• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 27/11/2018 in Bài viết

  1. Thày Thiên sứ giảng về Lịch pháp NGUỒN GỐC ÂM LỊCH - NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT. Khoa học hiện đại xác định rằng: Trên bầu trời nhìn từ trái Đất, có ba chòm sao Thiên Cực Bắc thay đổi theo chu kỳ xấp xỉ 6400 năm - Việt lịch xác định chính xác là: 6480 năm, gồm: Đại Hùng Tinh - Thiên Lang - và Vũ Tiên. Danh xưng của ba chòm sao Thiên Cực Bắc đó, chính là Phả hệ theo truyền thuyết của Việt tộc, còn lưu truyền đến ngày nay. Đó chính là các chòm sao: Vũ Tiên - Tằng tổ Mẫu của Việt tộc - Đại Hùng tinh với thời đại HÙNG VƯƠNG và con của các vua Hùng gọi LANG - ứng với chòm sao Thiên Cực Bắc tiếp theo sau chu kỳ của chòm sao Thiên Cực Bắc hiện nay, là: Thiên Lang. Truyền thuyết kể lại rằng: 1/ Kinh Dương Vương đi tuần ở Động Đình Hồ lấy tiên nữ là VŨ TIÊN, sinh ra Lạc Long Quân - Ứng với chòm sao Vũ Tiên. 2/ Tổ phụ Lạc Long Quân lấy Tổ Mẫu Âu Cơ sinh ra một cái bọc chứa 100 trứng, nở ra 100 người con trai. 50 người con theo Mẹ lên núi, người con thứ nhất lên làm Vua với danh xưng Hùng Vương thứ nhất. Ứng với chòm sao Đại Hùng Tinh. Chòm sao Thiên Cực bắc hiện nay. 3/ Danh xưng con gái của vua gọi là Mỵ Nương. Con trai gọi là Lang. Ứng với chòm sao Thiên Lang - tức chòm sao Thiên Cực bắc tiếp theo chu kỳ của chòm sao Đại Hùng Tinh. Thưa quý vị và các bạn. 1/ Hiện nay chúng ta đang ở chu kỳ lịch kiến Dần - tháng Giêng là tháng Dần. Tức đang thuộc về chòm sao Thiên Cực Bắc - Đại Hùng tinh - quản. Theo nguyên lý Dương trước Âm sau - nên tiếp theo sẽ là chòm sao Thiên Lang - con của vua Hùng quản. Tức lịch kiến Tý. 2/ Sau chu kỳ 6480 năm của chòm sao Thiên Lang, chu kỳ của các chòm sao Thiên Cực Bắc tiếp đến chòm sao Vũ Tiên - tức lịch kiến Sửu. Trong ba chu kỳ này - Kiến Tý, Kiến Sửu và kiến Dần thì có hai con giáp, là: Dần (Tháng Giêng) và Tý (Tháng Một) là thuộc Dương, ứng với danh xưng của Vua Hùng và con trai là Lang (Thuộc Dương). Tháng Sửu thuộc Âm, nên ứng với Tằng tổ Mẫu thuộc Âm. Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy rằng: Hai tháng Dương - Tý/ Dần - với một tháng Âm (Sửu) ở giữa thì đây chính là quái Ly trong Việt Dịch. Hình tượng quái Ly đã xác định một nền văn hiến Việt một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử, và là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Cả ba chu kỳ của các chòm sao Thiên cực Bắc này, kéo dài: 6480 x 3 = 19. 440 năm. Phân Âm Dương: Tức nhân 2 = 38. 880 năm. Đây chính là thời gian gấp 3/ 2 lần một Đại Vận Hội của Thái Ất - cũng được tính theo 12 con giáp. Một Đại Vận hội = 12. 960 năm. Hay nói rõ hơn: Bằng đúng một nửa thời gian trái đất quay một vòng quanh giải Ngân hà, gồm hai Đại Vận hội = 25. 