 5 giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trông thấy nó một mình cắm đầu chạy trên đường sắt, anh sinh viên trẻ đó liền kêu: “Em bé! Em bé! Ở đó nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”. Thằng nhỏ cũng chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu chạy. Anh sinh viên tốt bụng này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng thằng bé lại. Ai có ngờ thằng nhỏ này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái. Anh này vẫn không giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm xe, giao cho trưởng trạm giữ nó. Hỏi ở đâu, tên họ là gì cũng không biết nói, trưởng trạm sực nhớ đến hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh có liên lạc điện thoại đến dặn chú ý ở trên núi Long Tỉnh có một đứa bé bốn tuổi đi lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe Long Tỉnh mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về. Bà vợ của trưởng trạm thấy thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói, liền dắt nó về nhà, trước tắm cho nó, lại lấy quần áo của con mình thay cho và cho nó ăn hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai chén cơm xuống bụng xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế lên giường để nó ngủ yên. Người ở trạm xe Long Tỉnh lập tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà của trưởng trạm xe Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ đêm. Mặc dù đã nửa đêm, nhưng những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã được bà vợ tốt bụng của trưởng trạm dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân thơm phức, lại mặc cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hôm nay thằng bé được bình yên về nhà, chính là nhờ phước phần của chị nó lạy Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng vậy!”. Nếu không thế thì thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày trên đường sắt dọc biển lại không gặp việc gì bất trắc ngoài ý muốn… Đồng thời lại còn gặp được người tốt giúp đỡ, gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh sinh viên và bà vợ tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu không phải Phật, Bồ Tát phò hộ thì làm sao có thể về nhà bình yên vô sự như thế? 6. PHẬT VỐN LÀ Y VƯƠNG CÓ THỂ TRỊ DỨT CÁC CHỨNG BỆNH Câu chuyện thật ở trên là của một bé gái mười tuổi nhờ nhất tâm niệm Phật, được Phật A Di Đà phò hộ cứu đứa em trai 4 tuổi của cô ta tiêu tai thoát nạn. Các vị độc giả có lẽ suy nghĩ rằng: “Đây có lẽ do nghiệp chướng của cô bé còn nhẹ, hãy chưa kết oán cừu với nhiều người cho nên niệm Phật dễ được cảm ứng, nếu như người già lớn tuổi niệm Phật sao có thể có được cảm ứng như thế?”. Nhưng phải biết Phật Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, người già lớn niệm Phật cũng có cảnh giới bất tư nghì. Tôi một lần nữa kể ra một chuyện thật để chứng minh: Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ Bồ Tát giới ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế là tốt rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, không kê thuốc cũng không chích thuốc, châm cứu gì cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ vào đứa con trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm sóc phục dịch kề bên; con gái là Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám tang). Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật. Vào khoảng đầu tuần tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất trầm trọng, thân thể không thể cử động được, miệng không nói được! Một đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát … các ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao không nói thẳng với con có tốt hơn không?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại nói tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ chồng A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung vậy thôi! Nhưng đến sáng lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh. Thật là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ đêm đó trở đi, sức khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt cục thịt, nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng, không cần thuốc gì mà khỏi bệnh. Hiện nay lão Bồ Tát gặp người nào cũng liền khuyên niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa từng rời tay. Năm nay dù đã tám mươi bốn tuổi nhưng sức khỏe còn mạnh hơn người thường. Giữa Đài Trung và Minh Tú thường đi đi về về tinh thần sung mãn khác thường. Phật vốn là đại Y Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn người, nhưng điều quan trọng là chỉ hỏi nơi bạn là có đúng “nhất tâm niệm Phật” hay không? Độc giả nếu không tin, lão Bồ Tát đến nay vẫn còn mạnh khỏe, nếu không ngại xin mời đích thân đến thăm một lần. Bà cụ già rồi, đã không vì danh cũng không mưu lợi, cần gì phải dựng ra câu chuyện này để lừa gạt người? 7. TRỢ GIÚP CHO CHA VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG THẬT LÀ ĐẠI HIẾU! Ban trợ niệm của Liên Xã ở Đài Trung khởi đầu là do một tay của lão cư sĩ Giang Ấn Thủy tổ chức dựng nên, cho nên mọi người cử ông làm trưởng ban trợ niệm, chuyên phụ trách niệm cho người lâm chung được vãng sanh Tây phương. Mọi người đều quen tôn xưng lão cư sĩ là Giang tiên sinh. Lúc ông 71 tuổi còn kiêm nhiệm chức giáo sư lịch sử ở Học Uyển chùa Linh Sơn, ông gánh vác mọi việc vì người, rất tận tình, không từ khó nhọc. Không may vào hạ tuần (khoảng 20 đến 30) tháng 8 năm Dân Quốc thứ 48, ông bỗng bị chứng bệnh suyễn mệt tim, Đông Tây y đều không hiệu quả, đến khi bệnh quá nguy kịch, có một hôm vào lúc 7 giờ sáng, con trai của ông là Giang Trọng Phan Quân (dạy học tư gia trong thành phố Đài Trung), đến nhà tôi nói: “Sư cô Khán Trị! Hôm qua bác sĩ nói cha tôi sống tối đa thêm bảy ngày nữa thì lìa đời, kêu tôi phải lo chuẩn bị hậu sự, không biết nên làm thế nào đây?”. Tôi vốn biết Trọng Phan Quân lúc bình thường là đứa con rất hiếu thuận, liền hỏi anh ta: “Từ lúc cha anh bệnh đến nay, anh đã tốn hết bao nhiêu tiền cho cha anh rồi?”. Anh ta nói khoảng hơn năm mươi ngàn đồng. Tôi nói: “Nếu theo pháp thế gian mà nói, như thế đã hết sức vì người rồi. Nhưng tốn nhiều tiền như thế đối với cha anh mà nói lại không có ích gì cả, chỉ có thể làm tăng thêm đau khổ cho thân xác! Tôi nghe nói anh mấy tháng nay không nhớ đến thay đổi y phục, ngày đêm chỉ lo hầu hạ thuốc thang, có thể nói anh là một người con có hiếu trong đời, nhưng như thế cũng chưa thể gọi là lòng hiếu chơn chánh!”. Trọng Phan Quân nghe xong lấy làm lạ không biết gì, lặng lẽ nhìn tôi, tôi liền vì anh ta mà giải thích: “Theo lý nhà Phật nói, anh phải làm cho cha anh tâm được an, chết có chỗ về (tâm hữu sở an, tử hữu sở quy). Anh nếu thật có lòng hiếu, ắt phải về nhà ở bên cha mà niệm Phật, bắt đầu hôm nay niệm 7 ngày, tâm của cha anh chắc chắn sẽ vô cùng vui vẻ, khiến cho ông ra đi được nhẹ nhàng, vãng sanh về cõi Phật, như thế mới là đại hiếu chơn chánh. Hiếu hạnh chung chung của người thế gian chỉ là cung cấp những sự hưởng thụ trong cuộc sống của cha mẹ vào lúc tuổi già, sau khi chết thần thức đọa lạc vào đâu lại không cần biết, đây chỉ là hiếu về vật chất, cho nên không thể nói là đại hiếu”. Giang Quân nghe xong rất vui mừng tiếp nhận đề nghị của tôi, tôi bèn chỉ cho anh phương pháp niệm Phật, hy vọng anh ta mỗi lần niệm một giờ cho đến hai giờ, cần chí tâm thành khẩn, mỗi câu phải rõ ràng, mới có hiệu quả. Ngày hôm ấy là ngày tôi giảng kinh định kỳ ở giảng đường Tân Trúc Văn Nhã, nhưng từ lúc sáng sớm sau khi nghe được tin này, nghĩ đến việc một thành viên quan trọng trong Liên Xã chúng tôi chỉ sống thêm 7 ngày nữa sẽ lìa đời, trong lòng khó tránh khỏi tình cảm đau thương của sự sinh ly tử biệt, cho nên không thể đi Tân Trúc, vốn muốn đi thăm họ (gia đình Giang tiên sinh), lại nghĩ có lẽ Trọng Phan Quân đang niệm Phật, cha anh ta chắc chắn nghe rất hoan hỉ. Mãi tới 8 giờ tối, tôi mới đến nhà họ Giang. Giang tiên sinh vừa nhìn thấy tôi liền nói: “Chị Khán Trị! Mời ngồi! Mời ngồi. Có lẽ chị rất bận, cho nên mấy ngày nay không đến thăm tôi, hôm nay pháp sư Sám Vân tặng cho tôi hai xâu chuỗi Bồ Đề Tinh Nguyệt, mấy đứa đem lại cho chị Khán Trị xem nào”. Lại nói rất nhiều về con cái của ông ta. Lúc đó tôi liền nói với ông: “Vạn pháp đều vô thường, gia tài, con cái đều là giả tướng, biển khổ thế gian không nên lưu luyến thêm, Tây phương là vườn nhà yên ổn, là quê hương an lạc của chúng ta, tâm chúng ta nhất thiết không được điên đảo, bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật cho ông nghe, ông phải buông bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật!”. Tôi liền cầm cái khánh dẫn lên, to tiếng niệm Phật. Cả nhà ông ta từ bà Giang và vợ chồng của Trọng Phan cho đến con gái, con rể tổng cộng 7 người, đều cùng niệm Phật, niệm khoảng 30 phút, bỗng nhiên Giang lão cư sĩ tự mình ngồi dậy, hai tay chấp lại, hai chân ngồi kiết già, hai mắt mở to, nét mặt vui tươi, lúc nằm xuống lại, an tường vãng sanh trong tiếng Phật hiệu A Di Đà. Trong khoảnh sát na hiện ra kỳ tích không thể nghĩ bàn như thế, thật tình mà nói, tôi lúc đó cũng giật mình! Cả nhà con cháu của Giang lão cư sĩ do tôi hướng dẫn phân ban trợ niệm, niệm đến trời sáng đã qua 8 giờ đồng hồ, thử sờ trên đỉnh còn rất ấm, thân thể vẫn mềm mại như bông, nghi dung còn tươi tốt, trang nghiêm hơn cả lúc còn sống. Tôi liền hỏi Trọng Phan Quân : “Anh hôm qua khi về nhà, có niệm Phật cho cha anh nghe không?”. Giang Quân liền nói: “Có! Có. Tôi từ nhà cô về, liền ngồi bên cạnh cha mà niệm Phật. Lần đầu niệm được hai tiếng đồng hồ, buổi chiều được hai tiếng nữa, cha tôi vô cùng hoan hỉ, gọi tôi là con ngoan và hỏi ai dạy tôi niệm Phật? Làm sao hôm nay có thể niệm Phật được nhiều như thế? Tôi liền trả lời: “Ba! Đó là tự con phát tâm niệm Phật, con từ nay trở đi phải niệm Phật hàng ngày, cầu nguyện cho ba sớm được khỏe mạnh”. Cha tôi nghe xong rất hài lòng, vui vẻ, buổi trưa liền ăn một chén cháo, nửa dĩa rau xanh, đau đớn hầu như bớt phân nửa. Bác sĩ nói có thể sống thêm 7 ngày nữa mới chết, không ngờ có mấy tiếng đồng hồ sau linh giác lại an tường vãng sanh trong tiếng niệm Phật, thật là Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn. Lão cư sĩ Giang Ấn Thủy là người vãng sanh vào tháng 2 năm Dân Quốc thứ 49. Vào khoảng tháng 6 tôi đi bộ vô ý bị té gãy cánh tay rất nặng, xương gãy làm ba khúc, đêm đó đau đến nỗi không thể ngủ, đến 2 giờ khuya vẫn không thể nhắm mắt. Tôi liền lẩm bẩm nói với cánh tay bị đau rằng: “Mi là thứ đồ giả! Cái túi da hôi thối sống đã mấy chục năm! Đau là do mi đau, vì mi là mi, ta là ta. Ta cần đi Tây phương, không liên can gì tới mi!”. Tôi liền một mực quán tưởng đến Phật, trong lúc nửa tỉnh nửa thức, bỗng thấy một người từ trong hư không đáp xuống, đi thẳng đến trước mặt tôi, ông ta mặc áo vải màu xám, thân thể to lớn, gương mặt cũng to, chỉ thấy phân nửa thân trên còn phân nửa thân dưới bị mây màu che khuất. Người này đột nhiên gọi tôi: “Chị Khán Trị! Tay của chị đau lắm hả? Đây là thời vận không tốt nhưng tai nạn đã qua rồi, không sao đâu!”. Tôi vừa nghe tiếng liền ngẩng đầu lên xem lần nữa, rất giống Giang tiên sinh, tôi liền hỏi: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta trả lời liên tiếp: “Có! Có!…” rồi xoay mình biến mất. Lúc tôi mở mắt ra xem là đúng 3 giờ, tay cũng không còn đau nữa, không đầy mấy ngày liền khỏi. Đây là lần thứ nhất tôi nhìn thấy người vãng sanh, có bút mực thế nào cũng khó mà diễn tả hết cái tướng trang nghiêm tốt đẹp đó được! Tháng 3 năm thứ 50 là ngày giáp năm của Giang tiên sinh, nhà ông ta ở đường Dân Tộc dời về nhà mới ở đường Đài Trung, bà Giang nhờ tôi thỉnh tượng Phật về an vị nhà mới và niệm Phật siêu độ, chuyển các lư hương bài vị của tổ tiên, chủ thần. Bận rộn suốt một ngày, đến tối ngủ lại chiêm bao thấy Giang tiên sinh hình tướng cũng như lần trước, đến trước mặt tôi nói: “Chị Khán Trị! Cám ơn chị nhiều. Thọ nhận sự giúp đỡ của chị rất nhiều!”. Tôi lại hỏi ông ta như lần trước: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta cũng lại như lần trước nói: “Có! Có!”. Xong liền biến mất. Sáu năm sau không còn chiêm bao thấy nữa, tôi hối hận tâm mình ngu si, điều quan trọng không hỏi, hai lần đều chỉ hỏi ông ta có vãng sanh không? Tại sao không hỏi: “Khán Trị tôi đây có thể được vãng sanh không? Phải đến ngày nào mới được vãng sanh?”. 8. VỐN ĐẾN ĐÒI NỢ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OAN Nhớ lại vào đầu tuần tháng 2 mười năm trước, Ái cô nương, trụ trì của chùa Đại Nhã Long Thiện, gặp tôi ở trạm xe cục Công lộ, bèn nói với tôi rằng: “Chị Khán Trị, ngày 19 tháng 2 là ngày khai pháp hội của chùa tôi, tín chúng đều muốn nghe chị giảng Phật Pháp, xin mời chị phát tâm đến”. Tôi liền nhận lời. Ngày ước định đến liền đi, lại còn mang theo rất nhiều “vô thượng chí bảo” và những sách về pháp môn Tịnh độ, hôm đó sau khi giảng xong, phân phát cho các thính chúng để kết duyên. (Vô thượng chí bảo là một loại như tấm thiếp xếp bỏ túi, in hình Tây phương Tam Thánh và những phương pháp giản tiện về niệm Phật) Tháng 2 năm sau lúc tôi đả thất tại chùa Linh Sơn ở Đài Trung, hôm đó là ngày sư tỷ Huệ Phồn hộ thất; khoảng hơn 3 giờ chiều, tôi đang niệm Phật trong Niệm Phật đường, sư tỷ Huệ Phồn đi vào nhè nhẹ kéo áo tràng tôi một cái, tôi liền đi theo Huệ Phồn ra ngoài xem coi chuyện gì, chỉ thấy một người đàn bà ở dưới quê, hoàn toàn không quen biết, khoảng hơn 50 tuổi, đang đứng ngoài sân. Tôi liền hỏi: “Bà ở đâu kêu tôi có việc gì?”. Bà ta nói: “Ông nhà tôi kêu tôi kiếm bà, gặp mặt bà để nói lời tạ ơn bà. Tôi từ sáng sớm vào thành, ở trong thành hỏi thăm khắp hết: “Sư tỷ Khán Trị ở đâu?”, trong đó có người chỉ, nói bà ở trong Liên Xã. Đến Liên Xã, người trong Liên Xã nói bà đang ở chùa Linh Sơn cho nên tôi tìm đến đây, muốn nói một chuyện để bà biết, cũng là báo đáp cái ân của bà”. Tôi nghe xong lấy làm lạ, thật chẳng biết ất giáp gì cả! Xem ra chuyện này không thể nói hai ba lời mà xong được, vả lại quy củ Phật thất ở chùa Linh Sơn rất nghiêm, ở sân chùa không được nói chuyện, tôi liền dẫn bà ta cùng ra phía ngoài tường, để tiện hỏi cho rõ, lúc đó Huệ Phồn cũng đi theo. Người đàn bà kia liền nói: “Tôi là người ở trong làng Lại Lịch mười ba giáp, hồi tháng 2 năm ngoái lúc bà giảng Phật Pháp ở chùa Đại Nhã Long Thiện, con trai của tôi là Lại Phúc Hưng cũng có nghe giảng ở đó. Sau khi nghe xong có thỉnh “vô thượng chí bảo” và một ít quyển sách nhỏ về nhà nữa. Từ hôm đó, nó bắt đầu tin Phật, lại còn mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật, y theo phương pháp trong “vô thượng chí bảo”, hai thời khóa tụng niệm sáng tối, từ đó đến giờ không hề gián đoạn, gần như là được đến trình độ đi, đứng, nằm, ngồi Phật không rời tâm, tâm không rời Phật”. Tôi nghe xong rất là ngạc nhiên, trong thế giới Ta Bà này sao lại có người có phúc khí lớn như thế, mới nghe Phật pháp một lần, liền bắt đầu tu hành sớm tối như vậy? Tôi liền hỏi bà ta: “Con bà bao nhiêu tuổi? Làm nghề nghiệp gì? Làm sao mà phát tâm được như thế?”. Người đàn bà đó lại nói: “Con tôi hồi năm ngoái hai mươi lăm tuổi, nó học xong trung học vào đại học và hai mươi ba tuổi thì tốt nghiệp đại học, song về nhà nó bị lao phổi, hàng ngày chạy chữa Đông Tây y, chích thuốc châm cứu v.v… trong ba năm tốn rất nhiều tiền, mãi đến sau khi nó niệm Phật sức khỏe mới đỡ hơn lúc trước, về mặt tinh thần cũng rất lạc quan, nó cũng thường vào thành phố thỉnh mua những sách Phật Pháp về xem, cho nên thấy nó rất là vui vẻ”. Tôi hỏi bà ta: “Trong nhà bà có mấy người?”. Bà nói: “Ông nhà tôi ngoài tôi là vợ chính ra, còn có một người vợ lẽ, cùng với con tôi tổng cộng bốn người. Vì bệnh của con, chúng tôi ba người già đều phải hết sức trông nom nó, hy vọng nó mau lành bệnh, một lòng nuôi con phòng lúc tuổi già, hy vọng ba người già chúng tôi có chỗ nương tựa. Nhưng đến cuối năm ngoái, đầu tuần tháng chạp âm lịch, Phúc Hưng bỗng nhiên mời ba người già chúng tôi đến bên giường, nói rằng: “Ba và hai má! Con trưa hôm nay sẽ vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ba má đều già, nhất thiết chớ quá đau buồn, than thở tuổi già không con, anh cả của con đi qua Nhật mười mấy năm bặt vô âm tín, nhưng ba má không cần phải lo, hiện nay anh ấy đã lập nghiệp, thành gia thất, lấy vợ sinh con ở Nhật Bản rồi, anh ấy vào đầu tuần tháng 2 sẽ có thư về hỏi thăm, về sau sẽ qua qua lại lại giữa Đài Loan và Nhật Bản, cảnh già của ba má không đến nỗi cô quạnh đâu!”. Ông nhà tôi nghe xong những lời như thế, liền khóc mà nói với con rằng: “Sức khỏe con gần đây đã đỡ hơn trước nhiều rồi mà, con không được bỏ ba má. Con nên cầu Phật A Di Đà phò hộ cho con đi”. Lúc đó Phúc Hưng con chúng tôi lại nói: “Con vốn là đến đây để đòi nợ, ba má ba người trong đời quá khứ đã kết oán cừu với con rất sâu, thiếu nợ của con rất nhiều, đời này đến làm con của ba má, từ lúc sanh cho đến khi tốt nghiệp đại học, rồi bị cái bệnh lao phổi ác ôn này, thuốc thang suốt ba năm, đến nay nợ vẫn chưa hết, con vốn muốn chờ đến sau khi bán tiêu căn nhà này đi khiến cho ba má ba người già nghèo cùng khốn khổ, không có chỗ nương thân, sống khổ như chết. Nhưng năm nay nhờ gắng sức nhất tâm niệm Phật, nên đã tiêu diệt được tội nghiệp nhiều đời, sắp vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Từ nay bốn người chúng ta không còn oán cừu gì nữa, oán cừu đã được cởi mở hết rồi. Ba má ba người cũng phải chí tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương, về sau chúng ta sẽ có thể ở chung một chỗ mãi mãi, không còn chia lìa nữa. Mong rằng ba má nhờ kỹ lời con! Thôi thời gian đã đến rồi, đem giùm quyển “Vô Thượng Chí Bảo” lại cho con, không được khóc, cũng không nên động đến thân con, ba má ba người nên quay lưng lại, không nên nhìn con, con cũng sẽ tự niệm Phật” Phúc Hưng để quyển “Vô Thượng Chí Bảo” trong lòng bàn tay và chắp tay lại, bắt đầu to tiếng niệm Phật, chúng tôi cũng giúp trợ niệm, mặc dù nó đã nói không nên nhìn nó, nhưng chúng tôi cũng cứ lén lén quay đầu lại nhìn. Niệm được 20 phút, tiếng của Phúc Hưng từ từ nhỏ dần, đến khi dứt thở, hai tay buông ra, quyển “Vô Thượng Chí Bảo” rớt trên ngực, liền ra đi một cách nhẹ nhàng tốt đẹp. Người đàn bà nói tới đây thở một cái, lại nói tiếp: “Nhà của tôi có nhiều phòng đều cho mướn, số người mướn trong đó có người tỉnh này, có người tỉnh khác đến, lâu nay thấy Phúc Hưng bị lao phổi, mọi người đều sợ lây bệnh, nên đã đi khắp các nơi muốn dời chỗ, bây giờ nhìn thấy con chúng tôi khi lâm chung nói chuyện một cách sáng suốt rõ ràng, tướng trạng trang nghiêm khác người thường như thế, ai cũng khen ngợi Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn! Thế là họ đều không dời nhà nữa. Nhưng cái việc nó nói lúc lâm chung về anh cả của nó ở Nhật Bản, mới đầu chúng tôi không tin, nhưng gần đây quả thực có thư anh nó từ Nhật gửi về nói sắp về Đài Loan thăm chúng tôi, so với lời dự báo trước của Phúc Hưng hoàn toàn phù hợp. Ông nhà tôi rất vui nói: “Nếu không có sư tỷ Khán Trị đến dạy người niệm Phật, thì Phúc Hưng làm sao lúc lâm chung biết được nhân duyên đời trước và cái quả sau này, đồng thời giải hết được oán kết? Từ việc lá thư của anh cả nó từ Nhật Bản gửi về có thể chứng minh những lời của Phúc Hưng có thể tin chắc được”. Ông nhà tôi lại nói ba người chúng tôi về sau có thể sống an nhiên trong tuổi già đây đều là công đức của sư tỷ Khán Trị. Cái ân tình này nhất định cần tôi phải đến Đài Trung tìm sư tỷ Khán Trị, gặp mặt sư tỷ để nói ra việc cảm ứng đặc biệt này cho sư tỷ biết, cũng là để sư tỷ hoan hỷ! Đây chính là chúng tôi muốn báo đáp ân tình của sư tỷ, nên tôi từ sáng sớm đến bây giờ mới tìm ra được sư tỷ đấy!”. Sau khi nói những lời cám ơn liền muốn đi về. Lúc đó tôi liền hỏi bà: “Nhà bà ở đâu? Chồng của bà tên họ là gì?”. Bà ta nói: “Tôi ở số 13 giáp, đường Đại Nhã, chồng tôi tên là Lại Tuấn, con tên là Lại Phúc Hưng”. Lúc đó sư tỷ Huệ Phồn ở kế bên, nghe từ đầu đến đây bỗng nhiên nói với bà ta: “Thì ra cô là em dâu Tuấn, tôi là chị của ông Tuấn, do vì nhiều năm không có qua lại, thật có lỗi! Xin mời đến nhà tôi dùng trà đi”. Bà ta nói cám ơn xong liền bỏ đi. Lúc đó mặt trời đã lặn về phía Tây, hơn 5 giờ rồi. Ba người chúng tôi đứng ngoài tường chùa Linh Sơn, lâu hơn hai tiếng đồng hồ. Hai câu chuyện vãng sanh ghi đúng sự thật ở trên đều có thể chứng minh đích thực có Phật A Di Đà, đích thực có thế giới Cực Lạc ở Tây phương; niệm A Di Đà Phật đích thực có thể giải được oán kết, tiêu diệt được oán thù trong nhiều đời nhiều kiếp. Căn cứ theo Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà có nói: “Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc…”. Đây là Đức Phật nói về chúng sanh ở Tây phương, sau khi vãng sanh về đó liền có được thần túc thông. Còn căn cứ theo kỳ tích của Lại Phúc Hưng mà suy đoán, Lại Phúc Hưng lúc lâm chung đã phát sanh được tha tâm thông, mặc dù không thể tìm ra chứng cứ trên kinh điển, nhưng sự thật là như thế. Các độc giả thông minh có thể giải thích dùm cho tôi không? 9. BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG, NHỜ TIẾNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC CẤP CỨU Ở Đài Loan có câu tục ngữ: “Không có quỷ không làm cho chết người” thật là đúng. Mấy năm gần đây, ở các nơi, tai nạn giao thông liên tiếp không ngừng, có lẽ là cô hồn uổng tử các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy biết được. Tuy không thấy được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì có thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay tức thời, lập tức được an nhiên vô sự. Độc giả nếu như không tin thì mấy câu chuyện thật sau đây sẽ chứng minh: Vị liên hữu Khưu Liên Châu hiện ở làng Nội Tân phía ngoài cửa thành Nam Đài Trung, mọi người đều gọi bà là sư tỷ Ngọc. 10 năm trước bà mở một tiệm chụp ảnh ở gần chợ Đệ Tam đường Đài Trung. Một hôm sư tỷ Ngọc ở ngã tư trước bưu điện, bị một chiếc xe hơi không rõ của hãng nào đụng ngã trên đường, chiếc xe gây ra tai nạn bỏ chạy mất! Tội nghiệp sư tỷ máu ra đầy mặt, hơi thở thoi thóp không còn biết gì nữa, những người vây quanh nhìn nhau, không nhận biết người bị thương là ai? Ngay lúc đó có một anh lính trẻ đi đến, bỗng nhiên kêu lên: “Sư tỷ! Đây là sư tỷ ở tiệm chụp hình đây mà!”. Lập tức cõng bà ta đưa về tiệm chụp hình, con cái bà vừa thấy liền hoảng kinh, thất sắc, cả nhà đều lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, anh lính trẻ kia cũng niệm Phật cùng với mọi người. Không bao lâu sau sư tỷ Ngọc đang hôn mê bỗng lên tiếng, chỉ nghe bà ta nói rằng: “Các người đông như thế muốn ta đi theo các người, ta không đi! Các người lái xe hơi lại, muốn ép ta lên xe hả? Ta cũng không đi. Không đi là không đi! Ta là đệ tử của Tam Bảo, suốt ngày niệm A Di Đà Phật, chỉ muốn đi Tây phương thôi, làm sao có thể tùy tiện đi theo các người được chứ? Nếu như Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thì ta mới đi”. Nói đến đây ngừng một hồi, lại tiếp: “Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng niệm Phật của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn”. Không bao lâu sư tỷ tỉnh táo lại hẳn, lúc tôi đến thăm thì trên đầu bà ta đã được bao lớp vải gạc và may mười mấy mũi, bà kể việc bà thấy rất nhiều tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe. Tôi khen ngợi công sức niệm Phật của bà là rất tốt. Nếu như là người không có tin Phật hoặc không dụng công sức nhiều, thì thần thức không sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được, liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ ư? Thì ra anh lính trẻ cõng bà về nhà là một liên hữu trong ban thanh niên của Liên Xã, đã nhiều năm nghe kinh với Bính Công ân sư, do đó mọi người đều biết nhau, sư tỷ Ngọc nếu không gặp được anh ta, nhẫn đến tự mình không được chánh niệm rõ ràng, chắc chắn khó hồi phục mạnh khỏe 10. XE HƯ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC HIỆU LỰC Sư tỷ Hoàng Khoan Châu là phó ban trưởng của ban Cửu Liên, là người từ bi, cũng là trưởng ban của Ban 48 lời nguyện. Nhà sư tỷ ở đường Nguyên Tử thành phố Đài Trung, là một gia đình theo Phật, rất là phát tâm Bồ Đề, lúc bình thường, thường khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật và thiện xảo phương tiện độ người. Hàng xóm có con nít hay bị hoảng sợ, giựt mình không ngủ được, đều bồng lại nhờ sư tỷ gia trì chú Đại Bi, đứa trẻ liền nhẹ nhàng thoải mái dễ ngủ. Vào khoảng 8 năm trước, một hôm tôi đến nhà sư tỷ chơi, thấy một phụ nữ trẻ tay bồng một đứa bé, xin sư tỷ niệm chú Đại Bi cho cô ta, niệm xong, sư tỷ còn khuyên cô ta rằng:“Lúc cô bồng con cho bú, cũng phải thường niệm A Di Đà Phật, con của cô sẽ được dễ nuôi. Thực ra lúc nào ở đâu cũng có thể niệm, lúc quét nhà, lúc giặt đồ cho đến khi đi đường, một bước một tiếng đều có thể niệm A Di Đà Phật, như thế trong nhà của cô sẽ được bình an vô sự”. Sư tỷ hỏi cô ta: “Chồng của cô làm nghề gì?”. Cô ta đáp: “Tài xế xe hàng”. Sư tỷ nghe vậy lại nói rất khẩn thiết nói rằng: “Cô về nhà nhất định phải chỉ cho chồng cô niệm A Di Đà Phật, nếu như lúc gặp tai nạn hay nguy hiểm phải to tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể tiêu tai khỏi nạn”. Người phụ nữ kia thế mà có căn lành, lại thông minh, khi về nhà, đúng như lời sư tỷ dạy, nói cho chồng nghe và chỉ cho chồng lúc lái xe phải niệm, lúc nguy cấp càng phải to tiếng niệm hơn, chắc chắn có thể đổi nguy thành an. Trải qua một tháng, tôi đến nhà sư tỷ thông báo về tin tức Ban 48 Nguyện sẽ mở hội, không hẹn mà gặp lại người phụ nữ bồng con lần trước, trong tay bồng đứa con nhỏ và còn dẫn chồng cô cùng đến, sắc mặt vui tươi, cầm hương hoa quả phẩm, nói là đến để lễ Phật A Di Đà, làm cho sư tỷ vô cùng ngạc nhiên! Thì ra chồng của cô do nghe lời khuyến cáo của vợ lúc lái xe niệm Phật được cảm ứng. Anh nói: “Đa tạ lòng từ bi của cư sĩ dạy cho nhà tôi niệm Phật, còn dạy cô ta khuyên tôi cũng niệm Phật. Tôi ngày hôm qua chở một xe lớn cải xanh đi Đài Bắc, lúc về đã hơn 2 giờ khuya, đang lúc đi đến ngã tư khoảng giữa Trung Lịch và Đào Viên, bỗng nhiên xe không thể chạy được nữa, làm thế nào cũng không nhúc nhích, rất kỳ lạ là trong lúc tứ chi mệt mỏi, tinh thần lo lắng không biết làm thế nào, bỗng nhớ lại việc cư sĩ dạy nhà tôi niệm Phật, lúc đó tôi đang ngồi sau tay lái, hai tay ôm chặt tay lái, có hơi buồn ngủ, miệng nói mơ mơ màng màng rằng: “Vợ của tôi đi đến vị cư sĩ tin Phật ở đường Nguyên Tử, vị đó dạy vợ tôi lúc nấu cơm, quét nhà phải niệm A Di Đà Phật, lúc bồng con cho đến lúc giặt đồ cũng phải niệm A Di Đà Phật, và dạy tôi lúc nguy hiểm hay lúc gặp tai nạn càng nên to tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đang lúc nói đến đó, thật là lạ lùng, trong tích tắc chiếc xe chở hàng tự nhiên bỗng khởi động lại chạy về Đài Trung, tôi lập tức giật mình tỉnh giấc, thấy có một chiếc xe khác cũng đang đậu ngủ, lúc đó cũng mới thức dậy, trời còn chưa sáng, tôi liền lái xe về nhà an nhiên vô sự” Anh tài xế đó lại nói: “Cư sĩ! Nhà của tôi muốn thỉnh an vị một tượng Phật để lễ bái, không biết có được không?”. Sư tỷ rất vui nói: “Rất tốt! Rất tốt!”. Sư tỷ liền tặng cho anh ta một bức Tây phương Tam Thánh của Hồng Kông in, chỉ cho anh ta về để khuôn kiếng và chỉ cho anh ta phương pháp các thời khóa đơn giản sáng tối. Vợ chồng tài xế cảm tạ rồi ra về. Đoạn cảm ứng bất khả tư nghì này là chính tai tôi nghe được. Xin khuyên chư vị: Thân người khó được, ai có miệng đều nên niệm A Di Đà Phật, một câu đại chú vương vạn đức hồng danh, đời này gặp được chớ nên bỏ qua 11. TO TIẾNG NIỆM PHẬT, ĐUỔI ĐƯỢC OAN HỒN Chí tâm niệm được một câu lục tự hồng danh, cũng có thể giải được oán cừu của người khác. Câu chuyện xảy ra vào tháng 4 năm Dân Quốc thứ 46, ở ngay cửa rạp hát Đông Bình ở khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông thẳng vào trong rạp hát Đông Bình, ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây ra tai họa tử thương sáu người, trong đó có một người bị thương nặng chết liền là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà ta mới từ Đài Bắc về đây hôm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến nhà con gái ở Đài Trung đây. Con gái bà ta lại rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà không cần phải về, đứa con rể cũng rất vui tiếp bà ở lâu lại Đài Trung. Ngày hôm đó khoảng 5 giờ chiều, bà cụ này tắm, xong lại tắm cho đứa cháu gái nhỏ nhất, sau đó cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát Đông Bình, tội nghiệp cho bà ta bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu gái đang cõng trên lưng lại bình an vô sự. Qua ngày sau, sau khi hỏa táng, lấy tro xương làm lễ vĩnh biệt ở nhà con gái, mời được mấy vị đạo sĩ về làm lễ siêu bạt vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà cũng từ Đài Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo đạo sĩ khóc thút tha thút thít làm người con hiếu nam. Đang lúc nghi lễ ồn ào, bỗng người con hiếu nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn bên trong cửa, một chân ngoài cửa đứng nghệch ra đó, không nhúc nhích gì, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong miệng thở khò khè, gương mặt xám đen. Lúc đó ở nhà kế bên là vị liên hữu cư sĩ Hà Tùng Vinh, vợ là sư tỷ Hà Trần Nguyệt Nga. Tối đó sư tỷ Nguyệt Nga đang ngồi trên ghế ngay cửa tay cầm xâu chuỗi niệm Phật, bỗng nhiên nghe ở cửa nhà kế bên có tiếng la lớn, không biết xảy ra chuyện gì, vừa rồi tiếng chiêng trống hãy còn vang, tại sao lập tức biến thành âm thanh hỗn loạn như thế. Sư tỷ Nguyệt Nga vì lòng hiếu kỳ xui khiến, trong tay cầm xâu chuỗi, trong miệng vẫn niệm danh hiệu Phật, đi đến gần xem thử. Vừa nhìn thấy hình dáng của người con hiếu nam như thế, sư tỷ Nguyệt Nga giựt mình hoảng sợ không tự chủ được, lớn tiếng la lên “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế liên tục được hai phút, sau đó sư tỷ Nguyệt Nga nói: “Nói thật tình nghe, lúc đó tôi to tiếng niệm Phật hết sức như thế thật tình là do sợ, không nén được mà niệm ra, hoàn toàn không phải do vì cứu người mà niệm. Nhưng thật không thể nghĩ bàn, người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó, nghe được tiếng niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân cũng hoạt động trở lại, tròng mắt hết ngây dại, không bao lâu lại hồi phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay phải lại tiếp tục phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vô sự” Qua ngày kế, người con hiếu nam đó muốn đem bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài Bắc an táng, liền đến cảm tạ sư tỷ, anh ta nói: “Ngày hôm qua may mắn được sư tỷ niệm A Di Đà Phật, nếu không thật không thể tưởng tượng được, tôi không biết niệm Phật có lợi ích như thế”. Sư tỷ Nguyệt Nga nhân cơ hội khuyên anh ta: “Sau khi anh về nhà cần phải niệm hàng ngày, thì có thể giải oan kết với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn, tiền đồ rạng rỡ không lường”. Người con hiếu nam đó vừa nhận lời vừa cảm tạ mà về. Qua ngày hôm sau nữa, sư tỷ Nguyệt Nga đem cái việc ghê sợ của ngày hôm kia kể cho tôi nghe từ đầu đến cuối. Sư tỷ nói: “Tối hôm kia việc xong rồi, tôi vẫn còn sợ đến nỗi không dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngoài cửa niệm Phật, niệm đến 11 giờ càng nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang có dịch cảm) cũng không thể có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, không tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống thuốc mới có thể bình an”. Sư tỷ Nguyệt Nga là một người thông minh, sư tỷ suy đoán có lẽ là mẹ của người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn không tan, ôm lòng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài Trung gặp tai họa thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con trai của bà tính nợ, oan hồn nẹp cứng đầu cổ của con trai bà, làm cho anh ta gần như chết. Làm xong bà ta đi lại (hướng của sư tỷ) sư tỷ vừa thấy liền niệm to “ Nam mô A Di Đà Phật”. Ai ngờ sức đại từ bi, sức đại thần thông của sáu chữ hồng danh này lại công hiệu lớn như thế, nhất là lúc đó sư tỷ sợ đến niệm Phật hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất loạn, cho nên mới có được hiệu quả lớn như thế, đồng thời hồn quỷ nghe được Thánh hiệu, tâm oán hận đều được tiêu trừ, cho nên mới thả tay ra. Các vị! Chúng ta thử nghĩ xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người đều nói: “Không có tiền bố thí không dám tin Phật”. Những hạng người này sao mà phước mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật hiệu, không có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được công đức bố thí lớn, cứu được mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng. Sư tỷ Nguyệt Nga tánh tình hiền hậu, phẩm hạnh đoan chánh, đã từng được bầu là người mẹ mẫu mực của thành phố Đài Trung, là một người vợ hiền mẹ tốt, con cháu đầy nhà, gia đình rất là tốt đẹp. 12. NIỆM PHẬT CÓ THỂ ĐỘ ĐƯỢC HUNG THẦN ÁC SÁT Vào thời đại khoa học hưng thịnh của thế kỷ 20 này, nếu nói với người nào đó rằng: “Sức khỏe bình thường nếu như xung khắc với hung thần ác sát, các loài linh quỷ v.v... thì sẽ chết”, những người tự cho mình là nhân vật tân tiến kia chẳng những không tin mà còn nói là mê tín, không phù hợp với trào lưu thời đại! Thế thì giới Phật giáo có nên, hay không tin những việc “tương xung tương sát” này? Theo cách nhìn của tôi thì: Thà là tin nó có, nhưng không a dua theo lễ bái, hoặc cầu họ che chở. Nếu như chí thành khẩn thiết niệm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp quỷ mà được bình an vô sự. Đầy đủ được diệu pháp cứu cánh này, hung thần ác sát bị câu chú vương trong các chú chánh đại quang minh này, sợ đến nỗi chạy ra khỏi chín tầng mây luôn! Có lẽ một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh này hàng phục được cả tâm ý của loài ác quỷ sát thần si mê không biết quay đầu hàng phục này, hàng phục một cách tâm phục khẩu phục, được chuyển sanh về đường lành cũng không chừng, sau đây xin dẫn ra ba câu chuyện thật để chứng minh: Liên hữu Lý Chuẩn là phó trưởng ban Phương Quảng, ngụ ở đường Kiến Trung khu Đông, thành phố Đài Trung, nhà của bà có phòng ốc dư cho tài xế chở hàng loại trung mướn. Vợ anh tài xế đó tên A Châu, năm đó 31 tuổi. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 12 âm lịch năm rồi, đến một cửa hàng đồ ngoại đường Nam Kinh, muốn lấy y phục mới đặt đem về. Lúc đó bỗng nghe tiếng trống nhạc ầm ĩ trên đường, có người lớn tiếng rằng: “Ngài Tam Tạng Nghệ Các thỉnh kinh về rồi!”. Có người lại nói: “Vòng hoa, xe hoa nhiều quá!”. A Châu ở trong tiệm nghe như thế, khởi tâm hiếu kỳ ra xem thử, không ngờ chỉ thấy tám người khiêng một cỗ quan tài to, A Châu liền rùng mình một cái, miệng cứ nói suốt là đau đầu, ở ngực như có khối đá đè, liền bị hôn mê ngã xuống. Lúc đó người trong tiệm đồ ngoại hết hồn, vội vàng kêu một chiếc xe ba bánh và phái một người hộ tống đưa đi, ngang qua cửa bệnh viện Ngụy Bảo Thuận đường Phục Hưng thì xuống xe, đỡ bà ta xuống, trước mời bác sĩ chích thuốc cho bà ta, sau đó đưa bà ta về nhà. Vị liên hữu Lý Chuẩn nhìn thấy A Châu hôn mê bất tỉnh nhân sự, ngũ quan và móng tay đều đen thâm, kinh sợ đến mức la to lên:“A Di Đà Phật đến cứu mạng!”. Lúc đó các công nhân nhà kế bên của anh tài xế đó nghe tiếng người kêu la đều chạy lại, chỉ thấy hai mắt của A Châu trắng dờ, toàn thân đều đen, hôn mê bất tỉnh, mọi người đều nói không có hy vọng sống lại, có người gọi điện thoại đến miền Nam kêu chồng cô ta về; có người gọi điện thoại kêu má chồng của cô ta lại; chỉ có vị liên hữu Lý Chuẩn là trấn tĩnh, cầm xâu chuỗi trên tay đặt lên ngực A Châu, miệng niệm “A Di Đà Phật”, “Quán Thế Âm Bồ Tát ” không dứt, khẩn cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu giúp A Châu. Niệm được 20 phút, hai mắt và da thịt của A Châu dần hồi phục như cũ, miệng nói: “Sư cô! Bà thật là đại ân nhân cứu mạng tôi, tôi gần như bị đè đến muốn đứt hơi, đang lúc muôn phần đau khổ, xâu chuỗi của bà để trên ngực của tôi, lại nghe được tiếng niệm A Di Đà Phật, sức khỏe dần dần cảm thấy nhẹ nhàng trở lại. Cám ơn sư cô đã thi ân cứu giúp”. Những người hàng xóm lăng xăng chúc mừng cho A Châu: “Chúc cô may được người niệm Phật cứu thoát mạng, nếu không thì ba đứa con gái của cô trở thành mồ côi rồi!”. Nghe nói hồi tháng 7 năm ngoái trong hẻm đối diện có một cô gái mới 17 tuổi đi chợ, cũng xem người ta đưa đám tang, về nhà liền la lớn đầu đau tim lạnh, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rồi qua đời. Càng bất hạnh hơn là hôm đưa đám tang cô gái này, thì vị nữ chủ nhân của một ngôi nhà ở đầu hẻm là người tin theo ngoại giáo, lúc đó đang đứng ở bên cửa xem cũng bỗng bị đau đầu, cũng đồng chứng bệnh với cô kia, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rốt cuộc cũng qua đời. Nghe chuyện của người hàng xóm, mọi người đều chúc mừng cho A Châu. Đây là chuyện trong tháng 2 năm nay, vị liên hữu Lý Chuẩn đến Liên Xã, chính miệng nói với tôi.
  4. (Phần tiếp theo) 33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG Lại nói về một chuyện cười: các vị trong ban kia của Bố giáo sở lúc bấy giờ trợ niệm cho Lý cư sĩ (chuyện trên), chỉ có sai đi 3 tiếng đồng hồ, do vì về nhà trước đi ngủ mà không thấy được việc Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn, đều hối hận mãi không thôi. Sau đó mọi người liền ở lại Bố giáo sở bàn bạc: lần sau nếu như lại có người bệnh nặng sắp qua đời, chúng ta nhất định phải đi trợ niệm, muời mấy người đều một lòng một dạ, không thấy quang minh, thề không chịu thôi. Sau khi phát nguyện như thế xong, liền đi tìm kiếm khắp nơi trong làng, chưa được mấy ngày, quả thật tìm được một vị là bà mẹ già tám mươi lăm tuổi của ông Lâm Kim Châu. Những người vì tâm hiếu kỳ mong muốn thấy được quang minh của Phật này, liền thuyết pháp với con trai và con dâu của bà ta: “Chúng tôi đều là không có điều kiện gì hết, niệm Phật cho mẹ các vị, trợ giúp cho bà vãng sanh Tây phương, không còn lại luân hồi trong lục đạo”. Đồng thời tuyên thuyết niệm Phật tốt thế nào, thế nào… tốn hết một phen mồm mép, người con trai và người con dâu kia mới bằng lòng cho chúng tôi trợ niệm cho bà ta. Phải phân làm hai ban thay phiên nhau trợ niệm, khi ăn cơm cũng thay phiên nhau về nhà ăn, ăn cơm xong lại đến đổi ban niệm. Mọi người vì sợ không thấy được quang minh của Phật, cho nên trước sau không dứt tiếng niệm Phật, niệm mãi một ngày một đêm nhưng người bệnh vẫn cứ thở đều, còn chưa dứt thở. Bà ta có một người con gái lớn ở xa về, thấy người ta niệm Phật cho mẹ mình, không được vui lắm, lại còn nói với cha cô ta rằng: “Niệm Phật làm cái gì? Ngược lại làm nhiễu loạn tâm của má con thôi, kêu họ về đi!”, may mà anh trai và chị dâu của cô ta còn hiểu biết, vội nói: “Không được, không được! Mẹ từ lúc nhờ họ niệm Phật đến giờ, trong lòng đã thanh thản nhiều, không còn khổ não như trước đây nữa!”. Người con gái kia sau đó cũng không còn nói bậy nữa, biết được thành ý của mọi người, trái lại trong lòng bắt đầu biết mang ơn. Lúc đó đã là cuối năm, nhà nhà đều phải làm bánh Tết, trong các vị trợ niệm có nhà dặn dò con cái hoặc con dâu bỏ không làm bánh Tết nữa mà đến trợ niệm, liên tục niệm bảy ngày bảy đêm, người sắp mạng chung kia mới vãng sanh. Lúc đó mọi người trong miệng thì niệm Phật, còn mắt thì lại đều chú ý xem quang minh của Phật đến. Nhưng kết quả không thấy được gì hết, mọi người lại vô cùng thất vọng. Mặc dù như thế, nhưng cái tâm trợ niệm của mọi người là chân thật ngay thẳng, giúp người thì phải giúp cho đến nơi đến chốn, liền lại niệm thêm 8 tiếng đồng hồ nữa (đúng nghi thức trợ niệm) thăm dò trên đỉnh đầu vẫn còn một chút hơi ấm, sắc diện như sống, thân thể vẫn mềm như bông. Đây cũng chính là tướng lành được vãng sanh Tây phương. Điều không thể nghĩ bàn nhứt là: niệm xong 8 tiếng đồng hồ rồi, con cháu của bà ta mở những chăn mền đắp cho bà ta ra thì thấy hai tay của bà đang chắp ngay ngắn. Sư tỷ Thẩm ( Trương Th ẩm, bài trước) nói với tôi: “Con dâu của bà ta thấy chúng tôi niệm Phật cho mẹ chồng của cô ta được thành khẩn như thế, mỗi đêm đều ba lần nấu món điểm tâm mời chúng tôi ăn, mới đầu mọi người không dám ăn, do vì thầy Lý dạy chúng tôi lúc trợ niệm cho người, không được ăn đồ ăn của người ta, ba bữa phải về nhà ăn, cũng không được ăn đồ điểm tâm, do vì người ta đang gặp lúc không may, không nên làm phiền người ta thêm. Nhưng con dâu bà ta với ý tốt nói: “Thời tiết mùa đông lạnh như thế này, các vị có lòng tốt như thế đến cứu cho mẹ chồng tôi, cả nhà chúng tôi rất là đội ơn đội đức, có chút xíu để bày tỏ tấm lòng, các vị đừng nên khách sáo!”. Cho nên mỗi đêm đều tiếp nhận ba lần điểm tâm của họ. Tôi liền cười nói với họ rằng: “Tâm của các vị bất tịnh, chứa đầy những tham muốn, muốn thấy quang minh của Phật, lại nào có thấy được đâu? Sư tỷ Tú cùng với anh thanh niên kia, lúc đó niệm Phật là một lòng một dạ, trong tâm thanh tịnh, niệm đến cùng Phật cảm ứng đạo giao, cho nên mới thấy được Phật A Di Đà phóng đại quang minh đến tiếp dẫn. Hôm nay các vị vì tham muốn xem quang minh mà vì người niệm Phật, nhưng cũng giúp được một chúng sanh ở Ta bà vãng sanh về quốc độ an lạc ở Tây phương tu hành, ngày kia thừa nguyện tái lai, có thể độ được vô lượng vô biên chúng sanh khổ não. Công đức này cũng đều là do các vị phát tâm muốn thấy quang minh của Phật mà được ban cho như thế”. 34. BÀN LUẬN TRỐNG RỖNG VÔ ÍCH, QUỶ THẦN TÍNH NỢ Lại nói về sư tỷ Trương Th ẩm ở Vụ Phong là một vị đệ tử Tam Bảo đầy đủ trí huệ, vào tám năm trước mới nghe Phật pháp đã trồng được hạt giống kim cang trong ruộng thức thứ tám, về sau đầy đủ chánh tri chánh kiến. Tin Phật chưa được mấy tháng, lại có một lần ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê, tranh biện cùng với quỷ lớn quỷ nhỏ, nguy hiểm chút nữa là bị quỷ đánh chết tươi rồi. Nguyên là A Thẩm lúc trước khi chưa tin Phật, từng bị bệnh ba năm, không có ngày nào không chích thuốc, uống thuốc. Ở Vụ Phong chín năm trước còn chưa có một ngôi miếu thần nào, hay một ngôi chùa nào, chỉ có một ngôi miếu chung của dân rất nhỏ, thờ cúng là một bài vị thần chủ bằng ván. A Thẩm vì cầu cho bệnh được mau khỏi, không khỏi cầu thần, cầu quỷ phò hộ, tự mình thường hay mang giấy tiền vàng mã đến lễ lạy cầu thần ông phù hộ sức khỏe của bà sớm được bình an vô sự, nhưng cầu liên tiếp mấy năm vẫn cứ như thế. Đến năm thứ 48 ban hoằng pháp của nữ ở Liên xã đến cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, A Thẩm được nghe pháp vị như được uống nước cam lồ, như được của báu. Từ đó hai thời khóa sớm tối rất thành khẩn không gián đoạn, đối với ngôi miếu chung của dân kia không còn đi nữa, biết được tự thân họ (thần) còn không cứu được, làm sao có thể cứu người, cho nên sau khi A Thẩm tin Phật, sức khỏe liền dần dần hồi phục mạnh khỏe. Có một hôm vị Lâm Thái Thái là bạn tri kỷ tốt đến muốn A Thẩm dẫn bà ta cùng đi vái cúng ngôi miếu chung của dân kia. A Thẩm liền cùng đi bái với bà ta, bà Lâm lễ xong nói: “Hôm nay chúng ta quên mua tiền vãng sanh và giấy vàng mã rồi!”. A Thẩm nói “Đốt giấy vàng và tiền vãng sanh làm cái gì? Bạn không nên mê tín, nếu như cần đốt tiền vãng sanh, chi bằng niệm vài biến chú vãng sanh bố thí cho họ còn hay hơn”. A Thẩm gần như nói chơi thôi, rồi cũng không niệm chú vãng sanh, thắp hương lễ xong, ai về nhà nấy. Đến tối vào lúc nửa đêm nửa hôm, A Thẩm như tỉnh mà không phải tỉnh, như mộng mà không phải mộng, bỗng nhiên nhìn thấy mấy con quỷ đến nói với bà ta “Đại vương của chúng tôi muốn mời bà đi nói chuyện”. A Thẩm hỏi nó: “Đại vương các người là ai? Ta không đi”. Mấy con quỷ đó cũng chả nói lý lẽ gì, không đi thì cưỡng bức lôi đi, lôi đến ngôi miếu chung của dân kia, thấy trước miếu đứng rất nhiều người nam, nữ, lớn, bé, chính giữa ngồi một vị quỷ, thân thể to lớn, mặt mày hung ác, mấy con quỷ nhỏ kêu A Thẩm quỳ xuống, A Thẩm trong lòng linh cơ sáng suốt, liền to tiếng nói rằng: “Ta là đệ tử Tam Bảo, Phật pháp vô biên, các ngươi quỷ đạo chúng sanh, còn phải cần đến Phật pháp cứu giúp cho các ngươi nữa là!”. Lời nói chưa dứt, ông đại vương kia nổi giận xung thiên lớn tiếng quát rằng: “Lôi nó ra đánh chết tươi nó đi, nó dám nói lớn lối, lại không cho chúng ta tiền vàng”. Đang lúc cả một bầy quỷ ra tay sắp đánh bà ta, A Thẩm nói: “Không sợ nhà ngươi đâu! Ta thỉnh Bồ Tát lại!”. Tức thời chắp tay xưng niệm “ Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ”. Niệm hết thảy chưa đến mười tiếng, trên hư không hiện ra một hình tượng Bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát, tay phải cầm bình cam lồ, tay trái cầm nhành dương liễu, đạp mây mà xuống. A Thẩm xem thấy rất rõ ràng, bầy quỷ lớn nhỏ kia thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát đều quỳ xuống hết, đầu mặt dập xuống đất. Khi đó A Thẩm vẫn cứ lớn tiếng niệm “ Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lúc đó chồng của A Thẩm là cư sĩ Trần Thiên Trụ nghe tiếng vợ mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát quá lâu, nghĩ chắc là nằm thấy quái mộng gì rồi, liền kêu A Thẩm thức dậy. A Thẩm thức dậy liền đem cảnh giới trong mộng tranh biện cùng quỷ kể cho cả nhà nghe. Nếu như không biết niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” có lẽ tiêu mạng rồi, âm dương vĩnh viễn cách biệt. Câu chuyện trên đây cũng là tự miệng A Thẩm nói với tôi. Tục ngữ có câu: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”. Thánh nhơn cũng có nói “Kính quỷ thần mà xa họ ra”. Xin khuyên chư vị là đệ tử của Phật, ngàn vạn lần chớ nên tự khoe mình hay giỏi, nói giỡn chơi với quỷ thần. Nếu lâm vào tình trạng giống như A Thẩm, trong mộng biết niệm Thánh hiệu Bồ Tát thì không sao, còn như công phu chưa đến, thì tự rước lấy phiền toái vào thân rồi. 35. BẠCH Y NỮ NHÂN TRONG MỘNG CHO THUỐC Pháp môn niệm Phật, không luận là già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo, chỉ cần tin sâu Phật là đạo sư của ba cõi, cha lành của bốn loài, tin và niệm đó thì diệt tội hằng sa, được phước vô lượng. Dưới đây sẽ cử ra chuyện thật được cảm ứng để làm chứng minh. Mười hai năm trước ở đường Trung Hoa khu Bắc Đài Trung có một gia đình nhỏ là người từ Sa Lộc dời đến Đài Trung ở, chủ nhân là Trần tiên sinh, vợ ông ta họ Lâm tên là A Kiều, bà này ở quê từ lâu đã bị bệnh triền miên, đứa con lớn là Chấn Trung tuy mới tám tuổi, lại rất biết chuyện, hầu hạ thuốc men v.v… chẳng rời khỏi bên mẹ. Có một hôm ban trưởng ban niệm Phật là sư tỷ Trần Kim Chi đến nhà của nó (Chấn Trung), nhìn thấy A Kiều nằm trên giường rên rỉ, có trạng thái của bệnh tình rất nguy kịch, đứa con Chấn Trung kia đang ở bên mẹ rơi nước mắt, sư tỷ Trần Kim Chi thấy rồi, lòng từ bi tự nhiên phát sanh, liền nói với bà Trần rằng: “A Kiều à! Cô nên niệm Thánh hiệu cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện Bồ Tát khiến cho bệnh tình sớm hồi phục, mạnh khỏe trở lại”. Lúc đó A Kiều thều thào nhỏ giọng “Tôi không biết niệm”. Sư tỷ Trần Kim Chi nói: “Cô không biết niệm, con cô niệm cũng vậy, cô chỉ cần lắng tâm nghe, trong tâm duyên theo tiếng niệm là được rồi”, Sư tỷ Kim Chi lại đi thỉnh về một bức tranh Tây phương Tam Thánh lộng trong khung kiếng, treo trên bức tường đối diện với chỗ A Kiều nằm, rồi dạy cho Chấn Trung chắp tay, học niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Đứa bé này rất thông minh, không bao lâu đã học được rồi. Cứ như thế niệm hơn hai tiếng đồng hồ, lại còn dạy nó hồi hướng, cầu nguyện Phật Bồ Tát mau đến cứu giúp cho bệnh của mẹ mau được bình phục. Chấn Trung đều có thể nhất nhất y giáo phụng hành, bèn luôn luôn ở trước Phật niệm Phật van cầu, trước mắt A Kiều, mặt thì đối Thánh tượng vạn đức trang nghiêm, bên tai lại nghe được Thánh hiệu vạn đức hồng danh, trong tâm bèn cảm nhận được có chỗ nương tựa. Xưng niệm Thánh hiệu Phật Bồ Tát là việc chẳng thể nghĩ bàn. Đứa con Chấn Trung kia vì cầu cho mẹ khỏi bệnh, hàng ngày thành khẩn niệm Phật, chưa đến một tuần lễ, quả nhiên xuất hiện kỳ tích. Có một hôm mới sáng sớm nó kêu lên rất vui sướng: “Má à! tối qua con chiêm bao thấy một người nữ mặc áo trắng cầm một bó cỏ thuốc dài như cây rau hẹ cho má ăn, má nhận qua tay liền cho vào trong miệng, con nhìn thấy rất là rõ ràng. Ngài còn nói với con ngài là Quán Thế Âm Bồ Tát, do vì bệnh của má chỉ cần ăn loại cỏ thuốc này, liền được bình an”. A Kiều nghe xong cảm thấy rất là kỳ lạ, bà ta cũng nói với con rằng: “Chấn Trung à! Mẹ đêm qua cũng chiêm bao thấy một người nữ cầm một bó cỏ thuốc dài kêu má ăn, má liền lấy cỏ thuốc cho vào trong miệng nhai và nuốt xuống. Sáng sớm vừa thức dậy, trong lòng mát mẻ, cảm thấy bệnh tình nhẹ đi rất nhiều”. Từ đó bệnh của A Kiều ngày càng hồi phục mạnh khỏe, mẹ con đồng hưởng niềm vui tự nhiên của đạo. Hơn nữa trong tâm linh nhỏ của Chấn Trung đã gieo trồng được căn lành rất là sâu dày, cho nên mỗi ngày trước khi đi học, nó nhất định đến trước Phật xin phép, chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con phải đi học đây”. Tan học về nhà lại nhất định trước tiên đến trước bàn Phật vẫn cứ chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con về rồi”. Ngày nào cũng thế, tập hoài thành quen. 36. CON KHỈ, CÁI MÓC CÂU 1 - PHÚC ĐẾN LÒNG SÁNG RA A Kiều từ lúc được sự cảm ứng của Phật, Bồ Tát gia bị khỏi bệnh rồi, bèn tiếp tục hàng ngày lạy Phật, niệm Phật không có gián đoạn, thời gian trôi qua rất nhanh mới đó đã hai năm rồi. Chồng của cô ta vốn là cai thầu xây dựng, lúc đó tiếp nhận thầu một công sự tháo giở nhà, chính ở ngay chỗ giao lộ của đường Tự Do và đường Trung Chánh , một tòa kiến trúc hai tầng, thỏa thuận cùng người ta định kỳ một tháng nhất định phải tháo giở xong, nếu như tới hạn làm không xong phải bồi thường gấp đôi và điều kiện trên khế ước, nếu có bất cứ người nào do công việc mà bị thương, hoặc là té chết bên thầu phải tự chịu trách nhiệm, bên kia vô can. Nhưng mà tòa viện bảo tàng từ thời Nhật chiếm cứ đó xây dựng vô cùng kiên cố, thật không dễ gì tháo giở, bốn bức vách đều xây bằng gạch rất dày, sắt miếng và xi măng, mười mấy người công nhân dùng chùy sắt và đục đập một tuần lễ chỉ mới đập được một lỗ lớn mà thôi, nguyên bức tường vẫn chưa phá đổ được, ông Trần lúc ấy rất là lo lắng, tự nguyện đền một vạn đồng để bên kia chịu bỏ khế ước, nhưng bên kia cũng không chịu, không thế thì phải bồi thường mấy vạn đồng! A Kiều suốt cả ngày lo rầu, cùng với Chấn Trung hai người, chỉ còn biết hướng Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát nhiều lần cầu khẩn mong rằng không phải đền tiền. Có một ngày sáng sớm Chấn Trung bỗng kêu lên một tiếng: “Má! Má không phải khóc nữa, việc lãnh thầu tháo giở nhà lầu không phải lo nữa, con đêm qua mộng thấy Tam Tạng pháp sư tay cầm cây chổi đuổi ruồi dẫn đến một đám vượn màu vàng, chỉ huy giữa không trung, trong khoảnh khắc tháo giở hết tòa nhà chúng ta bao thầu tháo giở kia, thật là Phật lực vô biên, con vượn vàng kia thật là đẹp. Má, vị Tam Tạng pháp sư kia đội cái mão chính là trong phim tháng trước con đến rạp hát nào xem nè, trông Tam Tạng đi lấy kinh giống như nhau”. Chấn Trung ngây thơ nói với mẹ, hai mẹ con lại đến trước Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát quỳ xuống cầu nguyện và phát nguyện sẽ bỏ ra 500 đồng cho thầy Lý lúc đó đang muốn lập ra nhà nuôi trẻ cô nhi. Th ật là phúc chí tâm linh (phúc đến tâm sáng ra), ông Trần nghe những điều Chấn Trung nói trong mộng, tiếng Đài Loan con khỉ (hầu chừ) cùng với móc câu (câu chừ) phát âm hơi giống nhau, liền nghĩ đến dùng móc câu sắc lớn câu tường lại dùng máy điện quấn dây, chỉ một chút xíu kéo đổ xuống một miếng tường lớn, như thế trong một ngày kéo đổ xuống rất nhiều bức tường dầy, không đầy mấy ngày hoàn thành xong toàn bộ. Ông Trần lần này làm công sự giở nhà, đã không trái với khế ước, lại không có bồi thường tiền, lại còn trong khi làm việc kéo tường phát sanh ra hai việc không thể nghĩ bàn: có hai người công nhân ở trên lầu hai té xuống lại không bị thương một chút nào hết, ở dưới đất toàn là gạch bể, bê tông, làm sao không hề bị thương? Thật là khó mà tin. Lại còn có một việc là mỗi trước khi câu tường đổ xuống, nhất định phải xem xét bốn phía coi có công nhân ở gần hay không? Để khỏi phải đổ tường xuống đè bị thương. Có một lần sau khi ông Trần xem xét xong, đột nhiên có một nữ công nhân đi lại, muốn đến công tác, vừa vặn một miếng vách tường bị kéo đổ xuống, xê xích có hai tấc, thấy gần như là bị đè chết rồi! Có rất nhiều công nhân hỏi bà Trần (A Kiều): “Ông thổ địa nhà của ông bà sao mà linh thế? Lần nào cũng đều phù hộ cho các vị hết à!”. A Kiều nói: “Nhà tôi không phải thờ ông thổ địa, chúng tôi thờ phụng là Tây phương Tam Thánh: một vị Phật hai vị Bồ Tát, mỗi ngày đều niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát”. Vào ngày chủ nhựt giảng kinh ở ban song tu niệm Phật hôm đó, A Kiều mặt mày hớn hở đưa đến 500 đồng tiền Đài Loan mới, muốn cúng cho viện cô nhi mới xây, kêu tôi đại diện vì cô ta mà đưa cho, và còn nói: “Công sự lần này toàn là nhờ sự cảm ứng của Phật, Bồ Tát đại từ đại bi”. Cô ta lại đem chuyện xảy ra trước sau ra sao nói cho đại chúng nghe, nói đến chỗ Chấn Trung mộng thấy Tam Tạng pháp sư dẫn một bầy khỉ màu vàng kim, chỉ huy tháo giở nhà, tôi liền giải thích cho cô ta: “Chấn Trung cho là Tam Tạng pháp sư ở trong phim, có lẽ chính là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, ở trong tay cầm đó chính là cây phất trần hoặc là nhành liễu, không phải đồ đuổi ruồi”. Lúc đó ban viên trong ban song tu, đều đồng lời khen ngợi pháp lực Phật, Bồ Tát vô biên không thể nghĩ bàn, và khen ngợi lòng thành khẩn của mẹ con A Kiều. 37. TRONG MỘNG NIỆM PHẬT, GẶP DỮ HÓA LÀNH Lại qua đi một năm, chồng của A Kiều là ông Trần, có một đêm trong mộng nhìn thấy một cảnh giới: có một ông già để râu trắng dài dẫn ông ta đi đường, đi được rất lâu, rất xa đến một địa phương lạ ở trong một cánh đồng hoang, bốn bề không có một người, chỉ có một cái hòm gỗ dài. Ông già kia nói: “Ông Trần, ông phải ngã ở đó”. Ông Trần nghĩ ngã vào trong cái hòm đó tức là tiêu đời rồi! Trong lòng không khỏi cảm thấy sợ hãi nổi lên, liền chắp tay lại to tiếng niệm liên tiếp “ Nam mô A Di Đà Phật!”. Niệm chưa được vài chục tiếng, bỗng nhiên có một người con gái ở trong làng khoảng mười bảy, mười tám tuổi đi đến, dùng tay chỉ tôi nói (tôi: ông Trần) “Ông mau đi về đi thôi”. Vừa tỉnh dậy, thì ra là một giấc mộng Nam Kha, sáng sớm thức dậy liền nói với vợ ông ta A Ki ều, giấc mộng dữ tối qua, may mà ở trong mộng biết niệm Phật, nếu không thì không biết sẽ ra sao! A Kiều tức khắc đến trước bàn Phật thắp hương đốt đèn cầu nguyện Phật, Bồ Tát từ bi gia bị khiến cho việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành không. Ông Trần lúc đó đang bao thầu xây dựng một tòa lầu ba tầng, công trình đã sắp hoàn thành rồi. Sáng sớm hôm đó sau khi ăn cơm xong, do vì ảnh hưởng nỗi sợ hãi giấc mộng dữ đêm qua, trong lòng rầu rĩ không vui, liền đến hiện trường công sự. Vừa nghĩ muốn lên tầng lầu ba để xem xét, bỗng nhiên có một công nhân đi đến nói với ông Trần: “Ông không cần phải lên, để tôi đi xem được rồi”. Vị công nhân này liền bước lên cái giá cây của cầu thang đi, ông Trần vẫn đứng ngay chỗ cũ, tay thò vào trong túi lấy ra một điếu thuốc thơm, lúc đang đánh lửa, bỗng nhiên nghe “rầm” một tiếng, vừa nhìn thì ra là vị công nhân vừa mới thay mình đi lên tầng lầu ba, mới hơi không đề phòng chân đạp lệch, từ trên lầu té xuống ngã trên đất. Lúc đó điếu thuốc thơm của ông Trần còn chưa hút, giựt mình hết hồn, lập tức bước đến đỡ dậy thì đã bất tỉnh nhân sự rồi. Ông Trần ôm anh ta ra mướn một chiếc taxi đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng vì bị thương nặng chấn thương sọ não đã dứt thở trong xe, đến bệnh viện đã về trời rồi! Ông Trần lo đám tang cho anh ta rất là long trọng xong rồi lại cấp mấy vạn đồng cho trong gia quyến mới kết thúc viên mãn. Ông Trần trải qua lần tai họa này có thể nói là “phá tài quá vận” (hao tài mà qua được vận hạn) nhưng từ ngày hôm bị một phen hoảng vía quá sức đó trở đi dường như ba hồn bảy vía không còn ở trong thân nữa, tinh thần không thoải mái, chẳng thiết gì đến ăn uống. Vợ ông ta A Ki ều rất là lo lắng, liền đi hỏi thăm ý kiến sư tỷ Kim Chi, đem những việc trên kể cho sư tỷ nghe. Sư tỷ Kim Chi liền bảo cô ta dùng một ly nước sôi, ở trước Phật sau khi thành khẩn tụng bảy biến chú đại bi rồi cho ông ta uống, nếu hiệu nghiệm thì là rất may mắn, nếu không hiệu nghiệm thì phải mau đưa đi bệnh viện khám. A Kiều y theo cách của sư tỷ Kim Chi, rất là cung kính nhất tâm tụng bảy biến chú đại bi xong, cho chồng cô ta uống. Thật là linh nghiệm dị thường, nước vào thì bệnh dứt, tinh thần của chồng cô ta dần dần hồi phục như cũ, không cần thuốc mà khỏi bệnh. Chuyện kể đến đây, chắc có người sanh nghi vấn: “Phật, Bồ Tát là bực đại từ đại bi, tại sao chỉ cứu có một người, cái chết của anh công nhân đáng thương kia lại không ra tay cứu?”. Mọi người chúng ta nên biết: tâm có thể tạo nghiệp, tâm cũng có thể chuyển nghiệp. Ông Trần nhờ sự huân tập niệm Phật của vợ, mà trong tàng thức đã gieo được hạt giống kim cang A Di Đà Phật, cho nên những cái tốt xấu chưa đến mà đã có điềm trước. Trong giấc mộng đêm đó, một ông già dẫn ông ta đi đến cảnh giới khác bảo ông ta chun vào trong cái hòm, may mà hạt giống Phật A Di Đà trong tàng thức của ông ta phát khởi hiện hành, bỗng nhiên khiến ông ta chắp tay lại niệm Phật, đây là gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa không. Đến như anh công nhân kia, không phải là Phật, Bồ Tát không cứu anh ta; do vì phàm phu đều là nhận giả làm chân, lấy khổ làm vui, cứ hưởng thụ những cái trước mắt, suốt ngày mê hoặc điên đảo, chẳng kể gì việc tốt xấu đến, Phật, Bồ Tát có chỉ điểm như thế nào thì cũng vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, như thế làm sao có thể chắp tay xưng niệm Thánh hiệu của Phật, Bồ Tát được? Không biết niệm Phật thì không có thể chuyển nghiệp, lúc sắp đến thành của vua Diêm la báo hiện diện thì phải đi thôi. Tục ngữ có câu “Diêm vương chỉ định canh ba chết thì không cho lưu đến canh năm!”. Như thế có thể suy ra cái chết của người công nhân kia cũng không ngoại lệ, đây là định nghiệp không thể chuyển! Có lẽ vẫn còn có người sanh nghi vấn: Tại sao ông Trần mấy năm trước lúc bao thầu công sự xây dựng nhờ Phật, Bồ Tát cảm ứng đã không bị lỗ vốn lại vẫn được bình an; lần này lại tổn thất quá nhiều và bị một phen nguy hiểm sợ hãi, Phật, Bồ Tát sao không gia bị? Nên biết phàm người tu hành lúc mới phát tâm phần nhiều rất thành khẩn, nhưng qua một thời gian, hoàn cảnh thay đổi đều là tùy theo nhân quả thuận cảnh, nghịch cảnh của mỗi người tự làm thì tự chịu. Lúc đó vợ chồng của A Kiều, cả đứa con, cả nhà là sơ phát tâm, dùng lòng chí thành, ngày đêm do vì thành kính khẩn thiết xưng niệm. Về sau, lần này như thế là do vì đời người tai nạn, nghịch cảnh phiền não nhiều, những tai nạn, nghịch cảnh phiền não này luôn hiện ra trước mắt, giống như cái tai họa đột nhiên này, ông Trần mặc dù có bị kinh sợ, hao của, vẫn là từ trọng báo chuyển thành khinh báo, cũng là cái may lớn trong cái xui xẻo, trong sâu xa vẫn có Phật, Bồ Tát ngầm phò hộ. 38. CON MÈO ĐÒI NỢ, YÊU CẦU SIÊU ĐỘ Phàm người khi mạng sắp lâm chung, ngoài con đường Thánh ở Tây phương ra, thì nếu không vào được cõi trời hay loài người, thì cũng ắt vào các đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Quyến thuộc của người mạng chung, nếu có thể giúp cho họ niệm Phật, đó là đưa thần thức của họ vãng sanh vào đường Thánh Tây phương mãi mãi thoát ly được biển khổ sanh tử. Nhưng cái ngày sắp mạng chung, giống như ngày 30 tháng chạp, những oan nghiệp đời trước, các chủ nợ đều đến, đâu có chịu cho anh đi dễ dàng! Nợ đã tính chưa xong, lâm chung làm sao để cho anh tiêu dao tự tại? Trong khoảnh sát na này thì phần lớn trách nhiệm ở nơi quyến thuộc và những người trợ niệm, cho nên người niệm Phật tu hành nhất thiết không nên ỷ vào mình tu hành nhiều năm, công phu rất tốt, các thứ công đức bố thí v.v… nhiều. Ngoài các bậc hành giả thật sự nắm chắc được việc tự tại muốn đi thì đi; còn lại, lúc sắp mạng chung vẫn phải lấy trợ niệm làm quan trọng. Bây giờ đơn cử ra một vị liên hữu vào tháng trước vãng sanh để chứng minh. Vị liên hữu Hồng Hoàn trưởng ban của ban 48 nguyện kiêm ban trưởng của ban thí tài ở Liên xã Đài Trung, năm nay sáu mươi hai tuổi. Trong hai mươi năm gần gũi, đồng tu với ân sư Bính Công, có thể nói là người có phước báo nhứt, thành khẩn nhứt, phát tâm lớn nhứt, không có ai là sánh được với bà. Phước báo của bà ta là gia đình thanh nhàn nhứt, con cái, dâu rể, cháu ngoại đều hiếu thuận, cả nhà tin Phật, niệm Phật và của cải dư dã, bố thí từ nào đến giờ không có lận tiếc, cho nên sư phụ cho bà ta làm ban trưởng ban thí tài. Lòng thành khẩn đối với việc tin Phật của bà là mỗi khi sư phụ giảng kinh hoặc mở hội v.v… thì bà đều đi đủ không có mưa gió gì có thể ngăn trở; chẳng những tự tu tự lợi như thế, mà còn tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ đến việc “lợi tha”. Tôi thường khen ngợi Hồng Hoàn với mọi người, hạng mà khó độ nhứt là bà con trong gia đình và những người hàng xóm, nhưng mà Hồng Hoàn thì sao? Thật có thể nói bà là bậc “bi trí song vận” (bi trí đầy đủ), phương tiện khéo léo, không những trong gia đình bà con đồng chí đồng đạo, ngay đến bà con hàng xóm xa gần, cả đến trong những ngõ hẻm ngóc ngách, hầu như nhà nào cũng đều phụng thờ tượng Tây phương Tam Thánh, có thể độ được cả một con hẻm đều tin Phật, thật là hiếm thấy! Đây đều là cái thành quả phát Bồ đề tâm của bà. Chẳng những như thế, bà lại còn đảm nhiệm làm cán sự hội phụ nữ khu Bắc thành phố Đài Trung, đã từng khuyên dứt mười mấy gia đình bất hòa, năm đó có cặp vợ chồng trẻ, cảm tình sắp bị tan vỡ, lúc chồng vợ con cái sắp chia tay, thì nhờ biện tài vô ngại của bà khuyên bảo, gia đình trở lại tốt đẹp, và tốt hơn nữa là đều quy y Tam Bảo. Cho nên ai cũng đều khen ngợi hoàn cảnh gia đình của sư tỷ Hồng Hoàn là tốt đẹp, cùng với tinh thần từ bi ưa xả thí của bà, trong đời có thể nói là “thập toàn thập mỹ” (mười phân vẹn mười). Tuy nhiên, trong cái đẹp có cái khiếm khuyết. Cái khiếm khuyết của sư tỷ Hồng Hoàn là vào năm ngoái bỗng nhiên bị bệnh ruột dư, đã đi bệnh viện khoa ngoại mổ một lần, đến trung tuần tháng 2 năm nay bệnh biến đổi nặng, đã qua Đông Tây y dược trị liệu vẫn không có hiệu quả. Lúc bệnh nặng đã từng có thỉnh thầy Bính Công đến khai thị, thầy thấy bà uống thuốc an thần, mơ mơ hồ hồ, liền dặn con cái của bà: “Về sau nhất thiết không nên tiếp tục cho bà uống thuốc an thần nữa, lúc trợ niệm tinh thần sẽ mơ hồ hồ như thế, thần thức sẽ không thể vãng sanh Tây phương được!”. Đến 3 giờ buổi chiều ngày 17, tôi nhận được điện thoại của con gái của bà, nói là mẹ của cô đã hôn mê bất tỉnh nhân sự. Tôi lập tức cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy người nữa đi đến trợ niệm, lúc đó mọi người chúng tôi đều thấy bà ta hổn hển thở gấp, không còn biết gì, hai tay giở lên buông xuống liên tục, bộ dạng như đang muốn đẩy cái gì. Chúng tôi liên tục niệm Phật, niệm đến khoảng hơn 5 giờ, hơi thở gấp của bà đã từ từ ổn định lại, hai tay cũng không còn giở lên giở xuống nữa, dần dần tỉnh táo trở lại và đã có thể nói chuyện được rồi, bà nói với chúng tôi: “Sư tỷ, cám ơn các sư tỷ nhiều! Được rồi, các sư tỷ nghỉ đi!”. Tôi nói bà ta nên tĩnh tâm nhớ Phật, không nên nói chuyện nhiều. Lúc đó đã 6 giờ, tôi liền dặn dò con cái của bà rằng “Nếu như lúc nửa đêm khuya khoắt, nguy hiểm, các con cháu, mọi người đều phải cố gắng niệm Phật, nhưng nhất định phải đồng thanh, không nên có người thì niệm “A”, có người thì niệm “Đà”, có người thì niệm “Di”, trước sau lộn xộn, như thế làm nhiễu loạn nhĩ căn của người sắp mạng chung”. Sau khi tôi dặn dò xong, liền cùng các liên hữu ai về nhà nấy. Đến sáng ngày hôm sau, nhớ nghĩ người bạn tri âm sắp từ biệt cõi đời, không khỏi ngậm ngùi nhớ tiếc, tức khắc chạy đi xem coi tối qua như thế nào? Lúc tôi mới vào cửa A Hoàn nghe được tiếng tôi liền lớn tiếng kêu lên: “Sư tỷ Khán Trị lại đây, lại đây!”, tôi liền ngồi trên mép giường của bà, bà nói với tôi “Chiều hôm qua may mà có các sư tỷ niệm Phật cho tôi, do vì lúc đó dường như đang bị cái chụp muỗi đen đè cứng, cái chụp đó nặng có mấy ngàn ký, đè đến nỗi tôi không thở nổi, chỉ còn có hai tay còn tự do, nên hai tay giở lên giở xuống muốn đẩy nó ra, nhưng lại đẩy không nổi”. Tôi hỏi bà ta “Tại sao chị không niệm A Di Đà Phật?”. Bà nói: “Khắp mình bị đè thở không ra hơi, không những miệng niệm không ra, ngay cả trong tâm cũng không niệm được! May mà còn có thể nghe được tiếng niệm Phật của các chị, tiếng vừa to vừa rõ ràng, cái chụp muỗi đen đó dần dần biến mất, tôi mới cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, từ từ tỉnh lại”. Hồng Hoàn lại nói: “Sư tỷ Khán Trị à! Tôi hôm qua lại còn nhìn thấy một cảnh giới nữa, kể ra rất dài”. Tôi hỏi bà muốn nói cái gì, bà nói: “Tối qua khoảng 2 giờ, tôi nhìn thấy một đứa bé khoảng chưa đầy tám tuổi mặc đồ trắng hiện ra trong phòng tôi, tôi hỏi nó: “Mày là ăn trộm đến trộm đồ phải không?”, thằng nhỏ liền phủ nhận: “Không phải, không phải!”. Tôi hỏi tiếp nó: “Vậy mày ở đâu đến đây? Đến làm cái gì?”. Nó nói: “Tôi từ lục đạo luân hồi đến, muốn đến đòi nợ bà, tính sổ với bà”. Tôi nói: “Ta làm người thanh bạch, chưa từng thiếu nợ của người nào”. Thằng nhỏ đó lại nói: “Không phải đời này, mà là nợ đời trước. Do vì bà đời trước ở Đài Bắc làm người hiếu sát (hay giết, ưa giết), đã giết bốn mươi con mèo rồi đều vứt bỏ xuống sông Cô Long (tên cũ), không tin, bà đi kiểm tra lại thì biết, tôi là một con trong đó, do vì sau khi bà giết chết tôi bà vẫn cứ ném vào trong sông, tôi rớt xuống bên bờ, có một người họ Hứa cứu tôi, nhưng tôi đã không thể sống tiếp, nên đã dùng một sợi dây cột tôi lại, treo lên trên cây, tôi nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng cho nên có thể được hình người này, nhưng còn ba mươi chín anh, chị, em của tôi vẫn còn hình dáng mèo chịu khổ ở nơi đó. Tôi đến đây là muốn bà siêu độ cho bầy mèo anh chị em của tôi thoát khổ.” Tôi vội vàng nói: “Được, được! Liên xã chúng tôi trong tháng sắp cúng tế Tổ, thuận tiện sẽ siêu độ cho các ngươi luôn”. Đứa bé đó lại nói: “Không được không được! Nhất định phải làm hai cái giỏ tre đi đựng ba mươi chín con mèo kia. Chính bà tụng kinh siêu độ tại nhà bà.” Tôi liền nhận lời, sáng hôm nay kêu Canh Thân viết thư cho một người bà con ở Đài Bắc hỏi thăm rồi”. Qua ba ngày, người bà con ở Đài Bắc gởi thư hồi âm nói: trước đây rất lâu ở Đài Bắc thật có con sông này. Việc này của Hồng Hoàn không những nói với tôi, còn nói với rất nhiều liên hữu nữa. Bà liền thỉnh cư sĩ Triệu Đàm Thuyên, Vương Thanh Hán , mười mấy vị liên hữu đến nhà bà tụng Kinh Địa Tạng, tụng kinh sám ba ngày để siêu độ cho bốn mươi con mèo kia. Buổi tối ngày cuối cùng lại làm một nhà “phổ thí” (thí khắp) để mở hết những oan kết cho bà. Đến sáng sớm mồng 5 tháng 3 âm lịch, có người gọi điện thoại đến nói Hồng Hoàn sắp vãng sanh rồi, hiện chỉ còn thở thoi thóp. Tôi liền lại cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy vị đến nhà bà niệm Phật, niệm được hơn một giờ, thì Tố Cầm con gái của bà, nói với tôi: “Sư tỷ! Má con bắt đầu từ đêm qua, chỉ còn một hơi thở mong manh như thế, đến bây giờ vẫn chưa được vãng sanh; má con trước đây từng có dặn dò con: cần phải trước khi vãng sanh, trước nên thay đồ dùm cho bà, không biết phải hay không là chưa thay đồ, nên không chịu vãng sanh? Sư tỷ! Bây giờ thay đồ cho má con được không?”. Tôi nói: “Không được, không được! Bây giờ động dời bà ta e rằng gây cho bà ta phiền não thì không được vãng sanh”. Thế là lại niệm hơn nửa tiếng đồng hồ, vẫn cứ như thế, tôi nghĩ có lẽ bà ta thật sự chấp phải thay đồ trước, liền kêu mọi người tạm ngừng niệm Phật, tôi đến bên tai của bà lớn tiếng nói: “Sư tỷ A Hoàn, chị niệm Phật hai mươi năm, tâm tâm niệm niệm đều là muốn vãng sanh Tây phương, chị đã hiểu thế giới Ta bà này là giả, là khổ, đời người ở đời trong mấy chục năm, mỗi con người cuối cùng đều phải chết, chỉ là trước sau mà thôi, thế giới Cực Lạc mới là quê nhà an ổn của chúng ta; Phật A Di Đà là cha lành của chúng ta, sắp đến tiếp dẫn chị, chị phải buông bỏ hết vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật, mọi người chúng tôi sẽ tiếp tục giúp chị niệm Phật, đưa chị vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, sau này chị còn phải thừa nguyện lực trở lại quảng độ chúng sanh. A Hoàn! Chị phải buông bỏ tất cả, chúng tôi thỉnh Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chị, chị phải niệm Phật theo đại chúng!”. Thật là không thể nghĩ bàn, mọi người đều nhìn thấy lúc tôi nói chuyện với bà, mắt của bà mở ra, đầu thì gật không ngớt, bày tỏ dáng điệu rất hài lòng, chúng tôi bèn niệm tiếp được năm phút, bà liền mỉm cười ra đi. Lúc đó là 11 giờ trưa ngày mồng 5 tháng 3. Sau khi bà dứt thở chúng tôi lại còn niệm tám giờ nữa mới để con cháu bà tắm rửa thay đổi y phục và lo đám tang. Từ chuyện đơn cử có thật trên đây, chúng ta thấy: trước khi Hồng liên hữu lâm chung nhìn thấy một cái chụp đen nặng cả ngàn ký đè bà ta đến nỗi đau khổ vô cùng, tự mình không cách gì đẩy ra được; nếu như không có các vị liên hữu bên mình bà niệm Phật cho bà, thì làm sao có thể hồi dương được hơn mười ngày, dùng Phật pháp làm những công đức giải oan thích kết (mở bỏ những oan trái) cho những con mèo nhỏ kia. Mà những oan hồn kia biết Hồng liên hữu thường ngày niệm Phật, sẽ sanh Tây phương thì món oan trái này sẽ không còn cách gì đòi cho được, bèn hiện thân ra đứa nhỏ thẳng thắn nói ra đoạn oan nghiệp bị giết hại đời trước, yêu cầu tụng kinh siêu độ cho chúng thoát khổ. Có thể nhìn thấy nhân quả đáng sợ, rất nguy hiểm biết bao! Tôi viết đến đây tự nhiên lông tóc dựng ngược, cảm thán mãi! Thật là “Thân này không lo tu ngay trong đời này, còn đợi đến đời nào mới độ được thân này!”. (còn nữa)
  5. (Tiếp theo) Không cần phải sợ. Cần phải biết, dù chúng ta mắc bệnh ung thư vào thời kỳ nào, thì tế bào ung thư cũng không nhiều bằng tế bào lành mạnh. Thân thể chúng ta có bao nhiêu tế bào tốt? Có khoảng sáu mươi ngàn tỷ (60.000.000.000.000) tế bào tốt! Đây là một lực lượng vô cùng hùng hậu.Vậy tại sao lại bị một nhóm tế bào do nhân duyên xấu biến thành bệnh hoạn đánh bại? Về mặt lý luận, đây là điều không thể có được. Trừ khi nào tất cả tế bào lành mạnh đều bị sợ hãi đến mức không thể phấn chấn, phản kháng! Chúng ta có thể dùng một ví dụ để nhận ra lý này. Như một ngôi làng có rất nhiều thanh niên khỏe mạnh. Một hôm có một tên cướp đến đó giết sạch tất cả. Các vị nghĩ xem điều này có hợp lý không? Chẳng lẽ những thanh niên đó đều ngủ mê cả sao? Hay là đều sợ đến mức tay chân thóat lực? Phải biết thanh niên là người, mà tên cướp cũng là người, vì sao thanh niên phải khiếp sợ tên cướp đến như vậy? Tên cướp không sợ thanh niên, mà thanh niên lại sợ tên cướp, đây là điều hoàn toàn vô lý! Có một em bé chỉ mới ba tuổi được người hỏi: “Giá như bị người xấu bắt, định giết chết, thì em làm sao?” Em nghe xong, dõng dạc trả lời: “Thì cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho hắn nghe!” Em bé đó đã biết vận dụng sức mạnh và trí tuệ vốn có của Phật tánh! Tên cướp cũng có Phật tánh, nên vẫn có thể phát tâm từ bi và được cảm hoá. Thực ra, làm ăn cướp chỉ trong một niệm. “Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật” cũng trong một niệm! Cho nên chúng ta có thể tập hợp sức mạnh hùng hậu của sáu mươi ngàn tỷ tế bào lành mạnh để cảm hoá, cải thiện tế bào xấu, ít ra cũng không bị nó ảnh hưởng, nên có thể sống một cách an lạc! Tâm niệm và quan niệm quyết định vận mệnh và hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta có thể quan sát bản thân, giả như gặp chuyện bất như ý hay sợ hãi, có phải tim mình đập nhanh và mạnh lên không? Dạ dày chúng ta cũng đau thắt như sắp đi vệ sinh, tay chân trở nên giá lạnh, thậm chí có người còn run rẩy, đổ mồ hôi lạnh! Xin hỏi, chúng ta có từng suy nghĩ điều gì khiến tim mình đập nhanh, tay chân run rẩy không? Một niệm thay đổi, sáu mươi ngàn tỷ tế bào cũng thay đổi. Trước đây, lúc chúng tôi thi môn giải phẫu học trong Y Học Viện, mọi người đều rất hồi hộp lo lắng, bởi vì phải vừa trả lời đề thi treo trên tử thi, vừa phải chạy quanh bàn mổ. Có một vị đồng học cảm khái bảo: “lạ quá, hai chân cứ phát run, không biết đây là do dây thần kinh nào khống chế, mà muốn dừng run cũng không được!” Mọi người có nhận ra không: Chỉ một tin tức đưa đến khiến mình thay đổi tâm niệm là sáu mươi ngàn tỷ tế bào liền thay đổi theo! Môi đang từ màu hồng liền chuyển sang màu xám xịt, cả người cũng nổi gai ốc! Có phải chúng ta thường dùng những tâm niệm áp lực, không vui này để bức ép sáu mươi ngàn tỷ tế bào tốt của mình. Hèn chi mà có một số tế bào nổi loạn! Giá như biết rằng sinh mệnh tạm thời này có lúc phải kết thúc, chúng ta sẽ biết trân trọng nó, sống một cách thong dong, tự tại, từ bi và hoan hỉ! Vậy chúng ta có nên tự làm cho thân tâm mình chịu áp lực, khiến phải đau khổ đến lúc chết hay không? Cấp trên từ bi hoan hỉ, nhân viên mới vui vẻ hết lòng! Chúng ta thử nghĩ: Nếu cấp trên biết quan tâm và cảm thông, có phải chúng ta sẽ vui vẻ hết lòng làm việc? Còn gặp phải cấp trên hà khắc, bữa nào cũng nổi giận, trách cứ, đòi đuổi việc nhân viên, thì đương nhiên không ai hết lòng làm việc, thậm chí còn cố ý quấy rối, phản kháng, khiến cấp trên bị tổn thất! Tình hình tế bào toàn thân của chúng ta cũng giống như vậy. Chúng là nhân viên của chúng ta. Là ông chủ, lẽ ra chúng ta nên dùng tâm niệm từ bi, an vui để khiến cho mỗi tế bào hoan hỉ làm tốt công việc và được đượm nhuần sức sống. Chúng ta nên để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi để tái tạo sức làm việc, máu huyết lưu thông để tiếp tế dưỡng khí và dưỡng chất một cách đầy đủ. Chúng ta thử nghĩa xem: khi chúng ta cảm thấy hoan hỉ và có tâm niệm tốt lành, thì có phải toàn thân đều cảm thấy thơ thới dễ chịu hay không? Chúng ta niệm Phật, niệm Pháp chính là đem tâm niệm của mình đặt vào trong trạng thái năng lượng cao nhất, từ bi hỉ xả thanh tịnh nhất. Trạng thái tâm niệm này sẽ sinh ra hiệu quả an ủi và khích lệ từng tế bào một trong cơ thể! Niệm Phật chính là cách vận dụng tâm niệm quý báu của mình một cách tốt đẹp nhất! Niệm Phật là môn trị liệu bằng âm ba vi diệu nhất, nhằm khai thác khả năng trị liệu tự nhiên của Phật tánh. Bản thân tôi niệm Phật không có thành tựu gì đặc biệt. Bởi vì sự hiểu biết của tôi rất cạn cợt, còn về phương diện thực hành thì cũng không được tinh tấn, thiết thực bằng người khác. Nhưng tôi có một kinh nghiệm nhỏ như sau. Đó là khi niệm Phật lập tức trong miệng tiết ra chất dịch rất ngọt, khiến cả ngày dù không uống nước cũng không cảm thấy khát, nên dù niệm Phật ra tiếng suốt buổi cũng không bị khan giọng, có lúc còn cảm thấy cả lục phủ ngũ tạng của mình đều mát mẻ, dường như mỗi tế bào đều hoan hỉ. Trên thế giới không có ai bắt buộc tôi phải niệm Phật; càng không có ai quy định mỗi ngày tôi phải niệm bao nhiêu câu Phật. Nhưng tôi cảm thấy niệm Phật thân tâm thực sảng khoái, thư thới, vượt hơn bất cứ sự hưởng thụ nào. Vì vậy tôi chọn lựa niệm Phật. Làn sóng tâm niệm Phật và làn sóng âm thanh niệm Phật khiến toàn thân chúng ta chấn động một cách vi diệu, dường như xoa bóp cho tất cả tế bào. Việc xoa bóp này rất nhẹ êm, rất tinh tế, khiến cho các tế bào trong trạng thái dễ chịu có thể phát huy công năng tốt nhất. Sự rung động tinh tế, vi diệu này, chỉ có khi nào thân tâm của mình buông thỏng, thư thới mới có thể nhận được tương đối rõ ràng. Giới y học và âm nhạc từng cùng nhau nghiên cứu việc dùng âm nhạc để trị liệu. Những loại âm nhạc khác nhau có khả năng trị liệu khác nhau. Đây là điều mà các nhà khoa học đã chứng minh được qua thực nghiệm. Khi chúng ta mở rộng tấm lòng, toàn thân buông thư và niệm Phật theo âm vận nhất định, thì tin rằng còn hiệu quả hơn so với những âm nhạc bình thường. Bởi vì trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ vi vĩ đại và trí tuệ thâm sâu cứu độ chúng sinh của đức Phật. Đồng thời, danh hiệu Phật cũng khai phát ánh sáng và năng lực công đức Phật tánh vốn có bên trong chúng ta! Năng lực công đức này đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị liệu tâm bệnh và thân bệnh! Chúng ta niệm Phật có thể khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh sẵn có nơi chính mình, giải quyết được rất nhiều vấn đề. Phật là người đã khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh của mình đến mức viên mãn. Khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, Ngài cũng sẽ theo bản thệ nguyện của mình mà đến hướng dẫn, giúp chúng ta đạt đến cảnh giới vĩnh viễn an vui, không còn lo buồn! Vọng tưởng chấp trước là rác bẩn! “Vui vẻ không buồn lo, gọi là Phật.” Trước đây khi còn ở Học Viện Y Học, chúng tôi đã từng thảo luận qua câu này. Có một vị đồng học bảo: “Điều này không có gì kỳ diệu đặc biệt! Tôi cũng làm được. Tôi bây giờ vui vẻ không lo buồn, vậy hiện tại tức là Phật rồi! ” Mọi người nghe xong đều phì cười! Có một sinh viên lớp trên liền trả lời: “Ngày mai giáo sư cho anh rớt, lại bị bạn gái bỏ rơi, thử xem anh còn vui vẻ không lo buồn được nữa không! Hay đến chừng đó mặt mày anh ủ dột, oán trời trách người!”Mọi người ai nấy đều cười! Anh bạn học đó cũng cười bảo: “Quả đúng như vậy! Cái Phật này của tôi rất ngắn ngủi! Một ông Phật bong bóng nước, không biết sẽ vỡ lúc nào!” Thực ra, Phật vốn nói với chúng ta: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể giác ngộ và vui vẻ không lo buồn. Nhưng trong tâm chúng ta đầy dẫy những vọng tưởng chấp trước. Vì vậy, mỗi ngày mình đều bị phiền não, chướng ngại và những tư tưởng lăng xăng dẫn dắt, khiến chúng ta không thể sống vui vẻ, an lạc. Do đó, sức mạnh và tiềm năng Phật tánh cũng không sao phát huy ra được. Thực ra, chúng ta ai cũng có thể quyết định: Buông bỏ những vọng tưởng chấp trước như đổ bỏ rác bẩn, để tận hưởng bản tánh thanh tịnh tự tại. Đây là điều mà không ai có thể ngăn chúng ta. Nhưng lạ lùng thay chúng ta cứ thích “chiếm hữu”! Chính là sự chiếm hữu đau khổ! Chúng ta ôm chặt lấy đau khổ, cam chịu với nó mà không sao thoát ra được. Mất đi phân dơ, được nhẹ nhàng. Một hôm, tôi nói với một người bạn: “Chị nghĩ xem, đi vệ sinh là được hay mất?” Cô ấy nghe xong cười lớn bảo: “Tôi đã sống và đi vệ sinh bốn mươi năm, thế mà vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này!” Rồi cô ấy suy nghĩ một chút, lại bảo: “À, có lẽ là được, mà cũng có nghĩa là mất. ” Tôi liền hỏi: “Chị được cái gì và mất cái gì?” Cô nói: “Đơn giản là mất đi phân hôi thối, và được nhẹ nhàng dễ chịu!” Tôi lại hỏi: “Phân có được kể là cái của chị hay không?” Chị lại cười và bảo: “Vấn đề này thực tức cười! Nếu bạn bảo nó không phải là cái của mình, thì nó từng ở trong bụng, do ruột của mình gia công tạo ra. Còn như bảo nó là cái của mình, tại sao nó lại không thể ở mãi trong bụng? Lại cũng không ai muốn giữ, mà phải bỏ nó ra ngoài.” Chúng ta thử suy nghĩ phân dơ từ đâu đến? Chúng ta phải cực khổ bôn ba kiếm tiền, lại cũng cực khổ mua đồ nấu ăn. Ăn xong cũng phải cực khổ tiêu hoá ra “kết quả” như vậy. Nhưng chúng ta không thể giữ lấy nó, phải bỏ ra mới được. Nếu không bài tiết ra ngoài mà giữ lại trong bụng sẽ rất nặng nề, khó chịu, vừa đau lại vừa khổ! Phải giải quyết xong thì mới dễ chịu! Tu hành như bài tiết phân dơ, buông bỏ phiền não, được thư thới. Trong quá trình tu học Phật Pháp, tôi chỉ được kể là có chút duyên với Phật mà thôi, không có tu hành bao nhiêu. Nhưng một chút kinh nghiệm này, khiến tôi cảm thấy tu hành như bài tiết phân dơ, xả bỏ những rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm, để được nhẹ nhàng, thư thới. Nếu chúng ta biết tiết kiệm sức lực và tinh thần tiêu tốn trong những vọng tưởng lăng xăng, thì thể lực của mình sẽ khá hơn rất nhiều. Còn như phân dơ trong bụng nếu không bài tiết ra ngoài, thì dùng bất cứ thuốc nào cũng không dễ chịu. Cũng vậy, rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm nếu không thực sự giải quyết được, thì niệm Phật sẽ không đắc lực, không được nhẹ nhàng, thư thới. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Tâm khéo an trú: không gì bằng, Ý thường thanh tịnh: niềm vui lớn Tâm niệm và hiệu quả điều trị của việc ăn uống. Do có nhiều người hỏi đến vấn đề ăn uống, nên nơi đây bàn qua vấn đề này. Đừng vì ăn uống mà tâm căng thẳng. Có rất nhiều người bệnh và gia quyến đã bỏ ra phần lớn thời gian và tâm trí trong việc tìm kiếm một loại thuốc đặc trị nào đó, như thuốc bí truyền, gia truyền, hay cách ăn uống có hiệu quả trị liệu đặc biệt. Thậm chí có người chưa hiểu được nguyên lý, phương pháp mà lại tuyệt thực lâu ngày. Vì bôn ba khắp nơi, lại cố ý miễn cưỡng mong cầu nên khiến tâm lý họ trở nên căng thẳng, tự gây thêm áp lực trong tâm. Vì vậy, thân tâm của họ không sao được điều hoà, nhẹ nhàng và an ổn thực sự, càng làm trở ngại cho công năng miễn dịch chính mình. Tâm cảnh khác nhau, mùi vị cũng khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra: Đồng một thức ăn, nhưng nếu ăn với những trạng thái tâm lý khác nhau, thì mùi vị cũng khác nhau, và chất dinh dưỡng hấp thu lại càng khác nhau! Chúng ta hãy tự quan sát: Cùng một đĩa thức ăn, mà khi đói và khi no chúng ta nhìn lại có cảm giác hoàn toàn khác nhau. Khi thi đậu và khi thi rớt, ăn cơm mùi vị cũng khác nhau xa. Lúc bị mắng và khi được khen, tình trạng tiêu hoá nhất định khác nhau. Đây là do vì tâm niệm sinh ra những làn sóng điện làm ảnh hưởng đến vật chất. Cho nên trạng thái tâm lý khác nhau cũng sinh ra chất men tiêu hoá cũng khác nhau. Ví dụ, khi ăn uống, đối với thức ăn mà có sự chê chán, hay tâm trạng buồn bực, lo lắng, thì nước miếng sẽ bị biến mất, giảm số lượng kháng thể và men tiêu hoá, do đó sự co bóp của dạ dày và ruột cũng không tốt. Cho nên, dù có ăn thức ăn có bổ dưỡng đến đâu cũng không hấp thu được nhiều và lợi ích bao nhiêu. Tâm vui vẻ: hiệu quả trị liệu lớn, tâm hoan hỉ biết ơn: dinh dưỡng cao. Như đã nói qua, tâm niệm vui vẻ sẽ sinh ra vật chất làm tăng sức miễn dịch. Thân tâm buông lỏng, thư thới thì máu huyết sẽ lưu thông, dưỡng khí được đầy đủ, nước miếng bao gồm kháng thể và men tiêu hoá mới dồi dào. Tâm an định và đủ lòng tin thì chất nội tiết sẽ điều hoà đúng mức bình thường, cũng như có đầy đủ chất men để giải độc hay hấp thu dinh dưỡng. Người mà ăn uống trong lòng vui vẻ, biết ơn, cảm thấy ngon miệng, thì chất nội tiết tất nhiên sẽ điều hoà, chất men cũng rất dồi dào. Vì vậy, tuy cùng ăn một thức ăn, mà người đó hấp thu dinh dưỡng và được lợi ích nhiều hơn hẳn người khác. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết, loại người này có hiệu quả trị liệu tốt nhất, chỉ cần ăn một chút gạo lức, gạo ngũ cốc, nhai kỹ khiến hoàn toàn tan vào trong nước miếng rồi nuốt từtừ, thì cũng hết được bệnh! Nguyên lý này, đức Phật đã sớm biết rõ từ gần ba ngàn năm trước, nên Ngài dạy chúng ta khi ăn cơm phải phát nguyện tốt đẹp và khéo dụng tâm. Khéo vận dụng tâm niệm cầu nguyện hạnh phúc cho chúng sinh, cho đến cầu nguyện hạnh phúc cho tế bào. Cho nên tâm niệm lúc ăn uống, như tâm biết ơn, tâm tán thán, tâm phát nguyện, tâm hoan hỉ niệm Phật…, còn quan trọng và có lợi ích hơn nhiều so với nội dung thực phẩm. Đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải cầu nguyện: Khi con đang dùng cơm Nguyện tất cả chúng sinh Hưởng thức ăn Thiền duyệt Ngập tràn tâm Pháp hỉ. Đây là đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải khéo vận dụng tâm niệm để điều hoà thân mình và tu tập công đức. Khéo dùng tâm phát nguyện tốt đẹp, cầu nguyện phước lành cho mỗi chúng sinh, mỗi tế bào đều ngập tràn niềm vui tột cùng của Thiền định (thiền duyệt), và niềm hoan hỉ đến từ chân lý (pháp hỉ); dùng tâm biết ơn và chánh niệm để thọ thực. Đối trước thức ăn, không khởi tâm tham, sân, thì tâm niệm mới không “tự tạo ra độc tố!” Độc tố này chỉ trong một niệm đã sinh ra số lượng lớn đưa vào trong huyệt dịch, còn tai hại hơn nhiều so với chất độc từ ngoài vào! Nếu ăn những thức ăn sạch sẽ, dinh dưỡng mà trong tâm buồn giận, không vui, thì bao giờ cũng còn độc tố trong mình, không khi nào bài tiết ra hết! Trị liệu bằng cách ăn uống, đừng thực hành một cách cực đoan, sai lệch, chỉ làm tăng thêm chướng ngại tâm lý. Những năm gần đây, ngày càng có nhiều người bệnh sử dụng cách ăn sống. Họ phần lớn đều mới nghe qua lời đồn đãi, truyền miệng, chưa biết rõ ràng, đã vội theo trí tưởng tượng của mình mà thực hành. Hay có người chưa hiểu thấu đáo đã tuyên truyền ý chỉ “thân, tâm, linh” phối hợp toàn bộ, liền thiên chấp một bề ăn sống, khiến bản thân phải mang thêm nhiều bệnh tật và rắc rối. Thậm chí có người, về mặt tâm lý đối với thức ăn rất lo sợ, hay đối với thức ăn đã nấu chín rất bất mãn hay bài xích. Họ ăn thức ăn gì cũng rất lo lắng, không bỏ được tâm lý “sợ”. Họ sợ cái này có độc, cái kia có hại, suốt ngày chỉ nghi ngờ, lo sợ vẩn vơ. Họ lại nghĩ không biết ăn cái này có bổ lắm không, sẽ khiến tế bào ung thư thêm lớn? Ăn cái kia có lạnh lắm không, sợ không đủ sức lực? Nói chung, họ ăn thứ gì cũng hồi hộp lo sợ, hoàn toàn đánh mất tâm biết ơn, tâm hoan hỉ và tâm tự khích lệ mà lẽ ra nên có. (Kinh Hoa Nghiêm: “Nhuợc phạn nhật thời, đương nguyện chúng sinh, thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn.” (T10, no. 279, p.71,c17-18) 14) Họ có biết đâu, chính những tâm niệm đen tối như “sợ hãi”, “nghi ngờ”, “bất mãn” đều là nguyên nhân tạo ra chất độc, làm tổn giảm năng lượng và sức đề kháng của cơ thể nhiều nhất. Ăn uống vốn là để phát huy ánh sáng sinh mệnh một cách thoả đáng, khiến chúng ta có sức để khai phát lương tri, lương năng và tu hành Phật đạo. Không ngờ chỉ sai lầm trong một niệm, lại khiến sinh mệnh tốt đẹp của mình vì ăn uống mà sợ hãi, lo lắng. Có một số người suốt ngày chỉ lo ăn mà bận rộn, nhọc nhằn, lại có một số người thà nhịn đói không ăn, song có lúc chịu không nổi nên ăn rất là nhiều. Lại có người nghe nói thứ gì tốt, liền theo trào lưu, thứ gì cũng ăn! Như có một nhóm nào đó từng cười, kể lại: Họ nghe nói có tiểu mạch rất tốt, liền không hỏi số lượng sử dụng bao nhiêu và thích hợp dùng trong điều kiện nào, liền mỗi người trong tập thể cùng uống một ly lớn (hiểu lầm uống càng nhiều càng tốt). Kết quả, “toàn quân tan rã”! Đây là cách dùng từ dí dỏm của họ, ý nói uống xong ai nấy cũng đều ói mửa, uể oải, đầu nhức, chân run đứng không muốn vững. Nên biết cách trị liệu bằng ẩm thực, cũng phải cần “biết mình biết ta”, tức biết thể chất và tình trạng bệnh của mình, cũng như biết thuốc: biết đúng cách dùng và lượng dùng. Còn như không biết mình biết người, sử dụng một cách hồ đồ, khó tránh khỏi việc lệch lạc, nên không được lợi ích. Lại nữa, cần phải hiểu rõ một cách toàn diện mối liên hện giữa “thân, tâm, linh”, mới không phụ lòng của người quảng bá việc thương yêu, bảo vệ chúng sinh. Cho nên, chúng ta quyết không được “tu mù luyện quáng”, chưa hiểu rõ toàn bộ cách phối hợp và điều kiện sử dụng thích hợp, đã vội cố chấp một bề ăn sống. Cần phải biết mình biết người, mới là việc làm sáng suốt. Ngoài ra, đối với những bạn thích tuyệt thực, tôi xin trân trọng giới thiệu một phương pháp tuyệt thực đúng đắn, an toàn và hợp lý nhất. Đức Phật chế giới Bát Quan Trai, tức trong một ngày một đêm (24 giờ), thọ tám giới và trai pháp. Trai, có nghĩa là quá giờ Ngọ không ăn, cho đến ngày hôm sau khi mặt trời mọc. Đây là tương đương với tuyệt thực 18 giờ. Điều này có ý nghĩa đạo lý rất sâu. Tạm nói về mặt y học, nó cũng là việc “nhịn ăn ngắn” rất hợp lý, có lợi ích cho mình và người. (Có chuyên đề thảo luận nguyên lý y học đối với vấn đề này) Lại nữa, do tám giới điều chỉnh nội tâm đến mức an định, từ bi, khiến tâm niệm đoan chính, thanh tịnh (không tạo ra độc tố). Chữ Trai trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là “nghiêm chỉnh, thanh tịnh”. Cho nên bát Quan Trai Giới mà đức Phật chế ra giúp thân tâm chúng ta được điều chỉnh đến mức nghiêm chỉnh, thanh tịnh và phát huy công năng tốt nhất. Tám giới là: 1. không sát sinh, 2. không trộm cướp, 3. không hành dâm, 4. không nói vọng, 5. không uống rượu, 6. không dùng hương thơm, vòng hoa trang sức, 7. không tự mình ca múa và cũng không đi xem nghe, 8. không ngồi nằm trên giường cao rộng. Nếu ai có thể phát tâm bồ đề rộng lớn, thọ trì tám giới này trong một ngày một đêm, thì công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn. Người thích nhịn ăn, có thể chọn ngày nghỉ nào mà mình thuận tiện, thọ tám trai giới này trong một ngày một đêm. Đức Phật là vị thầy của tất cả vị thầy thuốc lớn, nên pháp “không ăn quá ngọ” mà Ngài dạy chúng ta là trung đạo và hợp lý nhất. Đây là phương pháp nhịn ăn ngắn và hữu ích, khiến thân tâm của mình được thanh tịnh, hoan hỉ và an lạc. Lễ Phật để tiêu trừ tội chuớng và khai phát năng lực tiềm ẩn. Tôi còn có một chút kinh nghiệm, cũng xin giới thiệu để các bạn tham khảo. Biết đâu kinh nghiệm này có thể giúp vượt thắng được cơn bệnh, hay giúp đỡ được phần nào. Khi tôi mắc bệnh không lâu, Hoà thượng Sám Vân dạy tôi phải lạy Phật cho nhiều để tiêu trừ nghiệp chướng. Hai chữ “nghiệp chướng” nếu giải thích đơn giản có nghĩa: “Nghiệp” là hành vi; “chướng” là chướng ngại. Đây là chỉ những hành vi tích lũy trong quá khứ chúng ta đã tạo ra chướng ngại cho cả hai mặt thân thể và tâm lý. Nói hành vi trong quá khứ bao gồm những tư tưởng, lời nói, và hành động của ba nghiệp thân, miệng, ý. Sao lại nói niệm Phật và lễ Phật lại có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Vì đang lúc chúng ta lạy Phật, tâm niệm được điều chỉnh đến mức “cung kính” và “từ bi thanh tịnh”. Miệng chúng ta niệm Phật thì không còn những lời nói tạp nhạp nào khác, đạt đến “ngôn ngữ thanh tịnh”, còn động tác lạy của thân thể thì mềm mại, thành kính, khiêm cung, đều có thể tiêu trừ những hành vi không tốt đã tạo ra những áp lực và chướng ngại. Như vậy cả ba phương diện thân, miệng, ý đều trở nên thanh tịnh, cung kính, thì có thể tiêu trừ những chướng ngại do hành vi thân tâm không hợp lý của mình tạo ra trong quá khứ. Đó chính là tiêu trừ nghiệp chướng, và cũng là huấn luyện thân tâm “an định không động”. Giống như chúng ta không ngừng đổ nước hay dội nước vào ống nước, thì có thể lần lần khiến ống nước trở nên thông lưu và sạch sẽ. Thân tâm ta cũng như vậy, không ngừng tắm mình trong pháp niệm Phật, lễ Phật, thì có thể khai phát được năng lực còn tiềm ẩn, làm sống dậy và thêm sinh lực cho các bộ phận chức năng trong cơ thể. Khi sức khoẻ tôi suy yếu trầm trọng, khối u lại rất lớn, động tác lạy mọp sát người theo cách “năm vóc sát đất,” (ngũ thể đầu địa) thực là khó khăn, nhọc mệt. Nói năm vóc sát đất, là chỉ cho năm phần thân thể: đầu, hai tay và hai đầu gối khi lạy phải chạm sát đất. Lúc ban đầu vì không biết cách, nên khi cúi xuống lạy, khối u và ruột lại cấn, đè vào nhau, có cảm giác như nghẹt thở. Lúc đứng dậy thì chóng mặt như trời xoay đất chuyển. Cho nên mỗi một lạy là một cực hình. Nhưng tôi đối với Phật có lòng tin và tôn kính rất sâu xa. Tôi nghĩ: “Dù mình có lạy Phật mà chết ngay tại chỗ cũng tốt hơn là không lễ Phật, nằm chết trên giường bệnh!” Chính tâm niệm này đã nâng đỡ, giúp tôi tiếp tục lạy Phật. Mới ban đầu, phải hết sức cố gắng tôi mới lạy xong một ngày một trăm lạy. Tôi cảm thấy thân thể rất nặng nề, hơi động một chút là thở hổn hển, tối tăm mày mặt. Sau đó, một hôm, tôi biết được có một chị họ Vương, là người tu học trước tôi, mắc bệnh ung thư xương, bị cưa mất một chân, thế mà mỗi ngày chị đứng trên chiếc chân còn lại, niệm Phật và lễ Phật đến một trăm lẻ tám lạy! Ngoài ra chị còn làm rất nhiều việc nhà. Tôi nghe xong cảm thấy rất xấu hổ. Trong lòng thầm nghĩ: “Chị chỉ có một chân, khó khăn như vậy mà còn cung kính lễ Phật đủ một trăm lẻ tám lạy. Còn mình hai chân nguyên vẹn, ít ra cũng phải lễ Phật đến ba trăm lạy!” Thực ra bạn chỉ cần thử qua cũng đủ biết, đứng một chân lạy còn khó hơn đứng hai chân cả chục lần! Việc khó khăn gấp mười so với tôi mà chị còn làm được, cho nên tôi phải cố gắng hơn. Vì vậy, tôi đã phát nguyện: “Phải lạy một trăm ngàn lạy để cám ơn Phật, cảm ơn cha mẹ, thầy tổ và tất cả chúng sinh; cũng đem công đức này hồi hướng cho những ai đang lâm khổ nạn, và những ai chẳng may mắc bệnh ung thư, nguyện mọi người đều có thể lìa khổ được vui!” Tưởng rằng mệt lắm, đâu ngờ càng lạy càng nhẹ nhàng, khoan khoái. Trên đời không có ai bắt ép tôi lạy Phật. Trái lại, mọi người còn khuyên tôi không nên nhọc sức quá. Đây là vì tôi tự phát nguyện rồi thì phải làm. Cho dù có khổ thì cũng phải làm đến nơi đến chốn. Nhưng thực lạ kỳ, lạy Phật hoàn toàn không phải khổ, không phải mệt như mọi người đã nghĩ! Trái lại, dường như càng lạy Phật càng thấy khoẻ, gánh nặng như mỗi lúc mỗi nhẹ. Ban đầu lễ Phật ba trăm lạy, mỗi ngày tôi phải chia ra làm nhiều lần mới lạy xong. Sao đó không biết tại sao, càng lạy, càng thấy nhẹ nhàng, mau chóng. Tôi cũng không có ý là lạy mau cho đủ số, chẳng qua là thân thể dường như nhẹ đi rất nhiều. Tôi có cảm giác là ống nước càng được rửa sạch bao nhiêu, thì nước chảy càng thông suốt bấy nhiêu, không giống ống nước lúc mới đầu bị bùn cát bên trong cản trở, nên nước chảy không thông. Có một hôm, trong trạng thái quên bẵng thời gian, không ngờ mình lạy liền một mạch đến ba trăm lạy! Thêm nữa, không mệt cũng không thở hổn hển, giống như mình chỉ mới lạy cái lạy đầu tiên. Tạp niệm càng ít, thân tâm càng nhẹ. Trước đây rất lâu, tôi nghe nói có một vị Pháp sư mỗi ngày vào buổi sáng đếu lạy ba ngàn lạy. Lúc đó tôi không tin. Làm sao mà trong khoảng thời gian ngắn lại có thể lạy hết ba ngàn lạy? Bởi vì tôi lạy vừa chậm vừa nặng nề, có cố lạy nhanh như thế nào cũng không thể lạy hết ba ngàn lạy. Lúc đó cũng có người vì không tin như tôi, nên đã cùng tôi đi đến đó xem vị Pháp sư này lạy Phật và đếm thử xem. Quả nhiên, trông Pháp sư lạy Phật không có gì vội vã, rất thong dong tự tại. Người xem chỉ có cảm giác như động tác của vị đó nhẹ nhàng, trôi chảy, như không có trọng lượng. Mọi người đếm số quả đúng là ba ngàn, không sót một lạy! Sau đó tôi mới tin: Khi vọng niệm của con người càng ít, thì gánh nặng của thân thể càng giảm, càng cảm thấy nhẹ nhàng, động tác càng không có chướng ngại, nên mới có thể lạy nhanh như vậy. Trong nhà Phật, những vị Pháp sư âm thầm dụng công như vậy rất nhiều. Tính ra, tôi chỉ là một người rất biếng nhác mà thôi. Lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu. Trước đây tôi nghe sư phụ Sám Vân dạy: “Lạy Phật là vận động tốt nhất, còn tốt hơn khí công và thái cực quyền.” Lúc đó tôi còn chưa thể lãnh hội được. Về sau, trong khi lạy Phật tôi phát hiện ra rất nhiều lợi ích, cho đến mối quan hệ tương ứng giữa nguyên lý lễ Phật và y học, chừng đó mới lần lần hiểu được lời của sư phụ. Lạy Phật là môn vận động giúp thân, miệng, ý chúng ta thanh tịnh; có thể giúp tâm chúng ta có thể khế hợp với tâm Phật và đương nhiên cũng có thể trị bệnh. Về mối quan hệ giữa lạy Phật và y học, chúng tôi sẽ có một chuyên đề riêng để bàn luận sâu hơn. Ở đây chỉ xin nói lược qua đôi điều. Lạy Phật có hiệu quả điều chỉnh xương sống, cường hoá nội tạng, làm tăng thêm tế bào mang dưỡng khí. Con người hiện này bị rất nhiều áp lực, tinh thần căng thẳng, cơ bắp toàn thân cũng tự nhiên căng cứng theo. Lại thêm vì thiếu vận động, cột xương sống trở nên cứng nhắc, rất khó uốn cong. Đứng về mặt y học mà nói, kẻ hở giữa những đốt xương trên cột sống là chỗ thần kinh và mạch máu đi qua. Thần kinh nơi tủy sống phụ trách quản lý các cơ quan nội tạng. Nếu khoảng cách giữa những đốt xương quá sát thì sẽ chèn ép dây thần kinh và mạch máu. Cho nên, nếu thần kinh và mạch máu ở đốt xương sống nào đó bị chèn ép thì đốt xương đó có vấn đề. Những chức năng của cơ quan nội tạng nào được sự giúp đỡ của dây thần kinh và mạch máu đó sẽ từ từ hư hoại. Bởi vì tư thế không đúng, cơ bắp căng cứng khiến xương cột sống đè lên nhau quá sát, máu chảy không thông, thần kinh bị ảnh hưởng, nên không thể đưa chất dinh dưỡng và dưỡng khí đến cung cấp cho những tế bào trong cơ quan nội tạng. Tế bào nếu thiếu dưỡng khí dễ dàng trở thành tế bào ung thư. Cho nên, điều này có liên quan rất lớn đến bệnh ung thư, Vì vậy chúng ta lúc bình thường, điều chỉnh các tư thế và động tác đi đứng nằm ngồi phối hợp với hơi thở, sẽ có ảnh hưởng tốt đối với tình trạng bệnh tật. ]Động tác lạy Phật đúng đắn giúp tiêu trừ những chướng ngại về mặt sinh lý và tâm lý. Động tác lạy Phật nếu đúng đắn có thể giúp ích cho việc trị liệu. Vì lúc lạy Phật phải cúi đầu xuống một cách dịu dàng, đến mức cằm đụng sát ngực, động tác này có thể giúp cột xương cổ gồm bảy đốt kéo giãn ra, đem lại những lợi ích sau đây: 1. Lượng máu dồn về bộ não đầy đủ Chỉ có hai đường huyết quản dẫn máu lên não bộ. Đường thứ nhất là động mạch cổ, đường thứ hai là động mạch xương sống. Động tác này khiến động mạch xương sống không bị đè ép, lượng máu và dưỡng khí cung cấp cho bộ não sẽ thông suốt và nhiều hơn, do đó giúp nâng cao công năng bộ não. 2. Dịch tủy xương sống và não (cerebrospinal fluid)lưu thông: Dịch tủy xương sống và não là lớp chất dịch tuần hoàn ở vòng ngoài tủy sống và bộ não, cũng như bên trong não thất. Nó có những công năng như sau: 1. Điều tiết sức ép của não. 2. Bảo vệ não. 3. Cung cấp chất dinh dưỡng. 4. Chuyển đưa các chất thải. Nếu tư thế của đầu, cổ không đúng, góc độ không ngay, sự lưu thông của chất dịch này bị cản trở, thì lớp tủy sống và não như bị ngâm trong nước ứ đọng không tươi mới, sức ép não cũng bất bình thường, dễ bị chứng nhức đầu, choáng váng. Động tác lạy Phật có thể giúp cho chất dịch của tủy sống và bộ não lưu thông, giúp tăng cường công năng bộ não, có thể chỉ huy tế bào toàn thân một cách thoả đáng. 3. Giúp hệ thần kinh ở xương cổ không bị ép, phát huy được công năng: Thần kinh ở những đốt xương cổ có liên quan mật thiết với những chức năng của mắt, tim, huyết áp, khí quản và nước miếng. Thần kinh của cánh tay cũng đến từ xương cổ. Nếu hệ thần kinh trong xương cổ bị chèn ép, sẽ sinh ra các chứng như đau nhức, tê bại. Nếu thường lạy Phật, cúi đầu nhè nhẹ, kéo giãn các đốt xương cổ, thì có thể trị liệu những chứng bệnh ở các bộ vị nói trên. Lạy Phật: Điều chỉnh xương sống, trị dứt bệnh nhức lưng, đau hông. Lúc cúi mình, lạy xuống (cúi đầu, khom lưng, co gối), phải lấy gót chân làm điểm tựa. Lấy gót chân làm điểm tựa là nguyên lý trọng tâm vật lý tự nhiên. Vì như vậy cơ bắp mới không căng cứng, tốn sức. Phần bụng và ngực phải cố gắng đưa về phía sau, đến có thể thấy được gót chân sau, mới cúi lưng xuống. Tốt nhất cúi đến mức phần bụng dưới cũng có thể sát với đùi. Động tác này có thể kéo giãn làm buông lỏng bắp thịt ở hai bên xương sống, khiến kẻ hở giữa các đốt xương sống có thể kéo giãn ra. Làm như vậy sẽ có tác dụng cải thiện rất lớn đối với nội tạng, hệ thần kinh và sự lưu thông máu huyết. Toàn bộ động tác lạy, cũng như động tác quỳ xuống, thân tuy động và trọng tâm giữ không động. Đó gọi là nhất tâm, là định trong động. Lại nữa, trong khi lạy Phật mắt đừng nhắm lại, nên thu nhiếp nhãn thần, quán chiếu lại mình. Nếu nhắm mắt thì tư thế không vững, công năng điều tiết huyết áp cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, làn sóng não lúc mở mắt và nhắm mắt khác nhau. Chúng ta lễ Phật và khai thác công năng của tánh giác, Khai phát công năng, điều hành thống nhất cao cấp của não bộ, mà không phải sùng bái một cách mù quáng. Lúc lạy Phật hai tay chắp lại, nhưng trước khi quỳ xuống thì hai tay buông nhẹ ra hai bên, chống xuống đất, sau đó đầu gối mới quỳ xuống. Sau khi quỳ xuống, lòng bàn chân hướng lên, thân người ngồi giữa mé trong của hai gót chân. Động tác này giúp kéo giãn khớp xương cổ chân, đồng thời cũng kích thích làm hoạt hoá điểm phản xạ của tuyến lymph, sau đó thân trên cúi xuống, mặt úp ngay sát đất. Điều nên chú ý là mắt phải mở. Động tác này có thể điều chỉnh lại cột sống của chúng ta. Con người vì muốn giữ tư thế đứng thẳng đã phải trả giá bằng sự đau lưng nhức hông. Nói chung khi người ta đứng, phần eo tương đối chịu lực, nên cột sống phần eo thường cong lại về phía bụng. Như vậy sẽ khiến các đốt xương ở cột sống phần eo ép chặt lại, tạo nên sức ép chướng ngại. Như vậy nó sẽ làm ảnh hưởng đến công năng của các cơ quan nội tạng như gan, dạ dày, lá lách, ruột già, ruột non, thận, bàng quang v.v…Lạy Phật có thể trị được những chướng ngại này. Đây cũng gọi là tiêu trừ nghiệp chướng. Vì lạy Phật sửa cột sống phần eo cong vào khiến cho nó thẳng lại, bằng cách đưa nó ra về hướng lưng. Đây cũng chính là cách đẩy ra phần cột sống bị ép quá chặt, khiến nó được giãn ra, không còn bị ép. Lạy Phật làm tăng lượng thở buồng phổi, mở rộng lòng độ lượng và khai phát sức tự giác. Lạy Phật khi quỳ xuống đầu sắp chạm đất, đồng thời hai tay duỗi ra trước một cách nhẹ nhàng, mềm mại để chuẩn bị tiếp xúc chân Phật. Tay đưa ra cách đỉnh đầu khoảng một nắm tay, đồng thời hai bên nách cũng cố mở rộng ra. Ý của nó là mở rộng tâm lượng của chúng ta, cũng là làm tăng lượng thở của buồng phổi. Sau khi đưa tay quá đầu, thì lật bàn tay lại khiến lòng bàn tay ngửa lên. Động tác này biểu thị: Tôi nhất định phải chuyển hoá cảnh giới tâm linh của mình, để tiếp nhận ánh sáng của Phật. Cũng có nghĩa: Tôi phải đem hết lòng mình ra để cúng dường cho Phật, không một chút lưu giữ. Lúc đó phải quán chiếu đầu ngón tay của chúng ta giống như cánh hoa sen mềm mại, không cần phải dùng sức. Dùng đôi bàn tay hoa sen này để đỡ chân Phật nhắc nhở chúng ta rằng: Hoa sen nở ra không phải nhờ sức mạnh bên ngoài, mà nhờ vào sức tự giác bên trong. Hoa lòng chúng ta rộ nở cũng giống như vậy. Lúc đó chúng ta phải quán tưởng đức Phật đại từ đại bi đứng trên đôi tay hoa sen của mình để tiếp nhận sự đảnh lễ. Chúng ta có thể đối diện cùng Phật, điều này thật là hạnh phúc biết bao! Lúc đó tự nhiên từ đáy lòng chúng ta sẽ mỉm cười. Chúng ta lại quán tưởng đức Phật phóng luồng ánh sáng thanh tịnh, từ bi chiếu vào đầu mình, khiến toàn thân trở nên thanh tịnh, sáng suốt. Tất cả bệnh đau đều quét sạch, như bóng tối gặp phải ánh sáng. Chúng ta lại quán tưởng tất cả chúng sinh đều lạy Phật chung với chúng ta, cùng tắm mình trong ánh sáng Phật. Lạy Phật giúp hô hấp triệt để, hoành cách mô co giãn mạnh, dẫn đến thở ở đan điền. Thở ra hết hơi dơ cặn bã, hít vào toàn hơi Phật thanh tịnh. Mọi người chúng ta ai cũng hít thở mãi. Nhưng thực ra ít ai biết phải hít thở như thế nào. Rất ít người biết thở một cách hoàn chỉnh và triệt để. Vì sao? Bạn thử quan sát xem, người ta chỉ cần ở trong trạng thái bận rộn, hay là tâm đang chú ý đến sự việc bên ngoài, thì hơi thở sẽ bị ảnh hưởng. Nó trở nên rất cạn, rất ngắn, thậm chí có lúc còn tạm thời dừng lại. Nhất là lúc trong lòng buồn bực, hay nổi giận, thì cách thở này không thể đem những khí dơ trong cơ thể ra ngoài, đổi lấy không khí tươi mới. Nếu như vậy lâu ngày chày tháng sẽ tích luỹ thành uế khí bên trong khiến cơ thể thiếu dưỡng khí. Chúng ta biết tế bào nếu thiếu dưỡng khí thì dễ biến thành tế bào ung thư. Chúng ta lễ Phật có thể điều chỉnh hơi thở, khiến hít vào thở ra triệt để hoàn toàn. Vì vậy, lễ Phật cũng là loại khí công rất tốt. Khi chúng ta cúi xuống lễ Phật, động tác này giúp chúng ta thở ra một cách triệt để, những chất khí dơ trong toàn thân và vùng phổi đều được xả bỏ sạch sẽ. Lúc năm vóc mọp sát đất, vì bắp thịt toàn thân buông lỏng, không bị sức cản, nên tự nhiên sẽ hít vào một cách rất sâu, rất đầy đủ. Theo nguyên lý động lực học của huyết dịch, thì hít hơi thở vào sâu có tác dụng hấp dẫn dòng máu chảy thuận lợi trở về tim rồi bơm đi khắp nơi. Do đó trong khi lạy Phật, từng tế bào trong thân chúng ta sẽ nhận được dưỡng khí và dinh dưỡng rất phong phú, cho đến cảm nhận được không khí hoan hỉ, hạnh phúc của thế giới Cực Lạc. Lúc lạy xong chuẩn bị đứng dậy, cần phải mượn sức hít thở vào để đứng lên, thì sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, đỡ nhọc mệt. (còn nữa)
  6. (Tiếp theo) 28. CON KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT Trên đây đã nói kỳ tích của cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sanh, có thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đãi, thì có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất còn cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Huynh A Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm, chưa chắc có thể vãng sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng. Nói đến hai chị em cô Chơn và cô Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người, ngay đối với loài động vật không chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cô hồn, đều có thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện để làm chứng minh. Vào một ngày hôm trước tiết Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nhìn thấy một đám người đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi ngon đây!”, những người bên ngoài nhìn xem nhiều người nói “tội nghiệp”. Lòng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nhìn vào chỉ thấy ở trong lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đã bị chế nước sôi lên trên mình, tự nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua. Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hãi sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu người giải cứu. Cô Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không còn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh thì khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày lìa khổ được vui, mày phải ngoan ngoãn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”. Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được, không chạy thì nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không? Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có buông, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần. Có một hôm ba mẹ con (cô Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh tiếng mõ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có khách từ xa lại, cho nên đánh mõ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do vì mày ngồi trên bàn Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ mãi đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem thì thấy Ngộ Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt bày tỏ cái dáng bộ rất bất mãn, ý muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng không được? Cô Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi. Chúng sanh từ vô lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng. Lại có một lần Ngộ Không nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên, sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nhìn thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, không trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không biết như thế nào mới tốt (?) Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đã trồng sâu căn lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, còn biết kêu sư phụ, lại ăn chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ gì, suốt ngày chỉ kêu khóc không nghỉ. Cô Chơn đã rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô Không đã thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đã quen rồi, liền nhín chút thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nhìn thấy chủ nhơn, liền nắm chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nhìn thấy Ngộ Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ lòng để Ngộ Không tiếp tục ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết phân biệt ai là trụ trì, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ trì, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, còn các thầy khác thì nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không còn nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!… 29. CON CHÓ ĐẦY ĐỦ CĂN LÀNH, THEO CHỦ NGHE PHÁP Lại nói về lúc cư sĩ A Minh còn sống, đã có nuôi một con chó dữ, cư sĩ cũng đã quy y Tam Bảo cho nó. Đây là một con vật rất trung thành với chủ, đã có trồng căn lành. Lúc huynh A Minh ở trên núi dưỡng bệnh (nhà cô Chơn, cô Phụng truyện 27), con chó này mỗi ngày phải đi lại bốn lần từ trên núi xuống Bắc Cấu một đoạn đường dài. Mỗi ngày vào buổi sáng cô Chơn dùng khăn tay bao lại cái đơn thuốc của A Minh đưa cho con chó ngậm lấy đi đến tiệm thuốc bắc ở Bắc Cấu hốt thuốc. Trước đó đương nhiên cô Chơn phải có thỏa ước với chủ tiệm thuốc phải ghi nợ, và việc con chó sẽ đến lấy thuốc, cho nên chủ tiệm coi đơn hốt thuốc xong vẫn cứ dùng khăn tay đó bao gói thuốc lại, đưa cho con chó ngậm quay trở về. Trên đường nhất định phải đi qua một khe nước lớn, có lúc nước trong suối vừa lớn vừa chảy mạnh, con chó do vì miệng ngậm gói thuốc, sợ thuốc bị ướt, nó ngẩng đầu cao lên trời lội qua, về nhà để gói thuốc xuống, chủ nhơn xem, quả nhiên không có ướt một chút nào hết. Trưa mỗi ngày huynh A Minh đều phải tắm và thay đồ. Đồ dơ thay ra cô Chơn vẫn dùng cái khăn gói lại, dặn dò con chó ngậm chạy về nhà ở Bắc Cấu đưa cho vợ của huynh A Minh, vợ huynh A Minh sau khi giặt sạch đồ xong, gói lại như cũ đưa cho con chó ngậm quay về trên núi, nhưng buổi trưa lúc quay về con chó nhất định phải tắm một lần trong dòng suối trong mát, con chó thông minh tha bao đồ lựa một hòn đá sạch và không ướt để xuống, rồi tự mình nhảy xuống nước tắm, tắm xong lại ngậm bao đồ về trên núi. Trong mấy tháng huynh A Minh dưỡng bệnh, ngày nào cũng như thế, đi, về bốn lần, so với mướn người giúp việc còn tiện lợi và biết nghe lời hơn. Con chó dữ này cũng có căn lành rất lớn, ưa thích nghe Phật pháp. Lúc đó, cô Chơn mỗi tối chủ nhựt đều đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, con chó dữ này thường đi theo cô, nó ngồi một góc trong đại điện, chỗ gần với vị giảng sư, bộ dạng của nó còn thành khẩn hơn con người, ánh mắt long lanh, yên lặng nghe pháp, không có loạn động một chút nào hết; mỗi lần nghe kinh xong đều không cho cô Chơn nói chuyện với người nào hết, cứ nhảy lên muốn đi ra. Ra khỏi cửa lớn liền phóng chạy nhanh đến nơi cách điện Phật rất xa, nó mới đi tiểu, đi tiểu xong thì không có chạy nữa, đi chậm chậm theo chủ. Có thể thấy con chó này cũng biết nơi điện Phật trang nghiêm thanh tịnh, không dám mặc ý tiểu bậy, làm ô uế đạo tràng, thật là ít có, khó được. Đáng tiếc đời người vô thường, sau khi huynh A Minh vãng sanh, con chó dữ vừa thông minh vừa đầy đủ căn lành này cũng đau buồn không thể tả, thật đúng như tục ngữ nói “như chó nhà đám tang” suốt ngày gục đầu tiu nghỉu, mất đi vẻ lanh lợi thường ngày. Đợi đám tang chôn cất xong, con chó đáng thương này đi đâu mất không biết. Hai chuyện trên đây là sự thật của động vật bốn chân, nhờ duyên của Phật mà hun đúc nên. 30. KHÓA TỤNG SỚM TỐI, RẮN ĐẾN NGHE Có một lần cô Chơn đi ra ngoài có công việc, trên đường trở về nhà nhìn thấy một người bắt rắn, vai mang hai túi vải, ở trong đựng hai con rắn. Cô Chơn vừa thấy liền hỏi anh ta bắt ở đâu, anh bắt rắn đó mới trả lời với cô Chơn, thì ra là bắt được gần bên nhà cô Chơn. Cô Chơn nói “Hai con rắn này là của tôi nuôi, anh phải trả cho tôi”. Người bắt rắn đó làm sao chịu trả, anh ta nói: “Lạ chưa! Tôi bắt rắn đã mấy chục năm, từ nào tới giờ chưa nghe người nào trên núi nuôi rắn, cô nuôi rắn làm cái gì?”. Cô Chơn nói với anh ta: “Chúng tôi sáng tối lên khóa lễ tụng kinh, hai con rắn này đều đến nghe, nếu có cơm thì cho nó ăn cơm, như thế đã mấy năm rồi, thôi bây giờ tôi đưa cho anh 30 đồng, mau thả nó ra đi”, anh chàng bắt rắn vẫn không chịu, nói: “Không được! không được, 30 đồng dùng được cái gì? Da hai con rắn đáng bao nhiêu rồi, hai cái gan của nó cũng được mấy chục đồng, thịt rắn lại là món người ta tranh nhau mua!”. Cô Chơn lúc đó nói to tiếng rằng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, thật đáng thương thay!”. Nào ngờ ngay lúc đó, hai con rắn kia đang ở trong túi vải nghe được tiếng niệm Phật của cô Chơn, ở trong túi vải quẩy động mãi không thôi, dùng hết sức công phá muốn chun ra, anh chàng bắt rắn kia cũng không còn cách nào tiếp tục mang nó đi!… liền nhận 30 đồng của cô Chơn và hỏi muốn thả ở đâu? Cô Chơn bảo anh ta thả ngay đây được rồi. Anh ta mở túi ra, hai con rắn đó vui mừng bò về hướng núi. Tất cả loài động vật vốn dĩ không có loài nào không tham sống sợ chết, hai con rắn kia sau khi trải qua lần sợ hãi này, ban ngày hết dám bò ra nữa. Sự thật chính là chứng minh: rắn, người ta rất sợ mà cũng biết thích nghe người ta tụng niệm nhờ đó mà được cứu, khỏi tai nạn chết thảm bị người ta lột da rút gân, máu rơi thịt nát! 31. CÔ HỒN CÓ TÁNH LINH THEO NGƯỜI NGHE KINH Lại nói một chuyện về cô Chơn. Cô Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói “Tâm chánh không sợ tà”.Vào hạ tuần tháng 8 bảy năm trước, một buổi tối cô Chơn chạy chiếc xe đạp muốn đến Vụ Phong nghe kinh. Nửa đường đang chạy thì thấy xa xa có một người to lớn mặc đồ đen, chặn ngay giữa đường không đi. Cô Chơn cũng không sợ, cứ nhắm nó mà đi thẳng tới, lúc đến gần lại biến mất không thấy nữa. Cô Chơn mặc dù lúc đó không sợ, nhưng lông tóc dựng đứng lên hết, trong khoảnh khắc chiếc xe đạp phát ra tiếng nổ lớn rồi nằm im. Cô Chơn nhảy xuống xe, quan sát xem cái xe không có hư gì cả, liền mở miệng mắng rằng: “Ngươi là loại người gì? Ta với ngươi không oán không cừu, ta bây giờ phải đi Vụ Phong nghe kinh, thời gian 7 giờ 30 sắp đến rồi, bản thân nhà ngươi ngu si không biết học Phật, lại còn ở đây quấy phá người ta, tội lỗi rất lớn, muôn năm không được siêu sanh! Hiện nay ở Vụ Phong Bố giáo sở, Khán Trị sư tỷ đang giảng Kinh Địa Tạng, nhà ngươi ngoan ngoãn đi theo ta nghe kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được vui”. Cô Chơn sau khi nói xong mấy câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe tự nó chạy được, cũng không dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến rồi… Cô Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường liền nói: “Này cô hồn, đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện lại nói: “Này cô hồn, bây giờ bắt đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe kinh”. Cô Chơn bảo với tôi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ đó, không còn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi). Mấy chuyện ở trên đây đều là chính miệng cô Chơn nói với tôi. Bút giả viết đến đây thật là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu trong giới nữ, tinh thần quả là vĩ đại, trí dũng gồm đủ. 32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP DẪN NGƯỜI MẤT Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, ông ta từng là chồng của sư tỷ Hạc, làm tài xế ở cục công lộ. Sư tỷ Hạc từ sau năm 48 biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai nạn, nhiều nghịch cảnh có thể gặp dữ hóa lành, thường hay khuyên chồng niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Ông Lý Thanh Nguyên mặc dù nghe thoáng qua không được hiểu lắm, nhưng có một lần lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài Trung, tại một cái cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào cũng không tìm ra được hư cái gì, những khách ngồi trên xe lăng xăng xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại đi. Chị quản lý xe cũng phải đi thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông Lý Thanh Nguyên , ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối lại không có người ta, một màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ lại việc A Hạc vợ ông ta dạy ông ta niệm Phật, tức thời to tiếng niệm lên: “ Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an nhiên vô sự. Câu chuyện nhờ một câu Thánh hiệu mà được sự cảm ứng không thể nghĩ bàn này là lúc bút giả đến nhà Lý tiên sinh, chính miệng Lý tiên sinh nói với tôi. Lúc đó sư tỷ Hạc cũng nói chen vào: “Còn có một lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ niệm Phật mà thoát được nguy nàn”. Nhưng mạng người vô thường! Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng mắc phải chứng cao huyết áp, bảy năm trước vào đầu tuần tháng tư, do bởi huyết áp quá cao nằm triền miên trong nhà hơn năm, thuốc thang không thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, một hôm mệnh sắp lâm chung, sư tỷ Hạc đến bố giáo sở mời mấy vị liên hữu trợ niệm cho ông. Các vị liên hữu từ sáng sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ, ước định ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú và vợ ông cùng với con trai con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại thành khẩn, cùng với sư tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là “nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà của sư tỷ Hạc tọa ở hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con đường lớn của đường Trung Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi người… đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng niệm Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu Trương Th ẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm, niệm mãi đến hơn 11 giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi người xúm lại xem tướng lành của người mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn sống nữa, thử thăm dò đỉnh đầu vẫn còn ấm, thân thể mềm như bông, các vị liên hữu buổi sáng trở lại trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật. Phàm việc gì đều có nhân duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta, vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như thế, cũng không phải không có nhân duyên. Cư sĩ Lý Thanh Nguyên khi còn sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những người đến trạm xe không kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho đám học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc chú vãng sanh Tây phương mới thôi”. Nếu như không có sư tỷ A Tú trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một thanh niên quân nhân trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam tử này cũng là một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn, anh ta vốn đứng gác ca gác nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên nghe một lớp tiếng niệm A Di Đà Phật. Trong hai giờ đứng gác, câu Thánh hiệu thanh tịnh vạn đức trang nghiêm thâm nhập vào trong ruộng thức thứ tám của vị thanh niên quân nhân kia, trong miệng tự nhiên cũng theo đó niệm “A Di Đà Phật” không ngớt, vị thiện nam tử này muốn xem thử là người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ Phong, chỉ thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tôi giới thiệu gặp mặt với anh ta, do vì anh ta giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ được Phật thương xót phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, tặng cho anh ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh ta được điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tôi quên hỏi chỗ ở và tên họ của anh ta!
