• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 31/01/2019 in all areas

  1. ĐỊA LÝ PHONG THỦY TỬ CẤM THÀNH DẤU ẤN CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT TRUNG HOA PHẦN 1 : NGUYỄN AN - TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ Khi còn thời niên thiếu, tôi luôn mơ ước được đặt chân tới Tử Cấm Thành và Vạn lý trường Thành bởi ảnh hưởng lớn từ văn học Trung Hoa. Vậy mà mãi tới cái tuổi Ngài Khổng Tử gọi là “Ngũ thập tri thiên mệnh” cận kề, ước mơ ấy mới được thực hiện. Tôi tới Bắc Kinh lần này chỉ một mục đích là được nhìn thấy công trình được xây nên bởi kiến thức của người Việt, điều mà cho tới mãi sau này tôi mới biết và thậm trí là rất nhiều người Việt của chúng ta cũng không hề biết. Đó là Tổng công trình sư của công trình này là một người VIỆT. Tôi xin trích một đoạn từ Wikipedia về tiểu sử của Ngài Nguyễn An, Tổng công trình sư của thành Bắc Kinh. “trích dẫn: Nguyễn An (chữ Hán: 阮安, 1381-1453), còn gọi là A Lưu (chữ Hán: 阿留, tên gọi ở Trung Hoa),[1] kiến trúc sư thời xưa, người Việt. Ông cùng với Sái Tín (蔡信)[2][3], Trần Khuê (陳珪), Ngô Trung (吳中) là một trong những kiến trúc sư trưởng của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, Trung Quốc.[4] Ông cũng tham gia trị thủy hệ thống sông Hoàng Hà. Nguyễn An sinh năm Tân Dậu (1381), quê ở vùng Hà Đông (có lẽ là ở một làng nghề nào đó thuộc phía Nam trấn Sơn Tây hay Tây Bắc trấn Sơn Nam lúc đó, sau vào thời nhà Nguyễn thuộc tỉnh Hà Đông, nay thuộc địa phận thành phố Hà Nội. Khi gần 16 tuổi (khoảng năm 1397), thời vua Trần Thuận Tông nhà Trần, ông đã tham gia các hiệp thợ xây dựng cung điện ở kinh thành Thăng Long nhà Trần. Năm 1407, nhà Minh sang đánh bại nhà Hồ, chiếm được Việt Nam. Tướng nhà Minh là Trương Phụ, ngoài việc bắt cha con Hồ Quý Ly cùng toàn bộ triều đình nhà Hồ đem về Trung Quốc (Hồ Nguyên Trừng sau làm quan nhà Minh), còn tiến hành lùng bắt các thanh thiếu niên trai trẻ tuấn tú của Việt Nam mang sang Trung Hoa, chọn để hoạn làm Thái giám phục vụ trong cung vua nhà Minh. Trong số này có nhiều người sau trở nên nổi tiếng vì tài giỏi như: Nguyễn An, Phạm Hoằng, Vương Cấn,... Lúc này là những năm Vĩnh Lạc, thời vua Minh Thành Tổ Chu Đệ (1403 - 1424), ông vua này cho dời đô từ Nam Kinh lên Yên Kinh (của nhà Nguyên trước đó), đổi tên là thành Bắc Kinh và cho xây dựng lại to đẹp hơn và đúng theo ý muốn của mình. Đầu tiên vua Minh cho xây dựng tử cấm thành tức Cố Cung trước (xây từ năm 1406 đến năm 1420 thì hoàn thành). Trong số thái giám phục vụ ở cung vua, Minh Thành Tổ thấy Nguyễn An rất giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc xây dựng, lại liêm khiết hiếm thấy nên tin dùng. Kiến trúc sư trưởng Bắc Kinh Năm Vĩnh Lạc 14 (1416) theo lệnh của Minh Thành Tổ, Nguyễn An khi ấy mới ngoài 30, đã được giao trọng trách "tổng công trình sư" xây dựng thành Bắc Kinh mới (Cố Cung). Đến đời vua Minh Anh Tông thành Bắc Kinh lại được trùng tu và xây dựng bổ sung. Năm 1437, vua Minh Anh Tông