Khánh An

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    27
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Khánh An

  1. Còn đây là toàn bộ nội dung cuốn "TUYỂN TRẠCH BỔN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP" của Tổ Pháp Nhiên, xin được giới thiệu từng phần đến mọi người. Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập Pháp Nhiên Thượng Nhân Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt Chương Một: Hai Môn Chương Hai: Hai Hạnh Chương Ba: Bổn Nguyện Chương Bốn: Ba Hạng Người Chương Năm: Lợi Ích Chương Sáu: Đặc Lưu Chương Bảy: Nhiếp Thủ Chương Tám: Ba Tâm Chương Chín: Tứ Tu Chương Mười: Hóa Phật Tán Thán Chương Mười Một: Tán Thán Niệm Phật Chương Mười Hai: Phó Chúc Niệm Phật Chương Mười Ba: Nhiều Thiện Căn Chương Mười Bốn: Chư Phật Chứng Thành Chương Mười Lăm: Hộ Niệm Chương Mười Sáu: Ân Cần Phó Chúc Nam mô A Di Đà Phật Niệm Phật là căn bản của sự vãng sinh Chương Một HAI MÔN Ngài Đạo Xước thiền sư thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ, sau đó đã xả bỏ Thánh Đạo Môn mà quay về Tịnh Độ Môn. An Lạc Tập quyển thượng nói: “Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, từ xưa đến nay, ắt đã gặp nhiều Đức Phật, thế nhưng tại sao vẫn luân hồi sinh tử, chưa được ra khỏi nhà lửa? Trả lời: Y vào thánh giáo Đại thừa mà nói, lý do là vì chúng sinh không được hai pháp thù thắng để diệt trừ sinh tử, cho nên không thể ra khỏi nhà lửa. Hai pháp này là gì? Một là Thánh đạo, hai là Vãng sinh Tịnh độ. Pháp tu Thánh đạo, hiện nay rất khó chứng đắc, điều này có hai lý do, một là vì thời đại đã cách Phật rất lâu xa, hai là do nghĩa lý Đại thừa sâu xa khó hiểu. Đại Tập Nhật Tạng Kinh có nói: “Trong thời mạt pháp, có ức ức chúng sinh phát tâm tu hành, nhưng có rất ít người đắc đạo.” Đời mạt pháp hiện nay là đời ác ngũ trược, chỉ có pháp môn Tịnh Độ là con đường để vào đạo. Bởi thế, Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sinh, dù là cả đời tạo ác, giả sử lúc lâm chung, niệm danh hiệu của ta mười lần liên tiếp, nếu như không được vãng sinh, ta thệ không giữ ngôi Chánh Giác.” Lại nữa, tất cả chúng sinh đều không tự lượng sức mình, nếu luận về chân như thực tướng, đệ nhất nghĩa không của Đại thừa, bọn họ đều chưa từng để tâm đến, còn nếu luận về sự tu tập kiến đế tu đạo, nhẫn đến chứng quả A na hàm, A la hán, đoạn trừ năm phiền não lợi sử, năm phiền não độn sử,thì tất cả người đạo, kẻ tục đều không có phần. Giả sử có được quả báo trời người, đều là do sự hành trì ngũ giới thập thiện chiêu cảm, thế nhưng ít có người trì giới đến chỗ viên mãn; còn nếu luận về sự làm ác tạo nghiệp, thì thế lực chẳng khác gì mưa to gió lớn. Bởi lý do này, chư Phật đều đại từ đại bi, khuyên nhắc chúng sinh vãng sinh Tịnh Độ. Cho dù cả đời tạo ác, chỉ cần buộc tâm chuyên cần tinh tấn, thường thường Niệm Phật, thì tất cả chướng ngại, tự nhiên sẽ được tiêu trừ, quyết định sẽ được vãng sinh. Tại sao tất cả không chịu suy ngẫm, mà phát tâm cầu vãng sinh! Lời bàn: Phép lập giáo nhiều ít, lập trường của các tông phái không giống nhau, ví như Hữu Tướng Tông thiết lập ba thời giáo là hữu tông, không tông và trung đạo tông để phán định thánh