-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 04/12/2022 in all areas
-
LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Nguyễn Vũ Diệu) NHẬP ĐỀ. Cho đến tận ngày hôm nay, khi tiếp các thân chủ đang trong tuổi yêu đương, dựng vợ gả chồng của các bạn trẻ. Tôi thấy những bậc phụ huynh vẫn cố chấp và đôi lứa trẻ vẫn đau lòng về việc bị cha mẹ cấm cản, vì một nguyên nhân lãng nhách, là nghe lời các thày bà nửa mùa, dốt nát. Họ căn cứ vào những kiến thức di sản đã thất truyền và sai lệch từ các bản văn cổ chữ Hán, để cho rằng có những đôi lừa không thể lấy nhau vì không hợp tuổi. Hậu quả của những sự thất truyền và sai lầm này, đã gây ra những kết cục bi thương cho họ. Thậm chí có những đôi lứa tự tử để quyết sống bên nhau, vì lời phán của các loại thày, bà dốt nát. Bởi vậy, hôm nay, tôi quyết định viết lại rõ ràng về phương pháp "LUẬN TUỔI LẠC VIỆT", mà tôi đã dày công nghiên cứu và đã công khai công bố trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn, từ hàng chục năm trước. Có thể nói: Công trình nghiên cứu này đã phổ biến trong tất cả các cao thủ Địa Lý Lạc Việt và các nhà Lý học thiện tâm ứng dụng. Nhưng nó chưa thật sự phổ biến rộng khắp, như một giáo trình Lý học ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành - với tư cách là một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VŨ TRỤ. Ngày nay, nhờ mạng xã hội và cảm ơn hệ thống Facebook, tôi - Lão Gàn Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh - viết và công bố lại ở đây công trình nghiên cứu về mối quan hệ gia đình trong luận tuổi Lạc Việt với sự bổ sung hoàn hảo nhất,về phương pháp này - nhân danh những gía trị đích thực của Lý Học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt. Tôi viết lại bài viết này với một hy vọng rằng: Sẽ giúp cho đôi lứa yêu nhau thực sự, đủ tự tin để đến với nhau và xây dựng hạnh phúc bên nhau trọn đời với "Luận tuổi Lạc Việt". Tôi cũng hy vọng rằng: "Luận tuổi Lạc Việt" sẽ giúp cho các bậc phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn bản chất đích thực của nền văn hiến Việt, thực sự nhân bản với tình yêu con người, hoàn toàn phù hợp với những quy luật tự nhiên trong vấn đề phát triển cuộc sống và xã hội. Từ đó họ sẽ ứng dụng hệ thống tri thức này, hướng dẫn con cái đi tìm hạnh phúc đích thực. Xin cảm ơn vì đã quan tâm, chia sẻ. Còn tiếp. Ngày Tam Nương sát 18. 6. Mậu Tuất Việt lịch. Nhằm ngày 30. 7. 2018. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. BẮT ĐẦU TỪ HÌNH TƯỢNG THẦN TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG NHỮNG NỀN VĂN MINH CỔ. Có lẽ tất cả mọi người trên thế giới này, đều biết đến một hình ảnh phổ biến của thần Tình Yêu, có xuất xứ từ nền văn minh Hy - La. Đó là một chú bé rất xinh xắn, trên lưng có đôi cánh và bộ cung tên bằng vàng. Chú bé cười như nắc nẻ, mỗi khi bắn một mũi tên xuống trần gian và bao giờ nó cũng xuyên qua hai trái tim, một nam, một nữ. Thế là họ phải lấy nhau, như