  7. Những chuyện Niệm Phật cảm ứng (Tiếp theo) 22. BỤNG ĐAU KHÓ CHỊU, BÀ NGOẠI DỰA VÀO “Có bạn từ xa đến, không phải cũng là điều vui vẻ sao?”. Câu nói này đích thật rất đúng. Mồng 5 tháng này, cư sĩ Trần Phi Lâm đột nhiên đến liên xã ở Đài Trung, phước tướng trang nghiêm hơn trước, khiến tôi mới gặp nhận không ra, tôi còn hỏi anh ta tên họ là gì? Anh ta nói “Trần Phi Lâm”, tôi liền vui mừng ra mặt nói với anh ta: “Tháng trước tôi viết chuyện cảm ứng độc đáo của quý phu nhân (vợ anh) và cháu gái của anh trên tờ nguyệt san Cây Bồ Đề, nhưng quên mất tên của hai người, thật là có lỗi quá!”. Cư sĩ Phi Lâm liền nói: “Đứa cháu tôi tên là Trần Khánh Huy, nhà tôi (vợ tôi) họ Đường tên là Cảnh Hòa, tôi lần này đã được nghỉ hưu ở hãng đường, hãng thưởng cho tôi một chuyến du lịch miền Tây, hôm nay nhân tiện đến thăm bà”. Bấm tay tính ra đã tám năm, có lẽ là do đồng đạo đồng chí, chỉ chuyên nói chuyện về đạo, anh ta từ khi may mắn gặp được Phật pháp không thể nghĩ bàn, lại được nhiều việc cảm ứng không thể nghĩ bàn, anh ta lại nói ra mấy việc cảm ứng nữa, nay kể ra một trong mấy chuyện ấy để độc giả thưởng thức. Cư sĩ Trần Phi Lâm nguyên quán là người Khê Hồ ở Chương Hóa. Vào thời Nhật chiếm cứ, sớm đã vượt trùng dương, đi đến địa phương sông Tùng Hoa, nước Cáp Nhĩ Tân ở Đông Bắc, làm việc ở cục Bưu Chính, vào năm hai mươi tám tuổi kết hôn với người con gái ở vùng đó tên là Đường Cảnh Hòa, năm sau sanh ra đứa con gái đặt tên là Nguyệt Hương, bà ngoại và cả nhà rất là thương yêu. Nguyệt Hương có thể nói là một đứa con may mắn, vừa mới sanh, đúng vào lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được thu hồi trở lại, trả về cho bờ cõi của tổ quốc, cư sĩ Phi Lâm liền dắt vợ con trở về cố hương, làm việc ở hãng đường. Vào hồi năm năm trước đây, có một hôm bà Trần bỗng nhiên đau bụng dữ dội, Trần cư sĩ nói: từ hồi kết hôn đến nay chưa từng thấy qua cô ta đau đớn như thế, liền mời về mấy vị Đông y Tây y chích thuốc, bổ thuốc, dùng các cách trị liệu đều không thấy hiệu quả! Lúc cả nhà đang bó tay, bà Trần bỗng nhiên từ trên giường bệnh bò dậy dường như chẳng có bệnh gì hết, ngồi trên ghế dựa nói chuyện, bà ta dùng quốc ngữ khẩu âm miền Đông Bắc nói: “Mau mau đi kêu cháu Nguyệt Hương lại đây, tao muốn thăm nó, do vì cách nhau đã mười tám năm rồi, tao rất nhớ nó, mau mau đi kêu nó đi!”. Lúc đó Nguyệt Hương đã lấy chồng, cũng may là ở gần, vừa kêu liền đến, đi đến trước mặt mẹ liền kêu: “Má à! Má kêu con lại có việc gì vậy?”. Mẹ của Nguyệt Hương liền nói: “Tao không phải là má mày, tao là bà ngoại mày, mười tám năm không gặp mày rồi, nên rất muốn xem mày ra sao”. Nguyệt Hương liền hỏi: “Bà ngoại, bà ăn cơm rồi chưa?”. “Tao ăn rồi”. Nguyệt Hương hỏi tiếp: “Bà ngoại! Con cúng cho bà ngoại một bài vị được không?”. Bà Trần lại đáp: “Không cần! Không cần!”. Cư sĩ Trần Phi Lâm thấy tình trạng đó, biết là mẹ vợ dựa, liền dùng Phật pháp khai thị cho bà rằng: “Má à! Má đã đọa lạc vào quỷ đạo, chắc chắn phải là khổ sở lắm, má nhất định phải niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, mới có thể lìa khổ được vui, con chỉ cho má niệm, má phải niệm theo con. Bèn chắp tay lại niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” Trần cư sĩ nói, anh ta lúc đó chắp tay dùng tâm chí thành niệm, niệm chưa được hai mươi câu vạn đức hồng danh Thánh hiệu A Di Đà Phật, bà Trần bèn tỉnh táo trở lại, sức khỏe cũng được an nhiên, vẫn dùng tiếng Đài Loan như trước giờ, nói chuyện hỏi mọi người: “Mấy người đông như thế này xúm lại đây làm cái gì vậy?”. Trần cư sĩ liền hỏi bà ta: “Vừa rồi má của em đến nói cái gì em có biết không?”. Bà Trần nói không biết một chút gì hết. Trần cư sĩ hỏi tiếp: “Em vừa rồi bụng đau dữ dội như thế, bây giờ thế nào rồi?”. Bà Trần nói: “Em đâu có đau bụng đâu!”. Nghe nói từ ngày hôm đó đến giờ bà Trần và cả nhà đều bình an vô sự, hưởng được sự an lạc tự nhiên của một gia đình Phật tử thuần thành. 23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT, NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN Có một tín đồ của cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng quê Vạn Đẩu Lục Tử. Có một hôm bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tôi: “Bà thật là công đức vô lượng, tôi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập ngũ đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra ngục, mang về tượng Phật Tây phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, đối đãi với bố mẹ chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho mọi người nghe. Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin sâu thành khẩn như thế?”. Cô ta nói là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ nhật đều đến giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói: “Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tôi nói: “Đây là căn lành của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì”. Những lời trên đây là bà Đoạn Tỷ nói với tôi trong mùa Hạ tháng 6 năm Dân quốc thứ 48. Đến sau khi nạn lụt bát thất (mùng 7 tháng 8), bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong nghe kinh, lại một lần nữa nói với tôi: “Sư tỷ! Những việc tôi đã nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô ta niệm Phật, trong lần nạn lụt bát thất này, được sự cảm ứng rất lớn”. Nguyên là nhà cô ta ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy trăm con vịt mái làm phương kế sinh sống, con dâu của bà ta từ sau khi ra ngục, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo. Suốt ngày bận rộn, đến cái hôm lụt bát thất đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang lên trên nóc nhà, cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút, người và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà xuống. Bà Đoạn Tỷ lại nói tiếp: “Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không?”. Tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng không thể nghĩ lường! Khi đến ngày chủ nhật, tôi lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử nghĩ xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn. 24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VÔ SỰ Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ người có tâm, cô Hoàng M ẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do vì cô mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại. Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám lau bên đường, bốn bánh xe chổng lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”. Trong hoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô gái trẻ, tay dắùt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ không ra ba người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một chút nào hết, họ đổi xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô Hoàng liền về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày tỏ chút lòng thành kính”. Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tôi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó. 25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE, MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA Một niệm chân thành, nhờ Phật gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung Sơn ở Vụ Phong, đêm khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe trên đường từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời xem chuyện dưới đây: Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung, ngày này, ngoài những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở ngoại ô hoặc ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người đều mang cái tâm lý và tục lệ “không say không về”; đương nhiên anh Trần Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba bánh của mình chở người vợ yêu của mình tên là Ái (lúc đó đang mang thai được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến Đài Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm trăng thanh gió mát đạp xe từ từ về nhà. Lúc gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo Hồ ban đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc không tốt, mình nên nhanh chóng niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở trong tâm một mạch niệm thầm mãi “ Nam mô A Di Đà Phật”. Xe đến trên cầu, bỗng nhiên không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến mấy trượng! Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cô Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn, chiếc xe ba bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách ngay ngắn, chồng vợ con cái bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như trước, chẳng những không có bị trọng thương mà ngay cả da cũng không có trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía mà thôi, sau đó còn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà đã hơn 2 giờ rồi. Qua ngày sau, anh Trần lo đứa con trong bụng của cô Ái vợ anh không biết có sao không, nên kêu cô ta đi đến khoa phụ sản khám, nhưng cô Ái nói “Em thấy không có chút gì khác lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng xăng lại hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta nói: “Tôi đến trên cầu thì rất cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau làm như có người bẻ quẹo xe tôi đẩy xuống đáy khe. Lúc đó tôi cũng cố gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại không có cách, may nhờ vợ tôi cố gắng niệm Phật, nếu không thì làm gì có được dễ dàng như thế, có thể bình an vô sự được?”. Lúc cô Ái bồng đứa con trai mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong lễ Phật thì cô Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tôi (Khán Trị), nói ra sự thật cảm ứng cảm động lòng người này. Lợi ích của niệm Phật, chẳng những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín tâm kiên cố, niệm Phật không có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, không gì so sánh đặng. Tôi lúc đó chúc phúc cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều hơn nữa. 26. NHÀNH DƯƠNG RẢI VÀO THÂN, CÁI ĐAU Ở NGỰC LIỀN TIÊU “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là việc xảy ra trong tháng 5 năm Dân quốc thứ 49. Cô Trần A Quyên ở số 4 hẻm Tân Lịch thôn Tứ Đức ở Vụ Phong, năm ba mươi tám tuổi vào tháng 5, bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn khắp người đau nhừ hết, đau đến nói không nổi. Nhứt là điều khiến cho cô lo rầu hơn hết là: Nhà kế bên có cô gái năm kia cũng mắc phải chứng bệnh quái ác “nhũ cao” (sưng vú) này mà đến nỗi phải chết, nghe nói chứng bệnh này còn ghê gớm hơn cả chứng ung thư vú nữa. Nhìn thấy một bầy con cái trước mắt, nếu như không khỏi, về tương lai thật là không thể tưởng tượng được! Mặc dù đã trải qua rất nhiều tay Đông Tây y nổi tiếng trị liệu, nhưng không hiệu quả, trái lại càng ngày càng nặng. Về sau bộ ngực bên trái đã sưng trướng lên hơn cả thước (thước Tàu), ngay cả cánh tay trái cũng không còn nhúc nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải thôi! Một hôm lúc A Quyên lại đang muốn đi tìm thầy thuốc, đi ngang qua đường Trung Chánh , bỗng nhiên gặp gỡ bạn cũ Trần Giang Đào, nước mắt đoanh tròng kể ra nỗi thống khổ của chứng bệnh quái ác mà mình phải chịu này. Trần Giang Đào vừa nghe cũng thương và tội nghiệp cho cảnh ngộ của cô ta, liền nói: “Chị A Quyên không nên khóc, khóc hại người, sức khoẻ càng không tốt. Phật, Bồ Tát là bậc từ bi nhất, chi bằng theo tôi đến cơ sở hoằng pháp lạy Phật, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phò hộ cho, chỉ cần thành tâm sám hối, thành khẩn xưng niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” nhất định bình an hồi phục mạnh khỏe”. A Quyên đang cần người đến giúp đỡ, vừa nghĩ đến Đông Tây y đều bó tay hết, nên cũng liền miệng bằng lòng đi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong. Các vị liên hữu sau khi nghe A Quyên nói rõ mục đích đến, ai cũng đều nói: “Cô phải cố gắng niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đồng thời lại cầu nước đại bi chú cho cô ta uống, và tặng cho cô ta tượng Tây phương Tam Thánh, dạy cô ta phương pháp lễ bái, niệm Phật sớm tối. A Quyên từ sau lần lễ bái này, về mặt tinh thần có được chỗ dựa rất lớn, không còn giống như hồi trước, suốt ngày âu sầu khổ não, hiện giờ lúc nào cũng hết sức niệm Phật, lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tự suy nghĩ nếu như bệnh này có thể hết thì tốt, còn như nếu không hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Cứ thế trải qua mười mấy ngày, có một đêm nọ trong mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát áo trắng, tay phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nước nhành dương rải khắp người cô ta, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát mẻ. Về sau trong một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh đau vú càng ngày càng bớt, không đầy một tháng thì khỏi hẳn. Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật là không thể nghĩ bàn, việc này còn chưa được tính là hiếm lạ, những chuyện hiếm lạ còn ở phía sau. Sau khi A Quyên hết bệnh, khoảng hai tháng cũng là lúc nạn lụt bát nhất (ngày 1 tháng 8) đến, ngôi nhà nhỏ trong làng nơi ở của A Quyên bị nước ngập mấy thước (thước Tàu), A Quyên vẫn cứ toàn tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện gia bị, bỗng nhiên có người nói với cô ta: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước ngập ba, bốn thước, tất cả dưa đã chín sắp thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn mất hết!”. A Quyên nghe nói bất giác khóc to lên, do vì mồ hôi nước mắt suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước cuốn đi thì tình hình quá nghiêm trọng rồi! A Quyên mặc dầu lo rầu nhưng cũng không có cách gì, chỉ còn biết thắp hương bạch lên cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi. Trải qua một ngày một đêm, nước dần rút hết, A Quyên lo cho ruộng dưa của mình, nên mặt mày âu sầu vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến ruộng dưa xem thì thấy dưa đầy đất, chẳng những không bị trôi mất, mà còn không biết từ đâu trôi đến chồng chất rất nhiều dưa, lại còn có rất nhiều cây tạp trôi lại nữa! vây quanh ruộng dưa lại, qua hai ngày sau hai mẹ con của A Quyên ra gánh những cây tạp về để làm củi, gánh suốt ngày còn chưa gánh hết. Câu chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp ngày 19 tháng 9 năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm liên hữu tụ tập lại một nhà, A Quyên cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy hướng về đại chúng nói ra câu chuyện cảm ứng của chính cô ta. Lúc đó còn có bảy, tám vị liên hữu ở Đài Trung nữa. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. 27. ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN, CẢ NHÀ ÁNH HÀO QUANG KIM SẮC Đức Phật A Di Đà, quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi, không gì chướng ngại được. Đây là một sự thật đích xác một trăm phần trăm. Bây giờ đơn cử ra đây một chuyện lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn để chứng minh khiến cho chúng sanh khổ não trong cõi ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng này tin sâu không còn nghi ngờ nữa để niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc Thế giới. Cư sĩ Lý A Minh vào năm Dân quốc thứ 52, bốn mươi tám tuổi, ở thôn Bắc Cấu, làng Vụ Phong, nhà có mẹ già, vợ, năm con trai, bốn con gái. Pháp danh anh ta là Khoan An, là đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên xã Đài Trung. Những khi Bính công ân sư giảng kinh, ngày thứ tư anh đều đi dầu cho có mưa gió thế nào đi nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến nghe kinh. Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt tâm này của anh ta, thật là khiến cho người khâm phục, mọi người đều gọi anh ta là “huynh A Minh” Nhưng mà mạng người vô thường, vạn pháp vô thường, huynh A Minh bỗng nhiên mắc chứng bệnh bất trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước, anh đã kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những việc lớn nhỏ v.v… đã dặn dò xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ nhà người chị để dưỡng bệnh. Người chị của huynh A Minh và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là tín đồ thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu các việc ăn uống thuốc thang, săn sóc bệnh… thật là châu đáo, từng ly, từng tí cũng như chính bản thân mình không khác. Mỗi ngày ngoài thời khóa tụng sớm tối ra, đều là chí tâm niệm Phật hồi hướng cho cậu, được tiêu trừ những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do của huynh A Minh ở dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương, vì ở nhà thì e rằng mẹ già, vợ, con lúc anh sắp lâm chung trong khoảnh khắc gào khóc kêu la làm nhiễu loạn, mất đi chánh niệm, thì không thể vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên núi, đi nhờ hai đứa cháu gái hiền. Nhưng lúc lâm chung cũng như chiến trường, người nuôi bệnh vừa hơi không cẩn thận thì bệnh nhân liền có khả năng bị ma dắt đi. Huynh A Minh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh trạng biến đổi rất xấu, thần trí hôn trầm, tay chân múa lung tung. Cô Chơn thấy cảnh giới không bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và nói với cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, mới có thể đi theo ngài, ngoài Phật A Di Đà ra, bất cứ người nào đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ nữa, huynh A Minh liền tỉnh táo lại, không còn hôn mê nữa, qua ngày sau, bà mẹ già tám mươi tuổi của anh ta liền thuê một chiếc kiệu lên núi thăm anh. Mới đầu dùng lời ngon tiếng ngọt khuyên, muốn A Minh ngồi kiệu về nhà, huynh A Minh không chịu về nhà, mẹ anh liền dùng đến cách khóc la, anh cũng không chịu về! Cuối cùng bà dùng những tiếng ác ngữ để cưỡng bức, huynh A Minh liền nói: “Má à! Má tự ngồi kiệu về nhà đi, con ba ngày nữa bệnh sẽ khỏi, con không cần ngồi kiệu đâu, tự con biết về nhà mà”. Mẹ anh ta không còn cách nào, đành một mình quay về nhà. Xem ra điểm này cũng hình như là ma quỷ xui khiến mẹ anh ta đến ép anh ta về nhà. Chánh niệm của huynh A Minh thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại có thể biết trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mồng 7 tháng 6 âm lịch, tối hôm đó Sở trưởng (cơ sở hoằng pháp gọi là Bố giáo sở. Vị Sở trưởng này là trưởng ban của cơ sở hoằng pháp), cư sĩ Hoàng Hỏa Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung đến trên núi thăm bệnh, an ủi các thứ, lúc đó rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ, lúc chia tay còn nói là muốn đưa sở trưởng xuống núi. Đến giữa trưa anh nói với người chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”. Cô Chơn cùng mẹ và em gái ở bên giường bắt đầu trợ niệm, chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, niệm khoảng hơn hai giờ, cô Chơn liền hỏi: “Cậu à! Bây giờ có còn trời đất tối đen nữa không?”. Huynh A Minh liền đáp: “Bây giờ không còn trời đất tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ”. Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các vị liên hữu trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm, chờ đến 3 giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống, trong khoảnh khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn: “Cậu à! Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo ngài đi!”. Huynh A Minh thở gấp một hơi, liền nương hào quang của Phật tiếp dẫn, an tường mà đi. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi một chúng sanh phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh. Câu chuyện thật trên đây là thứ ba, ngày giảng kinh định kỳ ở cơ sở hoàng pháp, chị em cô Chơn đến nghe kinh nói với tôi. Thật là “không cần đến ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, chỉ dùng sáu chữ mà vượt ra khỏi tam giới”. Xin khuyên các vị độc giả hãy chí tâm niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” nhiều vào. (còn nữa)
  8. (Phần Tiếp theo) (Xin lỗi đã để cả nhà chờ lâu, thời gian qua KA lu bu nhiều chuyện quá nên bây giờ mới có thời gian post những phần tiếp theo để cả nhà cùng theo dõi 13. BÊN BỜ SỐNG CHẾT, ĐƯỢC CỨU SỐNG LẠI Gia đình Liên xã niệm Phật ở Đài Trung, tổng cộng có 48 ban, đều do lão ân sư Bính Công tổ chức và đặt tên. Ban Song tu là một ban được lập hồi tháng 8 năm Dân quốc thứ 44, Ban trưởng Khâu Tâm Trí, Phó Ban trưởng Lâm Đức Kim, Lý Trần Trù v.v. đều là những người rất nhiệt tâm khuyên người niệm Phật. 13 năm trở lại đây, cứ hai tuần giảng Phật pháp một lần, chưa từng gián đoạn. Mỗi lần trước khi giảng có cư sĩ Triệu Đàm Thuyên và phu nhân Lệ Lượng hướng dẫn khóa tụng, cho nên ban viên mọi người gần như đều thuộc lòng kinh chú. Ngày 20 tháng 4 âm lịch lần này lúc học nhơn (lời khiêm xưng của bút giả Khán Trị) đang giảng “Khuyên tu pháp môn niệm Phật”, nhắc lại chuyện cảm ứng của vị Liên hữu Lý Chuẩn cứu A Châu. Lúc đó, trong hội giảng có một vị liên hữu họ Tiêu tên Hiệp, nhà ở đường Thái Bình, tức thời đứng dậy nói với mọi người: “Tôi có thể chứng minh đích thật là có ma quan tài, do vì em gái tôi hồi hai tháng trước suýt nữa bị nó hại chết. Em gái tôi tên là Tuyết ở làng Bán Bình Lịch, vào hai tháng trước, A Tuyết sau khi sanh hơn hai mươi ngày còn chưa đủ tháng, sáng sớm hôm đó bỗng nghe một hồi chiêng trống của một đội nhạc, bà mẹ chồng ở nhà kế bên, nhìn không rõ ràng, cứ mãi kêu: “Tuyết à, đi ra nhanh xem đón thần, thật là vui nhộn quá!”. A Tuyết từ trong phòng ló đầu ra xem, thì ra không phải đám rước thần, mà là đám tang khiêng một cỗ quan tài đi qua, tự dưng cảm giác lông tóc dựng đứng, quay mình vào phòng, liền nghe đau đầu, ớn lạnh phát sốt, em rể tôi liền mời bác sĩ chích thuốc, chẳng những không hiệu quả gì mà còn trầm trọng hơn. A Tuyết liền kêu anh ta đi mượn xe hơi đến nhà tôi nhanh chóng chở tôi đến. Tôi vừa nhìn thấy A Tuyết em tôi tim đập liên hồi, nằm trên giường rên rỉ, lập tức đứng lên thắp ba nén hương cầu nguyện Phật, Bồ Tát gia hộ, lại cố sức niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Niệm khoảng nửa giờ đồng hồ và niệm chú đại bi vào nước cho nó uống. Sau khi A Tuyết uống nước chú đại bi liền nói đầu hết đau, tim cũng đập nhẹ lại nhiều, về sau sức khỏe hồi phục dần dần. Nhưng đời người thì tai nạn nhiều, phiền não nhiều. Sau hơn mười ngày, em rể tôi lại buồn bã đến đòi tôi lập tức lên xe hơi đến nhà nó. Tôi hỏi là có chuyện gì? Em rể tôi nói: Bé Anh, đứa con gái sáu tuổi của nó bị bệnh sởi bỗng nhiên biến chứng không biết gì hết, hiện đặt nằm trên gạch chỉ còn có hơi thở yếu ớt. Khi tôi đến nhà em gái xem, con bé Anh bình thường rất là lanh lợi, bây giờ đang nằm trên nền gạch dáng vẻ như sắp dứt thở, rất nhiều người hàng xóm đều đang than thở tiếc thương. Tôi liền cũng y như lần trước lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát và niệm chú Đại bi vào nước, dùng muỗng canh đút nước vào miệng của bé. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, con mắt ngây dại của bé Anh đã biết nhìn xem người rồi. Lúc đó những người hàng xóm đứng phân ra hai bên trái, phải. Tiếng kêu bên trái: “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên trái nhìn người; tiếng kêu bên phải “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên phải nhìn người. Lúc đó mọi người đều khen ngợi bà chị vợ thỉnh được Phật tổ lại cứu sống được bé Anh, về sau cho uống thuốc liền có hiệu nghiệm, sức khỏe cũng hồi phục lại dần dần”. Tiêu Hiệp nói đến đây, trong hội chúng mọi người đều nghe thấy, tôi liền hỏi cô ta: “Cô đã biết sự lợi ích của việc niệm Phật, tại sao lại không dạy em gái cô xưng niệm danh hiệu Phật, hai thời sớm tối để có thể ai ăn nấy no, tội nghiệp của người nào thì người đó tự tiêu, tự mình biết niệm há chẳng lợi ích còn lớn hơn sao?”. Tiêu Hiệp đáp: “Tôi đã có dạy nó niệm, tôi còn thỉnh Tây phương Tam Thánh về an vị cho nó rất trang nghiêm, nhưng mà bốn đứa con nhỏ của nó cứ quấn lấy bên mình, không rảnh để nghe Phật pháp, làm sao mà có thể niệm được như pháp đây? Tôi từ ba năm nay nghe bà giảng pháp môn Tịnh độ không hề gián đoạn, hiện nay đi, đứng, ngồi, nằm tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, quyết định đời này thoát khỏi biển khổ sanh tử này”. Tôi nghe xong rất là khen ngợi, nếu không phải cô ta dụng công em gái và cháu gái ngay nơi bờ vực sanh tử được? 14. NƠI Ở CỦA HUNG THẦN HÓA THÀNH TỐT LÀNH Từ xưa đến giờ trong nhà Phật có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật hoan hỉ, cửu huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu Phật có thể tiêu tai giải oán, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành. Các vị nếu không tin, tôi xin đưa ra một việc để chứng minh. Việc này xảy ra tại Tân Trúc Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở Đài Trung mà chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một lần, chưa từng gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi người đều gọi là anh Kiềm. Có một hôm anh Kiềm này nói với những nhân viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật thật là tốt, thật có thể lợi ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”. Các nhân viên hoằng pháp hỏi anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên nhà tôi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo mộ, cũng không thể cúng tế được. Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về, không bệnh thì cũng chết! Nếu như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu, dê đó sau khi về nhà, người và vật không chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa phương đều không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”. Đến năm Nhật Bản đầu hàng, Đài Loan được khôi phục, một người anh họ của tôi nói với tôi rằng: “Ngôi mộ kỳ lạ đó của chúng ta, hiện nay mộ bia đỏ hết phân nửa, nếu đi tảo mộ, nhất định con cháu thêm phước phát tài”. Tôi nói: “Tôi không dám nghĩ đến, tôi cũng không cần dựa vào phần mộ đó để thêm phước phát tài”. Người anh họ đó lại nói: “Chú không đi, thì tôi tự đi quét dọn cúng tế cũng được”. Đến ngày tiết Thanh minh, người anh họ của tôi quả nhiên chuẩn bị ba thứ gia súc, rượu lễ đến trước mộ cúng tế. Việc này trải qua sau đó một tháng, ba đứa con trai của người anh họ tôi lần lượt chết hết! Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay không? Tôi tin rằng không có người nào từng nghe qua việc quái dị như thế! Đến sau khi nạn lụt “bát thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi: “Ngày hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi quái gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước cuốn ngã đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa sang, mộ này nhất định sẽ sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra đại họa! Làm sao bây giờ?”. Tôi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”. Người anh họ đó vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tôi nói “Đợi một tháng nữa”. Tôi từ khi nghe được pháp môn Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng gián đoạn. Từ lúc nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí tâm, khẩn thiết cầu xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò hộ cho con, con sau khi biết tin Phật, bạn bè thân thích đều nói con là mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh cầu Phật, Bồ Tát thi triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho con, sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người và vật.”. Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu nguyện như thế. Đêm trước tới ngày sửa sang, tôi càng khẩn thiết cầu xin, nửa đêm bèn nằm mộng, thấy phần mộ đó, có một phần mộ nằm phía Bắc hướng về Nam, mặt trước có một khe nước nhỏ, nước trong khe trong vắt, chảy về phía trước, hai bên mộ có hai cây đại thọ cao lớn, mộ bia ngã xuống, ở đầu phần mộ lộ ra một cái hang tỏ rõ sự suy sụp hoang vắng. Bỗng nhiên trong mộ xuất hiện một người con gái hung dữ, trang phục theo lối cổ, lúc đó tôi rất là sợ, liền chắp tay lại niệm “ Nam mô A Di Đà Phật”… Nam nữ đứng gần đó xem rất đông, trong đó có một ông già nói với tôi rằng “Đứa con gái này trước là một con quỷ nữ rất hung dữ, do vì con cháu đời sau của nó niệm Phật, bây giờ nó đã trở thành con quỷ lành rồi”. Tôi nhìn thật rõ ràng, nghe cũng rõ ràng, lúc tỉnh lại thì ra chỉ là giấc mộng, trong lòng nghĩ cảnh giới này trong giấc mộng nhất định là Phật, Bồ Tát, đại từ đại bi, đại oai thần lực dẫn mình đi xem trước, để ngày mai mình có thể an tâm đi sửa sang ngôi mộ. Sáng sớm, người anh họ của tôi đến nói: “Kiềm à, tôi dẫn thợ cùng tất cả những dụng cụ như xi măng, cát đá đều đem đến cả rồi, chú đi nhanh đi!”. Tôi mới hỏi: “Tôi xin hỏi anh phương hướng và tình trạng chung quanh ngôi mộ đó và người chôn trong mộ có phải là người nữ không?”. Anh họ của tôi kinh ngạc nói: “Chú có phải đã đi xem qua trước rồi không? Nếu không thì chú làm sao biết được?”. Tôi mới nói “Đêm qua tôi mộng thấy”. Tôi đi mua hương hoa, quả phẩm và đem theo quyển khóa tụng. Đến trước mộ nhìn xem, quả nhiên giống y như cảnh đã thấy trong giấc mộng đêm qua. Tôi mới bày các hương hoa quả phẩm ra, đốt đèn hương lên, lễ lạy nói: “Tôi hôm nay là chỉ đến sửa sang phần mộ của bà, trước sẽ tụng kinh A Di Đà, chú vãng sanh và Thánh hiệu A Di Đà Phật cho bà, bà cũng phải niệm Phật thì cũng sẽ lìa khổ được vui, nhất thiết không được hại người, chẳng những không được hại người trong nhà, cũng không được hại người khác”. Sau khi nói xong, liền ở trước mộ tụng kinh niệm Phật, sau đó mới bắt đầu làm cỏ, ban đất, sửa sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra chính là bà nội của ông nội tôi. Tôi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình yên vô sự. Chuyện kể đến đây, chắc có người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao có dài như thế? Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một ngày ở cảnh giới quỷ thôi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của loài quỷ vừa dài vừa khổ! Có người vẫn còn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói: “Chúng sanh ngã chấp ngã kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp. Ta, ngươi tranh đoạt, ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân, kết oán báo oán, đòi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của anh Kiềm cùng với cái quá khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở được, cho nên mới hung ác hại người như thế, nếu như không có anh Kiềm chánh tín niệm Phật, dùng sức đại từ đại bi của Phật, thì không cách gì tiêu giải được oán cừu này. Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” nhiều lên. 15. THUỐC A GIÀ ĐÀ TRỊ ĐƯỢC VẠN BỆNH Nhân duyên hoằng pháp của Liên xã Đài Trung đến miền Đông, khởi đầu từ đại hội diễn giảng của liên xã Đài Trung nhân dịp tân xuân năm Dân Quốc thứ 43. Trong thính chúng có vị nữ sĩ Hồng Lâm Trản liên tục năm ngày nghe giảng. Từ Đài Đông xa xôi đến đây, thời gian ở Đài Trung, bà ta ở cửa hàng bách hóa Vĩnh Phong, được sự chiêu đãi chân thành của Hoàng Hỏa Triều cư sĩ Ký phu nhân Nguyễn Miến. Lúc bấy giờ nữ sĩ Lâm Trản rất xanh xao, vàng vọt, trên cổ đeo một sợi dải băng, chốc chốc lại ho, bà ta hỏi Hoàng phu nhân: Ở Đài Trung có bác sĩ giỏi không, dẫn bà ta đi xem bệnh. Ở Đài Đông bà đã từng đi rọi X quang nghe nói là phổi bên trái có ba lỗ. Mấy tháng nay uống cả ký Cao ly sâm chính hiệu và chích hơn một trăm mũi thuốc, đều không thấy hiệu quả! Lúc đó là khoảng 5 giờ chiều, nhà họ Hoàng là một gia đình Phật tử thuần thành, hai thời khóa sớm tối từ nào tới giờ chưa từng gián đoạn, bà Hoàng phu nhân Nguyễn Miến mời bà Trản đến bàn thờ lạy Phật, còn lấy một xâu chuỗi, chỉ cho bà ta phương pháp niệm Phật và nói rõ về đạo lý trị hết được muôn bệnh của môn thuốc A Già Đà này cho bà ta nghe. Khóa tụng xong còn cầu nguyện xin một ly nước chú đại bi cho bà ta uống. Sau buổi cơm tối bà Miến liền nói: “Chị Trản à, chị thật là có phước, bắt đầu từ tối nay, Liên xã của chúng tôi liên tiếp giảng pháp năm ngày”. Tối đó liền dẫn bà ta đi nghe giảng. Thật là không thể nghĩ bàn, đêm đó bà Trản suốt một giờ không ho một tiếng nào, khi ngủ, ngủ thẳng đến sáng. Bà Trản cảm thấy Phật pháp thật là lý thú, ở nhà họ Hoàng ban ngày chí tâm niệm Phật, đến tối đi nghe giảng, liên tục năm ngày, một phần khái luợc về Phật pháp sơ cơ đã hiểu được đôi chút, tinh thần đã có chỗ nương tựa, sức khỏe cũng tốt rất nhiều. Bà than thở: “Người ở Đài Trung rất là có phước, người Đài Đông chúng tôi chưa từng được nghe qua chánh pháp sâu sắc như thế này!”. Bà Miến đáp lại: “Chị hiện nay đã hiểu rõ được cái hay của việc tin Phật, niệm Phật, chị nên phát Bồ đề tâm, thỉnh nhân viên hoằng pháp của Liên xã đến nơi của chị hoằng dương Phật pháp, khiến những chúng sanh có duyên cũng được lợi ích, thì công đức của chị thật là vô lượng!”. Bà Trản nghe xong, vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh dùm. Tiền xe hay tiền máy bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”. Giao thông từ 14 năm về trước không tiện lợi như ngày nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là đến rồi. Lúc bấy giờ phải mất hai ngày, phải ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng trọ ở Cao Hùng, thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ Tát phò hộ. Nguyên là trên chân của Pháp Viên có cái mụt nhọt, đã từng trị liệu hơn một tháng, bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không còn cảm giác đau nữa. Lúc bấy giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến phòng trọ ở Cao Hùng, phát đau đến mức không chịu nổi, bà chủ phòng trọ nhìn thấy chân của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có một loại thuốc mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này, liền nhờ người mua hai hoàn. Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có công hiệu đặc biệt: hết đau, nuôi thịt, sanh da, ba phần đều tốt, sáng hôm sau khỏi được phân nửa, ba ngày sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm của Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ, thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu không thì đi không được rồi. 16. NƯỚC ĐẠI BI KHIẾN CHO THAI ĐÃ CHẾT SỐNG LẠI Pháp Viên giảng năm ngày tại chùa Hải Sơn ở Đài Đông. Ngày viên mãn, những người nghe và người giảng sắp sửa chia tay, cái lúc lưu luyến không rời, bỗng nhiên có một bà lão khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra một câu hỏi: “Những điều của cô giảng đều là những đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi, cho đến cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh. Nhưng bây giờ yêu cầu tiêu trừ bệnh hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu pháp như thế nào? Cô có thể từ bi chỉ bày cho được không?”. Pháp Viên lúc đó nhìn xem bà lão này trên cổ có một cái nhọt lớn cổ áo cài lại không được, hở ra khoảng năm - sáu tấc, Pháp Viên suy nghĩ người ngày ắt là muốn cầu phương pháp tiêu trừ bệnh nhọt của bà ta, lúc đó thiệt là tiến thối lưỡng nan, nếu như bảo bà ta cầu Phật, Bồ Tát gia bị, cái nhọt lớn trên cổ sẽ hết, chưa chắc nắm chắc được không? Nếu như không bảo bà ta cầu, nhưng mà đã phô trương Phật pháp vô biên năm ngày rồi, có cảm ứng không thể nghĩ bàn, chung quanh lại có đông người đang chờ nghe, Pháp Viên nhứt thời phải dùng phương tiện khéo léo đáp rằng: “Nếu như yêu cầu tự mình hoặc là người khác tiêu tai thoát nạn, hết bệnh khổ v.v… nhất định phải sớm tối tụng niệm một quyển kinh A Di Đà, bảy biến chú vãng sanh, vài trăm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, hoặc vài ngàn câu, vài muôn câu càng tốt; nếu như người không biết tụng kinh A Di Đà, thì chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật cũng được, nhưng nhứt định phải tụng bài Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung... sau đó có yêu cầu điều gì thì lại dùng tâm chí thành, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì nước chú Đại bi cho uống, nếu thọ mạng ở đời chưa dứt, thì có thể giảm nhẹ đau khổ của bệnh tật; còn nếu thọ mạng ở đời sắp hết, thì nhờ sức công đức của khóa tụng niệm Phật được vãng sanh Tây phương, như thế thì được mãi mãi thoát ly bệnh khổ và tử khổ. Đây là phương pháp rốt ráo vậy”. Ngày tháng như thoi đưa, thời gian như tên bay, thoáng một cái đã một năm trôi qua, Lâm Trản ở Đài Đông lại đến Liên xã, lần này sắc mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã dứt hẳn không còn thấy tăm hơi gì nữa, trọng lượng thân thể cũng tăng hơn mười kí, y phục toàn là đồ mới may, đồ cũ không còn cái nào mặc vừa nữa, bà ta nói với Pháp Viên rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi người đều yêu cầu tôi đến mời bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không những tôi niệm Phật được cảm ứng, mà còn bà Phổ Ái Cô, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy bà ta phương pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi chú uống, bà ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà ta đã hết hẳn, cổ áo cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là “kỳ diệu”” Bà Trản lại nói tiếp: “Không những mụt nhọt to của Phổ Ái Cô tiêu trừ, được cảm ứng, cái việc càng khiến cho người khó tin hơn nữa chính là việc con dâu của Phổ Ái Cô, cô ta ở trên núi vùng phụ cận của Đài Đông, đã có mang mười tháng, người phụ nữ này rất là siêng năng làm lụng, tự nghĩ sắp tới ngày sanh nở rồi, trong ngoài cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ, cả phân trong chuồng heo cũng gánh hết mấy gánh, không ngờ từ hôm đó thai nhi ở trong bụng không còn động đậy nữa, hỏi thăm những người lớn ở trên núi, người ta nói là lúc quét dọn làm sạch chuồng heo động thổ, động đến thai khí, đến ngày thứ ba vẫn không động đậy gì, người phụ nữ mang thai này, sáng sớm đã xuống núi đến tìm mẹ chồng cô ta, Phổ Ái Cô lại không có ở nhà, cô ta tự đi đến khoa phụ sản để khám, bác sĩ phụ sản nói: “Thai nhi ở trong bụng của cô chết đã ba ngày rồi, tự mình sanh không phải là việc dễ, ắt phải dùng đến khí cụ cắt thai nhi ra từng miếng, từng miếng lấy ra, hoặc là phải phẫu thuật mới đem thai nhi chết ra được. Ngoài ra không còn cách nào khác”. Người phụ nữ mang thai đắn đo suy nghĩ, việc phẫu thuật lấy thai nhi ra không phải là việc nhỏ, không có mẹ chồng hay chồng cho phép, cô không dám chủ động, liền trở về trên núi, lại trải qua bốn ngày nữa, thai nhi trong bụng vẫn không có động đậy gì, cô ta lại xuống núi lần nữa tìm mẹ chồng: Phổ Ái Cô, nói rõ việc thai nhi bất động đã bảy ngày rồi, Phổ Ái Cô liền dẫn con dâu đến một bác sĩ phụ khoa khác khám. Vị bác sĩ này cũng chẩn đoán y như vị bác sĩ trước, nói thai đã chết trong bụng bảy ngày rồi, không cắt thai nhi ra từng miếng từng miếng lấy ra, hoặc phẫu thuật thì không được! Phổ Ái Cô dẫn con dâu đi về, quỳ trước bàn Phật, thắp hương đốt đèn dạy con dâu xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, bà ta bắt đầu tụng kinh. Sau đó niệm một ly nước chú đại bi, bảo con dâu uống và phải chí tâm cầu xin Phật, Bồ Tát phò hộ, hy vọng tử thai trong bụng con dâu sanh ra được cách tự nhiên, không phải đau đớn, phiền phức vì mổ xẻ, lúc đó mặt trời cũng đã lặn rồi, Phổ Ái Cô liền giữ con dâu ở lại ngủ với bà không phải về núi. Đang ngủ nửa đêm con dâu bà kêu mẹ chồng nói: “Thai nhi trong bụng động đậy lại rồi”. Mẹ chồng cô ta đáp lại cô ta rằng: “Chắc là Phật, Bồ Tát phò hộ, tử thai sắp sanh ra đấy”. Đến sáng, thai nhi của người phụ nữ mang thai này đã động đậy bình thường như trước, sức khỏe cũng khỏe khoắn nhiều, không còn chút gì khó chịu nữa, liền lại trở về trên núi, lại trải qua một tuần lễ, người phụ nữ mang thai này sanh ra một bé trai rất là thuận lợi, mẹ con đều bình an vô sự. Hồng Lâm Trản đến Liên xã nói ra việc này, thật là một sự linh cảm kỳ dị, rất nhiều người nghe, chắt lưỡi khen là kỳ lạ mãi không thôi. 17. TÉ XUỐNG LẦU BỊ THƯƠNG, QUA NGÀY SAU KHÔNG SAO Lần thứ hai đến Đài Đông, nơi khoảng đất trống lớn chùa Hải Sơn liên tiếp giảng năm ngày, khuyên người niệm Phật sửa ác làm lành, những thiện tín phát tâm cả một vùng miền Đông đều đến ước hẹn đi kết pháp duyên, mỗi nơi đều ước định ba ngày. Năm ngày ở Đài Đông viên mãn, liền đến Tân Cảng. Đoàn này do ba vị ở Đài Đông phát Bồ đề tâm lãnh đạo, đó chính là Hồng Lâm Trản, Trần Ngọc Phương và một vị lão Bồ Tát khác, thêm vào hai vị: Pháp Viên và Huệ Lâm ở Đài Trung, tổng cộng là năm người, ngủ lại trong một ngôi chùa kiểu Nhật thời kỳ Nhật chiếm cứ, địa thế, phong cảnh đều rất tốt, phía sau hướng ra biển, chiều tối các thuyền đánh cá trở về thắp đèn nhấp nháy giống như một bức tranh vẽ, cảnh sắc mê người, đến nay nhớ lại vẫn như ở trước mắt, ba ngày hoằng pháp đều ở trong ngôi chùa này, Phật, Bồ Tát cũng ban cho một cảm ứng đặc biệt. Sự việc là vào buổi sáng ngày thứ hai, có người đến chùa nói: “Có một bà tối qua đến nghe Phật pháp về nhà, leo lên trên lầu liền bị té xuống, khắp mình đau nhức khó chịu, kêu la cả đêm, không thể cử động, chỗ nào bị thương vô phương chẩn đoán, xin nhờ các vị tiêu trừ tai ách cho bà”. Pháp Viên nghe nói như tiếng sét giữa trời nắng, không biết làm sao, đành phải cùng với vị sư đương gia ở chùa và Huệ Lâm, ba người đến nhà bà ta, lên lầu liền nhìn thấy bà lão khoảng bảy mươi tuổi này đang nằm rên rỉ trên giường, rất là tội nghiệp, Pháp Viên liền quỳ xuống trước tượng Phật của họ thờ một cách đơn giản, dùng tâm chí thành khẩn thiết hướng lên Phật, Bồ Tát cầu nguyện rằng: “Vị lão tín nữ này là người tối hôm qua đi nghe pháp về nhà té xuống lầu bị thương. Nếu như không phải đến nghe Phật pháp thì đối với chúng tôi không can hệ gì, do vì chúng tôi thành tâm thành ý đến đây khuyên người niệm Phật, sửa ác làm lành khiến cho người thoát khổ được vui; không may xảy ra tai nạn ngoài ý muốn này, khiến cho tâm chúng tôi không yên, bạch Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài cũng phải chịu một phần trách nhiệm, nhanh chóng biến hóa cứu giúp cho bà già này tức thời sức khỏe được hồi phục mạnh khỏe, bình an vô sự. Nếu không thì bà lão này nếu như bị chết thì khó tránh khỏi người ta chê cười Phật pháp không linh!”. Sau khi khấn thầm như thế liền tụng một phẩm Phổ Môn, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì một ly nước chú đại bi, tự tay đưa cho bà ta uống, cũng dạy cho bà ta niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, đến trưa ngày hôm sau, sức khỏe của bà lão này đã an nhiên vô sự, tinh thần khoan khoái có con dẫn đi, trong tay cầm một cây gậy chống, đi bộ đến chùa lạy Phật và hướng về đại chúng nói lời cám ơn. Đây không phải Phật, Bồ Tát gia bị, làm sao được hồi phục dễ dàng như thế! Đến bây giờ nhớ lại vẫn còn cảm thấy mắc cười, lúc đó trong lòng của Pháp Viên hoảng loạn như đang có tang, đau khổ không chịu nổi, vì là sợ hai chữ “Phật giáo” bị người hủy báng. 18. BỒ TÁT GIA BỊ KHAI MỞ TRÍ TUỆ CHO TÔI Giảng ở Tân Cảng ba ngày xong, một đoàn năm người lại đi đến Quan San giảng ba ngày. Cuối cùng lại đi chùa Hoa Sơn ở Ngọc Lý, chùa này là một chùa Tịnh độ tông vào thời Nhật chiếm cứ, dưới sự sắp đặt của vị Đại hộ pháp và chấp sự chùa này, mỗi tối khai giảng ở miếu Đế Quân, nơi trung tâm của phố xá rất là náo nhiệt, thính chúng rất dễ tụ tập. Giảng đến ngày thứ hai, Phật, Bồ Tát lại hiển kỳ tích. Trưa hôm đó bỗng nhiên có một vị cư sĩ nam ở tỉnh khác đợi tôi ở phòng khách, nói là muốn đàm luận Phật pháp, trao đổi ý kiến. Vị cư sĩ đó trước tự giới thiệu tên họ và nói là quy y với một vị đại pháp sư nào đó ở Đài Bắc, hiện nay thì chỉ chuyên nghiên cứu Thiền tông. Nghe ông ta nói như nước chảy suốt hai mươi phút, thì đã biết ý định đến đây của ông ta, không phải đơn giản có thể đối phó được! Lúc đó trong tâm tôi khấn thầm đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị khai mở trí tuệ cho tôi để có thể ứng phó theo ý muốn, đối đáp trôi chảy, nếu không thì hôm nay bị xui xẻo rồi! Vị đại đức đó thấy tôi dùng tiếng quốc ngữ lựng khựng, hỏi đâu đáp đó, gương mặt của ông ta hơi khẩn trương hỏi một câu: “Tối qua nghe bà giảng Tịnh độ tông, sau khi chết thần thức vãng sanh về Tây phương. Thần thức nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem!”. Tôi liền trả lời ông ta: “Câu ông vừa mới nói, nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem coi!”. Lúc đó trong nhà khách một bầu không khí yên tĩnh, bốn mắt nhìn nhau lặng yên không nói, tôi lại trả lời ông ta một câu: “Nói cho rõ một chút, ông ban đêm nằm mộng cái đó là thần thức”. Ông ta khựng lại một chút, rồi quay đầu mà đi. Tôi sợ ông ta xấu hổ thành giận, lại tìm đến quấy rầy, bèn nói với vị trụ trì rằng: “Vị đại đức kia nếu lại đến tìm tôi thì sư nói “bây giờ đang chuẩn bị giảng, xin lỗi!”, là được rồi”. Vị sư trụ trì nói với tôi rằng: “Cái người đó rất là quái gở, có vị đại đức hay cư sĩ nào đến giảng Phật pháp, hoặc giảng những sách thiện, ông ta đều đến vấn nạn mấy câu, khiến người ta không thoát ra được, có người không cách gì ứng phó liền bỏ đi”. Thật là ngoài dự liệu, ngày hôm sau, ông ta đã cùng mười mấy người bạn nam ngồi hàng phía trước nghe giảng một cách rất thành tâm thành ý. Sáng ngày hôm sau còn đến nói: “Thỉnh cư sĩ giảng thêm vài ngày nữa, ngày hôm kia tôi rất là bội phục trí huệ của bà, cho nên đi tuyên truyền, khuyên được mười mấy người bạn đến nghe giảng, tối nay sẽ càng tăng thêm số thính chúng”. Đến nay nhớ lại tình hình lúc đó vẫn còn run, nếu không phải Phật, Bồ Tát thầm gia bị cho, thì một Pháp Viên([1]) ngu ngốc từ nào, làm sao có được tài năng đối đáp cùng vị đại đức tông môn đó?! 19. CHÍ TÂM NIỆM PHẬT, KHẮC PHỤC ĐƯỢC TAI NẠN GIÓ LỬA Cư sĩ Trần Ngọc Phương ở đường Bảo Tang phố Đại Đồng thị trấn Đài Đông. Cô ta trước kia khi chưa nghe Phật pháp là một chuyên gia trang phục, là người thông minh, vốn đầy đủ trí huệ, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ liền giác ngộ đời người vô thường, vạn pháp đều không, liền bỏ nghề may đồ cưới cho người, đến chợ mua hai xâu trân châu, về nhà xỏ lại làm thành một xâu chuỗi, sớm tối bắt đầu khóa tụng, ngày ngày niệm Phật không ngừng. Đây là về mặt tự lợi, đồng thời phát tâm Bồ đề mong muốn đem lợi ích đến cho người khác. Lúc bấy giờ thiện tín ở Đài Đông đều là hàng sơ cơ học Phật, rất ít người niệm Phật, cư sĩ Ngọc Phương từ cục bưu chính chuyển 500 đồng tiền Đài Loan mới đến thư cục Thụy Thành mua năm mươi xâu chuỗi, về sau lấy chuỗi đến nhà những bạn thân dạy họ niệm Phật và cho họ những xâu chuỗi đó. Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi đến xưởng nước tương Nhựt Đông khuyên người niệm Phật, người chủ của xưởng tên Hà Tằng Thanh, Hà phu nhân tên là A Quai, lúc đó nhà của ông ta ở đường Nhân Ái (tên cũ là đường Thảo Lịch). Đài Đông 14 năm trước không giống như bây giờ: nhà lầu xi măng cốt thép mọc đầy. Lúc bấy giờ phần lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt Đông cũng thế, cũng làm bằng cây ván và lợp lá. Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi lại đến nhà họ Hà dạy A Quai niệm A Di Đà Phật, đang lúc nói chỗ hay của niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên nghe tiếng người ầm ĩ huyên náo ngoài đường, tiếng còi hơi báo động vang lên rất khẩn trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy”. Ngọc Phương và A Quai quay đầu nhìn ra ngoài, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh sát đã đậu ngoài cổng, lại quay đầu nhìn ra phía sau, thì ra lửa phát lên nhà kế bên phía bên phải, đã lan đến công xưởng phía sau của mình, đầy nhà khói bay mù mịt, hôm đó đang là ngày công xưởng được nghỉ, người nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngoài, chỉ có mỗi mình Hà phu nhân A Quai ở nhà. Lúc bấy giờ cư sĩ Ngọc Phương và A Quai vừa thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc nguy hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật , Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm được chưa tới năm phút, thật là “Năng phục tai phong hỏa. Phổ minh chiếu thế gian” (tức chỉ Quán Thế Âm Bồ Tát ), liền tức thời nổi lên một trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía sau, năm ngôi nhà lá nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước tương và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát hỏa thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thôi. Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tại sao chỉ cứu người niệm danh hiệu của Ngài, mà năm ngôi nhà lá không biết niệm Phật kia thì phó mặc cho lửa, không ra tay cứu? Nên biết rằng lúc đó con đường Nhân Ái của các nhà lân cận là một con đường nhỏ rất dài, nếu như nhà của A Quai bị lửa cháy, thế của lửa hướng về phía Bắc thì sẽ lan ra hết con đường này và khi đã phát lửa rồi thì không thể thu dọn gì kịp, như thế tổn thất không sao tính cho xuể, đồng thời năm ngôi nhà lá nhỏ kia cũng không chắc được may mắn thoát khỏi. Thật là Phật, Bồ Tát phò hộ việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành không, cũng là may mắn gặp được thiện tri thức sư tỷ Ngọc Phương từ bi, phước đức che chở 20. ĐẾN LÚC VIỆC XẢY RA MỚI ÔM CHÂN PHẬT CŨNG CÓ HIỆU QUẢ Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức hãng đường Đài Đông là một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta lúc đầu chống đối kịch liệt ông chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, không kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang một bên rồi và dần dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không màng đến. Trên đường chạy về nhà, bà Trần miệng vẫn không ngớt niệm “ Nam mô A Di Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được nữa, lúc đó trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai chân như móc câu mà bò qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu gãy xương...) do vì ban đêm nhìn không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ khuya! Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không siêu thoát, nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cô Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48. 21. TÉ XUỐNG KÊNH RẠCH, NIỆM PHẬT ĐƯỢC CỨU Chuyện trên là câu chuyện thật của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm ứng, bây giờ lại nói một chuyện nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo! Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô. Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tôi.
  9. Trong Topic này Khánh An xin được lần lượt giới thiệu đến mọi người những cuốn sách vô cùng quý giá về cách thức tu tập để giúp mọi người không chỉ "chuyển đổi vận MỆNH" ngay hiện đời của mình mà đặc biệt còn cứu giúp chính mình và mọi người vượt thoát BIỂN KHÔ LUÂN HỒI SANH TỬ khi rời bỏ báo thân ở kiếp này. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Con xin đem tất cả công đức này trang nghiêm Tây phương Phật Tịnh Độ, Xin hồi hướng cho thập phương pháp giới hữu tình, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ, Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả mọi chúng sanh đã bị con não loạn, đã bị con giết hại, ăn thịt trong đời này và nhiều đời kiếp khác. Hồi hướng cho bà con thân thuộc hiện đời và bà con trong vô lượng kiếp cùng tất cả kẻ oán, người thân, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào tất cả đều được lợi lạc, đều khởi phát TÍN -HẠNH -NGUYỆN cầu sanh Tịnh Độ và đều được thành tựu Nguyện cầu Hồng ân Tam bảo chứng minh và từ bi gia hộ cho con cùng tất cả mọi chúng sanh trong mười phương pháp giới sớm cùng lên thuyền giác, cùng nguyện vãng sanh, cùng sanh Cực lạc, cùng kiến Di Đà, cùng ngộ vô sanh, cùng thành Phật đạo. A DI ĐÀ PHẬT LIỄU PHÀM TỨ HUẤN Hay PHƯƠNG PHÁP TU PHÚC, TÍCH ĐỨC CẢI TẠO VẬN MỆNH Dịch giả : Tuệ Châu – Bùi Dư Long ( Được tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư ) Mục Lục : Quy tắc tu học - Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Đạo lý vận mệnh I. Luận về lập mệnh II. Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh III. Tu Phúc Tích Đức Thắng Số IV.Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Phương pháp sửa lỗi I- Cái nhân của việc sửa lỗi II- Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ 2. Lòng úy kính 3. Lòng dũng mãnh III- Phương pháp sửa lỗi 4. Theo sự tướng 5. Theo lý cải sửa 6. Theo tâm địa 7. Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Phương pháp tích thiện I - Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui II - Thế nào là thiện? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện 2. Định nghĩa chữ thiện - Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? - Thế nào là âm thiện, dương thiện? - Thế nào là phải và chẳng phải? - Thế nào là thiên lệch và chính đáng? - Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn )? - Thế nào là đại và tiểu? - Thế nào là khó và dễ? 3. Tùy duyên hết sức tu thập thiện - Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? - Thế nào là giữ lòng kính mến người? - Thế nào là thành toàn việc thiện của người? - Thế nào là khuyến khích người làm thiện? - Thế nào là cứu người nguy cấp? - Thế nào là kiến thiết tu bổ lợi ích lớn? - Thế nào là xả tài làm phúc? - Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? - Thế nào là kính trọng tôn trưởng? - Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Những lợi ích của khiêm cung I – Mãn ( tự mãn ) có hại, khiêm có lợi II – Lòng khiêm tốn, nhún nhường , nguồn gốc của phúc QUY TẮC TU HỌC Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cư sĩ Bùi Dư Long dịch. ĐẠO LÝ VẬN MỆNH I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh. Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy. Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả. Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế. Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả. Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi. Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy. Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách. II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh 1. Nguyên lý của việc cải tạo Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa. Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì? Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư? Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được? Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy. Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm cầu thì thật không hợp đạo lý và chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Nếu là số mệnh đã định thì chẳng cần tổn công phí sức, vì may rủi, tốt, xấu tự nhiên vẫn đến dù có mong cầu hay không mong cầu. Ngược lại trong số mệnh đã không có, lại không biết phương pháp hướng cầu từ nội tâm thì dù có trăm phương ngàn kế, có mưu đồ gì cũng chỉ mất công vô ích không những không đạt được gì, ngược lại còn tạo thêm tai họa cho mình, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ưu tư phiền não…bên ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất (trong ngoài cùng mất). 2. Phương pháp cải tạo vận mệnh a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru! Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượu nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết. Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là ở số mệnh do nhân lành kiếp trước đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói là do đã gây tạo nhiều nhân xấu, ác nên số mệnh định phải chịu quả báo như vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn. :D Việc triệt để sửa lỗi Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy. Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao? Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân (người đời trước) mà nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được. Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư? Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu. Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không? III– Tu phúc tích đức thắng số Ta tin những lời chỉ dẫn của thiền sư và làm lễ thụ giáo. Nhân đó, trước bàn thờ Phật , thành tâm phát lồ sám hối tất cả những điều lầm lỗi, tội ác đã làm từ trước đến nay, nguyện sau này sẽ không phạm phải nữa, lại dâng sớ nguyện làm ba ngàn điều thiện, trước cầu được đăng khoa để đền đáp ân đức của trời đất và tổ tông. Vân Cốc thiền sư chỉ dẫn cho ta cách thức lập một cuốn sổ ghi công và tội, dặn ta hàng ngày phải ghi thật rõ ràng những điều mình đã làm, dù thiện hay ác đều phải ghi lại, thiện ghi bên cột thiện, và ác ghi vào cột ác để so sánh xem thiện nhiều hay ác nhiều mà tu sửa, ngoài ra lại bảo ta nên niệm chú Chuẩn Đề nhờ Phật gia bị thì những điều cầu nguyện ắt sẽ được ứng nghiệm. Thiền sư còn bảo ta những người chuyên vẽ bùa chú thường nói nếu không được mật truyền thì họa bùa không linh ắt bị quỷ thần cười chê. Chỗ bí quyết đó là khi cất bút họa, trước hết phải dứt bỏ hết mọi sự trần duyên không được khởi một ý niệm nào để cho tâm thực thanh tịnh rồi mới bắt đầu đặt bút họa một điểm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi cứ tự nhiên vô tư lự tiếp tục huy bút từng điểm, từng điểm một họa thành lá bùa, như vậy thì bùa mới được linh nghiệm. Phàm muốn cầu lập mệnh đều cần phải giữ tâm cho được thanh tịnh không chút loạn tưởng vọng niệm, kính cẩn cầu nguyện thì mới được cảm thông linh ứng. Bàn về việc lập mệnh, Mạnh phu tử trong thiên Tận Tâm có viết: yểu và thọ không hai, tức thọ yểu chẳng có khác nhau. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người. Ðến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng. Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu. Người còn chưa đạt được vô tâm, chưa được nhất tâm bất loạn, còn chấp trước vọng niệm, chỉ nên trì chú Chuẩn Đề, liên tục niệm đừng để gián đoạn, cũng không cần đếm số, niệm sao cho được thuần thục, niệm mà hóa không niệm, tự mình cũng không hay là mình đang niệm chú nữa, đến chỗ không khởi một niệm đầu nào cả thì mới linh ứng. Sau khi được Thiền sư chỉ dạy ta liền đổi tên hiệu Học Hải thành Liễu Phàm, bởi sau khi hiểu biết đạo lý của việc lập mệnh, ta muốn dứt bỏ các kiến giải phàm tục, lột bỏ lớp vỏ phàm phu đi. Từ đó trở đi ta suốt ngày để ý cẩn thận đề cao cảnh giác không giống như trước kia chỉ hồ đồ tùy tiện phóng túng, ngày lại qua ngày mê hoặc không biết tự kiềm chế giác ngộ. Đến nay sau khi hiểu biết rằng vận mệnh có thể cải biến được, tự nhiên ta có cảm giác dè dặt úy kính, ở nơi phòng tối chẳng ai hay ta cũng thường sợ đắc tội với thiên địa quỷ thần hằng xuất hiện ở nơi chái phía Tây Bắc, và có ai oán ghét ta, muốn hủy báng ta, ta cứ điềm nhiên dung thứ, chịu đựng, bỏ qua chẳng hề để ý tới. Đến năm sau, bộ Lễ mở kỳ khảo thí, Khổng tiên sinh đoán ta được xếp vào hàng thứ ba nào dè ở nơi trường thi mùa thu ấy, ta trúng cử đệ nhất hạng, lời đoán của Khổng tiên sinh đã không được ứng nghiệm. Tuy nhiên, ta tự kiểm thảo thấy sự thi hành các việc đạo nghĩa chưa được thuần thục tự nhiên, mà còn nhiều sai trái khuyết điểm; hoặc khi thấy việc thiện mà không hăng hái, mạnh dạn làm ngay, hoặc muốn cứu giúp người mà trong tâm còn ngần ngại, do dự; hoặc thân gắng sức làm lành mà miệng còn nói ác làm người bất mãn để bụng; hoặc lúc tỉnh thì hăng hái, nhưng khi say lại phóng túng không tự chủ được, vì vậy sợ rằng việc thiện làm ra không đủ bù đắp lại lỗi lầm, và ngày lại ngày để thời gian trôi qua một cách uổng phí. Từ lúc ta phát nguyện vào năm Kỷ Tị cho mãi tới năm Kỷ Mão, mười năm có dư thời ba ngàn điều thiện mới làm xong. Lúc đó ta cùng Lý Tiệm Am tiên sinh từ quận ngoại nhập nội chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn công đức trên. Sang năm sau là năm Canh Thìn từ Kinh trở về phương nam, mới thỉnh Tính Không và Huệ Không, hai vị pháp sư làm lễ hồi hướng tại Đông tháp thiền đường. Sau đó bèn phát nguyện cầu sinh con và cũng hứa làm ba ngàn điều thiện. Năm Tân Tị sinh con tên là Thiên Khởi. Mỗi khi ta làm một việc gì thì tùy tiện lấy bút ghi lại, vợ ta không biết viết thì khi làm điều gì bèn liền đó lấy bút lông ngỗng khuyên một vòng son vào tờ lịch của ngày hôm đó; chẳng hạn như thí thực cho người nghèo, hoặc là mua vật phóng sinh, mỗi ngày kể có hơn mười khuyên. Đến tháng tám năm Quý Mùi, số ba ngàn điều thiện đã làm đầy đủ, lại thỉnh các vị Tính Không tề tựu tại gia làm lễ hồi hướng công đức. Vào ngày 13 tháng chín cùng năm, ta lại bắt đầu phát nguyện cầu đỗ tiến sĩ và hứa làm mười ngàn điều thiện. Năm Bính Tuất thì trúng cử và được bổ làm tri huyện Bảo Đề. Khi nhậm chức ở huyện, ta dự bị làm sẵn một cuốn sổ nhỏ có nhiều ô vuông trống gọi là một thiên trị tâm, mục đích để sửa các điều lỗi lầm mà tu tâm. Mỗi buổi sáng khi bắt đầu thăng đường thì gia nhân mang sổ ra cho nha dịch để lên án thư, ta tỉ mỉ ghi lại các điều thiện hay ác trong khi xử án, hoặc xử lý công việc ở huyện. Buổi chiều tối thiết lập bàn hương án ở ngay sân huyện và noi gương ngự sử Triệu Duyệt Đạo, ta đem tất cả các việc làm hàng ngày dâng hương cáo trình thượng thiên, nếu có điều sai trái, lầm lỗi thì thành tâm phát lồ sám hối. Vợ ta thấy đã lâu mà làm được ít điều thiện quá, thời chau mày lo lắng mà nói rằng: Trước đây ở nhà, thiếp còn có thể giúp được nên vì vậy mà số ba ngàn điều thiện phát nguyện mới chóng hoàn thành. Nay ở trong nha, thiếp không giúp được gì cả mà lại nguyện làm những một vạn điều , thì biết đến bao giờ mới được viên mãn. Đêm hôm đó, ta bỗng nằm mộng thấy một vị thần nhân, bèn trình bày duyên cớ khó làm xong 10 ngàn điều thiện đã nguyện hứa, thì thần nhân bảo chỉ cần một việc giảm tiền thuế là vạn sự sẽ hoàn thành đầy đủ. Ta thấy ruộng ở Bảo Đề này mỗi mẫu nạp tô hai phân ba ly bảy hào thì quá cao, nên nghĩ có thể xin giảm xuống tới một phân bốn ly sáu hào; thiết tưởng việc này có thể thi hành được, nhưng trong lòng còn hoang mang hồ nghi không hiểu thần minh có thấu rõ việc ta xin giảm tô hay không, và làm sao chỉ làm một điều thiện lại có thể tương đương với vạn điều được, thì vừa may có thiền sư Thích Huyền Dư từ Ngũ Đài Sơn tới, ta đem những lời thần nhân báo mộng hỏi thiền sư có thể tin được như thế không? Thiền sư bảo làm việc thiện mà tâm khẩn thiết chí thành thì một điều có thể sánh bằng vạn điều, huống hồ lại giảm tô cho cả một huyện, toàn dân đều được hưởng ân huệ thì một điều đó cũng đáng bằng 10 ngàn điều vậy. Ta bèn quyên góp lương bổng để thiền sư trở về Ngũ Đài Sơn trai tăng một vạn người và đem công đức ấy hồi hướng hộ cho. Khổng tiên sinh đoán là năm 53 tuổi ta gặp tai ách khó qua, ta chưa từng cầu đảo xin tăng thọ, mà năm đó lại vô sự, và nay thì ta đã 69 tuổi rồi. Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! IV– Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Ta nhân đó mà hiểu rằng họa phúc là tự mình chuốc lấy, làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, các vị thánh hiền đều đã dạy như thế. Nếu nói rằng họa phúc là do mệnh trời định, thì đó là lối luận bàn thông thường của kẻ thế tục vậy. Hiện tại số mệnh con thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như đang lúc hàn vi chưa được đắc ý, khi gặp được sự thuận lợi, hãy tưởng như đang gặp nghịch cảnh khó khăn; trước mắt có đủ ăn, hãy tưởng là thiếu nghèo; khi được người kính nể, thường phải có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, thường phải nghĩ tới lúc mình còn ty tiện, thấp kém; khi học vấn có phần cao, hãy tưởng mình còn nông cạn, ngu dốt. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ cha mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác nơi chính mình. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ, uổng phí một đời mà thôi! Thuyết lập mệnh do Vân Cốc thiền sư chỉ dạy trên đây là một đạo lý thực chân chánh, thực tinh vi thâm thúy, con phải gắng công, gắng sức nghiên cứu cho kĩ rồi theo đó mà thi hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích vậy. PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI I– Cái nhân của việc sửa lỗi Vào thời đại Xuân Thu, các quan chức của nhiều nước chư hầu thường có sự lai vãng giao hảo, khi thấy cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của một người nào, hoặc khinh bạc, hoặc ôn hòa nhân hậu, họ có thể đàm luận về số phận, họa phúc của người đó và hầu hết lời suy đoán đều ứng nghiệm. Những sự tình như vậy có ghi rõ trong các sách sử như Tả truyện hay Quốc ngữ, đọc đến tất thấy. Do hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức, biết hy sinh vì người khác thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc, toan tính ích kỷ, tham lam cho riêng mình thường gặp họa. Song người phàm mắt tục, nhãn quang bị che lấp nên ít ai thấy rõ điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường! không thể suy đoán trước được. Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác họ làm, có thể biết trước những việc sẽ đến với họ. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành. II– Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ (Tâm biết tự hổ thẹn) Nay muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều khẩn yếu thứ nhất là cần phải biết tự hổ thẹn. Cần luôn nghĩ rằng các bậc cổ Thánh, tiên Hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta không lẽ lại chịu thân tàn hủ bại, lẹt đẹt thấp hèn một đời ngói bể, chỉ lo chạy theo ngũ dục lục trần (danh, lợi, tình ăn, ngủ) mà nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa lại tự cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một sa đọa, đời sống không khác cầm thú mà chẳng tự biết. Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm tri sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm tri sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi vậy. 2. Lòng úy kính (Tâm biết sợ hãi) Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, dù người đời không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi? Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, vắng vẻ chỉ có mình với mình thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường rồi vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, như vậy há không đáng cẩn thận sao? Dù vậy điều quan trọng nên biết là khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều vẫn có thể sám hối cải sửa, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Cần biết cõi trần vốn là vô thường không nhất định, tấm thân huyết nhục dễ bị hủy hoại, nên nếu cứ cho là làm lỗi rồi có thể sửa được nhưng mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng nên luôn e dè sợ sệt hay sao? 3. Lòng dũng mãnh (Tâm dũng mãnh) Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi đa số là vì phóng túng, quá dễ dãi, nuông chiều chính mình, dù biết có lỗi nhưng lại bỏ đấy không chịu cải sửa ắt bị thoái hậu, dần dà có tính thụt lui, tự ngăn con đường tiến bộ của mình. Vì vậy muốn sửa lỗi, cần phải hăng hái phát tâm dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình, đừng nên do dự, trù trừ, chờ đợi. Hãy xem lỗi lầm nhỏ như bị mũi kim nhọn châm chích sẽ làm thối thịt, cần mau khoét vất; sợ lỗi lầm lớn như sợ bị rắn độc cắn phải mau mau cắt bỏ, được không chậm trễ, do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ Phong Lôi Ích trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy. Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan? III – Phương pháp sửa lỗi Tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm mà cải sửa. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. 1.Theo sự tướng cải sửa Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự cải sửa như thế gọi là theo sự tướng xảy ra mà cải sửa vậy. Tuy nhiên lối cải sửa này mới chỉ là lối miễn cưỡng kiềm chế lấy mình, nên khó lòng dứt được sạch tội vì chung cục bệnh căn (gốc bệnh) vẫn tồn tại trong lòng thì dù hôm nay diệt được tội bên đông ngày mai tội lại nẩy sinh bên tây, nên lối cải sửa này chưa phải hoàn hảo, cứu cánh. 2.Theo đạo lý mà cải sửa Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết cần học hỏi để biết rành rẽ đạo lý đã; chẳng hạn: Về tội lỗi sát sinh thì cần nên hiểu rằng Trời đất vốn hiếu sinh, các loài vật đều luyến ái mạng sống, ta giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nỗi thống khổ đau đớn thấu cốt tủy…mà ta ăn vào dù béo bổ, ngon bùi đến đâu nhưng một khi nuốt trôi khỏi cổ thì liền trở thành đồ hôi thối rồi cũng tiêu ma như không có gì. Chi bằng dùng rau đậu, canh dưa cũng vẫn no nê đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình không ít. Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống như chúng ta; ví bằng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao khiến chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạng chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi. Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm lỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân. Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận. Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa. Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ. 3.Theo tâm địa mà sửa lỗi Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao! Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không. Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy. 4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có thiện tri thức (bạn tốt) thường nhắc nhở để cảnh tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm. Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ oán thù mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy khạc ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển. Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó. Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa. Chúng ta hiện mang thân phàm tục, phạm tội lỗi dập dồn, thế mà ít ai tự xét thấy, đó là do tâm còn thô thiển, tập khí hôn ám sâu dày đã huân tập trong nhiều kiếp sống, khiến ta không khác kẻ mù lòa. Nhưng dù ta thấy hay không mặc lòng, luật của tạo hóa vốn tuyệt đối công bằng, hễ đã gây tạo lỗi lầm gì đều không tránh khỏi gặp phải những điều bất hảo, tội lỗi càng sâu dầy càng gặp nhiều tai ương, trước hết sẽ thấy chứng nghiệm ngay qua các trạng tướng: hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chưa nhớ đã quên, lòng hay phiền não lo lắng; hoặc thường hay nổi sân hận; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường mất tinh thần, hoặc ngượng ngùng e thẹn; được nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý lại chẳng hoan hỷ, chẳng muốn tin nghe; hoặc làm ơn lại bị mang oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường…; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc khởi phát tinh thần, tự xét lại mình dũng mãnh dứt bỏ lỗi lầm cũ, đừng nên tự mình lại lừa dối mình, may ra mới thoát khỏi những điều mê hoặc và những hậu quả khôn lường về sau. PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN I– Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt. Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng. 1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn. Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy. Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền. 2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ. Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ. Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm Liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. 3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh. Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa. 4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả. 5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ. 6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi. Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu. Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể. 7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân. Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ. 8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh. Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả. 9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão. Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách. 10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy. Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh. Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành. II–Thế nào là thiện ? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện. Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý là thiện, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích. Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao? Hòa thượng nói: Người phàm tâm chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho. 2. Định nghĩa chữ thiện Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù có đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình thì dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc đem lại lợi ích cho người khác, cho nhiều người khác là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân là thiện, còn tư là giả là ác. Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành thật là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không hề toan tính, không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn toan tính, hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng. Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Đừng vì thấy một người cẩn thận, dễ bảo mà vội phân loại cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường, tiết tháo có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận, dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, là hiền; nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy. Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục. Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để tai mắt trần tục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để có được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận. Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất ngờ xảy ra. Dù vậy nếu là người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì rồi con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện do vậy cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ. Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, nên chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa. Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho nhiều người, cho thiên hạ đại chúng nữa. Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại là trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng. Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác. Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn. Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng. Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì ngày càng vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy. Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một câu chuyện nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy. Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy. Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi. Thế nào là đại và tiểu? Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác mới khởi lên trong lòng đã kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm lợi ích cho mọi người, cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn dù làm việc công mà chỉ nghĩ và nặng vì lợi ích của riêng mình thì dù có làm thật nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. Thế nào là khó và dễ? Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong. Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu. Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, nhưng khó mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy. 3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại việc thiên (thập thiện) như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật. Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa. Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy. Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người; chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy. Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết. Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho người, cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư. Thế nào là giữ lòng kính mến người? Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy. Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy. Thế nào là thành toàn việc thiện của người? Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi. Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình thường cương trực không trọng bề ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng. Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì ngũ dục. Đối với những người còn mải mê ham đắm danh, lợi, tình, ăn ngủ dễ tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô lượng vô biên. Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy. Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy. Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn? Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích công cộng cần phải nên góp công, góp của, như khai cừ dẫn thủy, như tu bổ đê điều phòng lụt lội, như sửa chữa cầu cống tiện việc giao thông đi lại hay bố thí cơm nước để cứu đói cứu khát; tùy duyên và tùy cơ hội khuyến khích người cùng hợp lực xây dựng, chẳng nề gian khổ, chẳng quản bị ganh tị, hiềm nghi, oán trách, cứ tận tâm, tận lực mà hành động. Thế nào là xả tài làm phúc? Theo nhà Phật thì việc hành thiện có hàng vạn điều để làm nhưng tựu trung bố thí là điều cần trước mắt, muốn bố thí chỉ cần có một chữ xả mà thôi. Người am hiểu rõ ràng lý lẽ này thì trong xả lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý), ngoài xả lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nhất thiết những gì mình sở hữu không có gì là không xả được. Nếu không đạt tới trình độ có thể xả bỏ hết, thì trước tiên hãy bắt đầu dùng tiền mà bố thí. Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quý trọng đồng tiền , nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng bỏ được tính keo kiệt, ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần gấp; lúc mới bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận, tham lam, keo sẻn. Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? Pháp là tai mắt có linh tính và sinh động từ ngàn xưa hàng vạn đời truyền lại. Chánh Pháp là ngọn đèn là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh là phương tiện để ba đời mười phương Chư Phật cứu độ chúng sanh thoát khỏi vô minh, đau khổ đến bờ giải thoát, an vui.. Nếu không có chánh pháp thì làm sao có thể trợ giúp sự hóa đức của thiên địa, làm sao có thể tài bồi vạn vật, làm sao có thể cứu chúng sanh thoát ly khỏi sự thúc giục của ngũ dục, lục trần, làm sao có những kinh điển siêu việt thời gian và không gian để lại chỉ cho ta con đường tu thân xuất thế thoát khỏi luân hồi sinh tử? Vì vậy ta phải biết kính trọng bảo vệ, và góp sức chỉnh trang, chùa chiền, đền miếu thờ các vị thánh hiền; giữ gìn, ấn tống suy cử, khuyến khích và truyền bá phổ biến các kinh điển góp phần hoằng dương chánh pháp để đền đáp ân đức của Phật Đà Thế nào là kính trọng tôn trưởng? Đối với các vị tôn trưởng, như ở nhà thì có phụ huynh, trong nước thì có vua chúa, ngoài xã hội thì phàm những người tuổi cao, đạo đức cao ...đều nên đặc biệt để ý tôn kính, phụng sự. Ở nhà thờ phụng cha mẹ phải cực kỳ hết lòng kính mến thương yêu, thái độ đối xử phải dịu dàng hòa nhã, lời ăn tiếng nói phải nhã nhặn, ôn hòa, tập quen cho thành tính nết tốt, tạo được hòa khí mới là phương pháp căn bản cảm ứng với lòng trời. Khi làm việc quan phụng sự vua chúa, thì bất cứ làm một việc gì dù nhà vua không biết tới cũng phải thận trọng không được tự ý làm càn, khi xử án cũng vậy, không thể tự mình tác oai mà cần phải xét xử cho công bằng, minh bạch. Người xưa thường nêu gương mẫu phụng sự vua cũng như thờ trời phải hết lòng cung kính. Đó là chỗ tối quan hệ tới phần âm đức. Chúng ta hãy thử xem những gia đình trung hiếu thì đủ rõ, con cháu họ nhiều đời đều được phát đạt thịnh vượng, thiết tưởng cũng nên cẩn thận lưu ý. Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Phàm con người sinh ra, được gọi là người duy chỉ ở chỗ có lòng trắc ẩn mà thôi. Muốn cầu có lòng nhân hậu, muốn tích đức, đều phải do ở chỗ có lòng trắc ẩn đã. Theo lễ nghi nhà Chu, vào tháng đầu xuân, tế lễ dùng tam sinh như trâu, bò, heo, nhưng không sát hại vật giống cái. Mạnh phu tử nói người quân tử xa chốn nhà bếp, sở dĩ muốn bảo toàn lòng lân mẫn, trắc ẩn vậy, tức là không muốn nghe tiếng kêu bi thương của con vật bị làm thịt; cho nên các vị tiền bối giữ giới tứ bất thực, bốn thứ không ăn; nghe tiếng kêu của vật bị giết thịt, trông thấy người ta làm thịt nó, chính mình nuôi nó, hay người ta vì mình mà làm thịt nó, bốn trường hợp đó thì đều không ăn. Noi gương từ tâm của các vị tiền bối, nếu chúng ta chưa có thể hoàn toàn bỏ hẳn được việc dùng thịt, thì cũng khá nên giữ giới tứ bất thực này. Dần dần tiến bộ, lòng từ ngày càng gia tăng, không những giữ được giới không sát sinh mà còn coi những vật nhỏ bé động đậy ngu xuẩn hay có linh tính đều là có mạng sống cả mà không giết hại, như việc kéo kén lấy tơ làm lụa, cày bừa đất đai chết trùng bọ, nguyên do cũng vì cơm ăn áo mặc mà hại chúng để nuôi dưỡng mình, há chẳng đáng thương hại hay sao, cho nên hủy hoại những vật tiêu dùng cũng tội như sát sinh vậy; đến như vì vô tình không để ý mà tay đập chân giẫm hại không biết bao sinh vật li ti nhỏ nhoi, tưởng cũng nên tìm cách để phòng tránh khỏi việc ấy. Thơ cổ có nói mến chuột thường dành cơm cho ăn, thương con thiêu thân thì chẳng đốt đèn, để chúng khỏi chết. Thật là từ bi nhân hậu biết bao! Thi hành việc thiện thì thật vô cùng, không sao thuật hết được. Theo mười điều trên mà suy rộng ra ắt có thể hoàn bị được hàng vạn công đức. KHIÊM ĐỨC I– Mãn (tự mãn) có hại, khiêm có lợi Kinh Dịch nói thiên đạo và địa đạo không ưu doanh (doanh mãn) mà làm lợi cho khiêm (khiêm hư) là muốn biến cải con người để tự biết sửa mình, bởi thế nên phàm làm việc gì mà kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được lợi ích, như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng thường được nước chảy tới làm đầy; quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn. Khiêm hư là điều mà trời đất, quỷ thần và người đều trọng. Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì lục nào cũng đều tốt cả. Kinh Thư nói tự mãn chuốc lấy tổn hại, tự khiêm được lợi ích. Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm là điều tốt nhất. Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt. Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử. Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy. Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả. Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển. Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay. Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ. Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được? Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư? Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người. II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc Theo đấy mà xét, chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi, đố kỵ mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy. Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi. Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh. Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra. Thay đổi quan niệm, thói quen, suy nghĩ và vận mệnh Người xưa nói rằng: “con người không phải thánh hiền làm sao không lỗi?biết lỗi mà sửa là điều thiện lớn nhất”. Đó là khích lệ những người có ý chí sửa lỗi hướng thiện và thay đổi vận mệnh, đối với những sai lầm đã qua không nên nãn lòng lùi bước. Trong cuộc sống gặp phải những điều không tốt cũng đừng oán trời trách người, điều quan trọng là phải kịp thời thay đổi quan niệm, thói quen ,suy nghĩ,cố gắng làm thiện mà không hẹn hò dây dưa , đó không những là điều thiện rất lớn mà còn có khả năng thay đổi vận mệnh. Nếu chúng ta biết được ý nghĩa chói lọi của sanh mạng ở nơi tìm cầu chân lý hoàn hảo chí thiện ,tất cả những phẩm đức tu dưỡng tốt và các việc làm lợi ích cho người khác.Tu tập những phẫm chất tốt chẳng qua chỉ là khơi dậy bản tính thanh tịnh bất sanh bất diệt vốn có,cố gắng đoạn trừ và phòng ngừa những tập tánh không tốt ở đời này và đời trước.Một con người biết thay đổi vận mệnh là biết ngay lập tức ra sức thay đổi quan niệm , thói quen, suy nghĩ, chí thành làm thiện và chuyên tâm niệm Phật là trợ duyên lớn bổ sung cho việc làm này,cuối cùng có thể phá được trói buộc nghiệp cảm của kiếp trước và mở đầu một cuộc sống mới nhất cho tương lai, thành một người xây dựng vận mệnh đúng đắn nhất.Khiến cho vận mệnh vốn có được thay đổi,dần dần phước đức trí huệ tăng trưởng và đạt đến quả vị thánh hiền,cảnh giới hoàn hảo đạo đức chí thiện. Cách nhìn của Phật giáo đối quan niệm vận mệnh là ăn sâu và bao khắp “nhân quả báo ứng như bóng theo hình” “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” “muốn biết nhân đời trước,thì xem quả đời này, muốn biết qủa đời sau thi nhìn vào hành động tạo tác của hiện tại”nguyên tắc và ý nghĩa của bài kệ là suy đoán nhân quả vận mệnh của Phật giáo.Lý nhân duyên quả trình bày nhân quả vận mệnh của con người,nhưng từ lý và nguyên tắc của nhân duyên quả đi sâu vào quan sát và tìm hiểu,Phật giáo không phải là “định mệnh luận” Phật giáo chủ trương vận mệnh có thể cải đổi.Phương pháp cải thiện là lợi dụng những trợ duyên đang có mà cố gắng làm thiện,nếu biết rõ phương pháp tu trì,như lý như pháp mà làm,tinh cần ở việc làm lớn “chuyển duyên ,thiện duyên”thì tất cả vận mệnh của con người đều nằm trong tầm tay của chúng ta.Phàm người lập chí sáng tạo vận mệnh thì ngay trong đời này có thể thay đổi nghiệp quả dần dần,nhưng cái nhân tu trì sẽ mở đầu cuộc sống mới cho tương lai. Thậm chí “chuyển phàm thành thánh” “chuyển biến nghiệp quả” (chuyển nghèo thành giàu,chuyển tiện thành sang,chuyển yểu thành thọ) “phá mê khai ngộ” (chuyển ngu thành trí,chuyển độn căn thành lợi căn) tất cả những mong cầu của người tu học Phật dần dần sẽ thành tựu . Tất cả những quả báo gặp phải trong cuộc sống chúng ta dựa theo lý nhân quả của Phật pháp mà nhìn,tất cả quả báo là do “nhiệp nhân quá khứ” cộng thêm “nghiệp duyên hiện tại”sẽ thành “quả báo hiện tại”.Thông thường mà nói,nhân vốn có ở quá khứ (đã tạo thành sự thật rồi ) thì khó mà thay đổi nhưng quả báo của vị lai chúng ta có thể như lý như pháp mà cải đổi,mấu chốt của chuyển biến này là chuyển biến “duyên hiện tại” mà chuyển biến duyên hiện tại tức là thay đổi hai duyên nội ngoại ,cái gọi là hai duyên nội ngoại tức “nội Ý nghiệp”,”ngoại Thân Khẩu nghiệp”,nếu ba nghiệp nội ngoại thân khẩu ý đã được thay đổi thì quả báo hiện tại sẽ dần dần được thay đổi.Chúng ta đã hiểu rõ lý này ,nếu có thể như lý như pháp mà thực hành,thì tất cả quả báo vận mệnh nằm ở trong tay ta.Tiến bộ của người học Phật là xem xét phiền não ,tập khí của mình có giảm bớt hay không? Trí huệ có tăng trưởng hay không?xử lý sự việc có đúng đắn hay không?có cái nhìn xa trông rộng cho tương lai hay không? Đó tức là trí huệ và cũng là chổ quay về y theo đó tu hành sữa đổi cho chính mình về sau. Người học Phật muốn thay đổi vận mệnh,thì quan trọng nhất là lấy Tam huệ văn tư tu lại thay đổi quan niệm mà đi vào trung đạo thanh tịnh của tri kiến Phật,cho nên phẩm Phương Tiện thứ hai của kinh Pháp Hoa nói rằng “chư Phật Thế Tôn chỉ vì muốn chúng sanh khai ngộ tri kiến thanh tịnh của Phật mà hiện ra thế gian” thứ đến người học Phật lấy Tam vô lậu học Giới định huệ lại thay đổi thói quen,quyển thứ 9 Thành Duy Thức Luận nói: “nhị chướng chủng tử ,lập thô trọng danh” ý nói:phiền não và hai sở tri chướng từ vô thỉ đến nay là chủng tử huân tập đeo đuổi con người,nấp trong tám thức làm cho tâm ta cứng cỏi khó điều phục nên gọi là “thô trọng”.Lúc hai chủng tử này hiện hành sẽ sanh ra các phiền não tham,…che mờ tâm vương,chướng ngại trí tuệ bát nhã làm cho không sanh khởi.cho nên gọi là”nhị chướng”.Cái gọi là tập khí phiền não tức là hai chủng tử chướng này.Vì thế chúng ta học Phật muốn thay đổi vận mệnh nên lấy tu trì của Tam học lại đoạn trừ phiền não tập khí.Phật nghĩa là giác ,giác tức là lấy nội quán làm chủ “trở về lắng nghe tự tánh của chính mình,tự tánh là đạo vô thượng”cũng là “trở về quán sát tâm mình” vậy.Do vậy người học Phật muốn cải đổi nhân quả vận mệnh cũng cần nội quán tịnh niệm thay đổi tâm niệm bất thiện,trở về với tâm thanh tịnh vốn có. Ở trên đã nói “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm” “lấy Tam học thay đổi thói quen” “lấy Nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghĩ”, ba điền này cũng là công phu của “sữa lổi tu đức” “nhất tâm sám hối”.lấy tâm thành khẩn hành các thiện nghiệp làm trợ duyên.Thiện nghiệp tức là tâm niệm thanh tịnh làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Đó không chỉ làm cho tâm Từ phát khởi (tức bồ đề tâm) mà còn tích lũy công đức vô lượng vô biên là nhu cầu tất yếu để thành Phật và tạo thành tinh thần đại nguyện “phấn đấu không ngừng”là yếu tố để thành Phật quả vậy .Cuối cùng lấy nhất tâm niệm phật làm thanh tịnh các tạp nhiễm,tiêu trừ tất cả những ác nghiệp chướng ngại của vô lượng kiếp trong tương lai,làm cho qủa lành sớm được thành thục,nhân quả nghiệp báo sẽ được thay đổi. Nói chung ,cố ý phá trừ ràng buộc nghiệp cảm của kiếp trước bắt đầu cuộc sống mới cho tương lai là người xây dựng đời sống chánh đáng..Sau khi hiểu được lý nhân duyên quả ,có thể “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm”, “lấy Tam học thay đổi tập khí”, “lấy nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghỉ”, “chí thành làm thiện “, “nhất tâm niệm Phật”…thay đổi nhân quả vận mệnh ,người học Phật nếu đúng như vậy mà làm dần dần sẽ tạo thành vận mệnh tốt. (Thích Tùng Từ biên soạn ) Như Nguyện dịch LI___U_PH__M_T____HU___N.doc