giáo của Đức Thế Tôn; Vô Tướng Tông thiết lập hai thời giáo là Bồ tát giáo và Thanh văn giáo để phán định; Hoa Nghiêm Tông thiết lập năm thời giáo: tiểu thừa giáo, đại thừa thỉ giáo, chung giáo, đốn giáo và viên giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; Pháp Hoa Tông thiết lập bốn thời giáo: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo, và năm mùi vị: nhũ, lạc, sinh tô, thục tô và đề hồ, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; lại còn có Chân Ngôn Tông cũng thiết lập hai thời giáo, hiển giáo và mật giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo. Hiện nay, Tịnh Độ Tông, nếu y theo bổn ý của Đạo Xước Thiền Sư, sẽ thiết lập hai môn: Thánh Đạo Môn và Tịnh Độ Môn, để thống nhiếp tất cả. Hỏi: Việc thiết lập tên gọi của các tông phái, vốn là do tám tông, chín tông như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v..., phán định, chưa từng nghe qua các nhà tu Tịnh độ thiết lập tên gọi của chính tông phái mình. Việc đặt tên gọi này có chứng cứ gì không? Trả lời: Tên gọi Tịnh Độ Tông, chứng cứ không phải ít, như ngài Nguyên Hiểu trong Du Tâm An Lạc Đạo nói: “Bổn ý của Tịnh Độ Tông là vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”, lại như ngài Từ Ân trong Tây Phương Yếu Quyết nói: “Y vào tông này”, hơn nữa, ngài Ca Tài trong Tịnh Độ Luận cũng nói: “Tông này, theo ý của tôi, là con đường trọng yếu”. Những chứng cứ như vậy, thật không còn nghi ngờ gì nữa. Thế nhưng, ý chính ở đây, không phải là bàn luận về sự phán lập giáo nghĩa của các tông phái, mà là muốn nói sơ lược về hai môn của Tịnh Độ Tông, tức là Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. A/ Thánh Đạo Môn: ở đây có hai phần, một là Tiểu thừa, hai là Đại thừa. Trong Đại thừa, tuy có Hiển, Mật, Quyền, Thực, khác nhau, thế nhưng bổn ý của tập sách này chỉ là muốn hiển minh hạnh nguyện của Đại thừa và Quyền Đại thừa là ở trong sinh tử dài lâu để tu tập cứu độ chúng sinh. Nếu như y vào điều này mà suy ngẫm, phải nên bảo tồn Đại thừa Mật giáo và Đại thừa Hiển giáo. Nên biết rằng tám tông phái như Chân Ngôn, Phật Tâm (Thiền), Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Pháp Tướng, Địa Luận, Nhiếp Luận đều có chung quan điểm này. Còn trong Tiểu Thừa, tất cả các kinh luật luận của họ đều nói về con đường tu tập để đoạn trừ phiền não, thấu rõ chân lý, chứng đắc thánh quả. Y cứ vào đây, giáo lý Tiểu Thừa chỉ bao hàm các tông phái như Luật Tông, Câu Xá và Thành Thực. Nói một cách khái quát, bổn ý của Thánh Đạo Môn, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, đều là ở trong thế giới Ta Bà này tu tập chứng đắc đạo quả của bốn Thừa. Bốn Thừa, nghĩa là ngoài ba Thừa, còn thêm Phật Thừa. B/ Vãng Sinh Tịnh Độ Môn, trong đây có hai: (1) hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, (2) hiển minh không chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ. 