giao cho bộ Công xây dựng lại kinh thành, viên Thị lang bộ Công là Sái Tín tâu xin trưng dụng 18 vạn dân phu giỏi nghề và chi tiêu tốn kém, thu mua rất nhiều vật liệu song phải đợi 5 năm xây xong; vua Minh thấy vậy liền giao cho Nguyễn An làm tổng đốc công (tổng công trình sư) trùng tu thành Bắc Kinh. Sách Kinh thành ký thắng của Dương Sĩ Kỳ viết: “ Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng. ” Minh sử quyển 304 - Liệt truyện 192 - Hoạn quan nhất chép về ông rất ngắn (sau Trịnh Hòa, Hầu Hiển, Kim Anh, Hưng An, Phạm Hoằng, Vương Cấn), nhưng có đề cập tới việc xây dựng thành trì, cung điện, các sở quan tại Bắc Kinh cũng như trị thủy như sau: 阮安有巧思,奉成祖命營北京城池宮殿及百司府廨,目量意營,悉中規制,工部奉行而已。正統時,重建三殿,治楊村河,並有功。景泰中,治張秋河,道卒,囊無十金。 (Nguyễn An hữu xảo tư, phụng Thành Tổ mệnh doanh Bắc Kinh thành trì cung điện cập bách ti phủ giải, mục lượng ý doanh, tất trúng quy chế, Công bộ phụng hành nhi dĩ. Chính Thốngthì, trùng kiến tam điện, trì Dương Thôn hà, tịnh hữu công. Cảnh Thái trung, trì Trương Thu hà, đạo tuất, nang vô thập kim). Như vậy, từ vẽ đồ án thiết kế, đào tạo nhân lực, đến chỉ đạo thi công ông đều tham gia. Công việc của ông làm chính là kết hợp nhiệm vụ của một nhà kiến trúc sư công trình, một nhà quy hoạch, một kỹ sư xây dựng lẫn một nhà quản lý dự án xây dựng, ở thời đại ngày nay. Ông xứng đáng là kiến trúc sư trưởng của thành Bắc Kinh lúc đó. Năm Chính Thống thứ hai (1437), ông xây dựng Thành nội tức là Hoàng thành (thêm hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ, và dinh thự công sở các ty), Thành ngoại với 9 cửa kinh sư: cửa Chính Dương (có 1 chính lầu và 3 gian Nguyệt thanh lâu), và các cửa: Sùng Văn, Tuyên Vũ, Triệu Dương, Phụ Thành, Đông Trực, Tây Trực, An Dinh, Đức Thắng (mỗi cửa này đều có 1 chính lầu và 1 Nguyệt thanh lâu (lầu ngắm trăng)). Công việc trên được ông chỉ huy thực hiện hoàn thành trong hơn hai năm, rút ngắn tiến độ được gần một năm, mà lại chỉ dùng hết một vạn nhân lực để thi công. Tháng 3 năm Chính Thống thứ 5 (1440), ông lại được nhà vua giao cho 7 vạn thợ và lệnh cho xây dựng và trùng tu ba điện: Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân, cùng hai cung: Càn Thanh, Khôn Ninh (hai cung, ba điện này được xây xong năm 1420, nhưng năm 1421 lại bị sét đánh hư hại). Đến tháng 10 năm sau (1441) thì công việc này xong, vua nhà Minh thưởng cho Nguyễn An: 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấn thóc và 1 vạn quan tiền. Đến tháng 10 năm Chính Thống 10 (1445), ông lại được giao xây dựng lại tường thành Bắc Kinh, vốn trước bên ngoài xây bằng gạch nhưng ở trong đắp đất nên hễ mưa là sụt. Nhà sử học Trương Tú Dân từng làm việc tại Thư viện Bắc Kinh, có điều kiện khảo cứu về Nguyễn An và đã từng sang Đài Bắc tập trung tài liệu để viết sách về Nguyễn An, nhận xét: "Từ xưa đến nay, người tốt trong hoạn quan trăm ngàn người không được một. Còn An hết lòng vì công việc, thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không có nén vàng nào