  10. (Tiếp theo) Một tử tù bị lời nói, óc tưởng tượng doạ chết. Nhà tâm lý học từng làm một thí nghiệm đối với một người tử tù như sau. Họ bịt mắt một người tử tội và để anh nằm trên một chiếc giường, rồi bảo: “Chúng tôi sẽ cắt đứt gân máu nơi cổ tay anh, máu sẽ chảy ra từng giọt, từng giọt… Đến khi máu chảy hết, anh sẽ chết!” Nói xong, họ giả vờ dùng một vật gì đó gạch mạnh lên cổ tay anh ta, song thực ra không có rách da. Kế đó nhà tâm lý lại dùng nước mà nhiệt độ tương đồng với nhiệt độ máu, nhễu từng giọt, từng giọt lên tay anh ta, khiến anh có cảm giác thực sự là dòng máu ấm của mình đang chảy. Họ lại dùng một chiếc thùng thiếc đặt phía dưới cánh tay để hứng nước, khiến anh nghe được tiếng tí tách như máu đang nhỏ. Họ lại bảo: “Máu của anh đang chảy ra từng giọt một, chảy một lát sẽ hết máu. Bây giờ chỉ còn lại vài phút, thời gian sắp đến rồi!”Quả nhiên thời gian vừa đến, người tử tù đã thực sự chết đi vì sợ! Thực ra, anh chẳng có chảy một giọt máu nào, cũng không bị rách một chút da, mà hoàn toàn bị lời nói và cảnh tưởng tượng lừa dối mà chết đi tức tưởi. Đây là một thí nghiệm tương đối tàn nhẫn, chúng ta tạm gác qua vấn đề này có nhân đạo hay không, nhưng nó đã chỉ ra một sự thực: Tâm niệm và lòng tin có thể quyết định vận mệnh của chúng ta! Người tử tội này có thể bảo là một vị Bồ tát! Tuy rằng anh ta bị dọa sợ đến chết, nhưng kết quả cuộc thí nghiệm này giúp chúng ta phần nào hiểu và tin được đạo lý “tất cả do tâm tạo” của nhà Phật. Tôi thường kể cho người bệnh nghe về cuộc thí nghiệm này. Trước đó họ rất lo lắng, buồn khổ, nhưng sau khi thực sự hiểu được đạo lý này, họ biết rằng có thể dùng tâm niệm mình để thay đổi vận mệnh. Cho nên, họ không còn tự dọa lấy mình, dùng óc tưởng tượng hành hạ bản thân, oan uổng rước lấy lo sợ, đau khổ. Khơi dậy lòng tin, tế bào sẽ phấn chấn, an vui. Tôi còn nhớ, lúc nhỏ đã đọc qua một bài tập đọc, được phiên dịch từ tiếng nước ngoài. Sau khi đọc xong, tôi cảm động đến mức rơi lệ, mãi đến bây giờ vẫn còn ấn tượng rất sâu đậm. Bài văn kể lại câu chuyện một người bệnh nặng, cảm thấy mình sắp chết. Mỗi ngày người đó nằm trên giường bệnh nhìn ra cửa sổ. Lúc đó mùa thu sắp qua, chuẩn bị bước vào mùa đông. Mùa đông ở nước ngoài rất lạnh, lá cây rơi rụng trơ trụi. Người bệnh nhìn lá rụng trong lòng rất cảm thương. Một hôm, người bệnh nằm mơ thấy có người bảo: “Khi những chiếc lá trên cây bên ngoài cửa sổ hoàn toàn rụng hết, sinh mệnh của anh cũng sẽ kết thúc.” Khi tỉnh dậy, nhớ đến giấc mộng đêm qua, anh càng bi quan. Mỗi ngày anh nhìn những chiếc lá rơi rụng mà lòng thấp thỏm âu lo, sức khoẻ sa sút. Thực vậy, mỗi một chiếc lá rụng là tăng thêm một phần sợ hãi, và giảm đi một phần sức khoẻ của anh. Có một vị bác sĩ nhân hậu đến thăm, nhận thấy vẻ bi thương của anh mới dọ hỏi và biết được đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, vị bác sĩ này nghĩ cách giúp đỡ. Sắp đến ngày có tuyết rơi, một buổi tối trời nổi cơn gió mạnh, giá rét căm căm, dường như tất cả những chiếc lá trên cây đều rơi rụng cả. Trong đêm tối người bệnh tuy không trông thấy bên ngoài, nhưng trong lòng đoan chắc rằng không còn chiếc lá nào trên cành, trong tâm hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng sáng sớm hôm sau, người bác sĩ nhân hậu đó lại đến, chỉ cội cây ngoài cửa sổ và bảo: “Anh xem, lá trên cây đều rơi rụng cả, song có một cành lá vẫn còn kia. Cơn gió mạnh tối qua dù có hung dữ đến đâu, cũng không làm nó rơi rụng. Đây thực là một phép mầu. Điều này cho thấy bệnh tình của anh nhất định cũng gặp được phép mầu, sẽ bình phục trở lại!” Người bệnh nhìn ra ngoài khung cửa sổ, quả nhiên lá cây đều rụng sạch, chỉ còn lại những cành cây trơ trụi, khẳng khiu. Nhưng kỳ lạ sao, nếu nhìn kỹ, vẫn còn vài chiếc lá nguyên vẹn trên một cành cây. Nhìn thấy cảnh này, lại nghe lời bác sĩ khích lệ, tinh thần anh phấn chấn trở lại, cả người sung sướng, không bao lâu hết bệnh, trở lại bình thường. Các bạn có biết vì sao câu chuyện này khiến tôi cảm động và có ấn tượng sâu sắc hay không? Bởi vì những chiếc lá còn lại trên cành trải qua cơn giông bão, chính được vị bác sĩ đó vào lúc giữa đêm leo lên cây, tìm cách dán chặt chúng vào cành, nhằm để an ủi, khích lệ, giúp người bệnh có niềm tin, hy vọng, và vui vẻ sống. Những chiếc lá không rụng này tuy giả, nhưng lòng tin của người bệnh là thực, và sức mạnh của nó sinh ra cũng là sự thực! Từ thực tế này, chúng ta có thể hiểu được “niềm tin” có sức mạnh mang tính quyết định! Chúng ta có thể quyết định thời gian còn lại của đời mình phải sống an lạc, vui vẻ, không bị bệnh tật ảnh hưởng! Đây là điều không ai có thể ngăn cản được chúng ta! Bào thai là khối u lớn nhất trong cơ thể. Tôi từng đọc qua một câu trong sách y học về khoa phụ sản: “Thai nhi là khối u lớn nhất trong cơ thể!”Quả thực, thai nhi trong bụng mẹ phân hoá, càng lúc càng lớn, người mẹ không thể nào khống chế được. Ngay cả nhóm máu của thai nhi cũng có thể khác với mẹ. Người mang thai là người mang trong người một sinh mệnh khác mà mình không thể khống chế. Trong sách còn bảo đó là khối u lớn nhất trong thân thể con người! Nhưng tâm lý của người mẹ lại không sợ hãi, phần lớn còn rất vui sướng. Đây là vì người mẹ nhìn thấy phần lớn người có mang đều không sao cả, cho nên tự nhiên không sợ hãi. Giá như, nhóm những người mắc bệnh ung thư nhưchúng ta ai cũng có thể sống vui vẻ, an lạc thì những người sau này mắc căn bệnh này cũng không có lo lắng, sợ hãi. Không ai quy định mắc bệnh ung thư là phải sầu thương ủ rủ, buồn khổ khóc lóc. Chúng ta có thể phấn chấn tinh thần, sống một cách thoải mái, tự tại. Bài học từ cây đu đủ. Chỗ tôi ở có trồng một cây đu đủ. Cây đu đủ này từng là vị bác sĩ và cũng là thầy của tôi. Sao lại nói như vậy? Có một dạo, dạ dày và ruột của tôi bị khối u ung thư bức ép, cho nên ăn uống đều khó khăn, người trở nên gầy ốm. Một hôm tôi tình cờ trông thấy cây đu đủ này. Thực vô cùng kinh ngạc! Thân cây đu đủ còn nhỏ hơn ống quyển chân tôi, chỉ lớn hơn bắp tay của tôi một chút. Lại nữa, nó cũng không cao, có thể nói đó là một cây đu đủ vừa thấp lại vừa nhỏ. Nhưng trên thân của nó lại trổ ra rất nhiều trái, đeo bám đến mấy lớp, ít lắm cũng hơn ba mươi trái! Mỗi trái đu đủ đều lớn hơn khối u ung thư của tôi. Nhưng cây đu đủ này không vì những trái vừa nhiều, vừa to, vừa nặng trên thân mà ngã xuống! Thậm chí nó còn mọc rất thẳng, không nghiêng một chút nào. Tôi nhìn nó mà lòng vô cùng xúc động trước sức sống kiên cường, nên bất giác nước mắt lưng tròng, tỏ lòng tôn kính bảo: “Đu đủ ơi, ngươi thực là vị thầy của ta, ta sẽ học hỏi nơi ngươi.” Muốn thực sự học được như cây đu đủ cũng không phải là điều dễ dàng. Nhưng chúng ta chẳng lẽ lại không bằng cây đu đủ vừa thấp vừa bé đó sao? Lẽ nào chúng ta lại yếu đuối như vậy? Từng có một vị dược sĩ trẻ tuổi mắc bệnh ung thư rất bi quan và cuộc sống của cô cũng trở nên ảm đạm như ngày tận thế! Song thực ra cô không đến nỗi gì cho lắm. Nếu không nói ra, bạn cũg không biết cô ta mắc bệnh. Bên ngoài cô mập mạp hồng hào, sắc mặt cũng không đến đỗi, nhưng bởi vì tinh thần cô ta rất khổ, nên giáo sư Viện Y Học đưa cô đến tìm tôi để cùng khích lệ lẫn nhau. Lúc cô đến, tôi đưa cô đi thăm cây đu đủ, nói với cô về bài học mà cây đu đủ đã dạy cho tôi. Cô nghe xong cảm động đến rơi nước mắt. Chúng tôi cùng nhau chắp tay hướng về cây đu đủ tỏ lòng kính trọng, phát tâm học tập đức tính kiên cường của nó. Trái đu đủ mọc từ thân cây ra, đã có thể mọc ra thì cũng có thể gánh vác! Bướu từ thân chúng ta mọc ra, thì chúng ta cũng có thể chịu đựng, xử lý thoả đáng. Đây là niềm tin căn bản! Tiềm năng cơ thể con người là vô tận. Thân thể của chúng ta vốn chỉ là một cái trứng thụ tinh bé tí trong lòng mẹ, thế mà nó đã phát triển thành đủ mọi giác quan. Những giác quan này tự mình lớn lên và đều có công năng khác nhau, có thể nói đó là một điều không thể nghĩ bàn! Cho dù bạn không quan tâm đến, da thịt bạn vẫn đổi mới mỗi ngày. Người không học ngành y có lẽ không biết rằng trong thân mình có những cơ quan nào. Nhưng tuy bạn không biết, chúng từnhỏ vẫn giúp bạn làm rất nhiều việc tốt. Tiềm lực của chúng thật vô cùng. Trước đây, tôi được nghe thầy Tiêu Vũ Dung giảng Phật Pháp. Người dạy chúng tôi phải có tâm biết ơn đối với cơ thể. Ngài đã nói đến một việc rất lý thú. Đó là lúc chúng ta dùng cơm, chén đũa dính dầu mỡ nếu không dùng nước rửa chén để rửa thì không sao sạch được. Nhưng dạ dày và ruột chúng ta ăn biết bao nhiêu thứ dầu mỡ mà trước giờ mình đâu có cần nước rửa chén hay bất cứ thuốc tẩy rửa nào! Ruột và dạ dày tự nó biết xử lý mà không cần chúng ta dạy dỗ, can thiệp! Vậy bạn nói xem, có phải chúng ta có được một thân thể rất giỏi giang, rất khéo léo hay không? Nó thực sự có Phật tánh, lại còn có đầy đủ tiềm năng lớn mạnh trong đó. Cho nên chúng ta phải gắng sức khai phát, vận dụng tiềm năng này, mà không phải chỉ biết trách móc, chà đạp nó. Thông thường, người ta hay: lúc chưa bệnh sống bê bối, vô độ, đó là chà đạp thân thể; lúc có bệnh lại trách móc nó! Ông chủ nên có lòng từ bi và biết ơn. Bạn thấy, tim của mình đã đập không ngừng từ nhỏ. Lúc chúng ta ngủ nó cũng không ngủ, vẫn tiếp tục đập, chưa từng xin chúng ta nghỉ phép một ngày, cũng như chưa từng có đình công! Nói ra, chúng rất cực khổ. Hiện nay, tuyệt đối tìm không ra một nhân viên nào làm việc hết lòng, hết sức như vậy. Cho nên khi các cơ quan trong thân mình thỉnh thỏang có mệt, có bệnh, chúng ta cũng nên cảm thông nỗi cực khổ mà đối xử với chúng với thái độ từ bi và biết ơn, cũng như cho chúng có cơ hội điều chỉnh và khôi phục. Chúng ta không nên một mực trách móc, bài xích, dường như có mối thù không đội trời chung với chúng, cần phải lập tức cắt bỏ, quyết phải tiêu diệt không chút lưu tình! Nếu bướu mọc nơi mà mình không thể cắt, không thể tiêu diệt ngay lập tức, thì mình lại lo sợ, bực bội, trách móc. Chúng ta thử nghĩ: Giả như bình thường có một ông chủ đối với nhân viên của mình không chút quan tâm, giúp đỡ, một khi nhân viên có chút gì sai lầm, lại muốn lập tức khai trừ! Bạn bảo xem ông chủ đó có quá đáng hay không? Tin rằng ông chủ mà như vậy thì nhân viên đều phản lại! Một ngày trước và sau khi phát hiện ung thư. Chúng ta thử nghĩ xem, một ngày trước khi phát hiện ra ung bướu, thì khối u đó vẫn tồn tại trong thân, vả lại kích thước lớn nhỏ vẫn giống nhau. Lúc ấy, mình mang khối u đi khắp nơi, làm việc và cười nói với mọi người. Vậy tại sao một khi trong đầu mình có ý niệm: “Tôi mắc bệnh ung thư,” thì thế giới trở nên mưa gió, tối tăm, không còn cười tươi được nữa! Chúng ta ai cũng biết, mỗi người khi sinh ra đều chú định sẵn có ngày sinh mệnh kết thúc. Đây không phải là điều mà khi mắc bệnh ung thư mới biết. Nếu mình vì sinh mệnh sẽ kết thúc mà lo sợ, thì lẽ ra từ khi sinh ra đã bắt đầu lo sợ rồi, mà không phải đợi khi bị tuyên bố là mắc bệnh ung thư mới lo sợ! Có thể chuyển hóa tế bào sai lầm . Thực ra tế bào ung thư vốn cũng là những tế bào tốt, như những công dân tốt, trong thân thể của ta. Do phải chịu bức ép, tổn thương, đả kích nên chúng mới bất đắc dĩ thay đổi, phân hóa thành những tế bào sai lầm. Những tế bào sai lầm này sẽ bị thân thể chúng ta quản chế. Bởi vì thân thể của chúng ta giống như một tổ chức xã hội, nó có hệ thống cảnh sát, đối với những tế bào mọc sai, thì bạch huyết cầu, lymphocyte của chúng ta có công năng phát hiện, quản chế và điều chỉnh. Giả sử lúc thể lực chúng ta suy yếu, cuộc sống không điều độ, thì công năng của hệ thống cảnh sát (hệ thống miễn dịch) sẽ trở nên suy yếu, khiến những tế bào mọc sai không được điều chỉnh, không biết cải đổi lỗi lầm. Chính những tế bào sai lầm này lại sinh ra những tế bào sai lầm đời thứ hai. Cứ như vậy tiếp tục sinh sản, dần dà chúng sẽ biến thành một đòan thể tự phát triển, đây chính là “ung bướu.” Điều này giống như một đứa trẻ tốt, nhưng gặp phải hoàn cảnh xấu, thì nó cũng bị ảnh hưởng, tâm lý tốt sẽ dần dần thay đổi, trở nên xấu tính, rồi đi gia nhập băng đảng, chiếm cứ địa bàn, gây gỗ đánh nhau. Đây giống như là ung bướu. Nhưng ngược lại, đứa bé biến chất thành xấu đó cũng có thể trở lại người tốt! Chỉ cần chúng ta hiểu biết, giúp nó loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện khiến nó hư đốn. Đối với đứa bé đó, có người chủ trương cứ giết phứt đi là giải quyết được vấn đề. Song giết nó đi rồi sau đó có thực sự đã giải quyết được vấn đề hay không? Nếu hoàn cảnh xấu của toàn xã hội không thay đổi, thì sau này những đứa trẻ tốt khác cũng lại trở thành những đứa bé xấu. Vậy rốt cuộc phải giết đến mức độ nào đây? Đứa bé trở nên xấu là có nguyên nhân. Chúng ta cần phải hiểu rõ và loại trừ nguyên nhân đó, đồng thời cảm hoá, thì đứa trẻ sẽ trở nên tốt. Tế bào chúng ta cũng giống như vậy, không phải chỉ cần giải phẫu, giết sạch tất cả là được! Những người thuộc băng đảng có thể sửa đổi tu thành Phật, thì tế bào ung thư cũng có thể chuyển hoá thành tế bào lành mạnh. Tôi từng quen biết một số người xuất thân từ băng đảng, lại còn giao tiếp với họ rất vui vẻ. Tôi cũng tôn trọng họ. Họ không phải đều là xấu cả, thậm chí có người còn rất ưu tú, biết nhạy cảm với việc thiện. Chẳng qua trong một lúc nào đó do nhân duyên không tốt, họ có mối khổ tâm bất đắc dĩ, nhất thời không thể giải quyết, nên đã đi một bước sai lầm. Nếu có ai thực sự cảm thông cho lập trường và mối khổ tâm của họ, thì trong một niệm họ cũng có thể trở lại là người tốt. Sau khi Phật tánh thiện lương của họ được khai phát, thậm chí họ còn vượt qua một số người bình thường. Chúng ta biết rằng nhân duyên là cái có thể thay đổi. Tế bào cũng giống như vậy, có thể biến thành xấu, mà cũng có thể trở nên tốt. Tế bào ung thư có thể trở thành tế bào bình thường. Y học có một thí nghiệm về việc cấy nuôi tế bào ung thư. Lúc mà điều kiện được khống chế tốt, quả thực có thể khiến tế bào ung thư trở nên bình thường, rồi biến thành tế bào tốt. Chúng ta cần phải lắng lòng lại để phản tỉnh về nguyên nhân khiến những tế bào này trở nên xấu, rồi cố gắng dứt trừ nguyên nhân đó. Khi nhân duyên thay đổi, tế bào có thể trở nên tốt, hay ít ra chúng cũng không phát triển thêm. Một sinh mệnh khác, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta. Huống chi là tế bào trong tự thể.Chúng ta thử nghĩ xem, tế bào ung thư của mình có lớn như con mèo nhỏ hay không? Con chó hay con mèo nhỏ là một sinh mệnh khác, là một nhóm tế bào khác. Giả như một con chó nhỏ hay con mèo nhỏ leo lên mình chúng ta, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta, huống chi ung bướu là một nhóm tế bào trong thân thể của mình. Nó lại còn nhỏ hơn con chó nhỏ, hay con mèo nhỏ. Vậy chúng ta có nhất thiết phải sợ nó không? Cho dù gặp phải rắn độc cũng không nhất thiết phải sợ! Ung bướu cũng chưa chắc gây cho chúng ta tai hại gì! Rắn mắt kính còn có thể cảm nhận lòng thành sám hối niệm Phật, huống chi là tế bào của mình. Chúng tôi có một vị thầy, là người hết sức chân thật. Một hôm vị thầy đó đi xe máy trên đường núi, do nhìn không rõ, thấy một sợi dây nằm vắt ngang qua đường, liền cho xe cán qua phần đuôi của nó. Lúc đó mới phát hiện đó là con rắn, một con rắn mắt kính rất độc! Thầy không vì sợ mà cho xe chạy luôn. Thầy bước xuống xe, khởi tâm từ bi, xem con rắn có bị thương hay không. Con rắn lúc mới bị cán qua, liền vươn cao đầu và phần thân trên ngó thầy, xem chừng rất hung dữ, như là định xông tới. Thầy lúc đó không suy nghĩ gì cả, liền quỳ xuống chắp tay hướng về con rắn đảnh lễ như là lễ Phật, sám hối sự sơ suất của mình, sau đó còn niệm Phật cho con rắn. Con rắn đó thấy như vậy, dường như thực sự hiểu được ý của thầy, liền cúi đầu xuống nằm im, sau đó từ từ bò đi khỏi. Chúng ta xem, một chúng sinh được gọi là rắn độc, còn cảm thông được tâm niệm từ bi mà thay đổi thái độ và hành vi, huống chi là một số tế bào bất đắc dĩ phải trở nên xấu trên thân chúng ta. Thực ra, năng lượng những tế bào nhỏ này rất yếu, sức ảnh hưởng của nó cũng không là bao. Chúng ta có một thân thể to lớn hơn nhiều, thì tâm niệm, năng lượng và sức ảnh hưởng cũng to lớn hơn nhiều. Về mặt lý luận, chúng ta lẽ ra có thể là thay đổi những tế bào nhỏ này mới đúng. Chỉ cần khéo léo vận dụng tâm niệm này mạnh mẽ, phát huy sức ảnh hưởng tốt đẹp, thì chúng ta có thể thay đổi những tế bào ung thư nhỏ này. Huống chi chúng ta còn có Phật tánh rộng lớn vô biên và Phật lực bất khả tư nghì. Không cần phải sợ. Cần phải biết, dù chúng ta mắc bệnh ung thư vào thời kỳ nào, thì tế bào ung thư cũng không nhiều bằng tế bào lành mạnh. Thân thể chúng ta có bao nhiêu tế bào tốt? Có khoảng sáu mươi ngàn tỷ (60.000.000.000.000) tế bào tốt! Đây là một lực lượng vô cùng hùng hậu.Vậy tại sao lại bị một nhóm tế bào do nhân duyên xấu biến thành bệnh hoạn đánh bại? Về mặt lý luận, đây là điều không thể có được. Trừ khi nào tất cả tế bào lành mạnh đều bị sợ hãi đến mức không thể phấn chấn, phản kháng! Chúng ta có thể dùng một ví dụ để nhận ra lý này. Như một ngôi làng có rất nhiều thanh niên khỏe mạnh. Một hôm có một tên cướp đến đó giết sạch tất cả. Các vị nghĩ xem điều này có hợp lý không? Chẳng lẽ những thanh niên đó đều ngủ mê cả sao? Hay là đều sợ đến mức tay chân thóat lực? Phải biết thanh niên là người, mà tên cướp cũng là người, vì sao thanh niên phải khiếp sợ tên cướp đến như vậy? Tên cướp không sợ thanh niên, mà thanh niên lại sợ tên cướp, đây là điều hoàn toàn vô lý! Có một em bé chỉ mới ba tuổi được người hỏi: “Giá như bị người xấu bắt, định giết chết, thì em làm sao?” Em nghe xong, dõng dạc trả lời: “Thì cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho hắn nghe!” Em bé đó đã biết vận dụng sức mạnh và trí tuệ vốn có của Phật tánh! Tên cướp cũng có Phật tánh, nên vẫn có thể phát tâm từ bi và được cảm hoá. Thực ra, làm ăn cướp chỉ trong một niệm. “Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật” cũng trong một niệm! Cho nên chúng ta có thể tập hợp sức mạnh hùng hậu của sáu mươi ngàn tỷ tế bào lành mạnh để cảm hoá, cải thiện tế bào xấu, ít ra cũng không bị nó ảnh hưởng, nên có thể sống một cách an lạc! Tâm niệm và quan niệm quyết định vận mệnh và hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta có thể quan sát bản thân, giả như gặp chuyện bất như ý hay sợ hãi, có phải tim mình đập nhanh và mạnh lên không? Dạ dày chúng ta cũng đau thắt như sắp đi vệ sinh, tay chân trở nên giá lạnh, thậm chí có người còn run rẩy, đổ mồ hôi lạnh! Xin hỏi, chúng ta có từng suy nghĩ điều gì khiến tim mình đập nhanh, tay chân run rẩy không? Một niệm thay đổi, sáu mươi ngàn tỷ tế bào cũng thay đổi. Trước đây, lúc chúng tôi thi môn giải phẫu học trong Y Học Viện, mọi người đều rất hồi hộp lo lắng, bởi vì phải vừa trả lời đề thi treo trên tử thi, vừa phải chạy quanh bàn mổ. Có một vị đồng học cảm khái bảo: “lạ quá, hai chân cứ phát run, không biết đây là do dây thần kinh nào khống chế, mà muốn dừng run cũng không được!” Mọi người có nhận ra không: Chỉ một tin tức đưa đến khiến mình thay đổi tâm niệm là sáu mươi ngàn tỷ tế bào liền thay đổi theo! Môi đang từ màu hồng liền chuyển sang màu xám xịt, cả người cũng nổi gai ốc! Có phải chúng ta thường dùng những tâm niệm áp lực, không vui này để bức ép sáu mươi ngàn tỷ tế bào tốt của mình. Hèn chi mà có một số tế bào nổi loạn! Giá như biết rằng sinh mệnh tạm thời này có lúc phải kết thúc, chúng ta sẽ biết trân trọng nó, sống một cách thong dong, tự tại, từ bi và hoan hỉ! Vậy chúng ta có nên tự làm cho thân tâm mình chịu áp lực, khiến phải đau khổ đến lúc chết hay không? Cấp trên từ bi hoan hỉ, nhân viên mới vui vẻ hết lòng! Chúng ta thử nghĩ: Nếu cấp trên biết quan tâm và cảm thông, có phải chúng ta sẽ vui vẻ hết lòng làm việc? Còn gặp phải cấp trên hà khắc, bữa nào cũng nổi giận, trách cứ, đòi đuổi việc nhân viên, thì đương nhiên không ai hết lòng làm việc, thậm chí còn cố ý quấy rối, phản kháng, khiến cấp trên bị tổn thất! Tình hình tế bào toàn thân của chúng ta cũng giống như vậy. Chúng là nhân viên của chúng ta. Là ông chủ, lẽ ra chúng ta nên dùng tâm niệm từ bi, an vui để khiến cho mỗi tế bào hoan hỉ làm tốt công việc và được đượm nhuần sức sống. Chúng ta nên để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi để tái tạo sức làm việc, máu huyết lưu thông để tiếp tế dưỡng khí và dưỡng chất một cách đầy đủ. Chúng ta thử nghĩa xem: khi chúng ta cảm thấy hoan hỉ và có tâm niệm tốt lành, thì có phải toàn thân đều cảm thấy thơ thới dễ chịu hay không? Chúng ta niệm Phật, niệm Pháp chính là đem tâm niệm của mình đặt vào trong trạng thái năng lượng cao nhất, từ bi hỉ xả thanh tịnh nhất. Trạng thái tâm niệm này sẽ sinh ra hiệu quả an ủi và khích lệ từng tế bào một trong cơ thể! Niệm Phật chính là cách vận dụng tâm niệm quý báu của mình một cách tốt đẹp nhất! Niệm Phật là môn trị liệu bằng âm ba vi diệu nhất, nhằm khai thác khả năng trị liệu tự nhiên của Phật tánh. Bản thân tôi niệm Phật không có thành tựu gì đặc biệt. Bởi vì sự hiểu biết của tôi rất cạn cợt, còn về phương diện thực hành thì cũng không được tinh tấn, thiết thực bằng người khác. Nhưng tôi có một kinh nghiệm nhỏ như sau. Đó là khi niệm Phật lập tức trong miệng tiết ra chất dịch rất ngọt, khiến cả ngày dù không uống nước cũng không cảm thấy khát, nên dù niệm Phật ra tiếng suốt buổi cũng không bị khan giọng, có lúc còn cảm thấy cả lục phủ ngũ tạng của mình đều mát mẻ, dường như mỗi tế bào đều hoan hỉ. Trên thế giới không có ai bắt buộc tôi phải niệm Phật; càng không có ai quy định mỗi ngày tôi phải niệm bao nhiêu câu Phật. Nhưng tôi cảm thấy niệm Phật thân tâm thực sảng khoái, thư thới, vượt hơn bất cứ sự hưởng thụ nào. Vì vậy tôi chọn lựa niệm Phật. Làn sóng tâm niệm Phật và làn sóng âm thanh niệm Phật khiến toàn thân chúng ta chấn động một cách vi diệu, dường như xoa bóp cho tất cả tế bào. Việc xoa bóp này rất nhẹ êm, rất tinh tế, khiến cho các tế bào trong trạng thái dễ chịu có thể phát huy công năng tốt nhất. Sự rung động tinh tế, vi diệu này, chỉ có khi nào thân tâm của mình buông thỏng, thư thới mới có thể nhận được tương đối rõ ràng. Giới y học và âm nhạc từng cùng nhau nghiên cứu việc dùng âm nhạc để trị liệu. Những loại âm nhạc khác nhau có khả năng trị liệu khác nhau. Đây là điều mà các nhà khoa học đã chứng minh được qua thực nghiệm. Khi chúng ta mở rộng tấm lòng, toàn thân buông thư và niệm Phật theo âm vận nhất định, thì tin rằng còn hiệu quả hơn so với những âm nhạc bình thường. Bởi vì trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ vi vĩ đại và trí tuệ thâm sâu cứu độ chúng sinh của đức Phật. Đồng thời, danh hiệu Phật cũng khai phát ánh sáng và năng lực công đức Phật tánh vốn có bên trong chúng ta! Năng lực công đức này đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị liệu tâm bệnh và thân bệnh! Chúng ta niệm Phật có thể khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh sẵn có nơi chính mình, giải quyết được rất nhiều vấn đề. Phật là người đã khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh của mình đến mức viên mãn. Khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, Ngài cũng sẽ theo bản thệ nguyện của mình mà đến hướng dẫn, giúp chúng ta đạt đến cảnh giới vĩnh viễn an vui, không còn lo buồn! Vọng tưởng chấp trước là rác bẩn! “Vui vẻ không buồn lo, gọi là Phật.” Trước đây khi còn ở Học Viện Y Học, chúng tôi đã từng thảo luận qua câu này. Có một vị đồng học bảo: “Điều này không có gì kỳ diệu đặc biệt! Tôi cũng làm được. Tôi bây giờ vui vẻ không lo buồn, vậy hiện tại tức là Phật rồi! ” Mọi người nghe xong đều phì cười! Có một sinh viên lớp trên liền trả lời: “Ngày mai giáo sư cho anh rớt, lại bị bạn gái bỏ rơi, thử xem anh còn vui vẻ không lo buồn được nữa không! Hay đến chừng đó mặt mày anh ủ dột, oán trời trách người!”Mọi người ai nấy đều cười! Anh bạn học đó cũng cười bảo: “Quả đúng như vậy! Cái Phật này của tôi rất ngắn ngủi! Một ông Phật bong bóng nước, không biết sẽ vỡ lúc nào!” Thực ra, Phật vốn nói với chúng ta: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể giác ngộ và vui vẻ không lo buồn. Nhưng trong tâm chúng ta đầy dẫy những vọng tưởng chấp trước. Vì vậy, mỗi ngày mình đều bị phiền não, chướng ngại và những tư tưởng lăng xăng dẫn dắt, khiến chúng ta không thể sống vui vẻ, an lạc. Do đó, sức mạnh và tiềm năng Phật tánh cũng không sao phát huy ra được. Thực ra, chúng ta ai cũng có thể quyết định: Buông bỏ những vọng tưởng chấp trước như đổ bỏ rác bẩn, để tận hưởng bản tánh thanh tịnh tự tại. Đây là điều mà không ai có thể ngăn chúng ta. Nhưng lạ lùng thay chúng ta cứ thích “chiếm hữu”! Chính là sự chiếm hữu đau khổ! Chúng ta ôm chặt lấy đau khổ, cam chịu với nó mà không sao thoát ra được. Mất đi phân dơ, được nhẹ nhàng. Một hôm, tôi nói với một người bạn: “Chị nghĩ xem, đi vệ sinh là được hay mất?” Cô ấy nghe xong cười lớn bảo: “Tôi đã sống và đi vệ sinh bốn mươi năm, thế mà vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này!” Rồi cô ấy suy nghĩ một chút, lại bảo: “À, có lẽ là được, mà cũng có nghĩa là mất. ” Tôi liền hỏi: “Chị được cái gì và mất cái gì?” Cô nói: “Đơn giản là mất đi phân hôi thối, và được nhẹ nhàng dễ chịu!” Tôi lại hỏi: “Phân có được kể là cái của chị hay không?” Chị lại cười và bảo: “Vấn đề này thực tức cười! Nếu bạn bảo nó không phải là cái của mình, thì nó từng ở trong bụng, do ruột của mình gia công tạo ra. Còn như bảo nó là cái của mình, tại sao nó lại không thể ở mãi trong bụng? Lại cũng không ai muốn giữ, mà phải bỏ nó ra ngoài.” Chúng ta thử suy nghĩ phân dơ từ đâu đến? Chúng ta phải cực khổ bôn ba kiếm tiền, lại cũng cực khổ mua đồ nấu ăn. Ăn xong cũng phải cực khổ tiêu hoá ra “kết quả” như vậy. Nhưng chúng ta không thể giữ lấy nó, phải bỏ ra mới được. Nếu không bài tiết ra ngoài mà giữ lại trong bụng sẽ rất nặng nề, khó chịu, vừa đau lại vừa khổ! Phải giải quyết xong thì mới dễ chịu! Tu hành như bài tiết phân dơ, buông bỏ phiền não, được thư thới. Trong quá trình tu học Phật Pháp, tôi chỉ được kể là có chút duyên với Phật mà thôi, không có tu hành bao nhiêu. Nhưng một chút kinh nghiệm này, khiến tôi cảm thấy tu hành như bài tiết phân dơ, xả bỏ những rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm, để được nhẹ nhàng, thư thới. Nếu chúng ta biết tiết kiệm sức lực và tinh thần tiêu tốn trong những vọng tưởng lăng xăng, thì thể lực của mình sẽ khá hơn rất nhiều. Còn như phân dơ trong bụng nếu không bài tiết ra ngoài, thì dùng bất cứ thuốc nào cũng không dễ chịu. Cũng vậy, rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm nếu không thực sự giải quyết được, thì niệm Phật sẽ không đắc lực, không được nhẹ nhàng, thư thới. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Tâm khéo an trú: không gì bằng, Ý thường thanh tịnh: niềm vui lớn Tâm niệm và hiệu quả điều trị của việc ăn uống. Do có nhiều người hỏi đến vấn đề ăn uống, nên nơi đây bàn qua vấn đề này. Đừng vì ăn uống mà tâm căng thẳng. Có rất nhiều người bệnh và gia quyến đã bỏ ra phần lớn thời gian và tâm trí trong việc tìm kiếm một loại thuốc đặc trị nào đó, như thuốc bí truyền, gia truyền, hay cách ăn uống có hiệu quả trị liệu đặc biệt. Thậm chí có người chưa hiểu được nguyên lý, phương pháp mà lại tuyệt thực lâu ngày. Vì bôn ba khắp nơi, lại cố ý miễn cưỡng mong cầu nên khiến tâm lý họ trở nên căng thẳng, tự gây thêm áp lực trong tâm. Vì vậy, thân tâm của họ không sao được điều hoà, nhẹ nhàng và an ổn thực sự, càng làm trở ngại cho công năng miễn dịch chính mình. Tâm cảnh khác nhau, mùi vị cũng khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra: Đồng một thức ăn, nhưng nếu ăn với những trạng thái tâm lý khác nhau, thì mùi vị cũng khác nhau, và chất dinh dưỡng hấp thu lại càng khác nhau! Chúng ta hãy tự quan sát: Cùng một đĩa thức ăn, mà khi đói và khi no chúng ta nhìn lại có cảm giác hoàn toàn khác nhau. Khi thi đậu và khi thi rớt, ăn cơm mùi vị cũng khác nhau xa. Lúc bị mắng và khi được khen, tình trạng tiêu hoá nhất định khác nhau. Đây là do vì tâm niệm sinh ra những làn sóng điện làm ảnh hưởng đến vật chất. Cho nên trạng thái tâm lý khác nhau cũng sinh ra chất men tiêu hoá cũng khác nhau. Ví dụ, khi ăn uống, đối với thức ăn mà có sự chê chán, hay tâm trạng buồn bực, lo lắng, thì nước miếng sẽ bị biến mất, giảm số lượng kháng thể và men tiêu hoá, do đó sự co bóp của dạ dày và ruột cũng không tốt. Cho nên, dù có ăn thức ăn có bổ dưỡng đến đâu cũng không hấp thu được nhiều và lợi ích bao nhiêu. Tâm vui vẻ: hiệu quả trị liệu lớn, tâm hoan hỉ biết ơn: dinh dưỡng cao. Như đã nói qua, tâm niệm vui vẻ sẽ sinh ra vật chất làm tăng sức miễn dịch. Thân tâm buông lỏng, thư thới thì máu huyết sẽ lưu thông, dưỡng khí được đầy đủ, nước miếng bao gồm kháng thể và men tiêu hoá mới dồi dào. Tâm an định và đủ lòng tin thì chất nội tiết sẽ điều hoà đúng mức bình thường, cũng như có đầy đủ chất men để giải độc hay hấp thu dinh dưỡng. Người mà ăn uống trong lòng vui vẻ, biết ơn, cảm thấy ngon miệng, thì chất nội tiết tất nhiên sẽ điều hoà, chất men cũng rất dồi dào. Vì vậy, tuy cùng ăn một thức ăn, mà người đó hấp thu dinh dưỡng và được lợi ích nhiều hơn hẳn người khác. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết, loại người này có hiệu quả trị liệu tốt nhất, chỉ cần ăn một chút gạo lức, gạo ngũ cốc, nhai kỹ khiến hoàn toàn tan vào trong nước miếng rồi nuốt từtừ, thì cũng hết được bệnh! Nguyên lý này, đức Phật đã sớm biết rõ từ gần ba ngàn năm trước, nên Ngài dạy chúng ta khi ăn cơm phải phát nguyện tốt đẹp và khéo dụng tâm. Khéo vận dụng tâm niệm cầu nguyện hạnh phúc cho chúng sinh, cho đến cầu nguyện hạnh phúc cho tế bào. Cho nên tâm niệm lúc ăn uống, như tâm biết ơn, tâm tán thán, tâm phát nguyện, tâm hoan hỉ niệm Phật…, còn quan trọng và có lợi ích hơn nhiều so với nội dung thực phẩm. Đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải cầu nguyện: Khi con đang dùng cơm Nguyện tất cả chúng sinh Hưởng thức ăn Thiền duyệt Ngập tràn tâm Pháp hỉ. Đây là đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải khéo vận dụng tâm niệm để điều hoà thân mình và tu tập công đức. Khéo dùng tâm phát nguyện tốt đẹp, cầu nguyện phước lành cho mỗi chúng sinh, mỗi tế bào đều ngập tràn niềm vui tột cùng của Thiền định (thiền duyệt), và niềm hoan hỉ đến từ chân lý (pháp hỉ); dùng tâm biết ơn và chánh niệm để thọ thực. Đối trước thức ăn, không khởi tâm tham, sân, thì tâm niệm mới không “tự tạo ra độc tố!” Độc tố này chỉ trong một niệm đã sinh ra số lượng lớn đưa vào trong huyệt dịch, còn tai hại hơn nhiều so với chất độc từ ngoài vào! Nếu ăn những thức ăn sạch sẽ, dinh dưỡng mà trong tâm buồn giận, không vui, thì bao giờ cũng còn độc tố trong mình, không khi nào bài tiết ra hết! Trị liệu bằng cách ăn uống, đừng thực hành một cách cực đoan, sai lệch, chỉ làm tăng thêm chướng ngại tâm lý. Những năm gần đây, ngày càng có nhiều người bệnh sử dụng cách ăn sống. Họ phần lớn đều mới nghe qua lời đồn đãi, truyền miệng, chưa biết rõ ràng, đã vội theo trí tưởng tượng của mình mà thực hành. Hay có người chưa hiểu thấu đáo đã tuyên truyền ý chỉ “thân, tâm, linh” phối hợp toàn bộ, liền thiên chấp một bề ăn sống, khiến bản thân phải mang thêm nhiều bệnh tật và rắc rối. Thậm chí có người, về mặt tâm lý đối với thức ăn rất lo sợ, hay đối với thức ăn đã nấu chín rất bất mãn hay bài xích. Họ ăn thức ăn gì cũng rất lo lắng, không bỏ được tâm lý “sợ”. Họ sợ cái này có độc, cái kia có hại, suốt ngày chỉ nghi ngờ, lo sợ vẩn vơ. Họ lại nghĩ không biết ăn cái này có bổ lắm không, sẽ khiến tế bào ung thư thêm lớn? Ăn cái kia có lạnh lắm không, sợ không đủ sức lực? Nói chung, họ ăn thứ gì cũng hồi hộp lo sợ, hoàn toàn đánh mất tâm biết ơn, tâm hoan hỉ và tâm tự khích lệ mà lẽ ra nên có. (Kinh Hoa Nghiêm: “Nhuợc phạn nhật thời, đương nguyện chúng sinh, thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn.” (T10, no. 279, p.71,c17-18) 14) Họ có biết đâu, chính những tâm niệm đen tối như “sợ hãi”, “nghi ngờ”, “bất mãn” đều là nguyên nhân tạo ra chất độc, làm tổn giảm năng lượng và sức đề kháng của cơ thể nhiều nhất. Ăn uống vốn là để phát huy ánh sáng sinh mệnh một cách thoả đáng, khiến chúng ta có sức để khai phát lương tri, lương năng và tu hành Phật đạo. Không ngờ chỉ sai lầm trong một niệm, lại khiến sinh mệnh tốt đẹp của mình vì ăn uống mà sợ hãi, lo lắng. Có một số người suốt ngày chỉ lo ăn mà bận rộn, nhọc nhằn, lại có một số người thà nhịn đói không ăn, song có lúc chịu không nổi nên ăn rất là nhiều. Lại có người nghe nói thứ gì tốt, liền theo trào lưu, thứ gì cũng ăn! Như có một nhóm nào đó từng cười, kể lại: Họ nghe nói có tiểu mạch rất tốt, liền không hỏi số lượng sử dụng bao nhiêu và thích hợp dùng trong điều kiện nào, liền mỗi người trong tập thể cùng uống một ly lớn (hiểu lầm uống càng nhiều càng tốt). Kết quả, “toàn quân tan rã”! Đây là cách dùng từ dí dỏm của họ, ý nói uống xong ai nấy cũng đều ói mửa, uể oải, đầu nhức, chân run đứng không muốn vững. Nên biết cách trị liệu bằng ẩm thực, cũng phải cần “biết mình biết ta”, tức biết thể chất và tình trạng bệnh của mình, cũng như biết thuốc: biết đúng cách dùng và lượng dùng. Còn như không biết mình biết người, sử dụng một cách hồ đồ, khó tránh khỏi việc lệch lạc, nên không được lợi ích. Lại nữa, cần phải hiểu rõ một cách toàn diện mối liên hện giữa “thân, tâm, linh”, mới không phụ lòng của người quảng bá việc thương yêu, bảo vệ chúng sinh. Cho nên, chúng ta quyết không được “tu mù luyện quáng”, chưa hiểu rõ toàn bộ cách phối hợp và điều kiện sử dụng thích hợp, đã vội cố chấp một bề ăn sống. Cần phải biết mình biết người, mới là việc làm sáng suốt. Ngoài ra, đối với những bạn thích tuyệt thực, tôi xin trân trọng giới thiệu một phương pháp tuyệt thực đúng đắn, an toàn và hợp lý nhất. Đức Phật chế giới Bát Quan Trai, tức trong một ngày một đêm (24 giờ), thọ tám giới và trai pháp. Trai, có nghĩa là quá giờ Ngọ không ăn, cho đến ngày hôm sau khi mặt trời mọc. Đây là tương đương với tuyệt thực 18 giờ. Điều này có ý nghĩa đạo lý rất sâu. Tạm nói về mặt y học, nó cũng là việc “nhịn ăn ngắn” rất hợp lý, có lợi ích cho mình và người. (Có chuyên đề thảo luận nguyên lý y học đối với vấn đề này) Lại nữa, do tám giới điều chỉnh nội tâm đến mức an định, từ bi, khiến tâm niệm đoan chính, thanh tịnh (không tạo ra độc tố). Chữ Trai trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là “nghiêm chỉnh, thanh tịnh”. Cho nên bát Quan Trai Giới mà đức Phật chế ra giúp thân tâm chúng ta được điều chỉnh đến mức nghiêm chỉnh, thanh tịnh và phát huy công năng tốt nhất. Tám giới là: 1. không sát sinh, 2. không trộm cướp, 3. không hành dâm, 4. không nói vọng, 5. không uống rượu, 6. không dùng hương thơm, vòng hoa trang sức, 7. không tự mình ca múa và cũng không đi xem nghe, 8. không ngồi nằm trên giường cao rộng. Nếu ai có thể phát tâm bồ đề rộng lớn, thọ trì tám giới này trong một ngày một đêm, thì công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn. Người thích nhịn ăn, có thể chọn ngày nghỉ nào mà mình thuận tiện, thọ tám trai giới này trong một ngày một đêm. Đức Phật là vị thầy của tất cả vị thầy thuốc lớn, nên pháp “không ăn quá ngọ” mà Ngài dạy chúng ta là trung đạo và hợp lý nhất. Đây là phương pháp nhịn ăn ngắn và hữu ích, khiến thân tâm của mình được thanh tịnh, hoan hỉ và an lạc. Lễ Phật để tiêu trừ tội chuớng và khai phát năng lực tiềm ẩn. Tôi còn có một chút kinh nghiệm, cũng xin giới thiệu để các bạn tham khảo. Biết đâu kinh nghiệm này có thể giúp vượt thắng được cơn bệnh, hay giúp đỡ được phần nào. Khi tôi mắc bệnh không lâu, Hoà thượng Sám Vân dạy tôi phải lạy Phật cho nhiều để tiêu trừ nghiệp chướng. Hai chữ “nghiệp chướng” nếu giải thích đơn giản có nghĩa: “Nghiệp” là hành vi; “chướng” là chướng ngại. Đây là chỉ những hành vi tích lũy trong quá khứ chúng ta đã tạo ra chướng ngại cho cả hai mặt thân thể và tâm lý. Nói hành vi trong quá khứ bao gồm những tư tưởng, lời nói, và hành động của ba nghiệp thân, miệng, ý. Sao lại nói niệm Phật và lễ Phật lại có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Vì đang lúc chúng ta lạy Phật, tâm niệm được điều chỉnh đến mức “cung kính” và “từ bi thanh tịnh”. Miệng chúng ta niệm Phật thì không còn những lời nói tạp nhạp nào khác, đạt đến “ngôn ngữ thanh tịnh”, còn động tác lạy của thân thể thì mềm mại, thành kính, khiêm cung, đều có thể tiêu trừ những hành vi không tốt đã tạo ra những áp lực và chướng ngại. Như vậy cả ba phương diện thân, miệng, ý đều trở nên thanh tịnh, cung kính, thì có thể tiêu trừ những chướng ngại do hành vi thân tâm không hợp lý của mình tạo ra trong quá khứ. Đó chính là tiêu trừ nghiệp chướng, và cũng là huấn luyện thân tâm “an định không động”. Giống như chúng ta không ngừng đổ nước hay dội nước vào ống nước, thì có thể lần lần khiến ống nước trở nên thông lưu và sạch sẽ. Thân tâm ta cũng như vậy, không ngừng tắm mình trong pháp niệm Phật, lễ Phật, thì có thể khai phát được năng lực còn tiềm ẩn, làm sống dậy và thêm sinh lực cho các bộ phận chức năng trong cơ thể. Khi sức khoẻ tôi suy yếu trầm trọng, khối u lại rất lớn, động tác lạy mọp sát người theo cách “năm vóc sát đất,” (ngũ thể đầu địa) thực là khó khăn, nhọc mệt. Nói năm vóc sát đất, là chỉ cho năm phần thân thể: đầu, hai tay và hai đầu gối khi lạy phải chạm sát đất. Lúc ban đầu vì không biết cách, nên khi cúi xuống lạy, khối u và ruột lại cấn, đè vào nhau, có cảm giác như nghẹt thở. Lúc đứng dậy thì chóng mặt như trời xoay đất chuyển. Cho nên mỗi một lạy là một cực hình. Nhưng tôi đối với Phật có lòng tin và tôn kính rất sâu xa. Tôi nghĩ: “Dù mình có lạy Phật mà chết ngay tại chỗ cũng tốt hơn là không lễ Phật, nằm chết trên giường bệnh!” Chính tâm niệm này đã nâng đỡ, giúp tôi tiếp tục lạy Phật. Mới ban đầu, phải hết sức cố gắng tôi mới lạy xong một ngày một trăm lạy. Tôi cảm thấy thân thể rất nặng nề, hơi động một chút là thở hổn hển, tối tăm mày mặt. Sau đó, một hôm, tôi biết được có một chị họ Vương, là người tu học trước tôi, mắc bệnh ung thư xương, bị cưa mất một chân, thế mà mỗi ngày chị đứng trên chiếc chân còn lại, niệm Phật và lễ Phật đến một trăm lẻ tám lạy! Ngoài ra chị còn làm rất nhiều việc nhà. Tôi nghe xong cảm thấy rất xấu hổ. Trong lòng thầm nghĩ: “Chị chỉ có một chân, khó khăn như vậy mà còn cung kính lễ Phật đủ một trăm lẻ tám lạy. Còn mình hai chân nguyên vẹn, ít ra cũng phải lễ Phật đến ba trăm lạy!” Thực ra bạn chỉ cần thử qua cũng đủ biết, đứng một chân lạy còn khó hơn đứng hai chân cả chục lần! Việc khó khăn gấp mười so với tôi mà chị còn làm được, cho nên tôi phải cố gắng hơn. Vì vậy, tôi đã phát nguyện: “Phải lạy một trăm ngàn lạy để cám ơn Phật, cảm ơn cha mẹ, thầy tổ và tất cả chúng sinh; cũng đem công đức này hồi hướng cho những ai đang lâm khổ nạn, và những ai chẳng may mắc bệnh ung thư, nguyện mọi người đều có thể lìa khổ được vui!” Tưởng rằng mệt lắm, đâu ngờ càng lạy càng nhẹ nhàng, khoan khoái. Trên đời không có ai bắt ép tôi lạy Phật. Trái lại, mọi người còn khuyên tôi không nên nhọc sức quá. Đây là vì tôi tự phát nguyện rồi thì phải làm. Cho dù có khổ thì cũng phải làm đến nơi đến chốn. Nhưng thực lạ kỳ, lạy Phật hoàn toàn không phải khổ, không phải mệt như mọi người đã nghĩ! Trái lại, dường như càng lạy Phật càng thấy khoẻ, gánh nặng như mỗi lúc mỗi nhẹ. Ban đầu lễ Phật ba trăm lạy, mỗi ngày tôi phải chia ra làm nhiều lần mới lạy xong. Sao đó không biết tại sao, càng lạy, càng thấy nhẹ nhàng, mau chóng. Tôi cũng không có ý là lạy mau cho đủ số, chẳng qua là thân thể dường như nhẹ đi rất nhiều. Tôi có cảm giác là ống nước càng được rửa sạch bao nhiêu, thì nước chảy càng thông suốt bấy nhiêu, không giống ống nước lúc mới đầu bị bùn cát bên trong cản trở, nên nước chảy không thông. Có một hôm, trong trạng thái quên bẵng thời gian, không ngờ mình lạy liền một mạch đến ba trăm lạy! Thêm nữa, không mệt cũng không thở hổn hển, giống như mình chỉ mới lạy cái lạy đầu tiên. Tạp niệm càng ít, thân tâm càng nhẹ. Trước đây rất lâu, tôi nghe nói có một vị Pháp sư mỗi ngày vào buổi sáng đếu lạy ba ngàn lạy. Lúc đó tôi không tin. Làm sao mà trong khoảng thời gian ngắn lại có thể lạy hết ba ngàn lạy? Bởi vì tôi lạy vừa chậm vừa nặng nề, có cố lạy nhanh như thế nào cũng không thể lạy hết ba ngàn lạy. Lúc đó cũng có người vì không tin như tôi, nên đã cùng tôi đi đến đó xem vị Pháp sư này lạy Phật và đếm thử xem. Quả nhiên, trông Pháp sư lạy Phật không có gì vội vã, rất thong dong tự tại. Người xem chỉ có cảm giác như động tác của vị đó nhẹ nhàng, trôi chảy, như không có trọng lượng. Mọi người đếm số quả đúng là ba ngàn, không sót một lạy! Sau đó tôi mới tin: Khi vọng niệm của con người càng ít, thì gánh nặng của thân thể càng giảm, càng cảm thấy nhẹ nhàng, động tác càng không có chướng ngại, nên mới có thể lạy nhanh như vậy. Trong nhà Phật, những vị Pháp sư âm thầm dụng công như vậy rất nhiều. Tính ra, tôi chỉ là một người rất biếng nhác mà thôi. Lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu. Trước đây tôi nghe sư phụ Sám Vân dạy: “Lạy Phật là vận động tốt nhất, còn tốt hơn khí công và thái cực quyền.” Lúc đó tôi còn chưa thể lãnh hội được. Về sau, trong khi lạy Phật tôi phát hiện ra rất nhiều lợi ích, cho đến mối quan hệ tương ứng giữa nguyên lý lễ Phật và y học, chừng đó mới lần lần hiểu được lời của sư phụ. Lạy Phật là môn vận động giúp thân, miệng, ý chúng ta thanh tịnh; có thể giúp tâm chúng ta có thể khế hợp với tâm Phật và đương nhiên cũng có thể trị bệnh. Về mối quan hệ giữa lạy Phật và y học, chúng tôi sẽ có một chuyên đề riêng để bàn luận sâu hơn. Ở đây chỉ xin nói lược qua đôi điều. Lạy Phật có hiệu quả điều chỉnh xương sống, cường hoá nội tạng, làm tăng thêm tế bào mang dưỡng khí. Con người hiện này bị rất nhiều áp lực, tinh thần căng thẳng, cơ bắp toàn thân cũng tự nhiên căng cứng theo. Lại thêm vì thiếu vận động, cột xương sống trở nên cứng nhắc, rất khó uốn cong. Đứng về mặt y học mà nói, kẻ hở giữa những đốt xương trên cột sống là chỗ thần kinh và mạch máu đi qua. Thần kinh nơi tủy sống phụ trách quản lý các cơ quan nội tạng. Nếu khoảng cách giữa những đốt xương quá sát thì sẽ chèn ép dây thần kinh và mạch máu. Cho nên, nếu thần kinh và mạch máu ở đốt xương sống nào đó bị chèn ép thì đốt xương đó có vấn đề. Những chức năng của cơ quan nội tạng nào được sự giúp đỡ của dây thần kinh và mạch máu đó sẽ từ từ hư hoại. Bởi vì tư thế không đúng, cơ bắp căng cứng khiến xương cột sống đè lên nhau quá sát, máu chảy không thông, thần kinh bị ảnh hưởng, nên không thể đưa chất dinh dưỡng và dưỡng khí đến cung cấp cho những tế bào trong cơ quan nội tạng. Tế bào nếu thiếu dưỡng khí dễ dàng trở thành tế bào ung thư. Cho nên, điều này có liên quan rất lớn đến bệnh ung thư, Vì vậy chúng ta lúc bình thường, điều chỉnh các tư thế và động tác đi đứng nằm ngồi phối hợp với hơi thở, sẽ có ảnh hưởng tốt đối với tình trạng bệnh tật. Động tác lạy Phật đúng đắn giúp tiêu trừ những chướng ngại về mặt sinh lý và tâm lý. Động tác lạy Phật nếu đúng đắn có thể giúp ích cho việc trị liệu. Vì lúc lạy Phật phải cúi đầu xuống một cách dịu dàng, đến mức cằm đụng sát ngực, động tác này có thể giúp cột xương cổ gồm bảy đốt kéo giãn ra, đem lại những lợi ích sau đây: 1. Lượng máu dồn về bộ não đầy đủ Chỉ có hai đường huyết quản dẫn máu lên não bộ. Đường thứ nhất là động mạch cổ, đường thứ hai là động mạch xương sống. Động tác này khiến động mạch xương sống không bị đè ép, lượng máu và dưỡng khí cung cấp cho bộ não sẽ thông suốt và nhiều hơn, do đó giúp nâng cao công năng bộ não. 2. Dịch tủy xương sống và não (cerebrospinal fluid)lưu thông: Dịch tủy xương sống và não là lớp chất dịch tuần hoàn ở vòng ngoài tủy sống và bộ não, cũng như bên trong não thất. Nó có những công năng như sau: 1. Điều tiết sức ép của não. 2. Bảo vệ não. 3. Cung cấp chất dinh dưỡng. 4. Chuyển đưa các chất thải. Nếu tư thế của đầu, cổ không đúng, góc độ không ngay, sự lưu thông của chất dịch này bị cản trở, thì lớp tủy sống và não như bị ngâm trong nước ứ đọng không tươi mới, sức ép não cũng bất bình thường, dễ bị chứng nhức đầu, choáng váng. Động tác lạy Phật có thể giúp cho chất dịch của tủy sống và bộ não lưu thông, giúp tăng cường công năng bộ não, có thể chỉ huy tế bào toàn thân một cách thoả đáng. 3. Giúp hệ thần kinh ở xương cổ không bị ép, phát huy được công năng: Thần kinh ở những đốt xương cổ có liên quan mật thiết với những chức năng của mắt, tim, huyết áp, khí quản và nước miếng. Thần kinh của cánh tay cũng đến từ xương cổ. Nếu hệ thần kinh trong xương cổ bị chèn ép, sẽ sinh ra các chứng như đau nhức, tê bại. Nếu thường lạy Phật, cúi đầu nhè nhẹ, kéo giãn các đốt xương cổ, thì có thể trị liệu những chứng bệnh ở các bộ vị nói trên. Lạy Phật: Điều chỉnh xương sống, trị dứt bệnh nhức lưng, đau hông. Lúc cúi mình, lạy xuống (cúi đầu, khom lưng, co gối), phải lấy gót chân làm điểm tựa. Lấy gót chân làm điểm tựa là nguyên lý trọng tâm vật lý tự nhiên. Vì như vậy cơ bắp mới không căng cứng, tốn sức. Phần bụng và ngực phải cố gắng đưa về phía sau, đến có thể thấy được gót chân sau, mới cúi lưng xuống. Tốt nhất cúi đến mức phần bụng dưới cũng có thể sát với đùi. Động tác này có thể kéo giãn làm buông lỏng bắp thịt ở hai bên xương sống, khiến kẻ hở giữa các đốt xương sống có thể kéo giãn ra. Làm như vậy sẽ có tác dụng cải thiện rất lớn đối với nội tạng, hệ thần kinh và sự lưu thông máu huyết. Toàn bộ động tác lạy, cũng như động tác quỳ xuống, thân tuy động và trọng tâm giữ không động. Đó gọi là nhất tâm, là định trong động. Lại nữa, trong khi lạy Phật mắt đừng nhắm lại, nên thu nhiếp nhãn thần, quán chiếu lại mình. Nếu nhắm mắt thì tư thế không vững, công năng điều tiết huyết áp cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, làn sóng não lúc mở mắt và nhắm mắt khác nhau. Chúng ta lễ Phật và khai thác công năng của tánh giác, Khai phát công năng, điều hành thống nhất cao cấp của não bộ, mà không phải sùng bái một cách mù quáng. Lúc lạy Phật hai tay chắp lại, nhưng trước khi quỳ xuống thì hai tay buông nhẹ ra hai bên, chống xuống đất, sau đó đầu gối mới quỳ xuống. Sau khi quỳ xuống, lòng bàn chân hướng lên, thân người ngồi giữa mé trong của hai gót chân. Động tác này giúp kéo giãn khớp xương cổ chân, đồng thời cũng kích thích làm hoạt hoá điểm phản xạ của tuyến lymph, sau đó thân trên cúi xuống, mặt úp ngay sát đất. Điều nên chú ý là mắt phải mở. Động tác này có thể điều chỉnh lại cột sống của chúng ta. Con người vì muốn giữ tư thế đứng thẳng đã phải trả giá bằng sự đau lưng nhức hông. Nói chung khi người ta đứng, phần eo tương đối chịu lực, nên cột sống phần eo thường cong lại về phía bụng. Như vậy sẽ khiến các đốt xương ở cột sống phần eo ép chặt lại, tạo nên sức ép chướng ngại. Như vậy nó sẽ làm ảnh hưởng đến công năng của các cơ quan nội tạng như gan, dạ dày, lá lách, ruột già, ruột non, thận, bàng quang v.v…Lạy Phật có thể trị được những chướng ngại này. Đây cũng gọi là tiêu trừ nghiệp chướng. Vì lạy Phật sửa cột sống phần eo cong vào khiến cho nó thẳng lại, bằng cách đưa nó ra về hướng lưng. Đây cũng chính là cách đẩy ra phần cột sống bị ép quá chặt, khiến nó được giãn ra, không còn bị ép. Lạy Phật làm tăng lượng thở buồng phổi, mở rộng lòng độ lượng và khai phát sức tự giác. Lạy Phật khi quỳ xuống đầu sắp chạm đất, đồng thời hai tay duỗi ra trước một cách nhẹ nhàng, mềm mại để chuẩn bị tiếp xúc chân Phật. Tay đưa ra cách đỉnh đầu khoảng một nắm tay, đồng thời hai bên nách cũng cố mở rộng ra. Ý của nó là mở rộng tâm lượng của chúng ta, cũng là làm tăng lượng thở của buồng phổi. Sau khi đưa tay quá đầu, thì lật bàn tay lại khiến lòng bàn tay ngửa lên. Động tác này biểu thị: Tôi nhất định phải chuyển hoá cảnh giới tâm linh của mình, để tiếp nhận ánh sáng của Phật. Cũng có nghĩa: Tôi phải đem hết lòng mình ra để cúng dường cho Phật, không một chút lưu giữ. Lúc đó phải quán chiếu đầu ngón tay của chúng ta giống như cánh hoa sen mềm mại, không cần phải dùng sức. Dùng đôi bàn tay hoa sen này để đỡ chân Phật nhắc nhở chúng ta rằng: Hoa sen nở ra không phải nhờ sức mạnh bên ngoài, mà nhờ vào sức tự giác bên trong. Hoa lòng chúng ta rộ nở cũng giống như vậy. Lúc đó chúng ta phải quán tưởng đức Phật đại từ đại bi đứng trên đôi tay hoa sen của mình để tiếp nhận sự đảnh lễ. Chúng ta có thể đối diện cùng Phật, điều này thật là hạnh phúc biết bao! Lúc đó tự nhiên từ đáy lòng chúng ta sẽ mỉm cười. Chúng ta lại quán tưởng đức Phật phóng luồng ánh sáng thanh tịnh, từ bi chiếu vào đầu mình, khiến toàn thân trở nên thanh tịnh, sáng suốt. Tất cả bệnh đau đều quét sạch, như bóng tối gặp phải ánh sáng. Chúng ta lại quán tưởng tất cả chúng sinh đều lạy Phật chung với chúng ta, cùng tắm mình trong ánh sáng Phật. Lạy Phật giúp hô hấp triệt để, hoành cách mô co giãn mạnh, dẫn đến thở ở đan điền. Thở ra hết hơi dơ cặn bã, hít vào toàn hơi Phật thanh tịnh. Mọi người chúng ta ai cũng hít thở mãi. Nhưng thực ra ít ai biết phải hít thở như thế nào. Rất ít người biết thở một cách hoàn chỉnh và triệt để. Vì sao? Bạn thử quan sát xem, người ta chỉ cần ở trong trạng thái bận rộn, hay là tâm đang chú ý đến sự việc bên ngoài, thì hơi thở sẽ bị ảnh hưởng. Nó trở nên rất cạn, rất ngắn, thậm chí có lúc còn tạm thời dừng lại. Nhất là lúc trong lòng buồn bực, hay nổi giận, thì cách thở này không thể đem những khí dơ trong cơ thể ra ngoài, đổi lấy không khí tươi mới. Nếu như vậy lâu ngày chày tháng sẽ tích luỹ thành uế khí bên trong khiến cơ thể thiếu dưỡng khí. Chúng ta biết tế bào nếu thiếu dưỡng khí thì dễ biến thành tế bào ung thư. Chúng ta lễ Phật có thể điều chỉnh hơi thở, khiến hít vào thở ra triệt để hoàn toàn. Vì vậy, lễ Phật cũng là loại khí công rất tốt. Khi chúng ta cúi xuống lễ Phật, động tác này giúp chúng ta thở ra một cách triệt để, những chất khí dơ trong toàn thân và vùng phổi đều được xả bỏ sạch sẽ. Lúc năm vóc mọp sát đất, vì bắp thịt toàn thân buông lỏng, không bị sức cản, nên tự nhiên sẽ hít vào một cách rất sâu, rất đầy đủ. Theo nguyên lý động lực học của huyết dịch, thì hít hơi thở vào sâu có tác dụng hấp dẫn dòng máu chảy thuận lợi trở về tim rồi bơm đi khắp nơi. Do đó trong khi lạy Phật, từng tế bào trong thân chúng ta sẽ nhận được dưỡng khí và dinh dưỡng rất phong phú, cho đến cảm nhận được không khí hoan hỉ, hạnh phúc của thế giới Cực Lạc. Lúc lạy xong chuẩn bị đứng dậy, cần phải mượn sức hít thở vào để đứng lên, thì sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, đỡ nhọc mệt.
  11. NIỆM PHẬT CHUYỂN HÓA TẾ BÀO UNG THƯ Tác giả: Pháp sư Đạo Chứng Dịch giả: Thích Minh Quang Lời Người Dịch Bệnh tật đeo theo để khổ đời Con người vì bệnh phải mòn hơi Bệnh xui quân tử không tròn chí Bệnh khiến nam nhi phải lỡ thời Bệnh chuyển trần gian thành địa ngục Bệnh mờ non nước áng mây trời Phải chăng không bệnh là hy hữu? Nên mộng xuân hồng phải tả tơi! Một nhà thơ nào đó đã đặc tả bệnh khổ, một trong ba nỗi khổ lớn nhất của nhân sinh, đầy hình tượng mà cũng vô hình chân thực. Thực vậy, già, bệnh, chết là ba cửa ải phải qua của đời người, mà trong đó bệnh khổ mang tính quyết định. Nếu già mà tỉnh táo, khỏe mạnh, chết mà nhẹ nhàng, thanh thản thì cũng không phải là điều đáng sợ; chỉ có bệnh khổ dày vò thân tâm, khiến chúng ta cầu sống không được, muốn chết không xong mới là điều đáng sợ nhất. Thế nên có người bảo: “Tôi không sợ chết, chỉ cần khi chết ra đi nhẹ nhàng, không bị bệnh tật hành hạ đau đớn.” Nhưng thực ra, sợ chết vốn là bản năng, chấp ngã của con người. Dù lúc bình thời mình có hiểu vô thường và nói cứng bao nhiêu, nhưng khi đối diện cái chết, trước nỗi đau đớn dày vò, cũng như nghiệp lực quá khứ quấy nhiễu, nếu bình thời không có công phu đắc lực, thử hỏi mấy ai là có thể không hốt hoảng sợ hãi, trước vọng tưởng “cái ta” sắp mất của mình? Thực đúng, như những gì mà Thiền sư Quy Sơn đã nói: “Một mai nằm bệnh ở giường, các khổ trói trăn bức bách, sớm chiều lo nghĩ, tâm ý bàng hoàng, đường trước mịt mờ, không biết về đâu? Lúc đó mới biết ăn năn, như khát mới mong đào giếng, chỉ hận sớm chẳng lo tu, đến già nhiều điều lầm lỗi. Lâm chung rối loạn, lưu luyến bàng hoàng.” “Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?” Đây là câu hỏi mà phần lớn chúng ta vẫn mê mờ không rõ. Thế nhưng khi còn khỏe mạnh, chúng ta lại không biết dùng thời gian và năng lực quý báu để tìm câu giải đáp; đợi đến bệnh nặng sắp chết mới bàng hoàng lo sợ, thử hỏi lúc ấy có kịp không? Trong các thứ bệnh, có lẽ ung thư là căn bệnh mà người ta sợ hãi nhất vì mọi người đều nghĩ đây là một thứ bệnh nan y chưa có thuốc đặc trị, ai vướng phải nó như vướng phải án tử hình, nhất định sẽ bị tra khảo, hành hạ đến chết. Duyên lành thay, đức Phật và các vị thiện tri thức đã chỉ cho chúng ta một con đường thấu thóat: đó là quán chiếu bản chất vô thường, vô ngã của nhân sinh, sửa đổi tư tưởng và cách sống của mình, phát huy nguồn ánh sáng vô lượng trong tự tâm, soi sáng cho mình và người trong cõi đời tăm tối. Lại thêm, chỉ cần có tâm sám hối, có niềm tin chắc chắn mở rộng tâm mình đón nhận ánh sáng nhiếp thọ của đức Phật A Di Đà và mười phương chư Phật, chúng ta sẽ thể nghiệm được sức Phật thực không thể nghĩ bàn, sức niệm Phật cũng không thể nghĩ bàn, có thể chuyển hóa bệnh khổ thành an vui, biến đổi Ta bà thành Tịnh độ. Hành trạng sống quên mình, chết an nhiên của các vị cao tăng, đại đức và những ai chân thực niệm Phật là bằng chứng đầy sức thuyết phục cho khả năng vi diệu, bất khả từ nghì của Phật pháp. Vạn hạnh Thiền sư bảo: “Tùy cảnh thạnh suy không sợ hãi” Tuệ Trung Thượng sĩ nói: “Sinh tử thấu đáo rồi, nhàn vậy thôi.” Cũng như vậy, hành giả Tịnh độ đủ lòng tín nguyện, biết rõ và chắc nẻo về của mình: “Hiện tại sống an lạc, tương lai sinh Cực Lạc.” Do đó, bệnh khổ không phải là không có lối thoát, chẳng qua chúng ta có biết cách thoát cũng như đủ niềm tin và công phu để thoát hay không. Cho nên: Nếu biết giữ tâm mình không bệnh Tử sinh nhìn lại chỉ trò chơi! “Thân bệnh mà tâm không bệnh,” đây không phải là câu nói suông mà đã được chứng thực qua cuộc đời của Pháp sư Đạo Chứng. Pháp sư là một vị chuyên trị ung bướu trước kia, sau đó trở thành bệnh nhân ung thư, và cuối cùng xuất gia tu hành, thắng vượt bệnh khổ. Với bi nguyện giúp đời, Pháp sư đã dấn thân vào nẻo khổ , cùng an ủi, khích lệ và chỉ dẫn cho những ai cùng trong cảnh ngộ. Tác phẩm Niệm Phật Chuyển Hóa tế Bào Ung Thư này chính là ghi lại những lời giảng dạy vô giá của Pháp sư. Trên con đường nhân sinh, nhiều gập ghềnh lại lắm hầm hố chông gai này, thử hỏi đã bao lần chúng ta vấp ngã? Có kẻ bỏ cuộc, có người tự đứng lên, song phần lớn là phải nhờ thiện tri thức dìu đỡ. Như các vị Thiền sư trong quá khứ, Pháp sư Đạo Chứng là một vị thiện tri thức vĩ đại của bệnh nhân ung thư trong thời hiện đại. Người đã dìu đỡ chúng sinh vượt qua vũng tối sợ hãi trước cửa ải bệnh khổ, tìm ra nguồn sáng nơi đức Phật Vô Lượng Quang. Người cũng lấy thân mình làm gương, thị hiện thân bệnh mà tâm không bệnh, dùng trí tuệ từ bi và phong thái tự tại giữa bệnh khổ để an ủi, khích lệ và chỉ dạy chúng ta thấy được bản chất nhân sinh, phát huy ánh sáng sinh mệnh, nhằm soi rọi và sưởi ấm cho mình và người. Quả thực như Pháp sư nói: Chúng ta không thể quyết định chiều dài của sinh mệnh, nhưng chúng ta có thể quyết định chiều rộng và chiều sâu của sinh mệnh. Cho nên, học sống một ngày là biết ơn một ngày, học sống một hôm có ý nghĩa một hôm. Vì vậy: Cho dù ngày mai tận thế, Đêm nay sen vẫn trồng Đem lòng gió mát trăng thanh Xưng tán A Di Đà Phật. Quyển sách này còn bao gồm bốn bài chia sẻ tâm đắc của các giáo sư, tiến sĩ hay bác sĩ. Đây đều là những vị có kinh nghiệm bệnh khổ và chiến thắng bệnh tật, vì tất cả từng là bệnh nhân ung thư! Song nhờ biết chuyển hóa tâm niệm, thay đổi cách sống, phát huy tiềm năng sinh mệnh, mà có vị sống đến hơn ba mươi năm sau khi bác sĩ tuyên án tử trong vòng sáu tháng! Quan trọng hơn nữa, họ đã tìm được dòng sinh mệnh vô tận trong đời sống hữu hạn, phong thái tự tại, biết ơn và vị tha giữa thế giới vô thường. Điều này khiến chúng ta càng tin tưởng vào sự vi diệu của Chánh pháp, tiềm năng vô tận của sinh mệnh và sức gia hộ không thể nghĩ bàn của chư Phật! Mỗi dòng trong nguyên tác là một chuỗi châu ngọc vô giá, đem lại nguồn an ủi và khích lệ vô biên cho người đọc. Mỗi tư tưởng của tác giả là một nguồn ánh sánh thanh tịnh, soi rọi thân tâm chúng ta khiến mê lầm tan biến, còn lại tâm mát mẻ sáng trong. Chúng ta có thể cảm nhận trí tuệ và tâm từ bi của Pháp sư đã đem lại niềm tin và an lạc cho mình ngay trong giây phút hiện tại. Cho nên, quyển sách này là thiện tri thức cho những ai đang sống trong bệnh khổ, là thuốc diệu Già Đà trị lành bệnh tật cả hai mặt thân tâm, là ánh sáng xua tan vũng tối sợ hãi, là nhịp cầu cảm thông giữa chư Phật và chúng sinh, là chỗ quay về nương tựa cho những tâm hồn bơ vơ, lạc lõng. Bút giả đã đem tâm chí thành, tri ân để dịch tác phẩm này. Cầu nguyện chư Phật gia hộ dịch phẩm có thể chuyên chở nguyên vẹn tâm từ bi, trí tuệ của Pháp sư và các vị thiện tri thức đến với người đọc. Cũng như cầu nguyện những ai có duyên đọc được, bệnh khổ sẽ tiêu trừ, tăng trưởng niềm tin, tìm được ánh sáng vô tận của sinh mệnh và ý nghĩa đích thực của nhân sinh, để sống những tháng ngày thực sự an lạc và hữu ích. Trong khi phiên dịch, bất chợt bút giả lãnh hội ý chỉ của đức Phật Dược sư, vị Phật trị lành bệnh khổ, kéo dài thọ mạng của chúng sinh, không khác đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn; tất cả đều là dòng sinh mệnh vô tận (Vô Lượng Thọ) và nguồn sáng vô lượng (Vô Lượng Quang) trong bản tâm thanh tịnh của chúng ta. Chỉ cần tiếp xúc được nguồn sống này, thì Đông và Tây không khác, sinh và tử như giấc mộng đêm qua, ngay Ta Bà uế trược đã xây dựng Tịnh Độ trang nghiêm. Trong niềm xúc cảm và tri ân này, bút giả xin ghi lại nơi đây bài Sám nguyện Dược Sư để chia sẻ cùng đại chúng, thay cho lời kết luận: Con quỳ đảnh lễ Phật Dược Sư Ngưỡng nguyện quy y đấng Đại Từ Phóng quang gia hộ cho đệ tử Sáng tỏ đường về cõi Vô Dư Bao kiếp qua rồi bởi si mê Gây nên nghiệp chướng rất nặng nề Chiêu cảm thân tâm nhiều bệnh khổ Nguyện xin sám hối hết mọi bề Bỏ ác làm lành, nguyện phóng sanh Từ bi hỷ xả gắng tu hành Chuyển hóa nghiệp nhân nhiều đời trước Nạn tai tiêu sạch hưởng quả lành Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Nguyện lớn độ người khắp thế gian Gia hộ cho con lìa bệnh khổ Tùy cơ cảm ứng chẳng nghĩ bàn Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Thân dù bệnh khổ chẳng được an Tâm giữ vững vàng luôn chánh niệm Tây phương chờ sẵn đóa sen vàng. Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Nguyện học hạnh Ngài cứu thế gian Diệu pháp cho đời vơi đau khổ Trăm ngàn gian khó chẳng từ nan.4 Nam mô Sinh Tử Tự Tại, Hoan Hỉ Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nguyện đem đất ở Ta bà Trồng sen Tịnh độ, chín tòa ngát hương! Thích Minh Quang kính ghi Tịnh thất Hàn Mai, ngày 27/7/2005 NIỆM PHẬT CHUYỂN HÓA TẾ BÀO UNG THƯ Vướng phải bệnh ung thư hay bệnh nan y nào khác, phải làm cách nào đây? Giả sử bạn là một người tin Phật, niệm Phật đã đến trình độ tâm an nhiên, hoan hỷ thì không cần phải nói gì nữa. Còn như bạn chưa chuẩn bị gì cả, mà bỗng nhiên phát hiện ra mình mắc bệnh ung thư, hay một căn bệnh nan y nào khác, nên trong lòng đau khổ, cuộc sống đầy lo lắng bất an, không biết phải làm cách nào, vậy chúng ta có thể an ủi, khích lệ lẫn nhau. Tôi vốn là một bác sĩ trị bệnh ung thư, mà lại trở thành bệnh nhân ung thư! Có thể vì lý do này, bạn cho rằng tôi là một bác sĩ vừa dở lại vừa dốt, bản thân còn lo chưa xong, thì nói chi làm được việc gì. Vâng, quả thực là như vậy! Rất nhiều người cười tôi. Tôi cũng cảm thấy bản thân mình đáng cười, một người bác sĩ ngu dốt! Song thực ra, trên đời này, chẳng có một bác sĩ nào mà không mắc bệnh. Càng tìm không ra một bác sĩ nào có thể bảo đảm rằng mình không bệnh, không chết! Cho nên, kinh nghiệm mà bản thân tôi trải qua, tuy có một chút đáng cười, song nếu như bạn từ bi không chê bỏ, xin thử kiên nhẫn lắng nghe. Cho dù là vài tờ báo cũ rách, cũng có thể giúp bạn gói chiếc bình hoa xinh đẹp, quý giá của mình, bảo vệ khiến nó không đến nỗi bị va vỡ; một ngọn nến với ánh sáng mờ nhạt mà lúc bình thường không đáng chú ý, lại có thể giúp bạn vượt qua một đêm gió bão, tối tăm, lúc không có điện. Xin bạn hãy xem tôi như vài tờ báo cũ rách, giúp bạn bảo vệ chiếc bình hoa quý giá của mình. Tôi cũng rất sẵn lòng làm một ngọn nến nhỏ, bầu bạn với bạn trong một đêm mưa bão tối tăm, thiếu ánh đèn soi sáng trong cuộc đời! Đường núi gập ghềnh tăm tối, nguyện cùng nhau kết bạn đồng hành. Những năm gần đây, thường có một số bạn mắc bệnh ung thư, do thấy các giáo sư ở Liên Xã Đài Trung lần lượt xuất bản những quyển sách nhỏ được ghi lại từ băng giảng của tôi, nên rất muốn mời tôi cùng thảo luận, học tập, và chia sẻ với nhau những trăn trở hay tâm đắc của mình sau khi mắc phải căn bệnh này. Phần lớn những ai muốn tìm đến tôi, đều là những người đã từng chịu khổ đau, đày ải: Khổ vì bệnh tật hành hạ ; khổ vì quá trình trị liệu; khổ vì những người bên cạnh không thông cảm; khổ vì bản thân lo sợ ám ảnh bởi cái chết; thậm chí có người còn khổ vì bị người thân, hay người yêu hắt hủi, ruồng bỏ! Khi người ta đau khổ, ai cũng hy vọng có người có thể hiểu và thông cảm nỗi khổ trong lòng mình. Lúc sợ hãi đến nỗi giá lạnh cả tay chân, ai cũng kỳ vọng có đôi bàn tay Phật ấm áp, vĩ đại đến cứu độ kịp thời. Lúc vượt qua một đọan đường núi gập ghềnh trong đêm đen, nếu có bạn đồng hành, mình luôn cảm thấy dễ đi hơn nhiều. Chỉ mong trong lúc bạn đau khổ, lo buồn, tôi có thể trở thành một người bạn đồng hành, cùng nhau vượt qua đọan đường nhân sinh nhiều gập ghềnh và đen tối này! Thoát vòng sợ hãi, hết lòng phụng sự. Học sống một ngày, biết ơn một ngày; học sống một hôm, biết vui một hôm. Chúng ta đều là những con người giống nhau, biết khóc, biết cười, biết đau, biết khổ. Dòng máu ai cũng đỏ, nước mắt của ai cũng mặn! Cho nên, khi gặp phải cảnh khốn khó phải bó tay, ai mà không khỏi lo lắng, sợ hãi? Khi biết được trong thân có một cái bướu “ác tính”, không biết nó sẽ hành hạ mình như thế nào, hiếm có ai mà không lo sợ! Khi biết rằng mình sắp chết, lại không biết chết rồi sẽ đi về đâu, ai lại không lo sợ, bàng hoàng? Tôi rất biết ơn sự dạy dỗ của chư Phật, Bồ tát, sư trưởng, cha mẹ và các vị thiện tri thức, đã giúp tôi thoát ra khỏi vũng tối sợ hãi này. Tôi cũng biết ơn tất cả bệnh nhân trong bệnh viện trước kia, đã thị hiện dạy cho tôi rất nhiều bài học. Tôi đã học được làm cách nào để sống qua những ngày tháng như thế này, và học sống một ngày là biết ơn một ngày; học sống một hôm là biết vui một hôm. Tôi cũng từng rất đau khổ; đau khổ đến mức không còn cách nào chịu đựng được nữa! Nhưng dựa vào đức tin, tôi đã tìm lại được những ngày tháng biết ơn và an lạc. Đã từng có người nghe đến đây lắc đầu bảo: Chúng tôi trước khi mắc bệnh đâu có đức tin như vậy; cũng không biết Phật là gì, làm sao mà có tâm biết ơn; Lo sợ đến chết đi được, làm sao mà thanh thản như bác sĩ! Xin bác sĩ hãy nói những điều thực dụng đối với chúng tôi, đừng dính dáng đến kinh Phật, hay những thuật ngữ khó hiểu. Cũng từng có bệnh nhân bảo: Tôi hiện giờ còn tâm trí đâu mà nghiên cứu kinh Phật. Trong lòng lo lắng, mỗi ngày tôi đều tra cứu tài liệu y học, song càng xem lại càng sợ hãi! Có người khuyên nên đọc kinh Phật, nhưng tâm tôi luôn rối rắm, đọc thứ gì cũng không vô! Những lời nói này đã phản ánh thực đúng tâm trạng khốn khó của tất cả người bệnh nói chung. Bản thân tôi không có công phu, cũng không có tư cách, khả năng giảng nói kinh Phật. Tôi chỉ có một số kinh nghiệm qua sự thấy nghe của mình, từ đó rút ra được những bài học và sức mạnh bổ ích, giúp mình tháo gỡ những vướng mắc trong tâm. Tuy những kinh nghiệm này rất nghèo nàn, song cũng có thể chia sẻ cùng bạn. Biết đâu căn cơ của bạn tốt, nhờ đó mà có thể sống vui vẻ, thanh thản hơn tôi nhiều! Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật. Tôi rất thích lời giải thích Phật là gì của một vị Thiền sư. Đó là Ngài Đạo Tín. Ngài bảo: Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật. Trước hết, tôi xin kể ra đây một câu chuyện, hy vọng bạn có thể cảm nhận được đạo lý chứa đựng trong đó. Lúc tôi còn là sinh viên ở Học Viện Y Học, năm thứ hai phải học môn giải phẫu, nghiên cứu cấu tạo toàn bộ xương người. Ví dụ, miếng xương nào có những lỗ gì, có những mạch máu và dây thần kinh nào đi qua lỗ đó…, đều phải ghi nhớ kỹ không được sai sót. Thi rất là khó, không ít sinh viên bị rớt ở môn này. Tháng muời năm đó có kỳ nghỉ lễ, tôi tranh thủ thời gian trở về quê ở Đài Nam vài ngày. Nhưng sau kỳ nghỉ là kỳ thi, cho nên tuy về quê, tôi vẫn đem xương sọ theo học. Chúng tôi học đều dùng xương sọ người thật. Tôi đem cái xương sọ và vài nhánh xương tương đối phức tạp, đựng trong một túi xách đơn giản, ôm trước ngực, cùng mọi người chen nhau bước lên xe lửa trở về quê. Lúc đó, tôi chen tới chen lui trong dòng người đông đảo. Không ai biết trong túi đựng gì, nên ai cũng thản nhiên và không có chuyện gì xảy ra. Sau này tôi mới biết, nếu lúc đó mình đưa xương sọ và mấy khúc xương ra cho mọi người thấy, rồi bảo đó là xưong thật, có lẽ không ai dám đứng gần, không chừng còn nhường chỗ cho mình ngồi nữa! (Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Tứ Tổ Đạo Tín Khai thị cho Pháp Dung, hay còn được gọi là Lại Dung (ông Pháp Dung lười): “Đi đứng nằm ngồi, chạm mặt gặp duyên đều là diệu dụng của Phật”. (T51, no. 2076, p.227, a26-27) Dịch giả chú.) Thực ra, lúc đó tôi cảm thấy việc này rất bình thường. Bởi vì cha tôi là bác sĩ, trong nhà ai cũng nghĩ đó là công cụ để dạy học mà thôi. Hôm sau có một ngừơi chị họ lớn hơn tôi hai tuổi đến chơi.Chị trông thấy tôi ngồi cầm xương sọ, đối chiếu với hình vẽ trên sách, đọc lẫm nhẫm tiếng Latin, nên hiếu kỳ đến chơi. Chị tươi cười cùng xem với tôi, lại còn cầm xương sọ lên, đùa bảo: “À, thì ra hai con mắt là hai cái lỗ sâu hoắm, còn lỗ mũi lại bằng phẳng, trông thực dễ thương!” Chị vừa xem vừa cười. Không biết lúc đó nghĩ sao tôi lại nói: “Những người này hiến xương cho chúng ta nghiên cứu, để sau này mình có thể cứu người, cho nên phải tỏ lòng kính trọng và biết ơn…” Tôi còn chưa nói xong, chị bỗng thét lên một tiếng, quăng xương sọ đang cầm trên tay ra thực xa, khóc mếu máo, trách tôi: “Sao không nói sớm đó là xương người thật?” Tôi vội vã xin lỗi, rồi đi nhặt lại xương sọ. Tôi nhìn thấy mặt chị xám xanh, nước mắt ràn rụa, đang ngồi run rẩy bên cạnh đàn dương cầm. Chị lại nhìn đôi tay của mình, một đôi tay vừa sờ qua xương người chết! Dường như chị rất ghê sợ nó, không biết phải làm sao! Bỏ đi không được, để đó lại thì ghê! Tôi thấy vậy mới nói: “Xin lỗi, thì ra chị không biết đó là xương người thật. Nhưng không phải lúc nãy chị đã xem rất hứng thú hay sao? Xương người cũng không có gì đáng sợ! Tụi em mỗi ngày phải ở chung với xương người đễ nghiên cứu. Chỉ cần có tâm cung kính là được.” Tôi lại còn phải nói nhiều và rất nhiều để an ủi chị. Sau đó chị mới hết khóc, cười nói vui vẻ trở lại. Nhưng từ đó về sau, chị không còn dám sờ đến mấy khúc xương này nữa! Vì sao tôi phải kể lể dài dòng như vậy? Bởi vì câu chuyện này đã cho bản thân tôi một bài học lớn. Đó là: con người thực ra đều sống với thế giới “quan niệm” của mình! Sọ người trước đó và sau không có gì khác nhau, nhưng thái độ tâm lý của chị tôi lại thay đổi một trời một vực! Thì ra, trước đó chị cho rằng nó chỉ là cái xương sọ giả, một công cụ dạy học làm bằng nhựa, nên không chút sợ hãi, lại thích thú vưa xem vừa cười. Sau đó chị lại cho rằng: “Thì ra đây là xương của người chết, thực là kinh khủng!” cho nên mới sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, vội quăng chiếc sọ đó ra xa! Cho dù là xương sọ thực, nếu trong quan niệm của mình cho nó là giả, thì cũng không có gì đáng sợ; ta có thể chơi đùa với nó một cách tự nhiên, vui vẻ. Khi mà trong quan niệm, ta lại đem xương sọ người đơn thuần liên tưởng đến những câu chuyện ma quỷ mà lúc nhỏ mình bị hù dọa hay tưởng tượng, thì nó sẽ trở thành một thứ hết sức kinh khủng! Đối với người không có liên tưởng viễn vông, xương người là thứ rất bình thường, bởi vì tất cả chúng ta ai cũng có một bộ! Bộ xương của mình được bao bọc bên ngoài bởi lớp thịt da, chẳng phải rất bình thường, không có chút gì đáng sợ hay sao? Nhưng người chị họ của tôi khi nghĩ nó là giả, thì vui đùa hết sức tự nhiên; đến khi biết nó là xương người, lại sợ đến phát khóc, trống ngực đánh dồn dập. Đây là chị bị “quan niệm” và óc tưởng tượng quá đáng của mình khống chế mới khiến như vậy. Chúng ta không nên cười chị. Vì thực ra mình cũng không khác gì. Chúng ta đều bị một số quan niệm và óc tưởng tượng lừa dối. Đây có thể gọi là: Sắc chẳng mê người, người tự mê; xương không đáng sợ, người tự sợ! Có rất nhiều lời nói, bản thân nó không làm người ta giận, nhưng người nghe lại tự mình nổi giận. Cũng vậy, ung thư không làm người ta sợ, mà người ta lại tự sợ. Cái sợ này, có thể khiến người đang không việc gì mà tim bỗng đập dồn dập, vốn khỏe mạnh mà lập tức suy sụp cả người! Trạng thái tâm lý, ý niệm có tính quyết định, có sức mạnh không thể nghĩ bàn. Khi tôi còn làm việc trong bệnh viện, từng phát hiện một sự thật như sau. Bệnh nhân ung thư trị liệu bằng phóng xạ hay hoá chất, do đó huyết cầu của họ phần lớn sẽ giảm. Nói chung, người bệnh vốn không biết số lượng huyết cầu mình bao nhiêu, và số lượng nhiều ít có ý nghĩa như thế nào, nhưng họ đều quan niệm số huyết cầu càng giảm thì càng không tốt. Bệnh viện có tiêu chuẩn, số lượng huyết cầu giảm đến mức độ nào thì phải tạm ngưng điều trị. Có một số người bệnh vì bạch huyết cầu giảm thấp, nên tạm thời nghỉ ngơi vài ngày. Khi họ ở nhà cảm thấy sức khoẻ khá hơn, liền trở lại bệnh viện tái khám. Phần lớn những người này đều cho rằng huyết cầu của mình nhất định sẽ tăng lên. Nên khi bước vào phòng khám, họ thường tươi cười và nói với tôi: “Mấy hôm nay khá lên nhiều lắm, lại ăn ngon miệng!” Họ cũng vui vẻ đi thử máu lại, rồi đem phiếu xét nghiệm về cho tôi xem. Lúc tôi đang coi pjiếu xét nghiệm, người bệnh đều hỏi: “Bạch huyết cầu của tôi bao nhiêu?” Nếu như tôi nói ra số liệu thực sự ghi trên phiếu, có thấp hơn so với lần trước, là điều mà họ không ngờ đến, thì dường như vẻ mặt ai cũng trầm xuống, tay chân như thoát lực, giọng nói yếu ớt: “Sao lại thấp như vậy?” Một lát nữa, họ có thể còn suy sụp đến mức không đủ sức đi về nhà! Chúng ta thử nghĩ xem, cũng là một thân này, mà trước sau chỉ có một giây mà đã khác nhau như trời vực! Chỉ cần nghe đến con số huyết cầu mà người ta không ngờ đến, thì tâm liền thất vọng và lo lắng! Tình trạng sức khoẻ mà trước đây mình cho là đã khá hơn bỗng lập tức trở nên suy sụp, yếu đuối! Nó phác tác còn nhanh hơn bất cứ thuốc độc nào! Từ chỗ này chúng ta có thể nhận ra một đạo lý. Đó là tâm niệm của con người có tính quyết định và sức mạnh không thể nghĩ bàn! Tâm lý ảnh hưởng đến công năng miễn dịch. Thí nghiệm khoa học cho thấy, sự thay đổi trạng thái tâm lý quả thực có thể sinh ra một số vật chất ảnh hưởng đến sinh lý. Ví dụ lúc chúng ta nóng giận, trong cơ thể sẽ sinh ra độc tố rất giống hay tương đồng với nọc rắn. May mà gan của con người có công năng giải độc, nên những chất độc do nóng giận sinh ra này không đến nỗi khiến chúng ta mất mạng! Nếu công năng giải độc của ai yếu kém, hoặc cao huyết áp, hay người mắc bệnh tim, thì chất độc do nóng giận gây ra đủ để làm người đó mất mạng. Cho nên, việc “giải độc” triệt để cần phải ngay “tâm niệm” của mình mà hạ thủ công phu. Tâm niệm thay đổi, thân thể cũng thay đổi theo. Viện Nghiên Cứu Ung Thư Quốc Gia ở Mỹ có một công trình nghiên cứu cho thấy: Nhà nghiên cứu có thể đoán trước đúng một trăm phần trăm người bệnh có chiến thắng được bệnh ung thư trong vòng từ một đến hai tháng hay không. Điều mà khoa học căn cứ không phải là khối u lớn hay nhỏ hay mọc ở chỗ nào, cũng không phải căn cứ vào kết quả xét nghiệm theo máy móc, càng không phải là số liệu có được từ kết quả thửmáu, mà hoàn toàn căn cứ vào “trạng thái tâm lý” của người bệnh! Tâm mới chính là gốc rễ của vấn đề. Có đến hàng ngàn công trình nghiên cứu cho thấy, do chịu áp lực nên khiến cho tuyến ngực teo lại, có nghĩa là công năng miễn dịch trở nên suy yếu. Theo kết quả thí nghiệm, những trạng thái tâm lý xấu như nóng giận, lo buồn v.v…. đều có thể đưa đến sự suy yếu công năng miễn dịch, khiến dễ sinh bệnh ung thư và các bệnh truyền nhiễm khác, cũng như khiến việc điều trị mất đi công hiệu. (Bởi vì cần phải thông qua công năng miễn dịch của bản thân người bệnh, thì việc trị liệu mới có hiệu quả). Điều này cho thấy, tâm niệm có sức mạnh vô cùng. Cho nên cần phải đem tâm niệm của mình chuyển thành tâm niệm Phật. Phật chính là tâm sáng suốt, an vui, không có lo buồn. Nếu niệm Phật, tâm tự nhiên sẽ trởnên sáng suốt, an lạc và có sức mạnh. Tâm niệm Phật thì vừa có thể buông xả những áp lực, vừa có thể tránh được những độc tố sinh ra bởi những tâm lý xấu, lại vừa tăng trưởng sức miễn dịch. Chúng ta cần phải biết rằng, áp lực là do tâm mình tự “tiếp nhận” lấy. Chỉ có những việc mà mình quá quan tâm, vướng mắc, mới có sức đè nặng lên tâm lý. Nếu thay đổi tâm niệm, không nghĩ rằng đó là gánh nặng, thì sức ép tự nhiên không còn tồn tại và mình cũng không phải “tiếp nhận” lấy gánh nặng này. Nếu chúng ta quyết tâm chỉ tiếp nhận ánh sáng của Phật (niệm Phật), thì không còn có tâm nào để tiếp nhận gánh nặng tâm lý đó nữa. Cho nên cần phải luyện tập: “Nhận hay không nhận là do tự tâm mình quyết định.” Vạn pháp do tâm tạo, niệm Phật an vui nhất. Nghiên cứu khoa học cho thấy, khi người ta vui vẻ, bộ não sẽ tiết ra chất hoá học, như chất Endorphins và Enkephalins. Chất Endorphins giúp tăng sản lượng tế bào T (lymphocyte), giống như tăng thêm số lượng cảnh vệ, hay quân đội. Còn chất Enkephalins giúp tế bào T tăng thêm sức mạnh để chiến thắng tế bào ung thư, đồng thời giúp tế bào T trở nên linh hoạt, có hiệu quả hơn. Cho nên “tâm niệm” chính là vị tổng chỉ huy của đội quân miễn dịch. Đây là kết quả thực nghiệm khoa học, cũng là chứng minh lời đức Phật dạy: “Vạn pháp duy tâm tạo.” Người niệm Phật nguyện sinh về thế giới Cực Lạc, chính là nguyện: Không có các khổ, chỉ hưởng an lạc; hay nói khác đi, chính là nguyện khiến tâm luôn ở trong trạng thái an lạc, vui vẻ. Phật A Di Đà còn được gọi là Phật Hoan Hỉ Quang, nên thường niệm Phật chính là thường hoan hỉ, thường tạo ra tất cả những chất tăng thêm sức miễn dịch. Cho nên đức Phật được xưng là Vô Thượng Y Vương, tức là vị Thầy thuốc vua của tất cả thầy thuốc! Còn hoan hỉ niệm Phật chính là thuốc bổ tốt nhất! (CÒN NỮA)
  12. (phần tiếp theo) 11- TÌNH HÌNH KHI SANH VÀO ÁC ĐẠO Người chết thường vì nghiệp duyên nên gặp phải rất nhiều cảnh tượng nguy hiểm như: tối tăm, bão táp, sấm sét, sương mù v.v… khi đó khiếp sợ quá đỗi nên phải tìm phương trốn tránh bỏ thân mạng mà tuôn chạy, thì lại thấy ở trước mắt: núi đèo, hang hố, cây cối, bụi rừng. Vì muốn vội vàng tránh thoát cho khỏi nên không rảnh rang để lựa chọn chỗ nào; chỉ biết được núp vào một chỗ nào tức không muốn ra khỏi. Vì sợ rằng nếu ra khỏi tức là bị khổ. Chỉ vì tỵ nạn không muốn ra, nên rốt cuộc không ngờ mình đã trở lại thọ thân hèn hạ và chịu rất nhiều đau khổ. Nay hãy đem tình trạng khi đã trở vào ác thú mà lược thuật như sau: Nghiệp thức của kẻ chết, nếu sắp sanh vào đạo A-tu-la thì sẽ thấy: có những vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy những cảnh tượng ấy mà sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là đầu thai vào đạo A-tu-la. Nếu nghiệp cảm của kẻ chết sắp sanh vào đạo súc sinh, thì họ tự cảm thấy có những núi non, hang hố, hay có những vực sâu hiện ra trước mắt; nếu muốn đi vào trong đó tức là đầu thai vào đạo súc sinh. Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sắp sanh vào đạo Ngạ quỷ thì họ tự thấy có một bãi sa mạc không cây cối, hoặc có những hang hố, cỏ cây khô héo… đấy là cảnh tượng của Ngạ quỷ, nếu sanh vào trong đó thì luôn luôn đói khát và hết sức khổ sở. Chủng loại của quỷ thú rất nhiều, không thể kể xiết được. Nhưng đại khái có thể chia làm hai loại là: quỉ có oai đức và quỉ không có oai đức. Quỉ có oai đức cũng gọi là quỉ có thế lực; vì đã có thần thông lại giàu của cải. Tuy ở trong loài quỉ nhưng không bị đói khát. Như quỉ Dạ-xoa, quỉ Cưu-bàn-trà. Loài không có oai đức thì đại khái chia làm ba loại: a/ Loại ít đói như quỉ hy tự (mong cầu người ta thờ cúng), quỉ hy khí (mong cầu đồ vật người ta vất bỏ để mà ăn). b/ Loại đói nhiều, như quỉ châm mao (lông như kim), quỉ xú mao (lông hôi thối), quỉ đại anh (thân đầy lở lói). c/ Loại hoàn toàn đói như quỉ cự khẩu, quỉ châm yết, quỉ xú khẩu (cự khẩu: miệng như lửa; châm yết: cổ như kim; xú khẩu: miệng rất hôi thối). Đến như loài quỉ có oai đức, vì đời trước có làm việc bố thí cho nên khi chết cảm được đón rước long trọng và hưởng thọ cảnh vui, như khi ở đời được làm quan tước, lấn áp nhân dân, trị dân không đúng phép, nhưng biết đem của cải mà bố thí, thì chết rồi đọa vào loài quỉ mà làm quỉ Cưu-bàn-trà. Quỉ ấy có thể biến làm cảnh giới ngũ trần vui sướng để hưởng thọ. Còn những kẻ tính tình hay giận hờn, say đắm rượu thịt, nhưng lúc sống còn hay làm việc bố thí thì sau khi chết rồi, đọa vào loài quỉ Địa hành dạ-xoa (địa hành: đi đất) luôn luôn được nghe những âm nhạc vui vẻ và được ăn uống (như trong kinh Chánh Pháp niệm xứ đã nói rõ, ở đây không thể chép hết được). Nghiệp cảm của người chết nếu sẽ sanh vào địa ngục thì bấy giờ bỗng nghe có những khúc ca hết sức bi ai buồn bã; nếu họ đi vào trong cảnh ấy, thì thân không được tự do, hoặc bị xua đuổi vào trong đó mà không có cách gì ngăn cản được. trong cảnh ấy (địa ngục) mịt mù tối tăm, nhà cửa hoặc sắc đen hay trắng. Dưới đất thì có hang hố sâu thẳm, đường xá mịt mờ, hoặc là bị những luồng lửa nung đốt, hoặc bị giá lạnh ngâm thân; có vô số điều khổ sở, chịu khổ ở trong ấy trải qua cũng nhiều kiếp nhiều đời, chẳng biết đến bao giờ ra khỏi được. Nếu nghiệp cảm của người chết sẽ sanh vào địa ngục, thì cảm thấy trong thân mình như bị gió lạnh lùng áp bức. Và họ tự thấy, những ngọn lửa bồng bột của địa ngục bốc lên, vì ưa sự ấm áp nên vội đi vào trong đó. Nếu kẻ chết sẽ sanh vào địa ngục đại hàn, thì trước hết cảm thấy trong thân mình như bị chạm phải luồng gió nóng, hay bị lửa hồng nung đốt, cho nên khi hơi mát trong địa ngục đại hàn bốc lên, thì họ cảm thấy sảng khoái dễ chịu. Vì ưa mát mẻ nên vội vàng đi vào trong cảnh ấy, tức là bị bó buộc không thể nào tránh thoát được nữa. Lại nữa, nếu lúc đang sống còn, trong khi gây nghiệp, thường có bạn bè giúp đỡ, thì khi lâm chung sẽ thấy bạn bè đồng nghiệp với mình ngày trước hiện ra trước mắt. Khi đó vì xúc động đến cảm hứng ngày xưa nên vội vàng chạy đến trong cảnh đó. Nhưng khi đã đến rồi thì cảnh ấy hoàn toàn thay đổi và phải chịu mọi điều khổ sở. (Trong khi thấy, những cảnh tượng như trên, phải giữ vững tâm chí, chớ nên vội vàng đi đến, cần phải nên chăm lòng cung kính Đức Phật A Di Đà bên thế giới Cực Lạc để cầu Ngài đến cứu độ cho mình là hơn). Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen, để cho họ được vãng sanh Cực Lạc. Bởi vì thân Trung ấm có được tính ghi nhớ phi thường, so với lúc sống còn có thể mạnh hơn gấp mười. Tuy khi đang sống còn chỉ là tầm thường ngu độn, nhưng khi đi vào trong giai đoạn Trung ấm thì nhờ nghiệp lực mà có cái sáng suốt phi thường. Cho nên Thiện tri thức nên theo như những lời trên mà khai thị, thì quyết định có công hiệu. Nhưng hoặc thời họ chưa có đủ tín, nguyện để xu hướng về Tây phương, song nhờ ở sức niệm Phật, cũng có thể cải tạo được ác thú mà sanh lên Nhân đạo hay Thiên đạo. Cho nên công đức niệm Phật quyết không luống uổng. 12- CHUYỂN SANH VÀO LOÀI BÀNG SANH. Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sẽ sanh vào bàng sanh thì đại khái có thể chia ra bốn loài là: Thai, noãn, thấp, hóa. 1. Đọa vào thai sinh và noãn sinh. Nếu người nào lòng xan tham tật đố nặng nề, thì sẽ đầu thai làm các loài như: chó, đó... (thai sinh). Còn ai lòng sân hận quá nặng, thì đọa làm loài rắn rết, bò cạp... trong các loài này hoặc thai sinh hoặc noãn sinh không nhất định). Còn người nào lòng dâm dục nặng nề, thì đọa làm loài uyên ương, chim tước, chim cáp v.v... (Vì những loài này dục tình nặng nề lắm). Cho nên đến người nào ưa chơi bời lung lạc, thì đọa làm loài vượn loài khỉ v.v... (thuộc về thai sinh). Tóm lại, cội gốc của tội lỗi là do ở ngu si mà ra. Lại nữa, có khi đối với chỗ mình sẽ sanh đến, thì bỗng thấy những loài hữu tình đồng loại vừa ý, nên vội vàng chạy đến. Tuy trong các loài này cũng nương theo nhơn duyên hòa hợp của cha mẹ mà đầu thai, nhưng những đều kiện câu thúc so với nhân đạo thì có phần giản dị hơn nhiều; cho nên rất dễ đọa vào. 2. Thấp sinh. Loài thấp sinh (là nương vào chỗ ẩm thấp mà tạo được sanh thân) thì có khi vì ngửi được hương vị của chỗ mình sắp đến thọ sanh, sanh lòng ưa đắm mà liền đến nương vào đó để thọ sanh (hương vị: đại khái như chỗ ẩm thấp, bùn lầy nhơ nhớp, lấy cái đó làm tự thể. Trong đó không có tinh huyết của cha mẹ hòa hợp). Đi đến nương vào chỗ ẩm thấp để thác sanh hoặc là bạ vào vật gì mục nát, hoặc là phân bón v.v... tùy theo nghiệp lực của mình mà đến gần gũi ưa đắm thác sanh. 3. Hóa sinh. Tức như loài rồng là loài kim sí, cũng là gốc ở trong bốn loài: thai, noãn, thấp, hóa mà ra; nhưng nó là loài hóa sinh đặc biệt. Sự hưởng thọ của nó sung sướng như các cõi Trời. Trung ấm thân nếu thác sanh trong loài này, thì được cảm thọ cảnh giới sung sướng, đồng như cõi trời không khác. (Những loài này còn thuộc về súc sanh, nó là một trong ba ác đạo, vẫn không khỏi sanh tử luân hồi và chịu nhiều khổ não khác). 13- NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN PHẢI ĐỦ TRONG KHI TIẾN BẠT VONG. Y theo trong Mật giáo (các kinh điển về Mật tông) để nói, thì thành tựu Bồ-đề có thể chia ra ba bực: 1- Thượng căn, thì tức thời thủ chứng (thành Phật). 2- Trung căn, thì sau khi chết rồi mới được siêu thăng. 3- Hạ căn, thì đi vào giai đoạn Trung ấm mới được thành tựu. Cho nên nếu thân thuộc biết vì họ mà làm những việc công đức thì chắc chắn có công hiệu, nhưng phải lấy niệm Phật làm chủ. Vì thân Trung ấm đủ có thần thông hữu lậu, cho nên sau khi đã trải qua nhiều cảnh tượng hãi hùng hăm dọa, áp bức; họ sẽ tự nghĩ rằng: "Có những pháp lành gì để cứu ta được ra khỏi?" Bởi thế, nếu lúc đó có người chỉ bảo cho họ niệm Phật để cầu siêu thăng, thì họ sẽ hết lòng vâng lãnh vui thích ưa nghe, cho nên hiệu lực không thể tưởng tượng. Nhưng cần phải giữ đúng ba điều kiện sau đây: 1-Trai giới, cả nhà ai nấy đều phải nhất luật giữ gìn trai giới, dù có khách khứa cũng không được thiết đãi rượu thịt; ngoài ra các thứ ô uế khác đều phải dè dặt giữ gìn. 2- Thành khẩn, đối với kẻ chết phải hết lòng thành kính, nghĩ nhớ để cầu cảm thông, không nên chỉ trang sức bề ngoài mà thôi và cũng không nên giao phó công việc ấy cho kẻ khác làm. Theo như trong bộ bút ký của ông đồ Trường Khanh đời Tống có chép: "Ở Thông Châu có ông Tư Mã Dưỡng Khiêm, đã từng vì vong phu nhân (tức người vợ chính đã chết) mà làm rất nhiều Phật sự. Nhưng vài năm sau người tiểu thiếp của ông, một hôm bỗng chết, cách một đêm mới tỉnh lại, mà than khóc bảo với Tư Mã rằng: "Thiếp chết đi vào nơi Minh phủ, thấy vong phu nhân bị giam trong một ngục tối, phu nhân nói với thiếp rằng: "Ở đây khổ sở không thể nói được. Vậy xin gấp gấp vì tôi mà làm việc công đức để cứu độ". Thiếp hỏi: "Vậy sau khi phu nhân đã chết rồi, Tướng công đã từng vì phu nhân làm nhiều Phật sự, đều là vô ích cả sao?". Phu nhân đáp: "Chính thế, vì việc tụng kinh sám hối vẫn phải chọn những nhà Sư hữu đạo, gia chủ phải trai giới chí thành thì mới có thể diệt tội thêm phúc được. Nhưng đây thì trái lại; trước kia thầy Sa-môn tụng kinh nhà trên, mà Tướng công thì đánh cờ nhà dưới như vậy thì có ích gì?". Tư Mã nghe nói cũng khóc òa lên, và sau đó mới chọn những danh Sư có giới đức, sửa sang rất chỉnh đốn, làm đạo tràng luôn ba đêm ngày". Đấy chính là những việc Trường Khanh đã mục kích, mà cũng là việc của kẻ con hiền cháu thảo phải nên biết vậy. 3- Tuyển trạch, đối với Pháp sư phải chọn những bậc đạo hạnh chơn chính mà cầu thỉnh; ngoài ra những hạng phóng đãng phá giới và chỉ biết nhìn đến tài lợi mà thôi thì đều không nên cầu thỉnh vậy. Những hạng Pháp sư đối với Giới luật tịnh hạnh còn thiếu phạm, hoặc hoài nghi không đứng đắn và ngông cuồng... thì Trung ấm thân vì đã có thần thông, cho nên họ biết đó là lừa gạt họ; tức là họ sẽ thất vọng mà sanh ra hối hận. Vì hối hận nên sanh ra tức giận rồi phải đọa vào khổ thú. Cho nên Thiện tri thức phải dùng những lời như sau đây mà khai thị: "Phật biết rằng thân của bậc Tăng-già tên... tức là thân của Phật. Ngươi phải khởi ý tưởng rằng chỉ nương theo pháp chứ không nương theo người. Mặc dù người tác pháp đó có lầm lẫn thế nào, đều là do cái lỗi của ý thức nơi ta chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như người soi gương, vì mặt mình không sạch, nêncái bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy thì biết chắc rằng sở dĩ khi tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng như thế và phải hết lòng cung kính ái mộ thì làm phúc gì cũng đều biến thành Phật sự thanh tịnh và vẫn không mất lợi của chính mình". Trong gia quyến nếu muốn rước Pháp sư để làm Phật sự, thì nên đối trước bàn linh mà chỉ giáo bảy phen như thế thì dù trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn được lợi ích. 14- VÃNG SANH VỀ TỊNH ĐỘ. Những hạng người đã sẵn có tu theo Tịnh nghiệp, thì khi lâm chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến, tức là vãng sanh Tịnh độ. Không còn phải trải qua những cảnh giới như trước đã nói. Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết vì họ mà niệm Phật thế, thì cũng có thể làm tăng thêm phẩm vị không đến nỗi uổng công. Đến như việc vãng sanh Tịnh độ, thật ra thì Tịnh độ trong mười phương đều nên vãng sanh; nhưng chỉ có thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là có cơ duyên đặc biệt với chúng sanh... xưa nay số người được vãng sanh không thể kể xiết. (Trong khi vãng sanh thì chỗ cảm thấy có nhiều cách, nay nương theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chia làm chín phẩm, để thuật lại như sau: 1- Thượng phẩm thượng sanh, thì cảm thấy có Tam thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế Chí) và vô số hóa Phật, trăm ngàn Đại chúng Tỳ-kheo và vô số chư Thiên cùng cung điện thất bảo hiện ra trước mắt; dùng đài Kim cang đem đến để đón tiếp. Khi đó, liền sanh về Cực Lạc, được nghe Phật nói pháp, chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Sau đó, tùy theo ý mình mà đi khắp mười phương Phật độ và theo thứ tự được Phật thọ ký. 2- Thượng phẩm trung sanh, cũng cảm thấy cả Tam thánh và vô số Đại chúng làm quyến thuộc đoanh vây, dùng đài Tử kim đến đón rước. Thấy rồi liền được sanh về trong ao Thất bảo bên cõi ấy; trải qua một đêm thì hoa mới nở và được thấy Phật. 3- Thượng phẩm hạ sanh, cũng cảm thấy có Tam thánh và các vị Bồ tát nắm hoa sen vàng chung cùng với các vị hóa Phật đi đến đón rước. Thấy rồi liền được sanh về trong ao Thất bảo bên cõi kia; trải qua một ngày đêm hoa sen mới nở và phải nở trong thời hạn bảy ngày mới được thấy Phật. 4- Trung phẩm thượng sanh, được cảm thấy Phật A Di Đà và các vị Tỳ-kheo làm quyến thuộc đoanh vây; phóng ra hào quang sắc vàng, hiện ra trước người đó để tỏ lời khen ngợi. Người ấy sẽ ngồi trên đài Liên hoa mà sanh về Cực Lạc. Sanh rồi hoa sen liền nở, được nghe Pháp âm nhiệm mầu, chứng được quả A-la-hán (A-la-hán: nghĩa là Bất sanh: không còn luân hồi sanh tử) 5- Trung phẩm trung sanh, cũng thấy có Phật A Di Đà cùng các quyến thuộc phóng ra hào quang sắc vàng; nắm hoa sen Thất bảo đi đến đón rước. Người chết thấy rồi liền sanh về trong ao Thất bảo trong cõi ấy; trải qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi đó khen ngợi Đức Di Đà Thế Tôn, nghe Pháp sanh lòng vui vẻ và chứng được quả Tu-đà-hoàn (Tu-đà-hoàn: Nhập lưu, tức là đã được vào hàng Thánh). 6- Trung phẩm hạ sanh, căn cơ của hạng này rất kém, chỉ nhờ nghe lời Thiện tri thức chỉ giáo, mà vui vẻ tin và thực hành; cho nên khi lâm chung chỉ nhờ nguyện lực mà thôi, chứ không thấy được cảnh gì. Nhưng khi đã sanh về cõi ấy rồi, trải qua bảy ngày mới được gặp hai vị Bồ tát: Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, được nghe Pháp âm, rồi cũng chứng được quả Tu-đà-hoàn. 7- Hạ phẩm thượng sanh, thì chỉ cảm thấy hóa thân của Phật, và hóa thân của Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến rước mà thôi; nhưng cũng được nương trên hoa sen Thất bảo, theo hóa thân mà sanh về trong ao Thất bảo bên cõi ấy. Trải đến 49 ngày hoa nở và được hai vị Bồ tát ấy nói Pháp cho nghe. (Hóa Phật: tức là hóa thân của Phật; là một trong ba thân của Phật). 8- Hạ phẩm trung sanh, thì trước hết thấy có lửa dữ trong địa ngục bốc lên sau lại bỗng hóa thành luồng gió mát để nâng đưa Thiên hoa; trên hoa ấy có hóa Phật và Bồ tát đi đến đón rước người ấy. Khi đã sanh về trong ao Thất bảo bên cõi ấy rồi, phải trải qua sáu kiếp mới được hoa nở và thấy hai vị Bồ tát nói Pháp cho nghe. (kiếp, nói cho đủ là kiếp-ba; 6 kiếp tức là 6 thời hạn). 9- Hạ phẩm hạ sanh, thì thấy có hoa vàng như vầng mặt nhật hiện ra trước mắt, khi đó liền được vãng sanh. Sanh rồi phải ở đủ trong hoa sen 12 kiếp, mới được hoa nở và được thấy hai vị Bồ tát nói Pháp cho nghe. Ba loại vừa nói trên đây (tức là từ Hạ phẩm thượng sanh trở xuống) đều do Thiện tri thức chỉ giáo mà phát tâm niệm Phật và tự mình biết sám hối mà cảm được vậy. Nói tóm lại, tùy theo trình độ và năng lực mà chia ra có chín phẩm cao thấp không đồng, nhưng khi đã được sanh về Tịnh độ, thì đều được khỏi sanh tử luân hồi và hoặc chậm hoặc mau đều thành Phật quả vậy. 15- NHỮNG TIÊN TRIỆU ĐƯỢC SANH VỀ TỊNH ĐỘ. Bậc đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn (tức là chứng được thật tánh bất sanh bất diệt của muôn pháp) thì đối với Tịnh độ trong 10 phương, đều có thể tùy theo ý muốn của mình mà vãng sanh. Còn những kẻ phàm phu hoặc nhờ nguyện lực của mình, hay nhờ thần lực của Phật gia bị mà được sanh về Tịnh độ; thì đều thuộc về hạng "Đới nghiệp vãng sanh" (nghĩa là nhờ ở nguyện lực của Phật mà được sanh về Tịnh độ, nhưng chưa trừ sạch hoặc nghiệp; nên gọi là Đới nghiệp vãng sanh). Hai cảnh giới này tuy có cao thấp không đồng nhau nhưng chỗ siêu việt cảnh giới Ta-bà thì vẫn là một. Những tiên triệu trong khi lâm chung tùy theo mỗi người mà cảm thấy có khác nhau; nhưng không ngoài Tịnh cảnh hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng thì thấy có Y báo, Chánh báo trang nghiêm đều đầy đủ. Hạng kém hơn thì chỉ thấy Phật và Bồ tát. Hạng kém hơn nữa, thì chỉ thấy hoa sen. Nhưng những tiên triệu ấy, đều không dính dấp gì với mọi người chung quanh, nên họ không thấy được. Nếu nói đến những tiên triệu mà mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; thì từ những chứng tích vãng sanh của các bậc Thánh hiền xưa nay ta có thể khảo cứu mà chia ra làm 10 món thoại ứng: 1- Nhất tâm bất loạn: Tâm niệm được chăm chú vào một cảnh. 2- Biết trước thời chết đã đến. 3- Tịnh niệm không mất, tức là tâm niệm chỉ ưa cõi Tịnh độ và quyết chí bỏ cõi Ta-bà. 4- Biết trước mà lo tắm rửa và thay áo quần. 5- Tự mình hay niệm Phật hoặc niệm có tiếng hay niệm thầm. 6- Ngồi ngay thẳng và xấp tay mà chết. 7- Có mùi thơm lạ khắp nhà. 8- Có hào quang sáng soi vào thân thể. 9- Nhạc trời trỗi giữa hư không. 10- Tự nói ra bài kệ để khuyên đồ chúng (đệ tử) Nếu tất cả 10 món điềm tốt trên đây đều được đầy đủ, thì phẩm vị chắc chắn là cao. Còn ai chỉ có đủ một vài điềm tốt cho đến 5 điềm tốt mà thôi, thì cũng được vãng sanh. Đến như nghiệp thức rời bỏ thân này, thì không phải đồng thời toàn thân đều lạnh, có khi ở trên thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh xuống, có khi ở dưới thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh lên. Như có bài kệ đã nói: "Nghiệp lành, dưới lạnh trước; Nghiệp dữ, trên lạnh trước. Tim còn lưu chút hơi ấm rất lâu, các chỗ khác hơi ấm dần dần hết. Người được xuất thế thì trên trán lạnh rốt sau. Sanh lên trời, thì nơi mặt lạnh sau. Sanh vào cõi người thì nơi rốn lạnh sau. Sanh vào ngạ quỷ thì hai bên bụng lạnh sau. Sanh vào loài bàng sinh thì đầu gối lạnh sau (bàng sinh: những loài thân thể nằm ngang như: trâu, bò v.v...) Sanh vào địa ngục thì dưới chân lạnh rốt sau". Cứ theo đây chứng nghiệm thì quả báo tương lai của người chết, ta cũng có thể dự đoán mà biết được trước vậy. (Theo ý nghĩa trong bài kể trên đây để giải thích thì người nghiệp lành ở dưới thân lạnh trước, vì nghiệp thức lưu chuyển ở trên; cho nên dưới thân lạnh trước, trên thân lạnh sau. Còn kẻ ác nghiệp thì nghiệp thức lưu chuyển ở dưới: cho nên trên thân lạnh trước, dưới thân lạnh sau. Đến như hàng xuất thế, thì trên trán lưu hơi ấm rất lâu; tức là triệu chứng sanh về Tây phương vậy). Về tiên triệu của các thú, sở dĩ có khác nhau, là vì nghiệp nhân lành, dữ của chúng sanh gây ra từ trước mà cảm được. đến khi lâm chung, thì nghiệp nhân ấy sôi nổi trong tâm thức. Nghiệp nào mạnh, thì sẽ lôi vào cảnh giới khác tương đương với nó để thọ báo. Như nghiệp lành mạnh, thì sẽ hiện ra cảnh giới sung sướng; Nghiệp dữ mạnh thì hiện ra cảnh giới khổ sở. Cảnh giới sung sướng là tiên triệu sanh lên Thiên thú; cảnh giới khổ sở là tiên triệu sanh vào ác thú. Nếu tới trong hai cảnh giới khổ, vui đó để phân biệt, nó sẽ lôi ta đi đến đâu, để chia làm từng điều mục mà nói; thì nương vào kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ để thuật lại những điều cốt yếu như sau đây: A) Nếu nghiệp duyên sẽ lôi cuốn vào Địa ngục, thì sẽ thấy có 15 món tiên triệu: 1- Gặp phải con trai, con gái và bà con đều nhìn kẻ chết bằng cặp mắt hung dữ ghét bỏ. 2- Người chết đưa hai tay lên mà rờ mò giữa hư không. 3- Thiện tri thức dầu có chỉ bảo, họ cũng không chịu tùy thuận. 4- Kẻ chết kêu gào than khóc. 5- Đi ra đại tiện và tiểu tiện mà vẫn không hay biết gì. 6- Nhắm nghiền đôi mắt không mở. 7- Thường hay che úp mặt mày. 8- Nằm nghiêng mà ăn uống. 9- Mình mẩy, miệng mồm đều hôi hám. 10- Gót chân, đầu gối luôn luôn run rẩy. 11- Sống mũi xiên xẹo. 12- Mắt bên trái hay động đậy, ta gọi là máy mắt. 13- Hai mắt đỏ ngầu. 14- Úp mặt mà nằm. 15- Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất mà nằm. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/cool.gif Nếu phải bị lôi vào trong Ngạ quỉ, thì có 8 món tiên triệu: 1- Ưa liếm môi miệng. 2- Thân nóng như lửa. 3- Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống. 4- Mắt thường trương lên mà không nhắm. 5- Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ. 6- Không có tiểu tiện nhưng đại tiện thì nhiều. 7- Đầu gối bên phải lạnh trước. 8- Tay bên phải thường nắm lại, tức là biểu hiện ôm lòng bỏn xẻn. C- Người chết nếu bị lôi vào bàng sinh, thì có 5 món tiên triệu: 1- Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ. 2- Ngón tay và ngón chân co quắp. 3- Khắp trong thân mình toát ra mồ hôi. 4- Tiếng nói ra khò khè. 5- Miệng thường ngậm đồ ăn. D) Nếu được sanh vào nhân đạo thì có 10 món tiên triệu: 1- Đến khi chết hay khởi niệm lành, tức là lòng dịu dàng, lòng phúùc đức, lòng vui vẻ, lòng vô tư. 2- Thân không đau khổ. 3- Ít sự nói phô, chăm lòng nhớ nghĩ cha mẹ. 4- Con trai, con gái đều đem lòng thương mến và gần gũi, coi như việc thường, không ưa không ghét. Tai thường muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bậu bạn. 5- Đối với việc lành hay việc dữ, lòng không lầm loạn. 6- Tâm tính chính trực, không dua nịnh. 8- Thấy bà con chăm sóc sanh lòng vui mừng. 9- Di chúc việc nhà, có cất đặt của cải ở đâu thì mách bảo. 10- Sanh lòng tịnh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến, để đối diện quy y. E) Nếu nghiệp duyên sẽ lôi lên Thiên thú cũng có 10 món tiên triệu: 1- Khởi lòng thương mến. 2- Phát khởi thiện niệm. 3- Lòng thường vui vẻ. 4- Chánh niệm được rõ ràng. 5- Không có những điều hôi hám. 6- Sống mũi không xiên xẹo. 7- Lòng không giận dữ. 8- Của cải, vợ con, bà con, lòng không lưu luyến. 9- Mắt được trong sáng. 10- Ngửa mặt lên mỉm cười mà nghĩ tưởng Thiên cung đến rước ta. Năm khoản vừa kể trên đây, không phải nhất định mỗi mỗi đều phải hiển hiện; chỉ có những điều kiện thiết yếu sẽ được hiển hiện mà thôi. Ta nên xét cho kỹ lưỡng: như hai thú Nhân và Thiên thì ý thức của họ đều trong sạch, nên gọi là khởi thiện niệm. Nhưng một bên chỉ nghĩ đến Thiên cung mà lãng bỏ việc đời; một bên thì thương nhớ bà con mà dặn dò việc nhà. Như thế thì rất khác nhau vậy. Còn hai thú Địa ngục và Ngạ quỉ, thì ý thức của họ đều mê man nên hiển hiện ra khổ. Nhưng một bên thì rất trái với từ hòa, thay đổi thái độ; một bên thì nóng nảy, đói khát đáng thương. Như thế cũng rất khác nhau vậy. Đến như thú bàng sinh thì thân thể đã ra mồ hôi, tiếng tăm khàn nghẹt; vẫn còn thương tiếc bà con. Như trong kinh có nói: "Nếu sắp sanh vào loài người, thì có trạng thái thế này: Đưa tay ra giữa hư không mà bắt nắm hoặc để kháng cự vật gì chướng ngại, so với tướng trạng thác sanh vào Địa ngục thì họ cũng đưa tay lên mà rờ mò giữa hư không, hai triệu chứng ấy vẫn là giống nhau. Lại có người đến khi chết thì tâm hồn thành vô ký (vô ký: không hiểu lành dữ là thế nào) thì tình hình khổ vui không thể thấy được. Hạng này vẫn là số đông, nếu muốn dự đoán hạng ấy sẽ sanh vào chỗ nào, thì ta phải đợi đến khi bỏ hơi ấm trong thân mới có thể quyết đoán được (Nên coi bài kệ ở trên kia). 16- CÁCH LÀM VIỆC PHÚC Cái yếu điểm của việc phúc, phải lấy hạnh bố thí làm gốc; hoặc đem di sản của kẻ chết thì tốt hơn hết, nếu không thì lấy của cải của bà con bạn bè mà giúp vào cũng được, để làm việc phúc đức; thì người chết chắc chắn được lợi ích. Như trong kinh Vô thường đã nói: "Nếu như sau khi tính mạng đã lâm chung, thì nên lấy y phục mới mẻ của người chết, hoặc lấy những vật thọ dụng của kẻ còn sống: chia làm 3 phần, vì người chết đó mà cúng dường Phật-đà, Đạt-ma và Tăng-già (Tam bảo). Nhờ đó mà người chết dù cho nghiệp nặng cũng trở thành nhẹ và được công đức phúc lợi thù thắng. Không nên đem những y phục tốt đẹp mà mặc cho người chết, để đem đi tống táng. Vì sao? Vì không có lợi ích vậy". Đấy là cái lệ thường làm ngày xưa bên Ấn Độ, đến như hiện đại, thì nên đem di sản ấy mà đổi lấy tiền tệ; để dùng trang nghiêm Phật tượng, ấn tống kinh điển, cúng dường Tăng-già. Và làm những việc như: tế bần phóng sinh, hoặc làm việc gì có ích cho xã hội. Nhờ những công đức làm việc phúc đó, thì người chết dù đọa vào Ngạ quỉ, cũng được hưởng rất nhiều lợi ích. Trong Kinh Ưu-bà-tắc có nói: "Nếu người cha chết rồi bị đọa vào trong Ngạ quỉ, mà người con vì họ làm những phúc đức, nên biết người cha liền được hưởng thọ. Nếu được sanh lên trời thì họ không nghĩ đến vật dụng trong cõi người nữa. Vì sao? Vì trên cõi trời đã được đầy đủ bảo vật thù thắng vậy. Nếu phải đọa vào Địa ngục, thì thân họ phải chịu bao nhiêu khổ não, cũng không được rảnh rang để nhớ nghĩ, vậy nên không được hưởng thọ. Đọa vào súc sanh, nên biết cũng như thế. Nếu hỏi tại sao ở trong Ngạ quỉ liền được hưởng thọ lợi ích; thì vì người ấy sẵn có lòng tham lam bỏn xẻn, cho nên phải đọa vào Ngạ quỉ. Nhưng khi đã làm Ngạ quỉ thường hay hối hận tội lỗi ngày trước, suy nghĩ muốn được lợi ích, bởi thế cho nên được hưởng". Đấy là nói rõ chỗ lợi của quỉ thú, còn đối với công phu làm việc phúc thật không luống uổng; vì không những kẻ chết được hưởng, mà bà con hiện tại cũng chung phần được hưởng. Như trong kinh nói: "Nếu như kẻ chết đã thác sinh vào các đạo khác, nhưng còn bao nhiêu bà con còn đọa trong Ngạ quỉ; nếu có làm việc phúc, tức thì cũng đều được lợi ích. Vậy nên, người có trí, nên vì Ngạ quỉ mà siêng năng làm việc công đức". (Trong khi lấy di sản của kẻ chết mà làm việc phúc đức, để cứu độ cho họ; trước hết phải xét rõ người ấy lúc còn sống, tính họ có bỏn xẻn hay không, thì khi thấy được bà con đem đi di sản mà làm Phật sự hay bố thí, tất họ thấy vật dụng của họ bây giờ thành sở hữu của kẻ khác, liền sanh lòng giận hờn tiếc nuối. Nhân đó mà khởi lên tà niệm, liền bị nghiệp lực dắt vào ác đạo. Cho nên Thiện tri thức hay là gia quyến của họ phải khai thị cho họ những lời như sau đây. "Ngươi tên... nay ta vì ngươi mà đem di sản của ngươi làm Phật sự hay làm việc phúc đức, làm như thế, tức là của cải hữu lậu làm việc vô lậu, nhờ ở công đức này, sẽ được siêu sanh Tịnh độ. Ngươi phải chăm lòng thành kính niệm Phật A Di Đà cầu Ngài đến cứu độ cho. Đối với di sản cần phải rời bỏ chớ nên bận lòng, phải hoàn toàn không mến tiếc tham đắm đê tiện mới được. Vì những thế tài (tài sản thế gian) dù có hoàn toàn để lại cho ngươi, ngươi cũng không thể thọ dụng được nữa. Như thế, đối với ngươi nó đã thành vô dụng rồi vậy". 17- CÁCH SẮP ĐẶT CÚNG TẾ Về cách sắp đặt cúng tế, thì rất kỵ việc sát sanh, vì việc sát sanh càng làm liên lụy khổ quả cho người chết. Cho nên thân Trung ấm nếu một phen thấy được việc ấy tức thì bảo thôi; nhưng ngặt nỗi âm, dương cách trở, nên không thể nào nghe được. Vì thế kẻ sống còn, vẫn trở lại làm sát sanh như thường. Đối với kẻ chết không thể ngăn nổi sân niệm khởi lên. Đã thế, nếu một phen sân tâm khởi lên, liền phải đọa vào địa ngục; cho nên người sắp đặt cúng tế cần phải chú ý. Nếu muốn cúng tế, thì nên dùng đồ chay, hương, hoa, sữa, bánh và đồ trái, chớ dùng những đồ uế tạp và sát hại sanh vật. Như trong Kinh Địa Tạng đã nói: "Làm những việc sát hại, cho đến bái tế quỉ thần; đã không có một mảy may phúc đức, không có lợi gì cho kẻ chết mà còn kết thêm tội lỗi càng sâu nặng. Dù cho kẻ chết về đời sau của họ, hoặc trong đời này có thể chứng được Thánh quả, hoặc sanh lên Trời; nhưng khi lâm chung bị bà con làm ác nhân ấy (tức là nhân sát hại) cũng làm cho họ phải liên lụy nhiều bề, chậm sanh về chỗ lành. Huống chi kẻ chết đó khi sống việc lành chưa làm được là bao hoặc còn chưa từng làm một chút việc lành, chỉ một bề nương theo gốc nghiệp mà tạo tác, lẽ phải chịu ác thú, nỡ nào bà con lại gây thêm nghiệp cho họ? Trong luật Thuận Chánh Lý, quyển thứ ba nói: "Có con quỷ tên là Hy Tự, nó hành động được tự do, có thể đi hết các phương dễ dàng cũng như chim bay giữa trời, qua lại không ngăn ngại. Sở dĩ nó phải đọa làm thân quỷ, duyên cớ có hai: 1- Là lúc bình sanh của nó, mê say theo lối bàn luận của thế tục, chắc rằng: chết rồi quyết phải thành quỷ. Cho nên luôn luôn mong mỏi sau khi chết rồi, sẽ được con cháu đem đồ ăn đến cúng tế. Vì chấp chặt tà kiến ấy, và nhờ có căn lành đời trước, nên mới đọa vào loài quỷ này, luôn luôn mong mỏi thờ cúng, bởi thế nên gọi là quỷ Hy tự. 2- Là lúc bình sanh hay ưa gần gũi giao thiệp và vì muốn được giàu có, cho nên chỉ biết tích trữ của cải cho mình, ôm lòng bẩn chật, dù cho dư dật cũng không chịu bố thí. Vì ác nghiệp ấy, nên phải đọa vào loài quỷ này. Luôn luôn vì lòng ưa mến của cải ở đời, cho nên thường hay nương náu chung quanh nhà cửa hoặc những nơi nhơ nhớp. Bởi thế, nếu bà con, bạn bè cúng tế, thì sanh lòng cảm khái và hối hận sự bẩn chật của mình ngày trước. Do cái niệm lành ấy, nên được cái phúc hưởng thọ cúng tế". Trong Kinh Quán Đảnh, quyển thứ sáu cũng có nói: "Những kẻ trong lúc bình sanh không làm lành, cũng không làm dữ; thì sau khi chết rồi không có quả báo gì xuất hiện, cho nên sẽ làm loài quỷ và được tự do. Nhưng loài quỷ này thường hay nương náu nơi mồ mả của mình hoặc mồ mả của kẻ khác; dựa theo cái dư khí của cốt tủy mà được hiển linh. Cho nên nếu ai có cúng tế, thì cũng được hưởng thụ. Đến khi xương tủy đã mục nát, thì mất chỗ nương tựa, tức liền tìm đến chỗ nào xương tủy chưa mục nát và vô chủ để nương tựa". Trong Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển thứ 16 cũng nói: "Có một loài quỷ tên là Hy vọng, vì trong lúc sống còn, hay ưa buôn bán tính toán, chẳng kể gì đến phải chăng, gạt người lấy của, làm như thế mà tự cho là vừa ý. Còn những việc bố thí, thành tín, phúc đức, giới cấm v.v... thì không bao giờ nói đến. Luôn luôn đem lòng bỏn xẻn ganh tỵ, không ưa gần gũi bạn lành. Cho nên, đến khi lâm chung phải đọa vào làm quỷ này. Loài quỷ này mặt mày đen xám, luôn luôn rơi lụy, tay chân lở loét, tóc tai bù xù, kêu gào thảm thiết. Nếu như con cháu có lòng nghĩ đến tiên linh mà cúng tế, thì quỷ này mới được uống ăn. Ngoài ra, không bao giờ được hưởng thọ. 18- CÁCH VẬN CHƯỞNG ĐỂ GIÚP ĐỠ SIÊU THĂNG. Sau khi hơi thở đã tắt, nhưng thân thể chưa toàn lạnh hẳn, thì cần phải đến gần một bên tai kẻ chết mà kêu gọi; và chuông, khánh phải đánh luôn luôn chớ cho dừng nghỉ, nếu như toàn thân đều đã lạnh, chỉ có đầu và trán là còn ấm thì có thể biết chắc người chết đó được sanh về Tây phương, không phải ngờ vực, và không nên kêu gọi nữa. Cho nên, chỉ vì họ đánh chuông, niệm Phật, mải cho đến khi hơi ấm ở trên trán đã tản hết, đấy là điều cần mà thôi. (Hơi ấm dồn vào dưới bàn chân, ấy là sa vào địa ngục; hơi ấm dồn xuống đầu gối, tức sanh loài súc sinh; hơi ấm dồn vào bụng, là đọa vào ngạ quỷ; hơi ấm dồn vào ngực, là chuyển sanh về Nhân đạo (cõi người); hơi ấm dồn lên giữa chân mày, là sanh lên cõi Trời; hơi ấm dồn lên trán, là siêu sanh về Cực Lạc). Xét biết trên đầu và trán lạnh trước, còn ngực, bụng, đầu gối và các chỗ khác hãy còn hơi ấm, thì biết nghiệp thức của kẻ chết còn ở chỗ dương ấm. Khi đó, tiếng niệm Phật, tiếng chuông cứ luôn luôn không ngớt và nên mời người dùng phương pháp vận chưởng (dùng tay mà vần chuyển) để giúp đỡ cho nghiệp thức của kẻ chết được từ nơi chỗ ấm đó mà đi dần lên đến đỉnh môn (trán). Vì kẻ được sanh về Tây phương cần phải từ nơi đỉnh môn mà ra. Phương pháp vận chưởng phải đưa hai tay ngang nhau mà chuyển lần, và phải úp hở trên chỗ ấm, không nên cho động đến thân, phải cách thân độ nửa tấc. Rồi dùng hai bàn tay xoay trở lên trán mà vận chuyển, thẳng lên cho đến trán. Tinh thần của hai con mắt mình phải chăm chú nơi hai tay và thầm tưởng tượng nghiệp thức của kẻ chết phải theo tay mình mà trở lên trên trán để đi. Khi đó trong miệng thầm khấn rằng: "Nam mô Đại từ, Đại bi A Di Đà Phật, xin Ngài đến tiến dẫn cho vong linh tên... sẽ từ trên đỉnh môn mà ra, mà sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây; quyết định vãng sanh!". Phải luôn luôn vần chuyển hai tay, luôn luôn khấn khứa như thế và niệm danh hiệu Phật A Di Đà và danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm. Như vậy, tinh thần chăm chú, tay vần, miệng niệm, cả ba nghiệp đều thi hành, nếu mỏi, thì đổi người khác luân phiên tiếp tục. Hoặc nửa ngày hay một ngày, không nên nửa chừng mà thôi nghỉ. Phải làm cho đến khi khắp các chỗ trong thân đều lạnh hết, chỉ còn lưu lại một chút hơi ấm trên đỉnh mới thôi. Như thế, nghiệp thức của kẻ chết đã được hiệu Phật và tiếng chuông cảnh tỉnh không thôi; lại được kẻ vận chưởng tâm thần chăm chú trợ niệm không nghỉ, thì hoặc chậm, hoặc mau, chắc chắn phải xoay trở lên theo đỉnh môn, mà được thấy Phật A Di Đà và vãng sanh về Cực Lạc vậy. Nhưng người chú nguyện và vận chưởng đó, cần phải mời được những người tu niệm Phật đã lâu và sẵn lòng từ bi thì tốt hơn cả. HỒI HƯỚNG Nguyện đem công đức này, Hồi hướng cho tất cả, Tôi và các chúng sanh, Đều được thành Phật quả. Dịch xong ngày mồng 10, tháng 11, Kỷ Sửu, Phật lịch 2512