1/ Hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, gồm có ba bộ kinh và một bộ luận. Ba bộ kinh là Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, và A Di Đà Kinh, còn một bộ luận là Vãng Sinh Luận của ngài Thế Thân. Có người gọi ba bộ kinh này là “Ba bộ kinh Tịnh Độ”. Hỏi: Gọi Ba bộ kinh, còn có trường hợp nào khác không? Trả lời: Gọi Ba bộ kinh, có nhiều trường hợp: (a) Ba bộ kinh Pháp Hoa, tức là Vô Lượng Nghĩa Kinh, Pháp Hoa Kinh và Phổ Hiền Quán Kinh; (2) Ba bộ kinh Đại Nhật, tức là Đại Nhật Kinh, Kim Cang Đỉnh Kinh và Tô Tất Địa Kinh; (3) Ba bộ kinh trấn thủ bảo hộ quốc gia, tức là Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Kinh và Kim Quang Minh Kinh; (4) Ba bộ kinh Di Lặc, tức là Di Lặc Thượng Sinh Kinh, Di Lặc Hạ Sinh Kinh và Di Lặc Đại Thành Phật Kinh. Hiện nay ba bộ kinh A Di Đà gọi là ba bộ kinh Tịnh Độ, tức là ba bộ kinh chính yếu của Tịnh Độ Tông. 2/ Hiển minh không chính thức giáo nghĩa Tịnh Độ: những bộ kinh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Tùy Cầu (Phật Thuyết Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú Kinh), v.v..., đều có thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ; lại còn có các bộ luận như Khởi Tín Luận, Bảo Tính Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, v.v..., cũng đều thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ. Trong tập sách này, bổn ý của sự thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ là muốn khiến cho chúng sinh xả bỏ Thánh Đạo Môn, quy hướng Tịnh Độ Môn. Điều này có hai lý do: (1) do vì cách xa đời Phật, (2) do vì giáo lý thâm sâu khó hiểu. Trong Tịnh Độ Tông, thiết lập hai môn, không những chỉ có ngài Đạo Xước, mà các ngài như Đàm Loan, Thiên Thai, Ca Tài, Từ Ân, v.v..., cũng có cùng chung quan điểm. Hơn nữa, ngài Đàm Loan Pháp Sư, trong Vãng Sinh Luận Chú có nói: “Như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ nói: “Bồ tát cầu A bệ bạt trí, có hai con đường, một là Đường khó đi (Hán: nan hành đạo), hai là Đường dễ đi (Hán: dị hành đạo). Đường khó đi, nghĩa là ở trong đời ác năm trược, lúc không có Phật, cầu A bệ bạt trí là khó, sự khó khăn này có nhiều phương diện, một là pháp thiện của ngoại đạo làm loạn pháp tu của Bồ tát, hai là sự tự lợi của hàng Thanh văn làm chướng ngại tâm đại từ bi, ba là những kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác, bốn là quả báo thiện điên đảo, có thể phá hoại phạm hạnh, năm là chỉ có tự lực, không có tha lực hộ trì. Những việc như vậy, chỗ nào cũng có, ví như đường lộ, lội bộ ắt là khổ nhọc. Đường dễ đi, nghĩa là chỉ cần nhờ nhân duyên Niệm Phật, nguyện sinh Tịnh Độ, nhờ nguyện lực của Phật, sẽ được vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. Nhờ Phật lực gia trì, sẽ tiến nhập vào giai bậc chính định tụ, chính định tức là A bệ bạt trí, ví như đường thủy, đi thuyền ắt là vui sướng.” Ở đây, Đường khó đi, tức là Thánh Đạo Môn, còn Đường dễ đi, tức là Tịnh Độ Môn. Khó đi Dễ đi, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, nhưng ý thú giống nhau. Nên biết, hai ngài Thiên Thai và Ca Tài cũng có cùng quan điểm. Lại nữa, Tây Phương Yếu Quyết nói: “Nghĩ đến Đức Thích Ca khai sáng Phật giáo, hoằng dương lợi ích chúng sinh, tùy mỗi xứ mà xiển dương giáo nghĩa, rưới nước pháp mầu, làm cho chúng sinh được độ hóa, chứng ngộ ba Thừa, đối với những người ít phước mỏng duyên, thì khuyên họ vãng sinh Tịnh Độ. Người tu Tịnh Độ phải chuyên niệm A Di Đà, tất