trong túi, là một con người cao thượng, chỉ để lại công đầu ở Bắc Kinh. Nguyễn An là người kiệt xuất trong hoạn quan, công với quốc gia không thể phai mờ. Ngày nay tên Tam Bảo thái giám, đàn bà trẻ con đều tỏ tường, còn tên nhà đại kiến trúc Nguyễn An - A Lưu thì ngay học giả, chuyên gia ít ai hay biết. Thật bất hạnh thay. Tôi nghĩ, với An không chỉ riêng giới công trình đáng ngưỡng mộ mà thị dân Bắc Kinh cũng nên uống nước nhớ nguồn, kỷ niệm chớ quên." Từ năm 1953, các nhà sử học Việt Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Đào Duy Anh và Đặng Thai Mai lần lượt sang thăm Trung Quốc, đến Thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt Nam, trong đó có các tài liệu về Nguyễn An. Hêt trích dẫn” Trong một bài trả lời phỏng vấn của báo SGGP , Giáo sư Trần Ngọc Thêm có trả lời như sau: +++++++++ “”- PV: Thưa giáo sư, bộ phim tài liệu của CHLB Đức cho thấy Nguyễn An có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng Tử Cấm Thành. Vì sao một người tài như vậy lại lưu lạc sang Trung Quốc và được các vua Minh trọng dụng? S-TSKH TRẦN NGỌC THÊM: Theo Minh Sử, vào tháng 12 năm Bính Tuất (1406) tướng nhà Minh là Trương Phụ đem quân sang An Nam với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, giúp nhà Trần đánh nhà Hồ sau sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Trương Phụ bắt Hồ Quý Ly (Thượng hoàng) và Hồ Hán Thương (con trai thứ được Hồ Quý Ly truyền ngôi) đưa về đày ở Quảng Châu. Tháng 7 năm Đinh Hợi (1407), Trương Phụ sai tuyển chọn 9.000 người tài, có học vấn cao và 7.700 thợ giỏi đưa về Trung Quốc xây dựng kinh đô. Một số thanh niên tuấn tú, thông minh được tuyển chọn để thiến, đào tạo thành thái giám phục vụ trong cung. Trong số này có Nguyễn An. Nguyễn An sinh năm Tân Dậu (1381), quê vùng Hà Đông, nổi tiếng thần đồng là người giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc, cương nghị và liêm khiết. Năm 1397, khi chưa đầy 16 tuổi, Nguyễn An đã có mặt trong các kíp thợ xây dựng các công trình kiến trúc tuyệt tác cung điện nhà Trần (đời vua Trần Thuận Tông). Chính vì vậy, khi quyết định xây dựng Tử Cấm Thành, nghe tiếng Nguyễn An là có người tài kiến trúc lại liêm khiết, vua Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc) giao cho ông trọng trách là tổng đốc công xây dựng công trình này. - Là một người Việt Nam, khi xây dựng Tử Cấm Thành chắc hẳn Nguyễn An đã đưa những tư duy văn hóa Việt vào công trình này. Theo giáo sư thì điểm nào thể hiện điều này rõ nét nhất? Tử Cấm Thành có diện tích 72 vạn m2, gồm 800 cung và 8.886 phòng, được Nguyễn An thiết kế gồm một vòng cung hình chữ nhật bao quanh cả kinh thành. Toàn thành có 9 cổng và 3 lớp vòng thành (tam trùng thành quách). So với Nam Kinh và các kinh thành trước đó của Trung Quốc, Tử Cấm Thành có hai điểm mới. Thứ nhất, Tử Cấm Thành có hình chữ nhật trong khi các các kinh thành cũ thiết kế kiểu hình vuông, theo nguyên tắc “tiền triều, hậu thị”, tức cung điện phía trước, chợ búa phía sau. Thứ hai, Tử Cấm Thành có 3 lớp vòng thành trong khi kinh thành cũ thường chỉ có 1 đến 2 lớp. Hai sự thay đổi này được đánh giá là chịu ảnh hưởng của tư duy kiến trúc Việt Nam coi trọng số lẻ, chẳng hạn như Cổ Loa cũng có 3 vòng thành. - Không chỉ Nguyễn An, giai đoạn này nhiều người tài của Việt Nam đã bị đưa sang Trung Quốc, đúng không, thưa ông? Các vua nhà Minh đều xem Nguyễn An như một “kỳ nhân”. Bên cạnh đó, còn một số người Việt Nam khác tài giỏi cũng được sử sách công nhận như Hồ Nguyên Trừng (con trưởng của Hồ Quý Ly), Phạm Hoằng, Vương Cẩn… Hồ Nguyên Trừng là một thiên tài kỹ thuật quân sự. Chính ông đã sáng tạo nên súng thần công, được vua Minh dùng chống các đội quân xâm lược phía Bắc và phong cho ông chức Thượng thư bộ Công, coi ông là ông tổ của súng thần công Trung Quốc. Ông còn là một nhà văn với tác phẩm đặc sắc để lại cho đời là “Nam Ông mộng lục”. Còn Phạm Hoằng là người chủ trì xây dựng ngôi chùa lớn Vĩnh An tự ở Tây Nam Bắc Kinh. Vua Anh Tông nhà Minh tặng ông biệt danh “Bồng Lai Cát Sĩ”. Vương Cẩn (Trần Vũ) là thái giám giả, bị phát hiện nhưng nhờ ông rất tài giỏi nên được vua miễn tội chết, lại được ban cho cung nữ và nhiều vàng bạc… - Thưa giáo sư, ông là người 15 năm trước đây đã nhắc đến Nguyễn An trong tác phẩm “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của mình và bây giờ lại đưa những thước phim “Tử Cấm Thành - bản di chúc của một bạo chúa” lên giới thiệu trên trang web vanhoahoc.edu.vn. Theo ông, những thông tin quý như vậy tại sao chưa được nhiều người biết đến? Đúng là trong số chúng ta chưa có nhiều người biết đến một trong công lao đóng góp của Nguyễn An - những người tài giỏi Việt Nam trong những công trình để đời tại thủ đô của Trung Quốc. Mặc dù nhiều sử sách Trung Quốc thời trung đại như “Hoàng Minh thông kỷ”, “Anh Tông chính thống thực lục” hay những sách như “Kinh kỳ ký thắng” của Dương Sĩ Kỳ, “Thủy Động nhật ký” của Diệp Thanh… đều ghi nhận công lao của Nguyễn An. Nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn sống vào thế kỷ 18 (1726-1784) cũng đã viết trong cuốn “Kiến Văn tiểu lục” ca tụng tài năng và công lao của Nguyễn An trong việc xây dựng và tu tạo thành Bắc Kinh. Tại Mỹ, trong tập 7 của bộ sách lịch sử Trung Quốc do Đại học Cambridge biên soạn, trong phần viết về triều đại nhà Minh, cũng đã kể rõ vai trò của kiến trúc sư trưởng người Việt Nam là Nguyễn An trong việc xây dựng cung điện Bắc Kinh. Tuy nhiên, người Trung Quốc đời sau đã không công bằng với Nguyễn An khi cố tình lờ đi chuyện này. Sau này, có một nhà sử học đương đại Trung Quốc tên là Trương Tú Dân đã công bố trên tờ “Ích Thế báo” số ra ngày 11-11-1947 một bài báo với nhan đề: “Thị dân Bắc Kinh nên kỷ niệm Nguyễn An, người An Nam, Thái giám nhà Minh, tổng công trình sư tạo dựng lầu thành Bắc Kinh thế kỷ XV”. Trong đó, sau khi kể các công lao của Nguyễn An, ông nêu rõ: Nguyễn An sống cùng thời với Tam Bảo thái giám Trịnh Hòa (người ba lần sang Tây Dương), đều là những người