  13. PHƯƠNG PHÁP LIỄU SANH THOÁT TỬ HAY CỨU ĐỘ TRUNG ẤM THÂN ________________________________________ Cư sĩ Liễu Địch Nguyên Dịch giả: Thích Quang Phú LỜI GIỚI THIỆU Trước đây 2512 năm, đức Phật đã từng dạy các đệ tử rằng: "Trong một bát nước có đến tám mươi bốn ngàn vi trùng". Thời ấy, nếu ai đã nghe qua, chắc không khỏi mỉm cười mà cho là hoang đường hay vô lý, rồi đem lòng ngờ vực không tin. Những mặc dầu ai không tin thì sự thật bao giờ cũng là sự thật: không phải vì không tin mà kém mất phần giá trị của nó. Tập sách "LIỄU SINH THOÁT TỬ" hay "CỨU ĐỘ TRUNG ẤM THÂN" này chính do LIÊU - ĐỊCH - NGUYÊN cư sĩ đã dày công sưu tầm trong các kinh điển mà biên tập ra, Thầy THÍCH-QUANG-PHÚ Giáo sư Phật học Đường BÁO - QUỐC, sau khi đã dịch xong, thầy đưa cho tôi xem: tôi nhận thấy trong đó có nhiều điểm rất hay đối với nhơn tâm thế đạo. Không những thế, nó cũng có thể giúp ích một phần nào cho những ai đang nghiên cứu về thần linh học". Tôi thiết tưởng hàng Phật tử xuất gia nên coi vào đấy mà lo trau dồi đức hạnh, đào luyện thân tâm; hầu cứu vớt sinh linh được thoát vòng đan khổ, để thực hành công việc lợi-tha trong muôn một; và hàng Phật-tử tại-gia cũng nên xem vào đấy mà thực hành cứu độ cho thân linh, trong những phút cuối cùng "ngàn thu nhất biệt"; hầu mong tỏ lòng hiếu thảo chơn chánh, và cải bỏ những tục lệ phiền phức sai lầm trong khi tang lễ; hầu gây nên một phong tục chánh tín Phật pháp ở tương lai. Như thế hẳn là một tập sách đáng đem lưu truyền đây đó. Còn nói về Trung-Ấm-Thân, thì theo như lời Phật đã dạy: "Chỉ có người nào chừng được đạo nhãn mới xem thấy, ngoài ra những kẻ phàm phu chưa chứng thánh trí, thì không thể nào trông thấy được". Thế thì nó có hoang đường mê tín hay không sẽ có thời gian trả lời. Cũng như ngày nay không cần phải giải thích, nhưng với sự thật mọi người đều thấy trong nước có vô số vi trùng. Với thời gian hiện tại, tôi rất mong rằng các hàng Phật-tử tại-gia cũng như xuất-gia, ai nấy đều y theo trong đó mà thực hành, thì người đã chết cũng như người còn sống sẽ được hưởng thọ nhiều phần lợi ích. Thật ra, với đạo Phật không phải chỉ chú trọng trong khi sắp chết, nhưng vì muốn được an vui. Cho nên ngoài những phương pháp cần phải thực hành khi đang sống, Đức Phật còn chỉ cho ta những phương pháp cần phải thực hành trong khi sắp chết hay đã chết. Vậy thì chúng ta không có quyền nói: "Đạo Phật chỉ chú trọng cái chết mà bỏ quên cái sống". Cũng bởi lẽ ấy, nên tôi xin kính lời giới thiệu cùng toàn thể Phật-tử. P.L 2512 BÁO QUỐC ngày mồng 10 tháng chạp năm Kỷ Sửu Giám-đốc Phật-học-Đường Báo - Quốc THÍCH - TRÍ - PHÚ THAY LỜI TỰA Sống trong vũ-trụ, đã là vật hữu-hình tất nhiên phải có sanh diệt, có thành hoại. Đó là công lệ của muôn pháp, mà cũng là định-luật bất di bất dịch của cuộc đời. Thì sống, chết, chỉ là lẻ thường, cần gì mà ta phải quan tâm đến?- Có lẽ cũng vì ý nghĩ ấy, nên ngày xưa đức Khổng-phu-tử đã trả lời với học trò mình bằng một câu tuy gọn gàng, nhưng đầy trách móc: "Chưa biết được việc sống, thì đâu biết được việc chết !". Nhưng sống ở đời. Trừ những hạng ngu mê vô tri-thức, thiếu học hỏi, thiếu suy nghiệm và những kẻ chỉ biết say đắm theo vật dục, mà không biết đến đời sống của tinh-thần, ngoài ra những kẻ có tri-thức, có học hỏi biết suy nghiệm thì: ngoài những phút hoan lạc, những giờ lo sống, nếu họ muốn nhận chân được ý nghĩa của cuộc đời và xây đấp một hạnh phúc vĩnh viễn cho tương lai chắc họ không khỏi băn khoăn tự hỏi: "Sanh từ đâu mà đến? Chết rồi sẽ đi đâu và chết rồi đã hết khổ chưa? Muốn tránh thoát những nỗi khổ ở đời thì phải làm thế nào? - Với những câu hỏi ấy, sẽ làm cho họ phải thắc mắc trong tâm trí; vì đấy là những vấn đề khó khăn chưa có ai giải quyết được một cách rành mạch. Gần đây ông LIÊU-ĐỊCH-NGUYÊN cư-sĩ ra tập sách: "PHƯƠNG PHÁP LIỄU SINH THOÁT TỬ" này, cũng không ngoài mục-đích để trả lời những câu hỏi như trên. Tập sách nhỏ này, với cái lượng của nó tuy hẹp hòi, nhưng chỉ ngần ấy trang, bấy nhiêu điều mục, nhờ ở cái tài khéo sắp đặt và diễn tả của tác-giả có thể cho ta thấy: về mọi trạng thái, và mọi hành vi, và những ý nghĩ lạ lùng của con người trong khi sắp chết, hay đã chết. Hơn nữa tác giả còn vạch rõ cho ta một con đường để xu-hướng là: áp dụng phương pháp niệm Phật để cứu độ thân trung ấm. Như thế, thì cái lượng của nó tuy nhỏ, nhưng cái phẩm của nó vẫn lớn vậy. Với những điều đã diễn tả sau đây, chính là những tài liệu mà tác giả đã thu gặt được trong các kinh luận, thật không phải ức thuyết hay bịa đặt. Đọc đến nó các bạn sẽ thấy lắm chuyện ly-kỳ và không khỏi sanh tâm ngờ vực là: hoang đường hay mê tín. Nhưng chúng ta nên biết rằng những cảnh tượng lạ lùng ấy, chỉ là những huyễn ảnh của tâm thức biến hiện, và do năng lực của nghiệp duyên mà cảm thấy đó thôi. Điều đó dùng như câu "Tuy chúng sinh làm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện" trong kinh THỦ-LĂNG-NGHIÊM đức Phật đã dạy. Thật là một quyển sách có giá-trị, và rất cần cho những kẻ sơ cơ trên bước đường tu tập. Vì nhận thấy lợi ích không phải ít và bổn phận lợi tha thúc dục, nên tôi không quản lời lẽ vụng về, văn chương non nớt, tạm dịch ra đây để cống hiến các chư vị thiện tín, hầu mong ai nấy đồng hiểu đồng tu, đồng được siêu sinh thoát tử. NAM MÔ SIÊU-LẠC-ĐỘ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT BÁO QUỐC ngày 15-11-2512 (Kỷ Sửu) Dịch giả cẩn chi THÍCH-QUANG PHÚ Hiểu được lẽ sống, thoát ly được sự chết và sanh về Cực Lạc, tức là bất sanh bất diệt. Nhưng hiểu được lẽ sống và thoát được sự chết, đâu phải là việc dễ! Đối với Phật pháp, phải có một lòng tin chắc chắn, phải tu trì có sẵn, hay nhờ có thiện căn đời trước, đến khi lâm chung gặp được thiện tri thức chỉ giáo cho mà chăm lòng niệm Phật. Nhờ thần lực của Phật và Bồ tát dắt dìu, mà được sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, hay vãng sanh về Tịnh độ ở phương khác. Như thế, vẫn không phải như lời sai lầm của kẻ si mê trong thế tục đã nói: "Chết rồi là xong". Bởi vì chưa rõ được việc sống, thì đâu biết được việc chết? Sống rồi chết, chết rồi sống; sống với chết không bao giờ thôi, xoay vần quanh quẩn thì làm sao xong được? Những người tin Phật, đối với thế tình xem bằng đôi mắt lãnh đạm, xét được kỹ, nhận được sâu, thấu hiểu cuộc đời là khổ, nhân sinh là đáng thương; vì đối thế tình nhận được rõ ràng, mới gọi là hiểu được lẽ sống. Còn thế nào là thoát được sự chết? Tức như chúng ta đang sống đây, không luận việc công hay việc tư, thư nhàn hay bận rộn. Đối với một câu danh hiệu A Di Đà, nếu đem toàn thân mà nương tựa, niệm nào, niệm nào cũng cầu đến Lạc bang, tâm nào, tâm nào cũng chán nhàm uế độ. Được thế, thì đến khi chết quyết được vãng sanh; và được thế mới gọi là thoát được sự chết. Nhưng những kẻ chưa được liễu sinh, chưa chứng thoát tử, thì như trong Kinh Phật đã dạy: "Họ phải đi vào giai đoạn Trung ấm". Thân Trung ấm ấy sẽ tùy theo nghiệp lực mà thọ sinh, thời gian thọ sinh có lâu mau không quyết định. Những điều đã thuật lại trong tập này là đem phương pháp niệm Phật mà cứu độ cho thân Trung ấm ấy được siêu sinh thoát tử, và được sanh về cõi Cực Lạc. Nay chia ra từng điều mục và thuật lại như sau. Nếu ai xem rồi, chịu tuần tự y theo pháp mà thực hành cứu độ, thì sẽ chứng được Vô sanh pháp nhẫn và chắc chắn được liễu sinh thoát tử vậy. 1- THUYẾT MINH VỀ TRUNG ẤM. Trung ấm cũng gọi là Trung hữu; tức như chúng ta khi thân này đã chết, thì gọi là Tử ấm cũng gọi là Tử hữu. Đến khi tái sinh thân sau, thì gọi là Sinh ấm cũng gọi là Sinh hữu. Giữa khoảng đã chết và chưa sanh, trải qua 49 ngày, riêng có một cái thân thì gọi là Trung ấm (thế tục gọi là linh hồn, kỳ thật tên tuy đồng, nhưng ý nghĩa thì khác). Nói một cách thiển cận hơn thì sau khi đã rời khỏi chỗ này, chưa sanh vào chỗ khác, trong khoảng đã chết và chưa sanh, không dính gì với hai bên, ở giai đoạn trung gian ấy, thì gọi là Trung hữu hay Thần thức, tức là Trung ấm vậy. Chỉ trừ những người đã sẵn có tu trì và những người chí thiện thì liền thọ sanh; hoặc sanh về Tịnh độ hay sanh lên Thiên giới. Còn những người cực ác cũng như thế, tắt hơi thở liền đọa vào ác thú; không vào thân Trung ấm. Ngoài ra đều phải trải qua giai đoạn Trung ấm vậy. (Đúng theo trong kinh thì ý nghĩa của thân là tích tụ; nghĩa là chứa nhóm; tức như cái thân của chúng ta đây là do nhiều nguyên chất hòa hiệp nhóm góp mà tạo thành, nên gọi là tích tụ. Thế thì sau khi thân này đã chết và chưa thọ thân sau, trong giai đoạn ấy không thể gọi là thân được. Vì trong đó chỉ có nghiệp thức mà thôi, chưa có tinh huyết của cha mẹ hòa hiệp và những nguyên chất khác để cấu tạo. Cho nên tuy trong giai đoạn ấy có thể tạm gọi là thân, vì đủ có sự thấy, nghe, hay, biết, qua, lại v. v... nhưng dó chỉ là cái giả ảnh do nghiệp thức biến hiện, trong kinh Phật có chỗ gọi là Sắc công năng: là cái sắc thân do nơi chủng tử của nghiệp thức mà biến hiện. Cho nên thân Trung ấm là một trạng thái tinh tế, không phải có mắt, tai thô tướng như thân này, mặc dù nó vẫn đủ tác dụng thấy, nghe, hay biết. Thế nên nó có thể xuyên qua tất cả chướng ngại vật và cũng bởi thế nên ta không trông thấy được). 2- TUẦN TỰ VÀ TRẠNG THÁI KHI BỐN ĐẠI PHÂN LY. Trong thân người, chất cứng rắn thuộc về đất, chất lưu động thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, sự chuyển động thuộc về gió, bốn nguyên chất này cùng khắp cả thế giới nên gọi là đại. 1.Trạng thái địa đại lấn áp thủy đại: Lúc đó, khắp trong thân người, cho đến một lỗ lông; đều có cảm giác nặng nề mỏi mệt xâm lấn vào trong tạng phủ, cho đến trong các lóng đốt, đều cảm thọ sự áp bức chướng ngại đau đớn xâm ngất, không thể tả được. Thế nên biểu hiện những trạng thái: tay chân co rút, gân mạch run rẩy. Đây là những triệu chứng về địa đại lấn áp thủy đại vậy. 2. Trạng thái thủy đại lấn áp hỏa đại: Lúc đó, hơi lạnh truyền khắp trong thân thể rồi thấm vào cốt tủy thì nội tạng rung động, gan ruột đều giá lạnh, khí lạnh trong ngoài xâm lấn nhau, dù cho lửa lò cũng khó trừ được sự khổ ấy. Tuy nằm trên băng tuyết cũng không thể sánh nổi một phần trong muôn phần! Bấy giờ bề ngoài nhan sắc nhợt nhạt, hơi thở khò khè, thân mình run rẩy; Đấy là triệu chứng của thủy đại lấn áp hỏa đại vậy. 3. Trạng thái hỏa đại lấn áp phong đại: Lúc đó, sinh cơ đã lui mất hơn phân nửa, sức chống chọi đã yếu dần, sự khổ lại thêm nhiều, nên phong đại thổi hỏa đại, nóng như lửa đốt. Trong thì ngũ tạng, ngoài thì tứ chi, khác nào nung nướng, thừa lóng đốt như bị cắt chặt đau đớn quá nên cứng đơ như lẻ gỗ. Khi đó, hiện ra ngoài nhan sắc ửng đỏ, tinh thần tối tăm, hơi thở ra thì nhiều nhưng hít vào thì ít. Đấy là triệu chứng của hỏa đại lấn áp phong đại. 4. Trạng thái phong đại phân ly: Lúc đó, thân thể của người bệnh bỗng nhiên cảm thọ một thứ gió mãnh liệt thổi bạt thân thể tan nát như vi trần, hết sức đau đớn rã rời. Khi ấy, bốn đại đều phân ly, sáu căn bại hoại, chỉ còn nghiệp thức (trong này nói là nghiệp thức cũng như thông thường nói là thần thức) tùy theo nghiệp lực đã tạo lúc sống còn mà thọ sanh. Xét ra, nếu được sanh về Tịnh độ ở phương Tây thì được nhờ oai thần của Phật A Di Đà, Ngài đến dẫn đi. Nếu sanh lên Thiên giới thì có chư Thiên nghinh tiếp, nhờ ở thiện nghiệp của mình nên khi nghiệp thức bỏ thân được nhiều khoái cảm, và không bị những cảnh khổ như trên. Chỉ có một điều rất cần là: gia nhân quyến thuộc phải dè dặt chớ khóc lóc rộn ràng. Vì sợ làm cho kẻ chết bị tình thương lôi quấn, tham đắm theo cảnh thế gian, chướng ngại cho sự vãng sinh vậy; Cũng không nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi áo quần, cần phải để yên độ tám tiếng đồng hồ, rồi sẽ tắm rửa thân thể, thay đổi quần áo và nhập liệm. Nếu không theo như thế, thì khi nghiệp thức chưa hoàn toàn bỏ thân, bị xúc động phải cảm thọ sự đau đớn nhân đó mà sinh ra hận tức phải đọa vào ác đạo. Lại nên xét kỹ lúc sanh thời của người chết, hoặc tuy rằng tin Phật, nhưng biếng nhác không tu trì, hoặc vì chưa đủ tín nguyện thâm thiết, vì nghiệp chướng nặng nề, thì khi lâm chung bị mê mờ, tức là hiểu được người đó chưa được vãng sanh. Khi ấy, nên mời các vị Thiện tri thức tu Tịnh độ tôn đối trước thi thể của người chết, hay đối trước linh sàng của người chết, vì vong linh mà khai thị. Còn gia quyến phải mỗi ngày ba phen luân phiên niệm Phật cứu độ, để dắt dìu cho nghiệp thức của người chết chăm chú về Cực Lạc, vì khi đó chỗ thọ sinh chưa quyết định, có thể chuyển đổi, nên nếu đúng như pháp mà cứu độ thì có thể trở vọng về chơn, chuyển phàm thành Thánh một cách dễ dàng. 3- BẮT ĐẦU VÀO CẢNH TRUNG ẤM. Sau khi người đó hơi thở đã tắt, thần thức rời khỏi thân, nếu chưa liền được giải thoát, thì phần nhiều phải trải qua một trạng thái tối tăm mờ mịt trong một thời hạn lâu đến ba ngày rưỡi hoặc đến bốn ngày rồi sau mới có cái cảm giác minh mẫn, đó là bắt đầu vào cảnh Trung ấm. Nhờ ở sự minh mẫn ấy nên có thể ở trong một khoảnh khắc mà thấy được gia nhân quyến thuộc... Lại nữa, thông thường người chết khi nghiệp thức đã rời thân, thường hay mê muội, nên cứ đắn đo mà tự hỏi: Ta đã chết hay chưa chết? Người đó cũng hay mơ màng mà thấy được thân thuộc, mỗi mỗi đều hiện ra trước mắt, in như gặp nhau trong cảnh mộng. Xét ra thì trong lúc đó, người chết không tự biết rằng mình đã chết hay chưa chết, thì những thân thuộc nên mỗi ngày ba phen vì họ mà luân phiên niệm Phật, để nhờ oai lực của Phật dắt dìu họ được vãng sanh về Cực Lạc. Như thế thì dù có nghiệp duyên cũng không trở ngại được; Ví như mặt trời đã mọc lên, thì phá tan đêm tối. Cũng như thế, trí tuệ thanh tịnh sáng suốt của Phật có thể tiêu diệt nghiệp lực tăm tối của chúng sanh vậy. Vả lại trong lúc ấy, nghiệp thức của người chết hoặc đi vào thế giới mới, chính họ cũng đang ngơ ngác, chưa biết mình sẽ đi vào đâu là phải. Thế nên phải nhờ phương pháp niệm Phật để cứu độ cho họ. Phải mời những bậc Thiện tri thức khai thị cho họ biết xu hướng về nước Cực Lạc. Thiện tri thức sẽ dùng những lời sau đây mà khai thị: "Nguyễn mỗ... nếu người đến trên mặt nước hoặc trước tấm gương mà soi thì ngươi sẽ không thấy được diện tượng của ngươi hiện vào nữa, vì thân Trung ấm này đã rời sắc thân tứ đại do huyết nhục tạo nên trong nhân gian. Ngươi nên biết, khi đã vào giai đoạn Trung ấm thân, chỉ có một điều cần thiết là: Lúc này ngươi không nên nhớ nghĩ gì nữa, chỉ nên chuyên tâm niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm đến cứu độ. Khi đó, Phật A Di Đà cùng Bồ tát Quán Thế Âm sẽ cảm ứng mà đến. Mong ngươi phải khéo tự phát ý niệm Phật". Thiện tri thức phải như trên đọc ba phen cho rõ ràng mà khai thị. Gia quyến phải một ngày ba phen luân phiên niệm Phật để cứu độ. 4- SỰ XÚI GIỤC CỦA NỖI LÒNG QUYẾN LUYẾN. Thân Trung ấm khi chưa được giải thoát, hay chưa trải qua giai đoạn đầu thai thì nghiệp thức ấy khi mê muội, khi minh mẫn. Có khi bỗng thấy bà con, bạn bè ở vào một nơi nào đó, giống như gặp nhau trong cảnh mộng. Cho nên, họ sẽ đến trước các người trong cảnh mộng đó mà nói năng kể lể; nhưng các người đó hoàn toàn không hiểu được. Khi ấy họ buồn rầu không thể tả xiết, giận dữ khác thường. Bỗng lại nghe người ta gọi đến tên mình mà than khóc; thì liền thấy được bà con bạn bè đến một bên thây xác của mình than khóc, hay thấy được các phẩm vật đã sắp bày trên bàn thờ. Rồi họ sẽ tự lẩm bẩm rằng :"Ta đã chết rồi! Làm thế nào? Làm thế nào?" Khi đã sanh ra một niệm ấy, thì tự biết hết sức đau khổ, khác nào con cá bị nướng trong lò lửa đỏ! Nhưng đây còn là ở trong sự mờ tối, cho nên khi thấy vợ con than khóc liền đến vỗ về an ủi: "Ta còn đây, không nên khóc!" Nhưng các người than khóc kia cũng vẫn không thôi nghỉ. Khi dó, trong lòng họ giận dữ, phẩn uất, cho nên vội vàng bỏ đi. Nhưng trong chừng khoảnh khắc vì lòng ái kiến vọng chấp chưa trừ cho nên vội vàng trở lại, để mong đáp lại sự tức giận khi trước đã gặp. Nhưng rồi cũng vẫn không vừa ý những cảnh tượng đã gặp và đã cảm thọ; cho nên vẫn có thái độ như trước. Cứ thế mãi, trải qua đôi ba phen gặp gỡ như thế, nên sự buồn bực dập dồn; càng trải qua càng thêm mãnh liệt. Vì lòng phiền muộn xúi giục càng thêm mạnh mẽ, đến nỗi họ không muốn suy xét đến cảnh giới lành dữ như thế nào, dù cho có mất giá trị thế nào, ta cũng không cần mến tiếc. Chỉ cần được thác sanh, để cởi bỏ cái khổ bơ vơ không nơi nương tựa. Những kẻ đầu thai vào ác đạo thường thường đều bởi duyên cớ ấy cả. (Thân Trung ấm tuy còn luyến ái bà con bạn bè, nhưng ngặt nỗi đã bị cách đời, nên không làm thế nào được, cho nên chớ có một mảy may luyến ái; và dù cho trở lại được sắc thân tứ đại, thì cũng chẳng qua trở lại chịu khổ sanh tử mà thôi. Vậy nên phải dẹp bỏ cái vọng tưởng được sống trở lại; hãy tự yên ổn, chăm lòng niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm, để cầu Ngài cứu đoä). Thiện tri thức phải theo như lời đã nói trên mà khai thị. Gia thuộc phải vì họ mà niệm Phật để cứu độ cho họ. 5- NHỮNG CẢNH TƯỢNG RÙNG RỢN DO ÁC NGHIỆP CHIÊU CẢM. Khi nghiệp thức đã ở vào giai đoạn Trung ấm, thì mê rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê, phải cảm thọ những điều không yên ổn, không tự tại. Và có một thứ nghiệp phong mãnh liệt, thổi đưa nghiệp thức đi vào phương hướng vô định; cũng như mảy lông bị gió cuốn: qua, lại, lên, xuống đều tùy theo chiều gió thổi. Cái thân ấy không do ở ý mình, phải phiêu lưu không nhất định. Bỗng nhiên lại gặp một thứ ánh sáng vô cùng mãnh liệt, vùn vụt chớp lòe, tia sáng chói lòa, không thể mở mắt mà xem được. Ánh sáng ấy chuyển biến giống như áng mây mùa thu, hiện ra những hình thái lạ lùng để hăm dọa người đã chết. Và ở trong những chỗ ánh sáng mạnh mẽ, lớn lao ấy đã xuyên qua, phát ra một thứ tiếng rất dữ dội, không có gì sánh kịp. Nó có thể mạnh gấp ngàn lần sấm sét. Một khi nghe đến càng thêm ghê rợn; có thể tan gan nát mật. Lại có một loại quỷ Dạ-xoa thật là đáng sợ, nắm cầm rất nhiều binh trượng, hầm hét dậm đạp đua nhau mà đến; muốn giết tính mạng của người chết. Bọn ấy rất đông, giành trước giựt sau, nhảy nhót mà đi đến. Hoặc hiện ra vô số loài ác thú hung tợn rượt đuổi theo; hoặc biến làm người tàn ác để áp bức, hoặc làm cuồng phong, bão vũ, sấm chớp, sương mù phủ kín; đem kẻ chết nhốt vào trong đó. Hoặc là núi lở, bể dậy sấm. Hoặc biến thành luồng lửa mạnh bay đi thiêu đốt. Tất cả những cảnh tượng đã thấy. Tiếng tăm đã nghe, làm cho thân Trung ấm khiếp sợ muốn ngất, hoảng hốt không chỗ nương tựa, lại không có đường để tránh thoát, chỉ có cách là mong nhờ cuồng phong đưa đẩy để lánh thân mà thôi. Trong thấm thoát lại bị đuổi theo lấn áp, rồi chạy đến trên chót núi nhìn xuống thấy có ba cái hố: một trắng, một đen và một đỏ; hết sức sâu thẳm và lại bị thúc giục, toan nhào đầu xuống, khi đó thân Trung ấm không thể không quay mình tìm nơi ẩn núp. Hoặc vào trong hang núi để lánh nạn. Thế nên chuyển sinh đầu thai làm thân: rắn, muông, lang, beo, cọp v.v... luôn luôn phải ở trong khổ thú. (Như trên đã thuật nên khai thị: "Biến thành nghiệp phong mãnh liệt, biến làm ánh sáng mênh mông, biến làm tiếng tăm rùng rợn... đều do nghiệp lực mà chiêu cảm. Nếu biết thân Trung ấm không phải là thân huyết nhục, mà chính là cái thân do một thứ vi tế tứ đại tạo thành; thì tuy có cuồng phong, lửa cháy, sấm sét... vẫn không thể hại được. Tức như ba cái hố: một đen, một trắng, một đỏ kia cũng là do ba độc tính căn bản là: Tham dục, sân khuể, ngu si từ nhiều đời nhiều kiếp mà hiện ra đó thôi. Trong khi ấy nên thật nhận rằng: Bao nhiêu ác tướng kia đều do nghiệp thức biến hiện, nhưng nay vì không may phải trải qua cảnh giới ấy, thì chỉ có cách yên lòng không rối loạn, chuyên cần niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm để cầu Ngài đến cứu độ"). Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị. Đại chúng phải niệm Phật để giúp cho họ được tiêu trừ nghiệp chướng, thì sẽ được sinh về Cực Lạc luôn luôn khỏi các khổ não. 6- PHÂN PHÁN MÀU SẮC HƠN KÉM CỦA HÀO QUANG. Thân Trung ấm vì trải qua cảnh khổ, nên tự nghĩ rằng: "Thương thay! Chỗ cảm thọ của ta vì sao mà khổ thế! Ta sẽ đi tìm chỗ nào có thân thể để sống". Nhân đó bèn chạy khắp bốn phương, tâm ý tán loạn không chịu dừng nghỉ. Có khi thì ở nơi cầu cống, có khi thì ở nơi miếu vũ yên lặng và có khi ở nơi các lăng tháp... Nhưng đó chỉ nghỉ tạm trong một lúc chẳng được lâu dài, vì cái sắc thân tứ đại Trung ấm rất nhẹ nhàng, khác hẳn cái sắc thân lúc sống còn thường làm trở ngại. Cho nên, khi đó không khỏi buồn rầu tự biết mình bấp bênh mất chỗ nương tựa. Buồn lo quá đỗi, nên tự nghĩ rằng: "Ta nay chỉ muốn được thân người, dù cho phải đổi mất giá thế nào cũng không tiếc". Cho nên lần lữa tìm lại cái thi thể của mình trước kia, nhưng thi thể ấy, đã bị bà con bạn bè đem bỏ vào hòm, hay đã chôn xuống đất, hoặc đã dùng lửa mà đốt rồi. Vì thế không có thây nào mà nhập vào, nên buồn rầu khôn xiết. Tâm hồn nguội lạnh như tro tàn: lo buồn rối rắm. Khi đó liền có những luồng ánh sáng yếu ớt của lục phàm (nhân, thiên, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) bỗng nhiên hiển hiện trong đó tùy theo nghiệp lực của kẻ chết cảm ứng với đạo nào thì luồng ánh sáng của đạo ấy sẽ càng rực rỡ hơn lên. Ánh sáng của đạo trời thời hơi trắng, ánh sáng của đạo người thì hơi vàng, ánh sáng của đạo A-tu-la thì hơi lục, ánh sáng của đạo địa ngục thì như khói đen, ánh sáng của đạo ngạ quỷ thì hơi đỏ, ánh sáng của đạo súc sanh thì hơi xanh. Lại nữa, các cõi Phật trong năm phương cũng phóng ra những hào quang rực rỡ và mạnh như: hào quang sắc xanh chói lòa, hào quang sắc trắng trong sạch, hào quang sắc vàng trong bóng như ngọc, hào quang sắc đỏ mãnh liệt. Như thế có rất nhiều thứ hào quang của Chư Phật chói lòa lẫn nhau. nhưng vì nghiệp lực nên kẻ chết sợ hãi những hào quang mãnh liệt của Chư Phật đã soi đến, mà chỉ ưa thích những thứ hào quang yếu ớt trong sáu đạo: thiên, nhơn, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đã soi đến mà thôi. Cho nên họ đã đầu thai vào lục đạo, luôn luôn chịu các khổ não. (Như trên đã thuật, những ánh sáng của lục đạo dịu dàng dễ chịu, nên làm cho kẻ chết có những cảm giác vừa ý nhưng ánh sáng ấy chính là những ánh sáng lục đạo, không nên tham đắm, cần phải tránh xa. chỉ nên chăm lòng thành kính tự mình phát tâm, phấn khởi tinh thần mà niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm. Phải bỏ cái dễ mà đi đến cái khó, không nên khiếp nhược, phải đi đến chỗ hào quang mãnh liệt, vì hào quang mãnh liệt ấy là hào quang của Chư Phật, hào quang ân huệ, hào quang giải thoát, là hào quang vượt phàm thành Thánh. Nếu đem toàn thân mà nương vào trong đó, tức là bước lên cõi Phật thường thường an vui, xa lìa cái khổ não đắm chìm trong lục đạo). Thiện tri thức, phải theo như trên mà khai thị, gia thuộc phải ở trong bốn mươi chín ngày ấy, theo tuần tự luân phiên mỗi ngày ba phen niệm Phật để cứu độ. Bởi vì thông thường người chết, nghiệp của họ phải trải qua bốn mươi chín ngày biến vào giai đoạn Trung ấm. Nếu ở trong bốn mươi chín ngày đó mà niệm Phật cứu độ, thì quyết định có một ngày nào trong những số ngày ấy, chắc được như pháp mà giải thoát. 7- SỰ PHÂN PHÁN CỦA CẢNH GIỚI MINH PHỦ. Người ta lúc sống còn, làm lành hay làm dữ, đều có quỷ thần xem xét. Nếu làm việc lành thì có thiên thần coi về việc lành, ghi lại công việc của mình đã làm. Nếu làm việc dữ thì khi đó cũng có ác thần coi về việc dữ ghi lại những việc dữ của mình đã làm. Cho nên thân Trung ấm một phen thấy vị thần kia, không khỏi hết sức lo sợ khủng khiếp, toàn thân run rẩy, nhưng cứ ngu si mà nói dối rằng: "Tôi chưa từng làm những việc dữ như thế". Khi đó quỷ vương chủ mạng bảo với người chết rằng: "Thì đây, ta có cái gương chiếu nghiệp này, ngươi nên soi vào đấy. Khi ấy tức thì trong gương, nghiệp lành hay nghiệp dữ đều hiển hiện rõ ràng; cho nên dù có chối cãi cũng không ích gì. Khi đó có kẻ ngục chủ hình dáng dữ tợn, lấy dây buộc vào cổ người tội mà dắt đi, và dùng những cực hình để hành phạt như: chặt đầu, mổ bụng, moi bụng, hút não, ăn huyết thịt, nhai xương... hết sức đau đớn nhưng vẫn không chết, và sau khi thân thể đã tan nát rồi, dần dần đầy đủ trở lại như cũ và lại chịu cực hình tiếp luôn không ngớt. (Trong khi các vị thần chủ việc lành hay chủ việc dữ hiện ra ở trước mắt để sát hạch tội lỗi, thì không nên sợ hãi, cũng không nên chối cãi, vì phải biết rằng: thân Trung ấm dù phải trải qua bao phen tan nát đi nữa cũng không thể chết được, huống chi thật tính của tự thân là không thật có, thì cần gì phải sợ? Tức như bọn ngục tốt kia cũng là nghiệp thức biến hiện, tự thể của nó là không, thì không đúng với lẽ phải. Nếu khi thấy có quỷ vương chủ mạng đến, thì ngươi nên tự xưng với quỷ vương chính trực ấy rằng: "Tôi, pháp danh... quy y với...". thì khi đó dù cho người có chịu cực hình đi nữa, cũng không tổn hại). Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị. đại chúng phải niệm Phật mà cứu độ, thì dù phải trải qua bốn mươi chín ngày mà chưa được vãng sanh đi nữa,cũng vẫn có khả năng đắc độ vậy. 8- NHỮNG PHƯƠNG THỨC LÚC CHUYỂN SINH . Nếu người chết lúc sống còn đối với Phật pháp chưa đủ sự tín ngưỡng thâm thiết, thì thân Trung ấm phải trải qua đường lối quanh co, dần dà không quyết định. Vì vọng niệm bồng bột, cho nên dù đã trải qua nhiều phen khai thị, vẫn chưa được vãng sanh. Chính trong lúc đó, người chết cũng không tự biết là mình đã gần đến chỗ thọ sanh. Bấy giờ, thân Trung ấm hoặc gặp phải cuồng phong bão vũ, giá tuyết, mưa đá... làm cho họ tối tăm mù mịt và các loài ác thú xua đuổi theo sau, trong nhất thời sáp đến; nếu người nào nghiệp chướng nặng nề, thì sẽ bị hăm dọa và vì trốn tránh mà đi vào cảnh khổ, còn ai có đủ nghiệp lành thì đi đến chỗ an vui. Trong một khoảnh khắc quan hệ và mau chóng ấy nếu đời trước họ chưa có công phu tu tập đoạn tâm, thì cảm thấy được hai thân nam, nữ giao hội, khi đó tà niệm dấy động, sanh lòng yêu ghét, nên tức thì thác sanh. Hoặc thác thai vào các loài súc vật, hoặc thác thai lại làm thân người, tùy theo nghiệp lực sai khác của người chết mà cảm thọ. Nếu người nào về nghiệp đàn ông nhiều thì thấy đàn bà liền sanh lòng yêu mến. Còn người nào về nghiệp đàn bà nhiều, thì thấy đàn ông liền sanh lòng yêu mến. Khi đó vì cảm thọ sự dục lạc nên bị tối tăm và mất cả trí giác. Đấy là thân Trung ấm đã diệt, mà sanh vào thai sanh hay noãn sanh vậy. Sau khi đã thác thai vào một loài nào, thì phải trải đủ những thời gian tương đương với loài ấy rồi mới được sanh nở. Nếu phải thác sanh làm thân chó, thì tìm ổ mà nương tựa cho đến lúc khôn lớn. Nếu làm thân một con lợn thì đi đến trong chuồng mà nương tựa cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con kiến, thì bò vào trong hang mà ở, cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con trùn, một con giòi, một con nghé, một con dê... đều tùy theo nghiệp lực sai khác, đáng sanh vào loài nào thì phải sanh về loài ấy, đều phải trải qua ngày tháng và thọ mạng được bao nhiêu, mỗi mỗi đều được tương đương với loài ấy. Khi đã thọ sanh những thân hình ấy, thì dù muốn tránh thoát, cũng không sao thoát được. Và còn có những nỗi khổ kịch liệt như đui, điếc, câm, ngọng, ngu si, nhơ bẩn và mặc dầu cho người ta giết hại, sự đau đớn kịch liệt kia không thể nào kể xiết được. (Còn có những khổ sở phải sa vào trong ngạ quỷ, địa ngục v.v... rộng như trong kinh đã nói. Nếu được may mắn thì sanh lên cõi Trời, cõi Người, và A-tu-la tức là ba đạo lành, nhưng các cõi đó đều phải chịu khổ sanh tử luân hồi, không bao giờ thôi nghỉ. Cho nên Thiện tri thức phải theo những lời như sau đây mà khai thị: Thương thay! Người làm những ác nghiệp gì mà bị kết xâu khổ sở như thế. Người từ nhiều kiếp đến nay phải đắm chìm trong sanh tử mà chưa được ra khỏi, đều do bệnh căn của ác tập này vậy. Nay đây nếu không tự cứu độ, cứ chất chứa những lòng ghen ghét thương yêu, thì có khác chi tự hãm mình vào trong bể khổ; trải qua nhiều kiếp không thể ra khỏi đó sao?! Ngươi phải mạnh mẽ mà phấn khởi lên; phải luôn luôn trừ bỏ tà niệm thương ghét rất đê tiện ấy đi, đừng để sanh khởi làm nhơ nhớp tâm niệm, ngươi phải tự trách, tự răn mình như thế, phải lập lời thệ nguyện mạnh mẽ, quyết định không dối mình. Cho nên trong kinh đã nói: "Chỉ có lời thệ nguyện mới đóng bít được thai môn mà thôi". 9- CHUYỂN SANH LÊN THAI GIỚI. Vì cái niệm cầu sinh của người chết quá bồng bột, dù đã trải qua nhiều phen khai thị cũng vẫn không trừ được lòng huyễn vọng ấy, cho nên vẫn chưa được vãng sanh Tịnh độ. Khi đó, thân Trung ấm vì nhờ sức thiện nghiệp mà thấy được cảnh giới chư Thiên (các cõi trời) nào là kỹ nữ trang nghiêm chơi bời vui thú, biết bao cảnh tượng đẹp tươi. Khi đó sanh lòng ưa thích, vội vàng đi đến. Vả có thiên thần đem thiên y (áo của trời) và kỹ nhạc đến rước. Bấy giờ bà con tống táng, dù có than khóc thảm thiết đến đâu cũng không thể làm lay chuyển lòng họ; trái lại ta thấy người chết vẫn mỉm cười hớn hở, nhan sắc tươi vui. Vì tâm của Trung ấm thân đã duyên vào cảnh giới vui vẻ của chư Thiên, cho nên người đời dù than khóc thảm thiết, họ cũng không nghĩ đến. Nhưng nếu Sinh ấm (thân sau) chưa thành, thì thân thuộc khóc than còn có thể lôi kéo được lòng họ. (Sanh lên thiên giới tuy là vui sướng hơn ở nhân gian, nhưng vẫn còn trong vòng tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, chưa khỏi luân hồi, thì cũng không khỏi được cái khổ hỏa trạch (ví dụ sự khổ trong ba cõi cũng như lửa nung nấu, nên gọi là hỏa trạch) sao bằng sự vui vô lậu hoàn toàn ở Tây phương Cực Lạc!) 10- CHUYỂN SANH VỀ BỐN CHÂU. Thân Trung ấm đủ có cái thông linh không thể nghĩ ngợi, thông linh ấy chính do nghiệp lực của Trung ấm mà cảm được, có thể ở trong một chốc lát, đi khắp cả bốn đại châu: hoặc quanh núi Tu-di mau chóng hơn trong khoảng một phen cánh tay co duỗi. Tùy theo ý muốn, mống niệm liền đến; cho đến đủ có những huyễn pháp biến hiện. 1. Sanh về Đông Thắng Thần châu. Nếu thân Trung ấm được cảm sanh về Đông Thắng Thần châu thì liền thấy biến thành một cái hồ, trong đó có những chim hồng, chim nhạn, kết thành bầy lũ, trống mái đuổi nhau dạo chơi trên mặt nước. Nếu kẻ chết đi đến chỗ ấy, tức là sanh về Đông Thắng Thần châu. (Cần phải cẩn thận chỗ khởi tâm, phải cương quyết chớ đi đến châu ấy: vì đến châu ấy, dù được an vui, nhưng đắm trước theo sự an vui đó, làm xao lãng chỗ tấn tu, thì không thể siêu sanh thoát tử được, cho nên không nên đến). 2- Sanh về Nam Thiệm Bộ châu (nghĩa của nó là Thắng kim; vì ở châu này có thứ kim sắc đặc biệt), thân Trung ấm nếu được cảm về Nam Thiệm Bộ châu, thì cảm thấy hiện ra những cung điện huy hoàng của châu ấy, thấy như vậy tức là sẽ sanh về Nam Thiệm Bộ châu. (Nếu ai chưa hết ý niệm cầu sanh thì nên cầu sanh về châu này; vì ở đây hiện có Phật pháp lưu hành, vẫn có thể tu trì mà siêu thoát) 3. Sanh về Tây Ngưu Hóa châu (cõi này buôn bán đổi chác đều dùng bằng trâu, không dùng đến tiền tệ), thân Trung ấm nếu sắp được cảm sanh về Tây Ngưu Hóa châu thì sẽ thấy có một cái hồ, hai bên bờ có trâu gặm cỏ, thấy như vậy tức là sẽ sanh về Tây Ngưu Hóa châu. (Châu này tuy là giàu có thật, nhưng cũng không nên đến; vì sự giàu có hay làm tăng trưởng tham tâm, mà phế bỏ đạo nghiệp, cho nên không nên đến). 4. Sanh về Bắc Câu Lô châu. (Châu này gọi là Thắng xứ; vì ở đây sung sướng như cõi Trời). Thân Trung ấm nếu được cảm sanh về Bắc Câu Lô châu thì sẽ thấy có một cái hồ, và trên bờ cũng có các loài súc vật và cây cối… thấy như vậy tức là sẽ sanh về Bắc Câu Lô châu. (Châu này tuy sống lâu và sung sướng, nhưng ở đây không có Phật pháp lưu hành thì càng không nên đi đến, mà cần phải trở lại gấp). Thiện tri thức nên đối trước linh sàng, theo như trên mà khai thị để cho họ biết mà lựa chọn thân sau. Trung ấm thân mặc dù rong ruổi ở chốn xa xôi, nhưng một khi nghe kêu gọi thì lập tức trở lại; vì họ đủ có thần thông nghiệp lực hữu lậu và những khả năng đặc biệt có thể ghi nhớ những điều đã trải qua và hiểu rõ được sự lý. Lúc sống còn, tuy là tai mắt không minh mẫn, nhưng lúc này thì tính thấy, tính nghe càng minh mẫn hơn, ngặt nỗi nghiệp duyên lôi cuốn nên không khỏi trở vào sanh tử. Lại nữa, thân Trung ấm đã thoát khỏi sắc thân huyết nhục không còn là sắc thân thô ngại nữa; cho nên dù là đất, đá, gò, nhà cửa cho đến lớn như Tu-di cũng không qua được. Chỉ có Pháp tọa Kim cang của Phật và tử cung trong thân mẹ thì không thể qua khỏi; vì một khi đã vào trong tử cung, tức thành thân sau vậy. (Xét trong Mật giáo có nói về cách thức chọn thai rất hay, cho nên thiện tri thức phải theo như sau đây mà khai thị cho kẻ chết: "Ngươi hãy lắng nghe! Vì ngươi cũng đủ có ít nhiều thần thông, thì nên đi khắp trong các châu mà xem xét; nếu thấy châu nào có Phật pháp lưu hành thì nên đến đó thọ sanh. Nếu sẽ do nơi vật bất tịnh giao cấu mà xuất sinh (bất tịnh: chỉ chỗ tinh huyết của mẹ cha) thì ngươi liền cảm giác được một thứ hương vị, nghe rồi sanh lòng ưa đắm; tức là bị nó hấp dẫn vào trong thể chất bất tịnh mà thác thai. Cho nên trong khi đó, dù có sắc tướng gì hiện ra trước mắt ngươi (đây chỉ cho trạng thái trong thai) thì ngươi không nên khởi lên cảm giác để phân biệt về sắc tướng của vật đó. Như thế đã không nên có tham tưởng, cũng không nên sanh lòng ghen ghét vì thông thường thiện thai hay nhận lầm là ác thai, và ác thai hay nhận lầm là thiện thai. Thấy thiện thai cũng không nên sanh lòng ưa đắm, thấy ác thai cũng không nên sanh lòng chán nhàm, chỉ phải một lòng an trú nơi cảnh vô phân biệt. Nếu trái lại thì bị hoặc nghiệp tà niệm mà phải đọa vào súc sinh. Bởi vậy trong khi có thai tạng nào hiện ra truớc mắt ngươi thì ngươi cứ yên tâm không nên lo lắng, cần phải chăm lòng quy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), phải khởi lên ý niệm như sau này: Tôi nay phát nguyện, nguyện làm vị thế vương hay là Bà-la-môn hoặc làm con vị trưởng giả vĩ đại, hoặc làm con bậc Tất địa thành tựu là dòng dõi trong sạch không nhơ bẩn đủ có chánh tín về Phật pháp và có đại phúc đức, có thể làm lợi ích cho chúng sanh, bởi thế cho nên tôi nguyện sanh vào những dòng dõi ấy. Phát nguyện xong, đợi đến khi thấy được hào quang sắc trắng của chư Thiên hay hào quang sắc vàng của loài người; trong đó những cung điện quý báu, nhà cửa đồ sộ, cho đến vườn tược v.v… thì ngươi hãy buông lòng mà đi thẳng vào trong đó chớ có đoái hoài. Được vậy, thì được sanh vào Thiên đạo". Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen. (Nếu phải thác sanh vào nhà hạ tiện, thì người chết sẽ nghe có bao nhiêu tiếng tăm rộn ràng ức hiếp, và thấy thân mình đi vào trong cảnh bụi rừng lau sậy, những cảnh không vừa ý. Như sanh vào nhà tôn quý thì sẽ thấy hoàn toàn yên lặng, hoặc nghe thấy mình được bước lên cung điện ở vào những cảnh tượng vừa ý vậy). (còn nữa)
  14. (Tiếp theo) Tu có chuyển được nhân quả không? Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không? Đây là điều mà chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đều nghĩ rằng: Xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả nấy thì tu để làm gì? Tu cốt cho hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp. Kinh A Hàm Phật có dạy: Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay. Phật có ví dụ một nắm muối nếu hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba trăm lít thì nước trong lu sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mẳn mẳn. Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngàn lít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bất thiện là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong lu nước thì quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu, nước dùng xài bình thường. Cũng vậy, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm tạo nhân ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối tan trong tô nước, không giải khát được. Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong lu nước, tuy vị nước mẳn nhưng cũng tạm dùng được. Còn người biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn, dùng xài bình thường. Vậy, nếu tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả sẽ chuyển sẽ chuyển không thọ đúng như khi gây nhân. Như vậy nếu gây nhân ác mà không biết tu, không chuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả ấy không sai chạy. Nếu gây nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn gây nhân ác biết tu thân, tu giới, tu tâm gần như chuyển hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển đau khổ được an vui. Kiểm lại, chúng ta từ nhỏ đến già, không ai là người hoàn toàn thiện lành, cũng có lúc người này làm người kia khóc than, cũng có lúc người kia làm người nọ oán hận. Như vậy, là đã tạo nhân xấu. Nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì tu có lợi ích gì? Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu, tuỳ theo sức huân tu nhiều hay ít mà quả tuỳ theo đó chuyển đổi. Sau đây, Phật dạy: Có một gia chủ nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tới trộm dê, bị gia chủ bắt được đánh, đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người người của quan lớn sai tới, gia chủ chỉ bực tức nói năng đôi lời chớ không đối xử thậm tệ như người thường dân trước. Kế tiếp, kẻ trộm dê do lính của vua sai đến, thì gia chủ không dám nói nặng nhẹ gì cả mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắt dê. Trong ba trường hợp trên chứng minh rằng: Người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao nhiêu thì phải trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó là dụ người thường dân trộm dê không thế lực. Trường hợp người trộm dê là lính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ. Đó là dụ cho người biết tu thân, tu giới, tuy có tạo nhân ác nhưng thọ quả báo nhẹ hơn. Trường hợp người trộm dê là lính của vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặng nhẹ. Đó là dụ cho người tuy có tạo nhân ác nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả được hoá giải. Như vậy để thấy cùng tạo nhân ác, tùy theo khả năng tu tập cao thấp mà thọ quả sai khác. Nếu biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như người không biết tu. Khi biết rõ người có tu thân tu giới tu tâm thì sẽ thoát được những nghiệp quả đã gây trước kia; tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn. Nghĩa là nắm muối vẫn hòa tan trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiều nên không thấy mặn. Cũng như chú lính của nhà vua trộm dê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ, nhưng trong lòng chủ nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quả sai biệt theo khả năng tu tập. Thế nào là tu thân tu giới tu tâm? Tu thân là nơi thân này không làm điều ác, tất cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh, còn mọi điều thiện phải cố gắng làm, luôn luôn nhớ và làm đó là biết tu thân. Tu giới là Phật tử tại gia, sau khi quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới: 1/ Không sát sanh: Là không được giết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng, không nên giết mạng sống của người. Nếu giết mạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vì tôn trọng mạng sống của mình nên phải tôn trọng mạng sống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ công bằng là tội lỗi. Ngoài ra, đối với những con vật lớn như trâu bò heo chó tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ yếu là không giết người. Một là tự tay mình giết. Ví dụ mình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết. Hai là sai bảo người khác giết, ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giết được bèn xúi bảo hay mướn người khác giết. Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết. Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được, khi thấy nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú. Như thế là phạm tội sát sanh. Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp ác, sai bảo người giết là miệng tạo nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật cấm không cho Phật tử làm. 2/ Không được trộm cướp: Phàm của cải của người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc cướp giựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuế cũng đều gọi là trộm cắp. 3/ Không tà dâm: Người Phật tử sau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phật cấm. 4/ Không nói dối: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội. a) Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người. :D Nổi giận nói lời hung dữ, thô ác mắng chửi người, vu oan người. c) Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu dệt để lừa gạt người. d) Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau. Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc để trấn an người bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm. 5/ Không uống rượu: Nói đơn giản là rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được dùng. Vì nó là cái nhân sanh ra bệnh hoạn, làmcho tiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ. Nhưng, nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống thuốc rượu để trị bệnh thì được phép uống. Phật dạy giữ năm giới là vì lòng từ bi, sợ chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nên giữ gìn không phạm thì được an vui. Đó là tu giới. Tu tâm, có nhiều người nói tôi lo tu tâm thôi lo đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì? Vậy, tu tâm là tu thế nào? Tâm là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham, sân, si... Tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tính sân hận, đố kyﬠsi mê... Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn, tham ngủ... ở đậy tôi chỉ đề cập tham ăn và tham ngủ, được mọi người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải là dễ. Ăn nếu dở quá thì không vui, nếu không no thì cũng không được; ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn, mà đó là cái bệnh chung của mọi người, không ai là không có. Tu là dẹp bỏ lòng tham, còn sân và si luôn luôn đi chung, hễ có sân là có si. Thuở xưa có một gia đình gồm có ba người, người con đi làm ngoài đồng, ông nội và cháu ở nhà, ông đưa cho cháu hai cái tô và hai đồng bảo: -Cháu hãy đi mua một đồng tương và một đồng chao. Đứa cháu cầm tô và tiền đi một lúc về hỏi: -Thưa ông nội, đồng nào mua tương đồng nào mua chao? Ông rầy cho nó một hồi, rồi bảo: -Đồng nào mua cũng được. Nó liền chạy đi, một lúc lâu trở về hỏi: -Thưa ông nội, hai cái tô cái nào đựng tương cái nào đựng chao? Ông giận quá tát cho nó mấy tát tai, nó khóc lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầm cây roi đánh trâu, thấy con mình bị ông già đánh, nó la khóc nên nổi giận nói: -Ông đánh con tôi, tôi đánh con ông cho ông biết. Người con liền cầm roi tự quất lên mình túi bụi, ông già nóng ruột quá nói: -Mày đánh con tao, tao treo cổ cha mày cho mày biết. Ông liền làm vòng, đút đầu vô treo cổ. Kết luận câu chuyện, quý vị thấy gia đình đó si mê ở mức độ nào? Nếu nói ngu thì gia đình đó không ai bằng. Đứa cháu đã ngu, người cha còn ngu hơn, đến ông nội lại quá ngu! Ngu là do nổi giận mà ra vậy. Nên có sân là có si, làm mà không biết sai không biết hại. Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy không? Tưởng chừng như không, nhưng khi có làm mà không hay. Chẳng hạn lúc nào đó, con làm trái ý, cha mẹ nổi giận chửi "Mày là đồ trâu đồ chó..." Nếu có người hỏi "Nó là trâu là chó, vậy cha mẹ nó là gì???". Làm cha mẹ chửi con như vậy có khôn không? Thế mà có lắm người chửi như vậy!!! Nên biết, hễ nổi sân là liền ngu, không biết phải quấy. Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận mình là trâu là chó. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phải là trâu chó mới sanh con trâu chó. Hoặc có người khi giận con thì chửi ông cố nội, ông cố ngoại nó... Ông cố nội ông cố ngoại nó là ai? Là ông nội ông ngoại mình. Vậy mà khi giận thì người ta cứ nói cứ làm. Chẳng khác gì người kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánh mình thì mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảng sợ, nhưng rồi chính ông chết! Vì sân si mà chúng ta không nhận biết điều phải lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiến cho thiên hạ chê cười. Nên ca dao Việt Nam có câu: Sân si nghiệp chướng không chừa, Bo bo mà giữ tương dưa làm gì. Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân, bỏ si mà cứ khoe "tôi ăn chay một tháng mười ngày, 15 ngày v.v..." Ăn chay, ăn tương dưa là để chừa tham sân si. Có chừa bỏ được tham sân si thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì không nói bậy làm bậy, không nói bậy làm bậy thì nghiệp chướng theo đó mà giảm. Nếu không chừa bỏ tham sân si thì nghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được. Tuy nói tu thân, tu tâm, nhưng chủ yếu là tu tâm. Nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn, mọi họa khổ sẽ hết, không phải trả nặng nề như lúc gây tạo. Nói nhân nào quả nấy là chưa chính xác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợp là người không biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng. Nếu người tạo nghiệp ác nhiều, vì yếu đuối không cố gắng làm lành, chắc rằng nghiệp ác khó chuyển đổi. Ví dụ có nhiều người lỡ nghiện rượu đều được bác sĩ và bạn tốt khuyên nên bỏ rượu, vì uống rượu hại sức khỏe, tinh thần không minh mẫn, tốn kém tiền bạc, vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc. Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ uống rượu là tai hại. Nhưng có người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu đuối bạc nhược. Lại có người ý chí mạnh mẽ biết uống rượu có hại dứt khoát bỏ ngay. Vậy, nghiệp cũng có thể chuyển được mà cũng có thể chuyển không được, tùy theo ý chí mạnh hay yếu của mọi người. Có nhiều Phật tử lấy làm thắc mắc hoặc nuối tiếc về những người tu xuất. Vì họ cho rằng các thầy các cô có rất nhiều duyên phước mới được xuất gia tu hành. Tại sao có nhiều người tu mười mấy hai mươi năm học hành tương đối cũng thông, bỗng dưng cởi áo hoàn tục. Họ hỏi: -Thầy tu ở trong đạo an ổn quá, tại sao lại hoàn tục cho phiền lụy? Các thầy trả lời chung chung: -Tại nghiệp của tôi nó lôi. Qúy vị nghĩ sao? Ai tu có nghiệp cũng bị nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôi có người chuyển nghiệp đổi nghiệp? Nếu ai tu cũng bị nghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn không có người tu tới nơi tới chốn. Chúng ta sanh ra trong đời này đều có liên hệ với quá khứ, kẻ có nghiệp này người có nghiệp khác... Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu hay mạnh mà chuyển được nghiệp hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồi tu, nếu gặp cảnh nghịch lòng, trái ý liền bỏ đạo về đời, lại nói do nghiệp lôi. Người như thế là người không ý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp. Tuy nhiên chúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còn tại thế, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trên đường đi giáo hóa, bà gặp các cô gái trẻ, bà rủ: -Các con nên xuất gia đi tu. Các cô thưa: -Các con còn nhỏ dại, ham ăn, ham ngủ tu không được. Bà nói: -Không sao cứ đi tu. Các cô nói: -Đi tu không làm tỳ kheo ni, lỡ tụi con phạm giới đọa địa ngục thì sao? -Không sao, lỡ đọa địa ngục, hết quả báo trở lên tu tiếp. Theo Bà Liên Hoa Sắc thì nếu tu phạm giới bị đọa hết quả báo thì trở lại tu nữa, vì chủng tử tu hành vẫn còn, gặp duyên thì nhớ lại. Nếu người chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị đọa, hết quả báo không có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được. Bây giờ tuy người tu phạm giới bị đọa có thua kém những người tu khác, nhưng với người chưa tu vẫn có phần hơn, vì họ còn chủng tử cũ, đủ duyên họ phát tâm tu trở lại. Tới đây, tôi xin đi xa một chút là trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong "Chứng Đạo Ca" của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu: Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai không, Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái. Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những nhân ác, những nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải không còn. Sau có một thiền khách tên Hạo Nguyệt đến Thiền Sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng: -Cổ Đức có nói: "Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái". Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước? Trường Sa bảo: -Đại đức chẳng biết bổn lai không. Hạo Nguyệt hỏi: -Thế nào là bổn lai không? -Ngiệp chướng. -Thế nào là nghiệp chướng? -Bổn lai không. Tại sao nói nghiệp chướng bổn lai không? Theo Phật giáo thì nghiệp là động lực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tới đời này và mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quan sát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hung ác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp ác của ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xin lỗi thì ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thật thì không đổ được, vì nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật. Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử không dừng. Đã nói "Nghiệp chướng bổn lai không" tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong tù? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ ngài hỏi: -Thầy được không tướng chưa? -Đã được. -Đã được thì còn sợ chết chăng? -Đã lìa sống chết thì đâu có sợ. -Chẳng sợ thì có thể cho trẫm cái đầu chăng? -Thân chẳng phải của ta, huống nữa là cái đầu. Vua liền chặt đầu ngài rơi xuống đất. Với con mắt phàm phu thì thấy ngài bị trả quả chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ của ngài thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có gì gọi là trả? Sở dĩ chúng ta thấy ngài trả nghiệp là vì chúng ta chưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật. Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán. Ngài nói:"Ta còn chút duyên để đi trong nhân gian". Rồi Ngài Đến giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị người sàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng chánh pháp, quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám, Ngài chỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây, rồi Ngài tịch ở trong khám. Đối với chúng ta khi bị nhốt trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với Ngài, Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười. Như vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám, đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả, nhưng đối với Ngài thì không có trả. Tôi lấy một ví dụ thực tế cho dễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tức giận. Nhưng vì ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trả lời. Sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đã biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chì cười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận, nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trả quả không? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần trả quả. Nhưng với ông Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng ngài tai, qua rồi thì mất, nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảy ra người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả, nhưng đối với người liễu đạo thì không có giá trị, nến thấy không có trả. Thế nên, chư Tổ không thấy trả nghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếu tu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận, si mê, tham sân si càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà được an vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướng đối với mình coi như không có; nếu không bị nghiệp chi phối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì? Hiện nay có một số Phật tử mê tín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ nghiệp, do tu do tụng kinh nên xẩy ra nhiều tai nạn... Vậy nghiệp đó đổ bằng cách nào? Do tụng kinh nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều nghiệp ác bậy giờ đổ bớt đi??? Đã là Phật tử tại sao không tìn hiểu nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ nghiệp là không dám tụng kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu là để chuyển nghiệp, giảm nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là đổ ra. Nếu xưa kia tạo mghiệp ác, đáng lý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất nhân mạng, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của. Khi bị mắng chửi hay mất tiền của nên quán xét: có thể nghiệp chướng của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờ biết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửi mất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm. Lại có nhiều Phật tử quan niệm rằng đi chùa quy y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộc sống sẽ bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến tu không thối chuyển. Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấu sạch hết, môi việc xảy ra đều như ý. Chính Đức Phật là người tu hành công đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn, gia đình nọ giỏi về tướng số, sanh được một người con gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả con gái ông cho người có đủ ba muơi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa dược. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy Phật rất hài lòng, đúng là đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài. Phật nói "Đối với bà thì con gái bà đẹp, song, đối với ta đó là một dãy da hôi thúi, tất cả trong thân nàng đều là bất tịnh". Nghe Phật đáp, bà buồn, trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe. Cô tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán thề rằng sẽ trả thù Phật. Sau cô được làm hoàng hậu của một nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp du đãng chận đường Phật để mắng chửi. Tôn Giả A Nan đi theo Phật, thấy du đãng vây mắng thậm tệ, ngài không chịu nổi, mới nói: -Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước khác giáo hóa. Phật hỏi: -Đi đâu? A Nan thưa: -Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịu được. Phật hỏi: -Giả sử đi tới chỗ khác bị người ta chửi nữa thì A Nan tính sao? A Nan thưa: -Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà... chỗ mà Thế Tôn có nhiều đệ tử ở đó giáo hóa. Phật hỏi: -Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nan có nên đề bảng: "Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bịnh nặng" chăng? A Nan thưa: -Bạch Thế Tôn, không được, thầy thuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người. Phật nói: -Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để ta giáo hóa họ, vì họ cần ta. Du đãng tiếp tục chửi Phật. A Nan nói: -Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được? -Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì ta đi. Nghe Phật trả lời A Nan như vậy, du đãng nói: -Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa, chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy. Từ đó Phật nói pháp giáo hóa với họ. Quý vị thấy, Phật mà còn bị người chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn Giả A Nan cũng như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửi không chịu được. Còn Phật đã giác ngộ tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm, nên thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói pháp cứu chữa. Cũng vậy, Chúng ta khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quán khởi lòng thương và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng hay vợ, hay con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mình tu. Mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạo còn mờ tối nên cần sự cảm hóa của mình. Thế nên, tất cả mọi khó khăn, những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóa giải tất cả thì được an vui. Một lần khác Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi: -Cù Đàm có điếc không? -Ta không điếc. -Ngài không điếc tại sao không nghe tôi chửi? -Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ không nhận thì quà ấy về ai? -Quà ấy về tôi chứ ai. -Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi. Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâu đâu cũng lắng nghe để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm, như thế mới được an vui. Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó. Người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống mặt người phun. Thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổ đau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau, quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người trí. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải không thọ nhận đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lý do bất như ý bên ngoài đó là tu chưa tiến. Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyuển nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quý Phật tử sau khi nghe pháp nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ được vui. http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap...huyennghiep.htm
  15. (Tiếp theo) Tu có chuyển được nhân quả không? Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không? Đây là điều mà chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đều nghĩ rằng: Xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả nấy thì tu để làm gì? Tu cốt cho hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp. Kinh A Hàm Phật có dạy: Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay. Phật có ví dụ một nắm muối nếu hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba trăm lít thì nước trong lu sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mẳn mẳn. Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngàn lít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bất thiện là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong lu nước thì quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu, nước dùng xài bình thường. Cũng vậy, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm tạo nhân ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối tan trong tô nước, không giải khát được. Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong lu nước, tuy vị nước mẳn nhưng cũng tạm dùng được. Còn người biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn, dùng xài bình thường. Vậy, nếu tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả sẽ chuyển sẽ chuyển không thọ đúng như khi gây nhân. Như vậy nếu gây nhân ác mà không biết tu, không chuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả ấy không sai chạy. Nếu gây nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn gây nhân ác biết tu thân, tu giới, tu tâm gần như chuyển hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển đau khổ được an vui. Kiểm lại, chúng ta từ nhỏ đến già, không ai là người hoàn toàn thiện lành, cũng có lúc người này làm người kia khóc than, cũng có lúc người kia làm người nọ oán hận. Như vậy, là đã tạo nhân xấu. Nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì tu có lợi ích gì? Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu, tuỳ theo sức huân tu nhiều hay ít mà quả tuỳ theo đó chuyển đổi. Sau đây, Phật dạy: Có một gia chủ nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tới trộm dê, bị gia chủ bắt được đánh, đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người người của quan lớn sai tới, gia chủ chỉ bực tức nói năng đôi lời chớ không đối xử thậm tệ như người thường dân trước. Kế tiếp, kẻ trộm dê do lính của vua sai đến, thì gia chủ không dám nói nặng nhẹ gì cả mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắt dê. Trong ba trường hợp trên chứng minh rằng: Người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao nhiêu thì phải trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó là dụ người thường dân trộm dê không thế lực. Trường hợp người trộm dê là lính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ. Đó là dụ cho người biết tu thân, tu giới, tuy có tạo nhân ác nhưng thọ quả báo nhẹ hơn. Trường hợp người trộm dê là lính của vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặng nhẹ. Đó là dụ cho người tuy có tạo nhân ác nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả được hoá giải. Như vậy để thấy cùng tạo nhân ác, tùy theo khả năng tu tập cao thấp mà thọ quả sai khác. Nếu biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như người không biết tu. Khi biết rõ người có tu thân tu giới tu tâm thì sẽ thoát được những nghiệp quả đã gây trước kia; tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn. Nghĩa là nắm muối vẫn hòa tan trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiều nên không thấy mặn. Cũng như chú lính của nhà vua trộm dê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ, nhưng trong lòng chủ nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quả sai biệt theo khả năng tu tập. Thế nào là tu thân tu giới tu tâm? Tu thân là nơi thân này không làm điều ác, tất cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh, còn mọi điều thiện phải cố gắng làm, luôn luôn nhớ và làm đó là biết tu thân. Tu giới là Phật tử tại gia, sau khi quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới: 1/ Không sát sanh: Là không được giết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng, không nên giết mạng sống của người. Nếu giết mạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vì tôn trọng mạng sống của mình nên phải tôn trọng mạng sống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ công bằng là tội lỗi. Ngoài ra, đối với những con vật lớn như trâu bò heo chó tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ yếu là không giết người. Một là tự tay mình giết. Ví dụ mình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết. Hai là sai bảo người khác giết, ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giết được bèn xúi bảo hay mướn người khác giết. Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết. Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được, khi thấy nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú. Như thế là phạm tội sát sanh. Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp ác, sai bảo người giết là miệng tạo nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật cấm không cho Phật tử làm. 2/ Không được trộm cướp: Phàm của cải của người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc cướp giựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuế cũng đều gọi là trộm cắp. 3/ Không tà dâm: Người Phật tử sau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phật cấm. 4/ Không nói dối: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội. a) Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người. :D Nổi giận nói lời hung dữ, thô ác mắng chửi người, vu oan người. c) Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu dệt để lừa gạt người. d) Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau. Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc để trấn an người bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm. 5/ Không uống rượu: Nói đơn giản là rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được dùng. Vì nó là cái nhân sanh ra bệnh hoạn, làmcho tiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ. Nhưng, nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống thuốc rượu để trị bệnh thì được phép uống. Phật dạy giữ năm giới là vì lòng từ bi, sợ chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nên giữ gìn không phạm thì được an vui. Đó là tu giới. Tu tâm, có nhiều người nói tôi lo tu tâm thôi lo đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì? Vậy, tu tâm là tu thế nào? Tâm là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham, sân, si... Tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tính sân hận, đố kyﬠsi mê... Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn, tham ngủ... ở đậy tôi chỉ đề cập tham ăn và tham ngủ, được mọi người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải là dễ. Ăn nếu dở quá thì không vui, nếu không no thì cũng không được; ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn, mà đó là cái bệnh chung của mọi người, không ai là không có. Tu là dẹp bỏ lòng tham, còn sân và si luôn luôn đi chung, hễ có sân là có si. Thuở xưa có một gia đình gồm có ba người, người con đi làm ngoài đồng, ông nội và cháu ở nhà, ông đưa cho cháu hai cái tô và hai đồng bảo: -Cháu hãy đi mua một đồng tương và một đồng chao. Đứa cháu cầm tô và tiền đi một lúc về hỏi: -Thưa ông nội, đồng nào mua tương đồng nào mua chao? Ông rầy cho nó một hồi, rồi bảo: -Đồng nào mua cũng được. Nó liền chạy đi, một lúc lâu trở về hỏi: -Thưa ông nội, hai cái tô cái nào đựng tương cái nào đựng chao? Ông giận quá tát cho nó mấy tát tai, nó khóc lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầm cây roi đánh trâu, thấy con mình bị ông già đánh, nó la khóc nên nổi giận nói: -Ông đánh con tôi, tôi đánh con ông cho ông biết. Người con liền cầm roi tự quất lên mình túi bụi, ông già nóng ruột quá nói: -Mày đánh con tao, tao treo cổ cha mày cho mày biết. Ông liền làm vòng, đút đầu vô treo cổ. Kết luận câu chuyện, quý vị thấy gia đình đó si mê ở mức độ nào? Nếu nói ngu thì gia đình đó không ai bằng. Đứa cháu đã ngu, người cha còn ngu hơn, đến ông nội lại quá ngu! Ngu là do nổi giận mà ra vậy. Nên có sân là có si, làm mà không biết sai không biết hại. Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy không? Tưởng chừng như không, nhưng khi có làm mà không hay. Chẳng hạn lúc nào đó, con làm trái ý, cha mẹ nổi giận chửi "Mày là đồ trâu đồ chó..." Nếu có người hỏi "Nó là trâu là chó, vậy cha mẹ nó là gì???". Làm cha mẹ chửi con như vậy có khôn không? Thế mà có lắm người chửi như vậy!!! Nên biết, hễ nổi sân là liền ngu, không biết phải quấy. Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận mình là trâu là chó. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phải là trâu chó mới sanh con trâu chó. Hoặc có người khi giận con thì chửi ông cố nội, ông cố ngoại nó... Ông cố nội ông cố ngoại nó là ai? Là ông nội ông ngoại mình. Vậy mà khi giận thì người ta cứ nói cứ làm. Chẳng khác gì người kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánh mình thì mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảng sợ, nhưng rồi chính ông chết! Vì sân si mà chúng ta không nhận biết điều phải lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiến cho thiên hạ chê cười. Nên ca dao Việt Nam có câu: Sân si nghiệp chướng không chừa, Bo bo mà giữ tương dưa làm gì. Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân, bỏ si mà cứ khoe "tôi ăn chay một tháng mười ngày, 15 ngày v.v..." Ăn chay, ăn tương dưa là để chừa tham sân si. Có chừa bỏ được tham sân si thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì không nói bậy làm bậy, không nói bậy làm bậy thì nghiệp chướng theo đó mà giảm. Nếu không chừa bỏ tham sân si thì nghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được. Tuy nói tu thân, tu tâm, nhưng chủ yếu là tu tâm. Nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn, mọi họa khổ sẽ hết, không phải trả nặng nề như lúc gây tạo. Nói nhân nào quả nấy là chưa chính xác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợp là người không biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng. Nếu người tạo nghiệp ác nhiều, vì yếu đuối không cố gắng làm lành, chắc rằng nghiệp ác khó chuyển đổi. Ví dụ có nhiều người lỡ nghiện rượu đều được bác sĩ và bạn tốt khuyên nên bỏ rượu, vì uống rượu hại sức khỏe, tinh thần không minh mẫn, tốn kém tiền bạc, vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc. Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ uống rượu là tai hại. Nhưng có người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu đuối bạc nhược. Lại có người ý chí mạnh mẽ biết uống rượu có hại dứt khoát bỏ ngay. Vậy, nghiệp cũng có thể chuyển được mà cũng có thể chuyển không được, tùy theo ý chí mạnh hay yếu của mọi người. Có nhiều Phật tử lấy làm thắc mắc hoặc nuối tiếc về những người tu xuất. Vì họ cho rằng các thầy các cô có rất nhiều duyên phước mới được xuất gia tu hành. Tại sao có nhiều người tu mười mấy hai mươi năm học hành tương đối cũng thông, bỗng dưng cởi áo hoàn tục. Họ hỏi: -Thầy tu ở trong đạo an ổn quá, tại sao lại hoàn tục cho phiền lụy? Các thầy trả lời chung chung: -Tại nghiệp của tôi nó lôi. Qúy vị nghĩ sao? Ai tu có nghiệp cũng bị nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôi có người chuyển nghiệp đổi nghiệp? Nếu ai tu cũng bị nghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn không có người tu tới nơi tới chốn. Chúng ta sanh ra trong đời này đều có liên hệ với quá khứ, kẻ có nghiệp này người có nghiệp khác... Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu hay mạnh mà chuyển được nghiệp hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồi tu, nếu gặp cảnh nghịch lòng, trái ý liền bỏ đạo về đời, lại nói do nghiệp lôi. Người như thế là người không ý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp. Tuy nhiên chúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còn tại thế, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trên đường đi giáo hóa, bà gặp các cô gái trẻ, bà rủ: -Các con nên xuất gia đi tu. Các cô thưa: -Các con còn nhỏ dại, ham ăn, ham ngủ tu không được. Bà nói: -Không sao cứ đi tu. Các cô nói: -Đi tu không làm tỳ kheo ni, lỡ tụi con phạm giới đọa địa ngục thì sao? -Không sao, lỡ đọa địa ngục, hết quả báo trở lên tu tiếp. Theo Bà Liên Hoa Sắc thì nếu tu phạm giới bị đọa hết quả báo thì trở lại tu nữa, vì chủng tử tu hành vẫn còn, gặp duyên thì nhớ lại. Nếu người chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị đọa, hết quả báo không có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được. Bây giờ tuy người tu phạm giới bị đọa có thua kém những người tu khác, nhưng với người chưa tu vẫn có phần hơn, vì họ còn chủng tử cũ, đủ duyên họ phát tâm tu trở lại. Tới đây, tôi xin đi xa một chút là trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong "Chứng Đạo Ca" của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu: Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai không, Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái. Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những nhân ác, những nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải không còn. Sau có một thiền khách tên Hạo Nguyệt đến Thiền Sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng: -Cổ Đức có nói: "Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái". Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước? Trường Sa bảo: -Đại đức chẳng biết bổn lai không. Hạo Nguyệt hỏi: -Thế nào là bổn lai không? -Ngiệp chướng. -Thế nào là nghiệp chướng? -Bổn lai không. Tại sao nói nghiệp chướng bổn lai không? Theo Phật giáo thì nghiệp là động lực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tới đời này và mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quan sát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hung ác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp ác của ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xin lỗi thì ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thật thì không đổ được, vì nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật. Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử không dừng. Đã nói "Nghiệp chướng bổn lai không" tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong tù? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ ngài hỏi: -Thầy được không tướng chưa? -Đã được. -Đã được thì còn sợ chết chăng? -Đã lìa sống chết thì đâu có sợ. -Chẳng sợ thì có thể cho trẫm cái đầu chăng? -Thân chẳng phải của ta, huống nữa là cái đầu. Vua liền chặt đầu ngài rơi xuống đất. Với con mắt phàm phu thì thấy ngài bị trả quả chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ của ngài thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có gì gọi là trả? Sở dĩ chúng ta thấy ngài trả nghiệp là vì chúng ta chưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật. Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán. Ngài nói:"Ta còn chút duyên để đi trong nhân gian". Rồi Ngài Đến giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị người sàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng chánh pháp, quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám, Ngài chỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây, rồi Ngài tịch ở trong khám. Đối với chúng ta khi bị nhốt trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với Ngài, Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười. Như vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám, đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả, nhưng đối với Ngài thì không có trả. Tôi lấy một ví dụ thực tế cho dễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tức giận. Nhưng vì ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trả lời. Sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đã biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chì cười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận, nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trả quả không? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần trả quả. Nhưng với ông Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng ngài tai, qua rồi thì mất, nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảy ra người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả, nhưng đối với người liễu đạo thì không có giá trị, nến thấy không có trả. Thế nên, chư Tổ không thấy trả nghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếu tu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận, si mê, tham sân si càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà được an vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướng đối với mình coi như không có; nếu không bị nghiệp chi phối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì? Hiện nay có một số Phật tử mê tín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ nghiệp, do tu do tụng kinh nên xẩy ra nhiều tai nạn... Vậy nghiệp đó đổ bằng cách nào? Do tụng kinh nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều nghiệp ác bậy giờ đổ bớt đi??? Đã là Phật tử tại sao không tìn hiểu nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ nghiệp là không dám tụng kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu là để chuyển nghiệp, giảm nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là đổ ra. Nếu xưa kia tạo mghiệp ác, đáng lý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất nhân mạng, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của. Khi bị mắng chửi hay mất tiền của nên quán xét: có thể nghiệp chướng của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờ biết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửi mất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm. Lại có nhiều Phật tử quan niệm rằng đi chùa quy y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộc sống sẽ bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến tu không thối chuyển. Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấu sạch hết, môi việc xảy ra đều như ý. Chính Đức Phật là người tu hành công đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn, gia đình nọ giỏi về tướng số, sanh được một người con gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả con gái ông cho người có đủ ba muơi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa dược. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy Phật rất hài lòng, đúng là đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài. Phật nói "Đối với bà thì con gái bà đẹp, song, đối với ta đó là một dãy da hôi thúi, tất cả trong thân nàng đều là bất tịnh". Nghe Phật đáp, bà buồn, trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe. Cô tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán thề rằng sẽ trả thù Phật. Sau cô được làm hoàng hậu của một nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp du đãng chận đường Phật để mắng chửi. Tôn Giả A Nan đi theo Phật, thấy du đãng vây mắng thậm tệ, ngài không chịu nổi, mới nói: -Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước khác giáo hóa. Phật hỏi: -Đi đâu? A Nan thưa: -Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịu được. Phật hỏi: -Giả sử đi tới chỗ khác bị người ta chửi nữa thì A Nan tính sao? A Nan thưa: -Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà... chỗ mà Thế Tôn có nhiều đệ tử ở đó giáo hóa. Phật hỏi: -Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nan có nên đề bảng: "Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bịnh nặng" chăng? A Nan thưa: -Bạch Thế Tôn, không được, thầy thuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người. Phật nói: -Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để ta giáo hóa họ, vì họ cần ta. Du đãng tiếp tục chửi Phật. A Nan nói: -Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được? -Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì ta đi. Nghe Phật trả lời A Nan như vậy, du đãng nói: -Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa, chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy. Từ đó Phật nói pháp giáo hóa với họ. Quý vị thấy, Phật mà còn bị người chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn Giả A Nan cũng như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửi không chịu được. Còn Phật đã giác ngộ tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm, nên thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói pháp cứu chữa. Cũng vậy, Chúng ta khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quán khởi lòng thương và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng hay vợ, hay con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mình tu. Mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạo còn mờ tối nên cần sự cảm hóa của mình. Thế nên, tất cả mọi khó khăn, những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóa giải tất cả thì được an vui. Một lần khác Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi: -Cù Đàm có điếc không? -Ta không điếc. -Ngài không điếc tại sao không nghe tôi chửi? -Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ không nhận thì quà ấy về ai? -Quà ấy về tôi chứ ai. -Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi. Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâu đâu cũng lắng nghe để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm, như thế mới được an vui. Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó. Người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống mặt người phun. Thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổ đau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau, quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người trí. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải không thọ nhận đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lý do bất như ý bên ngoài đó là tu chưa tiến. Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyuển nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quý Phật tử sau khi nghe pháp nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ được vui. http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap...huyennghiep.htm
  16. (Tiếp theo) Thần Thông và Nghiệp Lực Đa số Phật tử tu theo đạo Phật không nhiều thì ít đều có liên tưởng đến những hiện tượng huyền bí, đó là thần thông. Vậy thần thông có phải là cái chúng ta nương tựa, để cho chúng ta tin cậy, để cho chúng ta học hỏi luyện tập không? Khi Phật cón tại thế, Tôn Giả Mục Kiền Liên sau khi chứng quả A La Hán, Ngài có đủ lục thông. Song, đối với những vị chứng A La Hán như Ngài, Ngài là người ưu việt hơn cả. Nên Phật nói Tôn Giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử lớn của Phật. Vì thần thông siêu việt nên Tôn Giả có thể dùng thần thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong chớp mắt, hoặc dùng thần thông hóa hiện tùy ý. Khi ấy Phật ngự trên một từng lầu, dưới tầng trệt các tỳ kheo nói chuyện ồn ào. Phật bảo Tôn Giả Mục Kiền Liên làm cho các tỳ kheo đó đừng làm ồn nữa. Tôn Giả liền duỗi chân ra thì cái nhà xoay tròn, chư tỳ kheo hoảng hốt không dám nói chuyện nữa. Với sức thần thông siêu việt như thế, vì lòng hiếu thảo Ngài dùng thiên nhãn thông tìm trong lục đạo coi mẹ Ngài sinh ở đâu, Ngài thấy bà đang mang thân ngạ quỉ khổ vô cùng. Ngài thương xót mẹ, nên đi khất thực được một bát cơm liền vận thần thông đem đến dâng cho mẹ. Khi được cơm, tay trái bà bưng bát cơm, tay mặt bốc cơm để vào miệng, cơm vừa tới miệng liền hóa thành lửa. Tôn Giả Mục Kiền Liên thấy mẹ ăn cơm không được khổ sở vô cùng, Tôn Giả rơi nước mắt. Chúng ta đặt lại vấn đề, nếu thần thông của Tôn Giả Mục Kiền Liên siêu việt thì khi mẹ Ngài ăn cơm, cơm hóa thành lửa, tại sao Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa để mẹ Ngài dùng cho no lòng, mà lại đứng khóc? Vậy, quý vị nghĩ sao về thần thông của Ngài và nghiệp ác mà mẹ Ngài gây ra? Để thấy, thần thông không cứu được nghiệp ác của người thân. Nếu tu để có thần thông, mà không cứu được ai hết thì có thần thông làm gì? Toàn chúng đệ tử Phật đều tôn xưng Ngài là người thần thông bậc nhất. Vậy mà trước cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải cứu, mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng. Thần thông không đưa người đến sự an lạc vĩnh viễn mà cũng không giải cứu được ác nghiệp cho người đau khổ. Vậy, tu thiết tha mong cầu chứng đắc thần thông? hay tu cốt để đoạn các nghiệp ác, để tránh khỏi khổ đau đang chi phối cả kiếp người? Sau đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên trở về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài và cầu xin Phật dùng phương tiện giải cứu. Phật dạy: -Mẹ người nghiệp ác quá nặng, sức người không thể cứu được. Người phải làm lễ Vu Lan thiết đãi chư Tăng. Sơn lâm thiền định Thọ hạ kinh hành Lục thông La Hán Nhờ oai lực của các vị này cầu nguyện, thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngạ quỉ. Khi đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật sắm sửa trai diên, thỉnh chư Tăng đang thiền tịnh ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là những bậc đã chứng lục thông A La Hán cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ Ngài thoát kiếp nga quỉ. Vì lý do Tôn Giả Mục Kiền Liên không đủ sức cứu mẹ, nên phải nhờ số đông chư Tăng đã chứng A La Hán trợ lực mới cứu được mẹ Ngài. Chính sự kiện này mà về sau hàng Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, là một bậc xuất gia tu hành chứng A La Hán, không quên công ơn cha mẹ, vẫn nhớ và muốn đền đáp. Nên hàng Phật tử sau mùa an cư tự tứ của chúng Tăng, đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư Tăng cúng dường cầu siêu. Đó là việc làm đạo đức căn bản. Tuy nhiên chư Tăng hiện thời không phài là những bậc thiền định chứng lục thông A La Hán như Phật đã dạy Tôn Giả Mục Kiền Liên thỉnh cúng dường, cầu nguyện cho Ngài. Nên sự cầu nguyện của chư Tăng hiện thời không bảo đảm được như ý nguyện của Phật tử. Nhưng tại sao mỗi năm vào rằm tháng bảy Phật tử tụ hội về chùa làm lễ Vu Lan để làm gì? Điều này Phật tử nên hiểu cho tường tận. Với tấm lòng hiếu thảo của người Phật tử, mỗi khi nhớ lại gương sáng của đức Mục Kiền Liên, là người đã cắt ái lìa thân xuất gia hành đạo, quyên hết chuyện nhà mà vẫn không quyên ơn sanh dưỡng của cha mẹ, biết mẹ bị quả báo làm ngạ quỉ, tìm mọi phương tiện cứu mẹ thoát khổ của kiếp ngạ quỉ. Theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, nên ngày nay Phật tử làm lễ Vu Lan để tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, và mong cứu cha mẹ thoát khỏi cảnh khổ. Đến chùa vì hiếu nghĩa, vì nhớ ơn để cầu nguyện cho cha mẹ, đó là tinh thần từ thiện tốt đẹp. Nhưng nếu tin chắc cha mẹ thoát khổ thì không bảo đảm. Trong kinh A Hàm, Phật có nói: "Người biết ơn và đền ơn, dù ở xa ngàn dặm, cũng như hầu cận bên ta; ngược lại, người không biết ơn và không đền ơn dù ở hầu cạnh bên ta cũng cách xa ta ngàn dặm". Phật dạy đạo đức bắt nguồn từ chỗ biết ơn và đền ơn. Người lương thiện là người thọ ơn ai không bao giờ quên. Những lúc mình nguy khốn được người giúp đỡ, khi người hoạn nạn thì mình sẵn sàng giúp đỡ lại không ngại khó khổ gian lao. Trong kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật có dạy: trời nắng người đi đường vào bóng cây núp mát, khi ra đi không được bẻ cành cây. Và trên đường đi được bóng cây hai bên đường che mát, Phật cấm không được bẻ lá cây, vì cây có cái ơn che mát cho chúng ta trên đường dài nóng bức. Đối với cái ân rất nhỏ của loài vô tri mà Phật còn không cho phép chúng ta quên ơn, huống là cái ơn sanh dưỡng lớn lao của cha mẹ. Nếu ơn sanh dưỡng sâu nặng mà chúng ta quên đi thì những cái ơn khác không dễ gì nhớ được. Ở đời cũng có lắm kẻ được người giúp đỡ qua cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn của họ, họ ngoảnh mặt làm kẻ xa lạ. Cũng như những đứa con ngỗ nghịch không tiếc lời nặng nhẹ khảo tra tiền của cha mẹ, cha mẹ đến tuổi già yếu đói no sướng khổ con cái không buồn nghĩ đến. Người như thế là người không biết ơn và đền ơn, không phải là người lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người biết ơn và nhớ ơn sanh dưỡng của cha mẹ. Dù cha mẹ còn hay mất, mỗi mùa Vu Lan đến, người con hiếu thảo vì cha mẹ làm việc phước thiện để hướng tâm tưởng thiện lành đến với cha mẹ, mong cha mẹ được nhẹ nhàng hết khổ. Đó là kẻ biết ơn và đền ơn mà thế gian thường nói "Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây". Nhớ ơn cha mẹ là đạo đức căn bản vậy. Có một lần Phật đi khất thực ở vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo đói. Phật đi từ sáng đến trưa không có người cúng dường, trong bát Phật không có thức ăn. Khi đó có một thầy tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi được một bát cơm, vội vàng đem dâng Phật. Phật hỏi: -Ông còn cha mẹ không? Tỳ kheo trả lời: -Bạch Thế Tôn, con còn bà mẹ. Phật hỏi: -Mẹ ông sáng nay có ăn cơm chưa? Tỳ kheo đáp: -Bạch Thế Tôn, con đổi một lá y chỉ được một bát cơm, con dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn. Phật dạy: -Người đáng thọ nhận bát cơm này là mẹ của ông. Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật rất chú trọng đến đức hiếu thảo của con người. Nếu người tu hành không nhớ công ơn cha mẹ thì việc tu hành chỉ là việc làm ích kỷ, không có cơ bản đạo đức. Chúng ta tu là vì thương cha mẹ, thương thân bằng quyến thuộc, thương dân tộc, thương nhân loại, nên nỗ lực tu hành để rồi khuyên những người thân người sơ cố gắng tiến trên con đường đạo đức, làm đẹp cho người, làm đẹp cho quê hương xứ sở. Đâu phải vong ân cha mẹ, quên thân bằng quyến thuộc, phản bội quốc dân mà đi tu. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đều phải lấy công ơn cha mẹ làm gốc để tu hành. Vì vậy, mỗi năm tới mùa báo hiếu, Phật tử qui tụ về chùa, trước là đem lòng thành kính nguyện Tam Bảo gia hộ cho cha mẹ sớm được về cõi Phật. Kế đó, vì cha mẹ mà làm lành tu thiện, cứu giúp người nghèo khổ và nhắc nhở khuyến khích hướng dẫn con cháu tiến trên con đường đạo. Đó là nền tảng đạo đức đời đời không quên. Tăng Ni hiện nay tuy không đủ tư cách như Phật dạy trong kinh Vu Lan, nhưng dù sao đi nữa, một người tu an chay, bỏ ác làm thiện cũng có chút công đức lành góp phần với quý vị Phật tử, cùng hồi hướng cùng cầu nguyện cho cha mẹ. Đó là cội nguồn của ngày lễ Vu Lan. Vì vậy nếu đã là đệ tử của Phật, phải nhớ rằng tu với Phật không bằng tu với cha mẹ. Vì Phật đã giải thoát mọi khổ đau, dù cho chúng ta có đảnh lễ tán thán đến đâu, Ngài vẫn bình thản mặc nhiên. Còn cha mẹ chưa hết phiền não nên mỗi khi con cháu tỏ lòng hiếu thảo, biết nghĩ tưởng đến thì cha mẹ hoan hỷ sung sướng. Thế nên chúng ta thường làm cha mẹ vui, Chẳng phải chỉ lo lạy Phật cúng Phật mà quên không lo phụng dưỡng hiếu kính cha mẹ. Người tu như thế thì chưa đúng với tinh thần của đạo Phật. Người Phật tử muốn đền đáp công ơn của cha mẹ, trường hợp thứ nhất khi cha mẹ còn sanh tiền, muốn cho cha mẹ an vui trong hiện đời và an vui trong mai hậu, ngoài việc cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ về mặt vật chất, nếu cha mẹ chưa biết đạo, phải tạo duyên tốt khiến cho cha mẹ phát tâm tu hành bỏ ác làm lành. Vì người phát tâm làm lành mới khỏi đọa ba đường ác sanh vào cõi thiện được an vui. Cho cha mẹ ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tuy là hiếu thảo, nhưng hiếu thảo đó chỉ là tạm bợ không lâu dài, vì cha mẹ sẽ chết không còn hưởng dụng những thứ đó nữa. Tạo duyên lành cho cha mẹ hướng về đường thiện, thì chẳng những bảo đảm trong đời này ít khổ đau mà đời sau cũng hết đau khổ. Chính việc làm đó mới là cái hiếu chân thật. Vì vậy, quý Phật tử ai được vinh hạnh cha mẹ còn tại tiền, hãy ráng tạo điều kiện giúp cho cha mẹ tu hành, đó là cái hiếu lớn nhất. Trường hợp thứ hai là khi cha mẹ quá cố rồi. Chúng ta không làm gì khác được, nên mới cúng dường cầu nguyện hồi hướng phước lành cho cha mẹ được siêu thoát. Đó là việc làm cầu may chứ không bảo đảm kết quả như ý. Nhiều khi quý Phật tử nghĩ đến người chết mà quên hẳn người sống. Đến rằm tháng bảy cúng kiến cầu nguyện cho ông bà tổ tiên được siêu sanh tịnh độ mà ông bà cha mẹ tại tiền thì không để ý chăm sóc giúp đỡ để tiến tu. Như thế là không xứng đáng, không đúng với chữ hiếu trong đạo Phật. Trở lại, thần thông không cứu được khổ, khơng giải được nghiệp. Như chúng ta biết Tôn Giả Mục Kiền Liên đã từng dùng thần thông qua lại trong không gian từ cõi này đến cõi khác một cách tự do. Nhưng đối trước quả báo nghiệp ác của mẹ Ngài, Ngài đành bó tay đứng khóc chứ không cứu được, đó là trường hợp thứ nhất. Đến trường hợp thứ hai là chính bản thân Ngài khi trở về già, một hôm đi khất thực qua chân núi, ngoại đạo lăn đá cho rớt xuống đè Ngài chết. Bình thường có chuyện bất ổn xảy ra là Ngài dùng thần thông bay bổng, không ai hại được Ngài. Bây giờ nghiệp đến, thấy đá lăn từ trên xuống, Ngài dùng thần thông bay đi mà bay không được, nên bị đá đè chết. Để thấy thần thông bất lực trước quả báo nghiệp ác của Ngài, thần thông cũng không giải được nghiệp của chính mình khi quả báo đến. Như vậy luyện tập thần thông để làm gì? Song, tâm lý chung của Phật tử thì ưa thích thần thông với những tướng lạ thường. Giả sử bây giờ quý vị đang ngồi nghe tôi nói pháp, ngoài kia có người đang vận thần thông bay lên dạo chơi trong hư không, quý vị sẽ cùng đua nhau xem họ trình diễn thần thông, chớ không thể ngồi yên mà nghe pháp. Vì bản chất của con người là hiếu kỳ, ưa thích những điều khác lạ, còn những gì bình thường đơn giản thì không ưa chuộng. Tu, nếu bảo dùng nghiệp ác của thân của miệng của ý, chuyển thành ba nghiệp thiện thì thấy thường và khó làm. Còn, nếu nói tôi có thần thông, ai muốn được hết tội, tôi hóa ra nước Cam Lồ rưới sẽ hết phiền não, thì mọi người ham thích đua nhau xin nước Cam Lồ để tắm gội hay để uống cho hết tội. Vì người ta vừa hiếu kỳ vừa lười biếng, hễ thấy dễ khoẻ là làm, Vì vậy, nên dễ bị gạt và để rơi vào mê tín tà giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, có bốn ngoại đạo tu chứng được ngũ thông: -Thiên nhãn thông là thấy tất cà người vật gần hay xa. -Thiên nhĩ thông là nghe khắp tất cà âm thanh lớn nhỏ gần xa. -Thiên tâm thông là biết được ý người khi mới vừa khởi nghĩ chưa nói ra lời. -Thần túc thông là biến hóa thân hình lớn nhỏ tùy ý, thăng thiên độn thổ không ngại. -Túc mạng thông là biết được vô số kiếp về trước. Bốn vị này biết mình sắp bị quỉ vô thường đến bắt đi, nên mỗi người tìm cách để trốn thoát thần chết. Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên hư không núp trong đám mây xanh. Vị thứ hai vận thần thông lặn xuống đáy biển. Vị thứ ba dùng thần thông chui vô lòng núi. Vị thứ tư thì chui trốn ở trong lòng đất. Tất cả bốn vị đều nghĩ rằng chỗ mình trốn, quỉ vô thường không thể tìm được. Nhưng đến giờ thần chết đến thì vị thứ nhất ở trên mây hết thần thông rớt xuống nát thây. Vị thứ hai ở dưới đáy biển hết thần thông ngộp chết nổi lên. Vị thứ ba ở trong lòng núi hết thần thông đá nứt đè chết. Vị thứ tư ở trong lòng đất hết thần thông bị đất sụp chôn thây luôn. Để thấy, tu chứng được thần thông muốn thoát chết vẫn không thoát được. Tu mà chứng được ngũ thông là đã trải qua quá trình tu tập không phải ngắn và dễ dàng, thế mà muốn thoát chết cũng không thoát được. Lại một trường hợp nữa: Có một vị tu sĩ đạt đạo chứng được ngũ thông, thuyết giảng giáo lý rất hay cho đến trời Đế Thích cũng đến nghe. Một hôm, trời Đế Thích nghe giảng xong ra ngồi gốc cây khóc. Vị tu sĩ ấy lấy làm lạ hỏi: -Tại sao nghe giảng xong ông lại khóc, tôi giảng có chỗ nào ông không đồng ý? Đế Thích đáp: -Không, Ngài giảng rất hay, vì tôi thấy ngài sắp chết nên tôi thương khóc. Tu sĩ hỏi: -Vậy phải làm sao cho tôi khỏi chết? Đế Thích đáp: -Nếu Ngài muốn khỏi chết, hãy đến cầu cứu với Đức Phật Thích Ca. Tu sĩ hỏi: -Đức Phật Thích Ca là ai Đang ở đâu? Đế Thích đáp: -Ngài là một vị giác ngộ hoàn toàn sạch hết vô minh lậu hoặc, đang ở tịnh xá Trúc Lâm gần thành vương xá. Vị tu sĩ bèn vận thần thông bay đi tìm Phật. Đi dọc đường, ông nghĩ rằng đi cầu Phật dạy nên có lễ vật để cúng dường Ngài. Ông thấy bên đường có những cây ngô đồng đang trổ hoa thật đẹp, bèn nhổ và cầm đến cúng Phật. Khi tới tịnh xá Trúc Lâm, thấy Phật đang ngồi thuyết pháp cho chúng tỳ kheo nghe, ông vào quì xuống dâng hai cây ngô đồng lên Phật và thưa: -Thưa Thế Tôn, con xin cúng dường Ngài hai cây ngô đồng và cầu xin Ngài dạy cho con phương pháp tu để khỏi chết. Lúc đó Phật không dạy gì hết, chỉ bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ nhất, ngã cây ngô đồng thứ nhất. Phật lại bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ hai, ngã cây ngô đồng thứ hai. Phật nói tiếp: -Buông ! Tu sĩ sửng sốt thưa: -Hai tay con cầm hai cây ngô đồng, lần thứ nhất Phật bảo buông, lần thứ hai Phật bảo buông, con buông cây thứ hai là hết. Phật bảo con buông nữa con không biết buông cái gì? Phật nói: -Ta đâu có bảo ông buông hai cây ngô đồng. Lần thứ nhất ta bảo ông buông là đừng chạy theo ngoại cảnh. Lần thứ hai ta bảo ông buông là đừng chấp sáu căn là ngã. Lần thứ ba ta bảo ông buông là không chấp sáu thức là ngã. Nếu ông buông hết ba cái đó thì ông hết chết. Nghe Phật nói, tu sĩ nhận ra yếu chỉ, tu một thời gian chứng A La Hán. Hết chết là không còn nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, chứ không phải thân tứ đại hiện đời không hoại, không chết, phải hiểu rõ chỗ này. Để thấy, dù có tu có luyện thần thông đến đâu, mà chưa buông xả được cảnh, thân và tâm thức thì cũng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi. Lại một Đạo sĩ và một Thiền sư, hai vị cùng đi chung một con đường. Đạo sĩ hỏi Thiền sư: -Thầy tu lâu chưa? -Lâu rồi. -Thầy chứng thần thông chưa? -Tôi tu không có thần thông. Vậy đạo sĩ có thần thông không? - Có. Hai vị cùng đi tới một bến đò, Đạo sĩ muốn thi thố thần thông cho Thiền sư thấy bèn rủ: -Thôi chúng ta đi qua. Đạo sĩ qua sông mà không đi đò. Thiền sư nói: -Thôi, Đạo sĩ cứ qua đi. Đạo sĩ liền vén áo đi trên mặt nước qua bên kia bờ. Còn Thiền sư thì đến bến đò mua vé lên đò, qua sông. Khi qua bờ bên kia, Đạo sĩ gặp lại Thiền sư ra vẻ tự hào, nói: -Thầy thấy tôi không? -Đạo sĩ tập luyện thuật đi trên nước mất bao nhiêu năm? -Hết hai mươi năm. Thiền sư cười nói: -Công phu luyện tập 20 năm của Đạo sĩ đáng giá bằng hai xu tôi qua đò ! Tốn hai xu cũng đi qua sông được mà phải luyện tập hai mươi năm được thần thông cũng để qua sông, thì có giá trị gì??? Thiền Tông không trọng thần thông, coi đó chỉ là trò biểu diễn vui chơi, không giải cứu được khổ đau của con người. Thế mà người đời không biết, rất hâm mộ nể phục thần thông. Trở về nguồn, khi Thái tử Sĩ Đạt Ta tu sắp thành đạo dưới cội cây bồ đề, ma Ba Tuần biết Ngài sắp chứng đạo nên cùng nhau đến phá Ngài. Quân ma có tới 18 ức bao vây Ngài dưới cội bồ đề. Ma bảo: -Sa Môn mau đứng đậy. Thái tử lặng thinh không đáp, như thế đến ba lần. Ma hỏi: -Sa Môn sợ ta chăng? Thái tử đáp: -Ta không kinh sợ. Ma hỏi: -Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta chăng? Ông chỉ một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại nói không sợ? Thái tử đáp bằng bài kệ: "Giáp nhơn, cung tam muội Tay cầm tên trí tuệ Phước nghiệp làm binh khí Nay sẽ phá quân ngươi" Ma bảo: -Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ làm cho thân hình ông tan thành tro bụi. Thái tử nói: -Ta tự xem xét trên cõi người ma và thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ chúng của ngươi không thể đụng được một mảy lông của ta. Ma nói: -Sa môn, nay muốn cùng ta giao chiến chăng? Thái tử đáp: -Muốn được giao chiến. Bấy giờ Thái tử mặc áo giáp nhơn từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ, và binh khí phước nghiệp để giao chiến với ma quân. Ngày nay, chúng ta tu một mình ở nơi vắng vẻ có nhiều ma, thì quý thầy dạy nên học thuộc các câu chú, về những là bùa để trừ tà ma, hoặc để con dao hay cái rựa bên cạnh phòng khi đối trị ma quái. Xưa Phật chiến đấu với ma quân Ngài mặc áo giáp từ bi, cầm cung thiền định, bắn tên trí tuệ và dùng phước đức làm binh khí để chiến đấu với quân ma. Chúng ta thấy Đức Phật đơn độc một mình chỉ và sử dụng có bốn loại khí giới là từ bi, thiền định, trí tuệ, và phước đức mà chiến thắng được ma quân một cách vẻ vang. Sở dĩ Phật chiến thắng đựơc ma quân là vì Ngài có tâm từ bi vô lượng vô biên không oán không thù ai, nên ma không hại được. Còn chúng ta thì lòng từ chưa bủa khắp, xử kỷ tiếp vật còn thân còn sơ nên ma tham ma sân có chỗ vào, vì vậy mà cứ mãi thua ma (dài dài); Đó là yếu tố thứ nhất. Yếu tố thứ hai là tâm Phật luôn luôn an định, dù ma có hiện hình tướng kỳ quái thô bạo dữ dằn đến đâu, Ngài vẫn mặc nhiên không run không sợ nên ma không hại được. Bây giờ nếu chúng ta tu nếu gặp ma hiện vằn mặt đỏ trong đêm tối, thì hoảng hốt chạy ra, không giữ được bình tĩnh đó là do tâm không an định, vì tâm không an định nên sợ và thua ma. Yếu tố thứ ba là với trí tuệ sáng suốt. Phật thấy rõ thân này không thật thì các tướng mạo của ma quỉ nào có thật! Nên không bị chi phối bởi ma, chúng ta vì trí tuệ chưa sáng, thấy thân này thật, ma cũng thật, sanh tâm kinh sợ nên bị ma hại. Yếu tố thứ tư là phước nghiệp, Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích chúng sanh, phước đức kết nhóm nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại được. Chúng ta tu sở dĩ thường gặp chướng nạn ma nạn là vì phước đức mỏng, sức tu tập yếu nên bị ma nhiếp được dễ dàng. Tôi thường nói chúng ta tu đừng ỷ mình thông minh, đừng ỷ mình tài giỏi, cũng đừng ỷ mình khôn lanh là có thể hanh thông trên đường tu tiến, mà phải xét nét công hanh tu tập của mình. Nếu thấy phước đức mình cạn mỏng thì lo vun bồi cho được sâu dầy hầu giúp mình vượt qua mọi chướng nạn và tiến đến chỗ cứu cánh viên mãn. Vì có rất nhiều người khôn lanh thông minh tài giỏi mà không tránh được chướng nạn khổ đau. Ngược lại, người có nhiều phước đức thì vượt qua tất cả mọi chướng ngại, sự tu tập dễ dàng tiến mau nên được kết quả tốt. Chúng ta thấy, Đức Phật khi chiến đấu với ma quân, chỉ dùng có bốn loại binh khí: Nhân từ là do tự tâm phát khởi lòng thương yêu tất cả mọi loài. Chánh định là do lóng lặng tâm tư mà được thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh nên trí tuệ phát sáng. Còn phước nghiệp là do công hạnh làm lợi ích cho mọi loài. Chính bốn đức ấy hóa giải sự nhiễu hại của ma quân ở chính mình. Như vậy, chúng ta vào đạo là phải giữ tâm không oán không thù lần lần để tâm lóng lặng cho trí tuệ phát sáng, và hành ngày làm việc thiện lành lợi ích cho mọi người. Đó là những điều căn bản không một người tu nào có thể thiếu được. Tóm lại, tu theo đạo Phật chủ yếu là tránh ba nghiệp ác của thân miệng ý và tạo ba nghiệp lành. Vì nghiệp có sức mạnh đưa người tới chỗ khổ hay vui. Nếu tu mà nghiệp thức còn thì dù có chứng thần thông siêu việt đến đâu cũng không giải cứu được khi nghiệp báo đến. Vì thế đạo Phật không trọng thần thông, mà sợ gây nghiệp ác, khuyên tạo nghiệp lành. Thế nên mọi hiện tượng huyền bí lạ lùng không phải là cái đích cho người tu Phật hướng đến. Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành người tốt, nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày làm lợi ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười biếng, không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần của đạo Phật. Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả Nhiều Phật tử đi chùa quy y đã lâu, biết tụng kinh niệm Phật, thế mà đối với lý nhân quả chưa đủ lòng tin. Nếu chưa đủ lòng tin nhân quả thì giáo lý Phật coi như chưa hiểu gì cả, vì lý nhân quả là nền tảng của Phật pháp. Tin lý nhân quả là điều thiết yếu nhưng không phải tin suông, tin mù quáng mà là một sự kiện thực tế, cụ thể ngay trong cuộc sống, rất sáng tỏ, không mơ hồ huyền hoặc.Thế nào là "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"? Bồ Tát nguyên chữ Phạn là Bodhisattva, dịch âm là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch nghĩa là hữu tình giác. Tức là một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp cho những chúng sanh khác cũng được giác ngộ như mình, thì gọi là Bồ Tát. Nhờ đã giác ngộ thấu suốt được lý nhân quả trong ba đời, nên chỉ sợ nhân mà không sợ quả. Chúng sanh là loại hữu tình có sinh có tử còn vô minh nên đi mãi trong vòng luân hồi. Vì chưa giác ngộ, còn mê mờ không thông lý nhân quả nên chỉ sợ quả mà không sợ nhân. Vậy kiểm lại trong chúng ta, ai là người biết sợ nhân xấu đó là người giác, là Bồ Tát, ai sợ quả xấu là kẻ mê, là chúng sanh. Bồ Tát hay chúng sanh là tự chúng ta có thấy biết đúng sự thật hay không, chớ không phải Bồ Tát cỡi hạc hay cỡi sư tử đi trên hư không để cho người ngưỡng vọng lễ bái. Nếu giác, thấy đúng lẽ thật, nhận biết một cách chính xác nhân nào đưa đến quả khổ, nhân nào đưa đến quả an lạc. Do biết rõ, nên thấy nhân nào đưa đến quả khổ quyết định không làm, vì tạo nhân rồi thì không tránh được quả, đó là Bồ Tát sợ nhân. Ngược lại, cái nhân đưa đến quả khổ nếu chúng ta không biết để tránh, mà chỉ thấy quả khổ đến lo sợ tránh né, đó là chúng sanh sợ quả. Ví dụ người có tật nóng giận, mỗi khi có người trong nhà hay hàng xóm nói hoặc làm điều gì trái ý liền la lối đánh đập. Nếu chửi bới hay đánh đập vợ con trong nhà bị thương tích thì tốn tiền thuốc thang chữa trị, bị xóm giềng cười chê là đồ bất nghĩa bất nhân, khiến tâm ray rứt hối hận. Nếu đánh đập người ngoài xã hội có thương tích thì bị người đánh lại hay bị bắt bớ giam cầm. Khi đánh chửi thì không sợ, đến khi thấy vợ con đau bịnh hoặc bị người đánh lại, hay bị tù tội thì lo sợ. Đó là người mê hay tỉnh? Vì mê không biết nhân xấu ác sẽ đưa đến quả khổ, nên cứ làm rồi thọ quả khổ chừng đó mới sợ. Người có lòng tham, thấy của người dễ lấy, liền lấy đem về làm của mình, khi lén lấy của người thì không sợ mà chỉ thích thú là mình được của. Để khi chủ nhà hay mất của, báo nhà chức trách truy tìm lùng bắt kẻ trộm thì lo sợ. Đó là người mê, vì mê nên không biết tạo nhân xấu phải chịu quả khổ, cứ làm để rồi quả khổ đến thì hoảng kinh lo sợ. Có nhiều thiếu niên 14, 15 tuổi thấy người lớn hút thuốc nhả khói phì phà có vẻ oai vệ thư nhàn nên tập hút, hút một thời gian thì ghiền. Khi ghiền, nếu có thuốc hút thì tạm ổn, hôm nào không tiền mua thuốc thì ngáp dài chảy nước dãi thèm thuồng, chịu không nổi, tới người này, người kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc hút, thật là khổ sở. Đó là cái quả chặng thứ nhất. Đến quả chặng thứ hai là hút tới lới tới già thì bị nám phổi, ung thư phổi, bịnh trầm kha, khốn khổ vô cùng. Lúc hút thuốc hồn lâng lâng quyện theo khói theo mây thì không sợ. Đến khi cơn ghiền hành hạ không tiền mua thuốc, bịnh hoạn bứt ngặt không tiền uống thuốc, không thuốc để điều trị, chừng khổ đến mới sợ. Lại có những chú bé mười lăm mười bảy tuổi thấy cha chú uống rượu bàn tán việc làng việc nước, việc cổ kim thời sự ra vẻ người hiểu biết sành đời, nên thích thú tập uống. Khi mới uống thì cảm thấy cay nóng, tập một thới gian trở thành dễ chịu và đi tới ghiền. Khi ghiền rồi thì mỗi ngày phải có rượu mới yên, nếu không rượu thì uạ ọc bực bội khó chịu. Đó là cái quả thứ nhất không rượu uống. Nếu gặp tiệc tùng anh em đông đảo, người chén thù người chén tạc, kết quả là say túy lúy, đi ngã bờ ngã bụi làm trò cười cho thiên hạ. Khi về đến nhà thì chửi đánh vợ con, ói mửa đầy đất hôi hám nhơ bẩn nhà cửa, khiến cho cha mẹ vợ con buồn chán. Đó là cái quả thứ hai, làm cho gia đình mất hạnh phúc. Đến cái quả thứ ba là chai gan, loét dạ dày... đau bịnh trầm kha vô cùng khốn khổ. Từ cái nhân nhỏ đưa tới cái quả thật to, mà người ta không thấy nên mới tạo, để rồi thọ quả vô cùng khốn khổ, hối hận thì không kịp. Vậy, người tập tành những thói hư tật xấu đó là giác ngộ hay mê? Bởi mê nên mới khổ. Nếu giác như Bồ Tát biết rõ hút thuốc uống rượu là cái nhân đưa tới nghiện ngập, bịnh hoạn nghèo khổ, gia đình mất hạnh phúc. Biết như vậy, nhất định không uống, không hút, dù người có cố tình mời mọc, dứt khoát không dùng. Đó là người sống có tính giác nên không khổ. Nếu sống mà không biết nhân nào đưa tới quả khổ, nhân nào đưa tới quả vui, mặc tình tạo tác để rồi quả đến thì kêu trời trách đất. Đó là người mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ quả nên bị khổ đau. Vậy chúng ta hiện có mặt ở đây tự xét lại coi mình là người giác hay kẻ mê? Ai cũng muốn mình là người giác, không bị khổ đau bứt ngặt thì nên tập hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu, chớ không sợ quả xấu. Ở thế gian có nhiều trường hợp mới thoạt nhìn, thấy dường như rất tốt, nhưng nhìn kỹ thì chẳng tốt chút nào. Chẳng hạn người biết hút thuốc gặp người chưa biết hút thì mời ép cho hút, đến khi ghiền thuốc rồi, không tiền mua, xin thì kkhông cho. Hoặc người chưa biết uống rượu được người biết uống rượu mời mọc ép uống, đến khi ghiền rồi thì ít khi được mời uống. Vậy, những người bạn thuốc bạn rượu có thật thương thật tốt với chúng ta không??? Bạn thuốc bạn rượu không phải là người để chúng ta kết giao thân thiện. Lại có trường hợp Phật tử thường đi chùa tụng kinh lạy Phật. Một hôm có người nói: "Chị năm nay bị sao Kế Đô chiếu mạng, coi chừng bị tai nạn". Phật tử này không dám đi đâu, ngay cả đi chùa cũng không đi, ở nhà lo lắng buồn rầu... Phật tử đi chùa với tâm trạng như vậy, có hiểu lý nhân quả không? Sao Kế Đô đó do ai đặt ra. Nhà thiên văn địa lý nào đó đặt ra mỗi tinh tú có một cái tên, trong đó có một tinh tú mang tên Kế Đô và mỗi tinh tú vận hành theo luật thiên nhiên của vũ trụ, đâu có chủ yếu chiếu vào người nào để cho người đó thọ nạn? Theo lý nhân quả của Phật giáo thì do người chủ động tạo tác nhân (nguyên nhân tạo nên sự vật, khi sự vật thành hình gọi là kết quả) và quả cũng do người tạo tác nhận chớ không ai khác. Phật, trời, thánh, thần không định đặt cho con người khổ hay vui, mà do con người làm chủ; Nếu tạo nhân xấu là thọ quả xấu, nếu tạo nhân tốt thì thọ quả tốt. Vậy sợ là sợ cái gì? Giả sử có một Phật tử đúng vào năm sao hạn xấu mà tâm lúc nào cũng nghĩ tốt, nói năng thì vui vẻ nhã nhặn, đối với mọi người thì luôn luôn tử tế hài hòa, thì Phật tử ấy thường được người thương hay ghét? -Thương. Ngược lại, nếu có một Phật tử hay đi chùa được tuổi tốt sao hạn tốt mà tâm thường nghĩ quấy, nói năng thô lỗ cộc cằn, đối xử với mọi người thì hơn thua lấn lướt. Vậy Phật tử đó được thương hay bị ghét? -Ghét. Vậy, do tâm niệm xấu xa, ngôn ngữ cộc cằn thô lỗ, hành động bất hảo làm cho người ta ghét hay sao hạn làm người ghét? Và tâm niệm tốt đẹp, ngôn ngữ nhã nhặn, việc làm lương thiện khiến cho người thương hay sao hạn khiến cho người thương??? Nếu người thương thì được người hoan hỉ giúp đỡ, đó là phước. Nếu có người ghét thì bị hại đó là tội. Rõ ràng tội phước là do ý nghĩ lời nói hành động mà ra, ý nghĩ lời nói hành động tốt là gieo nhân lành, đã gieo nhân lành thì quả sẽ an vui tốt đẹp, ý nghĩ lời nói hành động xấu là gieo nhân ác thì gặt quả xấu khổ đau. Khổ hay sướng là do nhân tốt hay xấu chớ đâu do tuổi xấu sao hạn xấu? Đa số người Việt Nam đều ngại ngùng ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba, đi đường thì không dám đi, làm việc thì không dám khởi công vào những ngày này, vì đó là những ngày xấu. Với những ngày xấu này, nếu quý Phật tử để dành tiền mua sắm phẩm thực vật dụng cần thiết để đem đi giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay già yếu thì ngày đó là ngày tốt hay ngày xấu?-Tốt. Trong những ngày mà đi giúp đỡ xoa dịu cho người bớt cơn nghèo túng đói khổ, không phải ngày tốt là gì? Còn những ngày khác được coi là tốt mà ra đường gặp ai cũng cãi cũng gây rồi đi tới đánh đập kiện cáo. Vậy ngày đó là ngày tốt hay xấu?-Xấu. Tại ngày đó xấu hay tại chửi lộn đánh lộn thành xấu? Tại mình không biết chế ngự thân miệng ý mới có chuyện đánh chửi xảy ra nên xấu. Như vậy, ngày được mọi người cho là tốt mà gieo nhân xấu thì ngày đó cũng trở thành xấu mà biết gieo nhân tốt thì ngày đó cũng trở thành tốt. Lỗi tại ngày giờ hay lỗi tại hành động con người? Nếu lời nói hành động con người gây tai họa hay được an vui, thì rõ ràng con người gieo nhân và cũng chính con người chịu quả, đâu phải ngày giờ sao hạn định tốt xấu cho con người. Đã là Phật tử, có còn sợ và tin ngày giờ, sao hạn tốt xấu nữa không? Nếu còn thì lòng tin nhân quả chưa có. Luật nhân quả "là một lẽ thực cụ thể", vì Phật tử không hiểu chưa tin nên nói mơ màng tưởng tượng ra lý này lẽ nọ để mà tin mà làm. Thế nên có nhiều Phật tử đã quy y mà vẫn tin những cái quàng xiên, mơ hồ không đúng lẽ thật. Ví dụ tromg gia đình hai vợ chồng có những quan điểm bất đồng nên gây cãi nhau, lần đầu không giải quyết ổn thỏa, ít hôm sau lại cãi nữa, và cứ cãi hoài đến năm bảy lần... rồi họ thắc mắc tại sao trong nhà cứ xào xáo hoài, họ cho rằng do cái cửa, cái bếp đặt không đúng hướng, nên đến chùa nhờ thầy giở lịch ra coi, rồi xây lại cái bếp sửa lại cái cửa. Nhưng, xây bếp sửa cửa xong họ lại cãi nữa... Hai người bất đồng ý kiến mà không chịu hóa giải cho đồng, cho có một hướng chung để xây dựng cuộc sống chung cho có hạnh phúc mà lo sửa bếp sửa cửa. Chỉ làm chuyện bên lề không đúng vào đâu. Chẳng hạn có cuộc cãi vã đó là do ông chồng đang có chuyện tình cảm riêng tư, nên người vợ buồn phiền sanh ra rầy rà. Muốn cho gia đình được êm ấm, thì người chồng phải tu chỉnh thói hư tật xấu, để trở thành người chồng tốt, người chồng có đủ tư chất. Còn cái bếp cái cửa vô tri có dính dáng gì với chuyện cãi vã của vợ chồng trong gia đình? Thế mà người ta vì không hiểu nên không thấy cái nhân gây ra cái dở cái xấu, để rồi trốn tránh trách nhiệm và đổ thừa cho ngoại cảnh. Quý vị có tự thấy mình mỗi khi làm điều gì hư dở là nêu lý do này lý do nọ, chứ không dám nhận cái hư dở là tại mình sơ thất và can đảm chịu trách nhiệm. Đó là do tâm hồn yếu đuối, không gan dạ nhìn nhận sự thật. Nếu người Phật tử hiểu được lý nhân quả, biết được mọi sự vật xảy ra giữa mình với người đếu do cái nhân từ trước, mà nhân đó chính mình tạo chớ không phải ngẫu nhiên mà có. Chẳng hạn đi đường gặp người quen vừa thấy mặt mình là họ xoay mặt đi chỗ khác, mình liền bực cho rằng họ khinh mình, bèn nói xa nói gần một hồi sanh ra gây chửi. Chửi rồi, về nhà nói rằng tôi không chọc ghẹo mà nó kênh với tôi nên tôi phải cho nó một bài học. Người nói như vậy là vô lý, vì trong sự tương giao, mình cũng như người chưa từng nói hay làm điều gì mích lòng nhau, vẫn đối xử với nhau tốt đẹp, thì có khi nào gặp nhau là khó chịu xoay mặt làm lơ? Không ai mà bất thường đến thế ! Chắc chắn là mình hoặc vô tình hay cố ý đã làm cho họ xúc não rồi, nên gặp mình là họ tránh né. Đó là do mình đã gây nhân không tốt với họ rồi, chớ đâu phải vô cớ. Quý vị xét kỹ lại xem trong gia đình ngoài xã hội từ vợ chồng con cái cho đến quyến thuộc anh em bằng hữu, nếu có chuyện không ổn xảy ra, đều do nguyên nhân không tốt, hoặc người này hay người kia tạo ra mà người trong cuộc không có gan nhận trách nhiệm tự nơi mình mà đổ thừa lý này lẽ nọ. Vì thế mới có thầy bói khai thác cái nhược điểm đó để ăn tiền. Nếu Phật tử mà tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền coi bói. Ngày xưa tôi có quen một ông thầy bói, ông nói cho tôi nghe cái thuật coi tướng số của ông mà tôi cười quá chừng. Ông nói coi tay đâu cần coi, chỉ nhìn dáng người là đoán đúng tâm lý. Chẳng hạn vợ ông cả ông chủ đến coi mà thấy người héo hon xanh xao, là biết bà đang bệnh gì rồi. Ông liền nói: Bà rất hiền lành, rất phúc hậu, trong nhà bà có người xen vô làm cho gia đình mất hạnh phúc, nên bà buồn rầu sinh bệnh hoạn... Bà khen ông coi rất hay nên trả tiền rất hậu. Còn nếu thanh niên nhờ xem vận mạng đen đỏ trong kỳ thi tới, thì ông nói: Không sao, cháu thế nào cũng đậu, nhớ ráng học, học giỏi thì sẽ thi đậu. Tới chừng thi, nếu đậu thì ông được khen và được thưởng, nếu rớt thì ông nói tại cháu không chịu ham học... Ông nói, bói là đánh vào tâm lý, đánh vào sở thích, nói cho người ta vừa lòng thì dù đúng hay không cũng thù lao tiền trọng hậu. Để thấy người coi bói là họ ve vuốt theo tình cảm, chúng ta thích cái gì thì họ cứ vuốt ngọt cái nấy để chúng ta vừa lòng, đã hài lòng thì dù nói dở cũng thành hay, nói trật cũng thành trúng. Đó là cái thuật mà người chuyên nghiệp họ kể lại cho chúng tôi nghe. Điếu cần thiết của họ là khéo mồm khéo miệng, nhờ khéo lời, nên người coi bói tốn tiền mà không lẩn tiếc, cứ đi coi hoài. Người băn khoăn lo lắng hậu vận của mình là người không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì có gì băn khoăn lo lắng? Muốn mai kia được sung sướng thì ngày nay cứ lo làm lợi ích cho mọi người. Muốn mai kia thi đậu vẻ vang thì ngày nay phải chăm học, học giỏi. Muốn cho mọi người ai thấy mình cũng mừng rỡ thì cứ đối đãi tử tế với mọi người. Mình đã tạo nhân thì quả sẽ đến, chớ không thể bỗng dưng mà có. Như vậy, quý Phật tử có nên đoán vận mệnh nữa không? Giả sử mỗi năm cần đoán hậu vận khoảng năm ba chục lần, thay vì làm việc đó, quý vị nên sắm phẩm thực vật dụng thuốc men cho cô nhi, người già, người bệnh, vì họ đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Châm ngôn Việt Nam có câu: "Tay cầm tiền quý bo bo, đem cho thầy bói mang lo cho mình". Làm ra tiền thì phải lao động tay chân hay trí óc cực nhọc nên quý nó lắm. Nhưng đem tiền đến thầy bói coi vận mạng, nếu họ nói năm này là năm tuổi, nhằm sao la hầu chiếu mạng, hậu vận không tốt... Coi xong về nhà lo rầu, không biết tai nạn gì sẽ đến với mình, rồi bỏ ăn mất ngủ. Đi coi bói chỉ thêm buồn thêm lo thôi, có lợi gì? Người tin nhân quả cứ tạo nhân lành thì quả tốt sẽ đến, còn tạo nhân ác thì dù cho có ai khen tốt khen hay, thì quả xấu vẫn cứ đến. Giả sử đối với một người nào đó mà mình ghét họ, khinh họ, nói xấu họ, chắc chắn là họ không quý mến mình. Ngược lại, đối với họ nếu mình cảm thông, chân tình giúp đỡ, dù không muốn họ quý mến mình, họ vẫn cứ mến. Nhân quả theo nhau không rời, rõ ràng mà nhiều người không tin, cứ tin những chuyện bâng quơ vô căn cứ. Như vậy, người Phật tử hiểu rõ lý nhân quả thì tránh nhân hay sợ quả? Nếu biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt thì quả xấu làm gì có? Người mà biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt là người tỉnh hay người mê? Đó là người tỉnh, người giác, là Bồ Tát con. Bồ Tát thì sáng suốt, biết tránh nhân xấu thì quả khổ không đến nên được an lạc, chúng sanh vì si mê, cứ tạo nhân xấu thì quả xấu cứ đến nên đau khổ. Người tránh nhân xấu thì không băn khoăn về chuyện thương chuyện ghét, không băn khoăn về hậu vận rủi may, cứ trải lòng thương đến mọi người và làm lợi ích cho mọi người, lòng không lẩn tiếc hay toan tính. Chúng ta thường có những bất công mà không tự thấy, không đem nguồn vui đến cho mọi người mà cứ mong mình luôn được vui sướng, điều này khó có thể xảy ra. Ví dụ muốn ráp một chiếc xe đạp toàn hảo vừa chắc chắn vừa đẹp, phải lựa mua những bộ phận cho thật tốt. Cần có đủ năm chục bộ phận mới ráp được chiếc xe vừa bền vừa đẹp, mà chúng ta chỉ có hai chục bộ phận hoặc mười bộ phận là đồ tốt, những bộ phận còn lại là đồ xấu, khi ráp xong chiếc xe, chiếc xe có được vừa ý không? -Không. Để thấy, muốn được chiếc xe hoàn hảo thì phải chọn các bộ phận của chiếc xe cùng hoàn hảo. Cũng vậy, con người ai cũng muốn đời mình hoàn toàn vui, không muốn chút khổ xen lấn, vậy mà khi tạo thì không chọn thuần nhân lành mà cứ để xen lấn những điều xấu, thì làm sao được quả vui hoàn toàn? Chẳng hạn như các ông muốn thân thể được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, mà lại hút thuốc uống rượu gây cái nhân đau bịnh, thì làm sao được khỏe mạnh sáng suốt. Muốn cho thân khỏe tâm sáng thì phải sống có điều độ có thì giờ nghỉ ngơi tịnh dưỡng thân tâm. Còn các bà các cô ai cũng muốn tươi trẻ, vậy mà cứ buồn giận nhăn nhó quạu quọ hoài, thì làm sao tươi trẻ được. Muốn tươi trẻ thì phải sống lành mạnh vui vẻ, nhờ vui nên mới tươi, mà vui thì không giận. Vậy, nếu có ai lỡ làm phiền thì hoan hỷ bỏ qua, đó là tạo nhân tươi trẻ. Bằng ngược lại, cứ buồn giận, hết phiền người này ghét người kia, mà giận ghét thì lòng đâu có an ổn nhẹ nhàng, ăn không ngon ngủ không được, đó là cái nhân bệnh hoạn làm cho thân mình tiều tụy hốc hác. Nếu biết nhân xấu đưa tới quả xấu thì tránh, đừng muốn một đàng mà làm một nẻo thì không được như ý. Vậy, biết tu một ngày là làm cho mình được an vui một ngày, tu một măm là làm cho mình được an vui một năm và đồng thời cũng gây niềm vui cho mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhân quả giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật, sống an lành, trở thành người gan dạ mạnh mẽ không nhát nhúa yếu đuối. Ví dụ có một Phật tử vì không điều phục được cơn phiền giận nên lỡ đánh chửi người. Khi đánh chửi xong biết mình tạo nhân ác, chắc chắn là quả báo xấu sẽ đến. Nên khi bị người uy hiếp đánh đập lại thì gan dạ chịu chớ không kêu than hay trách cứ ai cả. Ngược lại, có người khi đánh chửi thì hăng hái, đến khi bị uy hiếp thì kêu trời kêu đất than trách đủ điều. Đó là người yếu đuối không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo. Vậy muốn được an vui thì phải gan dạ bỏ những cái nhân xấu mà tạo nhân lành. Thường tạo nhân lành thì cái xấu ác sẽ yếu dần và hết hẳn. Hiểu được lý nhân quả thì đối với những sự việc bất tường xảy ra, chúng ta sẽ không trách người mà tự trách mình, do mình trước kia mê muội không tránh nhân xấu ác nên giờ này thọ quả xấu. Sẵn sàng đón nhận một cách gan dạ bình tĩnh. Chúng ta thường thấy trong một gia đình hai ba chị em sống chung, có một người lỡ làm bể một cái tô hay cái dĩa, sợ bị rầy nên phi tang. Đến khi má hay ba hỏi không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát nhúa không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái dở của mình. Lý nhân quả giúp con người có tinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm nhân xấu để tránh. và lỡ tạo nhân xấu rồi, thì sẵn sàng chấp nhận quả xấu một cách gan dạ không sợ sệt, không lẩn trốn. Vì không hiểu lý nhân quả nên mới nhát nhúa, sợ sệt, không có chánh tín, rồi làm xằng bậy sẽ đi vào con đường tà một cách dễ dàng. Hiện tại có một số Phât tử có cái lệ đầu năm đi chùa hái lộc, hay đi cúng thập tự để cầu cho trọn năm được bình an. Nhưng nếu nửa năm có xảy ra hoạn nạn thì thắc mắc tại sao mình đi cúng thập tự và đã cầu an mà vẫn còn hoạn nạn. Rồi cho rằng chùa cầu nguyện không linh, định năm sau sẽ không đi cúng chùa nữa. Quan niệm như vậy là không chánh đáng. Vì đi cúng chùa cầu xin Phật ban phước lành, đó chỉ là một ảo tưởng. Phật có bao giờ ban phước giáng họa cho ai đâu? Phật chỉ dạy cho ta việc nào để làm cho được an vui, việc nào nên tránh để khỏi bị khổ. Chúng ta nghe lời dạy của Ngài thực hành theo mới hết khổ. Phật không phải là một thần linh để ta tôn thờ lễ lạy và cầu xin phước lộc. Năm rồi có một Phật tử hỏi tôi: -Thưa thầy. có người nói bà Chúa Xứ ở Châu Đốc linh lắm, Đến miếu bà vay tiền về làm ăn sẽ phát đạt. Theo thầy thì quan niệm đó đúng hay sai? Tôi đáp: -Nếu vay tiền ở miếu bà về làm ăn phát tài, thì mọi người ở Châu Đốc đều giàu hết, vì ở đó gần, họ sẽ vay để làm giàu. Nhưng có nhiều gia đình ở chung quanh miếu bà, nhà còn lụp xụp có vẻ nghèo khó, họ dại gì không vô miếu vay mà làm giàu, để quý vị từ phương xa đến vay? Đó là một chuyện vô lý, vậy mà người ta vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng. Người Phật tử không thấy được lẽ thật, tin hết chỗ này linh đến chỗ khác linh, đua nhau đi tìm sự linh hiển ở bên ngoài. Không thấy được linh hay không linh là cái nhân tốt hay xấu mà mình đã tạo, tạo nhân tốt thì gặp quả tốt, tạo nhân xấu thì gặp quả xấu. điều đó quá rõ ràng, vì chúng ta chưa định tĩnh nên không thấy đó vậy. Lại có người hỏi: -Thưa thầy, nhiều người đi biển gặp sóng to gió lớn, họ niệm Bồ Tát Quan Thế Âm, thấy Bồ Tát đến cứu họ được thoát nạn, họ cho rằng Bồ Tát linh thiêng. Theo thầy thì sự kiện đó như thế nào? Tôi đáp: Đã là Phật tử đi sông đi biển gặp sóng gió thì không ai tiếc hơi mà không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng tại sao có người được cứu, vẫn có người bị chết chìm? Có phải Bồ Tát Quán Thế Âm thương người này mà không thương người kia không? Vì không hiểu lý nhân quả nên cho rằng người không bị nạn là nhờ niệm Bồ Tát. Bồ Tát linh giải cứu cho thoát nạn. Còn người bị nạn niệm Bồ Tát, mà Bồ Tát không linh nên không cứu. Tại sao đồng niệm Bồ Tát mà người niệm linh, người niệm không linh, làm sao cho rõ lẽ này? Người niệm danh hiệu Bồ Tát mà được thoát là vì chính người đó có nhiều nhân lành nhiều phước đức. Nên khi tâm khởi tưởng Phật, tưởng Bồ Tát thì thấy Phật và Bồ Tát hiện. Vì chủng nghiệp lành đã huân chứa sẵn đủ duyên liền khởi hiện hành (thấy Phật thấy Bồ Tát), Và vì do tích chứa nhiều nghiệp lành thì làm sao thọ quả khổ được? Còn người niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn bị nạn, chính vì người đó thiếu phước không có tích lũy nghiệp lành (chủng tử Phật, Bồ Tát không có sẵn). Tuy có khởi niệm mà Phật và Bồ Tát vẫn không hiện. Và vì nhân ác đã có sẵn nên chiêu quả không lành. Để thấy, sự kiện trên cũng do nhân lành hay dữ mà chúng ta tạo, không phải do từ Phật hay Bồ Tát linh thiêng đến giúp. Thế nên người Phật tử tu hành đầu tiên là phải hiểu lý nhân quả, biết nhân nào nên làm nhân nào nên tránh, đó là chúng ta tiến vào con đường giác, mà người sống có tỉnh có giác thì hết khổ được vui, rõ ràng không nghi ngờ. Hằng ngày trong công việc làm ăn tuy có bận rộn giao tế nhiều với mọi người, nhưng nếu chúng ta biết tránh nhân dữ, chọn nhân lành, thì từ ý nghĩ, lời nói, việc làm lúc nào cũng lương thiện, vừa lợi mình vừa lợi người, đó là chúng ta đã tu. Chúng ta phải thường xuyên tu, tu từng phút, từng giờ, tu cả ngày... chớ đâu phải đợi tới giờ tụng kinh lạy Phật mới tu, ngoài giờ đó nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như vậy là không hiền. Lạy Phật thì lạy, tụng kinh thì tụng, chửi lộn vẫn cứ chửi, đánh lộn cũng dám đánh. Thế nên tu mà không hết khổ lỗi tại chỗ đó. Vì tu mà chỉ biết tu với Phật không chịu tu với chúng sanh, cũng không chịu tu với chính mình nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà cứ nghiêm trang lễ bái Phật, còn ra ngoài đời với mọi người thì không nhịn một lời, không nhường một bước, ăn thua đủ. Đối với Phật dù quý vị có khen hay chê, Ngài cũng không vui không buồn, cũng không nói một lời, Ngài cũng không cần chúng ta tu với Ngài. Còn chúng sanh thì dễ buồn giận, nên chúng ta mới tu với họ thì mình bớt khổ mà họ cũng bớt khổ. Biết tu với nhau là đem lại hạnh phúc cho nhau, đem sự bình an lại cho nhau. Phật dạy chúng ta tu là tu với mọi loài, chớ đâu có bảo tu với Ngài. Vậy mà đa số người chỉ biết tu với Phật, ngày ngày lễ bái Phật, dâng hương dâng hoa cúng Phật... Thậm chí có nhiều người nói hôm nay là ngày tôi ăn chay nên tôi tu, đợi ăn chay mới tu. Vậy những ngày ăn mặn không tu sao? Một tháng ăn chay có bốn ngày hoặc sáu ngày nên chỉ tu có bốn ngày hoặc sáu ngày, còn lại hai mươi bốn ngày hoặc hai mươi sáu ngày cứ tự do làm ác với mọi người sao? Nếu đợi đến trước tượng Phật mới tu, đợi tụng kinh mới tu, đợi ăn chay mới tu, tu như thế thì quá hạn chế. Tu là phải thường xuyên nhìn thấy từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ của mình, nếu tốt thì cho ra, xấu thì dừng lại, đó mới thật là tu. Tu như vậy mới đúng với tinh thần "Bồ Tát Sợ Nhân" và dù không muốn làm Bồ Tát thì quý vị cũng là Bồ Tát. Vì đã thực hành cái hạnh Bồ Tát ắt hẳn phải là Bồ Tát. Bồ Tát là giác, biết được nhân xấu không làm, nhân tốt thì làm đó là tỉnh giác, mà người hằng tỉnh hằng giác không phải là Bồ Tát là gì? Các Phật tử ở đây đều thuộc câu "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Vậy ai cũng biết cũng biết việc nào nên làm việc nào nên tránh rồi. Tôi mong rằng quý vị cố gắng tu hành để tương lai sẽ thành Bồ Tát, tập sống với quan niệm Bồ Tát, hành động theo Bồ Tát thì mai kia chúng ta sẽ là Bồ Tát. Còn nếu cứ sống theo quan niệm và hành động của phàm phu thì suốt kiếp chúng ta vẫn là phàm phu. Vậy, phàm phu và Bồ Tát không xa, chỉ có mê hay giác mà thôi. Nếu giác là Bồ Tát và được an vui, nếu mê là phàm phu và bị đau khổ (còn nữa)
  17. (Tiếp theo) Thần Thông và Nghiệp Lực Đa số Phật tử tu theo đạo Phật không nhiều thì ít đều có liên tưởng đến những hiện tượng huyền bí, đó là thần thông. Vậy thần thông có phải là cái chúng ta nương tựa, để cho chúng ta tin cậy, để cho chúng ta học hỏi luyện tập không? Khi Phật cón tại thế, Tôn Giả Mục Kiền Liên sau khi chứng quả A La Hán, Ngài có đủ lục thông. Song, đối với những vị chứng A La Hán như Ngài, Ngài là người ưu việt hơn cả. Nên Phật nói Tôn Giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử lớn của Phật. Vì thần thông siêu việt nên Tôn Giả có thể dùng thần thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong chớp mắt, hoặc dùng thần thông hóa hiện tùy ý. Khi ấy Phật ngự trên một từng lầu, dưới tầng trệt các tỳ kheo nói chuyện ồn ào. Phật bảo Tôn Giả Mục Kiền Liên làm cho các tỳ kheo đó đừng làm ồn nữa. Tôn Giả liền duỗi chân ra thì cái nhà xoay tròn, chư tỳ kheo hoảng hốt không dám nói chuyện nữa. Với sức thần thông siêu việt như thế, vì lòng hiếu thảo Ngài dùng thiên nhãn thông tìm trong lục đạo coi mẹ Ngài sinh ở đâu, Ngài thấy bà đang mang thân ngạ quỉ khổ vô cùng. Ngài thương xót mẹ, nên đi khất thực được một bát cơm liền vận thần thông đem đến dâng cho mẹ. Khi được cơm, tay trái bà bưng bát cơm, tay mặt bốc cơm để vào miệng, cơm vừa tới miệng liền hóa thành lửa. Tôn Giả Mục Kiền Liên thấy mẹ ăn cơm không được khổ sở vô cùng, Tôn Giả rơi nước mắt. Chúng ta đặt lại vấn đề, nếu thần thông của Tôn Giả Mục Kiền Liên siêu việt thì khi mẹ Ngài ăn cơm, cơm hóa thành lửa, tại sao Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa để mẹ Ngài dùng cho no lòng, mà lại đứng khóc? Vậy, quý vị nghĩ sao về thần thông của Ngài và nghiệp ác mà mẹ Ngài gây ra? Để thấy, thần thông không cứu được nghiệp ác của người thân. Nếu tu để có thần thông, mà không cứu được ai hết thì có thần thông làm gì? Toàn chúng đệ tử Phật đều tôn xưng Ngài là người thần thông bậc nhất. Vậy mà trước cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải cứu, mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng. Thần thông không đưa người đến sự an lạc vĩnh viễn mà cũng không giải cứu được ác nghiệp cho người đau khổ. Vậy, tu thiết tha mong cầu chứng đắc thần thông? hay tu cốt để đoạn các nghiệp ác, để tránh khỏi khổ đau đang chi phối cả kiếp người? Sau đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên trở về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài và cầu xin Phật dùng phương tiện giải cứu. Phật dạy: -Mẹ người nghiệp ác quá nặng, sức người không thể cứu được. Người phải làm lễ Vu Lan thiết đãi chư Tăng. Sơn lâm thiền định Thọ hạ kinh hành Lục thông La Hán Nhờ oai lực của các vị này cầu nguyện, thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngạ quỉ. Khi đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật sắm sửa trai diên, thỉnh chư Tăng đang thiền tịnh ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là những bậc đã chứng lục thông A La Hán cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ Ngài thoát kiếp nga quỉ. Vì lý do Tôn Giả Mục Kiền Liên không đủ sức cứu mẹ, nên phải nhờ số đông chư Tăng đã chứng A La Hán trợ lực mới cứu được mẹ Ngài. Chính sự kiện này mà về sau hàng Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, là một bậc xuất gia tu hành chứng A La Hán, không quên công ơn cha mẹ, vẫn nhớ và muốn đền đáp. Nên hàng Phật tử sau mùa an cư tự tứ của chúng Tăng, đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư Tăng cúng dường cầu siêu. Đó là việc làm đạo đức căn bản. Tuy nhiên chư Tăng hiện thời không phài là những bậc thiền định chứng lục thông A La Hán như Phật đã dạy Tôn Giả Mục Kiền Liên thỉnh cúng dường, cầu nguyện cho Ngài. Nên sự cầu nguyện của chư Tăng hiện thời không bảo đảm được như ý nguyện của Phật tử. Nhưng tại sao mỗi năm vào rằm tháng bảy Phật tử tụ hội về chùa làm lễ Vu Lan để làm gì? Điều này Phật tử nên hiểu cho tường tận. Với tấm lòng hiếu thảo của người Phật tử, mỗi khi nhớ lại gương sáng của đức Mục Kiền Liên, là người đã cắt ái lìa thân xuất gia hành đạo, quyên hết chuyện nhà mà vẫn không quyên ơn sanh dưỡng của cha mẹ, biết mẹ bị quả báo làm ngạ quỉ, tìm mọi phương tiện cứu mẹ thoát khổ của kiếp ngạ quỉ. Theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, nên ngày nay Phật tử làm lễ Vu Lan để tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, và mong cứu cha mẹ thoát khỏi cảnh khổ. Đến chùa vì hiếu nghĩa, vì nhớ ơn để cầu nguyện cho cha mẹ, đó là tinh thần từ thiện tốt đẹp. Nhưng nếu tin chắc cha mẹ thoát khổ thì không bảo đảm. Trong kinh A Hàm, Phật có nói: "Người biết ơn và đền ơn, dù ở xa ngàn dặm, cũng như hầu cận bên ta; ngược lại, người không biết ơn và không đền ơn dù ở hầu cạnh bên ta cũng cách xa ta ngàn dặm". Phật dạy đạo đức bắt nguồn từ chỗ biết ơn và đền ơn. Người lương thiện là người thọ ơn ai không bao giờ quên. Những lúc mình nguy khốn được người giúp đỡ, khi người hoạn nạn thì mình sẵn sàng giúp đỡ lại không ngại khó khổ gian lao. Trong kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật có dạy: trời nắng người đi đường vào bóng cây núp mát, khi ra đi không được bẻ cành cây. Và trên đường đi được bóng cây hai bên đường che mát, Phật cấm không được bẻ lá cây, vì cây có cái ơn che mát cho chúng ta trên đường dài nóng bức. Đối với cái ân rất nhỏ của loài vô tri mà Phật còn không cho phép chúng ta quên ơn, huống là cái ơn sanh dưỡng lớn lao của cha mẹ. Nếu ơn sanh dưỡng sâu nặng mà chúng ta quên đi thì những cái ơn khác không dễ gì nhớ được. Ở đời cũng có lắm kẻ được người giúp đỡ qua cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn của họ, họ ngoảnh mặt làm kẻ xa lạ. Cũng như những đứa con ngỗ nghịch không tiếc lời nặng nhẹ khảo tra tiền của cha mẹ, cha mẹ đến tuổi già yếu đói no sướng khổ con cái không buồn nghĩ đến. Người như thế là người không biết ơn và đền ơn, không phải là người lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người biết ơn và nhớ ơn sanh dưỡng của cha mẹ. Dù cha mẹ còn hay mất, mỗi mùa Vu Lan đến, người con hiếu thảo vì cha mẹ làm việc phước thiện để hướng tâm tưởng thiện lành đến với cha mẹ, mong cha mẹ được nhẹ nhàng hết khổ. Đó là kẻ biết ơn và đền ơn mà thế gian thường nói "Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây". Nhớ ơn cha mẹ là đạo đức căn bản vậy. Có một lần Phật đi khất thực ở vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo đói. Phật đi từ sáng đến trưa không có người cúng dường, trong bát Phật không có thức ăn. Khi đó có một thầy tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi được một bát cơm, vội vàng đem dâng Phật. Phật hỏi: -Ông còn cha mẹ không? Tỳ kheo trả lời: -Bạch Thế Tôn, con còn bà mẹ. Phật hỏi: -Mẹ ông sáng nay có ăn cơm chưa? Tỳ kheo đáp: -Bạch Thế Tôn, con đổi một lá y chỉ được một bát cơm, con dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn. Phật dạy: -Người đáng thọ nhận bát cơm này là mẹ của ông. Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật rất chú trọng đến đức hiếu thảo của con người. Nếu người tu hành không nhớ công ơn cha mẹ thì việc tu hành chỉ là việc làm ích kỷ, không có cơ bản đạo đức. Chúng ta tu là vì thương cha mẹ, thương thân bằng quyến thuộc, thương dân tộc, thương nhân loại, nên nỗ lực tu hành để rồi khuyên những người thân người sơ cố gắng tiến trên con đường đạo đức, làm đẹp cho người, làm đẹp cho quê hương xứ sở. Đâu phải vong ân cha mẹ, quên thân bằng quyến thuộc, phản bội quốc dân mà đi tu. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đều phải lấy công ơn cha mẹ làm gốc để tu hành. Vì vậy, mỗi năm tới mùa báo hiếu, Phật tử qui tụ về chùa, trước là đem lòng thành kính nguyện Tam Bảo gia hộ cho cha mẹ sớm được về cõi Phật. Kế đó, vì cha mẹ mà làm lành tu thiện, cứu giúp người nghèo khổ và nhắc nhở khuyến khích hướng dẫn con cháu tiến trên con đường đạo. Đó là nền tảng đạo đức đời đời không quên. Tăng Ni hiện nay tuy không đủ tư cách như Phật dạy trong kinh Vu Lan, nhưng dù sao đi nữa, một người tu an chay, bỏ ác làm thiện cũng có chút công đức lành góp phần với quý vị Phật tử, cùng hồi hướng cùng cầu nguyện cho cha mẹ. Đó là cội nguồn của ngày lễ Vu Lan. Vì vậy nếu đã là đệ tử của Phật, phải nhớ rằng tu với Phật không bằng tu với cha mẹ. Vì Phật đã giải thoát mọi khổ đau, dù cho chúng ta có đảnh lễ tán thán đến đâu, Ngài vẫn bình thản mặc nhiên. Còn cha mẹ chưa hết phiền não nên mỗi khi con cháu tỏ lòng hiếu thảo, biết nghĩ tưởng đến thì cha mẹ hoan hỷ sung sướng. Thế nên chúng ta thường làm cha mẹ vui, Chẳng phải chỉ lo lạy Phật cúng Phật mà quên không lo phụng dưỡng hiếu kính cha mẹ. Người tu như thế thì chưa đúng với tinh thần của đạo Phật. Người Phật tử muốn đền đáp công ơn của cha mẹ, trường hợp thứ nhất khi cha mẹ còn sanh tiền, muốn cho cha mẹ an vui trong hiện đời và an vui trong mai hậu, ngoài việc cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ về mặt vật chất, nếu cha mẹ chưa biết đạo, phải tạo duyên tốt khiến cho cha mẹ phát tâm tu hành bỏ ác làm lành. Vì người phát tâm làm lành mới khỏi đọa ba đường ác sanh vào cõi thiện được an vui. Cho cha mẹ ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tuy là hiếu thảo, nhưng hiếu thảo đó chỉ là tạm bợ không lâu dài, vì cha mẹ sẽ chết không còn hưởng dụng những thứ đó nữa. Tạo duyên lành cho cha mẹ hướng về đường thiện, thì chẳng những bảo đảm trong đời này ít khổ đau mà đời sau cũng hết đau khổ. Chính việc làm đó mới là cái hiếu chân thật. Vì vậy, quý Phật tử ai được vinh hạnh cha mẹ còn tại tiền, hãy ráng tạo điều kiện giúp cho cha mẹ tu hành, đó là cái hiếu lớn nhất. Trường hợp thứ hai là khi cha mẹ quá cố rồi. Chúng ta không làm gì khác được, nên mới cúng dường cầu nguyện hồi hướng phước lành cho cha mẹ được siêu thoát. Đó là việc làm cầu may chứ không bảo đảm kết quả như ý. Nhiều khi quý Phật tử nghĩ đến người chết mà quên hẳn người sống. Đến rằm tháng bảy cúng kiến cầu nguyện cho ông bà tổ tiên được siêu sanh tịnh độ mà ông bà cha mẹ tại tiền thì không để ý chăm sóc giúp đỡ để tiến tu. Như thế là không xứng đáng, không đúng với chữ hiếu trong đạo Phật. Trở lại, thần thông không cứu được khổ, khơng giải được nghiệp. Như chúng ta biết Tôn Giả Mục Kiền Liên đã từng dùng thần thông qua lại trong không gian từ cõi này đến cõi khác một cách tự do. Nhưng đối trước quả báo nghiệp ác của mẹ Ngài, Ngài đành bó tay đứng khóc chứ không cứu được, đó là trường hợp thứ nhất. Đến trường hợp thứ hai là chính bản thân Ngài khi trở về già, một hôm đi khất thực qua chân núi, ngoại đạo lăn đá cho rớt xuống đè Ngài chết. Bình thường có chuyện bất ổn xảy ra là Ngài dùng thần thông bay bổng, không ai hại được Ngài. Bây giờ nghiệp đến, thấy đá lăn từ trên xuống, Ngài dùng thần thông bay đi mà bay không được, nên bị đá đè chết. Để thấy thần thông bất lực trước quả báo nghiệp ác của Ngài, thần thông cũng không giải được nghiệp của chính mình khi quả báo đến. Như vậy luyện tập thần thông để làm gì? Song, tâm lý chung của Phật tử thì ưa thích thần thông với những tướng lạ thường. Giả sử bây giờ quý vị đang ngồi nghe tôi nói pháp, ngoài kia có người đang vận thần thông bay lên dạo chơi trong hư không, quý vị sẽ cùng đua nhau xem họ trình diễn thần thông, chớ không thể ngồi yên mà nghe pháp. Vì bản chất của con người là hiếu kỳ, ưa thích những điều khác lạ, còn những gì bình thường đơn giản thì không ưa chuộng. Tu, nếu bảo dùng nghiệp ác của thân của miệng của ý, chuyển thành ba nghiệp thiện thì thấy thường và khó làm. Còn, nếu nói tôi có thần thông, ai muốn được hết tội, tôi hóa ra nước Cam Lồ rưới sẽ hết phiền não, thì mọi người ham thích đua nhau xin nước Cam Lồ để tắm gội hay để uống cho hết tội. Vì người ta vừa hiếu kỳ vừa lười biếng, hễ thấy dễ khoẻ là làm, Vì vậy, nên dễ bị gạt và để rơi vào mê tín tà giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, có bốn ngoại đạo tu chứng được ngũ thông: -Thiên nhãn thông là thấy tất cà người vật gần hay xa. -Thiên nhĩ thông là nghe khắp tất cà âm thanh lớn nhỏ gần xa. -Thiên tâm thông là biết được ý người khi mới vừa khởi nghĩ chưa nói ra lời. -Thần túc thông là biến hóa thân hình lớn nhỏ tùy ý, thăng thiên độn thổ không ngại. -Túc mạng thông là biết được vô số kiếp về trước. Bốn vị này biết mình sắp bị quỉ vô thường đến bắt đi, nên mỗi người tìm cách để trốn thoát thần chết. Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên hư không núp trong đám mây xanh. Vị thứ hai vận thần thông lặn xuống đáy biển. Vị thứ ba dùng thần thông chui vô lòng núi. Vị thứ tư thì chui trốn ở trong lòng đất. Tất cả bốn vị đều nghĩ rằng chỗ mình trốn, quỉ vô thường không thể tìm được. Nhưng đến giờ thần chết đến thì vị thứ nhất ở trên mây hết thần thông rớt xuống nát thây. Vị thứ hai ở dưới đáy biển hết thần thông ngộp chết nổi lên. Vị thứ ba ở trong lòng núi hết thần thông đá nứt đè chết. Vị thứ tư ở trong lòng đất hết thần thông bị đất sụp chôn thây luôn. Để thấy, tu chứng được thần thông muốn thoát chết vẫn không thoát được. Tu mà chứng được ngũ thông là đã trải qua quá trình tu tập không phải ngắn và dễ dàng, thế mà muốn thoát chết cũng không thoát được. Lại một trường hợp nữa: Có một vị tu sĩ đạt đạo chứng được ngũ thông, thuyết giảng giáo lý rất hay cho đến trời Đế Thích cũng đến nghe. Một hôm, trời Đế Thích nghe giảng xong ra ngồi gốc cây khóc. Vị tu sĩ ấy lấy làm lạ hỏi: -Tại sao nghe giảng xong ông lại khóc, tôi giảng có chỗ nào ông không đồng ý? Đế Thích đáp: -Không, Ngài giảng rất hay, vì tôi thấy ngài sắp chết nên tôi thương khóc. Tu sĩ hỏi: -Vậy phải làm sao cho tôi khỏi chết? Đế Thích đáp: -Nếu Ngài muốn khỏi chết, hãy đến cầu cứu với Đức Phật Thích Ca. Tu sĩ hỏi: -Đức Phật Thích Ca là ai Đang ở đâu? Đế Thích đáp: -Ngài là một vị giác ngộ hoàn toàn sạch hết vô minh lậu hoặc, đang ở tịnh xá Trúc Lâm gần thành vương xá. Vị tu sĩ bèn vận thần thông bay đi tìm Phật. Đi dọc đường, ông nghĩ rằng đi cầu Phật dạy nên có lễ vật để cúng dường Ngài. Ông thấy bên đường có những cây ngô đồng đang trổ hoa thật đẹp, bèn nhổ và cầm đến cúng Phật. Khi tới tịnh xá Trúc Lâm, thấy Phật đang ngồi thuyết pháp cho chúng tỳ kheo nghe, ông vào quì xuống dâng hai cây ngô đồng lên Phật và thưa: -Thưa Thế Tôn, con xin cúng dường Ngài hai cây ngô đồng và cầu xin Ngài dạy cho con phương pháp tu để khỏi chết. Lúc đó Phật không dạy gì hết, chỉ bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ nhất, ngã cây ngô đồng thứ nhất. Phật lại bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ hai, ngã cây ngô đồng thứ hai. Phật nói tiếp: -Buông ! Tu sĩ sửng sốt thưa: -Hai tay con cầm hai cây ngô đồng, lần thứ nhất Phật bảo buông, lần thứ hai Phật bảo buông, con buông cây thứ hai là hết. Phật bảo con buông nữa con không biết buông cái gì? Phật nói: -Ta đâu có bảo ông buông hai cây ngô đồng. Lần thứ nhất ta bảo ông buông là đừng chạy theo ngoại cảnh. Lần thứ hai ta bảo ông buông là đừng chấp sáu căn là ngã. Lần thứ ba ta bảo ông buông là không chấp sáu thức là ngã. Nếu ông buông hết ba cái đó thì ông hết chết. Nghe Phật nói, tu sĩ nhận ra yếu chỉ, tu một thời gian chứng A La Hán. Hết chết là không còn nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, chứ không phải thân tứ đại hiện đời không hoại, không chết, phải hiểu rõ chỗ này. Để thấy, dù có tu có luyện thần thông đến đâu, mà chưa buông xả được cảnh, thân và tâm thức thì cũng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi. Lại một Đạo sĩ và một Thiền sư, hai vị cùng đi chung một con đường. Đạo sĩ hỏi Thiền sư: -Thầy tu lâu chưa? -Lâu rồi. -Thầy chứng thần thông chưa? -Tôi tu không có thần thông. Vậy đạo sĩ có thần thông không? - Có. Hai vị cùng đi tới một bến đò, Đạo sĩ muốn thi thố thần thông cho Thiền sư thấy bèn rủ: -Thôi chúng ta đi qua. Đạo sĩ qua sông mà không đi đò. Thiền sư nói: -Thôi, Đạo sĩ cứ qua đi. Đạo sĩ liền vén áo đi trên mặt nước qua bên kia bờ. Còn Thiền sư thì đến bến đò mua vé lên đò, qua sông. Khi qua bờ bên kia, Đạo sĩ gặp lại Thiền sư ra vẻ tự hào, nói: -Thầy thấy tôi không? -Đạo sĩ tập luyện thuật đi trên nước mất bao nhiêu năm? -Hết hai mươi năm. Thiền sư cười nói: -Công phu luyện tập 20 năm của Đạo sĩ đáng giá bằng hai xu tôi qua đò ! Tốn hai xu cũng đi qua sông được mà phải luyện tập hai mươi năm được thần thông cũng để qua sông, thì có giá trị gì??? Thiền Tông không trọng thần thông, coi đó chỉ là trò biểu diễn vui chơi, không giải cứu được khổ đau của con người. Thế mà người đời không biết, rất hâm mộ nể phục thần thông. Trở về nguồn, khi Thái tử Sĩ Đạt Ta tu sắp thành đạo dưới cội cây bồ đề, ma Ba Tuần biết Ngài sắp chứng đạo nên cùng nhau đến phá Ngài. Quân ma có tới 18 ức bao vây Ngài dưới cội bồ đề. Ma bảo: -Sa Môn mau đứng đậy. Thái tử lặng thinh không đáp, như thế đến ba lần. Ma hỏi: -Sa Môn sợ ta chăng? Thái tử đáp: -Ta không kinh sợ. Ma hỏi: -Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta chăng? Ông chỉ một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại nói không sợ? Thái tử đáp bằng bài kệ: "Giáp nhơn, cung tam muội Tay cầm tên trí tuệ Phước nghiệp làm binh khí Nay sẽ phá quân ngươi" Ma bảo: -Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ làm cho thân hình ông tan thành tro bụi. Thái tử nói: -Ta tự xem xét trên cõi người ma và thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ chúng của ngươi không thể đụng được một mảy lông của ta. Ma nói: -Sa môn, nay muốn cùng ta giao chiến chăng? Thái tử đáp: -Muốn được giao chiến. Bấy giờ Thái tử mặc áo giáp nhơn từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ, và binh khí phước nghiệp để giao chiến với ma quân. Ngày nay, chúng ta tu một mình ở nơi vắng vẻ có nhiều ma, thì quý thầy dạy nên học thuộc các câu chú, về những là bùa để trừ tà ma, hoặc để con dao hay cái rựa bên cạnh phòng khi đối trị ma quái. Xưa Phật chiến đấu với ma quân Ngài mặc áo giáp từ bi, cầm cung thiền định, bắn tên trí tuệ và dùng phước đức làm binh khí để chiến đấu với quân ma. Chúng ta thấy Đức Phật đơn độc một mình chỉ và sử dụng có bốn loại khí giới là từ bi, thiền định, trí tuệ, và phước đức mà chiến thắng được ma quân một cách vẻ vang. Sở dĩ Phật chiến thắng đựơc ma quân là vì Ngài có tâm từ bi vô lượng vô biên không oán không thù ai, nên ma không hại được. Còn chúng ta thì lòng từ chưa bủa khắp, xử kỷ tiếp vật còn thân còn sơ nên ma tham ma sân có chỗ vào, vì vậy mà cứ mãi thua ma (dài dài); Đó là yếu tố thứ nhất. Yếu tố thứ hai là tâm Phật luôn luôn an định, dù ma có hiện hình tướng kỳ quái thô bạo dữ dằn đến đâu, Ngài vẫn mặc nhiên không run không sợ nên ma không hại được. Bây giờ nếu chúng ta tu nếu gặp ma hiện vằn mặt đỏ trong đêm tối, thì hoảng hốt chạy ra, không giữ được bình tĩnh đó là do tâm không an định, vì tâm không an định nên sợ và thua ma. Yếu tố thứ ba là với trí tuệ sáng suốt. Phật thấy rõ thân này không thật thì các tướng mạo của ma quỉ nào có thật! Nên không bị chi phối bởi ma, chúng ta vì trí tuệ chưa sáng, thấy thân này thật, ma cũng thật, sanh tâm kinh sợ nên bị ma hại. Yếu tố thứ tư là phước nghiệp, Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích chúng sanh, phước đức kết nhóm nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại được. Chúng ta tu sở dĩ thường gặp chướng nạn ma nạn là vì phước đức mỏng, sức tu tập yếu nên bị ma nhiếp được dễ dàng. Tôi thường nói chúng ta tu đừng ỷ mình thông minh, đừng ỷ mình tài giỏi, cũng đừng ỷ mình khôn lanh là có thể hanh thông trên đường tu tiến, mà phải xét nét công hanh tu tập của mình. Nếu thấy phước đức mình cạn mỏng thì lo vun bồi cho được sâu dầy hầu giúp mình vượt qua mọi chướng nạn và tiến đến chỗ cứu cánh viên mãn. Vì có rất nhiều người khôn lanh thông minh tài giỏi mà không tránh được chướng nạn khổ đau. Ngược lại, người có nhiều phước đức thì vượt qua tất cả mọi chướng ngại, sự tu tập dễ dàng tiến mau nên được kết quả tốt. Chúng ta thấy, Đức Phật khi chiến đấu với ma quân, chỉ dùng có bốn loại binh khí: Nhân từ là do tự tâm phát khởi lòng thương yêu tất cả mọi loài. Chánh định là do lóng lặng tâm tư mà được thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh nên trí tuệ phát sáng. Còn phước nghiệp là do công hạnh làm lợi ích cho mọi loài. Chính bốn đức ấy hóa giải sự nhiễu hại của ma quân ở chính mình. Như vậy, chúng ta vào đạo là phải giữ tâm không oán không thù lần lần để tâm lóng lặng cho trí tuệ phát sáng, và hành ngày làm việc thiện lành lợi ích cho mọi người. Đó là những điều căn bản không một người tu nào có thể thiếu được. Tóm lại, tu theo đạo Phật chủ yếu là tránh ba nghiệp ác của thân miệng ý và tạo ba nghiệp lành. Vì nghiệp có sức mạnh đưa người tới chỗ khổ hay vui. Nếu tu mà nghiệp thức còn thì dù có chứng thần thông siêu việt đến đâu cũng không giải cứu được khi nghiệp báo đến. Vì thế đạo Phật không trọng thần thông, mà sợ gây nghiệp ác, khuyên tạo nghiệp lành. Thế nên mọi hiện tượng huyền bí lạ lùng không phải là cái đích cho người tu Phật hướng đến. Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành người tốt, nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày làm lợi ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười biếng, không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần của đạo Phật. Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả Nhiều Phật tử đi chùa quy y đã lâu, biết tụng kinh niệm Phật, thế mà đối với lý nhân quả chưa đủ lòng tin. Nếu chưa đủ lòng tin nhân quả thì giáo lý Phật coi như chưa hiểu gì cả, vì lý nhân quả là nền tảng của Phật pháp. Tin lý nhân quả là điều thiết yếu nhưng không phải tin suông, tin mù quáng mà là một sự kiện thực tế, cụ thể ngay trong cuộc sống, rất sáng tỏ, không mơ hồ huyền hoặc.Thế nào là "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"? Bồ Tát nguyên chữ Phạn là Bodhisattva, dịch âm là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch nghĩa là hữu tình giác. Tức là một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp cho những chúng sanh khác cũng được giác ngộ như mình, thì gọi là Bồ Tát. Nhờ đã giác ngộ thấu suốt được lý nhân quả trong ba đời, nên chỉ sợ nhân mà không sợ quả. Chúng sanh là loại hữu tình có sinh có tử còn vô minh nên đi mãi trong vòng luân hồi. Vì chưa giác ngộ, còn mê mờ không thông lý nhân quả nên chỉ sợ quả mà không sợ nhân. Vậy kiểm lại trong chúng ta, ai là người biết sợ nhân xấu đó là người giác, là Bồ Tát, ai sợ quả xấu là kẻ mê, là chúng sanh. Bồ Tát hay chúng sanh là tự chúng ta có thấy biết đúng sự thật hay không, chớ không phải Bồ Tát cỡi hạc hay cỡi sư tử đi trên hư không để cho người ngưỡng vọng lễ bái. Nếu giác, thấy đúng lẽ thật, nhận biết một cách chính xác nhân nào đưa đến quả khổ, nhân nào đưa đến quả an lạc. Do biết rõ, nên thấy nhân nào đưa đến quả khổ quyết định không làm, vì tạo nhân rồi thì không tránh được quả, đó là Bồ Tát sợ nhân. Ngược lại, cái nhân đưa đến quả khổ nếu chúng ta không biết để tránh, mà chỉ thấy quả khổ đến lo sợ tránh né, đó là chúng sanh sợ quả. Ví dụ người có tật nóng giận, mỗi khi có người trong nhà hay hàng xóm nói hoặc làm điều gì trái ý liền la lối đánh đập. Nếu chửi bới hay đánh đập vợ con trong nhà bị thương tích thì tốn tiền thuốc thang chữa trị, bị xóm giềng cười chê là đồ bất nghĩa bất nhân, khiến tâm ray rứt hối hận. Nếu đánh đập người ngoài xã hội có thương tích thì bị người đánh lại hay bị bắt bớ giam cầm. Khi đánh chửi thì không sợ, đến khi thấy vợ con đau bịnh hoặc bị người đánh lại, hay bị tù tội thì lo sợ. Đó là người mê hay tỉnh? Vì mê không biết nhân xấu ác sẽ đưa đến quả khổ, nên cứ làm rồi thọ quả khổ chừng đó mới sợ. Người có lòng tham, thấy của người dễ lấy, liền lấy đem về làm của mình, khi lén lấy của người thì không sợ mà chỉ thích thú là mình được của. Để khi chủ nhà hay mất của, báo nhà chức trách truy tìm lùng bắt kẻ trộm thì lo sợ. Đó là người mê, vì mê nên không biết tạo nhân xấu phải chịu quả khổ, cứ làm để rồi quả khổ đến thì hoảng kinh lo sợ. Có nhiều thiếu niên 14, 15 tuổi thấy người lớn hút thuốc nhả khói phì phà có vẻ oai vệ thư nhàn nên tập hút, hút một thời gian thì ghiền. Khi ghiền, nếu có thuốc hút thì tạm ổn, hôm nào không tiền mua thuốc thì ngáp dài chảy nước dãi thèm thuồng, chịu không nổi, tới người này, người kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc hút, thật là khổ sở. Đó là cái quả chặng thứ nhất. Đến quả chặng thứ hai là hút tới lới tới già thì bị nám phổi, ung thư phổi, bịnh trầm kha, khốn khổ vô cùng. Lúc hút thuốc hồn lâng lâng quyện theo khói theo mây thì không sợ. Đến khi cơn ghiền hành hạ không tiền mua thuốc, bịnh hoạn bứt ngặt không tiền uống thuốc, không thuốc để điều trị, chừng khổ đến mới sợ. Lại có những chú bé mười lăm mười bảy tuổi thấy cha chú uống rượu bàn tán việc làng việc nước, việc cổ kim thời sự ra vẻ người hiểu biết sành đời, nên thích thú tập uống. Khi mới uống thì cảm thấy cay nóng, tập một thới gian trở thành dễ chịu và đi tới ghiền. Khi ghiền rồi thì mỗi ngày phải có rượu mới yên, nếu không rượu thì uạ ọc bực bội khó chịu. Đó là cái quả thứ nhất không rượu uống. Nếu gặp tiệc tùng anh em đông đảo, người chén thù người chén tạc, kết quả là say túy lúy, đi ngã bờ ngã bụi làm trò cười cho thiên hạ. Khi về đến nhà thì chửi đánh vợ con, ói mửa đầy đất hôi hám nhơ bẩn nhà cửa, khiến cho cha mẹ vợ con buồn chán. Đó là cái quả thứ hai, làm cho gia đình mất hạnh phúc. Đến cái quả thứ ba là chai gan, loét dạ dày... đau bịnh trầm kha vô cùng khốn khổ. Từ cái nhân nhỏ đưa tới cái quả thật to, mà người ta không thấy nên mới tạo, để rồi thọ quả vô cùng khốn khổ, hối hận thì không kịp. Vậy, người tập tành những thói hư tật xấu đó là giác ngộ hay mê? Bởi mê nên mới khổ. Nếu giác như Bồ Tát biết rõ hút thuốc uống rượu là cái nhân đưa tới nghiện ngập, bịnh hoạn nghèo khổ, gia đình mất hạnh phúc. Biết như vậy, nhất định không uống, không hút, dù người có cố tình mời mọc, dứt khoát không dùng. Đó là người sống có tính giác nên không khổ. Nếu sống mà không biết nhân nào đưa tới quả khổ, nhân nào đưa tới quả vui, mặc tình tạo tác để rồi quả đến thì kêu trời trách đất. Đó là người mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ quả nên bị khổ đau. Vậy chúng ta hiện có mặt ở đây tự xét lại coi mình là người giác hay kẻ mê? Ai cũng muốn mình là người giác, không bị khổ đau bứt ngặt thì nên tập hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu, chớ không sợ quả xấu. Ở thế gian có nhiều trường hợp mới thoạt nhìn, thấy dường như rất tốt, nhưng nhìn kỹ thì chẳng tốt chút nào. Chẳng hạn người biết hút thuốc gặp người chưa biết hút thì mời ép cho hút, đến khi ghiền thuốc rồi, không tiền mua, xin thì kkhông cho. Hoặc người chưa biết uống rượu được người biết uống rượu mời mọc ép uống, đến khi ghiền rồi thì ít khi được mời uống. Vậy, những người bạn thuốc bạn rượu có thật thương thật tốt với chúng ta không??? Bạn thuốc bạn rượu không phải là người để chúng ta kết giao thân thiện. Lại có trường hợp Phật tử thường đi chùa tụng kinh lạy Phật. Một hôm có người nói: "Chị năm nay bị sao Kế Đô chiếu mạng, coi chừng bị tai nạn". Phật tử này không dám đi đâu, ngay cả đi chùa cũng không đi, ở nhà lo lắng buồn rầu... Phật tử đi chùa với tâm trạng như vậy, có hiểu lý nhân quả không? Sao Kế Đô đó do ai đặt ra. Nhà thiên văn địa lý nào đó đặt ra mỗi tinh tú có một cái tên, trong đó có một tinh tú mang tên Kế Đô và mỗi tinh tú vận hành theo luật thiên nhiên của vũ trụ, đâu có chủ yếu chiếu vào người nào để cho người đó thọ nạn? Theo lý nhân quả của Phật giáo thì do người chủ động tạo tác nhân (nguyên nhân tạo nên sự vật, khi sự vật thành hình gọi là kết quả) và quả cũng do người tạo tác nhận chớ không ai khác. Phật, trời, thánh, thần không định đặt cho con người khổ hay vui, mà do con người làm chủ; Nếu tạo nhân xấu là thọ quả xấu, nếu tạo nhân tốt thì thọ quả tốt. Vậy sợ là sợ cái gì? Giả sử có một Phật tử đúng vào năm sao hạn xấu mà tâm lúc nào cũng nghĩ tốt, nói năng thì vui vẻ nhã nhặn, đối với mọi người thì luôn luôn tử tế hài hòa, thì Phật tử ấy thường được người thương hay ghét? -Thương. Ngược lại, nếu có một Phật tử hay đi chùa được tuổi tốt sao hạn tốt mà tâm thường nghĩ quấy, nói năng thô lỗ cộc cằn, đối xử với mọi người thì hơn thua lấn lướt. Vậy Phật tử đó được thương hay bị ghét? -Ghét. Vậy, do tâm niệm xấu xa, ngôn ngữ cộc cằn thô lỗ, hành động bất hảo làm cho người ta ghét hay sao hạn làm người ghét? Và tâm niệm tốt đẹp, ngôn ngữ nhã nhặn, việc làm lương thiện khiến cho người thương hay sao hạn khiến cho người thương??? Nếu người thương thì được người hoan hỉ giúp đỡ, đó là phước. Nếu có người ghét thì bị hại đó là tội. Rõ ràng tội phước là do ý nghĩ lời nói hành động mà ra, ý nghĩ lời nói hành động tốt là gieo nhân lành, đã gieo nhân lành thì quả sẽ an vui tốt đẹp, ý nghĩ lời nói hành động xấu là gieo nhân ác thì gặt quả xấu khổ đau. Khổ hay sướng là do nhân tốt hay xấu chớ đâu do tuổi xấu sao hạn xấu? Đa số người Việt Nam đều ngại ngùng ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba, đi đường thì không dám đi, làm việc thì không dám khởi công vào những ngày này, vì đó là những ngày xấu. Với những ngày xấu này, nếu quý Phật tử để dành tiền mua sắm phẩm thực vật dụng cần thiết để đem đi giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay già yếu thì ngày đó là ngày tốt hay ngày xấu?-Tốt. Trong những ngày mà đi giúp đỡ xoa dịu cho người bớt cơn nghèo túng đói khổ, không phải ngày tốt là gì? Còn những ngày khác được coi là tốt mà ra đường gặp ai cũng cãi cũng gây rồi đi tới đánh đập kiện cáo. Vậy ngày đó là ngày tốt hay xấu?-Xấu. Tại ngày đó xấu hay tại chửi lộn đánh lộn thành xấu? Tại mình không biết chế ngự thân miệng ý mới có chuyện đánh chửi xảy ra nên xấu. Như vậy, ngày được mọi người cho là tốt mà gieo nhân xấu thì ngày đó cũng trở thành xấu mà biết gieo nhân tốt thì ngày đó cũng trở thành tốt. Lỗi tại ngày giờ hay lỗi tại hành động con người? Nếu lời nói hành động con người gây tai họa hay được an vui, thì rõ ràng con người gieo nhân và cũng chính con người chịu quả, đâu phải ngày giờ sao hạn định tốt xấu cho con người. Đã là Phật tử, có còn sợ và tin ngày giờ, sao hạn tốt xấu nữa không? Nếu còn thì lòng tin nhân quả chưa có. Luật nhân quả "là một lẽ thực cụ thể", vì Phật tử không hiểu chưa tin nên nói mơ màng tưởng tượng ra lý này lẽ nọ để mà tin mà làm. Thế nên có nhiều Phật tử đã quy y mà vẫn tin những cái quàng xiên, mơ hồ không đúng lẽ thật. Ví dụ tromg gia đình hai vợ chồng có những quan điểm bất đồng nên gây cãi nhau, lần đầu không giải quyết ổn thỏa, ít hôm sau lại cãi nữa, và cứ cãi hoài đến năm bảy lần... rồi họ thắc mắc tại sao trong nhà cứ xào xáo hoài, họ cho rằng do cái cửa, cái bếp đặt không đúng hướng, nên đến chùa nhờ thầy giở lịch ra coi, rồi xây lại cái bếp sửa lại cái cửa. Nhưng, xây bếp sửa cửa xong họ lại cãi nữa... Hai người bất đồng ý kiến mà không chịu hóa giải cho đồng, cho có một hướng chung để xây dựng cuộc sống chung cho có hạnh phúc mà lo sửa bếp sửa cửa. Chỉ làm chuyện bên lề không đúng vào đâu. Chẳng hạn có cuộc cãi vã đó là do ông chồng đang có chuyện tình cảm riêng tư, nên người vợ buồn phiền sanh ra rầy rà. Muốn cho gia đình được êm ấm, thì người chồng phải tu chỉnh thói hư tật xấu, để trở thành người chồng tốt, người chồng có đủ tư chất. Còn cái bếp cái cửa vô tri có dính dáng gì với chuyện cãi vã của vợ chồng trong gia đình? Thế mà người ta vì không hiểu nên không thấy cái nhân gây ra cái dở cái xấu, để rồi trốn tránh trách nhiệm và đổ thừa cho ngoại cảnh. Quý vị có tự thấy mình mỗi khi làm điều gì hư dở là nêu lý do này lý do nọ, chứ không dám nhận cái hư dở là tại mình sơ thất và can đảm chịu trách nhiệm. Đó là do tâm hồn yếu đuối, không gan dạ nhìn nhận sự thật. Nếu người Phật tử hiểu được lý nhân quả, biết được mọi sự vật xảy ra giữa mình với người đếu do cái nhân từ trước, mà nhân đó chính mình tạo chớ không phải ngẫu nhiên mà có. Chẳng hạn đi đường gặp người quen vừa thấy mặt mình là họ xoay mặt đi chỗ khác, mình liền bực cho rằng họ khinh mình, bèn nói xa nói gần một hồi sanh ra gây chửi. Chửi rồi, về nhà nói rằng tôi không chọc ghẹo mà nó kênh với tôi nên tôi phải cho nó một bài học. Người nói như vậy là vô lý, vì trong sự tương giao, mình cũng như người chưa từng nói hay làm điều gì mích lòng nhau, vẫn đối xử với nhau tốt đẹp, thì có khi nào gặp nhau là khó chịu xoay mặt làm lơ? Không ai mà bất thường đến thế ! Chắc chắn là mình hoặc vô tình hay cố ý đã làm cho họ xúc não rồi, nên gặp mình là họ tránh né. Đó là do mình đã gây nhân không tốt với họ rồi, chớ đâu phải vô cớ. Quý vị xét kỹ lại xem trong gia đình ngoài xã hội từ vợ chồng con cái cho đến quyến thuộc anh em bằng hữu, nếu có chuyện không ổn xảy ra, đều do nguyên nhân không tốt, hoặc người này hay người kia tạo ra mà người trong cuộc không có gan nhận trách nhiệm tự nơi mình mà đổ thừa lý này lẽ nọ. Vì thế mới có thầy bói khai thác cái nhược điểm đó để ăn tiền. Nếu Phật tử mà tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền coi bói. Ngày xưa tôi có quen một ông thầy bói, ông nói cho tôi nghe cái thuật coi tướng số của ông mà tôi cười quá chừng. Ông nói coi tay đâu cần coi, chỉ nhìn dáng người là đoán đúng tâm lý. Chẳng hạn vợ ông cả ông chủ đến coi mà thấy người héo hon xanh xao, là biết bà đang bệnh gì rồi. Ông liền nói: Bà rất hiền lành, rất phúc hậu, trong nhà bà có người xen vô làm cho gia đình mất hạnh phúc, nên bà buồn rầu sinh bệnh hoạn... Bà khen ông coi rất hay nên trả tiền rất hậu. Còn nếu thanh niên nhờ xem vận mạng đen đỏ trong kỳ thi tới, thì ông nói: Không sao, cháu thế nào cũng đậu, nhớ ráng học, học giỏi thì sẽ thi đậu. Tới chừng thi, nếu đậu thì ông được khen và được thưởng, nếu rớt thì ông nói tại cháu không chịu ham học... Ông nói, bói là đánh vào tâm lý, đánh vào sở thích, nói cho người ta vừa lòng thì dù đúng hay không cũng thù lao tiền trọng hậu. Để thấy người coi bói là họ ve vuốt theo tình cảm, chúng ta thích cái gì thì họ cứ vuốt ngọt cái nấy để chúng ta vừa lòng, đã hài lòng thì dù nói dở cũng thành hay, nói trật cũng thành trúng. Đó là cái thuật mà người chuyên nghiệp họ kể lại cho chúng tôi nghe. Điếu cần thiết của họ là khéo mồm khéo miệng, nhờ khéo lời, nên người coi bói tốn tiền mà không lẩn tiếc, cứ đi coi hoài. Người băn khoăn lo lắng hậu vận của mình là người không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì có gì băn khoăn lo lắng? Muốn mai kia được sung sướng thì ngày nay cứ lo làm lợi ích cho mọi người. Muốn mai kia thi đậu vẻ vang thì ngày nay phải chăm học, học giỏi. Muốn cho mọi người ai thấy mình cũng mừng rỡ thì cứ đối đãi tử tế với mọi người. Mình đã tạo nhân thì quả sẽ đến, chớ không thể bỗng dưng mà có. Như vậy, quý Phật tử có nên đoán vận mệnh nữa không? Giả sử mỗi năm cần đoán hậu vận khoảng năm ba chục lần, thay vì làm việc đó, quý vị nên sắm phẩm thực vật dụng thuốc men cho cô nhi, người già, người bệnh, vì họ đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Châm ngôn Việt Nam có câu: "Tay cầm tiền quý bo bo, đem cho thầy bói mang lo cho mình". Làm ra tiền thì phải lao động tay chân hay trí óc cực nhọc nên quý nó lắm. Nhưng đem tiền đến thầy bói coi vận mạng, nếu họ nói năm này là năm tuổi, nhằm sao la hầu chiếu mạng, hậu vận không tốt... Coi xong về nhà lo rầu, không biết tai nạn gì sẽ đến với mình, rồi bỏ ăn mất ngủ. Đi coi bói chỉ thêm buồn thêm lo thôi, có lợi gì? Người tin nhân quả cứ tạo nhân lành thì quả tốt sẽ đến, còn tạo nhân ác thì dù cho có ai khen tốt khen hay, thì quả xấu vẫn cứ đến. Giả sử đối với một người nào đó mà mình ghét họ, khinh họ, nói xấu họ, chắc chắn là họ không quý mến mình. Ngược lại, đối với họ nếu mình cảm thông, chân tình giúp đỡ, dù không muốn họ quý mến mình, họ vẫn cứ mến. Nhân quả theo nhau không rời, rõ ràng mà nhiều người không tin, cứ tin những chuyện bâng quơ vô căn cứ. Như vậy, người Phật tử hiểu rõ lý nhân quả thì tránh nhân hay sợ quả? Nếu biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt thì quả xấu làm gì có? Người mà biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt là người tỉnh hay người mê? Đó là người tỉnh, người giác, là Bồ Tát con. Bồ Tát thì sáng suốt, biết tránh nhân xấu thì quả khổ không đến nên được an lạc, chúng sanh vì si mê, cứ tạo nhân xấu thì quả xấu cứ đến nên đau khổ. Người tránh nhân xấu thì không băn khoăn về chuyện thương chuyện ghét, không băn khoăn về hậu vận rủi may, cứ trải lòng thương đến mọi người và làm lợi ích cho mọi người, lòng không lẩn tiếc hay toan tính. Chúng ta thường có những bất công mà không tự thấy, không đem nguồn vui đến cho mọi người mà cứ mong mình luôn được vui sướng, điều này khó có thể xảy ra. Ví dụ muốn ráp một chiếc xe đạp toàn hảo vừa chắc chắn vừa đẹp, phải lựa mua những bộ phận cho thật tốt. Cần có đủ năm chục bộ phận mới ráp được chiếc xe vừa bền vừa đẹp, mà chúng ta chỉ có hai chục bộ phận hoặc mười bộ phận là đồ tốt, những bộ phận còn lại là đồ xấu, khi ráp xong chiếc xe, chiếc xe có được vừa ý không? -Không. Để thấy, muốn được chiếc xe hoàn hảo thì phải chọn các bộ phận của chiếc xe cùng hoàn hảo. Cũng vậy, con người ai cũng muốn đời mình hoàn toàn vui, không muốn chút khổ xen lấn, vậy mà khi tạo thì không chọn thuần nhân lành mà cứ để xen lấn những điều xấu, thì làm sao được quả vui hoàn toàn? Chẳng hạn như các ông muốn thân thể được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, mà lại hút thuốc uống rượu gây cái nhân đau bịnh, thì làm sao được khỏe mạnh sáng suốt. Muốn cho thân khỏe tâm sáng thì phải sống có điều độ có thì giờ nghỉ ngơi tịnh dưỡng thân tâm. Còn các bà các cô ai cũng muốn tươi trẻ, vậy mà cứ buồn giận nhăn nhó quạu quọ hoài, thì làm sao tươi trẻ được. Muốn tươi trẻ thì phải sống lành mạnh vui vẻ, nhờ vui nên mới tươi, mà vui thì không giận. Vậy, nếu có ai lỡ làm phiền thì hoan hỷ bỏ qua, đó là tạo nhân tươi trẻ. Bằng ngược lại, cứ buồn giận, hết phiền người này ghét người kia, mà giận ghét thì lòng đâu có an ổn nhẹ nhàng, ăn không ngon ngủ không được, đó là cái nhân bệnh hoạn làm cho thân mình tiều tụy hốc hác. Nếu biết nhân xấu đưa tới quả xấu thì tránh, đừng muốn một đàng mà làm một nẻo thì không được như ý. Vậy, biết tu một ngày là làm cho mình được an vui một ngày, tu một măm là làm cho mình được an vui một năm và đồng thời cũng gây niềm vui cho mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhân quả giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật, sống an lành, trở thành người gan dạ mạnh mẽ không nhát nhúa yếu đuối. Ví dụ có một Phật tử vì không điều phục được cơn phiền giận nên lỡ đánh chửi người. Khi đánh chửi xong biết mình tạo nhân ác, chắc chắn là quả báo xấu sẽ đến. Nên khi bị người uy hiếp đánh đập lại thì gan dạ chịu chớ không kêu than hay trách cứ ai cả. Ngược lại, có người khi đánh chửi thì hăng hái, đến khi bị uy hiếp thì kêu trời kêu đất than trách đủ điều. Đó là người yếu đuối không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo. Vậy muốn được an vui thì phải gan dạ bỏ những cái nhân xấu mà tạo nhân lành. Thường tạo nhân lành thì cái xấu ác sẽ yếu dần và hết hẳn. Hiểu được lý nhân quả thì đối với những sự việc bất tường xảy ra, chúng ta sẽ không trách người mà tự trách mình, do mình trước kia mê muội không tránh nhân xấu ác nên giờ này thọ quả xấu. Sẵn sàng đón nhận một cách gan dạ bình tĩnh. Chúng ta thường thấy trong một gia đình hai ba chị em sống chung, có một người lỡ làm bể một cái tô hay cái dĩa, sợ bị rầy nên phi tang. Đến khi má hay ba hỏi không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát nhúa không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái dở của mình. Lý nhân quả giúp con người có tinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm nhân xấu để tránh. và lỡ tạo nhân xấu rồi, thì sẵn sàng chấp nhận quả xấu một cách gan dạ không sợ sệt, không lẩn trốn. Vì không hiểu lý nhân quả nên mới nhát nhúa, sợ sệt, không có chánh tín, rồi làm xằng bậy sẽ đi vào con đường tà một cách dễ dàng. Hiện tại có một số Phât tử có cái lệ đầu năm đi chùa hái lộc, hay đi cúng thập tự để cầu cho trọn năm được bình an. Nhưng nếu nửa năm có xảy ra hoạn nạn thì thắc mắc tại sao mình đi cúng thập tự và đã cầu an mà vẫn còn hoạn nạn. Rồi cho rằng chùa cầu nguyện không linh, định năm sau sẽ không đi cúng chùa nữa. Quan niệm như vậy là không chánh đáng. Vì đi cúng chùa cầu xin Phật ban phước lành, đó chỉ là một ảo tưởng. Phật có bao giờ ban phước giáng họa cho ai đâu? Phật chỉ dạy cho ta việc nào để làm cho được an vui, việc nào nên tránh để khỏi bị khổ. Chúng ta nghe lời dạy của Ngài thực hành theo mới hết khổ. Phật không phải là một thần linh để ta tôn thờ lễ lạy và cầu xin phước lộc. Năm rồi có một Phật tử hỏi tôi: -Thưa thầy. có người nói bà Chúa Xứ ở Châu Đốc linh lắm, Đến miếu bà vay tiền về làm ăn sẽ phát đạt. Theo thầy thì quan niệm đó đúng hay sai? Tôi đáp: -Nếu vay tiền ở miếu bà về làm ăn phát tài, thì mọi người ở Châu Đốc đều giàu hết, vì ở đó gần, họ sẽ vay để làm giàu. Nhưng có nhiều gia đình ở chung quanh miếu bà, nhà còn lụp xụp có vẻ nghèo khó, họ dại gì không vô miếu vay mà làm giàu, để quý vị từ phương xa đến vay? Đó là một chuyện vô lý, vậy mà người ta vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng. Người Phật tử không thấy được lẽ thật, tin hết chỗ này linh đến chỗ khác linh, đua nhau đi tìm sự linh hiển ở bên ngoài. Không thấy được linh hay không linh là cái nhân tốt hay xấu mà mình đã tạo, tạo nhân tốt thì gặp quả tốt, tạo nhân xấu thì gặp quả xấu. điều đó quá rõ ràng, vì chúng ta chưa định tĩnh nên không thấy đó vậy. Lại có người hỏi: -Thưa thầy, nhiều người đi biển gặp sóng to gió lớn, họ niệm Bồ Tát Quan Thế Âm, thấy Bồ Tát đến cứu họ được thoát nạn, họ cho rằng Bồ Tát linh thiêng. Theo thầy thì sự kiện đó như thế nào? Tôi đáp: Đã là Phật tử đi sông đi biển gặp sóng gió thì không ai tiếc hơi mà không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng tại sao có người được cứu, vẫn có người bị chết chìm? Có phải Bồ Tát Quán Thế Âm thương người này mà không thương người kia không? Vì không hiểu lý nhân quả nên cho rằng người không bị nạn là nhờ niệm Bồ Tát. Bồ Tát linh giải cứu cho thoát nạn. Còn người bị nạn niệm Bồ Tát, mà Bồ Tát không linh nên không cứu. Tại sao đồng niệm Bồ Tát mà người niệm linh, người niệm không linh, làm sao cho rõ lẽ này? Người niệm danh hiệu Bồ Tát mà được thoát là vì chính người đó có nhiều nhân lành nhiều phước đức. Nên khi tâm khởi tưởng Phật, tưởng Bồ Tát thì thấy Phật và Bồ Tát hiện. Vì chủng nghiệp lành đã huân chứa sẵn đủ duyên liền khởi hiện hành (thấy Phật thấy Bồ Tát), Và vì do tích chứa nhiều nghiệp lành thì làm sao thọ quả khổ được? Còn người niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn bị nạn, chính vì người đó thiếu phước không có tích lũy nghiệp lành (chủng tử Phật, Bồ Tát không có sẵn). Tuy có khởi niệm mà Phật và Bồ Tát vẫn không hiện. Và vì nhân ác đã có sẵn nên chiêu quả không lành. Để thấy, sự kiện trên cũng do nhân lành hay dữ mà chúng ta tạo, không phải do từ Phật hay Bồ Tát linh thiêng đến giúp. Thế nên người Phật tử tu hành đầu tiên là phải hiểu lý nhân quả, biết nhân nào nên làm nhân nào nên tránh, đó là chúng ta tiến vào con đường giác, mà người sống có tỉnh có giác thì hết khổ được vui, rõ ràng không nghi ngờ. Hằng ngày trong công việc làm ăn tuy có bận rộn giao tế nhiều với mọi người, nhưng nếu chúng ta biết tránh nhân dữ, chọn nhân lành, thì từ ý nghĩ, lời nói, việc làm lúc nào cũng lương thiện, vừa lợi mình vừa lợi người, đó là chúng ta đã tu. Chúng ta phải thường xuyên tu, tu từng phút, từng giờ, tu cả ngày... chớ đâu phải đợi tới giờ tụng kinh lạy Phật mới tu, ngoài giờ đó nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như vậy là không hiền. Lạy Phật thì lạy, tụng kinh thì tụng, chửi lộn vẫn cứ chửi, đánh lộn cũng dám đánh. Thế nên tu mà không hết khổ lỗi tại chỗ đó. Vì tu mà chỉ biết tu với Phật không chịu tu với chúng sanh, cũng không chịu tu với chính mình nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà cứ nghiêm trang lễ bái Phật, còn ra ngoài đời với mọi người thì không nhịn một lời, không nhường một bước, ăn thua đủ. Đối với Phật dù quý vị có khen hay chê, Ngài cũng không vui không buồn, cũng không nói một lời, Ngài cũng không cần chúng ta tu với Ngài. Còn chúng sanh thì dễ buồn giận, nên chúng ta mới tu với họ thì mình bớt khổ mà họ cũng bớt khổ. Biết tu với nhau là đem lại hạnh phúc cho nhau, đem sự bình an lại cho nhau. Phật dạy chúng ta tu là tu với mọi loài, chớ đâu có bảo tu với Ngài. Vậy mà đa số người chỉ biết tu với Phật, ngày ngày lễ bái Phật, dâng hương dâng hoa cúng Phật... Thậm chí có nhiều người nói hôm nay là ngày tôi ăn chay nên tôi tu, đợi ăn chay mới tu. Vậy những ngày ăn mặn không tu sao? Một tháng ăn chay có bốn ngày hoặc sáu ngày nên chỉ tu có bốn ngày hoặc sáu ngày, còn lại hai mươi bốn ngày hoặc hai mươi sáu ngày cứ tự do làm ác với mọi người sao? Nếu đợi đến trước tượng Phật mới tu, đợi tụng kinh mới tu, đợi ăn chay mới tu, tu như thế thì quá hạn chế. Tu là phải thường xuyên nhìn thấy từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ của mình, nếu tốt thì cho ra, xấu thì dừng lại, đó mới thật là tu. Tu như vậy mới đúng với tinh thần "Bồ Tát Sợ Nhân" và dù không muốn làm Bồ Tát thì quý vị cũng là Bồ Tát. Vì đã thực hành cái hạnh Bồ Tát ắt hẳn phải là Bồ Tát. Bồ Tát là giác, biết được nhân xấu không làm, nhân tốt thì làm đó là tỉnh giác, mà người hằng tỉnh hằng giác không phải là Bồ Tát là gì? Các Phật tử ở đây đều thuộc câu "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Vậy ai cũng biết cũng biết việc nào nên làm việc nào nên tránh rồi. Tôi mong rằng quý vị cố gắng tu hành để tương lai sẽ thành Bồ Tát, tập sống với quan niệm Bồ Tát, hành động theo Bồ Tát thì mai kia chúng ta sẽ là Bồ Tát. Còn nếu cứ sống theo quan niệm và hành động của phàm phu thì suốt kiếp chúng ta vẫn là phàm phu. Vậy, phàm phu và Bồ Tát không xa, chỉ có mê hay giác mà thôi. Nếu giác là Bồ Tát và được an vui, nếu mê là phàm phu và bị đau khổ (còn nữa)
  18. (Tiếp theo) Biệt nghiệp và Đồng nghiệp Nghiệp là thói quen huân tập tạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc sống của con người từ khi mở mắt chào đời cho đến khi nhắm mắt và những đời kế tiếp. Nếu người Phật tử tu mà không hiểu rõ về nghiệp thì khó mà ứng dụng tu hành để tới chỗ an lạc. Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấu điều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, nghiệp cũng có nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp riêng thì gọi là biệt nghiệp và nghiệp chung thì gọi là đồng nghiệp. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có lấy một ví dụ để nói về nghiệp vọng kiến. Khi đó Đức Phật nói: Trước một cây đèn đang cháy, người nhặm mắt thấy chung quanh ngọn đèn có một cái vòng đỏ hoặc xanh. Còn những người mắt lành thì chỉ thấy ngọn đèn đang cháy mà không thấy vòng đỏ hay vòng xanh. Cái vòng quanh đèn chỉ có đối với người bị nhặm mắt, đó là do nghiệp riêng của người bệnh mắt mà có thấy, còn người không bị nhặm mắt thì không thấy. Cũng vậy, trong cuộc sống giữa đời này tuy sống có mối liên hệ với nhau, nhưng mỗi người đều có mỗi cái nghiệp riêng của họ. Ví dụ: Người có nghiệp chủng đồng bóng như thầy bùa, thầy pháp thì họ cho rằng có ma quỉ. Còn người có tinh thần khoa học thực tế thì họ không tin có ma quỉ, họ chỉ tin những sự việc mà họ thấy và chứng minh cụ thể. Vậy những sự việc mà một hay vài người thấy đó là nghiệp riêng của họ, vì họ chuyên làm cùng nghề cùng nghiệp thì họ hưởng ứng với nó. Cũng sự kiện đó mà người khác không thấy là vì họ không có nghiệp đó. Kinh Phật ví dụ: Có hai vợ chồng kia, chồng thì mù, vợ thì điếc, hai vợ chồng dắt nhau ra chợ, chồng đàn vợ hát để kiếm tiền sinh sống. Hôm đó có một đám tang lớn đi qua, người chồng nghe tiếng trống kèn bèn nói với vợ: - Đám ma lớn quá, thổi kèn đánh trống inh ỏi. Người vợ cãi lại: - Ông nói bậy, đâu có kèn trống, tôi chỉ thấy cờ phướn, chớ không nghe tiếng kèn trống. Người chồng không chịu cãi lại: - Bà nói bậy, tôi chỉ nghe thấy kèn trống, chớ đâu có thấy cờ phướn. Có như thế mà hai ông bà cãi lộn nhau, chồng thì nói có kèn trống không có cờ phướn, vợ thì nói có cờ phướn mà không có kèn trống. Chồng tự cho là mình đúng, vợ cũng cho là mình không sai, hai vợ chồng cãi nhau hoài không ai chịu thua, giận tức nổi lên liền đánh lộn nhau. Người đi đường thấy mới can gián và hỏi duyên cớ. Người chồng phân bua: - Tôi nghe đám ma thổi kèn đánh trống, tôi nói có kèn trống bả không chịu, bả nói tôi nói bậy, bả nói chỉ có cờ phướn, không có kèn trống, nên mới cãi nhau rồi nổi giận đánh lộn. Người đi đường mới nói: - Thưa ông bà, hai ông bà đều đúng cả, mà hai ông bà cũng đều sai. Vì đám ma này có kèn có trống như ông nghe mà cũng có cờ phướn như bà thấy. Nếu người chồng nghe tiếng kèn trống mà nhớ mình mù không thể thấy cờ phướn, và người vợ thấy cờ phướn mà nhớ mình điếc không thể nghe tiếng kèn trống thì đâu có cãi vả và đánh lộn nhau. Tại người nào cũng chủ quan, cho cái thấy nghe của mình là chân lý nên mới xảy ra cuộc cãi vả và đánh lộn nhau. Đó là nghiệp khác nhau, không thể chấp nhận nhau. Cũng vậy, chúng ta sanh ra đời mỗi người mang theo nghiệp riêng của mình mà cùng sống chung với nhiều người khác, mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình mà không thừa nhận nghiệp riêng của người khác, nên mới có sự cãi vả tranh chấp. Trong một gia đình, ông chồng thì huân tập cái nghiệp của người nam, bà vợ thì huân tập cái nghiệp của người nữ. Hai cái nghiệp nam nữ tuy có vài điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Nên có nhiều gia đình vợ chồng gây cãi, đánh đập nhau hoài là vì chấp lý của mình là đúng, vợ cũng chấp lý của mình là đúng không biết dung hòa nhau để sống. Cái đúng của người chồng là do thói quen huân tập cái nghiệp của người nam. Cái đúng của người vợ là theo thói quen huân tập cái nghiệp của người nữ, thế nên phải thông cảm nhau để đối xử cho tốt đẹp, đem lại sự an vui hòa thuận trong gia đình. Khi chúng ta biết mỗi người có nghiệp riêng thì không chủ quan, không chấp mà thông cảm hòa nhịn được cuộc sống với mọi người. Xưa có một gia đình, người vợ thì tương đối tốt, biết bổn phận, biết lo làm ăn, người chồng thì bê tha rượu chè cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc thua, về nhà là khảo tiền, nếu bà không có để ứng thì ông chửi đánh thậm tệ. Người thân thuộc, láng giềng ai thấy cũng đau lòng thắc mắc tại sao bà không ly dị cho rồi, cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? nhưng khi hỏi bà, thì bà không thể ly dị vì bà còn thương ông. Có nhiều gia đình có những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, phá gia sản gần khánh tận. Vậy mà gia đình vẫn thương, không thể từ bỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con. Để thấy cái nghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoại cuộc không có nghiệp đó thì không chấp nhận, không chịu nổi. Còn người đã có nghiệp, có nợ nần nhau, dù bị đánh đập, phá phách, đối xử tàn tệ mà người ta vẫn chấp nhận chung sống, không thể rời nhau được. Như vậy, nếu biết được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn rắc rối mà người trong cuộc không giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ. Nghiệp chung tức là đồng nghiệp vọng kiến. Cũng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật có dạy: Người có nghiệp chung mới sinh ra ở chung một nước, nói cùng một ngôn ngữ, sống cùng một tập quán... Nếu có cùng nghiệp xấu thì cùng thấy điềm bất tường như sao chổi, sao phướn... Chỉ có dân nước đó trông thấy mà dân nước khác không thấy. Cũng giống như những người nhặm mắt cùng thấy chung quanh ngọn đèn đang cháy có một cái vòng xanh hay đỏ, còn những người không nhặm mắt thì không thấy. Vậy, người cùng nghiệp thì cùng cảm nhận hiện tượng giống như nhau. Có nhiều người thắc mắc tại sao anh chị em cùng cha mẹ sanh ra trong một gia đình, rầy la cãi hoài. Hoặc vợ chồng chấp nhận sống chung trong một gia đình, mà kẻ ý này người ý kia, bất hòa hờn giận nhau hoài là tại sao? Nếu không có duyên nghiệp với nhau tại sao gặp nhau, sống chung với nhau để khổ? Chúng ta nên biết khi gặp nhau là đã có nghiệp đồng phần rồi, tức là đã có cộng nghiệp nên cùng ở chung với nhau. Tuy ở chung với nhau, mà mỗi người cũng có cái nghiệp riêng nên không ai giống ai. Nếu có giống chăng chỉ giống năm sáu mươi phần trăm là tối đa, không bao giờ có hai người giống nhau từ hình dáng đến tính tình. Phần giống nhau thì gọi là đồng nghiệp, vì đồng nghiệp nên mới cùng nhau sanh trong một gia đình, trong một đất nước. Và vì mỗi người có cái nghiệp riêng nên có người thì giàu sang sung sướng, an vui hạnh phúc, lại có người bần cùng khốn khổ. Hoặc anh em cùng cha mẹ sinh ra, học chung một trường mà có người học giỏi có người học dở. Đó là trong cái đồng nghiệp vẫn có cái biệt nghiệp, mà dù là đồng nghiệp hay biệt nghiệp Đức Phật đều gọi là vọng kiến. Vọng kiến là cái thấy hư dối không thật. Tại sao nói nghiệp là vọng kiến? Ví dụ có người nói lời xúc não làm cho mình nổi giận, khi nổi giận thì nói lời hung ác mắng chửi, tay thì đánh đập người ta. Khi đánh đập chửi mắng người, thì bị luật pháp trừng trị, cái khổ của tội phạm pháp này ít nhất cũng một tháng. Và nếu mình có sức mạnh, có võ nghệ, đánh người chết tại chỗ, thì tù tội khổ sở ít nhất cũng 10, 15 năm. Vậy, miệng nói bậy, thân làm bậy, đó là nghiệp ác, và nghiệp ác đó từ ý nổi sân mà ra. Ý sân chỉ nổi lên khoảng 5, 10 phút mà hậu quả không lường được. Nghiệp ác của miệng và thân có ra, là do ý ác chủ động, ý ác tức là niệm sân, chúng ta nhìn xem tướng trạng của nó ra sao? Khi (chúng ta) nhìn nó thì nó mất tiêu, không thấy hình dáng tướng mạo nó ở đâu cả, mà không hình dáng không tướng mạo thì không thật. Như vậy, chính cái chủ động tạo nghiệp (ý sân) là không thật. Cái không thật mà chỉ vì chúng ta mê chạy theo nó để tạo nghiệp thọ khổ thì thành có thật. Nên Ngài Khuê Phong nĩi: "Thế không mà thành sự". Bản chất của cơn giận vốn là không, bất giác theo nó tạo nghiệp nên trở thành thật. Đó là nghiệp ác. Còn nghiệp lành cũng vậy, giả sử chúng ta đi đường gặp người bệnh tật đang nằm rên rỉ bên đường, chúng ta khởi lòng thương đem họ vô lề đường kêu xe chở tới bệnh viện để chữa trị. Vậy, lòng thương hình dáng tướng mạo như thế nào? Có thật không? Không. Nhưng khi theo nó thì tạo nghiệp lành, thân miệng ý nói làm lợi ích cho người. Cái gốc tạo nghiệp ác hay nghiệp lành bản chất nó không có thật, nhưng khi theo nó thì sẽ thành nghiệp hoặc lành hay dữ. Phật dạy nghiệp là cái không thật, tuy không thật, nếu đã làm thì sẽ cho quả, chớ không tránh khỏi. Trốn tránh người thế gian thì được, mà nghiệp thì không thể trốn được. Vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy tai nghe thân cảm thọ, chủng tử nghiệp đã chứa vào tạng thức rồi, hội đủ duyên thì quả kết tụ. Về ý nghĩa đồng nghiệp, trong kinh có ghi: Một hôm Phật ở trong hương thất trong núi Linh Thứu, gần đó có nhiều đoàn Tỳ Kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất. Đoàn Tỳ Kheo thứ hai dẫn đầu là Tôn Giả Mục Kiền Liên. Đoàn thứ ba các Tỳ Kheo đi sau Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp. Đoàn thứ tư gồm những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả A Na Luật. Đoàn thứ năm là một số Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Phú Lâu Na. Đoàn thứ sáu là những Tỳ Kheo đi theo sự hướng dẫn củaa Tôn Giả Ưu Ba Ly. Đoàn thứ bảy là những Tỳ Kheo đi theo sau Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Phật mới nói với các vị Tỳ Kheo đang ở bên cạnh: Những Tỳ Kheo cùng đi theo Xá Lợi Phất là những Tỳ Kheo có trí tuệ lớn. Những Tỳ Kheo cùng đi với Mục Kiền Liên là những Tỳ Kheo có đại thần thông. Những Tỳ Kheo đi theo Ma Ha Ca Diếp là những Tỳ Kheo ưa tu hạnh đầu đà... Còn những Tỳ Kheo mà đi theo Đề Bà Đạt Đa là những Tỳ Kheo có tâm ác dục". Và Phật kết luận rằng: Ai cùng đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với người đó. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất là có cái nghiệp chung với Ngài về trí huệ. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Mục Kiền Liên là có nghiệp chung với ngài về thần thông. Cho tới các Tỳ Kheo đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục. Cái nghiệp chung đó có từ quá khứ, hiện tại, vị lai cứ theo nhau không rời. Đó là cộng nghiệp của những Tỳ Kheo thời xưa, được Phật dạy trong kinh. Còn cộng nghiệp trong thời hiện tại, chúng ta thậy rất thực tế và cụ thể. Người thích rượu chè say sưa thì cùng ăn chơi thân cận với người uống rượu Người ưa cờ bạc thì giao du với người cờ bạc. Người chuyên cần học hành nghiên cứu thì tới lui thân cận với người nghiên cứu học hành. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, người này thích người kia là họ có chung nghiệp (đồng nghiệp) nên mới hợp nhau. Để thấy trong cuộc sống này, mọi người cùng có nghiệp chung, nên mới trở thành chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè. Và vì ai cũng có nghiệp riêng nơi dáng mạo, tánh tình năng khiếu, trí tuệ sai khác, không ai giống ai. Vậy, nghiệp nó chi phối cả đời sống chúng ta, nếu huân tập sâu nghiệp nào thì nghiệp đó có sức mạnh, có hấp lực thu hút chúng ta đến môi trường của nghiệp đó. Vì vậy, người Phật tử biết tu hành thì thân khẩu ý luôn luôn phải thiện lành, mới chiêu cảm được biệt nghiệp tốt và đồng nghiệp thiện. Nếu tu còn trong vòng tương đối, thì phải biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành để tạo thân tốt, tức là được biệt nghiệp tốt và sanh trong cõi thiện, có đồng nghiệp thiện. Tiến thêm một bước nữa, nếu biệt nghiệp là không thật, do ý sanh ra, mà ý cũng không thật có, nó là niệm phân biệt chợt hiện chợt mất, nên không theo là dừng nghiệp ý. Nghe nói trái tai vừa nổi bực tức muốn đánh chửi người, liền nhìn lại xem coi cái bực tức hình tướng thế nào, phát xuất từ đâu? Tìm lại không thấy hình tướng của bực tức, mà nguồn gốc khởi bực tức cũng không còn nữa. Thấy của người lòng tham vừa móng khởi muốn lén lấy, liền nhìn lại coi tướng trạng của tham lam như thế nào, phát xuất từ đâu? Khi nhìn kỹ lại thì không thấy hình dáng của tham lam, và nơi chốn phát xuất ra tham lam cũng không có nữa. Như vậy, nghiệp phát xuất từ ý, rồi miệng, ra thân, mà ý là gốc phát ra nghiệp đã không thật, thì nghiệp miệng nghiệp thân làm gì có thật? Sở dĩ thấy nghiệp có thật là do mê. Những nơi khác dạy khi đổi duyên xúc cảnh, nếu có khởi tham lam sân giận, thì cứ lo niệm Phật nhớ Phật, thì tham lam sân giận sẽ lắng xuống. Đó cũng là một cái thuật đối trị bệnh tham bệnh sân. Ở đây thì chúng tôi chủ trương dùng trí nhìn lại những cái xấu như tham, sân, kiêu mạn... hình dáng tướng trạng ra sao, phát xuất từ đâu? Khi nhìn lại nếu nó tan biến là nó không thật thì nó không có sức mạnh khiến mình nói làm theo nghiệp ác. Và cứ mỗi lần đổi duyên xúc cảnh, nếu có tham sân... dấy khởi lên nhìn lại xem tường tận thấu đáo, thấy nó không thật thì nó không chi phối mình nói làm sai quấy. Khi tâm chúng ta thanh tịnh là đã cắt đứt được dòng tạo nghiệp là vọng tưởng là ý nghiệp không còn luân hồi sanh tử, được giải thoát. ________________________________________ Chánh Báo và Y Báo Chúng ta là những người học Phật, tu theo Phật, chủ yếu là phải hiểu Phật dạy như thế nào để đi đúng đường, đúng hướng, không lầm lạc. Để được lợi ích, đường hướng ấy được dạy ở bài Chánh Báo và Y Báo. Chánh báo là quả báo gốc hay là quả báo chủ yếu của nghiệp nhân đã tạo, còn y báo là quả báo nương nơi chánh báo mà có như nhà cửa cảnh vật xung quanh... chánh báo và y báo là chỉ cho con người và cảnh vật thuộc về con người. Vậy chánh báo và y báo cái nào là gốc cái nào là ngọn? Nếu chúng ta không hiểu sẽ bị lầm lẫn và không biết cái nào là gốc để tu, cứ mãi chạy theo cái ngọn, rồi cả đời tu không được lợi ích. Vậy quý Phật tử học xong, tự kiểm lại xem từ lâu mình tu là tu theo ngọn hay tu theo gốc. Tại sao nói chánh báo tốt là y báo tốt? - Vì có con người tốt mới có cảnh vật tốt. Chữ tốt ở đây là chỉ cho con người có tài, có trí, có đức hạnh. Người tài trí đức hạnh ở đâu thì hoàn cảnh sẽ chuyển theo họ trở thành tốt đẹp. Có khi nào một người bất tài vô trí thiếu đạo đức tạo được một sự nghiệp vẻ vang không? Nếu có là nhờ phước dư ở quá khứ, chỉ trong giai đoạn ngắn rồi cũng hoại, không bền. Người tài trí đức hạnh dù hoàn cảnh không tốt, nhưng họ có thể chuyển lần lần thành tốt. Ví dụ như nhà kiến trúc, những kỹ sư có tài đức, vì một lý do nào đó họ đến ở nơi núi rừng xa vắng. Vói cảnh núi rừng này, họ hợp tác kiến thiết xây dựng cuộc sống mới. Một thời gian sau cảnh hoang vắng rừng núi đó trở thành vùng trù phú xinh tươi. Còn nếu người bất tài vô trí, thiếu đạo đức, dù ở trong hoàn cảnh tốt rồi cũng trở thành hư xấu, vì họ thiếu khả năng xây dựng kiến tạo, mà cảnh vật thì mau hư hoại, không được sửa chữa. Một sự kiện trước mắt chúng ta là khu Thường Chiếu, trước măm 1974 là một vùng đất hoang vắng, chỉ có tre gai, tranh, mắc cở... không nhà cửa cây trái. Sau này nhờ những người biết tu có chánh báo tốt biến nơi này thành một cảnh già lam nghiêm tịnh thanh lịch. Và Viên Chiếu cũng vậy. Mọi người đều ghi nhận cảnh Thường Chiếu Viên Chiếu thanh tịnh đẹp đẽ. Vậy cảnh tịnh cảnh đẹp đó là do tự cảnh đẹp hay là do người mà có??? Mọi cảnh đều tùy thuộc vào con người, nên con người là chủ, là chánh báo, còn cảnh vật là bạn tùy thuộc vào con người, nên gọi là y báo. Đó là chánh báo y báo của người xuất gia. Bây giờ đến chánh báo y báo của người tại gia. Mỗi Phật tử ai cũng có gia đình nhà cửa, nếu là một Phật tử biết tu đúng theo lời Phật dạy và là người tài đức thì cảnh gia đình nhà cửa của Phật tử ấy sẽ êm ấm trang nhã sạch sẽ. Ngược lại, nếu là người không biết tu, bất tài vô trí thì cảnh gia đình họ không hạnh phúc, nhà cửa họ lụp xụp tồi tàn, túng thiếu. Vì vậy nên nói: "Nhìn qua cảnh biết được người" tức là nhìn y báo biết được chánh báo. Chánh báo tốt thì y báo cũng tốt, chánh báo xấu thì y báo cũng xấu theo. Người đời thường nói: "Thời thế tạo anh hùng" tức là hoàn cảnh đưa đẩy con người trở thành anh hùng. Cũng có người nói ngược lại "Anh hùng tạo thời thế" tức là người hùng, người tài đức tạo nên sự nghiệp vẻ vang trong đời. Hai câu này câu nào đúng? Người đời hay bàn tán: Có những người trước kia họ là những kẻ tầm thường không có tài đức, nhờ gặp cơ hội tốt họ nghiễm nhiên trở thành con người xuất chúng. Như vậy là "Thời thế tạo anh hùng". Lại có một số người khác bàn rằng: "Vua Quang Trung tuy là người áo vải ở chốn quê mùa, nhưng lại là người tài trí phi thường, nên từ một con người áo vải quê mùa trở thành một vị tướng giỏi, một ông vua tài trí. Như vậy không phải "Anh hùng tạo thời thế" là gì? Kết luận, tất cả mọi người thành công trên đời đều là "Anh hùng tạo thời thế". Tại sao vậy? Vì nếu thời thế đổi thay mà chúng ta là kẻ thiếu phước bất tài vô trí, chúng ta không cải cách gì được hoàn cảnh, chỉ ỳ ra đó, thì vẫn là kẻ tầm thường như bao nhiêu kẻ khác. Ngược lại, dù cho thời thế có biến chuyển đổi thay trăm ngàn lần đi nữa, đối với người có tài trí đức hạnh dù trước cảnh thuận hay nghịch họ vẫn là người dũng mãnh đứng lên cải cách xã hội, làm nên việc lớn. Vì họ là người có sẵn tài trí phước đức. Người đời vì không hiểu rõ chánh báo và y báo nên cho rằng nhờ thời thế tốt nên đưa đẩy con người trở thành người tài giỏi nên nói "Thời thế tạo anh hùng". Họ đâu biết bản chất của người đó có cái hay cái giỏi đang tiềm ẩn sẵn, khi gặp thời thế liền có cơ hội phát triển bèn trở thành người tài giỏi. Để thấy rõ con người là gốc, hoàn cảnh tùy thuộc vào con người. Người đời kẻ nhìn khía cạnh này, người nhìn khía cạnh nọ, nên nói thế không đúng lẽ thật. Thế nên ở đây chúng tôi khẳng định "Người tốt thì cảnh tốt". Đó là trường hợp thứ nhất. Đến trường hợp thứ hai "Chánh báo xấu thì y báo xấu". Nếu là người bất tài vô đức dù họ có dời nhà hay thay đổi hoàn cảnh hàng trăm ngàn lần đi nữa thì họ vẫn là kẻ tầm thường khốn khổ, hết thất bại này đến thất bại khác, ở đâu rồi cảnh vật cũng điêu tàn, lụn bại, vì họ không có khả năng xây dựng kiến tạo, làm sao có dược cảnh tốt đẹp được. Như vậy, cảnh không thể làm con người hay tốt, mà chính con người mới làm nên cảnh tốt cảnh đẹp. Để thấy rằng người có chánh báo xấu mà muốn y báo tốt, việc đó không thể được nên nói "Người xấu thì cảnh xấu" hoặc chánh báo xấu thì y báo cũng tồi tệ. Ở Việt Nam có một số người có cái tật là cất nhà lựa chỗ hàm rồng để sau này làm ăn phát đạt. Chôn ông bà cha mẹ cũng lựa chỗ hàm rồng để sau con cháu phát quan. Chúng ta lựa chỗ tốt để chuyển con người thành tốt. Vậy chuyển được không? Nếu chuyển được thì gia đình con cháu các ông địa lý giàu sang phát quan hết rồi. Vì đương nhiên các ông phải lựa chỗ tốt cho các ông trước rồi mới lựa cho mình sau. Nhưng tại sao chính bản thân của các ông và con cháu của các ông không làm quan hay làm vua, mà các ông vẫn cứ là thầy địa lý??? Lựa chỗ tốt chôn cha mẹ để con cháu làm ăn phát tài, làm quan, việc làm đó là vì cha mẹ hay vì mình? Nếu vì cha mẹ, thì khi cha mẹ chết nên chọn chỗ nào gần nhà cao ráo để tới lui thăm viếng hương khói cho thuận tiện là được rồi. Nếu chọn chỗ chôn cha mẹ để được phát quan, trong khi mình là kẻ bất tài thiếu phước làm sao phát quan được? Đó là một sự lầm lẫn hết sức lớn lao. Do chúng ta không thấy được cái gốc, cứ chạy theo cái ngọn để rồi hao tài tốn của, không đem lại lợi ích thiết thực. Tất cả chúng ta, nếu là người thật có đức, thật có tài thì dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng biến cảnh đó dần dần trở thành tốt. Khi nhận cuộc đất Thường Chiếu này, đứng ngoài cổng nhìn vào, chúng tôi thấy phía trước đường đi thoai thoải thấp, phiá trong là cái gò đất cao. Chúng tôi nghĩ: Nếu cất chùa trên gò đất cao, nhìn ra đường thì đẹp lắm. Bấy giờ chưa có tiền cất chùa, chúng tôi trồng hai hàng dương trước, đến khi đủ duyên cất chùa thì dương đã có sẵn, tạo thành cảnh chùa nghiêm tịnh, thanh lịch, đa số người đến chùa đều ưa thích. Để thấy, đó là phước duyên của con người, nên sắp đặt công việc được thành công, nếu không có phước duyên thì tính trật thất bại. Nên nói "Người là chủ, cảnh là bạn tùy thuộc theo người". Hay nói cách khác "Chánh báo tốt thì y báo tốt". Hiểu như vậy, Phật tử chúng ta phải làm sao xây dựng chánh báo cho tốt đẹp, vì chánh báo chính là (tài trí đức hạnh ở nơi) con người. Y báo là sự nghiệp của cải tài sản thuộc về con người. Nói chánh báo là con người, đó là lối nói đơn giản, chứ chánh báo là phần sâu kín tế nhị hơn, đó là tâm. Vì tâm chủ động tất cả. Nếu tâm nghĩ tốt thì miệng nói tốt và thân hành động tốt, tất cả cảnh sở thuộc về người mới tốt đẹp. Bởi vậy, nói đến chánh báo là nói đến tâm. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Tịnh Quốc Độ có câu: "Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh" nghĩa là tâm thanh tịnh thì cõi nước theo đó mà thanh tịnh. Do đó nói tâm người là gốc. Tôi dẫn một câu chuyện để quý vị thấy tâm người là gốc và cảnh do tâm mà chuyển. Tôn giả Mục Kiền Liên lả đệ tử lớn của Phật nổi tiếng là có thần thông bậc nhất. Sau khi chứng A La Hán, Ngài nghĩ đến mẹ là bà Thanh Đề. Bình sanh bà sống không lương thiện, tánh tình keo kiệt tham lam, Tôn Giả sợ bà thác sanh vào đường ác, nên dùng thiên nhãn thông để xem bà sanh ở cõi nào. Tôn Giả nhìn đến cõi ngạ quỉ thấy bà đang làm quỉ đói thân hình tiều tụy vô cùng đói khổ, động lòng thương, Tôn Giả đi khất thực được một bát cơm, liền vận thần thông đem dâng cho mẹ. Bà vốn là kẻ đầy lòng tham lam và bỏn xẻn, khi vừa được bát cơm một tay bà bốc cơm một tay che lại, sợ kẻ khác thấy giựt cơm của bà. Do tham lam bỏn xẻn còn đầy dẫy trong lòng bà, nên cơm vừa đưa tới miệng thì hóa thành lửa, bà không ăn được, vẫn đói khổ. Nếu lúc đó bà phát tâm hỷ xả, thì chắc cơm không hóa thành lửa. Tôn Giả Mục Kiền Liên trông thấy cảnh khổ của mẹ, Ngài không biết làm sao cứu mẹ thoát khỏi kiếp ngạ quỉ, bèn trở về Phật bạch tự sự. Thế Tôn dạy: Một mình ông không đủ oai lực chuyển tâm niệm của mẹ ông. Vậy nhân ngày chúng tăng hội về tự tứ, ông hãy sắm sửa trai nghi để cúng dường các vị Thánh Tăng, và nhờ cầu nguyện khiến cho mẹ ông chuyển tâm tham lam bỏn xẻn thì sẽ thoát kiếp ngạ quỉ. Nghe qua, ắt quí vị có nghi ngờ. Theo lý nhân quả thì người khi đã tạo nhân thì phải thọ quả. Bà Thanh Đề tạo nhân tham lam bỏn xẻn nên phải chịu quả báo làm quỉ đói, tại sao chúng Tăng cầu nguyện mà bà khỏi kiếp ngạ quỉ thì trái với lý nhân quả. Như trước đã nói tâm là gốc, tâm là chánh báo. Nếu tâm chuyển thì chánh báo và y báo theo đó mà chuyển. Tâm bà Thanh Đề tham lam và bỏn xẻn đó là chánh báo xấu nên y báo cũng xấu là sống trong cõi ngạ quỉ đói khổ. Bây giờ bà được chúng Tăng thành tâm cầu nguyện chuyển tâm tham lam bỏn xẻn của bà thành tâm từ bi, hỷ xả. Vì tâm của chư Thánh Tăng thanh tịnh đồng hướng về bà, nên có oai lực, có sức mạnh, khiến bà cảm được niệm lành, bà liền thức tỉnh chuyển tâm tham lam bỏn xẻn thành tâm từ bi hỷ xả ngay đó bà được thoát kiếp ngạ quỉ, sanh lên cõi thiện lành. Chúng ta đừng nghĩ rằng chư Tăng cầu nguyện là thân nhân mình được giải thoát. Điều đó không đúng. Nếu chúng Tăng cầu nguyện mà thân nhân mình thức tỉnh, chuyển tâm xấu ác thành tâm thiện lành, thì mới chuyển đổi được kiếp đọa lạc mà sanh vào cõi thiện lành. Ngược lại, nếu không chuyển được tâm thì hoàn cảnh cũng không đổi thay. Vì y báo tuỳ thuộc vào chánh báo là tâm. Chủ yếu của người tu là phải chuyển tâm, khi tâm chuyển thì thân và cảnh mới chuyển theo. Nếu tâm không chuyển thì thân và cảnh không thể chuyển được. Tại sao một mình Tôn Giả Mục Kiền Liên không khiến cho bà Thanh Đề chuyển được mà phải nhờ nhiều vị Thánh Tăng khác? Điều này mới nghe qua có vẻ huyền bí, nhưng kỳ thật không có chi là huyền bí cả. Mỗi người chúng ta đều có nhân điện, mà nhân điện đó có một sức mạnh, nếu chúng ta luyện tập và biết ứng dụng vào cuộc sống thì nó có tác dụng rất cụ thể. Chẳng hạn như trị bệnh bằng cách xoa sát hay xoa bấm huyệt là chuyền nhân điện làm cho người hết bệnh nơi thân. Cũng vậy, chư Thánh Tăng là những bậc tu hành viên mãn, tâm các Ngài thanh tịnh trong sáng, cùng hướng về một người cầu nguyện thì có một sức mạnh, có sự cảm ứng nơi người nhận. Vấn đề này trong thực tế chúng ta thấy có những sự kiện xảy ra rất cụ thể, như trong gia đình hoặc cha hay mẹ hấp hối, khi đó người con đang ở xa, cả gia đình từ cha mẹ đến anh chị em đều trông người con ấy về để gặp mặt. Khi đó người con ở xa cảm thấy lòng xao xuyến bức rức. Tại sao? Vì tâm lực (nhân điện) của những người thân trong gia đình đang hướng về người con ấy nên có sức giao cảm khiến cho lòng xao xuyến bức rức. Nhưng vì tâm lực (nhân điện) của những người thân đó yếu nên người con ở xa chỉ cảm thấy lòng xao xuyến mà thôi. Nếu tâm mọi người thanh tịnh thì sẽ có sức giao cảm mạnh khiến cho người nhận biết rõ điều gì mà người trong gia đình muốn cho họ biết. Sự kiện này rất cụ thể, tuy quá tầm mắt của chúng ta nên khó tin, nhưng không phải là không có. Cho nên những nhà thôi miên họ dùng nhân điện điều khiển được những người mà họ muốn điều khiển một cách dễ dàng. Để thấy mỗi người chúng ta ai cũng có nhân điện, nếu nhân điện mạnh của nhiều người đồng hướng về một người nào để cầu nguyện cho người đó chuyển tâm niệm sẽ được thành tựu. Nên nói cầu nguyện có kết quả là như vậy, chớ không phải chư Tăng nguyện rồi Phật hay thiên thần tới rước đi về cõi khác. Đó là lòng thành, do sức nguyện cấu khiến cho tâm xấu ác của người trở thành tâm thánh thiện và khi tâm thánh thiện thì nghiệp đã chuyển nên sanh về cõi thiện, đâu có trái lý nhân quả. Hiểu như thế chúng ta mới không nghi ngờ chánh báo và y báo trái với lý nhân quả. Nhưng nhớ, chánh báo mà chuyển được là phải có cơ hội, có sức mạnh đánh thức mới chuyển nổi chớ bình thường khó mà chuyển đổi. Cũng như quý Phật tử khi chưa biết đạo không thích đi chùa, không thích làm phước... nhưng nhờ một cơ duyên nào đó, chẳng hạn như trong gia đình có xảy ra tai biến khổ đau, bạn bè rủ đi nghe pháp, nên được thức tỉnh và chuyển tâm niệm liền thay đổi cuộc sống. Quý vị đã thấy tầm mức quan trọng nhân điện của chư Tăng đánh thức tâm niệm của người nghiệp chướng nặng nề. Và quý vị phải nhớ, Phật dạy hàng Thánh Tăng đã chứng lục thông La Hán tâm thanh tịnh mới có đủ oai lực, chớ không phải hàng Tăng Sĩ lôi thôi. Chúng ta bây giờ vì không hiểu ý nghĩa, chỉ chú trọng hình thức, miễn thỉnh được các thầy đầu tròn áo vuông tụng ê a, chuông mõ rền vang là được rồi. Chớ không cần biết các vị Tăng ấy có giữ trai giới phạm hạnh thanh tịnh không. Phần sức mạnh tinh thần thì không lưu ý. Nếu chư Tăng không giữ trai giới phạm hạnh thanh tịnh mà cầu nguyện thì có khác gì quý Phật tử cầu nguyện. Vậy tốt hơn là cả gia đình, cả gia quyến hợp lại tụng kinh, thành kính cầu nguyện cho cha mẹ còn có ý nghĩa hơn. Tập trung tinh thần hướng về một người để cầu nguyện: Nếu tinh thần những người cầu nguyện trong sáng thì có ảnh hưởng tốt, nếu tinh thần của những người cầu nguyện đen tối thì làm sao chuyển đổi nghiệp chướng cho người, e còn làm nặng nề thêm là khác. Vì "Tâm tịnh là cõi nước tịnh". Cho nên pháp môn Tịnh Độ dạy Phật tử niệm Phật là phải niệm cho nhất tâm rồi thì không còn một niệm dấy khởi, mà niệm không khởi thì đâu có nghĩ xấu nghĩ bậy, tâm không tịnh là gì ? Mà tâm tịnh nhất định sanh về cõi tịnh. Ngược lại, nếu tay lần chuỗi miệng lâm râm mà tâm còn toan tính chuyện hơn chuyện thua, chuyện được chuyện mất, thì có niệm vô số câu A Di Đà Phật tâm vẫn còn nhiễm ô, Phật cũng không rước về cõi tịnh. Có một số Phật tử hỏi rằng: Người niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ, sau khi chết được Phật A Di Đà rước về cõi Cực Lạc. Còn người tu thiền không cầu sanh về cõi nào, sau khi chết đi về đâu, chẳng lẽ đi lang thang? Đáp: Người tu thiền có hai trường hợp: Một là đạt được thiền định. Đối với những người sạch hết vọng tưởng nên tâm thanh tịnh nhất như, quyết định là sẽ được giải thoát Niết Bàn. Hai là đối với người loạn tưởng đã giảm, tâm chưa trong sạch hoàn toàn nhưng có phần thanh tịnh, khi chết chưa vào Niết Bàn được. Tuy nhiên, tùy tâm tịnh ở mức độ 50% thì đến cõi tịnh 50%, nếu tâm tịnh được 80% thì đến cõi tịnh được 80%... Rất là vô lý, khi tâm tịnh mà không biết chỗ đến lại đi lang thang. Lang thang là kiếp ngạ quỉ, do nhân tham lam bỏn xẻn mới chịu quả báo đói khát lang thang. Người tu tâm thanh tịnh, lại từ bi hỷ xả thì làm gì phải lang thang? Ví dụ có một người đi Huế, người ấy có thân nhân ở Huế, cho nên yên lòng ra đó sẽ ở nhà thân nhân. Một người khác cũng đi Huế, người này không có thân nhân ở Huế, nhưng người ấy có mang theo tiền để chi dùng trong chuyến đi. Khi đến Huế họ mướn khách sạn, vậy ai hơn ai? Chúng ta có thể bảo người không có thân nhân ở Huế, đến Huế họ đi lang thang được không? -Không. Vì họ có hành trang để đi đường. Cũng vậy, người chỉ sợ tâm không thanh tịnh, đừng lo không có cõi tịnh để mình đến. Phải hiểu cho thật rõ chỗ này kẻo tu bị lầm lạc. Đứng bên này chỉ trích bên kia phê phán bên nọ làm một việc hoang mang nghi ngờ cho người mới tu học, là quá lôi thôi, không lợi ích. Chúng ta hiểu rõ tâm ai thường thanh tịnh, người đó sẽ được sanh cõi tịnh. Chẳng những Phật tử tu thiền tu Tịnh Độ, mà người không qui y làm Phật tử nếu tâm họ tịnh cũng sanh được vào cõi tịnh. Vì chánh báo tốt ắt hẳn y báo phải tốt. Bây giờ ứng dụng lý chánh báo và y báo vào việc tu hành. Trước là bản thân của người xuất gia. Thông thường nhiều người xuất gia có quan niện tu là phải cất chùa to, đúc tượng Phật lớn, trang trí cảnh chùa cho đẹp, quên đi phần tu học cho bản thân. Nếu ngưới xuất gia mà không tu học làm sao có tài có đức để cho người kính tin kết duyên mà làm Phật sự? vì vậy mà phải xoay lại bản thân mình để lo tu học, một khi có đủ tài đức thì chùa to cảnh đẹp ắt sẽ có. Xưa có nhiều vị Thiền Sư ẩn tu trong những hang đá, am tranh trên núi rừng là người tu hành chân chính, tài đức vẹn toàn khi có người biết đến liền thỉnh về kinh đô để ở những ngôi chùa lớn để hoằng dương chánh pháp. Chúng ta ham ở chùa to cảnh đẹp mà bất tài thiếu đức lại tu hành lôi thôi, sớm muộn gì cũng bị người mời ra khỏi chùa, để thỉnh người xứng đáng về trụ trì. Như vậy mới thấy chánh báo không tốt mà đòi y báo tốt thì không thể được. Chúng ta tu phải làm sao cho tài trí đức hạnh, chớ không lo có chùa ở. Kế là việc giáo hóa đệ tử. Người tu phải lo cho đệ tử như thế nào? Nếu người thông lý chánh báo y báo, trước phải dạy đệ tử tu học cho có đức có tài. Đức do tu mà có, tài do học mà có. Tài đức vẹn toàn rồi thì lo gì mai sau không xiển dương Phật pháp. Vì đã có chánh báo tốt, chắc chắn y báo sẽ theo đó mà tốt. Còn lo cất chùa cho đẹp cho kiên cố, để lại hằng trăm năm cho đệ tử ở, nếu là đệ tử bất tài vô đức, tu hành lôi thôi, thì chẳng làm gì lợi ích cho Phật pháp. Lại có thể, nó cởi áo tu, hoàn tục, bỏ chùa hoang, không người hương khói. Lo cho đệ tử như vậy không bảo đảm. Vậy lo chùa để lại cho đệ tử, không bằng lo cho đệ tử có đức có tài, tu hành chơn chánh, hợp với chánh pháp. Chúng tôi thường nói rằng: "Sau này chúng tôi tịch rồi, chỉ để lại một số người biết tu biết đạo chớ không để lại chùa tốt chùa sang. Ngôi chánh điện Thường Chiếu tôi cất chỉ có hai mươi ngày là xong. Các nơi nghe tôi cất chùa chỉ có hai mươi ngày họ cười nói "Chùa dã chiến". Mà thật, "Chùa dã chiến". Vì nó không ra gì hết. Trên Chân Không có bao nhiêu vật liệu, đem xuống Thường Chiếu ráp lại vừa đủ, không thêm gì hơn. Chúng tôi chỉ cần có chỗ cho Tăng Ni tu, Phật tử đến học đạo là được rồi. Sau khi tôi tịch, nếu ai có tài trí phước đức hơn tôi họ muốn sửa chữa cho đẹp hơn là tùy họ. Chúng tôi chỉ nghĩ làm sao đào tạo một số Tăng Ni có học có tu có tài có đức để lại cho đạo là đủ rồi, còn chùa cảnh thì chúng tôi không đặt nặng. Đó là phương hướng giáo hóa đệ tử. Kế đến là làm Phật sự. Phật sự thì có liên hệ đến Phật tử tại gia nhiều. Phật tử khi làm Phật sự thì nhắm vào y báo hay chánh báo? Đa số Phật tử nghe nói xây chùa đúc tượng Phật thì thích lắm, còn nghe nói nuôi Tăng Ni tu học thì không thích. Tại sao vậy? Vì mình làm cực khổ mới có tiền của, đem đến nuôi người nhàn rỗi hơn mình là điều không được vui, nên không thích. Hơn thế nữa, đem bao nhiêu của đến Tăng Ni ăn cũng hết, không còn để lại cái gì thấy là của mình đã cúng. Còn cất chùa tạo tượng đúc chuông để lại đời đời, cái mà mình đã cúng vẫn còn đó, thì thích hơn. Vì nó có hình thức dễ thấy. Hình thức đó thuộc về y báo. Nếu chùa tốt Phật to chuông thanh mà không có một vị Tăng tu hành chân chánh gìn giữ xiển dương chánh pháp, thì cất chùa có lợi ích gì? Vậy, Phật tử hiểu đạo rồi nên ứng dụng lý chánh báo và y báo để làm Phật sự mới hợp đạo. Chúng ta Phải làm sao cho ngày mai có những Tăng Ni tài đức để duy trì pháp Phật được lưu truyền, sau đó mới gìn giữ chùa chiền là thờ kính Phật. Vậy việc chính của chúng ta là phải phát triển chánh báo cho tốt rồi y báo sẽ theo đó sẽ tốt. Nếu chỉ một bề lo y báo mà không lo chánh báo thì sẽ bị suy thoái về sau. Đâu quý vị kiểm lại xem Phật sự quý vị đã làm là nhắm vào gốc hay vào ngọn ? Đa số là nhắm vào hình thức. Ví dụ như các thày dự định xây mái cổng chùa, có một Phật tử giàu có đến xin hỷ cúng một mình, để cổng chùa ấy mang tên của mình cúng. Tên người lẫn cổng chùa vẫn còn lưu lại đến năm ba chục năm. Còn nếu cúng một hai triệu để nuôi 100 vị Tăng ăn tu, chỉ vài tháng là hết, tên người cũng không còn, nên không vui không thích. Cúng cổng chùa mỗi lần đi ngang qua nghĩ cổng chùa mình cúng còn đây. Quý vị nên nhớ rằng chư Tăng ăn của tín thí tuy hết, nhưng họ lo tu học cho tâm trí được sáng suốt, đức hạnh được tăng trưởng, thanh tịnh. Mai sau, họ là người hoằng dương chánh pháp, làm cho Phật pháp trường tồn lợi ích chúng sanh. Nếu không có những người đó thì lấy ai duy trì Phật pháp giáo hóa chúng sanh? Bây giờ đến phần ứng dụng lý chánh báo y báo trong cuộc sống hằng ngày của Phật tử. Trước hết là ngay bản thân mình việc trước mắt là phải trau dồi tài sức, chớ đừng nghĩ mai kia mình có địa vị làm ông này bà nọ, sẽ giàu sang phú quí. Nếu mình có đủ tài đức thì mọi việc tốt nó sẽ đến với mình. Giả sử có môt đứa học sinh đi học, ngày ngày cứ mơ ước mai sau sẽ làm bác sĩ hay bác học, mà hiện tại vào lớp không chịu học hành, cứ thả hồn mơ ước viễn vông. Cuối năm thì thi rớt, vậy mai sau có làm bác học, bác sĩ được không? Chắc chắn là không. Ngược lại có một học sinh khác không mơ ước mai sau làm gì cả, mỗi ngày vô lớp chăm chỉ, siêng năng học hành, nên học giỏi nhất nhì trong lớp. Và cứ như thế, hết niên khóa này tới niên khóa khác, và cuối cùng là được tuyển vài khoa học hay y học để rồi ra làm bác sĩ, bác học. Mơ ước những điều cho ngày mai là việc làm không thực tế. Mà thực tế là hiện tại phải làm sao trau dồi cho có tài đức, thì mọi sự tốt đẹp dù không muốn cũng đến. Vì chánh báo tốt thì y báo tốt sẽ đến. Sau là việc dạy dỗ con cháu. Có nhiều Phật tử quan niệm là phải làm sao có nhiều tiền của để lại cho con cháu. Nếu có nhiều tiền của mà con cháu bất tài vô đức, lêu lổng ăn chơi thì càng thêm hư hỏng. Cùa cải khó bề bảo quản, sớm muộn gì rồi cũng tiêu tán. Thế nên thương và lo cho con cháu là phải lo cho nó học để có tài, phải giáo dục cho nó có đức. Nếu có tài có đức thì mai kia nó sẽ nên người, làm được việc mà chúng ta mong muốn. Chớ dành dụm của cải để lại cho con cháu, mà nó bất tài thiếu đức thì không gìn giữ được. Vì của cải thì có thể bị con cái phá, trộm cắp cướp đoạt mất đi. Chớ tài đức thì không ai cướp giựt được. Lại có nhiều người nhìn phiếm diện, chỉ lo cho con học giỏi thôi, không nghĩ gì đến đức hạnh của nó. Đó là một khuyết điểm lớn cùa người làm cha mẹ. Trên đời nhiều người làm tội ác tày trời đâu phải là những người dốt, bất tài. Chẳng hạn như những thủ lãnh cúa những đảng cướp lừng danh thế giới đâu phải là những kẻ ngu bất tài. Người càng tài giỏi mà không đạo đức là càng họa to cho xã hội. Cho nên có tài thì phải cần có đức. Tài thì nhà trường đào tạo, đức không phải tự nó mà có mà do cha mẹ kết hợp nhà trường hướng dẫn giáo dục. Được như thế mới có thể gìn giữ sự nghiệp của mình và làm lợi ích cho nhân quần xã hội. Như chúng ta đã biết gốc của chánh báo là tâm. Gần đây, quý Phật tử nghe nói pháp tu Tịnh Độ quá đơn giản là gần lâm chung niệm Phật từ bảy đến mười câu cũng được Phật rước về cõi Cực Lạc. Điều này phải nghiệm lại cho kỹ. Kinh A di Đà Phật dạy: Niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn ít nhất là một ngày, hoặc hai ngày... cho đến bảy ngày. Nhất tâm bất loạn tức là định, mà định là tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì sẽ sanh về cõi Phật tịnh. Phật dạy thật rõ ràng. Vậy mà tay chúng ta lần chuỗi miệng niệm Phật tâm thì nghĩ vô số chuyện. Như vậy là tâm quá loạn thì làm sao về cõi tịnh được? Nên Phật vì lòng từ bi có rước về cõi Phật, chúng ta cũng không ở được, vì tâm chúng ta quá ô nhiễm, tham sân si còn dẫy đầy làm sao tương ứng được với cõi tịnh mà ở, rốt cuộc rồi cũng phải trở lại cõi Ta Bà uế trược này. Vì chánh báo nào y báo nấy. Chuyện thế gian gần nhất là nhiều người đi nước ngoài, trong số đó cũng có một số người chịu sống ở nước ngoài, nhưng cũng có một số người muốn trở lại Việt Nam. Trong khi họ đi họ nghĩ rằng ra nước ngoài sẽ sung sướng hơn. Nhưng khi đến nước ngoài vì văn hóa kém, ngôn ngữ của người không nói được, phong tục tập quán của mình không thể kết hợp được... Nên cảm thấy lạc loài, muốn trở về Việt Nam. Người niệm Phật mà tâm không thanh tịnh, còn loạn động bởi tham sân mà muốn về Cực Lạc cũng na ná như thế ấy. Người tu thiền cũng vậy, chúng ta đừng mong chứng Niết Bàn, mà phải tu làm sao cho hết vọng tưởng phiền não. Vọng tưởng phiền não hết thì Niết Bàn hiện tiền. Trái lại, tu mà mong mau chứng Niết Bàn, sẽ bị ma quấy nhiễu rồi dẫn vào đường tà. Niết Bàn là gì? Niết Bàn là tâm thanh tịnh. Nếu vọng tưởng phiền não hết thì tâm thanh tịnh đó là Niết Bàn, không cần mong cầu tìm kiếm. Đó là một lẽ thật, đừng mong ước Niết Bàn trong khi tâm mình còn dẫy đầy vọng tưởng phiền não, thì không bao giờ được Niết Bàn như ý muốn. Vậy, chủ yếu của sự tu hành là ở tâm. Tâm được thanh tịnh là do tu thiền định, gạn lọc tham sân si phiền não hết sạch, rồi trải lòng thương giúp đỡ người, làm cho mọi người được an vui lợi ích. Mình vui người vui thì đâu có chán nản mong tâm đi đây đi kia ! Vì tâm mình ích kỷ, đố kyanh ghét thấy ai cũng xấu xa tối tệ, nên chán, tự cô lập mình thành một cái ốc đảo nên cô đơn lạc loài. Nếu ở chỗ này với tâm ích kỷ phiền não thấy mình lạc loài, tới chỗ khác cũng sẽ bị lạc loài. Tu là hiện tại phải chuyển tâm, tâm chuyển thì cảnh chuyển. Chớ trách cảnh trách người xấu, mà hãy tự trách mình còn nhiều thói hư tật xấu, nên y báo xấu nó theo mình. Vì vậy, tự mình phải lo tu sửa cho tâm được tốt, cho tâm được thanh tịnh. Chúng ta hiểu rõ lý chánh báo y báo rồi, thì phải ứng dụng trong đời tu, trong khi làm Phật sự, trong cuộc sống gia đình, giáo dục con cái cho đúng, thì sẽ được lợi ích rất lớn, không riêng cho bản thân mình mà còn lợi ích cho tất cả mọi người chung quanh. ________________________________________ (còn nữa)