cả những thiện căn, đều phải hồi hướng về Tịnh Độ. Bổn nguyện của Đức A Di Đà là thệ độ tất cả chúng sinh cõi Ta Bà, từ người chuyên tâm tu tập cả đời, nhẫn đến người lúc lâm chung chỉ niệm mười danh hiệu, đều được quyết định vãng sinh Tịnh Độ.” Hơn nữa, bài bạt của cùng quyển sách trên nói: “Do vì sinh vào đời tượng pháp, cách xa đời Phật, nếu tu tập hạnh của ba Thừa, khó mà khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ có những bậc Bồ tát đại trí đại từ mới có thể ở lâu trong sinh tử. Nếu như kiến giải mê ám, công hạnh nông cạn, e rằng sẽ bị đọa lạc ba đường ác, bởi thế, phải nên lìa bỏ Ta Bà, cầu sinh Tịnh Độ.” Ở đây nói ba Thừa, ý muốn chỉ Thánh Đạo Môn, còn nói Tịnh Độ, là muốn chỉ Tịnh Độ Môn. Ba Thừa Tịnh Độ, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, ý thú tương đồng. Các học giả Tịnh Độ, trước tiên phải nên biết ý chỉ này, giả sử trước đó tuy đã học Thánh Đạo Môn, nếu như có chí hướng cầu sinh Tịnh Độ, phải nên xả bỏ Thánh Đạo, cầu sinh Tịnh Độ; chẳng hạn, như ngài Đàm Loan Pháp Sư xả bỏ sự giảng thuyết bốn bộ luận (Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận và Đại Trí Độ Luận) mà chuyên tâm Tịnh Độ; lại như ngài Đạo Xước Thiền Sư gác bỏ việc giảng giải Kinh Niết Bàn mà chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ. Các bậc hiền triết khi xưa đã từng như thế, chẳng lẽ những người ngu độn thô thiển mà lại không chịu tuân hành! Hỏi: Các tông phái Thánh Đạo Môn đều có sự truyền thừa từ đời này qua đời khác, chẳng hạn, Thiên Thai Tông, truyền thừa theo thứ tự, từ ngài Huệ Văn, đến các ngài Nam Nhạc, Thiên Thai, Chương An, Trí Uy, Tuệ Uy, Huyền Lãng, Trạm Nhiên; lại như Chân Ngôn Tông, truyền thừa theo thứ tự, từ Đức Đại Nhật Như Lai đến các ngài Kim Cang Tát Đỏa, Long Thọ, Long Trí, Kim Trí, Bất Không. Các tông phái khác cũng có sự truyền thừa huyết mạch. Hiện nay Tịnh Độ Tông có sự truyền thừa như thế hay không? Trả lời: Giống như huyết mạch của các nhà Thánh Đạo Môn, Tịnh Độ Tông cũng có huyết mạch, thế nhưng đối với sự truyền thừa của Tịnh Độ Tông, các nhà học giả cũng có những quan điểm không đồng, chẳng hạn như ngài Lô Sơn Tuệ Viễn Pháp Sư, ngài Từ Mẫn Tam Tạng, ngài Đạo Xước, Thiện Đạo, v.v... Nay y theo hai ngài Đạo Xước và Thiện Đạo mà luận về sự truyền thừa huyết mạch. Điều này có hai giả thuyết: (1) Bồ Đề Lưu Chi Tam Tạng, Tuệ Long Pháp Sư, Đạo Trường Pháp Sư, Đại Hải Thiền Sư, Pháp Thượng Pháp Sư (trích từ An Lạc Tập), (2) Bồ Đề Lưu Chi Tam Tạng, Đàm Loan Pháp Sư, Đạo Xước Thiền Sư, Thiện Đạo Thiền Sư, Hoài Cảm Pháp Sư, Thiếu Khang Pháp Sư (trích từ Cao Tăng Truyện đời Đường và đời Tống). Chương Hai Hai Hạnh Thiện Đạo Hòa Thượng thiết lập hai hạnh chánh và tạp, mục đích là muốn hành giả xả bỏ tạp hạnh, quay về chánh hạnh. Quán Kinh Sớ quyển bốn nói: Từ công hạnh mà thiết lập tín tâm, thế nhưng công hạnh có hai loại, một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh. Chánh hạnh, tức là chỉ y tựa vào các kinh Vãng sinh mà tu tập. Đây là thế nào? Một là nhất tâm chuyên tụng Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, v.v..., hai là nhất tâm chuyên chú suy ngẫm, quán sát, ức niệm sự trang nghiêm