kiệt xuất trong các hoạn quan, có công với quốc gia không thể phai mờ. Trong khi nói đến Trịnh Hòa, người dân Trung Quốc ai cũng rõ, còn tên của nhà đại kiến trúc Nguyễn An gốc An Nam thì ngay cả học giả, chuyên gia cũng ít ai hay biết, thật là bất công. Do đó với Nguyễn An, không chỉ giới công trình sư ngưỡng mộ mà người dân Bắc Kinh nên uống nước nhớ nguồn, tổ chức kỷ niệm ông. Gần đây, Đài truyền hình ZDK của CHLB Đức đã xây dựng bộ phim tài liệu nhan đề “Tử Cấm Thành Trung Quốc - bản di chúc của một bạo chúa” đã một lần nữa xác quyết công lao của Nguyễn An. Bộ phim đã cung cấp cho ta thêm một bằng chứng khách quan bằng hình ảnh, nó giúp chúng ta có thêm cơ sở để tiến hành vinh danh công lao của ông sòng phẳng trước lịch sử. Để rồi không chỉ chúng ta mà con cháu chúng ta cũng tự hào về những con người tinh hoa của dân tộc.”” Đón đọc phần 2
    3 likes
  2. BÀI VIẾT XÁC ĐỊNH ĐỊA LÝ LẠC VIỆT QUA THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH GHI DẤU TRÊN TỬ CẤM THÀNH BẮC KINH. CỦA GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG HOÀNG TRIỆU HẢI. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Thưa quý vị và các bạn.Hơn 20 năm chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, chính là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ với nguyên lý căn để 'Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt'. Đấy là nguyên lý lý thuyết mang tính căn để và là cái chìa khóa duy nhất để mở ra kho tàng bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền vĩ, mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch.Nguyên lý lý thuyết căn để này là một bằng chứng xác định rất quan trọng, chứng minh cho cội nguồn văn hiến Việt, nhân danh khoa học. Dù khái niệm khoa học được định nghĩa như thế nào. Bởi vì, nó phù hợp với mọi chuẩn mực thẩm định thể hiện ở những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Một trong nhưng tiêu chí quan trọng nhất - và chưa phải là duy nhất - được phát biểu như sau:'Một lý thuyết, hoặc một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, phải giải thich một cách hợp lý hầu hết mọi vấn đề liên quan đến nó, một cách có tính hệ thống, tính nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri'.Nguyên lý căn để 'Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt', hoàn toàn thỏa mãn tất cả những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Nó đã giải thích hầu hết những vấn đề liên quan đến Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương tử - trong hầu hết những di sản của nền văn minh Đông phương, gồm hầu hết những các bộ môn dự báo của Lý học Đông phương. Từ Đông y, Địa Lý phong thủy, Tử Vi và cả mọi ngành ứng dụng khác trong mọi lĩnh vực khác....Một trong những ngành ứng dụng được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt, một cách hoàn hảo nhất chính là Địa Lý phong thủy Lạc Việt. Trong đó có một phương pháp ứng dụng cụ thể, gọi là 'Thủy pháp trường sinh'.Thưa quý vị và các bạn.Thủy pháp