  19. TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP Hòa thượng Thích Thanh Từ Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo 1. Tu Phải Là Hiền 2. Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo 3. Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp 4. Chánh Báo Và Y Báo 5. Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả 6. Thần Thông và Nghiệp Lực 7. Tu có chuyển được nhân quả không?[/size] ________________________________________ Tu Phải Là Hiền Buổi nói chuyện hôm nay tôi nhắm vào Quý Phật tử Phước Thái nhiều hơn là Quý Phật tử ở các nơi. Vậy Quý vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ở đây tôi không giảng những đề tài cao siêu, mà đặt những câu hỏi rất thực tế, rất thấp, quý vị hãy trả lời đúng như chỗ mình biết, để rồi tôi hướng dẫn cho quý vị tu hành. - Quý vị đi chùa học đạo, có phải tu theo đạo Phật không? - Thưa Phải. - Vậy người tu là hiền hay dữ? - Dạ hiền. - Người đi chùa, lậy Phật, ăn chay, tụng kinh, nếu có người xúc phạm đến thì nóng nảy la lối. như vậy có hiền không? - Dạ chưa hiền. - À, chưa hiền tức là chưa tu. Vậy đi chùa tụng kinh mà chưa hiền chưa gọi là người tu. Người tự nhận mình tu theo đạo Phật mà chưa hiền thì sao?. Phải tu thế nào mới gọi là tu theo đạo Phật. Và làm thế nào để được hiền, quý vị biết không? - Dạ chưa biết. - Đây tôi hướng dẫn cho quý vị để thành người hiền rất thực tế và dễ dàng. Theo tinh thần đạo Phật, tu là tu ở ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Khi chưa biết tu, Thân có khi làm lành có lúc làm dữ, miệng có khi nói lời thiện có lúc nói lời ác, ý có khi nghĩ tốt có lúc nghĩ xấu. Khi biết tu thì việc lành nên làm, việc dữ nên tránh. Lời thiện thì nói, lời ác thì chừa. Điều tốt thì nghĩ, điều xấu thì dừng. Người biết tu thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác, đó là người hiền. Tu chủ yếu không phải ăn chay nhiều, vậy mà Phật tử cứ đua nhau ăn chay, cho ăn chay nhiều là tu, chứ không biết tu là chừa ba nghiệp ác. Nhân gian có câu ca dao để nhạo báng người ăn chay mà không hiền. Sân si nghiệp chướng không chừa Bo bo mà giữ tương dưa làm gì? Tham sân si là nghiệp chướng của thân miệng và ý thì không chịu chừa bỏ, mà cứ đua nhau ăn chay, rồi cho đó là tu, tu như vậy không đúng với chủ trương của đạo Phật. Tu là thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác. Trong gia đình, nếu mọi người không biết tu thì cứ cãi và chửi bới gây phiền não cho nhau. Thậm chí gây cãi không nguôi còn giận thì đánh đập, đánh đập không thỏa mãn cơn giận thì tình nghĩa không còn, mà tình nghĩa đã hết thì ly dị chia tay, gia đình đổ nát. Nếu mọi người biết tu thì ý vừa khởi nghĩ ác, liền biết xấu chế ngự không dám nói lời nặng, không nói nặng thì đâu có cãi, không cãi thì làm gì có đánh đập, không đánh đập thì đâu có ly dị, gia đình thường an vui hạnh phúc. Như vậy, nếu người biết tu thì ý không bao giờ nghĩ xấu cho ai, tâm không bực bội phiền não, lúc nào cũng vui vẻ an ổn. Nếu ý không nghĩ xấu thì miệng thân đâu có nói, làm hung ác khiến cho người đau khổ. Mà không làm khổ người thì được người thương mến, người thương mến thì không hại, nếu có chuyện bất trắc thì được người giúp đỡ. Khi đã biết tu thì thân miệng ý lúc nào cũng thiện, ba nghiệp mà thiện thì tự thân được an vui, trong gia đình trên thuận dưới hòa, ngoài xã hội không gây xáo trộn sẽ được trật tự an bình. Như vậy người biết tu, chẳng những chính bản thân mình được lợi ích, mà gia đình và xã hội cũng được lợi ích. Đó là người tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu chỉ biết ăn chay, tay lần tràng hạt, mỗi khi có ai xúc phạm đến thì la lối chửi rủa không thua ai; Người như thế không hiền, chưa phải là người tu. Do vậy, nên bị kiêu ngạo: "Ngoài miệng thì nam mô, trong bụng thì chứa một bồ dao găm". Ngoài miệng thì niệm Phật lâm râm, nhưng trong tâm thì quá hung dữ. Thế nên, cho ăn chay nhiều, niệm Phật nhiều là tu mà không chịu chuyển thân, miệng, ý cho thiện thì làm trò cười cho thiên hạ. Vì vậy, khi nói lời tu, người Phật tử phải nhớ thân miệng ý phải thiện. Phật dạy, tu một giờ, là được an vui hạnh phúc một giờ, tu một ngày là được an vui hạnh phúc một ngày, tu một năm là được an vui hạnh phúc một năm. Nhưng gần đây có một số Phật tử nghĩ rằng ăn chay, đi chùa, làm công quả có phước nên ham đua nhau làm. Ví dụ, trong gia đình trung bình ăn chay một tháng bốn ngày, vì nghe nói ăn chay có phước nhiều được khen, nên người vợ tăng thêm sáu ngày, rồi mười ngày... chồng con ăn theo không nổi nên có chuyện xào xáo trong gia đình. Rồi than trách rằng mình muốn tu muốn tiến, mà bị quỉ nó phá nó ngăn không cho tu tiến, Người nghĩ nói như vậy có tu không? Tu mà ý khởi nghĩ ác, miệng chửi chồng con là quỉ. Như vậy, chưa phải là người Phật tử chân chính. Người Phật tử chân chính không đặt nặng việc đi chùa thường, tụng kinh giỏi, ăn chay nhiều, mà phải biết tu ba nghiệp thân khẩu ý cho thiện. Tức là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đi chùa niệm Phật ăn chay là phải nhớ từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ luôn luôn phải thiện. Như vậy, có lúc nào là không tu. Chẳng hạn thân cuốc cỏ, xưa thấy rắn thì lấy cuốc đập chết, nay thấy rắn tránh không đập, đó là chuyển nghiệp thân ác thành thiện. Xưa khi tiếp xúc với bạn bè họ nói lời hung dữ làm mình tức giận bèn nói nặng lời cho bõ ghét, nhưng nay nhớ mình là người tu không được lớn tiếng gây cãi nên im lặng mà nhẫn nhịn. Đó là chuyển nghiệp khẩu ác thành thiện. Lúc ngồi một mình vừa khởi nghĩ xấu về người liền hổ thẹn dừng không nghĩ nữa. Đó là chuyển nghiệp ý ác thành thiện. Tu như vậy, đâu có đợi vô chùa tụng kinh lạy Phật mới tu, mà giờ nào ở đâu tu cũng được, thế mới đúng ý nghĩa tu của đạo Phật. Nếu hiểu và tu như vậy, thì lo gì mai kia không được về cõi Phật. Trong kinh có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh Đồng Phật vãng Tây phương" Ba nghiệp mà hằng trong sạch thì đồng với Phật về cõi Phật. Nếu không bỏ ba nghiệp ác mà cố niệm Phật nhiều câu Phật A-Di-Dà rước về Cực Lạc, cũng không được rước về, vì ba nghiệp còn ác thì về đó cứ gây cãi đánh đập hoài biến cõi Cực Lạc thành cõi Ta Bà khổ hay sao ? Vậy, tu cốt là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện là bước đầu, tụng kinh niệm Phật là bước kế tiếp. Bước đầu là nền tảng mà không thực hiện trước, lại đi bước thứ hai, giống như cất nhà lầu mà không xây nền móng, quyết định cái nhà sẽ đổ không thành. Lại cũng có nhiều Phật tử đi chùa lâu năm, ăn chay, niệm Phật, Nếu con cháu có làm gì phật ý thì mắng chửi không tiếc lời, khiến cho con cháu buồn không thương mến. Rồi viện cớ là chỉ hiền với người ngoài thôi, đối với con cháu trong nhà phải khó phải dữ nó mới sợ. Người Phật tử nói vậy là không đúng. Tu là phải hiền, hiền với tất cả mọi người, từ trong nhà cho đến ngoài xã hội. Giả sử con cháu có làm bậy, làm sai, thì nên ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên dạy con cháu. Đừng nên chửi bới la rầy, vì lúc nóng giận không kiểm soát được ý nghĩ lời nói, sẽ nói bậy, mà nói bậy thì mất uy tín với con cháu. Kinh Phật ví dụ một Trưởng giả có tất cả bốn bà vợ. Người thứ nhất rất trung thành với ông, thế mà suốt ngày ông không nghĩ tới. Người vợ thứ hai được ông lưu ý chút ít. Người vợ thứ ba được ông nhắc nhở liền miệng. Người vợ thứ tư thì ông ở đâu bà có mặt ở nơi đó, Không rời một gang tấc. Một hôm ông đau nặng sắp chết, hỏi cả bốn người vợ: - Tôi sắp chết, trong bốn bà có ai nguyện chết theo tôi không ? Vợ thứ tư lên tiếng trước: - Bình thường ông ở đâu thì có mặt tôi ở đó, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cửa. Vợ thứ ba lên tiếng tiếp: - Bình thường tôi được ông lưu ý nhắc nhở liền miệng, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cổng. Vợ thứ hai nói: - Bình thường tôi cũng được ông nhắc nhở, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới mộ. Vợ thứ nhất nói: - Bình thường tuy ông không nghĩ tới, nhưng bây giờ ông chết, tôi nguyện chết theo ông. Qúy vị thấy ông Trưởng giả quá bất công và bội bạc, người thương mình, trung thành với mình thì lơ là không nghĩ đến, người thương ít thì luôn luôn theo dõi không rời... ông Trưởng giả bất công bội bạc này Phật dụ cho mỗi người chúng ta. Người vợ thứ tư Phật dụ cho tiền bạc, chúng ta ở nhà, hay đi đâu đều có tiền trong túi không thể thiếu nó. Nhưng khi chúng ta chết thì nó nằm trong tủ hoặc ở nơi rương thuộc phạm vi trong nhà, vì vậy mà nói đưa tới cửa. Người vợ thứ ba dụ cho của cải sự nghiệp nhà cửa, nó nằm ở trong phạm vi vòng rào nhà, nên nói đưa tới cổng. Người vợ thứ hai dụ cho công danh chức tước khi đưa quan tài người chết tới huyệt thì đọc điếu văn kể công trạng rồi mới hạ huyệt chôn cất, nên nói đưa tới mộ. Người vợ thứ nhất dụ cho nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mình như hình với bóng, có mình ở đâu thì có nó ở đó không rời nhau, nên mới tình nguyện chết theo. Tác động của thân khẩu ý lặp tới lặp lui nhiều lần gọi là nghiệp. Người dậy học hằng ngày thì gọi là nghề giáo hay nghiệp giáo. Người cùng làm một việc thì gọi là bạn đồng nghiệp. Có người là có nghiệp. Người nghiệp không rời nhau. Giả sử như ông thầy giáo đi đường có mang theo một số tiền của, bất thần ông bị tai nạn, bao nhiêu tiền ông mang theo bị mất hết. Nhưng nghiệp dạy học vẫn còn không mất, về nhà vẫn đến trường dạy học trò. Như vậy, tiền của và sự sản là cái ngoài mình nên bị mất dễ dàng không thể giữ được mãi mãi. Còn nghiệp là cái không ngoài mình nên chẳng bao giờ mất. Thế mà trong cuộc sống hằng ngày mọi người đều nghĩ làm sao cho có tiền, làm sao cho có của, nếu có tiền có của rồi thì muốn có địa vị danh vọng. Trong ba thứ đó nghĩ tới tiền nhiều nhất, rồi tới của cải danh vọng. Khi chết, thì tiền của từ giã mình trước nhất, tức là khi chết nó ở lại chứ không theo mình. Trong đời này không ai là (người) không chết, hoặc chết sớm hoặc chết muộn, khi chết thì không ai đem được tiền của theo, chỉ có nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mà thôi. Thế nên, nếu là người Phật tử khôn ngoan sáng suốt, dù có làm ra nhiều tiền của mà làm ác thì nhất định không làm, vì khi chết không cứu được tội khổ mà phải để lại tất cả, chỉ có một mình mình chịu quả báo khổ đau. Nghĩ và nói ác mà đem lại lợi lộc cho mình thì cũng không nói. Như thế không bị tiền tài sai sử tạo nghiệp ác. Ngày nay không gây tạo tội lỗi, không bị người chê trách, mai kia chết đi cũng nhẹ nhàng thảnh thơi. Ca dao có câu: Bởi chừng kiếp trước khéo tu Ngày nay con cái võng dù nghênh ngang Do kiếp trước khéo tu nên ngày nay con cháu mới sang trọng, Nếu hiện tại không chịu tu thì con cháu về sau khổ. Để thấy chúng ta tu là tạo cho cuộc sống hiện tại an vui, ngày mai lại càng an vui tốt đẹp hơn. Vậy, biết tu là thường nhớ tới nghiệp, để tránh nghiệp ác làm nghiệp lành, hơn là nhớ tới tiền của vật chất. Tuy trong cuộc sống, chúng ta phải làm ra tiền mới sống được, nhưng phải làm cho công bằng lương thiện, mình an vui, người không khổ, hiện tại mình hạnh phúc, mai sau cũng an lành. Vậy, tu không phải là mong cầu cái gì cao siêu huyền bí, mà ngay trong thực tế thường làm lợi mình lợi người một cách cụ thể, không mơ hồ viễn vông. Đạo Phật chủ trương tu là để giải thoát, song nói giải thoát có vẻ xa vời quá! Nhưng nếu thực tế thân chúng ta không làm ác là giải thoát được cái khổ nghiệp ác của thân. Vì nếu cướp của giết người thì bị cái khổ đánh đập tù tội, bây giờ không tạo nghiệp ác ấy thì thân được lành mạnh tự do, đó là giải thoát nghiệp ác của thân. Nếu miệng không nói lời hung dữ ác độc thì giải thoát được nghiệp ác của miệng, ý không nghĩ ác thì giải thoát được tâm niệm xấu xa buồn ghét người khác. Tuy không hoàn toàn giải thoát nhưng có giải thoát từng phần; tu ít thì giải thoát ít, tu nhiều thì giải thoát nhiều, có tu là có bớt khổ. Chẳng những bớt khổ trong đời này mà trong đời sau còn được an vui nữa. Nên người biết tu không sợ chết. Vì ai cũng phải chết, và biết rằng mình không tạo nghiệp ác thường tạo nghiệp lành, sau khi chết sẽ an vui chớ không khổ. Tuy nhiên, đừng vì muốn giải thoát mà liều chết sớm để được khỏe được sướng thì không đúng với tinh thần giải thoát của đạo Phật. Thông thường thì người đời tham sống sợ chết, nên nghe nói chết thì rất sợ. Nhưng người biết tu thì ngay cuộc sống hiện tại lúc nào cũng an vui, khi chết đến thì bình thản không loạn động, nên không muốn chết sớm mà cũng không sợ chết. Vì vậy mà Phật tổ mới dạy chúng ta tu, tu là nguồn cội hạnh phúc, hết phiền não hết khổ đau. Kể từ ngày nay quý Phật tử ở gần thiền viện, mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ba mươi nên đi chùa sám hối và nghe quý thày giảng để biết phương hướng mà tu tập. Nghe một lần tuy biết đó, nhưng vì cái bệnh chúng sanh hay quên, nên mỗi tháng phải đi hai lần, nhờ các thày nhắc nhở, luôn ghi nhớ mới tinh tấn mà tu hành. ________________________________________ Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo Giáo lý của nhà Phật cốt yếu dạy cho con người tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Tuy nhiên, tùy theo sức huân tu cao thấp mà giải thoát cũng có nhiều từng bậc. Đại lược chúng ta có thể chia làm hai bậc là: Từng phần giải thoát và toàn phần giải thoát. Từng phần giải thoát là bậc thứ nhứt, tu mà còn luân hồi sanh tử, nhưng biết chọn lựa phước lành để đi trong đường tốt hưởng phước báo. Những loại chúng sanh đi trong các đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A tu la đều không biết chọn nghiệp lành nên đi vào con đường ác chịu qủa báo khổ đau. Và ngay như loài người có biết chọn nghiệp thiện, lại cũng có ngườì không biết chọn nên tạo lắm nghiệp ác, vì vậy mà chịu không biết bao nhiêu thứ khổ đau. Thế nên khi còn ở trong lục đạo luân hồi, sau khi bỏ thân này, muốn cho đời sống cuả thân sau được an vui hạnh phúc thì ngay hiện tại phải biết chọn lựa nghiệp lành để làm và để tránh ba nghiệp ác, đó là gốc của sự tu hành. Nghiệp là động lực dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, nên rất hệ trọng đối với sự tu hành. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp được dịch từ chữ Phạn Karma nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp. Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo và những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm của chính mình, mình làm chủ và tạo tác thành thói quen rồi cũng chính mình thừa nhận hậu quả do nó đưa tới. Kinh Phật dạy: "Chúng sanh làm chủ tạo nghiệp và thừa kế cái nghiệp do chính mình đã tạo". Không do ai khác ngoài mình. Chúng ta từ thuở sơ sinh cho tới chín mười tuổi đâu có ai mắc bệnh ghiền rượu, ghiền trầu hay ghiền thuốc... Thế mà từ 15, 16 tuổi cho tới già do sự tập tành thành thói quen, người thì ghiền rượu, người thì ghiền thuốc, kẻ thì ghiền á phiện... Đứa trẻ 15, 16 tuổi thấy người lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là oai là sang, nên bắt chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút thì mình làm chủ, thích hút thì hút không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều lần dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi mua về hút. Vậy khi đã ghiền rồi thì không còn làm chủ nữa mà nó làm chủ ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó, Vậy, nghiệp là cái chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi thói quen thuần thục thì nó làm chủ dẩn dắt sai sử chúng ta. Nếu ta tập thói quen là việc thiện thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện, nếu chúng ta tập thói quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất thiện. Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu ngày thành thói quen, một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một động lực thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh. Còn người khác, mỗi chiều đi quán uống rượu, lâu ngày thành thói quen nên ghiền, tới cữ đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bức rức khó chịu, ngáp dài, có một ma lực thôi thúc sai khiến tới quán rượu để uống rượu. Người đi chùa tụng kinh tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho bản thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành thói quen là nghiệp ác, đưa tới nghèo thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ. Vậy, nghiệp phát xuất từ đâu? Nếu thân tạo tác thiện đó là nghiệp thiện cuả thân, thân tạo tác ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng nói điều lành là nghiệp thiện của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của miệng. Ý nghĩ tốt là nghiệp thiện của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Đó là nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý. Như vậy, tạo nghiệp chủ động là mình, nếu muốn luân hồi chỗ tốt cho thân lành mạnh tốt đẹp được sống an vui hạnh phúc thì hiện tại phải biết tạo nghiệp thiện, nếu ngược lại tạo nghiệp ác thì luân hồi đến cõi xấu, thọ thân xấu sống đời đầy đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật trời cũng không dự phần trong đó. Như vậy, chúng ta là chủ chọn lấy hướng đi cho chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp thì cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi. Cũng như các học sinh sau khi đã chọn nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống, sướng hay khổ tùy theo cái nghề của mình chọn. Vậy, chúng ta tu là phải làm sao? Có nhiều Phật tử than vì bệnh tật vì nghèo khổ không thể tu. Người than như vậy là chưa biết tu, vì họ tưởng phải đi chùa nhiều, tụng kinh giỏi mới là tu. Như đã nói, tu là chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, mà nghiệp thì phát xuất từ thân, khẩu, ý. Giả sử như người buôn bán, nếu tráo hàng thật ra hàng giả, hoặc cân đo thiếu, hoặc bán người trả giá không đúng, nổi giận la chửi, đó là thân miệng tạo nghiệp ác, không biết tu. Nếu buôn bán với mức lời vừa phải, hàng thật nói là hàng thật, hàng giả nói là hàng giả, cân đo đúng, khách trả đúng giá thì vui vẻ bán, khách trả không đúng giá tuy không bán vẫn vui cười không tức giận mắng chửi. Hoặc đi đường gặp người già yếu nhường lối đi, nhường chỗ ngồi, đưa qua đưòng, đưa qua cầu, bưng xách nặng dùm người... đó là thân khẩu thiện, biết tu, tu trong công ăn việc làm, tu ngoài đường, tu ngoài chợ. Ở trong nhà, đối với người thân cũng phải giữ thân miệng luôn lành, làm cha mẹ giữ đúng tư cách của cha mẹ, con cái có lỗi lầm phải từ tốn răn dạy, hướng dẫn phù hợp với đạo lý cho con nên người, đó là tu. Nếu ỷ quyền cha mẹ, khi con làm không vừa ý, tay đánh đập, miệng la hét, chửi rủa, đó là không biết tu. Phận làm con đối với cha mẹ phải biết thương kính, chăm lo việc ăn mặc thuốc thang cho cha mẹ, đừng để cha mẹ buồn tủi lúc ruổi già. Nếu cha mẹ có sanh tật khó khăn thì nên an ủi khuyên lơn hơn là hờn trách chế diễu. Đó là chuyển nghiệp thân nghiệp khẩu luôn lành. Về ý nghiệp có phần vi tế hơn, với người biết tu cũng chuyển được nghiệp ác thành nghiệp thiện. Nếu đang ngồi chơi hay đi, hoặc làm việc, khởi nghĩ buồn giận người, biết đó là ác ý liền dừng không nghĩ, mà khởi nghĩ thương người nghèo khó, quý kính bậc hiền đức, tìm cách giúp đỡ người khốn khổ... Đó là chuyển nghiệp ý ác thành ý thiện. Nếu cho rằng đi chùa hay tụng kinh mới là tu, thì tu quá ít. Rồi bệnh nào tật ấy vẫn còn nguyên, tham sân si ích kỷ vẫn không chừa, tu như thế hiện tại tự mình không lợi ích và cũng không đem được an hòa cho mọi người chung quanh, mai sau bị nghiệp lôi vào đường ác là địa ngục ngạ quỉ súc sanh. Thế nên Phật dạy trong tất cả ngày giờ của mọi sinh hoạt đều phải tu mới chuyển được ba nghiệp trọn lành. Ba nghiệp lành rồi, ngay đời hiện tại tự mình không phiền não, lúc nào cũng nhẹ nhàng an vui. Trong gia đình mọi người không thắc mắc rày rà, trên thuận dưới hòa, đầm ấm hạnh phúc. Ngoài xã hội được an bình không loạn ly. Tu như thế mới thật là tu. Đừng vì muốn được đi chùa thường xuyên, muốn được tụng kinh nhiều mà phế bỏ cả việc nhà, thân miệng ý không chuyển cho lành, về nhà thì thắc mắc, gây cãi hết người này tới người nọ làm cho gia đình xào xáo. Đối với người ngoài xã hội thì không nhịn một lời không nhượng một bước. Đi chùa tụng kinh như thế là chưa thật tu. Có một bà cụ Nhật Bổn lần chuỗi niệm Phật rất giỏi. Khi lần chuỗi niệm Phật thì rất chăm chỉ, nhưng khi dừng niệm Phật thì rầy rà con cháu inh ỏi. Con trai bà thấy bà tu như thế nꮠbuồn và nói: - Má à. má tu má cứ lo niệm Phật đi, sao má cứ rầy rà hoài khiến xao lãng làm sao Phật chứng cho má? Bà nói: - Khi nào tao niệm Phật thì Phật thông cảm cho tao, còn khi nào tao rầy tụi bây thì tụi bây biết cho tao. Bà chia làm hai phần, phần niệm Phật thì tu với Phật, phần rầy la thì dành cho con cháu! Người thật tu là vừa tu với Phật cũng vừa tu với thế gian, tu như thế mới trọn vẹn. Có người ngoại đạo đến hỏi Phật: - Thưa ngài Cồ Đàm (họ Gautama, tên Siddhartha dòng Shakya, của Đức Phật Thích-Ca), cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu dốt người thì thông minh? Phật trả lời: - Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có người ưu kẻ liệt. - Do tạo nghiệp gì khiến cho con người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu? - Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh nên thọ mạng yểu. - Do tạo nghiệp gì thân người được khoẻ mạnh và do tạo nghiệp gì mà thân hay yếu đau bệnh tật? - Do nghiệp ác làm cho người đau khổ nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do nghiệp lành an ủi giúp đỡ người qua những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi. - Do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình giàu sang sung sướng và do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình nghèo khó khốn khổ? - Do đời trước biết làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo khó bệnh tật, nên đời này được sinh ra trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại còn tham lam rút riả của người nên đời này sanh thân trong cảnh ngèo đói thiếu thốn. - Do nghiệp gì người sanh ra được thông minh sáng suốt và do nghiệp gì người sanh ra lại ngu dốt tối tăm? - Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người được học hỏi hiểu biết nên đời này được thông minh. Người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìn hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người nên đời này bị tối tăm mê mờ. Vậy, tất cả quả tốt hay xấu mà chúng ta đang thọ hiện nay, gốc là từ cái nhân chúng ta gây thuở trước, chứ không phải bỗng dưng mà có, khi đã biết như thế, chúng ta muốn ngày mai được tốt đẹp an vui hay bị đau khổ, thì ngay bây giờ chúng ta phải chuẩn bị. Nếu chuẩn bị bằng nghiệp lành thì sẽ được đến cõi lành và được an vui hạnh phúc, nếu chuẩn bị bằng nghiệp ác thì sẽ đi vào đường dữ và bị khổ đau. Có người nêu nghi vấn: Hiện tại thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, mai kia thân hoại rồi hành động cũng mất, vậy nghiệp còn hay mất? Đa số người không tin nhân qủa, họ nghĩ rằng sau khi thân hoại hành động cũng không còn thì nghiệp cũng mất. Trong kinh Phật thường nói nghiệp theo mình như bóng với hình vậy. Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai có sự liên hệ tuá theo nghiệp của mỗi người, Ví dụ có hai người khách qua sông, một người chuyên nghề giáo, một người chuyên nghề thương mãi. Khi đi đường người thương mãi đem theo nhiều vàng bạc của cải, nhà giáo chỉ mang theo một cặp sách vở và chút ít tiền lộ phí, thuyền qua giữa sông bất thần gặp sóng làm chìm. Khi thuyền chìm, mạnh ai nấy lo lội vào bờ để thoát chết, lên đến bờ thì tất cả của cải tiền bạc của nhà thương mãi không còn, cặp giấy tờ tiền lộ phí của nhà giáo cũng mất. Cả hai đều trắng tay, nhưng kiến thức giáo dục của nhà giáo không mất, kiến thức mua bán của nhà thương mãi cũng không mất. Kiến thức là cái chuyên môn, sở trường của con người không mất tức là nghề nghiệp không mất. Như vậy, để thấy, qua những cuộc biến đổi tất cả những cái có hình tướng ngoài mình thì mất, nên khi thân này có hoại đi, nghiệp thức không ngoài mình nên không mất. Của cải tài sản thế gian, chúng ta tạo sắm nhiều thế mấy, khi chết rồi tất cả đều phải để lại không đem theo được một món nào, chỉ có mang theo nghiệp mà thôi. Đó là một lẽ thật. Thế mà, có nhiều người không hiểu không tin, rồi mê tín dán nhà lầu xe hơi, mua gấy tiền vàng bạc đốt để đem theo cho cha mẹ chồng con chết xài. Có người vội hỏi: - Con cháu vì thương cha mẹ, sau khi cha mẹ chết họ dán nhà, xe, mua giấy tiền vàng thật nhiều đem đốt và cầu nguyện cho cha mẹ được hưởng. Như vậy, cha mẹ có được hưởng không? - Nếu con cháu đốt giấy tiền vàng bạc rồi cầu nguyện cho cha mẹ lãnh, tôi e rằng ở tù chớ chẳng được hưởng. Tại sao? Vì mang bạc giả xuống diêm vương xài là bất hợp pháp. Nếu đốt nhà lầu xe hơi giấy, cầu cho thân nhân mình lãnh về ở và đi, tôi cho rằng nếu ai làm như vậy là hại thân nhân của mình. Vì nếu họ nhận được thì họ có nhà lầu để ở, có xe hơi để đi, có tiền bạc để xài, đủ tiện nghi quá thì họ sẽ ở mãi cõi âm, không đi đầu thai. Đó là trường hợp thân nhân của mình trong sanh tiền có chút phước lành. Còn nếu là kẻ có tội thì chết đọa địa ngục bị giam nhốt hành hạ làm sao mà nhận lãnh tiền bạc nhà xe để xài? Đó là chưa nói đến nhà xe tiền bạc bị đốt thành tro thì dùng làm sao được? Thật là vô lý! Như vậy, để thấy chính nghiệp lành hay dữ mà mình tạo ra nó dẫn mình đi thọ thân trong cảnh giới sướng hay khổ. Tất cả việc làm bên ngoài của người thân vì thương muốn giúp mình khó mà giúp được, mình làm mình phải chịu, người khác không thể thế được. Lại có người nêu câu hỏi: - Tại sao có nhiều người làm ác mà họ sống phây phây? Có nhiều người rất hiền lành, làm phước làm nghĩa mà lại gặp nhiều hoạn nạn. Như vậy là luật nhân qủa bất công sao? Lại có nhiều người không làm ác vừa làm ác thọ qủa báo liền, hoặc vừa làm thiện thì thọ qủa báo lành liền. Như vậy là sao? Trong kinh Phật có dạy: Nếu tạo nghiệp thiện được phước báo lành, tạo nghiệp ác bị qủa báo khổ thì Phật chấp nhận. Nếu nói rằng làm nghiệp thiện sau khi chết sẽ sanh về cõi Trời, làm nghiệp ác sau khi chết sẽ đọa xuống địa ngục liền, điều đó Phật không chấp nhận. Tại sao nói làm ác chịu chịu qủa báo ác, làm thiện được qủa báo thiện, thì Phật chấp nhận, mà nói tạo nghiệp ác sau khi chết đọa địa ngục, làm lành sau khi chết về cõi Trời thì Phật không chấp nhận? Về thuyết nghiệp Phật có nói cận tử nghiệp và tích luỹ nghiệp. Tích lũy nghiệp chứa nhóm nhiều kiếp đến giờ. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác lúc sắp chết. Cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp có ảnh hưởng chi phối nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ. Ví dụ có người tích lũy nghiệp lành từ xưa đến nay, bất thần họ mê muội có người xúi dục họ làm điều ác; làm điều ác này đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng vì tích lũy nghiệp lành họ còn nhiều nên chưa đọa địa ngục liền. Lại cũng có người làm nhiều điều ác, đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng gần chết họ làm lành, tâm họ luôn nghĩ tưởng đến điều lành. nên không đọa địa ngục. Thế nên nói làm ác khi chết nhất định đọa địa ngục, làm thiện lên thiên đàng, thì không đúng hẳn. Vì tuy họ có làm ác nhưng lúc gần chết cận tử nghiệp thiện họ quá mạnh có thể đưa họ đến cõi thiện. Còn người tuy làm nhiều điều thiện, nhưng khi gần chết họ nổi sân quá hung dữ, lúc đó cận tử nghiệp ác có thể đưa họ đến các đường xấu, Thế nên không phải chỉ tu khi sắp chết, hoặc chỉ tu ở giai đoạn thân còn mạnh khỏe mà phải luôn luôn giữ thân, khẩu, ý lành, từ lúc còn trẻ trung mạnh khỏe cho đến chung cuộc của kiếp người. Xưa có Maha Nam con của Cam Lộ Phạm Vương em nhà chú của đức Phật. Maha Nam tu cư sĩ giữ năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai... Một hôm hỏi Phật rằng: - Bạch Thế Tôn, bình thường con tu giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện, giả sử con chết bất đắc ká tử bởi một tai nạn xảy ra, sau khi chết con sẽ đi về đâu? Phật trả lời bằng một ví dụ: - Có một cây mọc từ đất lên, thân và cành cây nghiêng về một bên. Vậy khi cưa, thân ngã về bên nào? Maha Nam đáp: - Cây ngã về phía mà nó đang nghiêng. Phật dạy tiếp: - Cũng vậy, bình thường ông hay làm điều lành, khi chết tuy bị khủng hoảng, nhưng nghiệp thiện tích lũy nhiều sẽ hướng ông đến chỗ lành, không sao, đừng sợ. Vậy, chủ yếu của việc tu hành, chẳng những tạo nghiệp lành trong lúc còn mạnh khỏe mà lúc gần chết tâm niệm cũng phải lành thì mới bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường tạo nghiệp lành mà lúc gần chết tạo nghiệp dữ thì chưa bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường nếu lỡ làm ác, lúc gần chết tâm niệm lành thì cũng chuyển được phần nào nghiệp dữ, vì nghiệp không cố định. Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi nhắc lại câu chuyện Lý Bạch đời Đường ở Trung Hoa. Ông là một nhà thơ nổi tiếng nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc đạo mới tìm tới tham vấn. Tới nơi thấy Thiền Sư Ô Sào ngồi trên cháng ba của một cây cổ thụ. Chỗ ngài ở giống như một ổ quạ nên người đời gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào. Ông đứng dưới đất nhìn lên hỏi: - Bạch Hòa Thượng, Xin Hòa Thượng dạy cho tôi một phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được. Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống: Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh ká ý Thị chư Phật giáo Ông hãy về tu đi! Lý Bạch nghe qua, cười và nói: - Hòa Thượng nói bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì? Thiền Sư Ô Sào nói: - Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong. "Chư ác mạc tác" là tất cả nghiệp ác chớ có làm. "Chúng thiện phụng hành" là vâng làm tất cả các nghiệp lành. "Tự tịnh ká ý" là khéo lóng lặng tâm cho thanh tịnh. "Thị chư Phật giáo" đó là lời dạy của chư Phật. Tu cốt là bỏ nghiệp ác của thân khẩu ý và chuyển thành nghiệp lành. Bài kệ trên vừa nghe qua là dễ nhớ và dường như thấy dễ làm. Song, đi vào kinh nghiệm tu hành thì không đơn giản và dễ dàng vì tình thức mênh mang, chủng tử tập khí sâu dày, vừa bỏ được thói xấu này để phát huy điều tốt nọ, thì lại có dư tập dở khác đang ngủ ngầm hội đủ duyên nó trổi dậy lại phải điều phục nữa, và cứ thế làm mãi cho đến chung cuộc của kiếp người, có khi chưa xong, tâm vẫn còn lao xao lộn xộn. Thế nên người biết hướng thiện luôn luôn phải xoay lại mình để lo tu tập, ở trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp, người rỗi rảnh hay bận rộn, giàu sang hay nghèo hèn ai cũng tu được. Điều tiên quyết là dừng nghiệp ác, rồi tuá theo hoàn cảnh: người nghèo thì ra công sức giúp đỡ, kẻ giàu thì ra tiền của bố thí. Ai ai cũng biết tu thì tự mình được an vui, gia đình được hạnh phúc, xã hội được an bình. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng cuộc đời hiện tại được tươi đẹp và tạo cơ hội cho đời sau càng được an vui sáng suốt hơn. Vậy, từ đây về sau trọn đời quí Phật tử cố gắng tránh tất cả các điều ác, làm tất cả các nghiệp lành. Làm đó là làm cho chính mình chớ không phải làm cho ai khác. Đạo Phật được coi là đạo cứu khổ ban vui, mà cứu khổ ban vui là chỉ cho mọi người con đường nào đi đến khổ đau và con đường nào đi đến an lạc. Khi biết con đường đưa tới an lạc thì cố gắng đi, đó là đạo Phật cứu khổ ban vui cho quý vị. Còn nếu quý vị biết con đường thiện đưa tới an lạc, con đường ác đưa tới khổ đau mà cứ đi con đường đau khổ thì đó là tại quý vị không biết chọn đường đi, khổ là do mình chớ không do ai khác. Vì Phật đã vạch lối chỉ đường rất rõ ràng, nếu chọn và thực hành đúng lời Phật dạy thì được an vui, lợi ích, ngược lại thì khổ đau. Đó là then chốt mà quý vị phải biết rõ và nắm vững để tu hành
  20. Cảm ơn bạn và ý kiến góp ý của bạn. Thực ra là vì mình ít có thời gian post bài thường xuyên nên cứ muốn "làm một lèo" để mọi người "đọc luôn thể" cho tiện ấy mà. Dù sao mình sẽ cố gắng nếu tài liệu nào dài quá thì sẽ chia nhỏ từng phần như ý kiến của bạn. Mình mở toppic này với hy vọng để giúp mọi người một khi đã biết được "vận mạng" của mình thì cũng cần biết: Số phận của ta thực ra là do chính ta tạo nên, ta là chủ nhân chứ chẳng phải do "trời" định để, sắp đặt gì cả. Lá số Tử vi thực chất là tấm "Bản đồ về đường đi của nghiệp quả" của mỗi người được quy định bởi những nghiệp nhân mà mỗi người đã gây tạo từ tiền kiếp (quá khứ). Vì vậy "vận mạng" (hay số phận)- Thông qua lá số tử vi không phải là thứ "bất biến" mà nó hoàn toàn nằm trong tay ta và phụ thuộc vào Ta. Bằng sự nỗ lực của bản thân ta không chỉ có thể "cải số" ngay trong kiếp sống hiện tại, mà còn từ đó gieo nhân lành tốt đẹp cho hậu đời của ta nữa. Tuy nhiên muốn làm được điều này cần phải có sự hiểu biết và trí tuệ sáng suốt cùng sự kiên trì, bền bỉ "tu thân, sửa mình". Mình xin giới thiệu tiếp với bạn và mọi người bài viết sau của Hòa Thượng Tuyên Hóa, cũng rất chí lý để mỗi người dù ở trong cảnh nào: vui hay buồn, sướng hay khổ, đắc ý hay thất ý... cũng đều nên lắng lòng suy ngẫm mà không quên, không nản việc tu thân, sửa mình ngõ hầu giúp người đang thọ khổ biết an nhẫn hơn trước mọi nghịch cảnh trong cuộc sống và tích cực gieo trồng thêm phước báu để chuyển đỗi những nghiệp quả xấu của mình và kẻ dù đang gặp "vận hên" đang nhiều may mắn thì cũng chớ nên quá "đắc ý" mà quên tích phước tiếp cho mình. Tu hành phải biết chịu khổ Có câu nói rằng: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước". Chúng ta tu Ðạo phải tu khổ hạnh là vì lẽ gì? Mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa vì chúng ta muốn hết khổ. Khổ mà hết thì sẽ có vui. Nói về phước thì có loại nên hưởng và có loại không nên hưởng. Phước nên hưởng là phước do tay ta tạo tác ra, như có nhà đẹp, mặc quần áo đẹp, ăn thứ ngon, đi xe hơi tốt. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng sau khi hưởng thọ hết những thứ đó thì phước cũng tiêu luôn, và trong trương mục của ngân hàng phước báo thì ngạch số tồn khoản cũng không còn. Loại phước không nên hưởng là loại không do chính ta tạo dựng. Chúng đến với ta do mánh lới, như tiền của trộm cắp của người khác chẳng hạn. Chúng ta tiêu xài thứ đó một cách trái phép, tất sẽ bị pháp luật trừng trị. Vậy là ta đã thiếu nợ vì rút tiền quá lạm tại trương mục của ngân hàng phước báo. Thọ hưởng phước thì khi hưởng hết, phước sẽ không còn, huống chi lại cố tình hưởng những loại phước không nên hưởng. Như vậy, không những tiêu mất phước mà lại còn bị vỡ nợ. Vì lẽ đó mà phước chẳng thể hưởng hết, hưởng hết thì hết phước; khổ có thể chịu hết, chịu hết thì hết khổ. Làm người phải ghi nhớ điều này. Gặp hoàn cảnh gian nan khốn khổ, ta vui lòng tiếp nhận nghịch cảnh. Vậy là không có sự oán hận, ta không mang tâm bất mãn. Ðối với kẻ đã từng nghiên cứu Phật Pháp, tư tưởng và hành động của họ khác với người thế tục. Một đàng thì thuận theo giòng sanh tử và tạo nghiệp, còn người tu hành thì đi ngược giòng sanh tử và làm tiêu nghiệp. Trong mọi cảnh ngộ, những người này vẫn giữ tâm an nhiên, nên không cảm thấy khổ. Có câu nói: "Có nếm được cái khổ cùng cực, mới thành bậc thượng nhân". Thật là một câu chí lý. Nay tôi kể một công án để quý vị tham khảo. Vị vua cuối cùng đời nhà Minh là vua Sùng Trinh. Là một vị quân vương, ông có đủ trí huệ, nhưng phước báo dành cho ngôi vị này lại không có. Bởi cớ gì? Bởi lý do gặp khổ nạn mà không lãnh thọ cho đến khi hết khổ. Nguyên kiếp trước ông là một Sa-di, nhưng lại chết trước khi thọ giới Cụ túc, thành thử thân phận ông vẫn là tiểu Sa-di. Trong thời gian làm Sa-di, ông phải nhận hết những công việc nặng nhọc như gánh nước, bổ củi. Ông ráng chịu đựng, nén sự oán giận và ngày ngày khổ công trong công tác hộ trì Ðạo tràng. Một hôm, ông leo lên nóc nhà để sửa mái, nhưng chẳng may trật chân rớt xuống đất chết. Các bạn tu vội báo cho Phương trượng hay. Hòa Thượng viện chủ vốn biết rõ nghiệp quả của vị tiểu Sa-di này, muốn tìm cách giúp cho đệ tử lãnh thọ cho hết khổ nạn, nên đối trước các chúng tuyên bố rằng: "Tiểu Sa-di này làm việc thiếu cẩn thận, sẩy chân ngã chết, làm thiệt hại cho Ðạo tràng. Y đã phạm vào tội xâm tổn thường trú, đáng bị trừng phạt. Các ngươi hãy buộc thi thể của nó vào đoàn ngựa, bắt ngựa kéo đi cho đến khi tan xác. Khỏi cần phải dùng quan tài mai táng nữa". Các bạn tu nghe Phương trượng nói xong, thấy không đang tâm, nghĩ tới tình bạn tu mà động lòng trắc ẩn. Họ không nghe lệnh của Phương trượng rồi bàn bạc với nhau: "Chúng ta là sư huynh sư đệ, cùng tu chung một Ðạo tràng, lý nào để cho y bị ngựa kéo thây như vậy, chúng ta phải chôn cất mới phải". Bàn xong, tất cả chung tiền mua quan tài, rồi đem chôn xác trong núi. Bởi đã khổ công làm việc chùa, tiểu Sa-di đã từng tích lũy công đức, nên kiếp sau được làm vua, tức vua Sùng Trinh. Có điều, ông chỉ tại vị trong thời gian 16 năm, lại gặp lúc thiên hạ đại loạn, trong nước thì Lý Tự Thành làm phản, bên ngoài thì nhà Thanh mang quân xâm lấn. Trong bao năm, ông chưa từng được hưởng một ngày an ổn, liên miên bị bức bách ưu phiền. Chính vì lòng tốt của các vị sư huynh sư đệ của ông đã làm hại ông, không để cho ông thọ lãnh cho hết khổ nạn. Nếu như các bạn đó sớm nghe lời Phương trượng, dùng ngựa kéo thây thì nạn khổ của ông đã hết và ngày sau đâu còn xẩy ra cảnh Sùng Trinh tự ải ở Môi Sơn, vì nước mà tử vong. HT Tuyên Hóa [/size]
  21. A Di Đà Phật! câu chuyện bạn kể trên đây thật kỳ diệu và cảm động, đồng thời thêm một minh chứng nóng hổi cho diệu dụng không thể nghĩ bàn của việc niệm Hồng Danh Đức A Di Đà Phật , KA xin được tán thán và tùy hỉ công đức của bạn và những người đã có tấm lòng Bồ tát cứu giúp những người bị nạn. Cầu nguyện Hồng Ân Tâm bảo luôn gia trì cho bạn và người phụ nữ vô danh cùng gia đình vạn sự an lành, thân tâm thường lạc. Cầu cho tất cả chúng sanh đều sớm hữu duyên, tin sâu và tinh cần niệm Hồng Danh Đức A Di Đà Phật để hiện đời được nhiều lợi ích đồng thời tạo nhân lành vãng sịnh TỊNH ĐỘ LẠC QUỐC khi lâm chung. Mong rằng tất cả mọi người có kinh nghiệm gì về cảm ứng niệm Phật đều hoan hỉ sẻ chia với mọi người để góp phần tuyên dương chánh pháp, giúp khởi phát và trưởng dưỡng tín tâm của mọi người. Nhân đây KA cũng xin giới thiệu: MƯỜI LỢI ÍCH KHI THỌ TRÌ DANH HIỆU PHẬT (theo Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại Sự Nhân Duyên Kinh) (Vạn Tự Tục Tạng Kinh, quyển 1, kinh số 8) Chí tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được 10 điều lợi ích lớn:1.- Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực thần tướng và hằng sa quyến thuộc ẩn hình ủng hộ 2.- Thường được 25 vị Đại Bồ-Tát như Đức Quán-Thế-Âm và tất cả Bồ-Tát theo thủ hộ bên mình. 3.- Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm. Đức A Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người ấy. 4.- Tất cả ác quỷ như Dạ-xoa, La-sát đều không thể làm hại. Tất cả rồng độc, rắn độc và thuốc độc đều không thể xâm phạm. 5.- Không bị những tai nạn như: nước trôi, lửa cháy, giặc oán, đao tên, gông xiềng, tù ngục, hoạch tử. 6.- Những nghiệp ác về trước lần lượt tiêu diệt. Những oan mạng bị đương nhơn giết, nhờ công đức niệm Phật, đều được giải-thoát, không còn theo báo phục. 7.- Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành hay thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà. 8.- Tâm thường an vui, nhan sắc sáng nhuận khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp. 9.- Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc hoan hỷ lễ bái cũng như kính Phật. 10.- Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được thấy Phật A Di Đà và các Thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực-Lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu. Mười điều lợi ích như trên do chính kim khẩu của đức Phật nói ra mà kinh văn đã ghi chép lại. Niệm Phật đã có lợi ích trong hiện tại và tương lai như vậy, thì đó chính là pháp khẩn yếu trong các môn thế và xuất thế gian. Cho nên người tu chỉ gắng tinh tấn, đừng mang tâm niệm hoài nghi Nam Mô Thường Tinh Tiến Bồ tát Ma Ha Tát Nam mô hoan hỉ Tạng Bồ tát Ma Ha Tát
  22. (Tiếp theo) 13. BÊN BỜ SỐNG CHẾT, ĐƯỢC CỨU SỐNG LẠI Gia đình Liên xã niệm Phật ở Đài Trung, tổng cộng có 48 ban, đều do lão ân sư Bính Công tổ chức và đặt tên. Ban Song tu là một ban được lập hồi tháng 8 năm Dân quốc thứ 44, Ban trưởng Khâu Tâm Trí, Phó Ban trưởng Lâm Đức Kim, Lý Trần Trù v.v. đều là những người rất nhiệt tâm khuyên người niệm Phật. 13 năm trở lại đây, cứ hai tuần giảng Phật pháp một lần, chưa từng gián đoạn. Mỗi lần trước khi giảng có cư sĩ Triệu Đàm Thuyên và phu nhân Lệ Lượng hướng dẫn khóa tụng, cho nên ban viên mọi người gần như đều thuộc lòng kinh chú. Ngày 20 tháng 4 âm lịch lần này lúc học nhơn (lời khiêm xưng của bút giả Khán Trị) đang giảng “Khuyên tu pháp môn niệm Phật”, nhắc lại chuyện cảm ứng của vị Liên hữu Lý Chuẩn cứu A Châu. Lúc đó, trong hội giảng có một vị liên hữu họ Tiêu tên Hiệp, nhà ở đường Thái Bình, tức thời đứng dậy nói với mọi người: “Tôi có thể chứng minh đích thật là có ma quan tài, do vì em gái tôi hồi hai tháng trước suýt nữa bị nó hại chết. Em gái tôi tên là Tuyết ở làng Bán Bình Lịch, vào hai tháng trước, A Tuyết sau khi sanh hơn hai mươi ngày còn chưa đủ tháng, sáng sớm hôm đó bỗng nghe một hồi chiêng trống của một đội nhạc, bà mẹ chồng ở nhà kế bên, nhìn không rõ ràng, cứ mãi kêu: “Tuyết à, đi ra nhanh xem đón thần, thật là vui nhộn quá!”. A Tuyết từ trong phòng ló đầu ra xem, thì ra không phải đám rước thần, mà là đám tang khiêng một cỗ quan tài đi qua, tự dưng cảm giác lông tóc dựng đứng, quay mình vào phòng, liền nghe đau đầu, ớn lạnh phát sốt, em rể tôi liền mời bác sĩ chích thuốc, chẳng những không hiệu quả gì mà còn trầm trọng hơn. A Tuyết liền kêu anh ta đi mượn xe hơi đến nhà tôi nhanh chóng chở tôi đến. Tôi vừa nhìn thấy A Tuyết em tôi tim đập liên hồi, nằm trên giường rên rỉ, lập tức đứng lên thắp ba nén hương cầu nguyện Phật, Bồ Tát gia hộ, lại cố sức niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Niệm khoảng nửa giờ đồng hồ và niệm chú đại bi vào nước cho nó uống. Sau khi A Tuyết uống nước chú đại bi liền nói đầu hết đau, tim cũng đập nhẹ lại nhiều, về sau sức khỏe hồi phục dần dần. Nhưng đời người thì tai nạn nhiều, phiền não nhiều. Sau hơn mười ngày, em rể tôi lại buồn bã đến đòi tôi lập tức lên xe hơi đến nhà nó. Tôi hỏi là có chuyện gì? Em rể tôi nói: Bé Anh, đứa con gái sáu tuổi của nó bị bệnh sởi bỗng nhiên biến chứng không biết gì hết, hiện đặt nằm trên gạch chỉ còn có hơi thở yếu ớt. Khi tôi đến nhà em gái xem, con bé Anh bình thường rất là lanh lợi, bây giờ đang nằm trên nền gạch dáng vẻ như sắp dứt thở, rất nhiều người hàng xóm đều đang than thở tiếc thương. Tôi liền cũng y như lần trước lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát và niệm chú Đại bi vào nước, dùng muỗng canh đút nước vào miệng của bé. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, con mắt ngây dại của bé Anh đã biết nhìn xem người rồi. Lúc đó những người hàng xóm đứng phân ra hai bên trái, phải. Tiếng kêu bên trái: “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên trái nhìn người; tiếng kêu bên phải “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên phải nhìn người. Lúc đó mọi người đều khen ngợi bà chị vợ thỉnh được Phật tổ lại cứu sống được bé Anh, về sau cho uống thuốc liền có hiệu nghiệm, sức khỏe cũng hồi phục lại dần dần”. Tiêu Hiệp nói đến đây, trong hội chúng mọi người đều nghe thấy, tôi liền hỏi cô ta: “Cô đã biết sự lợi ích của việc niệm Phật, tại sao lại không dạy em gái cô xưng niệm danh hiệu Phật, hai thời sớm tối để có thể ai ăn nấy no, tội nghiệp của người nào thì người đó tự tiêu, tự mình biết niệm há chẳng lợi ích còn lớn hơn sao?”. Tiêu Hiệp đáp: “Tôi đã có dạy nó niệm, tôi còn thỉnh Tây phương Tam Thánh về an vị cho nó rất trang nghiêm, nhưng mà bốn đứa con nhỏ của nó cứ quấn lấy bên mình, không rảnh để nghe Phật pháp, làm sao mà có thể niệm được như pháp đây? Tôi từ ba năm nay nghe bà giảng pháp môn Tịnh độ không hề gián đoạn, hiện nay đi, đứng, ngồi, nằm tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, quyết định đời này thoát khỏi biển khổ sanh tử này”. Tôi nghe xong rất là khen ngợi, nếu không phải cô ta dụng công em gái và cháu gái ngay nơi bờ vực sanh tử được? 14. NƠI Ở CỦA HUNG THẦN HÓA THÀNH TỐT LÀNH Từ xưa đến giờ trong nhà Phật có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật hoan hỉ, cửu huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu Phật có thể tiêu tai giải oán, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành. Các vị nếu không tin, tôi xin đưa ra một việc để chứng minh. Việc này xảy ra tại Tân Trúc Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở Đài Trung mà chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một lần, chưa từng gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi người đều gọi là anh Kiềm. Có một hôm anh Kiềm này nói với những nhân viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật thật là tốt, thật có thể lợi ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”. Các nhân viên hoằng pháp hỏi anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên nhà tôi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo mộ, cũng không thể cúng tế được. Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về, không bệnh thì cũng chết! Nếu như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu, dê đó sau khi về nhà, người và vật không chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa phương đều không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”. Đến năm Nhật Bản đầu hàng, Đài Loan được khôi phục, một người anh họ của tôi nói với tôi rằng: “Ngôi mộ kỳ lạ đó của chúng ta, hiện nay mộ bia đỏ hết phân nửa, nếu đi tảo mộ, nhất định con cháu thêm phước phát tài”. Tôi nói: “Tôi không dám nghĩ đến, tôi cũng không cần dựa vào phần mộ đó để thêm phước phát tài”. Người anh họ đó lại nói: “Chú không đi, thì tôi tự đi quét dọn cúng tế cũng được”. Đến ngày tiết Thanh minh, người anh họ của tôi quả nhiên chuẩn bị ba thứ gia súc, rượu lễ đến trước mộ cúng tế. Việc này trải qua sau đó một tháng, ba đứa con trai của người anh họ tôi lần lượt chết hết! Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay không? Tôi tin rằng không có người nào từng nghe qua việc quái dị như thế! Đến sau khi nạn lụt “bát thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi: “Ngày hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi quái gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước cuốn ngã đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa sang, mộ này nhất định sẽ sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra đại họa! Làm sao bây giờ?”. Tôi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”. Người anh họ đó vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tôi nói “Đợi một tháng nữa”. Tôi từ khi nghe được pháp môn Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng gián đoạn. Từ lúc nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí tâm, khẩn thiết cầu xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò hộ cho con, con sau khi biết tin Phật, bạn bè thân thích đều nói con là mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh cầu Phật, Bồ Tát thi triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho con, sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người và vật.”. Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu nguyện như thế. Đêm trước tới ngày sửa sang, tôi càng khẩn thiết cầu xin, nửa đêm bèn nằm mộng, thấy phần mộ đó, có một phần mộ nằm phía Bắc hướng về Nam, mặt trước có một khe nước nhỏ, nước trong khe trong vắt, chảy về phía trước, hai bên mộ có hai cây đại thọ cao lớn, mộ bia ngã xuống, ở đầu phần mộ lộ ra một cái hang tỏ rõ sự suy sụp hoang vắng. Bỗng nhiên trong mộ xuất hiện một người con gái hung dữ, trang phục theo lối cổ, lúc đó tôi rất là sợ, liền chắp tay lại niệm “ Nam mô A Di Đà Phật”… Nam nữ đứng gần đó xem rất đông, trong đó có một ông già nói với tôi rằng “Đứa con gái này trước là một con quỷ nữ rất hung dữ, do vì con cháu đời sau của nó niệm Phật, bây giờ nó đã trở thành con quỷ lành rồi”. Tôi nhìn thật rõ ràng, nghe cũng rõ ràng, lúc tỉnh lại thì ra chỉ là giấc mộng, trong lòng nghĩ cảnh giới này trong giấc mộng nhất định là Phật, Bồ Tát, đại từ đại bi, đại oai thần lực dẫn mình đi xem trước, để ngày mai mình có thể an tâm đi sửa sang ngôi mộ. Sáng sớm, người anh họ của tôi đến nói: “Kiềm à, tôi dẫn thợ cùng tất cả những dụng cụ như xi măng, cát đá đều đem đến cả rồi, chú đi nhanh đi!”. Tôi mới hỏi: “Tôi xin hỏi anh phương hướng và tình trạng chung quanh ngôi mộ đó và người chôn trong mộ có phải là người nữ không?”. Anh họ của tôi kinh ngạc nói: “Chú có phải đã đi xem qua trước rồi không? Nếu không thì chú làm sao biết được?”. Tôi mới nói “Đêm qua tôi mộng thấy”. Tôi đi mua hương hoa, quả phẩm và đem theo quyển khóa tụng. Đến trước mộ nhìn xem, quả nhiên giống y như cảnh đã thấy trong giấc mộng đêm qua. Tôi mới bày các hương hoa quả phẩm ra, đốt đèn hương lên, lễ lạy nói: “Tôi hôm nay là chỉ đến sửa sang phần mộ của bà, trước sẽ tụng kinh A Di Đà, chú vãng sanh và Thánh hiệu A Di Đà Phật cho bà, bà cũng phải niệm Phật thì cũng sẽ lìa khổ được vui, nhất thiết không được hại người, chẳng những không được hại người trong nhà, cũng không được hại người khác”. Sau khi nói xong, liền ở trước mộ tụng kinh niệm Phật, sau đó mới bắt đầu làm cỏ, ban đất, sửa sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra chính là bà nội của ông nội tôi. Tôi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình yên vô sự. Chuyện kể đến đây, chắc có người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao có dài như thế? Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một ngày ở cảnh giới quỷ thôi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của loài quỷ vừa dài vừa khổ! Có người vẫn còn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói: “Chúng sanh ngã chấp ngã kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp. Ta, ngươi tranh đoạt, ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân, kết oán báo oán, đòi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của anh Kiềm cùng với cái quá khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở được, cho nên mới hung ác hại người như thế, nếu như không có anh Kiềm chánh tín niệm Phật, dùng sức đại từ đại bi của Phật, thì không cách gì tiêu giải được oán cừu này. Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” nhiều lên. 15. THUỐC A GIÀ ĐÀ TRỊ ĐƯỢC VẠN BỆNH Nhân duyên hoằng pháp của Liên xã Đài Trung đến miền Đông, khởi đầu từ đại hội diễn giảng của liên xã Đài Trung nhân dịp tân xuân năm Dân Quốc thứ 43. Trong thính chúng có vị nữ sĩ Hồng Lâm Trản liên tục năm ngày nghe giảng. Từ Đài Đông xa xôi đến đây, thời gian ở Đài Trung, bà ta ở cửa hàng bách hóa Vĩnh Phong, được sự chiêu đãi chân thành của Hoàng Hỏa Triều cư sĩ Ký phu nhân Nguyễn Miến. Lúc bấy giờ nữ sĩ Lâm Trản rất xanh xao, vàng vọt, trên cổ đeo một sợi dải băng, chốc chốc lại ho, bà ta hỏi Hoàng phu nhân: Ở Đài Trung có bác sĩ giỏi không, dẫn bà ta đi xem bệnh. Ở Đài Đông bà đã từng đi rọi X quang nghe nói là phổi bên trái có ba lỗ. Mấy tháng nay uống cả ký Cao ly sâm chính hiệu và chích hơn một trăm mũi thuốc, đều không thấy hiệu quả! Lúc đó là khoảng 5 giờ chiều, nhà họ Hoàng là một gia đình Phật tử thuần thành, hai thời khóa sớm tối từ nào tới giờ chưa từng gián đoạn, bà Hoàng phu nhân Nguyễn Miến mời bà Trản đến bàn thờ lạy Phật, còn lấy một xâu chuỗi, chỉ cho bà ta phương pháp niệm Phật và nói rõ về đạo lý trị hết được muôn bệnh của môn thuốc A Già Đà này cho bà ta nghe. Khóa tụng xong còn cầu nguyện xin một ly nước chú đại bi cho bà ta uống. Sau buổi cơm tối bà Miến liền nói: “Chị Trản à, chị thật là có phước, bắt đầu từ tối nay, Liên xã của chúng tôi liên tiếp giảng pháp năm ngày”. Tối đó liền dẫn bà ta đi nghe giảng. Thật là không thể nghĩ bàn, đêm đó bà Trản suốt một giờ không ho một tiếng nào, khi ngủ, ngủ thẳng đến sáng. Bà Trản cảm thấy Phật pháp thật là lý thú, ở nhà họ Hoàng ban ngày chí tâm niệm Phật, đến tối đi nghe giảng, liên tục năm ngày, một phần khái luợc về Phật pháp sơ cơ đã hiểu được đôi chút, tinh thần đã có chỗ nương tựa, sức khỏe cũng tốt rất nhiều. Bà than thở: “Người ở Đài Trung rất là có phước, người Đài Đông chúng tôi chưa từng được nghe qua chánh pháp sâu sắc như thế này!”. Bà Miến đáp lại: “Chị hiện nay đã hiểu rõ được cái hay của việc tin Phật, niệm Phật, chị nên phát Bồ đề tâm, thỉnh nhân viên hoằng pháp của Liên xã đến nơi của chị hoằng dương Phật pháp, khiến những chúng sanh có duyên cũng được lợi ích, thì công đức của chị thật là vô lượng!”. Bà Trản nghe xong, vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh dùm. Tiền xe hay tiền máy bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”. Giao thông từ 14 năm về trước không tiện lợi như ngày nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là đến rồi. Lúc bấy giờ phải mất hai ngày, phải ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng trọ ở Cao Hùng, thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ Tát phò hộ. Nguyên là trên chân của Pháp Viên có cái mụt nhọt, đã từng trị liệu hơn một tháng, bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không còn cảm giác đau nữa. Lúc bấy giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến phòng trọ ở Cao Hùng, phát đau đến mức không chịu nổi, bà chủ phòng trọ nhìn thấy chân của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có một loại thuốc mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này, liền nhờ người mua hai hoàn. Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có công hiệu đặc biệt: hết đau, nuôi thịt, sanh da, ba phần đều tốt, sáng hôm sau khỏi được phân nửa, ba ngày sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm của Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ, thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu không thì đi không được rồi. 16. NƯỚC ĐẠI BI KHIẾN CHO THAI ĐÃ CHẾT SỐNG LẠI Pháp Viên giảng năm ngày tại chùa Hải Sơn ở Đài Đông. Ngày viên mãn, những người nghe và người giảng sắp sửa chia tay, cái lúc lưu luyến không rời, bỗng nhiên có một bà lão khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra một câu hỏi: “Những điều của cô giảng đều là những đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi, cho đến cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh. Nhưng bây giờ yêu cầu tiêu trừ bệnh hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu pháp như thế nào? Cô có thể từ bi chỉ bày cho được không?”. Pháp Viên lúc đó nhìn xem bà lão này trên cổ có một cái nhọt lớn cổ áo cài lại không được, hở ra khoảng năm - sáu tấc, Pháp Viên suy nghĩ người ngày ắt là muốn cầu phương pháp tiêu trừ bệnh nhọt của bà ta, lúc đó thiệt là tiến thối lưỡng nan, nếu như bảo bà ta cầu Phật, Bồ Tát gia bị, cái nhọt lớn trên cổ sẽ hết, chưa chắc nắm chắc được không? Nếu như không bảo bà ta cầu, nhưng mà đã phô trương Phật pháp vô biên năm ngày rồi, có cảm ứng không thể nghĩ bàn, chung quanh lại có đông người đang chờ nghe, Pháp Viên nhứt thời phải dùng phương tiện khéo léo đáp rằng: “Nếu như yêu cầu tự mình hoặc là người khác tiêu tai thoát nạn, hết bệnh khổ v.v… nhất định phải sớm tối tụng niệm một quyển kinh A Di Đà, bảy biến chú vãng sanh, vài trăm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, hoặc vài ngàn câu, vài muôn câu càng tốt; nếu như người không biết tụng kinh A Di Đà, thì chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật cũng được, nhưng nhứt định phải tụng bài Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung... sau đó có yêu cầu điều gì thì lại dùng tâm chí thành, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì nước chú Đại bi cho uống, nếu thọ mạng ở đời chưa dứt, thì có thể giảm nhẹ đau khổ của bệnh tật; còn nếu thọ mạng ở đời sắp hết, thì nhờ sức công đức của khóa tụng niệm Phật được vãng sanh Tây phương, như thế thì được mãi mãi thoát ly bệnh khổ và tử khổ. Đây là phương pháp rốt ráo vậy”. Ngày tháng như thoi đưa, thời gian như tên bay, thoáng một cái đã một năm trôi qua, Lâm Trản ở Đài Đông lại đến Liên xã, lần này sắc mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã dứt hẳn không còn thấy tăm hơi gì nữa, trọng lượng thân thể cũng tăng hơn mười kí, y phục toàn là đồ mới may, đồ cũ không còn cái nào mặc vừa nữa, bà ta nói với Pháp Viên rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi người đều yêu cầu tôi đến mời bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không những tôi niệm Phật được cảm ứng, mà còn bà Phổ Ái Cô, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy bà ta phương pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi chú uống, bà ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà ta đã hết hẳn, cổ áo cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là “kỳ diệu”” Bà Trản lại nói tiếp: “Không những mụt nhọt to của Phổ Ái Cô tiêu trừ, được cảm ứng, cái việc càng khiến cho người khó tin hơn nữa chính là việc con dâu của Phổ Ái Cô, cô ta ở trên núi vùng phụ cận của Đài Đông, đã có mang mười tháng, người phụ nữ này rất là siêng năng làm lụng, tự nghĩ sắp tới ngày sanh nở rồi, trong ngoài cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ, cả phân trong chuồng heo cũng gánh hết mấy gánh, không ngờ từ hôm đó thai nhi ở trong bụng không còn động đậy nữa, hỏi thăm những người lớn ở trên núi, người ta nói là lúc quét dọn làm sạch chuồng heo động thổ, động đến thai khí, đến ngày thứ ba vẫn không động đậy gì, người phụ nữ mang thai này, sáng sớm đã xuống núi đến tìm mẹ chồng cô ta, Phổ Ái Cô lại không có ở nhà, cô ta tự đi đến khoa phụ sản để khám, bác sĩ phụ sản nói: “Thai nhi ở trong bụng của cô chết đã ba ngày rồi, tự mình sanh không phải là việc dễ, ắt phải dùng đến khí cụ cắt thai nhi ra từng miếng, từng miếng lấy ra, hoặc là phải phẫu thuật mới đem thai nhi chết ra được. Ngoài ra không còn cách nào khác”. Người phụ nữ mang thai đắn đo suy nghĩ, việc phẫu thuật lấy thai nhi ra không phải là việc nhỏ, không có mẹ chồng hay chồng cho phép, cô không dám chủ động, liền trở về trên núi, lại trải qua bốn ngày nữa, thai nhi trong bụng vẫn không có động đậy gì, cô ta lại xuống núi lần nữa tìm mẹ chồng: Phổ Ái Cô, nói rõ việc thai nhi bất động đã bảy ngày rồi, Phổ Ái Cô liền dẫn con dâu đến một bác sĩ phụ khoa khác khám. Vị bác sĩ này cũng chẩn đoán y như vị bác sĩ trước, nói thai đã chết trong bụng bảy ngày rồi, không cắt thai nhi ra từng miếng từng miếng lấy ra, hoặc phẫu thuật thì không được! Phổ Ái Cô dẫn con dâu đi về, quỳ trước bàn Phật, thắp hương đốt đèn dạy con dâu xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, bà ta bắt đầu tụng kinh. Sau đó niệm một ly nước chú đại bi, bảo con dâu uống và phải chí tâm cầu xin Phật, Bồ Tát phò hộ, hy vọng tử thai trong bụng con dâu sanh ra được cách tự nhiên, không phải đau đớn, phiền phức vì mổ xẻ, lúc đó mặt trời cũng đã lặn rồi, Phổ Ái Cô liền giữ con dâu ở lại ngủ với bà không phải về núi. Đang ngủ nửa đêm con dâu bà kêu mẹ chồng nói: “Thai nhi trong bụng động đậy lại rồi”. Mẹ chồng cô ta đáp lại cô ta rằng: “Chắc là Phật, Bồ Tát phò hộ, tử thai sắp sanh ra đấy”. Đến sáng, thai nhi của người phụ nữ mang thai này đã động đậy bình thường như trước, sức khỏe cũng khỏe khoắn nhiều, không còn chút gì khó chịu nữa, liền lại trở về trên núi, lại trải qua một tuần lễ, người phụ nữ mang thai này sanh ra một bé trai rất là thuận lợi, mẹ con đều bình an vô sự. Hồng Lâm Trản đến Liên xã nói ra việc này, thật là một sự linh cảm kỳ dị, rất nhiều người nghe, chắt lưỡi khen là kỳ lạ mãi không thôi. 17. TÉ XUỐNG LẦU BỊ THƯƠNG, QUA NGÀY SAU KHÔNG SAO Lần thứ hai đến Đài Đông, nơi khoảng đất trống lớn chùa Hải Sơn liên tiếp giảng năm ngày, khuyên người niệm Phật sửa ác làm lành, những thiện tín phát tâm cả một vùng miền Đông đều đến ước hẹn đi kết pháp duyên, mỗi nơi đều ước định ba ngày. Năm ngày ở Đài Đông viên mãn, liền đến Tân Cảng. Đoàn này do ba vị ở Đài Đông phát Bồ đề tâm lãnh đạo, đó chính là Hồng Lâm Trản, Trần Ngọc Phương và một vị lão Bồ Tát khác, thêm vào hai vị: Pháp Viên và Huệ Lâm ở Đài Trung, tổng cộng là năm người, ngủ lại trong một ngôi chùa kiểu Nhật thời kỳ Nhật chiếm cứ, địa thế, phong cảnh đều rất tốt, phía sau hướng ra biển, chiều tối các thuyền đánh cá trở về thắp đèn nhấp nháy giống như một bức tranh vẽ, cảnh sắc mê người, đến nay nhớ lại vẫn như ở trước mắt, ba ngày hoằng pháp đều ở trong ngôi chùa này, Phật, Bồ Tát cũng ban cho một cảm ứng đặc biệt. Sự việc là vào buổi sáng ngày thứ hai, có người đến chùa nói: “Có một bà tối qua đến nghe Phật pháp về nhà, leo lên trên lầu liền bị té xuống, khắp mình đau nhức khó chịu, kêu la cả đêm, không thể cử động, chỗ nào bị thương vô phương chẩn đoán, xin nhờ các vị tiêu trừ tai ách cho bà”. Pháp Viên nghe nói như tiếng sét giữa trời nắng, không biết làm sao, đành phải cùng với vị sư đương gia ở chùa và Huệ Lâm, ba người đến nhà bà ta, lên lầu liền nhìn thấy bà lão khoảng bảy mươi tuổi này đang nằm rên rỉ trên giường, rất là tội nghiệp, Pháp Viên liền quỳ xuống trước tượng Phật của họ thờ một cách đơn giản, dùng tâm chí thành khẩn thiết hướng lên Phật, Bồ Tát cầu nguyện rằng: “Vị lão tín nữ này là người tối hôm qua đi nghe pháp về nhà té xuống lầu bị thương. Nếu như không phải đến nghe Phật pháp thì đối với chúng tôi không can hệ gì, do vì chúng tôi thành tâm thành ý đến đây khuyên người niệm Phật, sửa ác làm lành khiến cho người thoát khổ được vui; không may xảy ra tai nạn ngoài ý muốn này, khiến cho tâm chúng tôi không yên, bạch Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài cũng phải chịu một phần trách nhiệm, nhanh chóng biến hóa cứu giúp cho bà già này tức thời sức khỏe được hồi phục mạnh khỏe, bình an vô sự. Nếu không thì bà lão này nếu như bị chết thì khó tránh khỏi người ta chê cười Phật pháp không linh!”. Sau khi khấn thầm như thế liền tụng một phẩm Phổ Môn, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì một ly nước chú đại bi, tự tay đưa cho bà ta uống, cũng dạy cho bà ta niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, đến trưa ngày hôm sau, sức khỏe của bà lão này đã an nhiên vô sự, tinh thần khoan khoái có con dẫn đi, trong tay cầm một cây gậy chống, đi bộ đến chùa lạy Phật và hướng về đại chúng nói lời cám ơn. Đây không phải Phật, Bồ Tát gia bị, làm sao được hồi phục dễ dàng như thế! Đến bây giờ nhớ lại vẫn còn cảm thấy mắc cười, lúc đó trong lòng của Pháp Viên hoảng loạn như đang có tang, đau khổ không chịu nổi, vì là sợ hai chữ “Phật giáo” bị người hủy báng. 18. BỒ TÁT GIA BỊ KHAI MỞ TRÍ TUỆ CHO TÔI Giảng ở Tân Cảng ba ngày xong, một đoàn năm người lại đi đến Quan San giảng ba ngày. Cuối cùng lại đi chùa Hoa Sơn ở Ngọc Lý, chùa này là một chùa Tịnh độ tông vào thời Nhật chiếm cứ, dưới sự sắp đặt của vị Đại hộ pháp và chấp sự chùa này, mỗi tối khai giảng ở miếu Đế Quân, nơi trung tâm của phố xá rất là náo nhiệt, thính chúng rất dễ tụ tập. Giảng đến ngày thứ hai, Phật, Bồ Tát lại hiển kỳ tích. Trưa hôm đó bỗng nhiên có một vị cư sĩ nam ở tỉnh khác đợi tôi ở phòng khách, nói là muốn đàm luận Phật pháp, trao đổi ý kiến. Vị cư sĩ đó trước tự giới thiệu tên họ và nói là quy y với một vị đại pháp sư nào đó ở Đài Bắc, hiện nay thì chỉ chuyên nghiên cứu Thiền tông. Nghe ông ta nói như nước chảy suốt hai mươi phút, thì đã biết ý định đến đây của ông ta, không phải đơn giản có thể đối phó được! Lúc đó trong tâm tôi khấn thầm đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị khai mở trí tuệ cho tôi để có thể ứng phó theo ý muốn, đối đáp trôi chảy, nếu không thì hôm nay bị xui xẻo rồi! Vị đại đức đó thấy tôi dùng tiếng quốc ngữ lựng khựng, hỏi đâu đáp đó, gương mặt của ông ta hơi khẩn trương hỏi một câu: “Tối qua nghe bà giảng Tịnh độ tông, sau khi chết thần thức vãng sanh về Tây phương. Thần thức nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem!”. Tôi liền trả lời ông ta: “Câu ông vừa mới nói, nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem coi!”. Lúc đó trong nhà khách một bầu không khí yên tĩnh, bốn mắt nhìn nhau lặng yên không nói, tôi lại trả lời ông ta một câu: “Nói cho rõ một chút, ông ban đêm nằm mộng cái đó là thần thức”. Ông ta khựng lại một chút, rồi quay đầu mà đi. Tôi sợ ông ta xấu hổ thành giận, lại tìm đến quấy rầy, bèn nói với vị trụ trì rằng: “Vị đại đức kia nếu lại đến tìm tôi thì sư nói “bây giờ đang chuẩn bị giảng, xin lỗi!”, là được rồi”. Vị sư trụ trì nói với tôi rằng: “Cái người đó rất là quái gở, có vị đại đức hay cư sĩ nào đến giảng Phật pháp, hoặc giảng những sách thiện, ông ta đều đến vấn nạn mấy câu, khiến người ta không thoát ra được, có người không cách gì ứng phó liền bỏ đi”. Thật là ngoài dự liệu, ngày hôm sau, ông ta đã cùng mười mấy người bạn nam ngồi hàng phía trước nghe giảng một cách rất thành tâm thành ý. Sáng ngày hôm sau còn đến nói: “Thỉnh cư sĩ giảng thêm vài ngày nữa, ngày hôm kia tôi rất là bội phục trí huệ của bà, cho nên đi tuyên truyền, khuyên được mười mấy người bạn đến nghe giảng, tối nay sẽ càng tăng thêm số thính chúng”. Đến nay nhớ lại tình hình lúc đó vẫn còn run, nếu không phải Phật, Bồ Tát thầm gia bị cho, thì một Pháp Viên([1]) ngu ngốc từ nào, làm sao có được tài năng đối đáp cùng vị đại đức tông môn đó?! 19. CHÍ TÂM NIỆM PHẬT, KHẮC PHỤC ĐƯỢC TAI NẠN GIÓ LỬA Cư sĩ Trần Ngọc Phương ở đường Bảo Tang phố Đại Đồng thị trấn Đài Đông. Cô ta trước kia khi chưa nghe Phật pháp là một chuyên gia trang phục, là người thông minh, vốn đầy đủ trí huệ, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ liền giác ngộ đời người vô thường, vạn pháp đều không, liền bỏ nghề may đồ cưới cho người, đến chợ mua hai xâu trân châu, về nhà xỏ lại làm thành một xâu chuỗi, sớm tối bắt đầu khóa tụng, ngày ngày niệm Phật không ngừng. Đây là về mặt tự lợi, đồng thời phát tâm Bồ đề mong muốn đem lợi ích đến cho người khác. Lúc bấy giờ thiện tín ở Đài Đông đều là hàng sơ cơ học Phật, rất ít người niệm Phật, cư sĩ Ngọc Phương từ cục bưu chính chuyển 500 đồng tiền Đài Loan mới đến thư cục Thụy Thành mua năm mươi xâu chuỗi, về sau lấy chuỗi đến nhà những bạn thân dạy họ niệm Phật và cho họ những xâu chuỗi đó. Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi đến xưởng nước tương Nhựt Đông khuyên người niệm Phật, người chủ của xưởng tên Hà Tằng Thanh, Hà phu nhân tên là A Quai, lúc đó nhà của ông ta ở đường Nhân Ái (tên cũ là đường Thảo Lịch). Đài Đông 14 năm trước không giống như bây giờ: nhà lầu xi măng cốt thép mọc đầy. Lúc bấy giờ phần lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt Đông cũng thế, cũng làm bằng cây ván và lợp lá. Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi lại đến nhà họ Hà dạy A Quai niệm A Di Đà Phật, đang lúc nói chỗ hay của niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên nghe tiếng người ầm ĩ huyên náo ngoài đường, tiếng còi hơi báo động vang lên rất khẩn trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy”. Ngọc Phương và A Quai quay đầu nhìn ra ngoài, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh sát đã đậu ngoài cổng, lại quay đầu nhìn ra phía sau, thì ra lửa phát lên nhà kế bên phía bên phải, đã lan đến công xưởng phía sau của mình, đầy nhà khói bay mù mịt, hôm đó đang là ngày công xưởng được nghỉ, người nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngoài, chỉ có mỗi mình Hà phu nhân A Quai ở nhà. Lúc bấy giờ cư sĩ Ngọc Phương và A Quai vừa thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc nguy hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật , Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm được chưa tới năm phút, thật là “Năng phục tai phong hỏa. Phổ minh chiếu thế gian” (tức chỉ Quán Thế Âm Bồ Tát ), liền tức thời nổi lên một trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía sau, năm ngôi nhà lá nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước tương và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát hỏa thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thôi. Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tại sao chỉ cứu người niệm danh hiệu của Ngài, mà năm ngôi nhà lá không biết niệm Phật kia thì phó mặc cho lửa, không ra tay cứu? Nên biết rằng lúc đó con đường Nhân Ái của các nhà lân cận là một con đường nhỏ rất dài, nếu như nhà của A Quai bị lửa cháy, thế của lửa hướng về phía Bắc thì sẽ lan ra hết con đường này và khi đã phát lửa rồi thì không thể thu dọn gì kịp, như thế tổn thất không sao tính cho xuể, đồng thời năm ngôi nhà lá nhỏ kia cũng không chắc được may mắn thoát khỏi. Thật là Phật, Bồ Tát phò hộ việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành không, cũng là may mắn gặp được thiện tri thức sư tỷ Ngọc Phương từ bi, phước đức che chở 20. ĐẾN LÚC VIỆC XẢY RA MỚI ÔM CHÂN PHẬT CŨNG CÓ HIỆU QUẢ Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức hãng đường Đài Đông là một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta lúc đầu chống đối kịch liệt ông chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, không kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang một bên rồi và dần dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không màng đến. Trên đường chạy về nhà, bà Trần miệng vẫn không ngớt niệm “ Nam mô A Di Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được nữa, lúc đó trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai chân như móc câu mà bò qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu gãy xương...) do vì ban đêm nhìn không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ khuya! Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không siêu thoát, nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cô Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48. 21. TÉ XUỐNG KÊNH RẠCH, NIỆM PHẬT ĐƯỢC CỨU Chuyện trên là câu chuyện thật của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm ứng, bây giờ lại nói một chuyện nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo! Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô. Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tôi. 22. BỤNG ĐAU KHÓ CHỊU, BÀ NGOẠI DỰA VÀO “Có bạn từ xa đến, không phải cũng là điều vui vẻ sao?”. Câu nói này đích thật rất đúng. Mồng 5 tháng này, cư sĩ Trần Phi Lâm đột nhiên đến liên xã ở Đài Trung, phước tướng trang nghiêm hơn trước, khiến tôi mới gặp nhận không ra, tôi còn hỏi anh ta tên họ là gì? Anh ta nói “Trần Phi Lâm”, tôi liền vui mừng ra mặt nói với anh ta: “Tháng trước tôi viết chuyện cảm ứng độc đáo của quý phu nhân (vợ anh) và cháu gái của anh trên tờ nguyệt san Cây Bồ Đề, nhưng quên mất tên của hai người, thật là có lỗi quá!”. Cư sĩ Phi Lâm liền nói: “Đứa cháu tôi tên là Trần Khánh Huy, nhà tôi (vợ tôi) họ Đường tên là Cảnh Hòa, tôi lần này đã được nghỉ hưu ở hãng đường, hãng thưởng cho tôi một chuyến du lịch miền Tây, hôm nay nhân tiện đến thăm bà”. Bấm tay tính ra đã tám năm, có lẽ là do đồng đạo đồng chí, chỉ chuyên nói chuyện về đạo, anh ta từ khi may mắn gặp được Phật pháp không thể nghĩ bàn, lại được nhiều việc cảm ứng không thể nghĩ bàn, anh ta lại nói ra mấy việc cảm ứng nữa, nay kể ra một trong mấy chuyện ấy để độc giả thưởng thức. Cư sĩ Trần Phi Lâm nguyên quán là người Khê Hồ ở Chương Hóa. Vào thời Nhật chiếm cứ, sớm đã vượt trùng dương, đi đến địa phương sông Tùng Hoa, nước Cáp Nhĩ Tân ở Đông Bắc, làm việc ở cục Bưu Chính, vào năm hai mươi tám tuổi kết hôn với người con gái ở vùng đó tên là Đường Cảnh Hòa, năm sau sanh ra đứa con gái đặt tên là Nguyệt Hương, bà ngoại và cả nhà rất là thương yêu. Nguyệt Hương có thể nói là một đứa con may mắn, vừa mới sanh, đúng vào lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được thu hồi trở lại, trả về cho bờ cõi của tổ quốc, cư sĩ Phi Lâm liền dắt vợ con trở về cố hương, làm việc ở hãng đường. Vào hồi năm năm trước đây, có một hôm bà Trần bỗng nhiên đau bụng dữ dội, Trần cư sĩ nói: từ hồi kết hôn đến nay chưa từng thấy qua cô ta đau đớn như thế, liền mời về mấy vị Đông y Tây y chích thuốc, bổ thuốc, dùng các cách trị liệu đều không thấy hiệu quả! Lúc cả nhà đang bó tay, bà Trần bỗng nhiên từ trên giường bệnh bò dậy dường như chẳng có bệnh gì hết, ngồi trên ghế dựa nói chuyện, bà ta dùng quốc ngữ khẩu âm miền Đông Bắc nói: “Mau mau đi kêu cháu Nguyệt Hương lại đây, tao muốn thăm nó, do vì cách nhau đã mười tám năm rồi, tao rất nhớ nó, mau mau đi kêu nó đi!”. Lúc đó Nguyệt Hương đã lấy chồng, cũng may là ở gần, vừa kêu liền đến, đi đến trước mặt mẹ liền kêu: “Má à! Má kêu con lại có việc gì vậy?”. Mẹ của Nguyệt Hương liền nói: “Tao không phải là má mày, tao là bà ngoại mày, mười tám năm không gặp mày rồi, nên rất muốn xem mày ra sao”. Nguyệt Hương liền hỏi: “Bà ngoại, bà ăn cơm rồi chưa?”. “Tao ăn rồi”. Nguyệt Hương hỏi tiếp: “Bà ngoại! Con cúng cho bà ngoại một bài vị được không?”. Bà Trần lại đáp: “Không cần! Không cần!”. Cư sĩ Trần Phi Lâm thấy tình trạng đó, biết là mẹ vợ dựa, liền dùng Phật pháp khai thị cho bà rằng: “Má à! Má đã đọa lạc vào quỷ đạo, chắc chắn phải là khổ sở lắm, má nhất định phải niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, mới có thể lìa khổ được vui, con chỉ cho má niệm, má phải niệm theo con. Bèn chắp tay lại niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” Trần cư sĩ nói, anh ta lúc đó chắp tay dùng tâm chí thành niệm, niệm chưa được hai mươi câu vạn đức hồng danh Thánh hiệu A Di Đà Phật, bà Trần bèn tỉnh táo trở lại, sức khỏe cũng được an nhiên, vẫn dùng tiếng Đài Loan như trước giờ, nói chuyện hỏi mọi người: “Mấy người đông như thế này xúm lại đây làm cái gì vậy?”. Trần cư sĩ liền hỏi bà ta: “Vừa rồi má của em đến nói cái gì em có biết không?”. Bà Trần nói không biết một chút gì hết. Trần cư sĩ hỏi tiếp: “Em vừa rồi bụng đau dữ dội như thế, bây giờ thế nào rồi?”. Bà Trần nói: “Em đâu có đau bụng đâu!”. Nghe nói từ ngày hôm đó đến giờ bà Trần và cả nhà đều bình an vô sự, hưởng được sự an lạc tự nhiên của một gia đình Phật tử thuần thành (Tiếp theo) 23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT, NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN Có một tín đồ của cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng quê Vạn Đẩu Lục Tử. Có một hôm bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tôi: “Bà thật là công đức vô lượng, tôi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập ngũ đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra ngục, mang về tượng Phật Tây phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, đối đãi với bố mẹ chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho mọi người nghe. Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin sâu thành khẩn như thế?”. Cô ta nói là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ nhật đều đến giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói: “Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tôi nói: “Đây là căn lành của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì”. Những lời trên đây là bà Đoạn Tỷ nói với tôi trong mùa Hạ tháng 6 năm Dân quốc thứ 48. Đến sau khi nạn lụt bát thất (mùng 7 tháng 8), bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong nghe kinh, lại một lần nữa nói với tôi: “Sư tỷ! Những việc tôi đã nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô ta niệm Phật, trong lần nạn lụt bát thất này, được sự cảm ứng rất lớn”. Nguyên là nhà cô ta ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy trăm con vịt mái làm phương kế sinh sống, con dâu của bà ta từ sau khi ra ngục, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo. Suốt ngày bận rộn, đến cái hôm lụt bát thất đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang lên trên nóc nhà, cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút, người và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà xuống. Bà Đoạn Tỷ lại nói tiếp: “Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không?”. Tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng không thể nghĩ lường! Khi đến ngày chủ nhật, tôi lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử nghĩ xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn. 24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VÔ SỰ Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ người có tâm, cô Hoàng M ẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do vì cô mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại. Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám lau bên đường, bốn bánh xe chổng lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”. Trong hoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô gái trẻ, tay dắùt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ không ra ba người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một chút nào hết, họ đổi xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô Hoàng liền về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày tỏ chút lòng thành kính”. Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tôi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó. 25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE, MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA Một niệm chân thành, nhờ Phật gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung Sơn ở Vụ Phong, đêm khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe trên đường từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời xem chuyện dưới đây: Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung, ngày này, ngoài những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở ngoại ô hoặc ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người đều mang cái tâm lý và tục lệ “không say không về”; đương nhiên anh Trần Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba bánh của mình chở người vợ yêu của mình tên là Ái (lúc đó đang mang thai được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến Đài Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm trăng thanh gió mát đạp xe từ từ về nhà. Lúc gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo Hồ ban đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc không tốt, mình nên nhanh chóng niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở trong tâm một mạch niệm thầm mãi “ Nam mô A Di Đà Phật”. Xe đến trên cầu, bỗng nhiên không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến mấy trượng! Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cô Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn, chiếc xe ba bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách ngay ngắn, chồng vợ con cái bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như trước, chẳng những không có bị trọng thương mà ngay cả da cũng không có trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía mà thôi, sau đó còn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà đã hơn 2 giờ rồi. Qua ngày sau, anh Trần lo đứa con trong bụng của cô Ái vợ anh không biết có sao không, nên kêu cô ta đi đến khoa phụ sản khám, nhưng cô Ái nói “Em thấy không có chút gì khác lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng xăng lại hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta nói: “Tôi đến trên cầu thì rất cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau làm như có người bẻ quẹo xe tôi đẩy xuống đáy khe. Lúc đó tôi cũng cố gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại không có cách, may nhờ vợ tôi cố gắng niệm Phật, nếu không thì làm gì có được dễ dàng như thế, có thể bình an vô sự được?”. Lúc cô Ái bồng đứa con trai mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong lễ Phật thì cô Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tôi (Khán Trị), nói ra sự thật cảm ứng cảm động lòng người này. Lợi ích của niệm Phật, chẳng những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín tâm kiên cố, niệm Phật không có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, không gì so sánh đặng. Tôi lúc đó chúc phúc cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều hơn nữa. 26. NHÀNH DƯƠNG RẢI VÀO THÂN, CÁI ĐAU Ở NGỰC LIỀN TIÊU “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là việc xảy ra trong tháng 5 năm Dân quốc thứ 49. Cô Trần A Quyên ở số 4 hẻm Tân Lịch thôn Tứ Đức ở Vụ Phong, năm ba mươi tám tuổi vào tháng 5, bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn khắp người đau nhừ hết, đau đến nói không nổi. Nhứt là điều khiến cho cô lo rầu hơn hết là: Nhà kế bên có cô gái năm kia cũng mắc phải chứng bệnh quái ác “nhũ cao” (sưng vú) này mà đến nỗi phải chết, nghe nói chứng bệnh này còn ghê gớm hơn cả chứng ung thư vú nữa. Nhìn thấy một bầy con cái trước mắt, nếu như không khỏi, về tương lai thật là không thể tưởng tượng được! Mặc dù đã trải qua rất nhiều tay Đông Tây y nổi tiếng trị liệu, nhưng không hiệu quả, trái lại càng ngày càng nặng. Về sau bộ ngực bên trái đã sưng trướng lên hơn cả thước (thước Tàu), ngay cả cánh tay trái cũng không còn nhúc nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải thôi! Một hôm lúc A Quyên lại đang muốn đi tìm thầy thuốc, đi ngang qua đường Trung Chánh , bỗng nhiên gặp gỡ bạn cũ Trần Giang Đào, nước mắt đoanh tròng kể ra nỗi thống khổ của chứng bệnh quái ác mà mình phải chịu này. Trần Giang Đào vừa nghe cũng thương và tội nghiệp cho cảnh ngộ của cô ta, liền nói: “Chị A Quyên không nên khóc, khóc hại người, sức khoẻ càng không tốt. Phật, Bồ Tát là bậc từ bi nhất, chi bằng theo tôi đến cơ sở hoằng pháp lạy Phật, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phò hộ cho, chỉ cần thành tâm sám hối, thành khẩn xưng niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” nhất định bình an hồi phục mạnh khỏe”. A Quyên đang cần người đến giúp đỡ, vừa nghĩ đến Đông Tây y đều bó tay hết, nên cũng liền miệng bằng lòng đi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong. Các vị liên hữu sau khi nghe A Quyên nói rõ mục đích đến, ai cũng đều nói: “Cô phải cố gắng niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đồng thời lại cầu nước đại bi chú cho cô ta uống, và tặng cho cô ta tượng Tây phương Tam Thánh, dạy cô ta phương pháp lễ bái, niệm Phật sớm tối. A Quyên từ sau lần lễ bái này, về mặt tinh thần có được chỗ dựa rất lớn, không còn giống như hồi trước, suốt ngày âu sầu khổ não, hiện giờ lúc nào cũng hết sức niệm Phật, lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tự suy nghĩ nếu như bệnh này có thể hết thì tốt, còn như nếu không hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Cứ thế trải qua mười mấy ngày, có một đêm nọ trong mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát áo trắng, tay phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nước nhành dương rải khắp người cô ta, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát mẻ. Về sau trong một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh đau vú càng ngày càng bớt, không đầy một tháng thì khỏi hẳn. Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật là không thể nghĩ bàn, việc này còn chưa được tính là hiếm lạ, những chuyện hiếm lạ còn ở phía sau. Sau khi A Quyên hết bệnh, khoảng hai tháng cũng là lúc nạn lụt bát nhất (ngày 1 tháng 8) đến, ngôi nhà nhỏ trong làng nơi ở của A Quyên bị nước ngập mấy thước (thước Tàu), A Quyên vẫn cứ toàn tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện gia bị, bỗng nhiên có người nói với cô ta: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước ngập ba, bốn thước, tất cả dưa đã chín sắp thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn mất hết!”. A Quyên nghe nói bất giác khóc to lên, do vì mồ hôi nước mắt suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước cuốn đi thì tình hình quá nghiêm trọng rồi! A Quyên mặc dầu lo rầu nhưng cũng không có cách gì, chỉ còn biết thắp hương bạch lên cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi. Trải qua một ngày một đêm, nước dần rút hết, A Quyên lo cho ruộng dưa của mình, nên mặt mày âu sầu vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến ruộng dưa xem thì thấy dưa đầy đất, chẳng những không bị trôi mất, mà còn không biết từ đâu trôi đến chồng chất rất nhiều dưa, lại còn có rất nhiều cây tạp trôi lại nữa! vây quanh ruộng dưa lại, qua hai ngày sau hai mẹ con của A Quyên ra gánh những cây tạp về để làm củi, gánh suốt ngày còn chưa gánh hết. Câu chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp ngày 19 tháng 9 năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm liên hữu tụ tập lại một nhà, A Quyên cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy hướng về đại chúng nói ra câu chuyện cảm ứng của chính cô ta. Lúc đó còn có bảy, tám vị liên hữu ở Đài Trung nữa. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. 27. ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN, CẢ NHÀ ÁNH HÀO QUANG KIM SẮC Đức Phật A Di Đà, quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi, không gì chướng ngại được. Đây là một sự thật đích xác một trăm phần trăm. Bây giờ đơn cử ra đây một chuyện lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn để chứng minh khiến cho chúng sanh khổ não trong cõi ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng này tin sâu không còn nghi ngờ nữa để niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc Thế giới. Cư sĩ Lý A Minh vào năm Dân quốc thứ 52, bốn mươi tám tuổi, ở thôn Bắc Cấu, làng Vụ Phong, nhà có mẹ già, vợ, năm con trai, bốn con gái. Pháp danh anh ta là Khoan An, là đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên xã Đài Trung. Những khi Bính công ân sư giảng kinh, ngày thứ tư anh đều đi dầu cho có mưa gió thế nào đi nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến nghe kinh. Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt tâm này của anh ta, thật là khiến cho người khâm phục, mọi người đều gọi anh ta là “huynh A Minh” Nhưng mà mạng người vô thường, vạn pháp vô thường, huynh A Minh bỗng nhiên mắc chứng bệnh bất trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước, anh đã kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những việc lớn nhỏ v.v… đã dặn dò xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ nhà người chị để dưỡng bệnh. Người chị của huynh A Minh và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là tín đồ thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu các việc ăn uống thuốc thang, săn sóc bệnh… thật là châu đáo, từng ly, từng tí cũng như chính bản thân mình không khác. Mỗi ngày ngoài thời khóa tụng sớm tối ra, đều là chí tâm niệm Phật hồi hướng cho cậu, được tiêu trừ những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do của huynh A Minh ở dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương, vì ở nhà thì e rằng mẹ già, vợ, con lúc anh sắp lâm chung trong khoảnh khắc gào khóc kêu la làm nhiễu loạn, mất đi chánh niệm, thì không thể vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên núi, đi nhờ hai đứa cháu gái hiền. Nhưng lúc lâm chung cũng như chiến trường, người nuôi bệnh vừa hơi không cẩn thận thì bệnh nhân liền có khả năng bị ma dắt đi. Huynh A Minh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh trạng biến đổi rất xấu, thần trí hôn trầm, tay chân múa lung tung. Cô Chơn thấy cảnh giới không bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và nói với cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, mới có thể đi theo ngài, ngoài Phật A Di Đà ra, bất cứ người nào đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ nữa, huynh A Minh liền tỉnh táo lại, không còn hôn mê nữa, qua ngày sau, bà mẹ già tám mươi tuổi của anh ta liền thuê một chiếc kiệu lên núi thăm anh. Mới đầu dùng lời ngon tiếng ngọt khuyên, muốn A Minh ngồi kiệu về nhà, huynh A Minh không chịu về nhà, mẹ anh liền dùng đến cách khóc la, anh cũng không chịu về! Cuối cùng bà dùng những tiếng ác ngữ để cưỡng bức, huynh A Minh liền nói: “Má à! Má tự ngồi kiệu về nhà đi, con ba ngày nữa bệnh sẽ khỏi, con không cần ngồi kiệu đâu, tự con biết về nhà mà”. Mẹ anh ta không còn cách nào, đành một mình quay về nhà. Xem ra điểm này cũng hình như là ma quỷ xui khiến mẹ anh ta đến ép anh ta về nhà. Chánh niệm của huynh A Minh thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại có thể biết trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mồng 7 tháng 6 âm lịch, tối hôm đó Sở trưởng (cơ sở hoằng pháp gọi là Bố giáo sở. Vị Sở trưởng này là trưởng ban của cơ sở hoằng pháp), cư sĩ Hoàng Hỏa Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung đến trên núi thăm bệnh, an ủi các thứ, lúc đó rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ, lúc chia tay còn nói là muốn đưa sở trưởng xuống núi. Đến giữa trưa anh nói với người chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”. Cô Chơn cùng mẹ và em gái ở bên giường bắt đầu trợ niệm, chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, niệm khoảng hơn hai giờ, cô Chơn liền hỏi: “Cậu à! Bây giờ có còn trời đất tối đen nữa không?”. Huynh A Minh liền đáp: “Bây giờ không còn trời đất tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ”. Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các vị liên hữu trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm, chờ đến 3 giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống, trong khoảnh khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn: “Cậu à! Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo ngài đi!”. Huynh A Minh thở gấp một hơi, liền nương hào quang của Phật tiếp dẫn, an tường mà đi. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi một chúng sanh phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh. Câu chuyện thật trên đây là thứ ba, ngày giảng kinh định kỳ ở cơ sở hoàng pháp, chị em cô Chơn đến nghe kinh nói với tôi. Thật là “không cần đến ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, chỉ dùng sáu chữ mà vượt ra khỏi tam giới”. Xin khuyên các vị độc giả hãy chí tâm niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” nhiều vào. 28. CON KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT Trên đây đã nói kỳ tích của cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sanh, có thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đãi, thì có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất còn cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Huynh A Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm, chưa chắc có thể vãng sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng. Nói đến hai chị em cô Chơn và cô Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người, ngay đối với loài động vật không chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cô hồn, đều có thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện để làm chứng minh. Vào một ngày hôm trước tiết Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nhìn thấy một đám người đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi ngon đây!”, những người bên ngoài nhìn xem nhiều người nói “tội nghiệp”. Lòng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nhìn vào chỉ thấy ở trong lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đã bị chế nước sôi lên trên mình, tự nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua. Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hãi sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu người giải cứu. Cô Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không còn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh thì khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày lìa khổ được vui, mày phải ngoan ngoãn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”. Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được, không chạy thì nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không? Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có buông, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần. Có một hôm ba mẹ con (cô Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh tiếng mõ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có khách từ xa lại, cho nên đánh mõ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do vì mày ngồi trên bàn Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ mãi đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem thì thấy Ngộ Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt bày tỏ cái dáng bộ rất bất mãn, ý muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng không được? Cô Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi. Chúng sanh từ vô lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng. Lại có một lần Ngộ Không nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên, sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nhìn thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, không trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không biết như thế nào mới tốt (?) Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đã trồng sâu căn lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, còn biết kêu sư phụ, lại ăn chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ gì, suốt ngày chỉ kêu khóc không nghỉ. Cô Chơn đã rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô Không đã thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đã quen rồi, liền nhín chút thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nhìn thấy chủ nhơn, liền nắm chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nhìn thấy Ngộ Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ lòng để Ngộ Không tiếp tục ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết phân biệt ai là trụ trì, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ trì, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, còn các thầy khác thì nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không còn nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!… 29. CON CHÓ ĐẦY ĐỦ CĂN LÀNH, THEO CHỦ NGHE PHÁP Lại nói về lúc cư sĩ A Minh còn sống, đã có nuôi một con chó dữ, cư sĩ cũng đã quy y Tam Bảo cho nó. Đây là một con vật rất trung thành với chủ, đã có trồng căn lành. Lúc huynh A Minh ở trên núi dưỡng bệnh (nhà cô Chơn, cô Phụng truyện 27), con chó này mỗi ngày phải đi lại bốn lần từ trên núi xuống Bắc Cấu một đoạn đường dài. Mỗi ngày vào buổi sáng cô Chơn dùng khăn tay bao lại cái đơn thuốc của A Minh đưa cho con chó ngậm lấy đi đến tiệm thuốc bắc ở Bắc Cấu hốt thuốc. Trước đó đương nhiên cô Chơn phải có thỏa ước với chủ tiệm thuốc phải ghi nợ, và việc con chó sẽ đến lấy thuốc, cho nên chủ tiệm coi đơn hốt thuốc xong vẫn cứ dùng khăn tay đó bao gói thuốc lại, đưa cho con chó ngậm quay trở về. Trên đường nhất định phải đi qua một khe nước lớn, có lúc nước trong suối vừa lớn vừa chảy mạnh, con chó do vì miệng ngậm gói thuốc, sợ thuốc bị ướt, nó ngẩng đầu cao lên trời lội qua, về nhà để gói thuốc xuống, chủ nhơn xem, quả nhiên không có ướt một chút nào hết. Trưa mỗi ngày huynh A Minh đều phải tắm và thay đồ. Đồ dơ thay ra cô Chơn vẫn dùng cái khăn gói lại, dặn dò con chó ngậm chạy về nhà ở Bắc Cấu đưa cho vợ của huynh A Minh, vợ huynh A Minh sau khi giặt sạch đồ xong, gói lại như cũ đưa cho con chó ngậm quay về trên núi, nhưng buổi trưa lúc quay về con chó nhất định phải tắm một lần trong dòng suối trong mát, con chó thông minh tha bao đồ lựa một hòn đá sạch và không ướt để xuống, rồi tự mình nhảy xuống nước tắm, tắm xong lại ngậm bao đồ về trên núi. Trong mấy tháng huynh A Minh dưỡng bệnh, ngày nào cũng như thế, đi, về bốn lần, so với mướn người giúp việc còn tiện lợi và biết nghe lời hơn. Con chó dữ này cũng có căn lành rất lớn, ưa thích nghe Phật pháp. Lúc đó, cô Chơn mỗi tối chủ nhựt đều đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, con chó dữ này thường đi theo cô, nó ngồi một góc trong đại điện, chỗ gần với vị giảng sư, bộ dạng của nó còn thành khẩn hơn con người, ánh mắt long lanh, yên lặng nghe pháp, không có loạn động một chút nào hết; mỗi lần nghe kinh xong đều không cho cô Chơn nói chuyện với người nào hết, cứ nhảy lên muốn đi ra. Ra khỏi cửa lớn liền phóng chạy nhanh đến nơi cách điện Phật rất xa, nó mới đi tiểu, đi tiểu xong thì không có chạy nữa, đi chậm chậm theo chủ. Có thể thấy con chó này cũng biết nơi điện Phật trang nghiêm thanh tịnh, không dám mặc ý tiểu bậy, làm ô uế đạo tràng, thật là ít có, khó được. Đáng tiếc đời người vô thường, sau khi huynh A Minh vãng sanh, con chó dữ vừa thông minh vừa đầy đủ căn lành này cũng đau buồn không thể tả, thật đúng như tục ngữ nói “như chó nhà đám tang” suốt ngày gục đầu tiu nghỉu, mất đi vẻ lanh lợi thường ngày. Đợi đám tang chôn cất xong, con chó đáng thương này đi đâu mất không biết. Hai chuyện trên đây là sự thật của động vật bốn chân, nhờ duyên của Phật mà hun đúc nên. 30. KHÓA TỤNG SỚM TỐI, RẮN ĐẾN NGHE Có một lần cô Chơn đi ra ngoài có công việc, trên đường trở về nhà nhìn thấy một người bắt rắn, vai mang hai túi vải, ở trong đựng hai con rắn. Cô Chơn vừa thấy liền hỏi anh ta bắt ở đâu, anh bắt rắn đó mới trả lời với cô Chơn, thì ra là bắt được gần bên nhà cô Chơn. Cô Chơn nói “Hai con rắn này là của tôi nuôi, anh phải trả cho tôi”. Người bắt rắn đó làm sao chịu trả, anh ta nói: “Lạ chưa! Tôi bắt rắn đã mấy chục năm, từ nào tới giờ chưa nghe người nào trên núi nuôi rắn, cô nuôi rắn làm cái gì?”. Cô Chơn nói với anh ta: “Chúng tôi sáng tối lên khóa lễ tụng kinh, hai con rắn này đều đến nghe, nếu có cơm thì cho nó ăn cơm, như thế đã mấy năm rồi, thôi bây giờ tôi đưa cho anh 30 đồng, mau thả nó ra đi”, anh chàng bắt rắn vẫn không chịu, nói: “Không được! không được, 30 đồng dùng được cái gì? Da hai con rắn đáng bao nhiêu rồi, hai cái gan của nó cũng được mấy chục đồng, thịt rắn lại là món người ta tranh nhau mua!”. Cô Chơn lúc đó nói to tiếng rằng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, thật đáng thương thay!”. Nào ngờ ngay lúc đó, hai con rắn kia đang ở trong túi vải nghe được tiếng niệm Phật của cô Chơn, ở trong túi vải quẩy động mãi không thôi, dùng hết sức công phá muốn chun ra, anh chàng bắt rắn kia cũng không còn cách nào tiếp tục mang nó đi!… liền nhận 30 đồng của cô Chơn và hỏi muốn thả ở đâu? Cô Chơn bảo anh ta thả ngay đây được rồi. Anh ta mở túi ra, hai con rắn đó vui mừng bò về hướng núi. Tất cả loài động vật vốn dĩ không có loài nào không tham sống sợ chết, hai con rắn kia sau khi trải qua lần sợ hãi này, ban ngày hết dám bò ra nữa. Sự thật chính là chứng minh: rắn, người ta rất sợ mà cũng biết thích nghe người ta tụng niệm nhờ đó mà được cứu, khỏi tai nạn chết thảm bị người ta lột da rút gân, máu rơi thịt nát! 31. CÔ HỒN CÓ TÁNH LINH THEO NGƯỜI NGHE KINH Lại nói một chuyện về cô Chơn. Cô Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói “Tâm chánh không sợ tà”.Vào hạ tuần tháng 8 bảy năm trước, một buổi tối cô Chơn chạy chiếc xe đạp muốn đến Vụ Phong nghe kinh. Nửa đường đang chạy thì thấy xa xa có một người to lớn mặc đồ đen, chặn ngay giữa đường không đi. Cô Chơn cũng không sợ, cứ nhắm nó mà đi thẳng tới, lúc đến gần lại biến mất không thấy nữa. Cô Chơn mặc dù lúc đó không sợ, nhưng lông tóc dựng đứng lên hết, trong khoảnh khắc chiếc xe đạp phát ra tiếng nổ lớn rồi nằm im. Cô Chơn nhảy xuống xe, quan sát xem cái xe không có hư gì cả, liền mở miệng mắng rằng: “Ngươi là loại người gì? Ta với ngươi không oán không cừu, ta bây giờ phải đi Vụ Phong nghe kinh, thời gian 7 giờ 30 sắp đến rồi, bản thân nhà ngươi ngu si không biết học Phật, lại còn ở đây quấy phá người ta, tội lỗi rất lớn, muôn năm không được siêu sanh! Hiện nay ở Vụ Phong Bố giáo sở, Khán Trị sư tỷ đang giảng Kinh Địa Tạng, nhà ngươi ngoan ngoãn đi theo ta nghe kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được vui”. Cô Chơn sau khi nói xong mấy câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe tự nó chạy được, cũng không dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến rồi… Cô Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường liền nói: “Này cô hồn, đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện lại nói: “Này cô hồn, bây giờ bắt đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe kinh”. Cô Chơn bảo với tôi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ đó, không còn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi). Mấy chuyện ở trên đây đều là chính miệng cô Chơn nói với tôi. Bút giả viết đến đây thật là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu trong giới nữ, tinh thần quả là vĩ đại, trí dũng gồm đủ. 32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP DẪN NGƯỜI MẤT Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, ông ta từng là chồng của sư tỷ Hạc, làm tài xế ở cục công lộ. Sư tỷ Hạc từ sau năm 48 biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai nạn, nhiều nghịch cảnh có thể gặp dữ hóa lành, thường hay khuyên chồng niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Ông Lý Thanh Nguyên mặc dù nghe thoáng qua không được hiểu lắm, nhưng có một lần lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài Trung, tại một cái cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào cũng không tìm ra được hư cái gì, những khách ngồi trên xe lăng xăng xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại đi. Chị quản lý xe cũng phải đi thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông Lý Thanh Nguyên , ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối lại không có người ta, một màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ lại việc A Hạc vợ ông ta dạy ông ta niệm Phật, tức thời to tiếng niệm lên: “ Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an nhiên vô sự. Câu chuyện nhờ một câu Thánh hiệu mà được sự cảm ứng không thể nghĩ bàn này là lúc bút giả đến nhà Lý tiên sinh, chính miệng Lý tiên sinh nói với tôi. Lúc đó sư tỷ Hạc cũng nói chen vào: “Còn có một lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ niệm Phật mà thoát được nguy nàn”. Nhưng mạng người vô thường! Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng mắc phải chứng cao huyết áp, bảy năm trước vào đầu tuần tháng tư, do bởi huyết áp quá cao nằm triền miên trong nhà hơn năm, thuốc thang không thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, một hôm mệnh sắp lâm chung, sư tỷ Hạc đến bố giáo sở mời mấy vị liên hữu trợ niệm cho ông. Các vị liên hữu từ sáng sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ, ước định ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú và vợ ông cùng với con trai con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại thành khẩn, cùng với sư tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là “nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà của sư tỷ Hạc tọa ở hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con đường lớn của đường Trung Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi người… đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng niệm Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu Trương Th ẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm, niệm mãi đến hơn 11 giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi người xúm lại xem tướng lành của người mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn sống nữa, thử thăm dò đỉnh đầu vẫn còn ấm, thân thể mềm như bông, các vị liên hữu buổi sáng trở lại trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật. Phàm việc gì đều có nhân duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta, vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như thế, cũng không phải không có nhân duyên. Cư sĩ Lý Thanh Nguyên khi còn sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những người đến trạm xe không kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho đám học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc chú vãng sanh Tây phương mới thôi”. Nếu như không có sư tỷ A Tú trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một thanh niên quân nhân trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam tử này cũng là một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn, anh ta vốn đứng gác ca gác nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên nghe một lớp tiếng niệm A Di Đà Phật. Trong hai giờ đứng gác, câu Thánh hiệu thanh tịnh vạn đức trang nghiêm thâm nhập vào trong ruộng thức thứ tám của vị thanh niên quân nhân kia, trong miệng tự nhiên cũng theo đó niệm “A Di Đà Phật” không ngớt, vị thiện nam tử này muốn xem thử là người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ Phong, chỉ thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tôi giới thiệu gặp mặt với anh ta, do vì anh ta giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ được Phật thương xót phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, tặng cho anh ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh ta được điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tôi quên hỏi chỗ ở và tên họ của anh ta! (Tiếp theo) 23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT, NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN Có một tín đồ của cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng quê Vạn Đẩu Lục Tử. Có một hôm bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tôi: “Bà thật là công đức vô lượng, tôi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập ngũ đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra ngục, mang về tượng Phật Tây phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, đối đãi với bố mẹ chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho mọi người nghe. Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin sâu thành khẩn như thế?”. Cô ta nói là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ nhật đều đến giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói: “Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tôi nói: “Đây là căn lành của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì”. Những lời trên đây là bà Đoạn Tỷ nói với tôi trong mùa Hạ tháng 6 năm Dân quốc thứ 48. Đến sau khi nạn lụt bát thất (mùng 7 tháng 8), bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong nghe kinh, lại một lần nữa nói với tôi: “Sư tỷ! Những việc tôi đã nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô ta niệm Phật, trong lần nạn lụt bát thất này, được sự cảm ứng rất lớn”. Nguyên là nhà cô ta ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy trăm con vịt mái làm phương kế sinh sống, con dâu của bà ta từ sau khi ra ngục, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo. Suốt ngày bận rộn, đến cái hôm lụt bát thất đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang lên trên nóc nhà, cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút, người và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà xuống. Bà Đoạn Tỷ lại nói tiếp: “Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không?”. Tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng không thể nghĩ lường! Khi đến ngày chủ nhật, tôi lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử nghĩ xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn. 24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VÔ SỰ Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ người có tâm, cô Hoàng M ẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do vì cô mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại. Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám lau bên đường, bốn bánh xe chổng lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”. Trong hoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô gái trẻ, tay dắùt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ không ra ba người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một chút nào hết, họ đổi xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô Hoàng liền về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày tỏ chút lòng thành kính”. Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tôi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó. 25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE, MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA Một niệm chân thành, nhờ Phật gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung Sơn ở Vụ Phong, đêm khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe trên đường từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời xem chuyện dưới đây: Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung, ngày này, ngoài những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở ngoại ô hoặc ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người đều mang cái tâm lý và tục lệ “không say không về”; đương nhiên anh Trần Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba bánh của mình chở người vợ yêu của mình tên là Ái (lúc đó đang mang thai được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến Đài Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm trăng thanh gió mát đạp xe từ từ về nhà. Lúc gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo Hồ ban đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc không tốt, mình nên nhanh chóng niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở trong tâm một mạch niệm thầm mãi “ Nam mô A Di Đà Phật”. Xe đến trên cầu, bỗng nhiên không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến mấy trượng! Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cô Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn, chiếc xe ba bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách ngay ngắn, chồng vợ con cái bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như trước, chẳng những không có bị trọng thương mà ngay cả da cũng không có trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía mà thôi, sau đó còn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà đã hơn 2 giờ rồi. Qua ngày sau, anh Trần lo đứa con trong bụng của cô Ái vợ anh không biết có sao không, nên kêu cô ta đi đến khoa phụ sản khám, nhưng cô Ái nói “Em thấy không có chút gì khác lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng xăng lại hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta nói: “Tôi đến trên cầu thì rất cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau làm như có người bẻ quẹo xe tôi đẩy xuống đáy khe. Lúc đó tôi cũng cố gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại không có cách, may nhờ vợ tôi cố gắng niệm Phật, nếu không thì làm gì có được dễ dàng như thế, có thể bình an vô sự được?”. Lúc cô Ái bồng đứa con trai mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong lễ Phật thì cô Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tôi (Khán Trị), nói ra sự thật cảm ứng cảm động lòng người này. Lợi ích của niệm Phật, chẳng những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín tâm kiên cố, niệm Phật không có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, không gì so sánh đặng. Tôi lúc đó chúc phúc cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều hơn nữa. 26. NHÀNH DƯƠNG RẢI VÀO THÂN, CÁI ĐAU Ở NGỰC LIỀN TIÊU “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là việc xảy ra trong tháng 5 năm Dân quốc thứ 49. Cô Trần A Quyên ở số 4 hẻm Tân Lịch thôn Tứ Đức ở Vụ Phong, năm ba mươi tám tuổi vào tháng 5, bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn khắp người đau nhừ hết, đau đến nói không nổi. Nhứt là điều khiến cho cô lo rầu hơn hết là: Nhà kế bên có cô gái năm kia cũng mắc phải chứng bệnh quái ác “nhũ cao” (sưng vú) này mà đến nỗi phải chết, nghe nói chứng bệnh này còn ghê gớm hơn cả chứng ung thư vú nữa. Nhìn thấy một bầy con cái trước mắt, nếu như không khỏi, về tương lai thật là không thể tưởng tượng được! Mặc dù đã trải qua rất nhiều tay Đông Tây y nổi tiếng trị liệu, nhưng không hiệu quả, trái lại càng ngày càng nặng. Về sau bộ ngực bên trái đã sưng trướng lên hơn cả thước (thước Tàu), ngay cả cánh tay trái cũng không còn nhúc nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải thôi! Một hôm lúc A Quyên lại đang muốn đi tìm thầy thuốc, đi ngang qua đường Trung Chánh , bỗng nhiên gặp gỡ bạn cũ Trần Giang Đào, nước mắt đoanh tròng kể ra nỗi thống khổ của chứng bệnh quái ác mà mình phải chịu này. Trần Giang Đào vừa nghe cũng thương và tội nghiệp cho cảnh ngộ của cô ta, liền nói: “Chị A Quyên không nên khóc, khóc hại người, sức khoẻ càng không tốt. Phật, Bồ Tát là bậc từ bi nhất, chi bằng theo tôi đến cơ sở hoằng pháp lạy Phật, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phò hộ cho, chỉ cần thành tâm sám hối, thành khẩn xưng niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” nhất định bình an hồi phục mạnh khỏe”. A Quyên đang cần người đến giúp đỡ, vừa nghĩ đến Đông Tây y đều bó tay hết, nên cũng liền miệng bằng lòng đi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong. Các vị liên hữu sau khi nghe A Quyên nói rõ mục đích đến, ai cũng đều nói: “Cô phải cố gắng niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đồng thời lại cầu nước đại bi chú cho cô ta uống, và tặng cho cô ta tượng Tây phương Tam Thánh, dạy cô ta phương pháp lễ bái, niệm Phật sớm tối. A Quyên từ sau lần lễ bái này, về mặt tinh thần có được chỗ dựa rất lớn, không còn giống như hồi trước, suốt ngày âu sầu khổ não, hiện giờ lúc nào cũng hết sức niệm Phật, lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tự suy nghĩ nếu như bệnh này có thể hết thì tốt, còn như nếu không hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Cứ thế trải qua mười mấy ngày, có một đêm nọ trong mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát áo trắng, tay phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nước nhành dương rải khắp người cô ta, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát mẻ. Về sau trong một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh đau vú càng ngày càng bớt, không đầy một tháng thì khỏi hẳn. Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật là không thể nghĩ bàn, việc này còn chưa được tính là hiếm lạ, những chuyện hiếm lạ còn ở phía sau. Sau khi A Quyên hết bệnh, khoảng hai tháng cũng là lúc nạn lụt bát nhất (ngày 1 tháng 8) đến, ngôi nhà nhỏ trong làng nơi ở của A Quyên bị nước ngập mấy thước (thước Tàu), A Quyên vẫn cứ toàn tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện gia bị, bỗng nhiên có người nói với cô ta: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước ngập ba, bốn thước, tất cả dưa đã chín sắp thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn mất hết!”. A Quyên nghe nói bất giác khóc to lên, do vì mồ hôi nước mắt suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước cuốn đi thì tình hình quá nghiêm trọng rồi! A Quyên mặc dầu lo rầu nhưng cũng không có cách gì, chỉ còn biết thắp hương bạch lên cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi. Trải qua một ngày một đêm, nước dần rút hết, A Quyên lo cho ruộng dưa của mình, nên mặt mày âu sầu vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến ruộng dưa xem thì thấy dưa đầy đất, chẳng những không bị trôi mất, mà còn không biết từ đâu trôi đến chồng chất rất nhiều dưa, lại còn có rất nhiều cây tạp trôi lại nữa! vây quanh ruộng dưa lại, qua hai ngày sau hai mẹ con của A Quyên ra gánh những cây tạp về để làm củi, gánh suốt ngày còn chưa gánh hết. Câu chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp ngày 19 tháng 9 năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm liên hữu tụ tập lại một nhà, A Quyên cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy hướng về đại chúng nói ra câu chuyện cảm ứng của chính cô ta. Lúc đó còn có bảy, tám vị liên hữu ở Đài Trung nữa. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. 27. ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN, CẢ NHÀ ÁNH HÀO QUANG KIM SẮC Đức Phật A Di Đà, quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi, không gì chướng ngại được. Đây là một sự thật đích xác một trăm phần trăm. Bây giờ đơn cử ra đây một chuyện lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn để chứng minh khiến cho chúng sanh khổ não trong cõi ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng này tin sâu không còn nghi ngờ nữa để niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc Thế giới. Cư sĩ Lý A Minh vào năm Dân quốc thứ 52, bốn mươi tám tuổi, ở thôn Bắc Cấu, làng Vụ Phong, nhà có mẹ già, vợ, năm con trai, bốn con gái. Pháp danh anh ta là Khoan An, là đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên xã Đài Trung. Những khi Bính công ân sư giảng kinh, ngày thứ tư anh đều đi dầu cho có mưa gió thế nào đi nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến nghe kinh. Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt tâm này của anh ta, thật là khiến cho người khâm phục, mọi người đều gọi anh ta là “huynh A Minh” Nhưng mà mạng người vô thường, vạn pháp vô thường, huynh A Minh bỗng nhiên mắc chứng bệnh bất trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước, anh đã kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những việc lớn nhỏ v.v… đã dặn dò xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ nhà người chị để dưỡng bệnh. Người chị của huynh A Minh và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là tín đồ thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu các việc ăn uống thuốc thang, săn sóc bệnh… thật là châu đáo, từng ly, từng tí cũng như chính bản thân mình không khác. Mỗi ngày ngoài thời khóa tụng sớm tối ra, đều là chí tâm niệm Phật hồi hướng cho cậu, được tiêu trừ những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do của huynh A Minh ở dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương, vì ở nhà thì e rằng mẹ già, vợ, con lúc anh sắp lâm chung trong khoảnh khắc gào khóc kêu la làm nhiễu loạn, mất đi chánh niệm, thì không thể vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên núi, đi nhờ hai đứa cháu gái hiền. Nhưng lúc lâm chung cũng như chiến trường, người nuôi bệnh vừa hơi không cẩn thận thì bệnh nhân liền có khả năng bị ma dắt đi. Huynh A Minh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh trạng biến đổi rất xấu, thần trí hôn trầm, tay chân múa lung tung. Cô Chơn thấy cảnh giới không bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và nói với cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, mới có thể đi theo ngài, ngoài Phật A Di Đà ra, bất cứ người nào đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ nữa, huynh A Minh liền tỉnh táo lại, không còn hôn mê nữa, qua ngày sau, bà mẹ già tám mươi tuổi của anh ta liền thuê một chiếc kiệu lên núi thăm anh. Mới đầu dùng lời ngon tiếng ngọt khuyên, muốn A Minh ngồi kiệu về nhà, huynh A Minh không chịu về nhà, mẹ anh liền dùng đến cách khóc la, anh cũng không chịu về! Cuối cùng bà dùng những tiếng ác ngữ để cưỡng bức, huynh A Minh liền nói: “Má à! Má tự ngồi kiệu về nhà đi, con ba ngày nữa bệnh sẽ khỏi, con không cần ngồi kiệu đâu, tự con biết về nhà mà”. Mẹ anh ta không còn cách nào, đành một mình quay về nhà. Xem ra điểm này cũng hình như là ma quỷ xui khiến mẹ anh ta đến ép anh ta về nhà. Chánh niệm của huynh A Minh thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại có thể biết trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mồng 7 tháng 6 âm lịch, tối hôm đó Sở trưởng (cơ sở hoằng pháp gọi là Bố giáo sở. Vị Sở trưởng này là trưởng ban của cơ sở hoằng pháp), cư sĩ Hoàng Hỏa Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung đến trên núi thăm bệnh, an ủi các thứ, lúc đó rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ, lúc chia tay còn nói là muốn đưa sở trưởng xuống núi. Đến giữa trưa anh nói với người chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”. Cô Chơn cùng mẹ và em gái ở bên giường bắt đầu trợ niệm, chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, niệm khoảng hơn hai giờ, cô Chơn liền hỏi: “Cậu à! Bây giờ có còn trời đất tối đen nữa không?”. Huynh A Minh liền đáp: “Bây giờ không còn trời đất tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ”. Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các vị liên hữu trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm, chờ đến 3 giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống, trong khoảnh khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn: “Cậu à! Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo ngài đi!”. Huynh A Minh thở gấp một hơi, liền nương hào quang của Phật tiếp dẫn, an tường mà đi. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi một chúng sanh phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh. Câu chuyện thật trên đây là thứ ba, ngày giảng kinh định kỳ ở cơ sở hoàng pháp, chị em cô Chơn đến nghe kinh nói với tôi. Thật là “không cần đến ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, chỉ dùng sáu chữ mà vượt ra khỏi tam giới”. Xin khuyên các vị độc giả hãy chí tâm niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” nhiều vào. 28. CON KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT Trên đây đã nói kỳ tích của cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sanh, có thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đãi, thì có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất còn cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Huynh A Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm, chưa chắc có thể vãng sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng. Nói đến hai chị em cô Chơn và cô Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người, ngay đối với loài động vật không chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cô hồn, đều có thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện để làm chứng minh. Vào một ngày hôm trước tiết Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nhìn thấy một đám người đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi ngon đây!”, những người bên ngoài nhìn xem nhiều người nói “tội nghiệp”. Lòng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nhìn vào chỉ thấy ở trong lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đã bị chế nước sôi lên trên mình, tự nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua. Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hãi sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu người giải cứu. Cô Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không còn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh thì khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày lìa khổ được vui, mày phải ngoan ngoãn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”. Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được, không chạy thì nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không? Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có buông, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần. Có một hôm ba mẹ con (cô Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh tiếng mõ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có khách từ xa lại, cho nên đánh mõ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do vì mày ngồi trên bàn Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ mãi đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem thì thấy Ngộ Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt bày tỏ cái dáng bộ rất bất mãn, ý muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng không được? Cô Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi. Chúng sanh từ vô lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng. Lại có một lần Ngộ Không nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên, sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nhìn thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, không trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không biết như thế nào mới tốt (?) Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đã trồng sâu căn lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, còn biết kêu sư phụ, lại ăn chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ gì, suốt ngày chỉ kêu khóc không nghỉ. Cô Chơn đã rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô Không đã thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đã quen rồi, liền nhín chút thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nhìn thấy chủ nhơn, liền nắm chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nhìn thấy Ngộ Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ lòng để Ngộ Không tiếp tục ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết phân biệt ai là trụ trì, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ trì, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, còn các thầy khác thì nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không còn nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!… 29. CON CHÓ ĐẦY ĐỦ CĂN LÀNH, THEO CHỦ NGHE PHÁP Lại nói về lúc cư sĩ A Minh còn sống, đã có nuôi một con chó dữ, cư sĩ cũng đã quy y Tam Bảo cho nó. Đây là một con vật rất trung thành với chủ, đã có trồng căn lành. Lúc huynh A Minh ở trên núi dưỡng bệnh (nhà cô Chơn, cô Phụng truyện 27), con chó này mỗi ngày phải đi lại bốn lần từ trên núi xuống Bắc Cấu một đoạn đường dài. Mỗi ngày vào buổi sáng cô Chơn dùng khăn tay bao lại cái đơn thuốc của A Minh đưa cho con chó ngậm lấy đi đến tiệm thuốc bắc ở Bắc Cấu hốt thuốc. Trước đó đương nhiên cô Chơn phải có thỏa ước với chủ tiệm thuốc phải ghi nợ, và việc con chó sẽ đến lấy thuốc, cho nên chủ tiệm coi đơn hốt thuốc xong vẫn cứ dùng khăn tay đó bao gói thuốc lại, đưa cho con chó ngậm quay trở về. Trên đường nhất định phải đi qua một khe nước lớn, có lúc nước trong suối vừa lớn vừa chảy mạnh, con chó do vì miệng ngậm gói thuốc, sợ thuốc bị ướt, nó ngẩng đầu cao lên trời lội qua, về nhà để gói thuốc xuống, chủ nhơn xem, quả nhiên không có ướt một chút nào hết. Trưa mỗi ngày huynh A Minh đều phải tắm và thay đồ. Đồ dơ thay ra cô Chơn vẫn dùng cái khăn gói lại, dặn dò con chó ngậm chạy về nhà ở Bắc Cấu đưa cho vợ của huynh A Minh, vợ huynh A Minh sau khi giặt sạch đồ xong, gói lại như cũ đưa cho con chó ngậm quay về trên núi, nhưng buổi trưa lúc quay về con chó nhất định phải tắm một lần trong dòng suối trong mát, con chó thông minh tha bao đồ lựa một hòn đá sạch và không ướt để xuống, rồi tự mình nhảy xuống nước tắm, tắm xong lại ngậm bao đồ về trên núi. Trong mấy tháng huynh A Minh dưỡng bệnh, ngày nào cũng như thế, đi, về bốn lần, so với mướn người giúp việc còn tiện lợi và biết nghe lời hơn. Con chó dữ này cũng có căn lành rất lớn, ưa thích nghe Phật pháp. Lúc đó, cô Chơn mỗi tối chủ nhựt đều đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, con chó dữ này thường đi theo cô, nó ngồi một góc trong đại điện, chỗ gần với vị giảng sư, bộ dạng của nó còn thành khẩn hơn con người, ánh mắt long lanh, yên lặng nghe pháp, không có loạn động một chút nào hết; mỗi lần nghe kinh xong đều không cho cô Chơn nói chuyện với người nào hết, cứ nhảy lên muốn đi ra. Ra khỏi cửa lớn liền phóng chạy nhanh đến nơi cách điện Phật rất xa, nó mới đi tiểu, đi tiểu xong thì không có chạy nữa, đi chậm chậm theo chủ. Có thể thấy con chó này cũng biết nơi điện Phật trang nghiêm thanh tịnh, không dám mặc ý tiểu bậy, làm ô uế đạo tràng, thật là ít có, khó được. Đáng tiếc đời người vô thường, sau khi huynh A Minh vãng sanh, con chó dữ vừa thông minh vừa đầy đủ căn lành này cũng đau buồn không thể tả, thật đúng như tục ngữ nói “như chó nhà đám tang” suốt ngày gục đầu tiu nghỉu, mất đi vẻ lanh lợi thường ngày. Đợi đám tang chôn cất xong, con chó đáng thương này đi đâu mất không biết. Hai chuyện trên đây là sự thật của động vật bốn chân, nhờ duyên của Phật mà hun đúc nên. 30. KHÓA TỤNG SỚM TỐI, RẮN ĐẾN NGHE Có một lần cô Chơn đi ra ngoài có công việc, trên đường trở về nhà nhìn thấy một người bắt rắn, vai mang hai túi vải, ở trong đựng hai con rắn. Cô Chơn vừa thấy liền hỏi anh ta bắt ở đâu, anh bắt rắn đó mới trả lời với cô Chơn, thì ra là bắt được gần bên nhà cô Chơn. Cô Chơn nói “Hai con rắn này là của tôi nuôi, anh phải trả cho tôi”. Người bắt rắn đó làm sao chịu trả, anh ta nói: “Lạ chưa! Tôi bắt rắn đã mấy chục năm, từ nào tới giờ chưa nghe người nào trên núi nuôi rắn, cô nuôi rắn làm cái gì?”. Cô Chơn nói với anh ta: “Chúng tôi sáng tối lên khóa lễ tụng kinh, hai con rắn này đều đến nghe, nếu có cơm thì cho nó ăn cơm, như thế đã mấy năm rồi, thôi bây giờ tôi đưa cho anh 30 đồng, mau thả nó ra đi”, anh chàng bắt rắn vẫn không chịu, nói: “Không được! không được, 30 đồng dùng được cái gì? Da hai con rắn đáng bao nhiêu rồi, hai cái gan của nó cũng được mấy chục đồng, thịt rắn lại là món người ta tranh nhau mua!”. Cô Chơn lúc đó nói to tiếng rằng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, thật đáng thương thay!”. Nào ngờ ngay lúc đó, hai con rắn kia đang ở trong túi vải nghe được tiếng niệm Phật của cô Chơn, ở trong túi vải quẩy động mãi không thôi, dùng hết sức công phá muốn chun ra, anh chàng bắt rắn kia cũng không còn cách nào tiếp tục mang nó đi!… liền nhận 30 đồng của cô Chơn và hỏi muốn thả ở đâu? Cô Chơn bảo anh ta thả ngay đây được rồi. Anh ta mở túi ra, hai con rắn đó vui mừng bò về hướng núi. Tất cả loài động vật vốn dĩ không có loài nào không tham sống sợ chết, hai con rắn kia sau khi trải qua lần sợ hãi này, ban ngày hết dám bò ra nữa. Sự thật chính là chứng minh: rắn, người ta rất sợ mà cũng biết thích nghe người ta tụng niệm nhờ đó mà được cứu, khỏi tai nạn chết thảm bị người ta lột da rút gân, máu rơi thịt nát! 31. CÔ HỒN CÓ TÁNH LINH THEO NGƯỜI NGHE KINH Lại nói một chuyện về cô Chơn. Cô Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói “Tâm chánh không sợ tà”.Vào hạ tuần tháng 8 bảy năm trước, một buổi tối cô Chơn chạy chiếc xe đạp muốn đến Vụ Phong nghe kinh. Nửa đường đang chạy thì thấy xa xa có một người to lớn mặc đồ đen, chặn ngay giữa đường không đi. Cô Chơn cũng không sợ, cứ nhắm nó mà đi thẳng tới, lúc đến gần lại biến mất không thấy nữa. Cô Chơn mặc dù lúc đó không sợ, nhưng lông tóc dựng đứng lên hết, trong khoảnh khắc chiếc xe đạp phát ra tiếng nổ lớn rồi nằm im. Cô Chơn nhảy xuống xe, quan sát xem cái xe không có hư gì cả, liền mở miệng mắng rằng: “Ngươi là loại người gì? Ta với ngươi không oán không cừu, ta bây giờ phải đi Vụ Phong nghe kinh, thời gian 7 giờ 30 sắp đến rồi, bản thân nhà ngươi ngu si không biết học Phật, lại còn ở đây quấy phá người ta, tội lỗi rất lớn, muôn năm không được siêu sanh! Hiện nay ở Vụ Phong Bố giáo sở, Khán Trị sư tỷ đang giảng Kinh Địa Tạng, nhà ngươi ngoan ngoãn đi theo ta nghe kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được vui”. Cô Chơn sau khi nói xong mấy câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe tự nó chạy được, cũng không dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến rồi… Cô Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường liền nói: “Này cô hồn, đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện lại nói: “Này cô hồn, bây giờ bắt đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe kinh”. Cô Chơn bảo với tôi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ đó, không còn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi). Mấy chuyện ở trên đây đều là chính miệng cô Chơn nói với tôi. Bút giả viết đến đây thật là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu trong giới nữ, tinh thần quả là vĩ đại, trí dũng gồm đủ. 32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP DẪN NGƯỜI MẤT Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, ông ta từng là chồng của sư tỷ Hạc, làm tài xế ở cục công lộ. Sư tỷ Hạc từ sau năm 48 biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai nạn, nhiều nghịch cảnh có thể gặp dữ hóa lành, thường hay khuyên chồng niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Ông Lý Thanh Nguyên mặc dù nghe thoáng qua không được hiểu lắm, nhưng có một lần lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài Trung, tại một cái cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào cũng không tìm ra được hư cái gì, những khách ngồi trên xe lăng xăng xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại đi. Chị quản lý xe cũng phải đi thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông Lý Thanh Nguyên , ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối lại không có người ta, một màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ lại việc A Hạc vợ ông ta dạy ông ta niệm Phật, tức thời to tiếng niệm lên: “ Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an nhiên vô sự. Câu chuyện nhờ một câu Thánh hiệu mà được sự cảm ứng không thể nghĩ bàn này là lúc bút giả đến nhà Lý tiên sinh, chính miệng Lý tiên sinh nói với tôi. Lúc đó sư tỷ Hạc cũng nói chen vào: “Còn có một lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ niệm Phật mà thoát được nguy nàn”. Nhưng mạng người vô thường! Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng mắc phải chứng cao huyết áp, bảy năm trước vào đầu tuần tháng tư, do bởi huyết áp quá cao nằm triền miên trong nhà hơn năm, thuốc thang không thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, một hôm mệnh sắp lâm chung, sư tỷ Hạc đến bố giáo sở mời mấy vị liên hữu trợ niệm cho ông. Các vị liên hữu từ sáng sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ, ước định ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú và vợ ông cùng với con trai con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại thành khẩn, cùng với sư tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là “nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà của sư tỷ Hạc tọa ở hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con đường lớn của đường Trung Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi người… đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng niệm Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu Trương Th ẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm, niệm mãi đến hơn 11 giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi người xúm lại xem tướng lành của người mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn sống nữa, thử thăm dò đỉnh đầu vẫn còn ấm, thân thể mềm như bông, các vị liên hữu buổi sáng trở lại trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật. Phàm việc gì đều có nhân duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta, vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như thế, cũng không phải không có nhân duyên. Cư sĩ Lý Thanh Nguyên khi còn sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những người đến trạm xe không kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho đám học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc chú vãng sanh Tây phương mới thôi”. Nếu như không có sư tỷ A Tú trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một thanh niên quân nhân trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam tử này cũng là một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn, anh ta vốn đứng gác ca gác nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên nghe một lớp tiếng niệm A Di Đà Phật. Trong hai giờ đứng gác, câu Thánh hiệu thanh tịnh vạn đức trang nghiêm thâm nhập vào trong ruộng thức thứ tám của vị thanh niên quân nhân kia, trong miệng tự nhiên cũng theo đó niệm “A Di Đà Phật” không ngớt, vị thiện nam tử này muốn xem thử là người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ Phong, chỉ thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tôi giới thiệu gặp mặt với anh ta, do vì anh ta giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ được Phật thương xót phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, tặng cho anh ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh ta được điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tôi quên hỏi chỗ ở và tên họ của anh ta!
  23. PHÁP MÔN MỘT ĐỜI THÀNH TỰU Mục đích rốt ráo của việc tu học Phật pháp là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tuy nhiên chúng ta đang ở thời Phật pháp suy vi, giả chân lẫn lộn, tà sư, tà trí, tà kiến đầy khắp thiên hạ; chúng sinh huệ cạn, phước mỏng, nghiệp chướng sâu dầy nếu không có trí tuệ lại không gặp được thiện tri thức dẫn dắt sẽ dễ nhiễm tri kiến sai lầm mà lạc vào nhà ma,vĩnh viễn đọa trong ba đường ác; nếu không thì cũng mất nhiều thời gian, tâm lực, tiền của mà việc tu học vẫn không đắc lực, chẳng được bao nhiêu lợi ích chân thực, nói gì đến giải thoát khỏi biển khổ sinh tử. Để mọi người có thêm trí tuệ phân biệt chánh tà, đặc biệt là lựa chọn được pháp môn tu học vừa khế hợp căn cơ vừa có thể một đời thành tựu vượt thoát sinh tử; Diệu Thịnh xin giới thiệu một số cuốn sách vô cùng quý giá của các vị Tổ Tịnh Độ Tông cùng một số bài giảng của Hòa thượng Tuyên Hóa và Pháp sư Tịnh không về pháp môn xưng tán Hồng Danh Đức Phật A Di Đà -Pháp môn siêu việt thù thắng nhất trong toàn bộ giáo lý Phật Pháp đến mọi người hữu duyên. Nguyện cho tất cả chúng sinh trong mười phương đều tin Phật, tinh tấn niệm Phật đồng vãng sinh Tây phương Cực Lạc. "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm Phật Tông Yếu Những Lời Vàng Ngọc của Tổ Pháp Nhiên LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại hiện nay và nhất là đối với hàng cư sĩ tại gia, Niệm Phật có thể nói là con đường tất yếu để ra khỏi sinh-tử. Đây là Pháp Môn Tha Lực duy nhất trong Phật Pháp mà điểm then chốt là tin tưởng tuyệt đối vào Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là dùng Danh Hiệu của Ngài để cứu độ tất cả chúng sanh. Không hiểu rõ lý nầy, người ta thường cho rằng Xưng-Danh là để cho hạng hạ căn không đủ căn cơ để tu những pháp môn như Quán Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, v.v… Và khi tu Niệm Phật thì phần nhiều đều mang tâm niệm tự lực, vẫn cứ trông cậy vào sức mình để được vãng sinh. Đó là Tự Lực Niệm Phật. Bởi thế, tu rất nhọc nhằn mà cũng không chắc là mình có được vãng sinh hay không. Những ngộ nhận nầy chính dịch giả cũng mắc phải. Hơn một năm trước đây, may mắn thay, gặp được tác phẩm Pháp Nhiên Ngữ Đăng Lục. Như kẻ mù được sáng, người sắp chết đuối gặp phao. Hốt nhiên tín tâm phát khởi, nhận ra lý Tha Lực Niệm Phật. Từ đây, Niệm Phật trở thành một niềm vui không thể nghĩ bàn, vãng sinh Cực Lạc là điều chắc chắn chứ không cần đến lúc lâm chung. Do đó, xin chọn những pháp ngữ tinh yếu của Ngài để dâng tặng người hữu duyên. Xin nguyện rằng hễ ai đọc đến, đều phát khởi tín tâm, niệm Phật mà được vãng sinh Cực Lạc. TIỂU SỬ NGÀI PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN Pháp Nhiên Thượng Nhân là Khai Tổ của Tông Tịnh Độ Nhật Bản. Ngài sinh năm 1133. Thân phụ của ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần mà vẫn chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh 7 ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai. Cha Ngài đã đoán rằng sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm của mẹ ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo. Khi đản sinh Ngài, có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm. Năm Ngài lên chín, phụ thân ngài bị địch quân sát hại. Trước khi qua đời kêu Ngài đến và dạy rằng : “Nầy con! Đây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán. Nếu mang cái tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau thì người khác cũng biết tiếc mạng sống. Con sau này thành nhân hãy cầu vãng sanh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình!”. Dặn dò xong xuôi cha ngài lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời. Năm 14 tuổi, tuân theo di ngôn của thân phụ, ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ Đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp, nhất văn thiên ngộ. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài khí lượng bất phàm, không nỡ đề Ngài bị mai một, nên đưa Ngài lên Tỷ Duệ Sơn - một tự viện nổi tiếng ở kinh đô - để tham học với Pháp sư Nguyên Quang. Đến ở Tỷ Duệ Sơn không bao lâu thì Pháp sư Nguyên Quang bảo rằng: “Đây là tuấn mã. Không thể để uống phí ở đây!” Rồi đưa ngài đến A-xà-lê Hoàng-viên, một bậc Tông sư của Tông Thiên Thai thời đó. Vừa thấy Ngài Tổ Hoàng Viên đã nói rằng: “Hồi hôm ta nằm mộng, thấy một vầng trăng tròn chiếu vào chùa. Phải chăng đây là điềm lành báo trước”. Rồi thu nhận Ngài làm đệ tử, bấy giờ Ngài mới 15 tuổi. Chưa đầy 3 năm sau, Ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của giáo pháp Thiên-Thai. Tổ Hoàng-Viên đã có ý trao truyền Tổ vị cho Ngài. Nhưng Ngài không muốn bị ràng buộc bởi danh lợi nên quyết tâm ra đi. Năm 18 tuổi, Ngài ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một bậc Tông Tượng của Mật Tông thời bấy giờ. Thấy Ngài khí độ phi phàm, dù rằng tuổi còn nhỏ mà không cần phải sách lệ, nên đặt pháp hiệu cho Ngài là Pháp Nhiên (có nghĩa là “Pháp vốn như vậy”), và pháp danh là Nguyên Không (lấy chữ “Nguyên” của Đại sư Nguyên Quang và chữ “Không” của Đại sư Duệ Không). Tại đây Ngài được truyền thụ Viên Thừa Đại Giới và Du Già Bí Pháp. Không những thông tuệ, Ngài còn rất hiếu học. Tất cả Kinh, Luật, Luận đều được Ngài duyệt đọc cẩn thận. Ngài còn nghiên cứu tường tận về mọi tông phái. Không những thế, Ngài lại đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất. Về phương diện tu hành, Ngài cũng có rất nhiều chứng nghiệm. Có lần Ngài nhập thất 21 ngày tu Pháp Hoa Tam Muội, cảm đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đến chứng minh, Sơn Vương Thần Tướng hiện hình thủ hộ. Khi Ngài duyệt đọc kinh Hoa Nghiêm, có con rắn nhỏ màu xanh nằm khoanh trên bàn. Thị giả Tín Không thấy vậy rất sợ hãi, dùng cây đem rắn ra ngoài. Khi trở vào lại thấy nằm nguyên ở chỗ cũ. Đêm đó Tín Không nằm mộng thấy một con rồng lớn đến bảo rằng: “Tôi là Long Thần thủ hộ kinh Hoa Nghiêm, xin đừng sợ hãi”. Mỗi lần Ngài nhập thất tu Chân-ngôn Mật-quán là cảm ứng các điềm lành như liên hoa, bảo châu, yết ma và v.v… hiện ra. Rất nhiều lần Ngài đọc kinh ban đêm mà không cần đốt đèn. Ánh sánh phát ra từ trán của Ngài hoặc từ trong thất. Những điều lạ thường như trên, kể ra không xiết. Nhưng dù vậy Ngài vẫn còn băn khoăn chưa thật sự an tâm. Trong cả Đại Tạng Kinh, Ngài hâm mộ nhất là Bộ “Quán Kinh Sớ” của Tổ Thiện Đạo. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần và bỗng nhiên ngộ được ý chỉ DI-ĐÀ SIÊU-THẾ NGUYỆN. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối mà gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh Độ, Niệm Phật, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là sư Thiện-Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương Chuyên tu Niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương”. Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trụ tích ở Đông Cát Thủy và khai sáng Tông Tịnh Độ. Trước đó tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng không có Tông Tịnh Độ riêng biệt. Từ đây Tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản. Đây là một điểm đặc sắc cần lưu ý, vì ở Trung Hoa không hề có Tông Tịnh Độ, và dĩ nhiên không có sự kế thừa. Các Đại sư hoằng dương Tịnh Độ ở Trung Hoa có tính cách tự phát và chỉ ở trong đời của các Ngài mà thôi. Từ khi Ngài khai xướng Tông Tịnh Độ, những cảm ứng linh dị cũng nhiều không kể xiết. Xin kể đôi điều để tăng lòng kính tín. Đương thời Tể tướng Đằng Nguyên Kiêm Thực rất ngưỡng mộ Thượng Nhân. Có lần thỉnh ngài vào điện Nguyệt Luân để tham vấn về Tịnh Tông Yếu nghĩa, giảng xong Ngài từ biệt ra về, khi đi đến cây cầu ở trước điện, tể tướng quỳ lạy dưới đất không cầm được nước mắt, giây lâu mới quay lại hỏi các người tùy tùng: “Vừa rồi các người có thấy Thượng Nhân trên đầu có hào quang, dưới chân có hoa sen đỡ rời khỏi mặt đất, hình dáng giống như Đức Đại Thế Chí hay không?”. Có người thấy, có người không. Từ đó cầu này được đặt tên là cầu Viên Quang. Có lần cử hành Niệm Phật thất 21 ngày ở Chùa Linh Sơn. Vào nửa đêm ngày thứ 5, có vài người thấy Đức Đại Thế Chí cùng với đại chúng kinh hành Niệm Phật nên vội đảnh lễ. Giây lát ngước lên thì hình Đức Đại Thế Chí biến thành hình Thượng Nhân. Do đó mới biết rằng ngài là hóa thân của Đức Đại Thế Chí. Từ khi Thượng Nhân sáng lập Tông Tịnh Độ thì cơ hóa độ thịnh hành vô cùng. Từ vua chúa công khanh cho đến hạng dân giả đều qui ngưỡng Ngài. Và hẳn nhiên cũng không thiếu kẻ ganh ghét Ngài. Do lỗi lầm của đệ tử, Ngài bị vu cáo và phải bị đi đày một thời gian ngắn. Nhưng Ngài vẫn an nhiên dạy Đạo cho bất cứ ai đến tham vấn mà không hề phân biệt. Cũng nhờ lần đi đày này mà nhiều người có dịp gặp Ngài và được vãng sanh. Ngài vãng sanh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, ngài nói với các đệ tử: “ Tiền thân của Thầy là một vị tăng ở bên Thiên Trúc (Ấn độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà. Nay đến chốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh Độ Tông, hoằng dương Niệm Phật.” Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa Thầy! Là vị nào? Ngài đáp: Là ông Xá-Lợi-Phất. Lại có đệ tử khác hỏi: Thầy nay có vãng sanh về Thế-giới Cực-Lạc không? Ngài đáp: Thầy vốn là người của Cực Lạc thì dĩ nhiên trở về Cực Lạc. Các đệ tử thiết trí tượng Đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ lên không mà nói rằng: “Phật hiện Chân thân kìa, các con có thấy không? Thầy mười mấy năm nay thường thấy Chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc Trang Nghiêm, nhưng tuyệt đối không nói với ai. Nay sắp lâm chung, nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”. Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán rất lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân. Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy!”. Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng Niệm Phật cùng với đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, ngài đắp y Tăng già lê, đầu Bắc diện Tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về phía Tây) tụng bài kệ sau rồi an nhiên thị-tịch, thế-thọ 80, tăng lạp 66. “ Quang-minh biến-chiếu, Niệm-Phật chúng-sanh Nhiếp-thu bất-xả”. (Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sanh Niệm Phật). Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến cho tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì Thầy sắp vãng sinh rồi ”. Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”. Sau khi Ngài vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở kháp đá đựng di thể của Ngài thì toàn thân vẫn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây Giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng nên từ đó nơi này có tên là “Tử Vân Tùng”, hiện nay là chùa Quang Minh. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài là TUYỂN TRẠCH BỔN - NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP 4 đang được chuyển dịch sang Việt ngữ. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT CÁC HẠNH VÃNG SANH, NIỆM PHẬT ĐỆ NHẤT 1) Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu, nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như là nông cạn, nhưng thời điểm và căn cơ đều tương ứng. Thời Mạt Pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ còn pháp môn niệm Phật A Di Đà để cứu độ chúng sanh. 2) Tông Tịnh Độ siêu hơn các tông. Hạnh Niệm Phật siêu hơn các hạnh. Bởi vì thâu nhiếp tất cả các cơ vậy. 3) Chẳng luận có tội hay vô tội, chẳng kể là trì giới hay phá giới, nếu căn cứ vào thời điểm và căn cơ thì chỉ có pháp môn Tịnh Độ (Hạnh Niệm Phật) là yếu pháp để thoát khỏi sinh tử trong đời này. 4) Để đời này thoát khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Để được vãng sinh Tịnh Độ, không gì hơn Niệm Phật. 5) Tu Niệm Phật để cầu vãng sinh Tịnh Độ, thì tương ứng với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà. Tu các hạnh khác để cầu vãng sanh Tịnh Độ thì mâu thuẫn với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà. 6) Để được vãng sinh cõi Cực Lạc, thì dù diệu hạnh gì chăng nữa cũng không hơn niệm Phật. Vì sao thế? Vì niệm Phật là hạnh tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà vậy. 7) Ngoài niệm Phật, tất cả hạnh khác đều chẳng tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bởi vậy, tuy là diệu hạnh cũng không bằng niệm Phật. Muốn được sinh sang cõi nước đó, nên thuận theo Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. 8) Niệm Phật là hạnh tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà, nên mười phương hằng sa chư Phật đều chứng thành. Các hạnh khác chẳng tương ưng Bổn Nguyện, nên chư Phật chẳng chứng thành. Bởi thế nên thường niệm Phật để mười phương chư Phật hộ niệm. 9) Kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ chép rằng: “Quang minh soi chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp không rời các chúng sinh niệm Phật ”. Quang minh của Đức A Di Đà chỉ soi chiếu người niệm Phật, chẳng soi chiếu người tu các hạnh khác. Bởi thế người cầu sinh sang cõi Cực Lạc phải biết Niệm Phật là trọng yếu. 10) Bổn Nguyện thâm trọng sau năm kiếp tư duy chép trong kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ là: “Chẳng kể thiện hay ác, chẳng quản trì giới hay phá giới, chẳng tính tại gia hay xuất gia, chẳng luận có trí hay không có trí. Chỉ pháp Đại Bi Bình Đẳng, nay đã thành Phật ”. Trụ vào cái Tâm Tha Lực ( nguyện lực của Đức A Di Đà) mà Niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc, đã được dự vào sự nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà. 11) Niệm Phật không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh hiệu, không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh hiệu, không có hình thức gì cả. 12) Niệm Phật hoàn toàn không có hình thức. Chỉ cần biết rằng: “Hễ xưng Danh hiệu Đức Phật A Di Đà thì được sinh sang cõi Cực Lạc ”, do đó chí tâm niệm Phật để cầu vãng sinh. 13) Niệm Phật lấy không hình thức làm hình thức. Chỉ biết rằng thường niệm Phật thì đến lúc lâm chung nhất định Phật lai nghinh mà vãng sinh sang cõi Cực Lạc. 14) Vấn đề niệm Phật tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng xưng Lục Tự Hồng Danh ( NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ) thì đã bao hàm tất cả. 15) Niệm Phật chẳng phải là quán Pháp Thân Phật, chẳng phải là quán tướng hảo của Phật. Chỉ một lòng chuyên xưng danh hiệu Đức A Di Đà, đó là niệm Phật. 16) Chỉ biết rằng: “Bổn Nguyện của Đức A Di Đà chẳng hư dối, hễ xưng niệm danh hiệu của Ngài thì nhất định được vãng sinh”. Ngoài ra không cần nghĩ gì khác. 17) Tất cả căn cơ cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật để vãng sinh. Cái thân hiện nay do túc nghiệp đời trước mà có, nên trong đời này không thể thay đổi. Như người nữ mà muốn đổi thành người nam trong đời này thì không thể được. Cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật. Người trí thì lấy trí mà niệm Phật vãng sinh. Người ngu thì dùng ngu mà niệm Phật vãng sinh. Có đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Không đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Người có tà kiến cũng niệm Phật vãng sinh. Hàng phú quý, hạng bần cùng, người tham lam, kẻ tánh nóng, bậc có từ bi, hạng không có từ bi, do BỔN NGUYỆN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ, hễ niệm Phật thì đều được vãng sinh. 18) Hỏi: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật hơn kém ra sao? Đáp: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật công đức bằng nhau không có hơn kém. Hỏi: Chỗ này quả thật tôi không hiểu. Vì sao người xuất gia không gần đàn bà, ăn chay trường mà niệm Phật, do đó rất đáng quý. Người tại gia thường hay nghĩ đến sắc dục, ăn thịt uống rượu mà niệm Phật, hẳn nhiên là thấp kém. Làm sao mà bằng nhau được? Đáp. Công đức bằng nhau không có hơn kém. Vì sao vậy? Người không biết BỔN NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ mới có nghi vấn này! 19) Anh Cát Đằng (một đệ tử tại gia thuộc hạng hạ lưu của Ngài) cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Pháp Nhiên nầy cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Hai bên hoàn toàn không khác gì nhau. 20) Niệm Phật của Pháp Nhiên nầy với niệm Phật của anh Cát Đằng hoàn toàn như nhau. Nếu cho rằng không giống nhau, là hoàn toàn không biết ý nghĩa của niệm Phật vậy. Như lấy gấm vóc mà gói vàng ròng, hoặc lấy vải dơ mà gói vàng thì cũng là vàng ròng cả. 21) Hỏi: Niệm Phật khi tâm thanh tịnh với niệm Phật khi tâm động hơn kém ra sao? Đáp: Công Đức bằng nhau, không có gì sai khác! 22) Hỏi: Tôi tuy niệm Phật mà tâm cứ tán loạn không biết làm sao đây? Đáp: Chuyện đó thì Pháp Nhiên nầy cũng làm không nổi! 23) Tâm của hạng phàm phu làm sao mà không tán loạn được. Cũng chính vì thế mới gọi là Pháp Môn Dễ Tu. 24) Đã sinh làm người trong cõi dục giới tâm địa nầy thì tâm đều tán loạn cả. Nếu bảo rằng phải bỏ cái tâm tán loạn mới vãng sinh được thì thật là vô lý. Tán tâm niệm Phật mà được vãng sinh, đó là chỗ đáng quý của BỔN NGUYỆN vậy. 25) Chẳng phải thanh tịnh cái tâm của mình, trừ đi nghiệp chướng nầy rồi mới niệm Phật, mà do thường niệm Phật thì tội chướng tiêu diệt. 26) Dù trọng tội vô gián (ngũ nghịch) cũng không thể thắng công đức xưng Danh. Thanh bảo kiếm là Danh hiệu Đức A Di Đà, hễ trì niệm thì ma duyên không gần được. Thường xưng niệm Danh hiệu Ngài thì tội chướng tiêu diệt. 27) Trong khi niệm Phật mà tâm vọng động là thông bệnh của tất cả hạng phàm phu. Nhưng hễ có chí nguyện vãng sinh mà Niệm Phật thì tuyệt đối không chướng ngại. Ví như chỗ thâm tình của cha con, dù có bất hòa đôi chút, thì chỗ thâm tình đó vẫn không thay đổi, vẫn là cha con. 28) Lấy người Niệm Phật mà thí dụ cho hoa sen, vì hoa sen là nghĩa không ô nhiễm. Đối với Danh hiệu của Bổn Nguyện Thanh Tịnh (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) thì sự dơ bẩn của thập ác, ngũ nghịch không thể làm ô nhiễm được nên mới thí dụ như thế. 29) Không cần để ý đến vọng niệm, tán loạn… mà chỉ chuyên cần xưng Danh hiệu. Nếu thường xưng Danh hiệu thì do công đức của Phật Danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp (thân, khẩu, ý) tự điều hòa, nguyện tâm tự phát. Bởi thế: “ Khi nguyện tâm còn yếu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi tâm tán loạn nhiều, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi vọng niệm sinh khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi thiện tâm phát sinh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi bất tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi thanh tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi tam tâm còn thiếu kém, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi tam tâm hiện khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật. Khi tam tâm thành tựu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật ”. Đây là phương tiện để chắc chắn được vãng sinh, xin ghi khắc vào tâm can chớ quên. 30) Trong nhãn quan của Pháp Nhiên thì: “ Tam tâm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Ngũ niệm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Tứ tu cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ”. 31) Người làm biếng Niệm Phật là người đánh mất đi vô lượng châu báu. Người siêng năng Niệm Phật là người khai mở vô biên sáng suốt. Nên dùng cái tâm cầu vãng sinh mà tương tục Niệm Phật. 32) Danh lợi là dây trói của sinh tử, là lưới sắt để vướng vào ba đường dữ. Xưng Danh là đôi cánh của vãng sinh để lên chín phẩm liên đài. 33) Chúng ta là người bị kẻ thù “tham, sân, phiền não” cột trói mà giam hãm trong lồng chậu tam giới. Hãy nghĩ đến lòng từ bi của Cha Lành A Di Đà, dùng thanh bảo kiếm Danh hiệu mà chặt đứt dây trói sinh tử, lên con thuyền Bổn Nguyện để vượt biển luân hồi, đến bờ Giác Ngộ. Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi không nguôi. 34) Đã được thân người khó được, nếu tương lai để rơi vào ba đường dữ thì đáng buồn, đáng tiếc vô cùng. Chán cõi dơ, ưa Tịnh Độ, bỏ ác tâm, phát thiện tâm thì được tam thế Chư Phật tùy hỷ. Con đường để ra khỏi sinh tử tuy chẳng giống nhau, nhưng trong thời mạt pháp thì Xưng Danh Đức Phật A Di Đà là hơn cả. Hạng tội chướng nặng nề ngu si ám độn đi nữa, nếu chịu trì Danh thì sẽ được vãng sinh, vì tương ưng Bổn Nguyện nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà vậy. Tội chướng nặng nề hãy đừng mặc cảm, vì ngũ nghịch; thập ác cũng được vãng sinh. Dù mười niệm hay một niệm đi nữa, hễ chí tâm thì Phật lai nghinh. 35) Hạnh Trì giới (mà không xưng Danh Hiệu A DI ĐÀ PHẬT cầu sinh Tịnh Độ) chẳng phải là hạnh mà Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ, do đó cứ theo khả năng của mình mà giữ là được rồi. Điều quan trọng là chuyên cần Niệm Phật. 36) Chẳng kể là phá giới hay giữ giới, giàu hay nghèo, căn cơ cao hay thấp. Hễ xưng niệm Danh hiệu Ngài thì như gạch ngói biến thành vàng ròng. Ngài nhất định lai nghinh. Đó là thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà. 37) Người Niệm Phật dù không có chút thiện căn gì khác đi nữa, vẫn chắc chắn được vãng sinh. Hỏi: Niệm Phật mà không phát bồ đề tâm thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không giữ giới thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không có trí tuệ thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà vọng niệm không ngừng thì làm sao được vãng sinh? Đáp: Hỏi như vậy là vì không biết và hiểu kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ. 38) Phật có đại nguyện tiếp dẫn, chúng ta có lòng muốn sinh sang đó, làm sao mà chẳng toại nguyện vãng sinh? 39) Nếu đi bằng thuyền thì người sáng mắt hay kẻ đui mù đều có thể đến bờ bên kia. Tuy có con mắt trí tuệ mà không Niệm Phật thì không phù hợp với Nguyện Lực. Tuy ngu si ám độn mà có thể Niệm Phật xin được nương vào Nguyện Lực của Phật để được vãng sinh. 40) Không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sinh mà Niệm Phật. Đó gọi là Tha Lực Niệm Phật. Cho rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sinh là điều sai lầm rất lớn. 41) Chẳng cần để ý là tâm mình thiện hay ác, tội chướng nặng hay nhẹ, mà chỉ nên dùng miệng xưng NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và phát khởi cái tâm quyết định! Nương Phật Thệ Nguyện chắc chắn vãng sinh!!! 42) Hạng vô trí, tội chướng Niệm Phật mà vãng sinh là ý chánh (mục đích chính) của Bổn Nguyện. 43) Thâm tâm tức là cái tâm tin sâu. Tin sâu điều gì? Tin rằng: Hạng phàm phu phiền não sâu dày, nghiệp chướng nặng nề, thiện căn thiếu kém, nhờ tin vào Nguyện Lực Đại Bi của Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc 100 năm, hoặc 45 năm, 20 năm, 10 năm, cho đến một hai năm. Từ khi phát tâm cho đến lúc lâm chung không thối chuyển. Hoặc 7 ngày, hoặc 1 ngày, cho đến 10 niệm, 1 niệm. Dù nhiều hay ít, người xưng danh Niệm Phật chắc chắn được vãng sinh. Tóm lại, đối với chuyện vãng sinh mà không nghi ngờ thì gọi là “Thâm Tâm”. 44) Tuy được nghe Danh Hiệu mà không tin thì cũng như không được nghe. Tuy có tín tâm mà không xưng niệm thì cũng như không tin. Bởi thế nên một lòng Niệm Phật. 45) Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là thệ nguyện dùng Danh Hiệu của Ngài để tiếp chúng sanh tội chướng. Do đó, người Niệm Phật (xưng danh hiệu Ngài) thì sẽ được lai nghinh. Đạo lý này tuyệt đối không thể nghi ngờ. 46) Hỏi: Chỉ xưng Danh một niệm mà có thể diệt được trọng tội ngũ nghịch, thập ác ư? Đáp: Đừng nghi! 47) Khi tạo ngũ nghịch mà được nghe Danh Hiệu của Đức Phật A Di Đà thì hỏa xa (cảnh địa ngục) tự nhiên biến mất, liên đài hiện đến lai nghinh. Người tội chướng nặng nề không có phương tiện gì khác để giải thoát, do xưng Danh Hiệu được vãng sinh Cực Lạc. Đó là nhờ vào Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà. 48) Hỏi: Niệm Phật lúc lâm chung với Niệm Phật lúc bình thường, bên nào thù thắng hơn? Đáp: Giống nhau! 49) Phút lâm chung, nỗi khổ của cái chết bức bách, thân thể chịu vô lượng thống khổ, giống như trăm nghìn lưỡi dao đâm vào. Mắt mũi bỗng nhiên mờ mịt, muốn thấy cũng không thể thấy. Miệng lưỡi co cứng, muốn nói cũng không nói được. Đây là tứ khổ trong tám sự khổ của kiếp người, dù người tu Niệm Phật, tin Bổn Nguyện, cầu vãng sinh chăng nữa cũng khó tránh khỏi nỗi khổ nầy. Nhưng dù mờ mịt, đến khi tắt thở, do Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà, sẽ thành chánh niệm mà vãng sinh. Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, điều nầy người khác không biết được, chỉ có Phật và người tu Niệm Phật biết được mà thôi. 50) Người Niệm Phật mà có lòng cầu vãng sinh và không nghi A Di Đà Phật Bổn Nguyện thì khi lâm chung không bị điên đảo. Sở dĩ được như vậy là nhờ Phật lai nghinh. Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh. Người không biết nghĩa nầy đều cho rằng lúc lâm chung cần phải chân chánh niệm Phật, Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật Nguyện và cũng không hiểu kinh văn nữa. 51) Vì người chết mà niệm Phật hồi hướng thì Phật A Di Đà phóng quang minh soi chiếu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Kẻ bị chìm trong ba đường dữ mà chịu khổ thì hết khổ. Người chết sau khi lâm chung được giải thoát. 52) Tuy biết rằng: “Dù tội ngũ nghịch cũng không chướng ngại vãng sinh” nhưng phải cẩn thận ngay cả tội nhỏ cũng chớ phạm. Tuy biết rằng “một niệm cũng đủ” nhưng gắng niệm cho nhiều. Tin rằng một niệm cũng vãng sinh mà niệm suốt một đời. 53) Hỏi: Vì Bổn Nguyện không loại trừ kẻ ác, nên người ta đều muốn tạo ác nghiệp, làm sao đây? Đáp: Phật A Di Đà tuy không bỏ rơi kẻ ác, nhưng người tạo ác nghiệp thì chẳng phải là đệ tử của Phật. Tất cả Phật Pháp là để chế phục điều ác, vì hạng ngu si phàm phu không dễ gì làm được, nên khuyên Niệm Phật để diệt tội. 54) Đức Phật A Di Đà thương xót tất cả chúng sinh, dù thiện hay ác Ngài đều cứu độ. Nhưng thấy người lành thì Ngài vui, thấy kẻ ác thì Ngài thương xót. 55) Đáng thương thay! Thiện tâm tùy năm mà giảm, ác tâm theo ngày mà tăng! Người xưa nói: “Phiền não như ảnh tùy thân, muốn bỏ mà không xong. Bồ Đề như trăng trong nước, muốn lấy mà không được”. 56) Hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn còn. Nên hổ thẹn là mình không có tín tâm! 57) Người tu Tịnh Độ trước hết nên biết hai điều nầy: “Vì người có duyên dù phải bỏ thân mệnh, tài sản cũng nên vì họ mà nói pháp môn Tịnh Độ. Vì sự vãng sinh của mình, nên xa lìa mọi phiền nhiễu mà chuyên tu hạnh Niệm Phật”. Ngoài hai điều trên không tính toán gì khác. 58) Đã tu Tịnh Độ thì mọi chuyện trong đời đều y theo Niệm Phật mà quyết định. Tất cả đều là trợ duyên cho Niệm Phật, hễ làm chướng ngại thì nên từ bỏ. Sống một mình không Niệm Phật được thì ở chung mà Niệm Phật. Sống chung không Niệm Phật được thì ở một mình mà Niệm Phật. Tại gia mà không Niệm Phật được thì xuất gia mà Niệm Phật. Xuất gia mà không Niệm Phật được thì tại gia mà Niệm Phật. Sống giữa đời không Niệm Phật được thì trốn đời mà Niệm Phật. Trốn đời không Niệm Phật được thì sống giữa đời mà Niệm Phật. 59) Nguyện rằng người tu Tịnh Độ gặp bệnh hoạn nên vui! 60) Thành Phật tuy khó nhưng cầu vãng sinh thì dễ được. Nhờ sức Bổn Nguyện làm cường duyên, nên tuy là phàm phu mà được vãng sinh Báo Độ (Thực Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ). 61) Một vị tăng ở Trấn Tây đi hành cước, khi đi ngang Cát Thủy Lư, ra mắt Pháp Nhiên Thượng Nhân, gặp lúc ngài đang Niệm Phật ở đạo trường nên thị giả tiếp khách. Vị tăng hỏi: Trong khi xưng Danh hiệu, có nên để tâm mình vào tướng hảo của Phật hay không? Thị giả đáp: Quả thật là nên. Vừa lúc ấy ngài mở cửa đạo trường và nói: “Nguyên Không nầy (một pháp danh khác của Ngài) thì chẳng vậy. Hãy nhớ rằng kinh dạy: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi dù chỉ có mười lần, nếu chẳng được vãng sinh, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác”. ( Kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ). Và Tổ Thiện Đạo dạy: “Đức Phật kia (Đức A Di Đà) nay đang tại thế thành Phật. Bởi thế nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm thì tức nhiên được vãng sinh”. Theo thiển ý, dù quán tướng hảo của Phật chăng nữa cũng chẳng phải như thuyết quán. Chẳng bằng nương tựa Bổn Nguyện, miệng xưng Danh hiệu là hơn cả, vì đó là hạnh chân thực ( hạnh tương ưng với Bổn Nguyện). 62) Có người hỏi rằng: Nhật khóa xưng danh sáu vạn, mười vạn lần mà chẳng như pháp: so với xưng danh hai vạn, ba vạn lần mà như pháp. Bên nào tốt hơn? Ngài đáp: Hạng phàm phu loạn tưởng xưng danh ít lần mà như pháp tu hành, sự thật rất là khó. Chẳng bằng nhật khóa xưng danh cho nhiều. Chỗ trọng yếu của xưng danh là để tâm niệm tương tục, Niệm Phật không ngớt miệng là đủ, cần gì phải cho là như pháp hay chẳng như pháp ư! 63) Hỏi: Thường nghĩ đến chuyện “Bỏ ác tu thiện” mà Niệm Phật, so với thường nghĩ đến ý chỉ của Bổn Nguyện mà Niệm Phật. Điều nào hay hơn? Đáp: Bỏ ác tu thiện tuy là lời răn chung của chư Phật, nhưng hạng phàm phu thời mạt pháp như chúng ta thường làm ngược lại! Nếu chỉ tự mình mà chẳng nương vào Bổn Nguyện thì e rằng khó mà ra khỏi sinh tử. 64) Hỏi: Thiện Đạo Hòa Thượng cho rằng Thánh Đạo môn là giáo pháp phương tiện, xuất phát từ đâu? Đáp: Cuốn PHÁP SỰ TÁN chép: “ Như Lai xuất hiện nơi ngũ trược. Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh. Hoặc nói “đa văn” mà được độ. Hoặc thuyết “tiểu giải” chứng tam minh. Hoặc dạy “phước huệ” cùng trừ chướng. Hoặc giáp “thiền niệm” ngồi tư duy. Tất cả pháp môn đều giải thoát. Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”. Hỏi: Đã nói rằng: “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, sao lại lấy đoạn văn nầy làm chứng cứ? Đáp: Ở trên nói: “Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh”, kế đến là “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, và cuối cùng là “Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”. Rõ ràng là ngoài Niệm Phật vãng sinh ra, tất cả đều là phương tiện. 65) Thánh Đạo Môn (các tông phái khác) đều tu cái “nhân” của tam thừa, tứ thừa để được cái “quả” của tam thừa, tứ thừa. Do đó không thể so sánh với hạnh Niệm Phật. Còn trong Tịnh Độ Môn thì các hạnh (đọc tụng kinh điển, lễ bái, quán tưởng, quán tượng…) và hạnh Niệm Phật đều là “nhân” để vãng sinh nên có thể so sánh. Nhưng các hạnh đều chẳng phải tương ưng với A Di Đà Phật Bổn Nguyện, do đó quang minh của Đức A Di Đà chẳng thu nhiếp, mà Đức Thích Ca cũng chẳng phó chúc. Bởi thế Thiện Đạo Đại Sư dạy: “Tất cả các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không thể so sánh nổi”. 66) Các Đại sư hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ thời nào cũng có nhiều, tất cả đều khuyên người tu Tịnh Độ phát Bồ Đề Tâm và đều lấy hạnh “Quán Tưởng” làm chánh. Chỉ duy một mình Đại sư Thiện Đạo cho rằng không phát Bồ Đề Tâm cũng được vãng sinh và nhận định rằng hạnh “Quán Tưởng” chỉ là trợ nghiệp cho hạnh “Xưng Danh” mà thôi. Theo thiển ý, người tu Tịnh Độ nếu không tuân theo ý của Ngài Thiện Đạo thì e rằng khó được vãng sinh. Hãy ghi nhớ! 67) Một đệ tử hỏi: Nếu trí tuệ là điều cần yếu để vãng sinh thì con người minh mẫn theo thầy học. Còn nếu chỉ cần xưng danh là đủ thì không mong gì khác. Xin Thầy từ bi khai thị cho, con sẽ tuyệt đối vâng theo như lời Phật dạy vậy. Ngài đáp: Chánh nghiệp vãng sinh thì trọng yếu là xưng danh. Rõ ràng là chẳng phân biệt có trí tuệ hay không có trí tuệ, cần gì phải học hành cho lắm! Chi bằng cứ lo Niệm Phật, thì sẽ mau được vãng sinh Tịnh Độ, gặp mặt Thánh chúng, được nghe pháp môn. Hơn nữa cõi kia trang nghiêm, ngày đêm thuyết pháp sâu xa, do đó sẽ tự nhiên khai phát thắng giải mà chứng Vô Sinh Nhẫn. Nếu chưa biết ý nghĩa của Niệm Phật vãng sinh thì học cho biết, đơn sơ là đủ. Nếu ham học rộng, biết bao nhiêu cho cùng. Hãy siêng năng Niệm Phật là hơn cả. 68) Thọ giáo và phát tâm không hẳn là cùng lúc, vì phát tâm thì gặp duyên mà phát khởi. Trước đây có một vị sơn tăng hỏi tôi rằng: “Tôi học pháp môn Tịnh Độ đã lâu, hiểu được đôi chút nhưng chưa phát khởi được tín tâm. Phải dùng phương tiện gì để thành lập tín tâm?”. Tôi đáp: “Hãy cầu nguyện Tam Bảo gia bị”. Vị tăng kia tuân theo lời dạy. Một hôm ông ấy đến chùa Đại Đông, gặp lúc đang gác cây đòn dông ở chánh điện. Ông bèn đứng xem, bỗng nhiên tín tâm phát khởi rồi tự nhủ rằng: “Nếu không có sự tính toán khéo của người thợ thì làm sao cây đòn dông lên đó được?! Người thợ tầm thường còn vậy huống gì sức thiện xảo không thể nghĩ bàn của Như Lai! Mình có cái chí nguyện vãng sinh, Phật có lời thề tiếp dẫn. Vãng sinh Tịnh Độ hẳn nhiên là tương ứng!” Từ đó không còn tâm nghi ngờ nữa. Sau nầy ông có đến cho tôi biết. Ba năm sau thì được vãng sinh, điềm lành rất nhiều. Bởi thế nên thường cầu nguyện Tam Bảo gia bị. 69) Yếu đạo để hạng phàm phu thoát khỏi sinh tử không gì hơn Môn Tịnh Độ, hạnh Niệm Phật. Nói về căn cơ thì bao gồm thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, báng pháp, xiển đề, phá giới, v.v… Nói về hạnh thì mười tiếng hay một tiếng, ngay cả trẻ con cũng xưng được. Nói về tín thì một niệm hay mười niệm, kẻ ngu cũng làm được. Bổn Nguyện vốn vì “mười phương chúng sinh” mà có, không để sót bất cứ căn cơ nào, không bỏ rơi bất kỳ ai. Trong mười phương chúng sinh, thì có trí hay vô trí, có tội hay vô tội, phàm phu hay Thánh nhân, trì giới hay phá giới, người nam hay người nữ, ông già hay trẻ con… cho đến căn cơ của thời Tam Bảo đã diệt đều bao gồm cả. Hễ gặp được Bổn Nguyện, được nghe Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và tin theo mà Niệm Phật thì Đức Phật A Di Đà dùng Quang Minh Biến Chiếu thu nhiếp chẳng rời. Hạng tội nặng nghiệp dày, u minh ám chướng lại càng nên nương vào A Di Đà Phật Bổn Nguyện. Vì sao vậy? Lý do là vì A Di Đà Bổn Nguyện vốn vì phàm phu, chớ không phải vì Thánh nhân. 70) Năm điều quyết định chuyện vãng sinh: 1) Bổn Nguyện của Đức A Di Đà quyết định. 2) Lời dạy của Đức Thích Ca quyết định. 3) Sự chứng minh của Chư Phật quyết định. 4) Giáo thích của Tổ Thiện Đạo quyết định. 5) Tín tâm của chúng ta quyết định. Do năm nghĩa trên quyết định vãng sinh. 71) Niệm Phật là chuyện mình làm. Vãng sinh là chuyện Phật làm. Vãng sinh là do Phật Lực ban cho, lại cứ tính toán trong tâm mình thì đó là tự lực. Chỉ nên xưng danh (niệm Phật) để chờ Phật lai nghinh. 72) Tuy tam học “Giới, Định, Huệ” hoàn toàn đầy đủ, nhưng nếu không nương Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà mà xưng Danh hiệu Ngài thì không được vãng sinh. Tuy không có “Giới, Định, Huệ”, mà một mực xưng Danh thì chắc chắn được vãng sinh. 73) Hỏi: Vấn đề tự lực và tha lực nên hiểu như thế nào? Đáp: Pháp Nhiên nầy, tuy không phải là loại căn khí, có thể ra mắt Điện Hạ (Thiên Hoàng) nhưng do Điện Hạ triệu vào. Hai lần vào ra mắt không phải là do khả năng của tôi, mà do sức của Thiên Hoàng, huống gì là sức của Đức Phật A Di Đà! Chuyện Ngài lai nghinh để tiếp dẫn người xưng Danh là Bổn Nguyện của Ngài, điều nầy thật dễ hiểu. Những người tội chướng vô trí, không nên hoài nghi vãng sinh. Nếu mà nghi ngờ là hoàn toàn không biết gì về Phật Nguyện cả. Bổn Nguyện được phát ra là để cứu những người tội chướng vậy. Bởi thế hãy nỗ lực xưng Danh chớ khá nghi ngờ. Chỉ sợ không ưa cõi Cực Lạc, không tin Niệm Phật thì sẽ chướng ngại vãng sinh. Vì vậy gọi là “Tha Lực Nguyện”, là “Siêu Thế Nguyện”. 74) A Di Đà Bổn Nguyện phát ra không phải vì hạng thiện nhân có phương tiện, có thể dùng tự lực để thoát ly sinh tử mà là vì hạng ác nhân tội chướng không có phương tiện để giải thoát. Những hàng Bồ Tát, Thánh Hiền cũng có thể nương vào đó mà cầu vãng sinh. Hạng thiện nhân phàm phu cũng hướng về lời nguyện nầy mà được vãng sinh, huống gì hạng ác nhân phàm phu lại càng nên nương vào Tha Lực nầy chớ nên hiểu sai lầm mà bám chấp vào tà kiến. Hãy nhớ A Di Đà Bổn Nguyện căn bản là vì hạng phàm phu mà gồm luôn cả Thánh Nhân nữa. Xin hiểu rõ lý nầy. 75) Tu Thánh Đạo Môn thì tột cùng trí tuệ để lìa sinh tử. Tu Tịnh Độ Môn thì trở lại ngu si để vãng sinh. Bởi thế khi hướng về Thánh Đạo Môn thì trau dồi trí tuệ, giữ cấm giới, rèn luyện tâm tánh làm tông chỉ. Còn bước vào Tịnh Độ Môn thì chẳng dựa vào trí tuệ, chẳng lo tròn đạo hạnh, chẳng cần điều hòa tâm tánh, mà chỉ tự thấy mình là người vô năng, vô trí; cần nương vào Bổn Nguyện mà Niệm Phật mà cầu vãng sinh. 1) Muốn mau lìa sinh tử: Trong hai loại thắng pháp; Bỏ qua Thánh Đạo Môn, mà vào Tịnh Độ Môn. 2) Muốn vào Tịnh Độ Môn; Trong hai hạnh Chánh, Tạp; Hãy bỏ các Tạp hạnh, mà quay về Chánh Hạnh. 3) Muốn tu nơi Chánh Hạnh; Trong hai Chánh; Trợ Nghiệp; Chớ dính nơi Trợ Nghiệp; Hãy nên chuyên Chánh Định. 4) Chuyên tu Chánh Định Nghiệp; Tức là Xưng Phật Danh; Xưng Danh tất vãng sinh; Bởi do Phật Bổn Nguyện. 77) Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì xưng Danh là hạnh tương ưng với A Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng: “Kinh VÔ LƯỢNG THỌ” chép: “Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác. Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh”. Do đó ngoài xưng Danh không cần quán tưởng gì khác. Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng Danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh. 78) Đệ tử Nhất Hiền Chân hỏi: Thưa Thầy! Để mau chóng lìa khỏi sinh tử, thì Chân Ngôn (Mật Tông), Chỉ Quán (Thiên Thai), Hoa Nghiêm, Phật Tâm (Thiền Tông) phải thâm diệu hơn Tịnh Độ chứ? Ngài đáp: Pháp môn thì vô lượng nhưng luận về chỗ cấp yếu, thì tối thượng là Tịnh Độ. Các giáo pháp tuy nhiều nhưng xét đến chỗ cương yếu, thì Tha Lực Đốn Giáo thù thắng hơn cả. Vì dễ tu mà công cao, dễ hành mà lý thâm. Bởi thế Tổ Huệ Viễn nói rằng: “Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao mà dễ tu thì Niệm Phật là hơn cả”. Ngài Nguyên Chiếu nói rằng: “Niệm Phật Tam Muội là pháp để hạng phàm phu ngu độn trong sát na siêu việt thành Phật. Cho thấy rằng Tịnh Độ Giáo Pháp, Niệm Phật Tam Muội là Đại Thừa, Chí Cực, Tốc Tật, Giải Thoát”. 79) Khai thị của Pháp Nhiên Thượng Nhân cho đệ tử lúc lâm chung: “Thầy mấy chục năm nay, công phu Niệm Phật tích lũy, được bái kiến Cực Lạc trang nghiêm và Chân Thân của Phật, Bồ Tát là chuyện bình thường. Nhưng nhiều năm giữ kín mà không nói ra, nay đã đến lúc tối hậu nên bày tỏ đôi chút. Thầy nếu đoan tọa (ngồi kiết già) mà vãng sinh, người đời hẳn nhiên bắt chước. Mà cái thân người bệnh, cử động khó khăn, e rằng họ sẽ mất chánh niệm. Vì vậy nay Thầy nằm thẳng mà ra đi. Bổn Sư Thích Tôn đã thị hiện đầu Bắc, diện Tây (nằm nghiêng bên phải, đầu hướng Bắc, mặt hướng Tây) mà viên tịch, đó cũng là vì chúng sinh vậy. Thầy làm sao hơn Đức Thích Tôn được!” , LỜI BẠT Theo thiển ý của dịch giả, có thể nói Pháp Nhiên Thượng Nhân là người đầu tiên chỉ rõ chân diện mục của Tông Tịnh Độ, vạch ra một đường sáng cho tất cả những ai muốn thật sự liễu thoát sinh tử trong một đời. Điều đáng buồn là những lời dạy vàng ngọc nầy chưa hề được giới thiệu với người tu Tịnh Độ ở Việt Nam, dù rằng toàn bộ tác phẩm của Ngài đã được thâu nhập vào Đại Tạng Kinh qua bao thế kỷ. Dịch giả xin nguyện rằng hễ ai được đọc pháp ngữ nầy đều phát khởi tha lực tín tâm, hoan hỷ Niệm Phật, tin sâu rằng mình đã được dự vào A Di Đà Bổn Nguyện Hải Hội và tương lai chắc chắn được sinh về cõi Cực Lạc bất thối chuyển. Nam Mô A Di Đà Phật Viên Thông Nguyễn Văn Nhàn (Dịch giả)