của chánh báo và y báo của cõi Cực Lạc, ba là nếu như lễ lạy, thì chỉ chuyên tâm lễ lạy Đức Phật A Di Đà, bốn là nếu như xưng danh, thì chỉ nên nhất tâm xưng tán danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, năm là nếu như tán thán cúng dường, thì chỉ nên nhất tâm tán thán cúng dường Đức Phật A Di Đà. Đây gọi là chánh hạnh! Lại nữa, trong phần chánh hạnh, lại có hai loại, một là nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức A Di Đà, đi đứng nằm ngồi, bất luận thời gian dài ngắn, niệm niệm không quên, đây gọi là nghiệp chánh định, thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà. Còn nếu như lạy Phật, tụng kinh, v.v..., thì gọi là nghiệp phụ. Ngoại trừ hai hạnh chánh và phụ này ra, tất cả các hạnh lành khác đều gọi là tạp hạnh. Nếu như tu tập hai nghiệp chánh, phụ, thì tâm thường thân cận Đức A Di Đà, nghĩ nhớ không gián đoạn, đây gọi là tâm không gián đoạn. Nếu như tu tập tạp hạnh, thì tâm sẽ thường gián đoạn, khó có thể hồi hướng vãng sinh, đây gọi là hạnh tạp nhạp, xa cách. Lời bàn: Đoạn văn này có hai ý, một là thuyết minh hành tướng của sự vãng sinh, hai là phán định sự được, mất của hai hạnh chánh và phụ. (A) Thuyết minh hành tướng của sự vãng sinh: Theo ý của Hòa thượng Thiện Đạo, công hạnh vãng sinh tuy nhiều, có thể chia làm hai loại, (1) chánh hạnh, và (2) tạp hạnh. (1) Chánh hạnh. Ở đây có hai nghĩa khai và hợp. Trước tiên, khai làm năm loại, sau đó hợp thành hai loại. i/ Khai làm năm loại, tức là (a) chánh hạnh đọc tụng, ( :) chánh hạnh quán sát, © chánh hạnh lễ bái, (d) chánh hạnh xưng danh, (e) chánh hạnh tán thán cúng dường. a/ Chánh hạnh đọc tụng. Chỉ đọc tụng Quán Kinh, v.v..., tức là như văn đã nói: “Nhất tâm chuyên tụng Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, v.v...”. b/ Chánh hạnh quán sát. Chuyên tâm quán sát y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc, tức là như văn đã nói: “Nhất tâm chuyên chú suy ngẫm, quán sát, ức niệm sự trang nghiêm của chánh báo và y báo của cõi Cực Lạc”. c/ Chánh hạnh lễ bái. Chỉ lễ lạy Đức A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu như lễ lạy, thì chỉ chuyên tâm lễ lạy Đức Phật A Di Đà”. d/ Chánh hạnh xưng danh: Chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu như xưng danh, thì chỉ nên nhất tâm xưng tán danh hiệu của Đức Phật A Di Đà”. e/ Chánh hạnh tán thán cúng dường. Chỉ tán thán, cúng dường Đức A Di Đà, tức là như văn đã nói: “Nếu tán thán, cúng dường, thì chỉ nên nhất tâm tán thán, cúng dường Đức Phật A Di Đà, đây gọi là chánh hạnh”. Nếu chia “tán thán cúng dường” ra làm hai, thì sẽ có sáu loại chánh hạnh. Hiện nay hợp làm một, thành thử chỉ có năm loại. Hợp làm hai loại, tức là (a) nghiệp chánh, ( :) nghiệp phụ. a/ Nghiệp chánh. Trong năm loại chánh hạnh trên, loại thứ tư “xưng danh” là nghiệp chánh định, như trong văn nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức A Di Đà, đi đứng nằm ngồi, bất luận thời gian dài ngắn, niệm niệm không quên, đây gọi là nghiệp chánh định, thuận theo bổn nguyện của Đức A Di Đà”. b/ Nghiệp phụ. Ngoại trừ xưng danh, các hạnh còn lại như đọc tụng, v.v..., đều là nghiệp phụ, như văn có nói: “Các hạnh