một định mệnh đã an bài. Đó là thần Eros hay Cupid trong thần thoại Hi – La, là xuất xứ ban đầu của nền văn minh phương Tây. Thần Cupid có lúc hiện thân là một thanh niên thân hình tráng kiện với những đường nét chuẩn của tỷ lệ vàng, mà chúng ta thấy ở tượng David của Michelangelo. Vị thần này ngồi trên xe có đôi Thiên Nga trắng kéo. Còn Thần Eros hiện đại và văn minh hơn, lắp ngay đôi cánh Thiên Nga trên lưng mình và hỗ trợ sự di chuyển bằng bánh xe lửa có cánh. "Chúa không chơi trò xúc xắc". Đấy là câu nói nổi tiếng của Anbert Einstein. Nhưng vị thần Tình Yêu trong thần thoại Hy La này có vẻ như chơi trò xúc sắc, khi hứng thú bắn những mũi tên tình yêu của mình. Trong nền văn minh cổ đại của Ấn Độ, thì vị thần Tình Yêu có vẻ chững trạc hơn. Thần hiện thân là một chàng trai tuấn tú, thân hình chuẩn sáu múi do tập thể dục thể hình thường xuyên, chứ không phải là một đứa trẻ hồn nhiên, vô tư với tâm hồn trong trắng, thánh thiên. Ngài cũng có bộ cung tên như hai vị thần tình yêu của Hy La. Nhưng có điều ngài lại ngồi trên xe, do một chú vẹt lắm chuyện kéo xe. Một hiện tượng đáng chú ý là: Thần Tình yêu Ấn Độ, dám chống lại cả Brahma, Shiva, là những vị thần tối cao của Ấn Độ. Nhưng thần tình yêu của Hy La lại là kết quả của tình yêu giữa thần Jupiter lắm vợ với nữ thần Venus. Giống như thần thoại Hy Lạp, thần Tinh yêu Ấn Độ cũng dùng mũi tên của mình để kết nối lứa đôi như thần Tình yêu Hy La. Nhưng có lẽ vị thần Tình yêu của xứ sở cary này, khác hẳn hai vị thần Hy La nói trên, bởi chính danh xưng của vị thần này. Ngài có tên là Kama. Tên của vị thần có từ thời rất cổ xưa này, phát âm gần giống với từ "karma", tức là "Nghiệp chướng" trong triết học Ấn Độ cổ và trong Phật giáo. Đây là một điểm khác biệt hẳn, so với sự vô tư và hồn nhiên, khi kết hợp hôn nhân đôi lứa qua hình tượng đứa trẻ trong thần thoại Hy La với thần thoại Ân Độ. Tên thần Tình Yêu Ấn Độ, đã mang bóng dánh của một định mệnh được an bài. Mà trong đó, tình yêu và hôn nhân thực sự là hậu quả của "nghiệp chướng" karma, ẩn chứa đằng sau sự vô tư khi ban phát tình yêu của thần Kama. "Duyên tình hay nghiệp oan khiên? Mà sao mãi mãi trăng đêm nhắc sầu?! Trăng non bến giang đầu vừa hé. Nghe gió than khe khẽ bên bờ..." Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh phải thốt lên như vậy! Thưa quý vị và các bạn! Trải dài từ nền văn minh cổ Hy La, cho đến Ấn Độ, chúng ta thấy có sự chuyển biến từ một tình yêu hồn nhiên, vô tư và mang tính nguyên sơ của thần thoại Hy Lạp, La Mã, đến dấu ấn của một kết quả có tính nhân quả - nghiệp chướng - trong thần thoại Ấn Độ. Có vẻ như điều này đã dần sáng tỏ danh ngôn của ngài Albert Einstein: "Chúa không chơi trò xúc sắc". Và điều này được khẳng định trong văn minh Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt. THẦN HÔN NHÂN TRONG NỀN VĂN HIẾN VIỆT. Mạch hôn nhân của Hy La vượt qua Ấn Độ, khi đến phương Đông với nền văn minh thứ V cổ xưa ở miền Nam sông