  24. <h3 style="text-align: center;" align="center">Chương Bảy</h3> <h2 style="text-align: center;" align="center">Nhiếp Thủ </h2> Quang minh của Đức A Di Đà không chiếu hành giả khác, mà chỉ nhiếp thủ hành giả Niệm Phật. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo, trong mỗi hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi quang minh đều chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp thủ không bỏ tất cả chúng sinh Niệm Phật. Quán Kinh Sớ nói: Từ câu “Đức Phật Vô Lượng Thọ”, đến câu “nhiếp thủ không bỏ”, chánh thức thuyết minh về sự quán sát các tướng riêng biệt của thân Phật A Di Đà, quang minh này làm lợi ích cho người hữu duyên, chia làm năm phần: (1) nói rõ bao nhiêu tướng, (2) nói rõ bao nhiêu hảo, (3) nói rõ bao nhiêu quang minh, (4) nói rõ quang minh chiếu bao xa, (5) nói rõ chỗ mà quang minh chiếu đến, đều được lợi ích. Hỏi: Tu đầy đủ các công hạnh, chỉ cần hồi hướng đều được vãng sinh, tại sao quang minh của Phật chiếu khắp, lại chỉ nhiếp thủ những người niệm Phật, nghĩa này như thế nào? Trả lời: Ở đây có ba nghĩa: a/ Duyên thân thiết: chúng sinh khởi tâm tu hành, miệng thường niệm Phật, Phật ắt nghe thấy, thân thường lạy Phật, Phật ắt nhìn thấy, tâm thường nhớ Phật, Phật ắt biết rõ; chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, Phật cũng nhớ chúng sinh, niệm chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, thường không xa lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. b/ Duyên gần: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, Phật tức thời cảm ứng, hiện ra trước mắt họ, cho nên gọi là duyên gần. c/ Duyên tăng thượng: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, tức là có thể trừ diệt nhiều kiếp tội chướng, đến lúc lâm chung, Phật và thánh chúng, tự nhiên đến nghinh tiếp, những tà nghiệp trói buộc không thể làm chướng ngại sự vãng sinh, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các công hạnh khác, tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật, thì hoàn toàn không so sánh được, cho nên trong các kinh điển, chỗ nào cũng tán thán công đức Niệm Phật, chẳng hạn như kinh Vô Lượng Thọ, trong bốn mươi tám nguyện, chỉ nói rõ “chuyên niệm danh hiệu A Di Đà mà được vãng sinh Cực Lạc”, lại như trong kinh A Di Đà, một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, hơn nữa, hằng sa chư Phật ở mười phương thế giới chứng minh sự chân thực về bổn nguyện của Phật A Di Đà. Lại nữa, đoạn văn định thiện và tán thiện trong kinh này, cũng chỉ nêu rõ sự chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, những trường hợp này không phải là duy nhất. Đến đây đã nói xong về Niệm Phật Tam Muội. Quán Niệm Pháp Môn nói: “Lại nữa, như phần trước nói về quang minh của thân, tướng, v.v.., mỗi một quang minh biến chiếu mười phương thế giới, thế nhưng tâm quang của Đức A Di Đà thường soi chiếu những chúng sinh chuyên niệm danh hiệu của Ngài, nhiếp hộ không bỏ, mà hoàn toàn không nói đến sự soi chiếu nhiếp hộ các chúng sinh tu các tạp hạnh khác.” Hỏi: Quang minh của Phật chỉ chiếu người niệm Phật mà không chiếu người tu hạnh khác, là có ý gì? Trả lời: Có hai nghĩa, (1) ba duyên: duyên thân thiết, duyên gần, duyên tăng thượng, vừa đề cập ở trên, (2) “bổn nguyện”. Các công hạnh khác không phải là bổn nguyện, cho nên không soi chiếu nhiếp hộ, Niệm Phật là bổn nguyện, cho nên soi chiếu nhiếp hộ. Bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo trong Lục Thời Lễ Tán có nói: Thân sắc Di Đà như kim sơn Tướng hảo quang minh chiếu mười phương Riêng người Niệm Phật được soi nhiếp Nên biết Bổn nguyện rất kiên cường. Lại nữa, trong đoạn kinh đã dẫn nói: “Các hạnh lành khác, tuy gọi là thiện, nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không so sánh được”, ý nghĩa ở đây là muốn so sánh các công hạnh của môn Tịnh Độ. Niệm Phật đã là diệu hạnh được tuyển chọn, còn các công hạnh khác là thô hạnh bị xả bỏ trong hai trăm mười ức công hạnh, cho nên nói “hoàn toàn không thể so sánh”. Hơn nữa, Niệm Phật là “hạnh bổn nguyện”, còn các công hạnh khác không phải là “hạnh bổn nguyện”, cho nên nói là “hoàn toàn không thể so sánh”. <h3 style="text-align: center;" align="center">Chương Tám</h3> <h2 style="text-align: center;" align="center">Ba Tâm</h2> Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sinh nguyện sinh Cực Lạc, nên phát ba tâm, ắt được vãng sinh. Ba tâm ấy là tâm nào? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đầy đủ ba tâm, ắt sẽ sinh Cực Lạc. Quán Kinh Sớ nói: Kinh nói “Một là chí thành tâm. Chí tức là chân, thành tức là thực. Ý muốn nói tất cả chúng sinh, ba nghiệp thân khẩu ý tu tập giải môn, hoặc hành môn, đều phải từ tâm chân thật xuất phát, không thể bề ngoài hiện tướng hiền thiện tinh tiến, mà trong tâm thì giả dối, tham lam, tà ngụy, gian trá đa đoan, hung ác dữ dằn, mưu sự nham hiểm; tuy cũng hành trì ba nghiệp, nhưng gọi là việc lành pha trộn chất độc, cũng gọi là hành trì giả dối, không được gọi là nghiệp thiện chân thực. Nếu như dùng tâm như vậy mà tu hành, dù có thân tâm lao nhọc, tinh tiến hành trì như cứu đầu đang bị cháy, cũng chỉ gọi là việc thiện pha chất độc. Muốn dùng công hạnh trộn độc này để cầu sinh Cực Lạc, đây là điều không thể được! Vì sao? Bởi vì Đức Phật A Di Đà, trong lúc tu nhân, dù trong một niệm, một sát na, ba nghiệp mà Ngài tu tập, đều phát xuất từ tâm chân thực, và những sự việc Ngài tạo tác, nguyện cầu, cũng đều là chân thực. Lại nữa, chân thực có hai loại: một là tự lợi chân thực, hai là lợi tha chân thực. 1/ Tự lợi chân thực, lại có hai loại: a/ Dùng tâm chân thực, chế phục, xả bỏ những ác hạnh của mình và người, cùng những cõi nước thô ác; trong tất cả mọi thời, nghĩ tưởng các vị Bồ tát chế phục, xả bỏ ác hạnh, mình cũng phải nên như vậy. b/ Dùng tâm chân thực, siêng tu tất cả pháp thiện, dùng tâm chân thực, tán thán Đức A Di Đà cùng y báo và chánh báo của cõi Cực Lạc. Lại từ tâm chân thực, dùng khẩu nghiệp quở trách, nhàm chán tất cả y báo chánh báo thô ác của mình và người trong ba cõi sáu đường, lại tán thán những thiện hạnh của ba nghiệp thân khẩu ý của tất cả chúng sinh, còn đối với những chúng sinh không làm thiện, kính nhi viễn chi, và cũng chẳng tùy hỷ việc làm của họ. Lại từ tâm chân thực, dùng thân nghiệp chắp tay lễ kính, cúng dường y phục, thức ăn, ... đến Đức Phật A Di Đà, cùng y báo chánh báo của cõi Cực Lạc. Lại từ tâm chân thực, dùng thân nghiệp, xem rẻ, nhàm chán y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sinh tử này. Lại từ tâm chân thực, dùng ý nghiệp suy ngẫm, quán sát, nhớ nghĩ Đức Phật A Di Đà, cùng y báo chánh báo của cõi Cực Lạc, giống như hiện đang ở trước mắt. Lại từ tâm chân thực, dùng ý nghiệp xem rẻ, nhàm chán y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sinh tử này. Phải từ tâm chân thực, xả bỏ ba nghiệp bất thiện, và cũng phải từ tâm chân thực khởi ba nghiệp thiện thân khẩu ý. Bất luận trong, ngoài, sáng, tối, đều phải một lòng chân thực, cho nên gọi là chí thành tâm. Hai là thâm tâm. Thâm tâm tức là lòng tin sâu, có hai loại: a/ Quyết định tin sâu rằng thân hiện tại của mình là phàm phu tội ác sinh tử, từ vô thỉ đến nay, chìm đắm, trôi lăn trong sinh tử, không có nhân duyên để xuất ly. b/ Quyết định tin sâu, không còn nghi ngờ đắn đo rằng Đức A Di Đà có bốn mươi tám lời nguyện, nhiếp thọ chúng sinh, nương vào nguyện lực của Ngài ắt được vãng sinh. Lại quyết định tin sâu rằng Đức Phật Thích Ca giảng nói Quán Kinh về ba phước, chín phẩm, định thiện, tán thiện, cùng chứng minh tán thán y báo chánh báo của cõi Cực Lạc để cho chúng sinh hâm mộ. Lại quyết định tin sâu rằng trong kinh A Di Đà, mười phương chư Phật chứng minh, khuyến khích, tất cả phàm phu quyết định được vãng sinh. Đối với lòng tin sâu này, ngưỡng nguyện tất cả hành giả, một lòng chỉ tin lời Phật, không luyến tiếc thân mạng, quyết định phụng hành. Phật bảo xả bỏ, nhất định phải xả bỏ, Phật bảo hành trì, nhất định phải hành trì, Phật bảo vãng sinh, nhất định phải vãng sinh, đây gọi là tùy thuận lời Phật dạy, tùy thuận ý muốn của Phật, tùy thuận bổn nguyện của Phật. Đây gọi là Phật tử chân thực. Lại nữa, tất cả hành giả, chỉ cần y theo Kinh này, tin tưởng hành trì, chắc chắn sẽ không bị sai lầm. Vì sao? Đức Phật là Bậc đầy đủ tâm đại bi, là Bậc nói lời thật, từ Phật trở xuống, tất cả phàm thánh khác, trí hạnh chưa đầy đủ, còn tại học địa, chưa trừ sạch phiền não chướng và sở tri chướng, nguyện hạnh chưa tròn, những người như vậy, giả sử muốn suy lường trí của Phật, cũng chưa chắc suy lường nổi; tuy có bình luận, phán đoán, nhưng phải qua sự ấn chứng của Phật mới trở thành định án. Nếu như xứng ý của Phật, Ngài sẽ ấn khả: “Như thị! Như thị!”, nếu không xứng ý Phật, Ngài sẽ bảo: “Lời nói của ông, ý nghĩa không như vậy!” Không được ấn khả thì bị xem như lời nói không đáng ghi chép, hoàn toàn không lợi ích. Những điều Phật ấn khả, tức là tùy thuận chánh giáo của Phật, còn những lời Phật nói, thì tức là chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hành, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí, dù ít dù nhiều, cũng không cần hỏi Bồ tát, trời người là đúng hay sai! Nếu những lời Phật nói là liễu nghĩa, thì những lời của chư Bồ tát nói đều không liễu nghĩa. Phải nên biết như thế! Bởi vậy, hiện nay ngưỡng mong quí vị có duyên với pháp Vãng sinh, chỉ nên tin sâu lời Phật, chuyên chú phụng hành, không nên tin những lời dạy không tương ưng của chư vị Bồ tát, khởi tâm nghi ngờ, tự làm chướng ngại, cố chấp mê mờ, mà đánh mất sự lợi ích lớn lao của sự vãng sinh. Lại nữa, người có lòng tin sâu thiết, quyết định kiến lập tự tâm, thuận theo giáo pháp tu hành, vĩnh viễn dứt trừ nghi hoặc, lầm lẫn; quyết không vì tất cả giải ngộ khác biệt, hành trì khác biệt, sở học khác biệt, kiến giải khác biệt, thiên chấp khác biệt, mà làm cho mình thoái thất dao động. Hỏi: Phàm phu trí tuệ nông cạn, tội chướng sâu dày, nếu gặp phải những người tu pháp môn khác đem những kinh luận khác ra dẫn chứng rằng: “Tất cả phàm phu tội chướng không thể vãng sinh”, làm thế nào để đối phó, hòng giữ vững lòng tin, quyết định tiến bước, mà không sinh khiếp nhược? Trả lời: Nếu có người đem kinh luận ra dẫn chứng rằng không có sự vãng sinh, hành giả nên trả lời với họ rằng: “Ông tuy đem kinh luận ra dẫn chứng sự không thể vãng sinh, nhưng theo thiển ý của tôi, quyết không tiếp thọ lời nói của ông. Vì sao? Tôi không phải không tin những lời ông nói, thực sự là tôi tin tưởng tất cả kinh luận đó, thế nhưng lúc Đức Phật giảng nói những kinh đó, xứ sở khác, thời gian khác, đối tượng thuyết pháp khác, sự lợi ích cũng khác; lại nữa, lúc Đức Phật giảng nói những kinh đó, không phải là lúc Ngài nói Quán Kinh, A Di Đà Kinh, v.v.. Vả lại, Đức Phật nói pháp thích ứng cơ nghi, thời tiết không đồng, những kinh luận đó là nói chung về các giải hạnh cho hàng trời người và chư Bồ tát, còn hiện nay nói hai công hạnh định thiện và tán thiện trong Quán Kinh là Lời bàn cho hoàng hậu Vi Đề Hy, cùng cho tất cả chúng sinh ở trong đời ác năm trược sau khi Đức Phật diệt độ, xác chứng cho sự vãng sinh. Do nhân duyên này, hiện nay tôi nguyện một lòng y theo lời dạy của Phật, quyết định phụng hành. Giả sử ông dẫn chứng trăm ngàn vạn ức kinh luận nói không vãng sinh, điều này chỉ càng làm tăng trưởng thành tựu lòng tin của tôi đối với sự vãng sinh Cực Lạc”. Lại nữa, hành giả nên nói với đối phương: “Ông hãy lắng nghe, tôi nay nói thêm cho ông biết về lòng tin quyết định của tôi. Giả sử địa tiền Bồ tát, La hán, Bích chi phật, dù một người hay nhiều người đầy khắp mười phương, đều dẫn chứng kinh luận nói không có sự vãng sinh, tôi cũng không khởi một niệm nghi ngờ, và điều đó cũng chỉ làm tăng trưởng thành tựu lòng tin thanh tịnh của tôi đối với sự vãng sinh. Vì sao? Vì lời Phật là quyết định thành tựu liễu nghĩa, tất cả thế gian đều không thể phá hoại được. Lại nữa, ông nên nghe cho kỹ, giả sử chư Bồ tát từ Sơ địa đến Thập địa, dù một người hay nhiều người đầy khắp mười phương, cùng nhau nói rằng: “Đức Phật Thích Ca tán thán Phật A Di Đà, quở trách ba cõi sáu đường, khuyến khích chúng sinh chuyên tâm niệm Phật và tu tập các công hạnh lành khác, sau khi lâm chung nhất định sẽ vãng sinh Cực Lạc, đây quyết là lời hư dối, không thể tin được.” Tôi tuy nghe những lời như thế, cũng không hề sinh khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ làm tăng trưởng thành tựu lòng tin quyết định bậc thượng thượng của tôi. Vì sao? Bởi vì lời của Phật là quyết định liễu nghĩa. Phật là Đấng Thực trí, Thực giải, Thực kiến, Thực chứng, không phải là người dùng tâm nghi hoặc mà nói; lại nữa, lời dạy của Ngài không thể bị những dị kiến, dị giải của các vị Bồ tát phá hoại; nếu như thật là Bồ tát, những vị ấy quyết không đi ngược lời Phật dạy. Lại nữa, mười phương chư Phật, e rằng chúng sinh không tin lời dạy của Phật Thích Ca, các Ngài bèn đồng tâm, đồng thời, hiện tướng lưỡi rộng dài, bao trùm các cõi tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Tất cả chúng sinh đều phải nên tin nhận lời dạy dỗ, tán thán, chứng tín của Phật Thích Ca. Tất cả phàm phu, bất luận tội phước nhiều ít, căn cơ cao thấp, chỉ cần trọn cả một đời, hoặc ít nhất là một ngày cho đến bảy ngày, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, quyết định sẽ được vãng sinh, chắc chắn không còn nghi ngờ.” Bởi thế, lời dạy của một Đức Phật ắt sẽ được tất cả chư Phật chứng thành. Đây gọi là “từ người mà thiết lập lòng tin”. Kế đến, “từ công hạnh thiết lập lòng tin”. Công hạnh có hai loại: một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh, v.v.., như phẩmHai Hạnh ở trên đã nói, sợ phiền toái nên không ghi ra, xin người đọc hiểu ý. 3/ Hồi hướng phát nguyện tâm. Nghĩa là đem tất cả thiện căn thế gian, xuất thế gian, hoặc do thân khẩu ý nghiệp tự tu tập, hoặc do thân khẩu ý nghiệp tùy hỷ công đức tu tập của tất cả phàm thánh, từ đời quá khứ cho đến hiện nay, dùng lòng tin thâm sâu chân thực, hồi hướng nguyện sanh Cực Lạc, đây gọi là hồi hướng phát nguyện tâm. Lại nữa, sự hồi hướng phát nguyện vãng sinh này, phải là do tâm chân thực quyết định, hồi hướng phát nguyện cầu sinh; lòng tin thâm sâu chân thực này, cứng chắc như kim cương, quyết không bị những người dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành, làm động loạn phá hoại. Chỉ nên một lòng quyết định, thẳng đường tiến bước, không được nghe lời kẻ khác, rồi phân vân lưỡng lự, sinh lòng sợ hãi, làm mất đi lợi ích lớn của sự vãng sinh. Hỏi: Nếu như có người tu tạp hạnh, tà hạnh, không cùng kiến giải, hạnh nguyện, đến làm mê hoặc, não loạn, hoặc dùng đủ thứ luận điệu cho rằng không có sự vãng sinh, hoặc nói rằng chúng sinh từ vô thỉ đến nay, ba nghiệp thân khẩu ý, đối với tất cả phàm thánh, đã tạo đủ các tội, như thập ác, ngũ nghịch, phạm bốn giới trọng, hủy báng chánh pháp, làm nhất xiển đề, phá giới, phá kiến, v.v.., chưa thể diệt hết, quả báo của những tội ác này là ác đạo trong ba cõi, làm sao có thể trong một đời tu phước, niệm Phật, mà có thể tức khắc chứng nhập vào cõi vô lậu vô sinh, vĩnh viễn chứng đắc bất thoái chuyển. Trả lời: Giáo, lý, hành, giải của chư Phật, số lượng nhiều hơn hằng sa, tất cả tùy theo cơ duyên, tình huống của chúng sanh mà thiết lập. Những điều có thể thấy có thể tin trên thế gian, chẳng hạn như ánh sáng phá trừ bóng tối, không gian có thể bao hàm vạn hữu, đất có thể chuyên chở, nuôi dưỡng vạn vật, nước đem đến sự tươi nhuận, lửa đem đến sự thành hoại của vạn vật, tất cả những sự việc này là pháp đối đãi, mà còn có thể đem đến ngàn muôn sự lợi ích khác nhau, huống là thần lực không thể nghĩ bàn của Phật pháp, lẽ nào không có muôn ngàn sự lợi ích? Nếu như tạo một nghiệp, thì sẽ tự đem đến cho mình một phiền não, nếu như tu một pháp môn, thì sẽ bước vào một cửa trí tuệ giải thoát. Mọi người đều tùy theo nhân duyên của mình mà khởi hạnh tu tập, cầu mong sự giải thoát, ông vì cớ gì đem những pháp tu mà tôi không có duyên đến làm chướng ngại sự tu tập của tôi. Pháp môn mà tôi ưa thích, tức là pháp môn mà tôi có duyên, đây không phải là chỗ ông mong cầu; còn pháp môn mà ông ưa thích, tức là pháp môn mà ông có duyên, nó cũng không phải là chỗ tôi mong cầu, như vậy, mỗi người tùy theo ý thích của mình mà tu tập, ắt sẽ mau gặt được quả giải thoát. Hành giả nên biết, nếu muốn học tập giải môn, thì từ phàm phu đến bậc thánh, nhẫn đến thành Phật, tất cả pháp môn đều phải học, còn nếu muốn tu tập hành môn, cần phải nương vào pháp môn mà mình có duyên, ít dùng sức, ít lao nhọc, mà được nhiều sự lợi ích. Lại nữa, xin bẩm bạch cùng các hành giả tu hạnh Vãng sinh, hiện nay xin đưa ra một ví dụ, giúp cho hành giả thủ hộ lòng tin của mình, không để cho bọn tà ma ngoại đạo dị kiến lung lạc. Ví như có người đi về hướng tây, trăm ngàn dặm đường, khoảng giữa lộ trình có hai dòng sông chắn ngang, dòng sông lửa ở phía nam, dòng sông nước ở phía bắc, mỗi dòng sông rộng độ một trăm bước, sâu không thấy đáy, hai phía nam bắc không thấy ngằn mé. Băng qua hai dòng sông nước và lửa, có một con đường trắng rộng độ bốn, năm thốn , từ bờ phía đông sang bờ phía tây, dài độ hai trăm bước. Bên phía dòng sông nước, sóng vỗ ào ạt, làm mặt đường trở thành trơn tuột, còn bên phía dòng sông lửa, lửa bốc mù mịt, làm cho mặt đường trở thành nóng bỏng, hai bên nước lửa tung tóe, không lúc nào ngừng. Người đó đến gần bờ sông, chung quanh đồng không mông quạnh, thốt nhiên có lũ đạo tặc và ác thú, thấy người đó đơn độc bèn đuổi theo muốn sát hại, người đó sợ chết bèn bỏ chạy về hướng tây, thấy hai dòng sông lớn này, trong lòng tự nghĩ: “Dòng sông này dài không thấy đầu đuôi, băng ngang là một con đường trắng nhỏ hẹp, hai bờ tuy cách nhau không xa, nhưng làm sao qua được. Hôm nay chắc bị chết ở chốn này!” Vừa muốn quày đầu, liền thấy lũ đạo tặc và ác thú phía sau đã đến gần kề, nếu muốn đi về phía nam hoặc bắc thì lại bị ác thú, rắn độc đón đầu, muốn theo con đường chạy về phía tây, lại sợ hai con sông nước, lửa. Trong lúc đang bàng hoàng sợ hãi, bèn tự nghĩ thầm: “Bây giờ quay lại cũng chết, đứng lại cũng chết, đi tới cũng chết, đường nào cũng chết, chi bằng cứ theo phía trước mà tiến bước, nếu đã có con đường này, ắt sẽ thoát hiểm!” Vừa nghĩ như vậy, bỗng nghe bên bờ phía đông (phía sau) có tiếng người khuyến khích: “Ông nên quyết định đi về hướng đó, ắt không còn nguy hiểm, nếu đứng lại thì sẽ chết.” Lại nghe bên bờ phía tây (trước mặt) có tiếng người gọi: “Ông nên một lòng chánh niệm đi thẳng qua đây, ta sẽ bảo vệ cho ông, không nên sợ bị rơi xuống nước, lửa.” Người đó nghe tiếng hai phía, bên khuyên bên gọi, tức thời chấn chỉnh thân tâm, quyết định không còn rụt rè nghi ngại, đi thẳng theo con đường trước mặt. Vừa mới đi được một đoạn, bỗng nghe bọn đạo tặc bên bờ phía đông kêu réo: “Ông hãy quay lại, con đường trước mặt rất hiểm nghèo không qua được, chắc chắn sẽ bị chết, chúng tôi không có ác ý gì với ông!” Người đó tuy nghe tiếng kêu réo, vẫn nhất quyết không quày đầu, một lòng lần theo con đường đi thẳng tới trước, không bao lâu đã qua đến bờ bên kia, vĩnh viễn lìa xa ách nạn, gặp lại bạn bè, vô cùng hạnh phúc. Ở đây, bờ phía đông ví cho cõi nhà lửa Ta bà, bờ phía tây ví cho cõi nước báu Cực Lạc, lũ đạo tặc và ác thú giả vờ thân thiện ví cho cho sáu căn, sáu thức, sáu trần, ngũ ấm, tứ đại, v.v..; đồng không mông quạnh ví cho sự việc thường theo bọn ác tri thức, không gặp được thiện tri thức chân thực; hai con sông nước, lửa ví cho chúng sinh tham ái giống như nước, sân ghét giống như lửa; con đường trắng rộng bốn, năm thốn ví cho trong sự tham sân phiền não của chúng sinh, có thể sinh khởi tâm nguyện vãng sinh thanh tịnh. Lại do tâm tham sân si hẫy hừng, nên ví với nước lửa, còn tâm thiện yếu ớt, nên ví với con đường trắng nhỏ hẹp. Lại nữa, “sóng vỗ ào ạt làm mặt đường trở nên trơn tuột” ví cho tâm tham ái thường khởi động làm nhiễm ô thiện căn; “lửa bốc mù mịt làm mặt đường trở thành nóng bỏng” ví cho tâm hiềm hận có thể thiêu đốt công đức pháp tài; “người đi về phía tây” ví cho sự hồi hướng các công hạnh tu tập để vãng sinh Cực Lạc; “nghe bên bờ phía đông có tiếng người khuyến khích, bèn đi về phía tây” ví cho sau khi Đức Thích Ca diệt độ, người sau tuy không còn thấy được Ngài, nhưng vẫn còn giáo pháp để lại, giống như âm thanh (lời dạy); “vừa mới đi một đoạn, nghe bọn đạo tặc kêu réo” ví cho những người biệt giải, biệt hành, hoặc những kẻ ác kiến, v.v.., dùng những luận điệu mê hoặc não loạn, làm cho hành giả thoái thất đạo tâm; “bờ phía tây có tiếng người gọi” là ví cho nguyện ý của Đức A Di Đà; “không bao lâu qua đến bờ bên kia, gặp lại bạn bè” là ví cho chúng sinh đắm chìm trong sinh tử, luân hồi dài lâu, mê hoặc điên đảo, tự trói tự buộc, không được giải thoát, nhờ ơn Đức Thích Ca chỉ dạy pháp môn Tây Phương Tịnh Độ, lại nhờ ơn Đức A Di Đà thiết tha mời gọi, hiện nay tin tưởng thuận tùng ý nguyện của hai Ngài, không quan tâm đến hai dòng sông nước, lửa, tâm tâm niệm niệm hướng về Tây Phương, nương theo con đường nguyện lực của Phật, sau khi mệnh chung, vãng sinh Cực Lạc, được diện kiến Đức A Di Đà, vui mừng không tả xiết. Lại nữa, tất cả hành giả, trong lúc đi đứng nằm ngồi, ba nghiệp tu tập, bất luận ngày đêm sáng tối, thường phải nên hiểu như vậy, nghĩ như vậy, cho nên gọi là “hồi hướng phát nguyện tâm”. Lại nữa, hồi hướng còn có nghĩa là sau khi vãng sinh Cực Lạc, khởi tâm đại bi, quay trở lại cõi sinh tử, giáo hóa chúng sinh, đây cũng gọi là hồi hướng. Ba tâm đầy đủ, không hạnh nào không thành tựu, nguyện hạnh đã thành tựu, không thể nào không vãng sinh Cực Lạc. Lại nữa, phải nên biết rằng tâm này bao hàm tất cả ý nghĩa của hai hạnh định thiện và tán thiện. Vãng Sinh Lễ Tán nói: “Hỏi: Nay muốn khuyên người khác vãng sinh, không biết ba pháp an tâm, khởi hạnh và tác nghiệp, pháp nào giúp hành giả nhất định sẽ được vãng sinh? Trả lời: Muốn vãng sinh Cực Lạc, như Quán Kinh có nói, phải đầy đủ ba tâm mới được vãng sinh, ba tâm đó là: 1/ Chí thành tâm: nghĩa là thân nghiệp lễ bái Đức Phật A Di Đà, khẩu nghiệp tán thán xưng dương Đức Phật A Di Đà, ý nghiệp chuyên niệm quán sát Đức A Di Đà. Lúc khởi ba nghiệp, cần phải chân thực, cho nên gọi là chí thành tâm. 2/ Thâm tâm: nghĩa là lòng tin chân thực. Tin hiểu rằng tự thân mình là một phàm phu đầy phiền não, thiện căn mỏng ít, trôi lăn ba cõi, không ra khỏi nhà lửa, hiện nay tin bổn nguyện hoằng thệ của Đức A Di Đà, xưng niệm danh hiệu, ít nhất là mười tiếng, một tiếng, v.v.., quyết định sẽ được vãng sinh, trong tâm không còn một niệm nghi ngờ, cho nên gọi là thâm tâm. 3/ Hồi hướng phát nguyện tâm: tất cả thiện căn tu tập được, đều hồi hướng cầu vãng sinh Cực Lạc, cho nên gọi là hồi hướng phát nguyện tâm. Đầy đủ ba tâm này, ắt sẽ được vãng sinh, nếu như thiếu một, thì không được vãng sinh, như Quán Kinh đã nói rõ, phải nên biết như vậy. Lời bàn: Ba tâm được dẫn giải ở trên là ba điều trọng yếu cho hành giả. Vì sao? Quán Kinh nói: “Đầy đủ ba tâm ắt sinh Cực Lạc”, rõ ràng là đầy đủ ba tâm chắc chắn sẽ được vãng sinh. Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận nói: “Nếu thiếu một tâm, không được vãng sinh”, rõ ràng là nếu thiếu một tâm, càng không được vãng sinh. Nhân đây, người muốn vãng sinh Cực Lạc, phải có đầy đủ ba tâm. Trong đây, chí thành tâm tức là tâm chân thực, tướng trạng như vừa được mô tả ở trên. Thế nhưng “bên ngoài hiện tướng hiền thiện tinh tấn, còn bên trong thì giả dối hư ngụy”, bên trong và bên ngoài tương phản, nghĩa là bên ngoài có vẻ trí tuệ mà bên trong thì ngu si; chữ “hiền” là trái với “ngu”, nghĩa là ngoài thì hiền mà trong thì ngu; chữ “thiện” là trái với “ác”, “tinh tấn” là trái với biếng nhác, nghĩa là bên ngoài hiện tướng tinh tiến, bên trong lòng lại biếng lười. “Bên trong giả dối hư ngụy, v.v..”, bên trong là đối với bên ngoài mà nói, nghĩa là sự nghĩ ngợi trong lòng và tướng trạng hiện ra bên ngoài hoàn toàn trái ngược nhau. Kế đến, thâm tâm, tức là lòng tin sâu xa. Nên biết: Nghi ngờ là nguyên nhân giữ chúng sinh trong nhà sinh tử. Lòng tin là động lực đưa hữu tình vào thành Niết Bàn. Bởi thế, hiện nay kiến lập hai loại tín tâm, là để quyết định vãng sinh chín phẩm liên hoa. Lại nữa, trong đây nói tất cả biệt giải, biệt hành, dị học, dị kiến, v.v.., là chỉ cho giải, hành, học, kiến của Thánh Đạo Môn, còn những công hạnh khác là chỉ cho Tịnh Độ Môn. Điều này có thể thấy rõ trong kinh. Như vậy, bổn ý của ngài Thiện Đạo cũng không ra ngoài phạm vi của hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ. Ngoài ra, nên biết rằng ý nghĩa của “hồi hướng phát nguyện tâm”, cũng không thể giải thích cách khác được. Ba tâm này, nếu nói tổng quát, là chỉ chung cho tất cả pháp hành, còn nếu Lời bàn rẽ, là chỉ riêng cho công hạnh vãng sinh. Nay nêu ra “chung” để bao quát “riêng”, ý nghĩa ắt sẽ đầy đủ. Hành giả phải nên để ý, không được sơ suất. Một thốn dài độ ba phân tây (3 cm). Chương Chín Tứ Tu Hành giả Niệm Phật, nên thực hành pháp tứ tu. Vãng Sinh Lễ Tán của ngài Thiện Đạo nói: “Lại khuyên thực hành pháp tứ tu. Tứ tu là gì? Một là “cung kính tu”, nghĩa là cung kính lễ bái Đức Phật A Di Đà và chư thánh ở cõi Cực Lạc, nên gọi là cung kính tu; thệ nguyện suốt đời tu tập, quyết không bỏ cuộc giữa đường, tức là “trường thời tu”. Hai là “vô dư tu”, nghĩa là chuyên tâm xưng danh hiệu Phật A Di Đà, chuyên tâm ức niệm, chuyên tâm quán tưởng, chuyên tâm lễ bái, chuyên tâm tán thán Đức Phật A Di Đà và chư thánh ở cõi Cực Lạc, không tu hạnh nào khác, nên gọi là “vô dư tu”; thệ nguyện suốt đời tu tập, quyết không bỏ cuộc giữa đường, tức là trường thời tu. Ba là “vô gián tu”, nghĩa là cung kính, lễ bái, xưng danh, tán thán, tưởng nghĩ, quán sát, hồi hướng, phát nguyện, niệm niệm tương tục, không để các hành nghiệp khác làm cho gián đoạn, cho nên gọi là vô gián tu; hơn nữa, không để các phiền não tham sân làm gián đoạn, nếu vi phạm lời Phật dạy, liền phải sám hối, không nên trì hoãn, dù là một niệm, một khoảng thời gian ngắn, hoặc một ngày, thường giữ cho thanh tịnh, đây cũng gọi là vô gián tu; thệ nguyện suốt đời tu tập, quyết không bỏ cuộc giữa chừng, tức là trường thời tu. Tây Phương Yếu Quyết nói: Chỉ tu pháp tứ tu, dùng đây làm chánh niệm. Một là trường thời tu: từ lúc sơ phát tâm, cho đến lúc thành Phật, thường tu tịnh nghiệp, quyết định không thoái chuyển. Hai là cung kính tu, có năm phần: a/ Cung kính bậc thánh có duyên với mình, nghĩa là bất cứ lúc nào, dù đi đứng nằm ngồi, đều không nên quay lưng về hướng tây, còn những lúc khạc nhổ, thì lại không được quay mặt về hướng tây. b/ Cung kính tôn tượng, giáo pháp có duyên với mình, nghĩa là tạo lập thánh tượng của Đức A Di Đà và cõi Cực Lạc; nếu như không thể tạo nhiều, chỉ cần tạo lập tượng của Đức A Di Đà và hai vị Bồ tát cũng được; giáo pháp tức là kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ, v.v.., nên dùng túi ngũ sắc bọc lại, tự mình đọc tụng, đồng thời giáo hóa người khác; an trí kinh, tượng trong phòng ốc trang nghiêm, sáu thời lễ bái, sám hối, dùng hương hoa cúng dường, đặc biệt sanh lòng tôn trọng. c/ Cung kính thiện tri thức có duyên với mình, nghĩa là đối với những bậc tuyên giảng giáo pháp Tịnh Độ, trong vòng ngàn do tuần, cho đến mười do tuần trở lại, đều phải kính trọng, tìm đến gần gũi, cúng dàng; đối với những vị thuộc về giáo phái khác, đều phải giữ lòng kính trọng; đối với người không đồng pháp tu với mình, cũng phải kính trọng sâu xa, nếu như sinh lòng khinh mạn, sẽ bị tội vô cùng, cho nên cần phải cung kính để diệt trừ chướng ngại cho sự tu hành. d/ Cung kính bạn đồng tu có duyên với mình, nghĩa là tự mình tội chướng sâu nặng, đạo nghiệp chưa thành, cần phải nhờ vào bạn đạo mới có thể tu tập, cứu giúp nhau trong những lúc nguy khốn, hoạn nạn, trợ lực cho nhau trong sự nghiệp tu hành, do đây đồng bạn thiện duyên, phải nên lo lắng, chăm sóc cho nhau. e/ Cung kính Tam bảo, đối với Đồng thể Tam bảo và Biệt tướng Tam bảo, đều phải thâm tâm kính trọng, ở đây không nói nhiều. Các hành giả trình độ nông cạn, chưa thể y vào đây (Đồng thể, Biệt tướng) mà tu tập được, hiện nay chỉ có Trụ trì Tam bảo là có thể làm đại nhân duyên cho những hành giả sơ cơ mà thôi. Ở đây xin nói sơ lược: Phật bảo, tức là những hình tượng tạc bằng gỗ chiên đàn, hoặc thêu trên gấm, trên lụa, hoặc dũa ngọc, đúc vàng, hoặc mài đá, hoặc vẽ trên lụa, hoặc nặn bằng đất, v.v.. Những hình tượng này phải nên đặc biệt tôn kính, cúng dường! Tạm thời quán tưởng hình tượng sẽ diệt tội chướng, tăng phước báo, còn nếu sinh lòng khinh mạn sẽ tăng ác nghiệp, mất thiện căn. Chỉ cần quán tưởng hình tượng, ắt thường được thấy Phật thật. Pháp bảo, tức là giáo pháp tông chỉ của ba Thừa, lưu xuất từ pháp giới, những điều được giảng giải có thể sinh khởi nhân duyên giải thoát, bởi thế phải nên kính ngưỡng, để cầu thành cơ sở phát sinh trí tuệ. Kinh điển được sao chép, phải nên an trí trong phòng ốc sạch sẽ, dùng hộp rương cất chứa, tôn trọng tin kính. Lúc đem ra đọc tụng, thân thể, y phục đều phải sạch sẽ, khiết tịnh. Tăng bảo, tức là từ các bậc Thánh tăng, Bồ tát, nhẫn đến những kẻ phá giới phạm trai, đều phải dùng tâm bình đẳng tôn kính, không nên sinh lòng kiêu mạn. Ba là vô gián tu, nghĩa là thường niệm Phật, nghĩ đến sự vãng sinh, trong tất cả mọi thời, tâm thường tưởng niệm, ví như có người bị kẻ khác cướp đoạt hết tài sản, trở thành người bần hàn hạ tiện, chịu nhiều gian khổ, bỗng nhiên nhớ đến cha mẹ, lòng muốn trở về quê hương, tuy chưa chuẩn bị hành lý, thân còn ở xứ người, nhưng ngày đêm tưởng nhớ, sầu não muôn phần, không lúc nào mà không tưởng nghĩ đến cha mẹ, sau đó, khi thực hiện được nguyện vọng, trở về cố hương, gần gũi cha mẹ, vô cùng khoái lạc. Người tu Tịnh Độ cũng thế, bị nhân duyên phiền não đời quá khứ, phá hoại động loạn thân tâm, tài sản phước trí trân bảo thảy đều mất hết, trôi lăn dài lâu trong sinh tử, không được tự do, thường làm nô bộc cho ma vương (phiền não), bị xô dạt vào sáu nẻo, thống khổ thân tâm, nay gặp được thiện duyên, hốt nhiên được nghe đến Đức Từ Phụ A Di Đà không quên bổn nguyện cứu độ chúng sinh, bèn ngày đêm bàng hoàng, phát tâm cầu vãng sinh Cực Lạc; bởi thế phải nên tinh tiến cần mẫn, quên cả mệt nhọc, thường nghĩ đến ơn của Phật, nguyện báo ơn sâu, tâm thường nghĩ nhớ. Bốn là vô dư tu, nghĩa là chuyên tâm cầu sinh Cực Lạc, lễ bái, tưởng niệm Đức A Di Đà, không tu các tạp hạnh khác, nếu như đã tu, cũng nên hoãn lại, còn việc niệm Phật, tụng kinh, thì không nên xao lãng. Lời bàn: Chúng ta đã thấy qua đoạn văn về tứ tu, e rằng rườm rà nên không giải thích, thế nhưng, tựa đề tuy nói tứ tu, đoạn văn chỉ giải thích tam tu, đây là do đoạn văn thiếu sót, hay là có thâm ý khác? Trả lời: Đây không phải là do đoạn văn thiếu sót, mà thực sự là có thâm ý. Vì sao biết được? Tứ tu, tức là (a) trường thời tu, (:huh: ân trọng tu (cung kính tu), © vô dư tu, và (d) vô gián tu, nhưng ở đây dùng pháp tu đầu (trường thời) làm hạnh chung cho ba pháp tu kia, ví như pháp ân trọng (cung kính) tu, nếu thoái hạnh ân trọng, ắt không thể thành tựu, pháp vô dư tu, nếu thoái hạnh vô dư, ắt không thể thành tựu, pháp vô gián tu, nếu thoái hạnh vô gián, ắt không thể thành tựu; vì muốn thành tựu ba hạnh này, cho nên đem trường thời tu thêm vào ba pháp tu trên, làm pháp tu chung, cho nên phần dưới của ba pháp tu đều có đoạn “thệ nguyện suốt đời tu tập, quyết không bỏ cuộc giữa chừng, tức là trường thời tu”, giống như tinh tiến ba la mật là chung cho các ba la mật kia vậy! Chương Mười Hóa Phật Tán Thán Hóa thân của Đức A Di Đà đến tiếp dẫn, không tán thán hạnh lành nghe kinh, mà chỉ tán thán công hạnh Niệm Phật. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Hoặc có chúng sinh, tuy không phỉ báng kinh điển Phương đẳng, nhưng tạo nhiều ác nghiệp không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Đại thừa, liền được trừ nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp, bậc thiện tri thức lại bảo phải chắp tay niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”, do đương nhơn thành tâm xưng danh niệm Phật, nên tiêu trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử, ngay khi ấy, Đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Thế Âm, Hóa Đại Thế Chí hiện đến trước mặt hành giả khen rằng: “Lành thay thiện nhân! Ông đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ông.” Quán Kinh Sớ nói: “Đức Hóa Phật tán thán, chỉ nói do công hạnh xưng danh Niệm Phật mà đến tiếp dẫn, chứ không đề cập đến công hạnh nghe kinh. Thế nhưng, xét nguyện ý của Phật, chỉ là khuyến khích chánh niệm xưng danh, mau được vãng sinh, không đồng với các công hạnh tạp thiện hoặc tán thiện. Quán Kinh và các bộ kinh Tịnh Độ khác, chỗ nào cũng khen ngợi, khuyến khích hành giả xưng danh hiệu Phật, và đó là sự ích lợi trọng yếu. Phải nên nhớ điều này! Lời bàn: Hạnh lành nghe kinh không phải là bổn nguyện của Phật, vì là tạp nghiệp cho nên Hóa Phật không tán thán. Công hạnh Niệm Phật là bổn nguyện của Phật, vì là chánh nghiệp cho nên Hóa Phật tán thán, hơn nữa, nghe kinh và niệm Phật, sự diệt tội ít nhiều cũng không giống nhau. Quán Kinh Sớ nói: Hỏi: Vì sao nghe đề kinh của mười hai phần giáo, chỉ tiêu trừ ngàn kiếp tội chướng, trong khi chỉ cần niệm một danh hiệu Phật, liền có thể diệt trừ năm trăm vạn kiếp tội chướng, ý này thế nào? Trả lời: Nghiệp chướng của người tạo tội rất sâu dày, hơn nữa, nỗi khổ của sự chết đến bức bách, bậc thiện tri thức tuy nói nhiều đề kinh, tâm lãnh thọ của người nghe phù động tán loạn, do tâm phù động tán loạn, nên sự diệt tội tương đối ít, còn như danh hiệu Phật là một, cho nên có thể thu nhiếp sự tán loạn, làm tâm an trụ, vả lại, bậc thiện tri thức lại bảo người sắp chết chánh niệm xưng danh hiệu Phật, do tâm tha thiết trân trọng, cho nên có thể diệt trừ nhiều kiếp tội chướng. Chương Mười Một Tán Thán Niệm Phật Đối với các hạnh tạp thiện mà khen ngợi công hạnh Niệm Phật Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Nếu có người niệm Phật, nên biết người đó là hoa Phân đà lợi trong loài người, các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí là bạn thù thắng của người đó, người đó sẽ ngồi đạo tràng, sinh vào nhà Phật. Quán Kinh Sớ nói: Từ câu “Nếu có người niệm Phật”, cho đến câu “sinh vào nhà Phật”, chánh thức nói rõ công năng siêu tuyệt của Niệm Phật Tam Muội, trên thực tế, không phải những công hạnh tạp thiện có thể so sánh được. Có năm phần: a/ Chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, b/ Tán thán hành giả Niệm Phật, c/ Người nào có thể niệm Phật không gián đoạn, người đó rất là hiếm có, cho nên ví như hoa Phân Đà Lợi (sen trắng). Phân Đà Lợi, gọi là hoa đẹp trong loài người, còn gọi là hoa hiếm có, còn gọi là hoa bậc thượng thượng, còn gọi là hoa diệu hảo trong loài người, hoa này tương truyền gọi là “sái hoa”. Nếu người nào niệm Phật, người đó là người tốt trong loài người, người diệu hảo, người bậc thượng thượng, người hiếm có, người thù thắng nhất trong loài người. d/ Người chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì các ngài Quán Âm, Thế Chí thường theo bảo hộ như bóng với hình, cũng giống như bạn thân hoặc thiện tri thức. e/ Đời này được lợi ích như vậy, sau khi mệnh chung sẽ sinh vào nhà Phật, tức là vãng sinh Tịnh Độ, đến đó thường được nghe pháp, phụng sự chư Phật, nhân viên quả mãn, ngày ngồi đạo trường đâu còn xa xăm gì nữa? Hỏi: Kinh nói: “Nếu có người niệm Phật, nên biết người đó, v.v..”, đây tuy là khen ngợi hành giả Niệm Phật, thế nhưng nhà chú giải lại nói: “thực tế, không phải những công hạnh tạp thiện có thể so sánh được”, đem Niệm Phật so sánh với tạp thiện để đặc biệt khen ngợi Niệm Phật là có ý gì? Trả lời: Lời Kinh tuy tàng ẩn, nhưng ý nghĩa lại rất rõ ràng. Lý do biết được là vì Kinh này đã nói đến các công hạnh định thiện, tán thiện, cùng công hạnh Niệm Phật, thế mà trong đây đặc biệt nêu lên pháp Niệm Phật, để ví với hoa Phân Đà Lợi, nếu như không so sánh với tạp thiện, làm sao có thể nêu lên công đức Niệm Phật vượt qua các công hạnh lành khác, vả lại, nói “người Niệm Phật là người tốt trong loài người” là so với cái “xấu” mà nêu cái “tốt”, nói “người diệu hảo trong loài người” là so với cái “thô ác” mà nêu cái “diệu hảo”, nói “người bậc thượng thượng trong loài người” là so với cái “hạ hạ” mà nói cái “thượng thượng”, nói “người hiếm có trong loài người” là so với cái “thông thường” mà nói cái “hiếm có”, nói “người thù thắng trong loài người” là so với cái “hạ liệt nhất” mà khen cái “thù thắng nhất”. Hỏi: Nếu đã cho rằng xưng danh hiệu Phật là bậc “thượng thượng”, tại sao trong phẩm thượng thượng lại không nói đến, mà phải đợi đến phẩm hạ hạ mới nói đến niệm Phật? Trả lời: Phần trên đã chẳng nói “công hạnh Niệm Phật là chung cho chín phẩm” hay sao? Như phần trên đã dẫn Vãng Sinh Yếu Tập nói: “Tùy theo sự thắng, liệt mà phân làm chín phẩm”. Vả lại, hạ phẩm hạ sinh là kẻ phạm tội nặng ngũ nghịch, các công hạnh khác không thể trừ diệt tội nghịch, chỉ có công lực của Niệm Phật mới có thể trừ diệt những tội nặng đó, do đó, vì kẻ cực ác thấp hèn nhất mà nói pháp cực thiện cao quý nhất, ví như căn bệnh vô minh sâu dày, nếu không có liều thuốc “Trung đạo”, thì không thể trừ diệt được, hiện nay, căn bệnh ngũ nghịch sâu nặng này, nếu không có liều thuốc linh “Niệm Phật”, thì làm sao trị liệu được? Bởi thế, ngài Hoằng Pháp Đại Sư trong Nhị Giáo Luận đã dẫn Lục Ba La Mật Kinh nói: “Pháp bảo thứ ba, nghĩa là chánh pháp mà vô lượng chư Phật đời quá khứ đã nói, cũng như ta hiện nay đang nói, tức là tám vạn bốn ngàn diệu pháp, dùng để điều phục, thuần thục các chúng sinh có duyên, làm cho các đệ tử lớn của ta, như A Nan Đà, v.v.., nghe qua một lần, đều có thể ghi nhớ, hành trì. Các pháp có thể phân làm năm tạng: (1) tố đát lãm (kinh), (2) tỳ nại da (luật), (3) a tỳ đạt ma (luận), (4) bát nhã ba la mật, (5) đà la ni môn. Năm tạng này giáo hóa hữu tình, tùy theo căn cơ mà giảng nói. Nếu như chúng sinh đó ưa ở núi rừng, thích sống nhàn nhã tĩnh mịch, tu tập thiền định, thì nên vì họ mà giảng nói tạng tố đát lãm; nếu chúng sinh đó ưa thích tu tập uy nghi, hộ trì chánh pháp, tu pháp lục hòa, làm cho chánh pháp trụ thế dài lâu, thì nên vì họ giảng nói tạng tỳ nại da; nếu chúng sinh đó thích giảng nói chính pháp, phân biệt tính tướng, nghiên cứu truy tầm cứu cánh thâm sâu, thì nên vì họ giảng nói a tỳ đạt ma; nếu chúng sinh đó ưa thích học tập trí tuệ chân thực của Đại thừa, xa lìa sự chấp trước phân biệt về ngã và pháp, thì nên vì họ giảng nói tạng bát nhã ba la mật; nếu chúng sinh đó không thể thọ trì khế kinh, điều phục (luật), đối pháp (luận), bát nhã, hoặc có chúng sinh tạo các nghiệp ác, phạm bốn giới trọng, tám giới trọng, năm tội vô gián, phỉ báng Đại thừa, hoặc là nhất xiển đề, v.v.., nếu muốn tiêu diệt tất cả tội nặng, mau được giải thoát, đốn ngộ Niết bàn, thì nên vì họ mà giảng nói tạng đà la ni. Năm pháp tạng này, ví như nhũ (sữa), lạc, sinh tô, thục tô và diệu đề hồ. Khế kinh như nhũ, điều phục như lạc, đối pháp như sinh tô, Đại thừa Bát nhã như thục tô, còn tổng trì (đà la ni) môn như đề hồ. Trong các mùi vị của nhũ, lạc, v.v.., mùi vị của đề hồ là vi diệu đệ nhất, có thể trừ diệt bệnh tật, làm cho thân tâm của hữu tình được an lạc. Trong các loại như khế kinh, v.v.., tổng trì môn là đệ nhất, có thể trừ diệt tội nặng, làm cho chúng sinh được giải thoát khỏi sinh tử, mau chứng Niết bàn, an lạc pháp thân.” Trong đây, năm tội vô gián tức là năm tội nghịch, nếu như không có thuốc thần diệu đề hồ, thì năm bệnh vô gián này khó mà trị liệu; Niệm Phật cũng như thế, trong các giáo pháp vãng sinh, Niệm Phật Tam Muội, cũng giống như tổng trì, và cũng giống như đề hồ. Nên biết, nếu không có thuốc đề hồ Niệm Phật Tam Muội, thì năm bệnh nặng vô gián, khó lòng mà trị liệu. Hỏi: Nếu vậy, hạ phẩm thượng sinh là người phạm mười tội ác nhẹ, tại sao lại nói Niệm Phật? Trả lời: Niệm Phật Tam Muội còn trừ diệt tội nặng, huống là tội nhẹ! Các công hạnh khác không được như thế, hoặc là diệt được tội nhẹ mà không diệt được tội nặng, hoặc là trừ diệt một tội mà không thể trừ diệt hai tội, Niệm Phật không giống như vậy, trừ diệt tội nặng lẫn tội nhẹ, đối trị tất cả, ví như thuốc a già đà có thể trị lành tất cả bệnh, cho nên Niệm Phật Tam Muội là vua trong các tam muội. Chín phẩm hợp lại, chỉ có một nghĩa. Nếu như kẻ phạm ngũ nghịch hồi tâm, có thể vãng sinh bậc thượng thượng. Công hạnh đọc tụng Đại thừa vẫn có thể chỉ vãng sinh hạ phẩm hạ sinh. Thập ác là tội nhẹ, phạm giới là tội vừa, mỗi việc đều có thể vãng sinh phẩm thượng lẫn phẩm hạ. Mỗi pháp đều có chín phẩm, tính ra tổng cộng có tám mươi mốt phẩm, hơn nữa, ngài Ca Tài nói: “Chúng sinh tu tập công hạnh, có ngàn loại khác nhau, đến lúc vãng sinh thấy cõi Cực Lạc, thì cũng có vạn sự sai khác.” Hành giả không nên chấp trước vào mặt chữ! Trong đây, Niệm Phật là công hạnh thù thắng, cho nên ví với hoa Phân Đà Lợi; hơn nữa, các ngài Quán Âm, Thế Chí theo bên bảo hộ như bóng theo hình, không tạm xa lìa, các công hạnh khác không được như vậy, lại nữa, hành giả Niệm Phật, sau khi mạng chung, quyết định vãng sinh Cực Lạc thế giới, tu các công hạnh khác thì không nhất định. Người tu tịnh độ được năm điều vinh hạnh, lại được hai vị Đại Bồ tát thường theo bên hộ trì, đây là lợi ích hiện đời, lại được vãng sinh Tịnh Độ, cho đến lúc thành Phật, đây là lợi ích tương lai. Lại nữa, ngài Đạo Xước đối với công hạnh Niệm Phật, thiết lập “hai sự lợi ích thỉ, chung”. An Lạc Tập nói: “Chúng sinh niệm Phật, được Phật nhiếp thọ, thủ hộ không gián đoạn, khi mệnh chung được vãng sinh, đây gọi là “thỉ ích”, còn “chung ích” là như Quán Âm Thọ Ký Kinh nói: “Phật A Di Đà trụ thế lâu dài, hằng sa vô lượng kiếp, cũng có lúc diệt độ, lúc nhập Niết bàn, chỉ còn hai ngài Quán Âm, Thế Chí trụ trì cõi An Lạc, tiếp dẫn mười phương chúng sinh. Sau khi Đức Phật A Di Đà diệt độ, hoàn cảnh cũng giống như khi ngài trụ thế, thế nhưng, tất cả chúng sinh ở cõi Cực Lạc không ai thấy ngài, chỉ riêng những người chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà vãng sinh, thường thấy Đức A Di Đà, hiện trụ tại thế, không hề diệt độ. Đây tức là “chung ích”. Như vậy, Niệm Phật có những sự lợi ích hiện tại, vị lai, cùng thỉ ích (ích lợi hiện đời) và chung ích (ích lợi rốt ráo). Chương Mười Hai Phó Chúc Niệm Phật Đức Thế Tôn không phó chúc ngài A Nan các hạnh định thiện và tán thiện, mà chỉ riêng phó chúc công hạnh Niệm Phật. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật bảo ngài A Nan: “Ông nên khéo hộ trì kinh này, hộ trì kinh này tức là trì niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”. Quán Kinh Sớ nói: Từ câu “Đức Phật bảo ngài A Nan: Ông nên khéo hộ trì ..”, chính thức thuyết minh sự phó chúc “danh hiệu Phật A Di Đà”, làm cho lưu truyền dài lâu đời sau. Từ trước đến nay, tuy nói sự lợi ích của hai môn định thiện và tán thiện, xét kỹ bổn nguyện của Phật, ý của Ngài là muốn chúng sinh một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà. Lời bàn: Đoạn văn trong Quán Kinh Sớ có hai phần: (a) công hạnh định thiện và tán thiện, (:lol: công hạnh Niệm Phật. Trong phần định thiện tán thiện lại chia làm hai phần: (i) định thiện, (ii) tán thiện. i/ Định thiện: có mười ba phần: (1) quán mặt trời, (2) quán nước, (3) quán đất, (4) quán cây báu, (5) quán ao báu, (6) quán đền đài báu, (7) quán tòa sen, (8) quán tượng, (9) quán thân Phật A Di Đà, (10) quán thân Đức Quán Thế Âm, (11) quán thân Đức Đại Thế Chí, (12) quán vãng sinh tổng quát, (13) quán tạp tưởng. Những pháp quán này, Quán Kinh đều có nói đầy đủ. Dù không tu các công hạnh nào khác, mười ba pháp quán này, tùy theo sức mình, tu một hoặc tu nhiều pháp quán, đều được vãng sinh. Ý chỉ này trong Quán Kinh đã nói rõ, không nên nghi ngờ lưỡng lự. ii/ Tán thiện: có hai phần: (1) ba phước, (2) chín phẩm. 1/ Ba phước. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành; hai là thọ trì Tam quy, đầy đủ giới hạnh, không phạm uy nghi; ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn hành giả.” Hiếu dưỡng cha mẹ, có hai trường hợp, một là hiếu dưỡng thế gian, hai là hiếu dưỡng xuất thế gian. Hiếu dưỡng thế gian, như trong Hiếu Kinh, v.v.. đã nói; hiếu dưỡng xuất thế gian, như trong luật tạng đã nói. Phụng sự sư trưởng, cũng có hai trường hợp: một là sư trưởng thế gian, hai là sư trưởng xuất thế gian. Sư trưởng thế gian là những bậc thầy dạy dỗ về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, v.v.., sư trưởng xuất thế gian là những bậc thầy dạy dỗ về hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ. Dù không tu tập những công hạnh khác, có thể dùng sự tu tập hiếu dưỡng, phụng sự sư trưởng làm nghiệp vãng sinh. Từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành: ở đây có hai nghĩa: (1) “Từ tâm không giết hại”, tức là tâm từ vô lượng trong tứ vô lượng tâm, đây là nêu ra một tâm để nói chung cho bốn tâm, dù không tu tập những công hạnh khác, có thể dùng sự tu tập tứ vô lượng tâm làm nghiệp vãng sinh; (2) “Tu mười nghiệp lành”, tức là (i) không sát hại, (ii) không trộm cắp, (iii) không tà dâm, (iv) không nói dối, (v) không nói lời vô nghĩa, (vi) không nói lời ác, (vii) không nói lời đâm thọc, (viii) không tham lam, (ix) không sân hận, (x) không tà kiến. Ở đây hợp hai câu “từ tâm không giết hại” và “tu mười nghiệp lành” lại làm một câu, điều này có nghĩa là “từ tâm không giết hại” không phải là tâm từ trong tứ vô lượng tâm, mà là chỉ cho điều thiện đầu “không giết hại” trong pháp thập thiện, cho nên câu “từ tâm không giết hại” chỉ là một câu trong pháp tu thập thiện. Dù không tu tập các công hạnh khác, có thể dùng sự tu tập mười nghiệp lành làm nghiệp vãng sinh. Thọ trì Tam Quy y: tức là quy y Phật, Pháp, Tăng. Ở đây cũng có hai phần: Tam quy y Đại thừa và Tam quy y Tiểu thừa. Đầy đủ giới luật: đây cũng có hai phần: giới luật Đại thừa và giới luật Tiểu thừa. Không phạm uy nghi: đây cũng có hai phần: (a) Đại thừa có tám vạn uy nghi, (:lol: Tiểu thừa có ba ngàn uy nghi. Phát Bồ đề tâm: ở đây, chủ trương của các nhà chú giải không giống nhau, chẳng hạn như Thiên Thai Tông chủ trương có bốn loại phát Bồ đề tâm của bốn giáo, tức là tạng giáo, thông giáo, biệt giáo và viên giáo, điều này được nói rõ trong quyển Ma Ha Chỉ Quán; còn Chân Ngôn Tông thì chủ trương có ba loại phát Bồ đề tâm, tức là hạnh nguyện, thắng nghĩa và tam ma địa, điều này được nói đầy đủ trong quyển Bồ Đề Tâm Luận; Hoa Nghiêm Tông cũng nói đến Bồ đề tâm, như trong phần giải thích ý nghĩa Bồ đề tâm của tông phái họ, hoặc trong quyển Du Tâm An Lạc Đạo của ngài Nguyên Hiểu, v.v.., có nói đến; các tông khác như Tam Luận, Pháp Tướng cũng đều đề cập đến Bồ đề tâm, như trong các chú sớ của tông phái họ có nói rõ; hơn nữa, ngài Thiện Đạo trong Quán Kinh Sớ cũng có giải thích về Bồ đề tâm. Phát Bồ đề tâm, tên tuy giống nhau, tùy sự giải thích của các tông phái mà có ý nghĩa không đồng, thế nhưng, câu “phát Bồ đề tâm” có thể thấy khắp trong các kinh luận, biến khắp Hiển thừa và Mật thừa, ý khí bao la, nghĩa lý thâm thúy. Nguyện các vị hành giả, không nên chấp trước vào một khía cạnh mà bài xích tất cả. Thỉnh cầu các vị tu hạnh vãng sinh, hãy phát Bồ đề tâm theo tông phái của mình. Dù không tu tập các công hạnh khác, có thể dùng sự phát Bồ đề tâm làm nghiệp vãng sinh. Tin sâu nhân quả: đây cũng có hai phần: một là nhân quả thế gian, hai là nhân quả xuất thế gian. Nhân quả thế gian, tức là nhân quả của sáu nẻo, như trong Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh có nói. Nhân quả xuất thế gian, tức là nhân quả của bốn quả Thánh, như trong các kinh Đại, Tiểu thừa có nói. Về việc dùng hai pháp nhân quả này để thâu nhiếp các kinh điển, lập trường của các tông phái cũng không hoàn toàn tương đồng. Thiên Thai Tông cho rằng kinh Hoa Nghiêm nói về hai loại nhân quả của Phật và Bồ tát, A Hàm Kinh nói về nhân quả của Nhị thừa (Thanh văn, Duyên giác), các kinh Phương đẳng nói về nhân quả của bốn Thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật), các kinh Bát Nhã nói về nhân quả của ba giáo (thông giáo, biệt giáo, viên giáo), kinh Pháp Hoa nói về nhân quả của Phật, kinh Niết Bàn lại nói về nhân quả của bốn Thừa. Như vậy, câu “tin sâu nhân quả” phổ biến, bao trùm tất cả giáo pháp của Đức Phật! Các hành giả nguyện cầu vãng sinh, dù không tu tập một công hạnh nào khác, có thể dùng sự tin sâu nhân quả làm nghiệp vãng sinh. Đọc tụng kinh điển Đại thừa: đây cũng chia làm hai phần: một là đọc tụng, hai là Đại thừa. a/ Đọc tụng, tức là trong năm loại pháp sư , liệt kê hai loại pháp sư: đọc kinh và phúng tụng, để hiển lộ ba loại pháp sư: thọ trì, v.v.. Nếu nói về mười loại pháp hành , thì ở đây liệt kê hai loại pháp hành: chuyển đọc và phúng tụng, để hiển lộ tám loại pháp hành: biên chép, cúng dường, v.v.. b/ Đại thừa: là để phân biệt với Tiểu thừa. Ở đây không chỉ riêng một bộ kinh nào mà chỉ chung cho tất cả các kinh Đại thừa. Ý của Đức Phật là chỉ chung cho tất cả các kinh điển Đại thừa mà Ngài đã giảng nói, thế nhưng trong các kinh điển này, có những kinh điển đã được kết tập và cũng có những kinh điển chưa được kết tập. Trong các kinh điển đã được kết tập, hoặc có những kinh điển còn ẩn tàng ở Long cung chưa được lưu bố tại nhân gian, hoặc có những kinh điển còn lưu tại Ấn Độ chưa được truyền đến Trung Quốc. Hiện nay, chúng ta chỉ bàn đến các kinh điển đã được phiên dịch. Trong bộ Trinh Nguyên Nhập Tạng Lục, bắt đầu từ bộ Đại Bát Nhã Kinh sáu trăm quyển, cho đến phần cuối là các bộ Pháp Thường Trụ Kinh, Hiển Mật Đại Thừa Kinh, tổng cộng sáu trăm ba mươi bảy bộ (hai ngàn tám trăm tám mươi ba quyển), tất cả đều được bao hàm trong câu “đọc tụng kinh điển Đại thừa”. Xin nguyện các hành giả Tịnh Độ, mỗi người tùy theo ý thích của mình, hoặc đọc tụng Pháp Hoa làm nghiệp vãng sinh, hoặc đọc tụng Hoa Nghiêm làm nghiệp vãng sinh, hoặc đọc tụng Giá Na Giáo Vương Kinh, cùng dùng các giáo pháp khác làm nghiệp vãng sinh, hoặc là dùng sự thuyết giảng, biên chép các kinh Bát Nhã, Phương Đẳng, nhẫn đến kinh Niết Bàn làm nghiệp vãng sinh. Đây là bổn ý của Quán Vô Lượng Thọ Kinh trong Tịnh Độ Tông. Hỏi: Ý chỉ của Hiển thừa và Mật thừa khác nhau, làm sao trong Hiển giáo lại bao hàm Mật giáo? Trả lời: Đây không có nghĩa là Hiển giáo bao hàm Mật giáo, mà ý muốn nói rằng cả hai loại kinh điển Hiển giáo và Mật giáo đều được ghi chép trong Trinh Nguyên Nhập Tạng Lục, đều được gộp vào trong tạng kinh Đại thừa, cho nên được bao hàm trong câu “đọc tụng kinh điển Đại thừa”. Hỏi: Nếu vậy, các kinh trước thời Pháp Hoa làm sao có thể bao hàm kinh Pháp Hoa? Trả lời: Ở đây, nói “bao hàm”, không bàn luận đến các ý nghĩa quyền, thực, thiên, viên, v.v.. Câu “đọc tụng Đại thừa” là chỉ chung cho các kinh điển Đại thừa trước và sau. “Trước”, nghĩa là các kinh điển Đại thừa có trước Quán Kinh, “sau”, nghĩa là các kinh điển Đại thừa có sau Quán Kinh. Ở đây chỉ nói Đại thừa mà không chọn lựa quyền, thực, cho nên bao hàm tất cả các kinh điển Đại thừa, như Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn, v.v.. Khuyến tấn hành giaû: nghĩa là khuyến tấn các công hạnh: định thiện, tán thiện và Niệm Phật Tam Muội, v.v.. 2/ Chín phẩm: khai triển ba phước của phần trên thành nghiệp của chín phẩm: a/ Thượng phẩm thượng sinh: “từ tâm không giết hại”, tức là câu thứ ba trong phần “phước thế gian” ở trên; kế đến, “đầy đủ giới hạnh”, tức là câu thứ hai “đầy đủ giới hạnh” trong phần phước trì giới ở trên; kế đến, “đọc tụng Đại thừa”, tức là câu thứ ba “đọc tụng Đại thừa” trong phần “phước hành trì” ở trên; kế đến “tu hành lục niệm”, tức là ý nghĩa của phần thứ ba trong phần “Ba phước” ở trên. b/ Thượng phẩm trung sinh: “khéo giải nghĩa thú, v.v..”, tức là ý nghĩa thứ hai (tin sâu nhơn quả) và thứ ba (đọc tụng kinh điển Đại thừa) trong phước thứ ba (phước hành trì) ở trên. c/ Thượng phẩm hạ sinh: “tin sâu nhân quả, phát đạo tâm, v.v..”, tức là ý nghĩa thứ nhất (phát Bồ đề tâm) và thứ hai (tin sâu nhơn quả) trong phước thứ ba ở trên. d/ Trung phẩm thượng sinh: “thọ trì ngũ giới, v.v..”, tức là ý nghĩa của câu thứ hai (đầy đủ giới hạnh) trong phước thứ hai (phước trì giới) ở trên. e/ Trung phẩm trung sinh: “hoặc một ngày một đêm, trì bát quan trai giới, v.v..”, ý nghĩa giống như phước thứ hai (phước trì giới) ở trên. f/ Trung phẩm hạ sinh: “ hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ thế gian, v.v..”, tức là ý nghĩa của câu thứ nhất (hiếu dưỡng cha mẹ) và thứ hai (từ tâm không giết hại) trong phước thứ nhất (phước thế gian) ở trên. g/ Hạ phẩm thượng sinh: đây là người tội làm mười điều ác, lúc lâm chung nhờ một niệm mà được vãng sinh. h/ Hạ phẩm trung sinh: đây là người phạm tội phá giới, lúc lâm chung nghe công đức của y báo và chánh báo của cõi Phật mà được vãng sinh. i/ Hạ phẩm hạ sinh: đây là người phạm tội ngũ nghịch, lúc lâm chung nhờ mười niệm mà được vãng sinh. Ba hạng người này, lúc bình thời, chỉ biết tạo nghiệp ác, tuy không cầu sinh, nhưng lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, liền được vãng sinh. Nếu chuẩn theo ba phước trên, phước thứ ba có ý nghĩa Đại thừa. Định thiện, tán thiện, đại khái như đoạn văn trên, tức là câu “Từ trước đến nay, tuy nói sự lợi ích của hai môn định thiện và tán thiện”. Kế đến, “Niệm Phật”, tức là “chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà”, ý nghĩa Niệm Phật ở đây, là theo ý nghĩa thông thường. Thế nhưng, hiện nay nói “chánh thức nêu rõ sự phó chúc danh hiệu Phật A Di Đà, lưu truyền lâu xa về sau”, nghĩa là trong kinh này, tuy nói rộng về các hạnh định thiện tán thiện, nhưng không phó chúc ngài A Nan lưu truyền các công hạnh đó đến đời sau, mà chỉ phó chúc ngài A Nan lưu truyền “Niệm Phật Tam Muội” đến đời lâu xa về sau. Hỏi: Tại sao không phó chúc lưu truyền các hạnh định thiện, tán thiện? Nếu y vào sự tạo nghiệp dày mỏng, thì trong ba phước, có dày có mỏng, nghiệp mỏng tức là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, còn nghiệp dày tức là đầy đủ giới hạnh, phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa. Phải nên xả bỏ nghiệp mỏng mà phó chúc nghiệp dày. Nếu y vào pháp quán sâu cạn, thì trong mười ba pháp quán có sâu có cạn, pháp quán cạn tức là quán mặt trời và quán nước, còn pháp quán sâu tức là từ pháp quán đất, cho đến pháp quán tạp tưởng, tổng cộng có mười một pháp quán. Phải nên xả bỏ pháp quán cạn mà phó chúc pháp quán sâu. Trong đây, pháp quán thứ chín, quán thân Đức A Di Đà tức là Quán Phật Tam Muội, cần phải xả bỏ mười hai pháp quán kia, mà phó chúc Quán Phật Tam Muội. Lại nữa, điều này giống như trong phần Huyền Nghĩa của Quán Kinh Sớ nói: “Kinh này, Quán Phật Tam Muội làm tông, đồng thời, Niệm Phật Tam Muội làm tông”, nếu đã dùng hai hạnh làm tông cho một bộ kinh, tại sao lại phế bỏ Quán Phật Tam Muội mà phó chúc Niệm Phật Tam Muội? Trả lời: Đã nói “xét bổn nguyện của Phật, ý muốn chúng sinh, một lòng chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà”, các công hạnh định thiện tán thiện không phải bổn nguyện cho nên không phó chúc. Quán Phật Tam Muội, tuy là công hạnh thù thắng, nhưng vẫn không phải là bổn nguyện của Phật, cho nên không phó chúc, còn Niệm Phật Tam Muội là bổn nguyện của Phật, cho nên phó chúc. Nói “xét bổn nguyện của Phật”, là chỉ cho nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện trong Vô Lượng Thọ Kinh, còn nói “một lòng chuyên xưng danh hiệu”, là chỉ cho câu “một lòng chuyên niệm” trong phần ba hạng người vãng sinh của kinh Vô Lượng Thọ. Ý nghĩa của bổn nguyện, phần trên đã nói rõ. Hỏi: Nếu vậy, tại sao không nói trực tiếp bổn nguyện công hạnh Niệm Phật, mà lại nói vòng vo các công hạnh định thiện, tán thiện, không phải bổn nguyện? Trả lời: Trong Vô Lượng Thọ Kinh đã nói rõ ràng về bổn nguyện công hạnh Niệm Phật, ở đây không cần lập lại. Vả lại, nói về định thiện, tán thiện, là muốn hiển minh công hạnh Niệm Phật vượt hơn các công hạnh khác, nếu như không nói về định thiện, tán thiện, thì làm sao hiển minh Niệm Phật là đặc biệt ưu tú, chẳng hạn như trong kinh Pháp Hoa, ngài Xá Lợi Phất ba lần khải thỉnh, nếu không có ba lần khải thỉnh này, làm sao hiển bày kinh Pháp Hoa là đệ nhất. Bởi thế, hiện nay nêu ra các công hạnh định thiện, tán thiện, là để phế bỏ chúng, còn nêu ra Niệm Phật Tam Muội là để xác lập công hạnh này. Thế nhưng, các công hạnh định thiện, tán thiện, khó mà trắc lượng, chẳng hạn các công hạnh định thiện, như các pháp quán y báo, chánh báo, nếu như thành tựu, thệ nguyện vãng sinh dễ dàng như trở bàn tay. Hoặc là do uy lực của một pháp quán mà có thể tiêu trừ tội khiên nhiều kiếp, hoặc là do công đức của sự nhớ tưởng đến Phật mà chứng được Quán Phật Tam Muội. Như vậy, người tu Tịnh Độ, phải nên tu hành định quán, mà ở đây pháp quán thứ chín, quán chân thân của Phật, chính là pháp tu Quán Phật Tam Muội. Nếu công hạnh này thành tựu, hành giả sẽ thấy được chân thân của Đức A Di Đà, thấy được Đức A Di Đà, thì sẽ thấy được chư Phật, và được chư Phật hiện tiền thọ ký, đây là sự lợi ích thâm sâu nhất của sự tu quán. Thế nhưng hiện nay đến phần lưu thông của Quán Kinh, khi Đức Phật mệnh lệnh ngài A Nan, phó chúc pháp tu trọng yếu để vãng sinh, Ngài không đem pháp Quán Phật, mà lại đem pháp Niệm Phật phó chúc. Ngay cả pháp Quán Phật Tam Muội còn không được phó chúc, huống là các pháp quán mặt trời, quán nước, v.v..! Như vậy, cả mười pháp định quán đều không được phó chúc, nếu như có người ưa tu pháp Quán Phật, mà không tu Niệm Phật, đây không những đi ngược với bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, mà còn đi ngược với lời dặn dò của Đức Phật Thích Ca. Hành giả hãy nên tự thẩm xét. Kế đến, trong phần tán thiện, có công hạnh “trì giới” Đại thừa, Tiểu thừa. Người đời đều cho rằng người trì giới là người nắm chìa khóa cho sự vãng sinh, còn kẻ phá giới thì không được vãng sinh. Lại có công hạnh “phát Bồ đề tâm”, mọi người đều cho rằng Bồ đề tâm là cương yếu của Tịnh Độ, nếu không có Bồ đề tâm thì không thể vãng sinh. Lại có công hạnh “giải đệ nhất nghĩa”, đây là lý quán. Mọi người đều cho rằng lý là căn nguyên của quả Phật, không thể bỏ “lý” mà mong cầu cõi Tịnh Độ, nếu không có lý quán thì không thể vãng sinh. Lại có công hạnh “đọc tụng Đại thừa”, mọi người đều cho rằng đọc tụng kinh điển Đại thừa ắt sẽ được vãng sinh, nếu không đọc tụng thì không được vãng sinh. Ở đây có hai trường hợp: (1) trì kinh, (2) trì chú. Trì kinh tức là thọ trì các kinh điển Đại thừa, như Bát Nhã, Pháp Hoa, v.v.., còn trì chú tức là thọ trì các thần chú như Tùy Cầu, Tôn Thắng, Quang Minh, A Di Đà, v.v.. Tuy rằng mọi người đều ưa thích mười một loại công hạnh tán thiện, thế nhưng bọn họ đều đặc biệt ưa thích hành trì bốn loại công hạnh vừa đề cập phía trên, và thường đem bốn loại công hạnh đó để chèn ép công hạnh Niệm Phật. Kính thỉnh hành giả thẩm xét, sẽ thấy rằng bổn ý của kinh này không phải là đem các công hạnh khác phó chúc lưu truyền, mà chỉ đem một công hạnh Niệm Phật phó chúc lưu truyền đời sau. Chúng ta phải nên hiểu như vậy. Đức Thế Tôn sở dĩ không phó chúc các công hạnh khác, bởi vì chúng không phải là bổn nguyện của Đức A Di Đà, và Ngài sở dĩ phó chúc công hạnh Niệm Phật, là vì đây là bổn nguyện của Đức A Di Đà. Hiện nay, Thiện Đạo Hòa Thượng phế bỏ các công hạnh khác mà quay về Niệm Phật, bởi vì đây không những là công hạnh bổn nguyện của Đức A Di Đà, mà còn là công hạnh mà Đức Thích Ca phó chúc. Nên biết, các công hạnh khác không thích ứng căn cơ, thời tiết, còn công hạnh Niệm Phật vãng sinh thì lại thích ứng căn cơ, thời tiết. Sự cảm ứng giữa Phật và chúng sinh lẽ nào lại để cho luống uổng! Nên biết, lúc đầu Đức Phật tùy thuận căn cơ chúng sinh, tuy tạm thời mở ra những pháp môn định thiện tán thiện, thế nhưng sau đó Ngài lại tùy thuận bổn hoài của mình, bèn đóng lại những pháp môn đó, chỉ có một pháp môn duy nhất được mở ra mà không bao giờ bị đóng lại, đó là pháp môn Niệm Phật. Bổn nguyện của Đức A Di Đà, sự phó chúc của Đức Thích Ca, bổn ý là tại chỗ này. Hành giả phải nên biết như vậy! Lại nữa, câu “đời lâu xa về sau”, y theo bổn ý của kinh Vô Lượng Thọ, là muốn chỉ thời kỳ một trăm năm sau thời mạt pháp, đây là “nêu cái xa để bao quát cái gần”. Như vậy, sau thời mạt pháp còn được phó chúc, huống là thời mạt pháp! Thời mạt pháp còn vậy, huống là thời chánh pháp và tượng pháp. Nên biết, pháp Niệm Phật vãng sinh là chung cho cả ba thời (chánh, tượng và mạt pháp) và cả thời một trăm năm sau khi kinh đạo diệt tận! Chú thích: Câu này chia làm ba phần: phần một là “phước thế gian”, gồm bốn điều, phần hai là “phước trì giới”, gồm ba điều, và phần ba là “phước hành trì”, gồm bốn điều. Năm loại pháp sư: 1. pháp sư thọ trì, 2. pháp sư đọc kinh, 3. pháp sư tụng kinh, 4. pháp sư giải thuyết, 5. pháp sư biên chép. Mười loại pháp hành: 1. biên chép, 2. cúng dàng, 3. bố thí, 4. thỉnh cầu, 5. chuyển đọc, 6. thụ trì, 7. khai diễn, 8. phúng tụng, 9. tư duy, 10. tu tập. <a name="_ftn4">Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, phần thượng phẩm thượng sinh nói: “Có ba hạng chúng sinh được sinh Cực Lạc: Một là có lòng thương xót, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh, …, ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về Cực Lạc.” Ở đây, theo ngài Pháp Nhiên, tu hành lục niệm là tu các công hạnh trong phần “phước hành trì” ở trên, chứ không phải là tu lục niệm theo ý nghĩa thông thường là “niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên”. Chương Mười Ba Nhiều Thiện Căn Niệm Phật là nhiều thiện căn, các tạp thiện khác là ít thiện căn. A Di Đà Kinh nói: “Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được vãng sinh Cực Lạc. Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe đến Đức Phật A Di Đà, bèn chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không loạn, người đó đến lúc mạng chung, Phật A Di Đà, cùng các thánh chúng hiện đến trước mặt. Người đó lúc mất, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà”. Ngài Thiện Đạo giải thích đoạn văn này như sau: Cực Lạc vô vi cõi Niết Bàn Tùy duyên, tạp thiện khó vãng sanh Nên Đức Như Lai lựa pháp yếu Khuyên niệm Di Đà, chuyên thật chuyên Bảy ngày bảy đêm không gián đoạn Khởi hạnh lâu dài lại gắng thêm Lâm chung, thánh chúng cầm hoa đến Thân tâm phấn khởi, sinh sen vàng Ngồi vào chứng đắc vô sinh nhẫn Liền được rước đến trước Pháp Vương Bồ tát tranh nhau đắp y pháp Chứng ngôi bất thoái, nhập Tam Hiền. Lời bàn: “Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được vãng sinh Cực Lạc”, nghĩa là các hành giả tu hạnh tạp thiện, khó được vãng sinh, cho nên mới nói “tùy duyên, tạp thiện khó vãng sinh”. Ít thiện căn, nghĩa là đối với “nhiều thiện căn” mà nói. Như vậy, các tạp thiện là ít thiện căn, còn Niệm Phật là nhiều thiện căn, cho nên Long Thư Tịnh Độ Văn có nói: “Bản đá khắc kinh A Di Đà ở Tương Dương, do ông Dương Nhân Lăng ở đời Tùy viết, nét chữ thanh thoát, uyển chuyển, được nhiều người hâm mộ, phía dưới câu “một lòng không loạn” có câu “Chuyên trì danh hiệu, do xưng danh hiệu, tội chướng tiêu diệt, tức là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.” Hiện nay các bản kinh được lưu hành thiếu mất hai mươi mốt chữ này. Không chỉ có nghĩa “nhiều, ít”, mà còn có nghĩa “lớn, nhỏ”, nghĩa là các tạp thiện là thiện căn nhỏ, còn Niệm Phật là thiện căn lớn. Lại còn có nghĩa “thắng, liệt”, nghĩa là các tạp thiện là thiện căn “liệt (kém cỏi)”, còn Niệm Phật là thiện căn “thắng (thù thắng)”. Phải nên biết như thế! Chương Mười Bốn Chư Phật Chứng Thành Hằng sa chư Phật ở sáu phương, không chứng thành các công hạnh khác, mà chỉ chứng thành công hạnh Niệm Phật. Quán Niệm Pháp Môn của ngài Thiện Đạo nói: Lại như A Di Đà Kinh có nói: Ở sáu phương, mỗi phương có hằng hà sa chư Phật, đều hiện tướng lưỡi rộng dài, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực như vầy: “Dù Phật còn tại thế, hoặc sau khi Phật diệt độ, tất cả phàm phu tội chướng, chỉ cần hồi tâm niệm Phật A Di Đà, nguyện sinh Tịnh Độ, hoặc trọn một đời, hoặc chỉ trong bảy ngày, một ngày, mười tiếng, ba tiếng, một tiếng, v.v.., đều được vãng sinh”. Như vậy, sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, nhất định chứng minh rằng phàm phu niệm Phật, tội diệt được vãng sinh. Nếu như không y vào điều này mà chứng minh sự vãng sinh, thì sáu phương chư Phật, sau khi hiện tướng lưỡi rộng dài, rốt ráo sẽ không thu lưỡi lại được, mà lưỡi tự nhiên sẽ bị rữa nát. Vãng Sinh Lễ Tán của Ngài cũng dẫn kinh A Di Đà nói: Hằng hà sa chư Phật ở phương đông, các phương nam, tây, bắc, cùng phương trên dưới, mỗi phương cũng đều có hằng hà sa chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực như sau: Tất cả chúng sinh, phải nên tin tưởng kinh Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm này. Vì sao gọi là “Hộ Niệm”? Nếu có chúng sinh xưng niệm Phật A Di Đà, hoặc bảy ngày, một ngày, nhẫn đến mười tiếng, một tiếng, hoặc một niệm, v.v.., ắt được vãng sanh, chư Phật chứng thành sự việc này, nên gọi là “Hộ Niệm Kinh”. Lại nói: Sáu phương Phật, tướng lưỡi chứng minh Chuyên xưng danh hiệu, sinh Tây Phương Đến đó, hoa nở, nghe diệu pháp Thập địa hạnh nguyện, tự nhiên thành. Lại nữa, Quán Kinh Sớ của Ngài cũng dẫn A Di Đà Kinh nói: Thập phương chư Phật, v.v.., e rằng chúng sinh không tin lời dạy của Phật Thích Ca, các Ngài bèn đồng tâm, đồng thời, mỗi vị hiện tướng lưỡi, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực như sau: “Này các chúng sinh, phải nên tin nhận lời dạy dỗ, khen ngợi, chứng minh của Đức Phật Thích Ca: “Tất cả phàm phu, bất luận tội phước nhiều ít, thời cơ gần xa, chỉ cần, hoặc trọn một đời, hoặc chỉ một ngày, bảy ngày, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Nhất định sẽ được vãng sinh, chắc chắn không nghi.” Pháp Sự Tán của Ngài cũng nói: Tâm tâm niệm Phật, chớ sinh nghi Sáu phương Phật chứng, thực không hư Ba nghiệp chuyên tâm, không tạp loạn Bách bảo liên hoa sẽ hiện tiền. Tịnh Độ Ngũ Hội Pháp Sự Tán của ngài Pháp Chiếu cũng nói: Điều cấp yếu trong muôn công hạnh Nhanh không gì hơn Tịnh Độ Môn Không những Bổn Sư kim khẩu nói Mười phương chư Phật cũng chứng thành. Hỏi: Tại sao sáu phương chư Phật chứng thành, chỉ hạn định một công hạnh Niệm Phật? Trả lời: Nếu theo ý của Hòa thượng Thiện Đạo, Niệm Phật là bổn nguyện của Đức A Di Đà, cho nên chứng thành, các công hạnh khác không phải, cho nên không chứng thành. Hỏi: Nếu y vào bổn nguyện để chứng thành Niệm Phật, hai quyển Vô Lượng Thọ Kinh và Quán Kinh, lúc nói về Niệm Phật, tại sao lại không có chư Phật chứng thành? Trả lời: Giải thích có hai nghĩa: Một, trong hai quyển Vô Lượng Thọ Kinh và Quán Kinh, tuy nói đến bổn nguyện Niệm Phật, nhưng cũng nói đến các hạnh khác, cho nên không chứng thành, còn quyển A Di Đà Kinh này, chỉ nói toàn về Niệm Phật, cho nên chứng thành. Hai, trong hai quyển kinh kia, tuy không có lời chứng thành, nhưng trong quyển kinh này đã có sự chứng thành, dùng đây mà suy ngẫm, trong hai quyển kinh kia, lúc nói về Niệm Phật, ắt cũng có ý nghĩa chứng thành. Lời văn ở kinh này, ý nghĩa chung cho hai kinh kia, bởi thế, Thập Nghi Luận của ngài Thiên Thai có nói: “Lại nữa, A Di Đà Kinh, Đại Vô Lượng Thọ Kinh, Cổ Âm Thanh Đà La Ni Kinh, v.v.., nói: Lúc Đức Thích Ca Phật nói kinh này, trong mười phương, mỗi phương có hằng hà sa chư Phật, hiện tướng lưỡi biến khắp tam thiên đại thiên thế giới, chứng thành tất cả chúng sinh niệm A Di Đà Phật, nương vào bổn nguyện đại bi nguyện lực, quyết định vãng sinh thế giới Cực Lạc.” Chương Mười Lăm Hộ Niệm Sáu phương chư Phật hộ niệm hành giả Niệm Phật. Quán Niệm Pháp Môn nói: Lại như A Di Đà Kinh nói: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, bảy ngày bảy đêm, nhẫn đến trọn cả cuộc đời, một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, nguyện được vãng sinh, người đó thường được hằng hà sa chư Phật ở sáu phương, đều đến hộ niệm, cho nên gọi là “Hộ Niệm Kinh”. Ý nghĩa của “Hộ Niệm Kinh” là khiến cho các quỷ thần ác không có cơ hội xâm hại hành giả; người đó không gặp hoạnh bệnh, hoạnh tử, hoạnh nạn, tất cả tai chướng, tự nhiên tiêu diệt, trừ những người không có tâm chí thành. Vãng Sinh Sự Tán nói: Nếu xưng danh hiệu Phật cầu vãng sinh, thì thường được hằng hà sa chư Phật ở sáu phương hộ niệm, nên gọi là “Hộ Niệm Kinh”. Hiện nay đã có lời thệ nguyện tăng thượng để nương tựa, như vậy, tại sao các vị Phật tử còn chưa chịu nỗ lực phấn ý niệm Phật cầu vãng sinh? Hỏi: Chỉ có sáu phương Phật hộ niệm hành giả hay sao? Trả lời: Không chỉ hạn cục sáu phương chư Phật, mà các ngài A Di Đà, Quán Âm , v.v.., cũng đến hộ niệm, cho nên Vãng Sinh Lễ Tán nói: Thập Vãng Sinh Kinh nói: Nếu có chúng sinh niệm Phật A Di Đà, cầu nguyện vãng sinh, Phật A Di Đà tức thời phái hai mươi lăm vị Bồ tát đến ủng hộ hành giả, trong tất cả mọi thời, hoặc đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc ngày hoặc đêm, không để cho các quỷ thần ác có cơ hội xâm hại hành giả! Lại như Quán Kinh nói: Nếu có người xưng tán, lễ bái, nhớ tưởng Phật A Di Đà, nguyện sinh Cực Lạc, Phật A Di Đà sẽ phái vô số Hóa Phật, Hóa Quán Thế Aâm Bồ tát, Hóa Đại Thế Chí Bồ tát đến hộ niệm hành giả, lại cùng hai mươi lăm vị Bồ tát trước, vây quanh hành giả trăm ngàn vòng, bất luận đi đứng nằm ngồi, tất cả thời xứ, hoặc ngày hoặc đêm, thường không xa lìa hành giả Niệm Phật. Hiện nay có những lợi ích thù thắng như thế có thể nương tựa, nguyện các hành giả, mỗi người nên chí tâm cầu vãng sinh. Lại nữa, Quán Niệm Pháp Môn nói: Lại như phần cuối của Quán Kinh nói: Nếu có người thường chí tâm niệm Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát, các ngài Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, hóa hiện làm bạn lành, hoặc làm thiện tri thức của người đó, thường theo ủng hộ, như bóng theo hình. Lại nói: Lại như Phẩm Hành trong Bát Chu Tam Muội Kinh có nói: “Nếu có người thường tu pháp Niệm Phật tam muội này, sẽ thường được chư thiên, cùng Tứ thiên vương, tám bộ long thiên theo bên ủng hộ, ưa muốn gần gũi, vĩnh viễn không còn các quỷ thần ác, hoặc tai chướng ách nạn đến làm não loạn. Trong phẩm Hộ Trì sẽ nói chi tiết.” Lại nói: Ngoài lúc nhập đạo trường tu tam muội ra, mỗi ngày nên niệm một vạn câu A Di Đà Phật, suốt đời không gián đoạn, sẽ được sự hộ niệm của Đức A Di Đà, tội chướng tiêu trừ. Lại được Phật và chư thánh chúng, thường đến hộ niệm, tức thời sẽ được tăng trưởng thọ mệnh. Chương Mười Sáu Ân Cần Phó Chúc Thích Ca Như Lai đem danh hiệu Phật A Di Đà ân cần phó chúc các ngài Xá Lợi Phất, v.v.. A Di Đà Phật Kinh nói: Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị tỳ kheo, tất cả trời, người, a tu la, v.v.., nghe lời Phật dạy, vui mừng tin nhận, đảnh lễ mà lui ra. Pháp Sự Tán của ngài Thiện Đạo giải thích đoạn kinh này như sau: Lúc Thế Tôn nói pháp sắp xong Ân cần phó chúc Di Đà danh Trong thời năm trược, nhiều nghi, báng Đạo, tục hiềm nhau, không chịu nghe Thấy người tu hành, khởi sân độc Tìm cách phá hoại, sinh thù hận Bọn nhất xiển đề đui mù này Hủy diệt đốn giáo, vĩnh trầm luân Quá số kiếp như số vi trần Cũng chưa ra khỏi ba đường ác Đại chúng đồng tâm đều sám hối Tất cả tội phá pháp nhân duyên. Lời bàn: Theo bổn ý của ba kinh, trong các công hạnh, tuyển chọn pháp Niệm Phật làm ý chỉ quay về. Trước tiên, trong Vô Lượng Thọ Kinh có ba sự tuyển chọn: (1) tuyển chọn bổn nguyện, (2) tuyển chọn tán thán, (3) tuyển chọn lưu lại giáo pháp. 1/ Tuyển chọn bổn nguyện: Niệm Phật là công hạnh vãng sinh do ngài tỳ kheo Pháp Tạng tuyển chọn từ hai trăm mười ức cõi Phật, ý chỉ vi tế đã trình bày ở trên, nên gọi là tuyển chọn bổn nguyện. 2/ Tuyển chọn tán thán: Trong ba bậc thượng phẩm vãng sinh, tuy nêu ra các công hạnh khác như phát Bồ đề tâm, v.v.., thế nhưng Đức Thích Ca không tán thán các công hạnh khác, mà chỉ tán thán Niệm Phật như sau: “Nên biết một niệm niệm Phật là công đức vô thượng”, nên gọi là tuyển chọn tán thán. 3/ Tuyển chọn lưu lại giáo pháp: Lại như phần trên, tuy nêu ra các công hạnh khác, Đức Bổn Sư chỉ tuyển chọn lưu lại một pháp Niệm Phật, nên gọi là tuyển chọn lưu lại giáo pháp. Kế đến, trong Quán Kinh cũng có ba sự tuyển chọn: (1) tuyển chọn nhiếp thủ, (2) tuyển chọn Hóa Phật tán thán, (3) tuyển chọn phó chúc. 1/ Tuyển chọn nhiếp thủ: Trong Quán Kinh, tuy thuyết minh các công hạnh định thiện, tán thiện, thế nhưng, quang minh của Đức A Di Đà chỉ chiếu soi những chúng sinh Niệm Phật, nhiếp thủ không rời, nên gọi là tuyển chọn nhiếp thủ. 2/ Tuyển chọn Hóa Phật tán thán: Người hạ phẩm thượng sinh, tuy có hai công hạnh nghe kinh và Niệm Phật, Hóa Phật của Đức A Di Đà tuyển chọn Niệm Phật rằng: “Vì ông xưng danh hiệu Phật, chư tội tiêu diệt, ta đến rước ông”, nên gọi là tuyển chọn Hóa Phật tán thán. 3/ Tuyển chọn phó chúc: Lại nữa, tuy thuyết minh các công hạnh định thiện, tán thiện, nhưng chỉ riêng phó chúc một công hạnh Niệm Phật, nên gọi là tuyển chọn phó chúc. Kế đến, trong kinh A Di Đà có một sự tuyển chọn, đó là tuyển chọn chứng thành. Trong các kinh điển, tuy nói nhiều đến các công hạnh vãng sinh, nhưng sáu phương chư Phật không chứng thành các công hạnh này, đến kinh A Di Đà nói về Niệm Phật vãng sinh, thì hằng hà sa chư Phật ở sáu phương, mỗi vị đều hiện tướng lưỡi biến khắp tam thiên đại thiên thế giới để chứng thành, cho nên gọi là tuyển chọn chứng thành. Hơn nữa, trong Bát Chu Tam Muội Kinh cũng có một tuyển chọn, gọi là tuyển chọn trì danh. Chính Đức Phật A Di Đà nói rằng: “Muốn vãng sinh cõi nước ta, phải thường niệm danh hiệu ta, không được gián đoạn”, cho nên gọi là tuyển chọn trì danh. Bốn điều:(1) bổn nguyện, (2) nhiếp thủ, (3) danh hiệu và (4) Hóa Phật tán thán, là sự tuyển chọn của Đức A Di Đà. Ba điều: (1) tán thán, (2) lưu lại giáo pháp, và (3) phó chúc, là sự tuyển chọn của Đức Thích Ca. Còn điều chứng thành, là sự tuyển chọn của hằng hà sa chư Phật ở mười phương. Như vậy, Đức Thích Ca, Đức A Di Đà và hằng hà sa chư Phật mười phương, một lòng tuyển chọn công hạnh Niệm Phật, các công hạnh khác thì không được như vậy, cho nên ba bộ kinh Tịnh Độ đều tuyển chọn Niệm Phật làm tông chỉ. Muốn mau thoát sinh tử Trong hai loại thắng pháp Nên bỏ Thánh Đạo Môn Mà chọn Tịnh Độ Môn Muốn vào Tịnh Độ Môn Trong hai hạnh chánh, tạp Nên bỏ các tạp hạnh Mà tuyển chọn chánh hạnh Nếu muốn tu chánh hạnh Trong hai nghiệp chánh, phụ Nên gạt bỏ nghiệp phụ Mà chuyên tu chánh định Nhưng nghiệp của chánh định Tức là xưng danh Phật Xưng danh ắt vãng sinh Vì nương bổn nguyện Phật. Hỏi: Các nhà chú giải trong các tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Chân Ngôn, Thiền, Pháp Tướng, mỗi vị đều có biên soạn chương sớ về pháp môn Tịnh Độ, tại sao lại không y cứ vào các nhà chú giải đó mà chỉ riêng y cứ vào ngài Thiện Đạo? Trả lời: Các nhà chú giải đó, tuy biên soạn chương sớ về Tịnh Độ, nhưng họ không dùng Tịnh Độ làm tông, mà lại dùng Thánh Đạo làm tông, cho nên không y cứ vào họ, còn ngài Thiện Đạo chỉ lấy Tịnh Độ làm tông, không lấy Thánh Đạo làm tông, cho nên y cứ vào ngài. Hỏi: Các vị tổ sư Tịnh Độ rất nhiều, chẳng hạn như ngài Ca Tài ở chùa Hoằng Pháp, ngài Từ Mẫn Tam Tạng, v.v.. Tại sao không y cứ vào các vị ấy, mà chỉ riêng y cứ vào ngài Thiện Đạo? Trả lời: Các vị thiện tri thức đó, tuy cũng tông Tịnh Độ pháp môn, nhưng chưa chứng Tam muội, còn ngài Hòa Thượng Thiện Đạo là người chứng đắc tam muội. Trong đạo, ngài có chỗ chứng đắc, cho nên y cứ vào ngài. Hỏi: Nếu y cứ vào người chứng đắc Tam muội, thì Hoài Cảm Thiền Sư cũng chứng đắc Tam muội, tại sao không y cứ vào ngài? Trả lời: Ngài Thiện Đạo là thầy, ngài Hoài Cảm là trò, cho nên y cứ vào thầy mà không y cứ vào đệ tử. Huống chi sự giải thích của hai thầy trò có nhiều điểm trái nghịch, cho nên không y cứ vào ngài Hoài Cảm. Hỏi: Nếu y cứ vào thầy mà không y cứ vào trò, thì ngài Đạo Xước Thiền Sư là thầy của ngài Thiện Đạo, tại sao lại không y cứ vào ngài Đạo Xước? Trả lời: Ngài Đạo Xước tuy là thầy, nhưng vẫn chưa chứng được Tam muội, không tự biết mình có được vãng sinh hay không, cho nên đã hỏi ngài Thiện Đạo: “Đạo Xước niệm Phật, được vãng sinh hay không?” Ngài Thiện Đạo bèn thưa với ngài Đạo Xước nên đem một cành hoa sen đặt trước bàn Phật, sau đó dụng công bảy ngày, nếu hoa sen không héo, ắt được vãng sinh. Ngài Đạo Xước y lời, sau đó bảy ngày, quả nhiên hoa sen không héo, bèn rất khen ngợi, kế đó thỉnh ngài Thiện Đạo nhập định quán sát, xem mình có được vãng sinh hay không. Ngài Thiện Đạo bèn nhập định, giây lát sau nói với ngài Đạo Xước: “Thầy phải sám hối ba tội mới được vãng sinh. Thứ nhất, thầy đặt tượng Phật ở góc phòng, còn mình ở giữa phòng; thứ hai, sai bảo người xuất gia phục dịch; thứ ba, xây dựng phòng ốc làm tổn thương sinh mệnh côn trùng. Thầy phải đối trước mười phương Phật sám hối tội thứ nhất, đối trước bốn phương tăng sám hối tội thứ hai, đối với tất cả chúng sinh sám hối tội thứ ba.” Ngài Đạo Xước suy ngẫm những lỗi lầm quá khứ, thấy lời ngài Thiện Đạo quả thật không sai, bèn chí thành sám hối. Sám hối xong, đến gặp ngài Thiện Đạo, ngài Thiện Đạo bèn nói: “Tội của thầy đã diệt, sau này sẽ có ánh sáng chiếu thân, đó là điềm vãng sinh của thầy.” Do đây biết rằng Hòa Thượng Thiện Đạo tu đắc Tam muội, đáng làm bậc thầy, giải hạnh đều phi phàm, điều này thật rõ ràng. Huống chi, người cùng thời với ngài đều tương truyền rằng: “Từ lúc Phật pháp truyền vào Trung Hoa đến nay, chưa ai có được thạnh đức như ngài Thiện Đạo!” Lời xưng tán tuyệt luân, khó mà diễn tả được. Hơn nữa, lúc ngài viết sớ giải của Quán Kinh, có nhiều điềm lành, thường được Đức A Di Đà đến chỉ dẫn, vì đã được sự gia bị của chư Phật, Bồ tát, cho nên quyển Quán Kinh Sớ của ngài được xưng dương là Chứng Định Sớ, mọi người đều quý trọng như chính lời dạy của Đức Phật. Như trong Quán Kinh Sớ quyển thứ tư có viết: “Kính bạch tất cả thiện tri thức hữu duyên, tôi là một phàm phu sinh tử, trí tuệ cạn cợt, lời dạy của Phật sâu xa vi tế, tôi không dám tự chuyên, bèn thành tâm phát nguyện, thỉnh cầu sự linh nghiệm, sau đó mới dám biên soạn sớ giải: “Nam mô quy mạng tận hư không pháp giới, tất cả Tam Bảo, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Quán Aâm, Thế Chí, chư Bồ tát đại hải chúng của cõi Cực Lạc, cùng tất cả cảnh tướng trang nghiêm. Con nay muốn đề xuất yếu nghĩa của Quán Kinh, khải định cổ kim. Nếu như xứng đáng với Đại bi nguyện ý của chư Phật ba đời, Đức Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà, v.v.., xin được trong giấc mộng, thấy được tướng trạng của cảnh giới giống như lời nguyện của con.” Sau khi phát nguyện trước tượng Phật, tôi bèn tụng kinh A Di Đà ba biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến, chí tâm phát nguyện. Ngay đêm hôm đó, thấy trên không trung ở phía tây, các cảnh giới như trong lời nguyện đều hiện trước mắt, các núi báu nhiều màu, trùng trùng điệp điệp, đủ loại quang minh, chiếu xuống mặt đất, mặt đất màu vàng ròng, trên không có chư Phật Bồ tát, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nói hoặc im lặng, hoặc cử động tay chân, hoặc đứng yên bất động. Thấy những cảnh giới ấy rồi, tôi bèn chắp tay đứng quán sát, sau một lúc rất lâu mới chợt tỉnh, lúc đó trong lòng vui mừng khôn tả, và sau đó mới bắt đầu biên soạn phần Nghĩa Môn của Quán Kinh Sớ. Từ đó về sau, mỗi đêm trong mộng, thường thấy một vị tăng đến chỉ dạy về khoa văn của phần Huyền Nghĩa, sau khi phần này hoàn tất, thì không còn thấy nữa. Sau khi bản cảo của Quán Kinh Sớ hoàn thành, tôi lại chí tâm cầu trong bảy ngày bảy đêm thấy được điềm lành chứng minh. Mỗi ngày tôi tụng kinh A Di Đà mười biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến. Vào cuối đêm thứ nhất, trong lúc quán tưởng cảnh tướng trang nghiêm của cõi Cực Lạc, thành tâm quy mệnh, thấy ba cối xay đá, bên vệ đường tự chuyển động, hốt nhiên, lại thấy một người cỡi lạc đà trắng đến trước mặt khuyến tấn: “Thầy phải nên nỗ lực, quyết định sẽ vãng sinh, chớ nên thoái chuyển, cõi này trược ác nhiều khổ, đừng nên tham luyến, v.v..” Tôi trả lời rằng: “Nay nhờ hiền giả có lòng tốt chỉ bảo, tôi nguyện trọn đời không dám sinh tâm giải đãi, kiêu mạn, v.v..” Đêm thứ hai, thấy Đức A Di Đà, thân màu vàng ròng, ngồi trên tòa sen vàng dưới cây thất bảo, mười vị tăng vây quanh, mỗi vị ngồi dưới một cây báu. Trên cành cây chỗ Phật ngồi, có treo nhiều thiên y, tôi ngồi xoay mặt hướng tây, chắp tay quán sát. Đêm thứ ba, thấy có hai cây bảo tràng, cao to chất ngất, trên có treo tràng phan ngũ sắc, đường xá ngang dọc, xa tít ngoài tầm mắt. Sau khi thấy những điềm lành này, tôi bèn đình chỉ, tuy là chưa hết thời hạn bảy ngày. Những điềm lành thuật lại trên đây, vốn là vì chúng sinh chứ không phải vì chính mình. Tôi thấy được điềm lành, không dám dấu diếm, xin cung kính ghi lại phía sau quyển Sớ, để cho đời sau được nghe biết. Nguyện chư chúng sinh nghe xong, sinh khởi lòng tin, những người thấy biết đều sinh Tịnh Độ, đồng thành Phật Đạo. Nghĩa lý này đã được thỉnh cầu sự chứng minh xong, mỗi câu mỗi chữ, không thêm không bớt. Vị nào muốn sao chép, phải nên y theo phương pháp sao chép kinh điển!” Quán Kinh Sớ của ngài Thiện Đạo là chỉ nam cho sự vãng sinh Tây Phương, là mắt là chân cho hành giả, bởi vậy, hành giả tu hạnh vãng sinh Tây Phương, phải nên trân kính! Trong đây mỗi đêm mộng thấy một vị tăng đến chỉ dạy phần Huyền Nghĩa, vị tăng đó có thể là Đức Phật A Di Đà. Nếu vậy, quyển Sớ này có thể gọi là “A Di Đà Truyền Sớ ”, vả lại, đời Đường tương truyền rằng ngài Thiện Đạo là hóa thân của Đức A Di Đà, nếu vậy, quyển Sớ này lại có thể gọi là “A Di Đà Trực Thuyết Sớ ”. Ở trên nói: “Muốn sao chép, phải nên y theo phương pháp sao chép kinh điển”, đây là lời thành thực. Ngước tìm bổn địa, Ngài là Pháp Vương của Bốn mươi tám nguyện, nói mười kiếp thành Phật, quyết định nương tựa câu Niệm Phật. Cúi hỏi thùy tích, Ngài là Đạo Sư của Chuyên tu Niệm Phật, giảng tám muôn chánh thọ, không chút nghi ngờ sự Vãng sinh. Bổn môn, tích môn tuy khác, nhưng sự giáo hóa dẫn đạo thì giống nhau. Bần đạo (Pháp Nhiên) đã đọc kỹ quyển Sớ này, tuy chỉ hiểu sơ sài vài ý chính, liền vội xả bỏ các tạp hạnh khác, quy tâm Niệm Phật. Từ đó đến nay, hoặc tự mình tu tập, hoặc dạy bảo người khác, cũng chỉ là một hạnh Niệm Phật. Như vậy đối với người đến hỏi đạo, chỉ bày cho họ tu hạnh vãng sinh, còn như đối với người khế cơ, dạy bảo cho họ công hạnh Niệm Phật. Phần đông đều tin theo, nhưng vẫn có một số ít không tin. Nên biết: Giáo lý Tịnh Độ, thích ứng thời cơ mà phát triển, Công hạnh Niệm Phật, tùy theo thời tiết mà đổi thay. Bần đạo tuy không cầu sự cung kính, nhưng cũng không có cách nào từ chối sự yêu cầu của đại chúng, bèn gom góp, chỉnh lý những lời dạy quan yếu thành tập sách này, thuật lại một cách dư thừa những yếu nghĩa Niệm Phật. Vả lại, bần đạo do vì chỉ chiếu cố đến lời chỉ thị của hai Đức Như Lai, mà quên đi kiến thức hủ lậu của mình, đây cũng là một điều rất ư là “không tự biết hổ thẹn”, hy vọng các bậc cao nhân sau khi xem xong, đem chôn kín vào góc tường, đừng để rơi rớt trước sân, e rằng có những kẻ phá pháp, nhân đây sẽ đọa vào ác đạo ./. Chú thích: Bổn tích: tức là bổn địa và thùy tích. Bồ tát từ sơ địa trở lên và chư Phật đều có chân thân và hóa thân, chân thân gọi là bổn địa, còn hóa thân gọi là thùy tích (ứng hiện để hóa độ chúng sinh). Bổn môn, tích môn (còn gọi là bổn địa môn và thùy tích môn): các nhà chú giải kinh Pháp Hoa đều chia kinh này ra làm hai môn là bổn và tích. Tích môn là chỉ cho việc Đức Thích Ca từ sau khi thành đạo cho đến hội Pháp Hoa, những điều thuyết giảng về Tam thừa giáo trong hơn bốn mươi năm chỉ là phương tiện (tích), chỉ có Nhất thừa giáo mới là chân thực (bổn). Bổn môn là nói về việc Đức Thích Ca sinh tại Vương cung thành Phật chẳng phải là chân thực, mà Ngài thực sự đã thành Phật rất lâu xa về trước (bổn), nay vì để tế độ chúng sinh cho nên mới thị hiện ứng thân mà thôi (tích). HẾT
  25. Chương Năm Lợi Ích Sự lợi ích của Niệm Phật Vô Lượng Thọ Kinh quyển hạ nói: Đức Phật bảo ngài Di Lặc: Nếu có người nghe Danh hiệu Phật ấy Lòng rất vui mừng Dù chỉ một niệm Nên biết người ấy Được lợi ích lớn Sẽ được đầy đủ Công đức vô thượng. Vãng Sinh Lễ Tán của Hòa thượng Thiện Đạo nói: Ai nghe được danh hiệu Của Đức A Di Đà Vui mừng, dù một niệm Đều được sinh cõi ấy. Hỏi: Chuẩn theo lời kinh nói về ba bậc, ngoài Niệm Phật còn có các công đức phát Bồ đề tâm, v.v.., tại sao không tán dương những công đức ấy, mà chỉ riêng tán thán công đức Niệm Phật? Trả lời: Ý thánh khó dò, ắt là có ý nghĩa sâu xa. Ở đây chỉ dựa vào ý của ngài Thiện Đạo mà giải thích. Nguyên vì bổn ý của Đức Phật, tuy chỉ muốn nói trực tiếp công hạnh Niệm Phật, thế nhưng, Ngài phải tùy căn cơ chúng sinh mà nói đến các công hạnh khác như phát Bồ đề tâm, v.v.., chia làm ba bậc, sâu cạn khác nhau. Hiện nay, phế bỏ các công hạnh khác không tán thán, cho nên không bàn luận đến, mà chỉ tuyển chọn tán thán một hạnh niệm Phật, bởi thế chúng ta sẽ bàn luận đến điểm này. Công hạnh Niệm Phật chia làm ba bậc, điều này có hai nghĩa: (1) chia theo “Quán niệm sâu cạn”, (2) chia theo “Niệm Phật nhiều ít”. 1/ Sâu cạn: như phần trên đã dẫn đoạn văn “Nếu như nói về công hạnh, đúng lý Niệm Phật là cho bậc thượng thượng”. 2/ Nhiều ít: như trong đoạn văn của bậc hạ (Hạ phẩm hạ sinh), đã có đề cập đến số mục “mười niệm nhẫn đến một niệm”, chuẩn theo đây, hai bậc trung và thượng, số mục niệm Phật phải nên tùy theo đó mà gia tăng. Quán Niệm Pháp Môn nói: “Mỗi ngày niệm danh hiệu Phật một vạn câu, lại cần phải tùy thời lễ bái, tán thán sự trang nghiêm Tịnh độ. Cần phải rất tinh tiến, hoặc niệm ba vạn, sáu vạn, mười vạn câu, đây đều là bậc thượng phẩm thượng sinh”. Nên biết, niệm từ ba vạn câu trở lên là hành nghiệp của bậc thượng phẩm thượng sinh, niệm ba vạn câu trở xuống là hành nghiệp của bậc thượng trung trở xuống. Đây rõ ràng là tùy theo số mục niệm Phật nhiều ít mà phân biệt phẩm vị. Hiện nay, ở đây nói “một niệm”, là chỉ một niệm trong phần trên “Nguyện Niệm Phật thành tựu” (Nguyện thứ mười tám), và cũng chỉ cho một niệm trong phần bậc hạ. Trong phần “Nguyện thành tựu”, tuy nói một niệm, nhưng chưa nói đến “công đức đại lợi”, và trong phần bậc hạ, tuy cũng nói đếm “một niệm”, nhưng cũng chưa nói đến “công đức đại lợi”. Ở đây nói một niệm là công đức đại lợi, lại khen là “vô thượng”, nên biết đây là muốn chỉ cho “một niệm” trong phần “Nguyện Niệm Phật thành tựu” ở trên. Ở đây, đại lợi là sánh với tiểu lợi mà nói, như vậy, ắt các công hạnh như phát Bồ đề tâm, v.v.., là tiểu lợi, còn “cho đến một niệm” là đại lợi. Lại nữa, “công đức vô thượng” là so sánh với hữu thượng mà nói. Nếu đã cho rằng một niệm là vô thượng, như vậy, ắt mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, ngàn niệm là ngàn vô thượng, và cứ như thế, từ ít đến nhiều, niệm Phật hằng sa, công đức vô thượng ắt cũng sẽ hằng sa. Như thế, các hành giả nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ, tại sao lại bỏ phế Niệm Phật “đại lợi vô thượng”, mà lại miễn cưỡng tu tập các công hạnh “tiểu lợi hữu thượng” khác! Chương Sáu Đặc Lưu Sau thời một vạn năm mạt pháp, các công hạnh khác đều biến diệt, đặc biệt lưu lại một môn Niệm Phật. Vô Lượng Thọ Kinh quyển hạ nói: Trong đời vị lai, kinh đạo diệt hết, ta vì từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này một trăm năm. Nếu có chúng sinh gặp được kinh này, tùy theo ý nguyện, đều được cứu độ. Hỏi: Kinh chỉ nói “đặc biệt lưu lại kinh này”, tại sao ở đây lại nói “đặc biệt lưu lại một môn Niệm Phật”? Trả lời: Điều mà kinh này giảng dạy, đều là nói về Niệm Phật. Ý chỉ đã nói rõ ở phần trên, và ý tưởng của các ngài Thiện Đạo, Hoài Cảm, Huệ Tâm, v.v.., cũng đều như thế. Như vậy, “kinh này lưu lại thế gian”, cũng tức là “Niệm Phật lưu lại thế gian”, lý do là vì kinh này tuy có nói đến phát Bồ đề tâm, nhưng không nói đến hành tướng của sự phát tâm; nói chi tiết về hành tướng của sự phát Bồ đề tâm là ở trong kinh Phát Bồ Đề Tâm, v.v.. Thế nhưng, những kinh đó bị diệt trước, như vậy y vào đâu mà tu tập phát Bồ đề tâm? Lại nữa, nói chi tiết về hành tướng của sự trì giới là ở trong giới luật của Đại, Tiểu thừa, thế nhưng, giới luật bị diệt trước, như vậy những công hạnh trì giới phải y vào đâu mà tu tập? Còn những công hạnh khác, cứ chuẩn theo đây thì sẽ rõ. Bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo trong Vãng Sinh Lễ Tán giải thích đoạn kinh này như sau: Vạn năm, Tam bảo diệt Kinh này trụ trăm năm Lúc đó, nghe một niệm Đều được sanh Cực Lạc. Lại nữa, giải thích đoạn kinh này, đại khái có bốn nghĩa: (1) sự trụ, diệt trước sau của hai giáo pháp Tịnh Độ và Thánh Đạo, (2) sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thập Phương Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ, (3) sự trụ, diệt trước sau của hai giáo pháp Đâu Suất Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ, (4) sự trụ, diệt trước sau của hai môn (a) Niệm Phật và (:D tu tập các công hạnh. (1) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thánh Đạo và Tịnh Độ: nghĩa là các kinh điển của môn Thánh Đạo bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, quyển kinh này của môn Tịnh Độ được đặc biệt lưu lại, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết, cơ duyên của môn Thánh Đạo thiển bạc, còn cơ duyên của môn Tịnh Độ thâm hậu. (2) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thập Phương Tịnh Đoä vaø Tây Phương Tịnh Độ: nghĩa là các giáo pháp về sự vãng sinh Thập Phương Tịnh Độ bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, còn quyển kinh này của pháp môn vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ được đặc biệt lưu lại thế gian, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết cơ duyên vãng sinh Thập Phương Tịnh Độ thiển bạc, còn cơ duyên vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ thâm hậu. (3) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Đâu Suất Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ: nghĩa là các kinh nói về vãng sinh Đâu Suất như Di Lặc Thượng Sinh Kinh, Tâm Địa Quán Kinh bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, còn kinh này nói về vãng sinh Tây Phương được đặc biệt lưu lại thế gian một trăm năm, nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết cõi Đâu Suất, tuy gần cõi người, thế nhưng cơ duyên thiển bạc, còn cõi Cực Lạc tuy xa, nhưng cơ duyên lại thâm hậu. (4) Sự trụ diệt trước sau của hai môn Niệm Phật và Tu tập các công hạnh: nghĩa là giáo pháp về tu tập các công hạnh để vãng sinh bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo diệt tận”, kinh này của pháp môn Niệm Phật được đặc biệt lưu lại thế gian một trăm năm, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết, tu tập các công hạnh khác để vãng sinh, cơ duyên rất thiển bạc, còn tu tập công hạnh Niệm Phật vãng sinh, cơ duyên rất thâm hậu. Lại nữa, các công hạnh khác, nhân duyên vãng sinh rất ít, còn Niệm Phật vãng sinh, nhân duyên vãng sinh rất nhiều. Lại nữa, tu tập công hạnh khác để vãng sinh, chỉ hạn cục vào một vạn năm của thời mạt pháp, còn Niệm Phật vãng sinh, thì kéo dài vào thời gian một trăm năm sau khi kinh pháp diệt tận. Hỏi: Phật nói “Ta dùng tâm từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tại thế gian một trăm năm”. Nếu như Đức Thế Tôn đã vì từ bi mà lưu lại kinh giáo, ắt là bất cứ kinh giáo nào cũng phải nên lưu lại, tại sao Ngài không lưu lại một quyển kinh khác, mà chỉ lưu lại kinh này? Trả lời: Dù là Ngài lưu lại bất cứ một quyển kinh nào khác, cũng không tránh khỏi câu hỏi vặn vẹo này, thế nhưng, đặc biệt lưu lại quyển kinh này, ý nghĩa rất là sâu xa. Nếu theo ý của Hòa thượng Thiện Đạo, trong quyển kinh này đã có nói đến bổn nguyện Niệm Phật vãng sinh của Đức A Di Đà, Đức Thích Ca vì lòng từ bi, muốn lưu lại sự Niệm Phật, cho nên đặc biệt lưu lại kinh này. Trong các kinh khác, chưa nói đến bổn nguyện Niệm Phật vãng sinh của Đức A Di Đà Như Lai, cho nên Đức Thích Ca tuy từ bi, nhưng không lưu lại các kinh khác, vả lại, bốn mươi tám nguyện tuy đều là bổn nguyện, đặc biệt dùng “Niệm Phật” làm quy định cho sự vãng sinh, bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo giải thích như sau: Hoằng thệ nhiều môn, bốn mươi tám Chỉ riêng Niệm Phật rất là thân Phật thường niệm người hay niệm Phật Phật biết người tưởng Phật chuyên tâm. Nên biết, trong bốn mươi tám nguyện, bổn nguyện “Niệm Phật vãng sinh” là vua trong các bổn nguyện, bởi thế, Đức Thích Ca từ bi đặc biệt lưu lại kinh này trên thế gian một trăm năm. Lại như, trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Thích Ca không phó chúc ông A Nan các công hạnh định thiện, tán thiện, mà phó chúc “công hạnh Niệm Phật”, tức là Ngài thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà, cho nên chỉ phó chúc một hạnh Niệm Phật. Hỏi: Trong khoảng trăm năm, đặc biệt lưu lại Niệm Phật, ý nghĩa này đã rõ ràng, công hạnh Niệm Phật này là chỉ thích ứng riêng cho chúng sinh thời đó, hay là chung cho căn cơ của cả ba thời chánh, tượng và mạt pháp? Trả lời: Thích ứng chung cho cả ba thời chánh, tượng và mạt pháp. Phải nên biết đây có nghĩa là “nêu sau khuyên trước”. Chương Bảy Nhiếp Thủ Quang minh của Đức A Di Đà không chiếu hành giả khác, mà chỉ nhiếp thủ hành giả Niệm Phật. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo, trong mỗi hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi quang minh đều chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp thủ không bỏ tất cả chúng sinh Niệm Phật. Quán Kinh Sớ nói: Từ câu “Đức Phật Vô Lượng Thọ”, đến câu “nhiếp thủ không bỏ”, chánh thức thuyết minh về sự quán sát các tướng riêng biệt của thân Phật A Di Đà, quang minh này làm lợi ích cho người hữu duyên, chia làm năm phần: (1) nói rõ bao nhiêu tướng, (2) nói rõ bao nhiêu hảo, (3) nói rõ bao nhiêu quang minh, (4) nói rõ quang minh chiếu bao xa, (5) nói rõ chỗ mà quang minh chiếu đến, đều được lợi ích. Hỏi: Tu đầy đủ các công hạnh, chỉ cần hồi hướng đều được vãng sinh, tại sao quang minh của Phật chiếu khắp, lại chỉ nhiếp thủ những người niệm Phật, nghĩa này như thế nào? Trả lời: Ở đây có ba nghĩa: a/ Duyên thân thiết: chúng sinh khởi tâm tu hành, miệng thường niệm Phật, Phật ắt nghe thấy, thân thường lạy Phật, Phật ắt nhìn thấy, tâm thường nhớ Phật, Phật ắt biết rõ; chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, Phật cũng nhớ chúng sinh, niệm chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, thường không xa lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. b/ Duyên gần: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, Phật tức thời cảm ứng, hiện ra trước mắt họ, cho nên gọi là duyên gần. c/ Duyên tăng thượng: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, tức là có thể trừ diệt nhiều kiếp tội chướng, đến lúc lâm chung, Phật và thánh chúng, tự nhiên đến nghinh tiếp, những tà nghiệp trói buộc không thể làm chướng ngại sự vãng sinh, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các công hạnh khác, tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật, thì hoàn toàn không so sánh được, cho nên trong các kinh điển, chỗ nào cũng tán thán công đức Niệm Phật, chẳng hạn như kinh Vô Lượng Thọ, trong bốn mươi tám nguyện, chỉ nói rõ “chuyên niệm danh hiệu A Di Đà mà được vãng sinh Cực Lạc”, lại như trong kinh A Di Đà, một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, hơn nữa, hằng sa chư Phật ở mười phương thế giới chứng minh sự chân thực về bổn nguyện của Phật A Di Đà. Lại nữa, đoạn văn định thiện và tán thiện trong kinh này, cũng chỉ nêu rõ sự chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, những trường hợp này không phải là duy nhất. Đến đây đã nói xong về Niệm Phật Tam Muội. Quán Niệm Pháp Môn nói: “Lại nữa, như phần trước nói về quang minh của thân, tướng, v.v.., mỗi một quang minh biến chiếu mười phương thế giới, thế nhưng tâm quang của Đức A Di Đà thường soi chiếu những chúng sinh chuyên niệm danh hiệu của Ngài, nhiếp hộ không bỏ, mà hoàn toàn không nói đến sự soi chiếu nhiếp hộ các chúng sinh tu các tạp hạnh khác.” Hỏi: Quang minh của Phật chỉ chiếu người niệm Phật mà không chiếu người tu hạnh khác, là có ý gì? Trả lời: Có hai nghĩa, (1) ba duyên: duyên thân thiết, duyên gần, duyên tăng thượng, vừa đề cập ở trên, (2) “bổn nguyện”. Các công hạnh khác không phải là bổn nguyện, cho nên không soi chiếu nhiếp hộ, Niệm Phật là bổn nguyện, cho nên soi chiếu nhiếp hộ. Bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo trong Lục Thời Lễ Tán có nói: Thân sắc Di Đà như kim sơn Tướng hảo quang minh chiếu mười phương Riêng người Niệm Phật được soi nhiếp Nên biết Bổn nguyện rất kiên cường. Lại nữa, trong đoạn kinh đã dẫn nói: “Các hạnh lành khác, tuy gọi là thiện, nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không so sánh được”, ý nghĩa ở đây là muốn so sánh các công hạnh của môn Tịnh Độ. Niệm Phật đã là diệu hạnh được tuyển chọn, còn các công hạnh khác là thô hạnh bị xả bỏ trong hai trăm mười ức công hạnh, cho nên nói “hoàn toàn không thể so sánh”. Hơn nữa, Niệm Phật là “hạnh bổn nguyện”, còn các công hạnh khác không phải là “hạnh bổn nguyện”, cho nên nói là “hoàn toàn không thể so sánh”. Chương Năm Lợi Ích Sự lợi ích của Niệm Phật Vô Lượng Thọ Kinh quyển hạ nói: Đức Phật bảo ngài Di Lặc: Nếu có người nghe Danh hiệu Phật ấy Lòng rất vui mừng Dù chỉ một niệm Nên biết người ấy Được lợi ích lớn Sẽ được đầy đủ Công đức vô thượng. Vãng Sinh Lễ Tán của Hòa thượng Thiện Đạo nói: Ai nghe được danh hiệu Của Đức A Di Đà Vui mừng, dù một niệm Đều được sinh cõi ấy. Hỏi: Chuẩn theo lời kinh nói về ba bậc, ngoài Niệm Phật còn có các công đức phát Bồ đề tâm, v.v.., tại sao không tán dương những công đức ấy, mà chỉ riêng tán thán công đức Niệm Phật? Trả lời: Ý thánh khó dò, ắt là có ý nghĩa sâu xa. Ở đây chỉ dựa vào ý của ngài Thiện Đạo mà giải thích. Nguyên vì bổn ý của Đức Phật, tuy chỉ muốn nói trực tiếp công hạnh Niệm Phật, thế nhưng, Ngài phải tùy căn cơ chúng sinh mà nói đến các công hạnh khác như phát Bồ đề tâm, v.v.., chia làm ba bậc, sâu cạn khác nhau. Hiện nay, phế bỏ các công hạnh khác không tán thán, cho nên không bàn luận đến, mà chỉ tuyển chọn tán thán một hạnh niệm Phật, bởi thế chúng ta sẽ bàn luận đến điểm này. Công hạnh Niệm Phật chia làm ba bậc, điều này có hai nghĩa: (1) chia theo “Quán niệm sâu cạn”, (2) chia theo “Niệm Phật nhiều ít”. 1/ Sâu cạn: như phần trên đã dẫn đoạn văn “Nếu như nói về công hạnh, đúng lý Niệm Phật là cho bậc thượng thượng”. 2/ Nhiều ít: như trong đoạn văn của bậc hạ (Hạ phẩm hạ sinh), đã có đề cập đến số mục “mười niệm nhẫn đến một niệm”, chuẩn theo đây, hai bậc trung và thượng, số mục niệm Phật phải nên tùy theo đó mà gia tăng. Quán Niệm Pháp Môn nói: “Mỗi ngày niệm danh hiệu Phật một vạn câu, lại cần phải tùy thời lễ bái, tán thán sự trang nghiêm Tịnh độ. Cần phải rất tinh tiến, hoặc niệm ba vạn, sáu vạn, mười vạn câu, đây đều là bậc thượng phẩm thượng sinh”. Nên biết, niệm từ ba vạn câu trở lên là hành nghiệp của bậc thượng phẩm thượng sinh, niệm ba vạn câu trở xuống là hành nghiệp của bậc thượng trung trở xuống. Đây rõ ràng là tùy theo số mục niệm Phật nhiều ít mà phân biệt phẩm vị. Hiện nay, ở đây nói “một niệm”, là chỉ một niệm trong phần trên “Nguyện Niệm Phật thành tựu” (Nguyện thứ mười tám), và cũng chỉ cho một niệm trong phần bậc hạ. Trong phần “Nguyện thành tựu”, tuy nói một niệm, nhưng chưa nói đến “công đức đại lợi”, và trong phần bậc hạ, tuy cũng nói đếm “một niệm”, nhưng cũng chưa nói đến “công đức đại lợi”. Ở đây nói một niệm là công đức đại lợi, lại khen là “vô thượng”, nên biết đây là muốn chỉ cho “một niệm” trong phần “Nguyện Niệm Phật thành tựu” ở trên. Ở đây, đại lợi là sánh với tiểu lợi mà nói, như vậy, ắt các công hạnh như phát Bồ đề tâm, v.v.., là tiểu lợi, còn “cho đến một niệm” là đại lợi. Lại nữa, “công đức vô thượng” là so sánh với hữu thượng mà nói. Nếu đã cho rằng một niệm là vô thượng, như vậy, ắt mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, ngàn niệm là ngàn vô thượng, và cứ như thế, từ ít đến nhiều, niệm Phật hằng sa, công đức vô thượng ắt cũng sẽ hằng sa. Như thế, các hành giả nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ, tại sao lại bỏ phế Niệm Phật “đại lợi vô thượng”, mà lại miễn cưỡng tu tập các công hạnh “tiểu lợi hữu thượng” khác! Chương Sáu Đặc Lưu Sau thời một vạn năm mạt pháp, các công hạnh khác đều biến diệt, đặc biệt lưu lại một môn Niệm Phật. Vô Lượng Thọ Kinh quyển hạ nói: Trong đời vị lai, kinh đạo diệt hết, ta vì từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này một trăm năm. Nếu có chúng sinh gặp được kinh này, tùy theo ý nguyện, đều được cứu độ. Hỏi: Kinh chỉ nói “đặc biệt lưu lại kinh này”, tại sao ở đây lại nói “đặc biệt lưu lại một môn Niệm Phật”? Trả lời: Điều mà kinh này giảng dạy, đều là nói về Niệm Phật. Ý chỉ đã nói rõ ở phần trên, và ý tưởng của các ngài Thiện Đạo, Hoài Cảm, Huệ Tâm, v.v.., cũng đều như thế. Như vậy, “kinh này lưu lại thế gian”, cũng tức là “Niệm Phật lưu lại thế gian”, lý do là vì kinh này tuy có nói đến phát Bồ đề tâm, nhưng không nói đến hành tướng của sự phát tâm; nói chi tiết về hành tướng của sự phát Bồ đề tâm là ở trong kinh Phát Bồ Đề Tâm, v.v.. Thế nhưng, những kinh đó bị diệt trước, như vậy y vào đâu mà tu tập phát Bồ đề tâm? Lại nữa, nói chi tiết về hành tướng của sự trì giới là ở trong giới luật của Đại, Tiểu thừa, thế nhưng, giới luật bị diệt trước, như vậy những công hạnh trì giới phải y vào đâu mà tu tập? Còn những công hạnh khác, cứ chuẩn theo đây thì sẽ rõ. Bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo trong Vãng Sinh Lễ Tán giải thích đoạn kinh này như sau: Vạn năm, Tam bảo diệt Kinh này trụ trăm năm Lúc đó, nghe một niệm Đều được sanh Cực Lạc. Lại nữa, giải thích đoạn kinh này, đại khái có bốn nghĩa: (1) sự trụ, diệt trước sau của hai giáo pháp Tịnh Độ và Thánh Đạo, (2) sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thập Phương Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ, (3) sự trụ, diệt trước sau của hai giáo pháp Đâu Suất Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ, (4) sự trụ, diệt trước sau của hai môn (a) Niệm Phật và (:blink: tu tập các công hạnh. (1) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thánh Đạo và Tịnh Độ: nghĩa là các kinh điển của môn Thánh Đạo bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, quyển kinh này của môn Tịnh Độ được đặc biệt lưu lại, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết, cơ duyên của môn Thánh Đạo thiển bạc, còn cơ duyên của môn Tịnh Độ thâm hậu. (2) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Thập Phương Tịnh Đoä vaø Tây Phương Tịnh Độ: nghĩa là các giáo pháp về sự vãng sinh Thập Phương Tịnh Độ bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, còn quyển kinh này của pháp môn vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ được đặc biệt lưu lại thế gian, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết cơ duyên vãng sinh Thập Phương Tịnh Độ thiển bạc, còn cơ duyên vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ thâm hậu. (3) Sự trụ diệt trước sau của hai giáo pháp Đâu Suất Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ: nghĩa là các kinh nói về vãng sinh Đâu Suất như Di Lặc Thượng Sinh Kinh, Tâm Địa Quán Kinh bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo bị diệt tận”, còn kinh này nói về vãng sinh Tây Phương được đặc biệt lưu lại thế gian một trăm năm, nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết cõi Đâu Suất, tuy gần cõi người, thế nhưng cơ duyên thiển bạc, còn cõi Cực Lạc tuy xa, nhưng cơ duyên lại thâm hậu. (4) Sự trụ diệt trước sau của hai môn Niệm Phật và Tu tập các công hạnh: nghĩa là giáo pháp về tu tập các công hạnh để vãng sinh bị diệt trước, cho nên nói “kinh đạo diệt tận”, kinh này của pháp môn Niệm Phật được đặc biệt lưu lại thế gian một trăm năm, cho nên nói “lưu lại thế gian một trăm năm”. Nên biết, tu tập các công hạnh khác để vãng sinh, cơ duyên rất thiển bạc, còn tu tập công hạnh Niệm Phật vãng sinh, cơ duyên rất thâm hậu. Lại nữa, các công hạnh khác, nhân duyên vãng sinh rất ít, còn Niệm Phật vãng sinh, nhân duyên vãng sinh rất nhiều. Lại nữa, tu tập công hạnh khác để vãng sinh, chỉ hạn cục vào một vạn năm của thời mạt pháp, còn Niệm Phật vãng sinh, thì kéo dài vào thời gian một trăm năm sau khi kinh pháp diệt tận. Hỏi: Phật nói “Ta dùng tâm từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tại thế gian một trăm năm”. Nếu như Đức Thế Tôn đã vì từ bi mà lưu lại kinh giáo, ắt là bất cứ kinh giáo nào cũng phải nên lưu lại, tại sao Ngài không lưu lại một quyển kinh khác, mà chỉ lưu lại kinh này? Trả lời: Dù là Ngài lưu lại bất cứ một quyển kinh nào khác, cũng không tránh khỏi câu hỏi vặn vẹo này, thế nhưng, đặc biệt lưu lại quyển kinh này, ý nghĩa rất là sâu xa. Nếu theo ý của Hòa thượng Thiện Đạo, trong quyển kinh này đã có nói đến bổn nguyện Niệm Phật vãng sinh của Đức A Di Đà, Đức Thích Ca vì lòng từ bi, muốn lưu lại sự Niệm Phật, cho nên đặc biệt lưu lại kinh này. Trong các kinh khác, chưa nói đến bổn nguyện Niệm Phật vãng sinh của Đức A Di Đà Như Lai, cho nên Đức Thích Ca tuy từ bi, nhưng không lưu lại các kinh khác, vả lại, bốn mươi tám nguyện tuy đều là bổn nguyện, đặc biệt dùng “Niệm Phật” làm quy định cho sự vãng sinh, bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo giải thích như sau: Hoằng thệ nhiều môn, bốn mươi tám Chỉ riêng Niệm Phật rất là thân Phật thường niệm người hay niệm Phật Phật biết người tưởng Phật chuyên tâm. Nên biết, trong bốn mươi tám nguyện, bổn nguyện “Niệm Phật vãng sinh” là vua trong các bổn nguyện, bởi thế, Đức Thích Ca từ bi đặc biệt lưu lại kinh này trên thế gian một trăm năm. Lại như, trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Thích Ca không phó chúc ông A Nan các công hạnh định thiện, tán thiện, mà phó chúc “công hạnh Niệm Phật”, tức là Ngài thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà, cho nên chỉ phó chúc một hạnh Niệm Phật. Hỏi: Trong khoảng trăm năm, đặc biệt lưu lại Niệm Phật, ý nghĩa này đã rõ ràng, công hạnh Niệm Phật này là chỉ thích ứng riêng cho chúng sinh thời đó, hay là chung cho căn cơ của cả ba thời chánh, tượng và mạt pháp? Trả lời: Thích ứng chung cho cả ba thời chánh, tượng và mạt pháp. Phải nên biết đây có nghĩa là “nêu sau khuyên trước”. Chương Bảy Nhiếp Thủ Quang minh của Đức A Di Đà không chiếu hành giả khác, mà chỉ nhiếp thủ hành giả Niệm Phật. Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo, trong mỗi hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi quang minh đều chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp thủ không bỏ tất cả chúng sinh Niệm Phật. Quán Kinh Sớ nói: Từ câu “Đức Phật Vô Lượng Thọ”, đến câu “nhiếp thủ không bỏ”, chánh thức thuyết minh về sự quán sát các tướng riêng biệt của thân Phật A Di Đà, quang minh này làm lợi ích cho người hữu duyên, chia làm năm phần: (1) nói rõ bao nhiêu tướng, (2) nói rõ bao nhiêu hảo, (3) nói rõ bao nhiêu quang minh, (4) nói rõ quang minh chiếu bao xa, (5) nói rõ chỗ mà quang minh chiếu đến, đều được lợi ích. Hỏi: Tu đầy đủ các công hạnh, chỉ cần hồi hướng đều được vãng sinh, tại sao quang minh của Phật chiếu khắp, lại chỉ nhiếp thủ những người niệm Phật, nghĩa này như thế nào? Trả lời: Ở đây có ba nghĩa: a/ Duyên thân thiết: chúng sinh khởi tâm tu hành, miệng thường niệm Phật, Phật ắt nghe thấy, thân thường lạy Phật, Phật ắt nhìn thấy, tâm thường nhớ Phật, Phật ắt biết rõ; chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, Phật cũng nhớ chúng sinh, niệm chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, thường không xa lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. b/ Duyên gần: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, Phật tức thời cảm ứng, hiện ra trước mắt họ, cho nên gọi là duyên gần. c/ Duyên tăng thượng: chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, tức là có thể trừ diệt nhiều kiếp tội chướng, đến lúc lâm chung, Phật và thánh chúng, tự nhiên đến nghinh tiếp, những tà nghiệp trói buộc không thể làm chướng ngại sự vãng sinh, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các công hạnh khác, tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật, thì hoàn toàn không so sánh được, cho nên trong các kinh điển, chỗ nào cũng tán thán công đức Niệm Phật, chẳng hạn như kinh Vô Lượng Thọ, trong bốn mươi tám nguyện, chỉ nói rõ “chuyên niệm danh hiệu A Di Đà mà được vãng sinh Cực Lạc”, lại như trong kinh A Di Đà, một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, hơn nữa, hằng sa chư Phật ở mười phương thế giới chứng minh sự chân thực về bổn nguyện của Phật A Di Đà. Lại nữa, đoạn văn định thiện và tán thiện trong kinh này, cũng chỉ nêu rõ sự chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà được vãng sinh Cực Lạc, những trường hợp này không phải là duy nhất. Đến đây đã nói xong về Niệm Phật Tam Muội. Quán Niệm Pháp Môn nói: “Lại nữa, như phần trước nói về quang minh của thân, tướng, v.v.., mỗi một quang minh biến chiếu mười phương thế giới, thế nhưng tâm quang của Đức A Di Đà thường soi chiếu những chúng sinh chuyên niệm danh hiệu của Ngài, nhiếp hộ không bỏ, mà hoàn toàn không nói đến sự soi chiếu nhiếp hộ các chúng sinh tu các tạp hạnh khác.” Hỏi: Quang minh của Phật chỉ chiếu người niệm Phật mà không chiếu người tu hạnh khác, là có ý gì? Trả lời: Có hai nghĩa, (1) ba duyên: duyên thân thiết, duyên gần, duyên tăng thượng, vừa đề cập ở trên, (2) “bổn nguyện”. Các công hạnh khác không phải là bổn nguyện, cho nên không soi chiếu nhiếp hộ, Niệm Phật là bổn nguyện, cho nên soi chiếu nhiếp hộ. Bởi thế, Hòa thượng Thiện Đạo trong Lục Thời Lễ Tán có nói: Thân sắc Di Đà như kim sơn Tướng hảo quang minh chiếu mười phương Riêng người Niệm Phật được soi nhiếp Nên biết Bổn nguyện rất kiên cường. Lại nữa, trong đoạn kinh đã dẫn nói: “Các hạnh lành khác, tuy gọi là thiện, nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không so sánh được”, ý nghĩa ở đây là muốn so sánh các công hạnh của môn Tịnh Độ. Niệm Phật đã là diệu hạnh được tuyển chọn, còn các công hạnh khác là thô hạnh bị xả bỏ trong hai trăm mười ức công hạnh, cho nên nói “hoàn toàn không thể so sánh”. Hơn nữa, Niệm Phật là “hạnh bổn nguyện”, còn các công hạnh khác không phải là “hạnh bổn nguyện”, cho nên nói là “hoàn toàn không thể so sánh”.