như lạy Phật, tụng kinh, v.v..., đều gọi là nghiệp phụ.” Hỏi: Tại sao trong năm loại, chỉ có xưng danh niệm Phật được coi là nghiệp chánh định? Trả lời: Đây là thuận theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, ý muốn nói xưng danh chính là bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, cho nên người tu nương vào bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc. Ý nghĩa của bổn nguyện, phía dưới sẽ nói rõ. (2) Tạp hạnh. Như văn nói: “Ngoại trừ hai hạnh chính và phụ này, tất cả hạnh lành khác, đều gọi là tạp hạnh”, ý muốn nói tạp hạnh nhiều vô lượng, không thể nói hết, thế nhưng ở đây nói đến năm loại chánh hạnh là để nêu lên năm loại tạp hạnh. a/ Tạp hạnh đọc tụng. Ngoại trừ các kinh Tịnh Độ, như Quán Kinh, v.v..., nếu đọc tụng thọ trì các loại kinh Đại, Tiểu thừa, hoặc Hiển, hoặc Mật, đều gọi là tạp hạnh đọc tụng. b/ Tạp hạnh quán sát. Ngoại trừ y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc, tất cả những quán hạnh, hoặc sự hoặc lý, hoặc Đại thừa, hoặc Tiểu thừa, hoặc Hiển, hoặc Mật, đều gọi là tạp hạnh quán sát. c/ Tạp hạnh lễ bái. Ngoại trừ lễ bái Đức A Di Đà, lễ bái cung kính chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh lễ bái. d/ Tạp hạnh xưng danh. Ngoại trừ xưng danh Đức A Di Đà, xưng danh chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến danh hiệu của các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh xưng danh. e/ Tạp hạnh tán thán cúng dường. Ngoại trừ tán thán cúng dường Đức A Di Đà, tán thán cúng dường chư Phật Bồ tát khác, nhẫn đến các vị trời thế gian, đều gọi là tạp hạnh tán thán cúng dường. ( :) Phán định sự được, mất của hai hạnh: “Nếu như tu tập hai hạnh chánh và phụ, tâm thường gần gũi Đức A Di Đà, nhớ tưởng không nguôi, đây gọi là hạnh không gián đoạn. Nếu như tu tạp hạnh, tuy cũng có thể hồi hướng vãng sinh, thế nhưng tâm thường gián đoạn, đây gọi là hạnh xa lạ tạp nhạp (Hán: sơ tạp)”. Theo ý của đoạn văn vừa nói, đối với hai hạnh chánh tạp này, có năm cặp đối: (1) thân sơ, (2) gần xa, (3) gián đoạn không gián đoạn, (4) hồi hướng không hồi hướng, (5) thuần tạp. (1) Thân, sơ. Trước tiên, thân (thân thiết), nghĩa là hành giả tu tập hai hạnh chánh và phụ, sẽ rất thân thiết với Đức Phật A Di Đà, cho nên Quán Kinh Sớ nói: “Chúng sinh khởi tâm tu hành, miệng thường niệm Phật, Phật ắt nghe thấy, thân thường lạy Phật, Phật ắt nhìn thấy, tâm thường nghĩ Phật, Phật ắt biết rõ. Chúng sinh nghĩ Phật, nhớ Phật, Phật cũng nghĩ chúng sinh, nhớ chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, không xa cách nhau.” Bởi thế, nên gọi là thân thiết. Kế đến, sơ (xa lạ), nghĩa là tạp hạnh. Chúng sinh không niệm Phật, Phật không nghe thấy, thân không lạy Phật, Phật không nhìn thấy, tâm không nghĩ Phật, Phật không hay biết. Chúng sinh không nghĩ Phật, nhớ Phật, Phật cũng không nghĩ chúng sinh, nhớ chúng sinh. Ba nghiệp của đôi bên, thường cách biệt nhau, bởi thế nên gọi là xa lạ. (2) Gần, xa (Hán: viễn cận). Trước tiên, gần, tức là tu tập hai hạnh chánh và phụ, thì sẽ gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Kinh Sớ nói: “Chúng sinh nguyện thấy Phật, Phật liền đáp ứng, hiện ra trước mặt ”, cho nên gọi là gần. Kế đến, xa, tức là tu tập tạp hạnh. Chúng sinh không nguyện thấy Phật, Phật sẽ không đáp ứng, không hiện ra trước mặt, cho nên gọi là xa. Ý nghĩa của thân và gần, tuy có vẻ giống nhau, thế nhưng, theo ý của ngài Thiện Đạo là chia làm hai trường hợp khác nhau. Ý chỉ này được nói rõ trong Quán Kinh Sớ, bởi thế, ở đây dẫn ra để giải thích. (3) Gián đoạn, không gián đoạn. Trước tiên, không gián đoạn, nghĩa là tu tập hai hạnh chánh và phụ, thì sẽ nghĩ nhớ Đức Phật A Di Đà không gián đoạn, cho nên gọi là “tâm không gián đoạn”. Kế đến, gián đoạn, nghĩa là tu tập tạp hạnh, thì thường ít nghĩ nhớ đến Đức Phật A Di Đà, cho nên gọi là “tâm thường gián đoạn”. (4) Hồi hướng, không hồi hướng. Không hồi hướng, nghĩa là nếu tu tập hai hạnh chánh và phụï, thì không cần phải hồi hướng riêng biệt, mà tự nhiên trở thành nghiệp vãng sinh, cho nên Quán Kinh Sớ nói: Trong Quán Kinh, niệm danh hiệu Phật mười lần, tức là có đủ mười nguyện, mười hạnh. Niệm “A Di Đà Phật” tức là hạnh, do ý nghĩa này “ắt sẽ được vãng sinh”. Kế đến, hồi hướng, nghĩa là nếu tu tập tạp hạnh, cần phải hồi hướng thì mới thành nghiệp vãng sinh, nếu như không hồi hướng, thì sẽ không trở thành nhân duyên cho sự vãng sinh, cho nên nói: “Tuy có thể hồi hướng vãng sinh”. (5) Thuần, tạp. Trước tiên, thuần, nghĩa là tu tập hai hạnh chánh và phụ là hạnh đơn thuần để vãng sinh Cực Lạc, còn tu tạp hạnh, tức không phải là hạnh đơn thuần để vãng sinh Cực Lạc, mà là hạnh chung cho pháp trời người, pháp của ba Thừa, và hạnh vãng sinh các cõi Tịnh Độ ở mười phương, cho nên gọi là tạp. Bởi lý do này, các hành giả Tây phương Tịnh Độ, cần phải bỏ tạp hạnh mà tu chánh hạnh. Hỏi: Ý nghĩa “thuần tạp” này, trong các kinh điển khác, có chứng cứ hay không? Trả lời: Trong kinh luận của Đại, Tiểu thừa, thiết lập hai môn thuần, tạp, trường hợp này không phải chỉ có một. Trong tám tạng của Đại thừa, có một tạng gọi là tạp tạng, như vậy bảy tạng kia là thuần, còn tạp tạng là tạp. Trong Luật tạng, hai mươi kiền độ là để biểu minh giới hạnh, mười chín kiền độ đầu là thuần, còn kiền độ cuối là tạp. Lại như hai bộ Cao Tăng Truyện của hai đời Đường và Tống đều lập mười khoa pháp, nói rõ đức hạnh của các vị cao tăng, chín khoa đầu là thuần, còn khoa cuối là tạp. Nhẫn đến, quyển Đại Thừa Nghĩa Chương, có năm tụ pháp môn, bốn tụ đầu là thuần, còn tụ cuối là tạp. Không những chỉ có Hiển giáo, trong Mật giáo cũng có pháp thuần và tạp, chẳng hạn như Phật Pháp Huyết Mạch Phổ của Sơn Gia Phái nói: “Thứ nhất, một bức Thai Tạng Giới Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, thứ hai, một bức Kim Cang Giới Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, thứ ba, một bức Tạp Mạn Đà La Huyết Mạch Phổ, hai bức đầu là thuần, bức cuối là tạp”. Chứng cớ về thuần tạp tuy nhiều, ở đây chỉ đề cập một ít mà thôi. Nên biết ý nghĩa của thuần tạp, tùy thuộc vào pháp, không có ý nghĩa nhất định. Ở đây chúng ta dựa vào ý của Hòa thượng Thiện Đạo, trên phương diện hành trì Tịnh Độ, mà bàn luận vấn đề thuần tạp. Hơn nữa, tên gọi “thuần, tạp” này, không hạn cục trong nội điển, hoặc ngoại điển, mà có rất nhiều lệ chứng, vì sợ phiền toái, cho