920 năm. Như vậy, với 6 Đại Vận Hội sẽ tương đương hai chu kỳ của các chòm sao Thiên Cực Bắc. 12 Đại Vận Hội, sẽ tương đương bốn chu kỳ Thiên cực Bắc. Nếu mỗi chu kỳ Thiên Cực bắc được sắp thứ tự theo 12 con giáp (Chu kỳ lặp lại) - thì chúng ta tiếp tục tính đến giây /O/ của vũ trụ. Như vậy, chúng ta thấy rất rõ rằng: Khi Khổng tử xác định: "Về Lễ ta theo nhà Chu. Nhưng về lịch ta theo nhà Hạ, Vì lịch nhà Hạ phải ánh đúng chu kỳ thời tiết hiện nay (Lịch kiến Dần, mà chúng ta đang dùng)". Khoa học hiện đại, với thực chứng và thực nghiệm xác định ba chòm sao Thiên Cực Bắc và chu kỳ hơn 6000 năm của nó, đã cho thấy Khổng tử không có kiến thức tối thiểu về Thiên văn ở tầm vũ trụ. Nhưng tiếc thay! Cho đến ngày hôm nay, bao kẻ vẫn dẫn Khổng tử, như một vị Thánh tổ Nho giáo phương Đông và coi nguồn gốc lịch là từ văn minh Hán, một cách dốt nát và ngu xuẩn. Tôi đã xác định rằng: Anh chị em Địa Lý Lạc Việt, không gọi Âm lịch, mà từ nay gọi là Việt Lịch, để khẳng định nguồn gốc Âm lịch của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Anh chị em cần nhớ rằng: Sự chính xác về lịch pháp của Việt lịch - tức Âm lịch Đông phương - chính là sự mô tả chính xác một không gian tương tác có quy luật của vũ trụ, có thể tiên tri. Và hàng Thiên niên kỷ qua, tất cả thế giới Đông phương này đã tiên tri mọi sự kiện với thời gian Đông phương. Bởi chính những quy luật tương tác và trường tương tác đầy bí ẩn một cách huyền vĩ của nó. Chia sẻ với anh chị em những tri kiến thức này, hy vọng những tinh hoa của thế hệ tiếp nối, sẽ tiếp tục khám phá, chứng minh một nền văn minh huyền vĩ nhân danh nền văn hiến Việt. Cảm ơn vì đã quan tâm.
    1 like
  2. ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT TRONG QUI HOẠCH KIẾN TRÚC KINH ĐÔ HUẾ Mạnh Đại Quân - Hoàng Triệu Hải. Giám đốc TTNC LHDP. Năm 1803 Hoàng đế Gia Long sau khi lên ngôi đã cho khảo sát địa thế và tiến hành xây dựng Kinh đô Huế cho triều đại kéo dài từ 1802 – 1945. Nhiều nhà Địa Sư nói Kinh đô Huế là “Vương đảo” quả cũng không sai, bởi Kinh thành Huế được bao bọc bởi dòng sông Hương phía trước và hai nhánh là sông Kim Long và sông Bạch Yến phía sau rồi cùng hội tụ tại hạ lưu. Kinh thành Huế được thiết kế và qui hoạch kiến trúc theo truyền thống hàng ngàn năm của người Việt. Kinh đô Huế được xây dựng trong suốt 30 năm – năm 1832 hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Ngành Địa lý phong thủy của người Việt hay Trung Hoa, từ xa xưa vốn dĩ chỉ giành cho Vua Chúa, được lưu trữ và truyền lại trong Hoàng Tộc. Từ đời trước, khi Chúa Nguyễn từ Bắc vào “Đàng Trong”, đã mang theo di sản của cha ông từ “Đàng Ngoài”, và sau này Kinh thành Huế, là nơi được Hoàng Đế Gia Long áp dụng Địa lý cho qui hoạch kiến trúc cũng như Lăng mộ của chính mình. Tôi tin chắc chắn rằng: Vua Gia Long đã tiếp nối những tinh hoa của dân tộc Việt và truyền thừa những di sản của tổ tiên để lại. Và Ngài đã tiếp tục truyền lại cho đời sau, kiến thức từ công trình duy nhất còn tồn tại tới ngày hôm nay – Kinh đô Huế. Dưới góc nhìn Âm trạch thì lăng mộ của Hoàng Đế Gia Long cũng là một ẩn số, bởi