trường sinh là một phương pháp ứng dụng cụ thể trong ngành kiến trúc xây dựng cổ Đông phương, quen gọi là Địa Lý phong thủy. Đối tượng nghiên cứu của nó là sự tương tác của các dòng Khí vận động của môi trường bên ngoài một đơn vị kiến trúc. Cụ thể trong các bản văn chữ Hán gọi là "nước" (Ngôn ngữ Hán phát âm là 'Shuẩy' - Trong tiếng Việt phát âm là 'Thủy' và phân biệt với 'Nước'. Trong tiếng Việt, hai từ này không đồng nghĩa '*').Tuy nhiên, mô hình biểu kiến mô tả phương pháp này, trong các bản văn chữ Hán, không mang tính quy luật và tính hệ thống. Nhân danh nền văn hiến Việt, trên cơ sở nguyên lý căn để 'Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt', tôi đã hiệu chỉnh lại mô hình 'Thủy Pháp trường sinh'.Một trong những tiêu chí khoa học, xác định rằng:- 'Một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thì những mô hình biểu kiến của nó, phải phản ánh một thực tại có thể quan sát được'.Thưa quý vị và các bạn.Những dòng nước chảy quanh Tử Cấm Thánh Bắc Kinh, do nhà kiến trúc thiên tài của Việt tộc là Nguyễn An, là một thực tại có thể quan sát được, đã xác định một phương pháp phù hợp với những mô hình thủy pháp nhân danh nền văn hiến Việt. Và điều này được Hoàng Triệu Hải - một cao thủ Địa Lý Lạc việt mô tả trong bài viết thực địa dưới đây.Xin hân hạnh giới thiệu.
    2 likes
  3. Anh cũng chỉ tự tìm hiểu tử vi thôi em chứ ko có học bài bản, do lá số em có phần giống lá số anh nên anh cũng hiểu đôi chút. Cung Thiên Di của em bị Tuần, anh ko biết nó thế nào nhưng Tuần nằm cung nào thì trặc trẹo đủ đường ở cung đó. Thiên di lại là cung ảnh hưởng đến chuyện xuất ngoại/định cư nước ngoài của em. Do sao chiếu mệnh là theo cả đời ko hoán giải được nên anh mới nói em cần nhờ bạn tình/chồng giúp em việc đó. Nhưng cẩn thận đề phòng bị lừa tình vì có sao Hồng Loan trong đó, đến hạn sẽ gặp bất lợi. Cung Quan Lộc thì lại bị Triệt nữa chứ, sẽ lận đận đường công danh, học hành, thành đạt. Em sinh năm 1989 mà đến 2013 mới tốt nghiệp đại học, 2016 mới được du học thì hoặc là em học bác sỹ 7 năm, còn ko thì đường học hành của em cũng nhất định có trặc trẹo (vì yếu tố chủ quan lẫn khách quan) nhưng được đi du học thì cũng là may mắn hơn người rồi. Sao Quả Tú trong cung Mệnh em làm cho chuyện tình duyên của em lận đận lắm đấy. Nhưng số phận thì đã định sẵn do ngày sinh mình ko thể lựa chọn được. Năm 31 tuổi ko chừng em sẽ gặp bạn tình mới đó, nếu đang có bạn tình thì sẽ rung động với anh chàng khác nhưng nó lại là năm tam tai vì năm Hợi kỵ tuổi nên cẩn thận đề phòng mọi chuyện tốt hơn. Muốn biết cụ thể trong vài tháng/năm thì em nên tìm thầy xem bói bài mới kỹ hơn được. Nhưng nhớ là xem bói để tham khảo để tu tâm dưỡng tánh thôi nhé, đừng quá tin thì thành mê tín là ko tốt đâu. Mệnh Tử Tướng, Quan lộc Liêm Trinh thì anh biết em là người thông minh cỡ nào rồi, trí tuệ ko hề tầm thường đâu nhưng con người mình cũng cần tu tâm dưỡng tính, sống có phúc đức thì gặp hạn mới qua được. Chúc em vui!
    1 like