Dương Tử - thì tính chất đã khác hẳn. Ở nền văn minh Đông phương, không có thần Tình Yêu. Mà chỉ có vị thần hôn nhân là Nguyệt Lão. Sự tích về Nguyệt Lão được cho rằng có xuất xứ từ thời nhà Đường. Truyện này được mô tả hay nhất trong cuốn "Điển Cố" của Phan Thế Roanh. Sự tích này có nhiều dị bản. Nhưng có thể tóm tắt về hình tượng Nguyệt Lão như sau: Đó là một ông già thường ngồi dưới bóng trăng. Bên canh có chiếc túi chứa đầy những sợi "chỉ hồng" ("Xích thằng"), trên tay ông luôn cầm cuốn sách, trong đó ghi danh tất cả những đôi lứa nam, nữ ở trần gian sẽ phải lấy nhau. Sau khi cân nhắc cẩn thân, Nguyệt Lão lấy sợi chỉ hồng buộc hai người lại với nhau. Và thế là định mệnh đã an bài. Dù cuộc thế bãi bể nương dâu, họ cũng phải đến với nhau và thành vợ, thành chồng. "Dù khi lá thắm, chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. Kiều - Nguyễn Du. Như vậy, trong tiềm thức của nền văn minh cổ Đông phương, không có thần Tình Yêu, không có tỉnh yêu cảm tính, hồn nhiên, như nhiên, vô tư như trẻ nhỏ. Mà đó là sự cân nhắc chín chắn của bậc trưởng thượng, tính toán chi ly mọi yếu tố với sự ghi chép có tư liệu cẩn thận, rồi mới quyết định sự ràng buộc của Định mệnh, bằng sợi chỉ hồng. Theo những truyền thuyết về vị thần Hôn nhân trong văn minh cổ Đông phương, xác định một định mệnh đã an bài và không thể cưỡng lại. Cho dù, nó nằm ngoài ý muốn của con người và cố tình chống lại nó. Rõ ràng ở nền văn minh Đông phương "Chúa không chơi trò xúc sắc". Về nguồn gốc của thần Hôn nhân - Nguyệt Lão - Có vẻ như nó thuộc về văn minh Hán với sự tích phổ biến rộng rãi với nhân vật Vi Cố đời nhà Đường (618-907). Những loại Nho sĩ thuộc hạng "Tầm chương, trích cú"; "Soi từng câu, dò từng chữ", ra rả như ve rằng: Nó có nguồn gốc văn hóa Hớn. Và rằng nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng văn hóa Hớn. Thực ra đó chỉ là loại tầm nhìn xa dưới 10km. Dấu ấn của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử, từ hàng nghìn năm trước - nền văn minh cổ đại thứ V trong lịch sử văn minh nhân loại - chính là sợi chỉ đỏ huyền vĩ buộc định mệnh của những cặp vợ chồng trên thế gian. "Xích thằng" - chỉ Hồng - đó là phát âm nguồn gốc từ LẠC HỒNG mà ra. Từ LẠC trong ngôn ngữ Việt, tiếng Nam Bộ, còn có thể viết và đọc là "LẠT" - sơi dây ràng buộc mọi sự việc, sự vật của thế nhân. Và đấy không phải là bằng chứng duy nhất. Tôi đã chứng minh trên dd lyhocdongphuong và trong các sách đã xuất bản. Đặc biệt tronng cuốn sách: "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" (Nxb TH T/p HCM 2006), và "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" (Nxb Tri thức 2014), về ý nghĩa của cặp "Bánh chưng, bánh dầy". Trong đó, bên ngoài chiếc bánh chưng chuẩn Lạc Việt, mà tổ tiên để lại, phải buộc theo hình "Cửu Cưng Hà Đồ" với bốn sợi "LẠT HỒNG", Tức "LẠC HỒNG" và chính là "Xích thằng" - sợi chỉ đỏ huyền vĩ biểu tượng của dòng dõi Lạc Hồng một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương Tử (Xin xem hình minh họa kèm theo). Một trời huyền thoại Việt, cũng đã làm rung động con tim của một thiên tài kiệt xuất trong thi ca còn ghi dấu ấn đến đời sau, chính là Lý Bạch - một danh nhân thi sĩ đời Đường với bài thơ nổi tiếng: "Mộng Du Thiên Mụ ngâm lưu biệt". Trong đó ông đã mô tả một nền văn hiến giàu chất thần thoại của Việt tộc. Thiên Sứ đã dịch thơ như sau: MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Cảm tác thơ Lý Bạch Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh Khách hải hồ kể mãi xứ Doanh Châu. Cõi huyền thoại nơi chân trời giáp biển. Chuyện thần tiên văn hiến Việt ngàn xưa. Nơi ấy. Lồng lộng trên cao Thiên Mụ chắn ngang trời. Giữa huyền không bời bời. Ngũ nhạc còn bé, Xích thành nhỏ nhoi. Núi Thiên Thai hùng vĩ xuyên mây. Trước Thiên Mụ cũng ngả nghiêng chao đảo. Ta ôm mộng sống trong huyền thoại Việt. Mơ vượt sóng trào hồ Động Đình đất Kính. Xuyên Ngô Việt trong trăng thanh lung linh. Về Diễm Khê thanh bình. Theo bóng trăng đến lều tranh Tạ Linh Vân. Nơi nước biếc soi áng mây thơ thẩn. Hạc kêu, vượn hót Gió giục mây vần. Mượn hài thần Tạ công, ta nhẹ bước thanh vân. Lưng chừng núi chợt thấy mặt trời lồng lộng. Mão Nhật kê tinh gáy gọi hừng Đông Đường đi mênh mông. Mây buông ráng hồng. Chợt trời sập tối. Sầm sập mây trôi. Nghe Kỳ lân gào thét. Tiếng Rồng gầm vang khe. Gió giật chớp loè. Núi tan, non lở. Chợt vỡ toang cửa trời rộng mở. Thăm thẳm huyền vi. Chói loà trời trăng soi lầu vàng, gác bạc. Thiên thần lừng lững bay. Giáp trụ hiên ngang, lấp lánh bẩy sắc cầu vồng. Cưỡi thần mã phi nhanh như gió. Cõi trời huyền thoại Việt. Toàn người đẹp nghiêng thành. Ảo huyền như trăng thanh. Dáng tiên thanh tú . Đông như cỏ manh. Nghe hổ chơi đàn. Hồn Bá Nha chứa chan. Chợt nhìn phượng múa. Vũ khúc Nghê Thường mê man… Giật mình tỉnh giấc mơ vàng. Mang mang như khói hương tàn trôi đi. Ngàn thu qua có nhắc gì? Mơ xưa xứ Việt ngang mi dâng sầu. Đất trời nhắc cuộc bể dâu. Nào mơ danh tướng công hầu mà chi. Thiên Sứ MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Thơ Lý Bạch Bản dịch âm của Khương Hữu Dụng. Hải khách đàm Doanh Châu, Yên đào vi mang tín nan cầu Việt nhân ngữ Thiên Mụ, Vân hà minh diệt hoặc khả đổ. Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành, Thế bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành. Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng, Đối thử dục đảo đông nam khuynh. Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt, Nhất dạ phi đô kính hồ nguyệt. Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh, Tống ngã chí Diễm Khê. Tạ công túc xứ kim thượng tại, Lục thuỷ đãng dạng thanh viên đề. Cước trước Tạ công lý Thân đăng thanh vân thê. Bán bích kiến hải nhật Không trung văn thiên kê Thiên nham vạn hác lộ bất định, Mê hoa ỷ thạch hốt dĩ mính, Hùng bào long ngâm âm nham tuyền. Lật thâm lâm hề kinh tằng điên. Vân thanh thanh hề dục vũ, Thuỷ đạm đạm hề sinh yên. Liệt khuyết tích lịch, Khâu loan băng tồi. Động thiên thạch phi, Hoanh nhiên trung khai. Thanh minh hạo đãng bất kiến để, Nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài. Nghê vi y hề phong vi mã, Vân chi quân hề, phân phân nhi lai hạ. Hổ cổ sắt hề loan hồi xa, Tiên chi nhân hề liệt như ma. Hốt hồn quý dĩ phách động, Hoảng kinh khởi nhi trường ta. Duy giác thì chi chẩm tịch, Thất hướng lai chi yên hà. Thế gian hành lạc diệc như thử. Cổ lai vạn sự đông lưu thuỷ, Biệt quân khứ hề hà thì hoàn ? Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian. Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn. An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý, Sử ngã bất đắc khai tâm nhan! Thưa quý vị và các bạn. Trong nền văn hóa truyền thống Việt còn ghi dấu ấn của "Ông Tơ, bà Nguyệt". Quý vị và các bạn có thể thấy ngay trong hai bức tranh dân gian làng Đông Hồ minh họa dưới đây, một bức miêu tả "Ông Tơ" và một bức miêu tả "Bà Nguyệt". Vậy bà Nguyệt ở đâu ra, khi nếu được coi là "gốc Hớn" với Nguyệt Lão? Nếu thật sự có "nguồn gốc Hớn" thì người Việt "phịa" thêm hình tượng "Bà Nguyệt" vào làm gì? Nhưng nếu xét theo Lý Âm Dương thì hình tượng Bà Nguyệt hoàn toàn hợp lý và mới chính là gốc của mọi vấn đề. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự ứng dụng trong tất cả mọi lĩnh vực, thì luôn tôn trọng quy luật "Cân bằng Âm Dương". "Cô Âm", hoặc "cô Dương" đều coi như sai cách cục. Nhưng trong truyền thuyết về Nguyệt Lão của văn hóa Hớn, thì chỉ có minh "Nguyệt lão" cô Dương trong hình tượng. Đây không phải là cách thiết kế một nội dung câu chuyện huyền thoại có tính minnh triết của nền văn minh Đông phương - nếu là chủ nhân thực sự của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chẳng bao giờ có hạnh phúc lứa đôi, nếu chỉ có một đàn ông, hoặc một đàn bà trong gia đỉnh cả. Nhưng nền văn hiến Việt với thần thoại về "Ông Tơ, bà Nguyệt" lại đủ Âm Dương. Ánh trăng soi sáng cho ông lão ngồi dưới trăng, được tách hẳn thành một nữ thần phụ trách hôn nhân trong văn hóa Việt và thành "Bà Nguyệt". Bà Nguyệt - Âm - mới thật sự chủ đạo trong quyết định hôn nhân và hạnh phúc lừa đôi nam, nữ - vốn thuộc sinh hoạt bản năng - Âm tính của con người. Ông Tơ - Dương - chỉ là người thực hiện cụ thể với sợi "lạt hồng" - "Xích thằng" - để ràng buộc lứa đôi. Đấy chính là nguyên lý "Trong Âm, có Dương" và ngược lại. Trong tổng thể Âm của sinh hoạt bản năng nam nữ thì Bà Nguyệt là Âm, nhưng mang tính chủ đạo và trở thành Dương trước (Trong Âm có Dương); Ông Tơ là tuy hình tượng là Dương, nhưng lại có sau nên là Âm sau (Trong Dương có Âm) và là người thực hiện buộc sơi tơ hồng, nên gọi là "Ông Tơ". Bởi vậy, với những phân tích trện, thì chính nền văn hiến Việt là nguồn gốc đích thực của những giá trị văn minh phương Đông. Hình ảnh "Ông Tơ, Bà Nguyệt", mô tả một định mệnh đã an bài trong hôn nhân. "Thượng Đế không chơi trò xúc sắc". Albert Einstein. Còn tiếp.1 like