nên không bàn đến. Thế nhưng, bàn đến công hạnh Tịnh Độ, có thể chia làm hai hạnh, điều này không chỉ có ngài Thiện Đạo, mà cả ngài Đạo Xước cũng có cùng quan điểm, tức là công hạnh vãng sinh tuy nhiều, gom lại còn có hai: một là “niệm Phật vãng sinh”, hai là “vạn hạnh vãng sinh”, còn nếu theo ý của ngài Hoài Cảm Thiền Sư, công hạnh vãng sinh tuy nhiều, gom lại cũng chỉ có hai: một là “niệm Phật vãng sinh”, hai là “chư hạnh vãng sinh”. Như vậy, ba ngài đều lập hai hạnh để bao quát công hạnh vãng sinh, điều này chứng tỏ các ngài đã thấu rõ ý chỉ thâm diệu của sự vãng sinh, còn các nhà chú giải khác thì không hẳn như vậy. Những hành giả Tịnh Độ phải nên suy ngẫm chính chắn điều này! Vãng Sinh Lễ Tán nói: “Nếu như có thể hành trì như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, thì chắc chắn mười người tu, mười người vãng sinh, trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nào khác nên đắc được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không đi ngược với giáo lý, và vì tùy thuận lời dạy của Phật. Nếu như xả bỏ sự chuyên tâm mà tu tạp nghiệp, thì trăm người tu, chỉ có được một hai người vãng sinh, ngàn người tu, chỉ có năm ba người vãng sinh. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, vì không tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì đi ngược với giáo lý, vì làm trái với lời dạy của Phật, vì hệ niệm không tương tục, vì sự tưởng nghĩ đến Phật thường gián đoạn, vì sự hồi hướng không ân cần, chân thực, vì các phiền não tham, sân thường đến làm gián đoạn chánh niệm, vì không có tâm hổ thẹn sám hối, vì không tương tục nghĩ nhớ đến việc báo ơn Phật, vì sinh khởi tâm khinh mạn, tuy cũng tu tập, nhưng lại chạy theo danh lợi, vì hay phân biệt nhân ngã, không chịu thân cận những bậc đồng tu thiện tri thức, và vì thích gần gũi những tạp duyên, làm chướng ngại chánh hạnh vãng sinh của chính mình và người khác. Gần đây, tôi tự mình nghe rằng người tăng kẻ tục ở khắp mọi nơi, kiến giải, công hạnh không đồng nhau, chuyên tu, tạp tu cũng không giống nhau, thế nhưng, những người chuyên ý tu tập, thì mười người vãng sinh cả mười, còn những người tu tạp hạnh, tâm ý không chuyên nhất, thì trong ngàn người tu, không có đến một người vãng sinh! Hai hạnh được, mất này, như phần trên vừa nói rõ, ngưỡng mong các vị tu hạnh vãng sinh, cần phải khéo léo suy ngẫm. Nếu như trong đời này, đã có thể phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì trong tất cả mọi lúc, đi đứng nằm ngồi, đều nên tự khuyến tấn mình, ngày đêm không bỏ phế, trọn suốt một đời hành trì chánh hạnh. Trong cuộc đời này, dường như phải chịu chút khổ, thế nhưng, giây phút trước vừa mệnh chung, giây phút sau ắt vãng sinh Cực Lạc, từ đó thọ mệnh vô cùng, vĩnh viễn hưởng thọ sự vui sướng, nhẫn đến khi thành Phật, không còn phải chịu sự khổ sinh tử, đây không phải là điều vui thú hay sao? Lời bàn: Đã đọc được đoạn văn trên, càng phải nên “xả tạp hạnh mà chuyên tu chánh hạnh”, lẽ nào lại bỏ chánh hạnh “trăm người tu trăm người vãng sinh”, mà lại tu tạp hạnh “ngàn người tu không có được một người vãng sinh” hay sao? Hành giả phải nên suy ngẫm chính chắn điều này! (con nua)