cách Ngài bố trí và xây dựng khu lăng mộ này, để triều Nguyễn là Một trong những vương triều trị vị lâu nhất trong lịch sử Việt nam. Lăng mộ hiện nay, theo quan điểm riêng của tôi là mộ gió, tức là phần hài cốt được táng ở một nơi bí mật. Câu chuyện bắt đầu từ ngày tôi được đọc bài viết về Địa lý phong thủy Lăng Mộ của Hoàng Đế Gia Long. Nó cuốn hút tôi bởi những bí ẩn, mà những người theo đuổi bộ môn này đều muốn khám phá. Tôi ước sớm có thể quay trở lại Huế chỉ với một mục đích: Tìm hiểu về ứng dụng Địa lý của người Việt, vẫn còn được lưu lại trên Kinh đô Huế. Thật nhanh chóng chỉ sau đó 1 tuần, cơ duyên cho tôi được toại nguyện. Với sự giúp đỡ của những nhà nghiên cứu tại Huế, tôi được nghe kể và đưa tới những địa điểm mang dấu ấn của Hoàng Đế Gia Long: Lăng Mộ, Đàn tế Nam giao, Đại Nội. Tôi được quay lại các địa điểm Lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, Lăng Khải Định, đồi Vọng Cảnh và mỗi một nơi tôi đều được kể về lịch sử cũng như các câu chuyện của những nhà nghiên cứu văn hóa Huế. Nhìn bản đồ và hình ảnh từ vệ tinh của Kinh đô Huế, chúng ta cũng chưa nhận ra hết được sự đặc biệt của kiến trúc và qui hoạch, dưới góc nhìn Địa lý phong thủy. Phải nói rằng, Kinh đô Huế đã mang lại cho tôi hết bất ngờ này tới bất ngờ khác, liên quan đến sự huyền vĩ của nền văn hiến Việt cho chuyên ngành Địa Lý phong thủy. Hướng của Kinh đô Huế được xác định là hướng của Đại Nội, nơi được coi là trung tâm đầu não của Kinh đô Huế. Hướng của cổng Ngọ Môn và Đại Nội là 142 độ: Tức tọa phương Càn, hướng phương Khôn (theo Lý học Lạc Việt đổi chỗ Tốn/ Tây nam – Khôn đông nam), với nguyên lý căn để là "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ', do nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ phát hiện và làm cơ sở cho việc chứng minh cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Mô tả chính xác là Đại Nội Huế tọa Hợi (Tây Bắc), Hướng Tỵ (Đông Nam), kiêm hướng 4 độ. Bản đồ của người Pháp vẽ đầu thế kỷ thứ 19 cũng mô tả chính xác hướng trục Bắc - Nam theo đúng hướng Bắc của la kinh Toàn bộ Kinh thành Huế, được xây dựng mô tả theo 24 Sơn và Thủy pháp cực kì chuẩn và được mô tả trong hình dưới đây. Sau khi phân cung, chúng ta sẽ dễ hiểu vì sao tường hào bao quanh Kinh thành lại có những góc nhô ra và lượn vào như vậy. Và vì sao, lại có khu Mang Cá, khu vực được thiết kế như chiếc Vương Miện của Hoàng Đế. Kinh đô Huế được sử dụng Địa lý phong thủy Tam hợp , trong đó lấy trục Tây Bắc-Đông Nam là trục Đế Vương. Xin được bạn đọc quan tâm lưu ý rằng: Chỉ có Địa lý Lạc Việt, sau khi đổi chỗ Tốn - Khôn với nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" thì mới có hai trục được gọi là Phúc Đức, Bao gồm trục Bắc-Nam và Tây Bắc – Đông Nam. Trong Địa Lý phong thủy Tàu, chỉ có duy nhất một trục Bắc (Khảm)/ Nam (Ly) là Phúc Đức trạch; Còn trục Đông Bắc (Cấn) / Tây Nam - Theo Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc thư là Khôn - chỉ là Sinh Khí trạch. Trên cơ sở đó, toàn bộ các căn nhà bên trong kinh thành sẽ được lấy theo hướng Trường Sinh của Tứ Đại Cục: Kim – Mộc - Thủy - Hỏa là các sơn Dần - Thân - Tị - Hợi , Cấn - Khôn -Tốn - Càn. Toàn bộ kinh thành là Thủy Cục và Thủy pháp là hệ thống Sông, Hồ nhân tạo cực kỳ chuẩn xác. Chúng ta dễ dàng nhận thấy: khi phân cung và định vị theo Địa Lý Lạc Việt, việc thiết kế khu vực Mang Cá chính là nơi toàn bộ nước được hội tụ về đây, trước khi chảy thoát ra ở phương SUY . Phần sông Ngự Hà chạy thành nửa hình chữ nhật , toàn bộ nằm trong khu Trường Sinh và Đế Vượng , thoát ra ở Suy – Bệnh. Tôi sử dụng phần mềm phân cung - và nếu theo lý thuyết phong thủy từ cổ thư chữ Hán, thì việc bố trí ta thấy đã nằm ngoài thủy pháp trường sinh của Kinh đô Huế. Khi đã sai lệch - giữa Địa Lý Phong Thủy Việt và sách Địa Lý Phong thủy Hán - thì không thể trấn yểm để phá hoại! Quả thật quá cao siêu! Đoạn sau đây, trích từ bài để bạn đọc tham khảo: Toàn bộ hệ thống hồ nước, sông được đào khi xây dựng Kinh thành Huế, đều được bố trí rất chuẩn xác tại các Sơn theo bố cục Loan Đầu tự nhiên của Huế. Bí ẩn ở chỗ, rất nhiều hồ được đặt đủ vào các sơn Canh- Dậu-Tân, Tuất-Càn- Hợi, Nhâm- Tí- Quí. Hình dưới đây được mô tả theo Địa Lý phong thủy Tàu, phân cung và lấy Trường Sinh theo phương pháp từ cổ thư chữ Hán, là tọa Càn, hướng Tốn (Đông Nam - theo "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư" , tứ cổ thư chữ Han). Các bạn cũng thấy sự sai lệch giữa Thủy Pháp Việt và sách Hán. Hình dưới đây. mô tà sự trùng hợp giữa Cung điện mang tên "Trường Sinh" trong Đại Nội, cũng chính là vị trí Trường Sinh của kinh Đô Huế. Hình mô tả trong Đại Nội có cung Trường Sanh, đó chính là vị trí Trường Sinh của Kinh Đô Huế. Tôi không có đủ thời gian để khảo sát dòng chảy các con sông quanh Kinh thành Huế. Nhưng theo bố cục này thì tôi có nhận định dòng chảy như sau: Tôi mong rằng sẽ có người nghiên cứu dòng chảy của Huế xác nhận thông tin này. Từ những thông tin tìm được từ Kinh thành Huế , tôi xác định rằng: nơi đây chính là di sản bảo tồn những lý thuyết và phương pháp Địa lý phong thủy của dân tộc Việt. (Địa Lý Lạc Việt). Và cũng là nơi xác định tính chính xác của của nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" (đổi chỗ Tốn-Khôn). Khả năng rất cao là phương pháp này, cũng đã được áp dụng cho phong thủy của Tử Cấm Thành - công trình do Ông Nguyễn An người Việt thiết kế xây dựng. (còn tiếp) Hà Nội mùng 10 tháng 3 năm Mậu Tuất -Việt Lịch
    1 like
  3. LỜI GIỚI THIỆU BÀI VIẾT CỦA HOÀNG TRIỆU HẢI. THƯA CÁC NHÀ KHOA HỌC, CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU. THƯA CÁC BẠN VÀ ANH CHỊ EM. Từ hai mươi năm nay, bằng sự phục hồi một hệ thống lý thuyết cổ xưa, nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã tha thiết trình bày về những giá trị của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương với tất cả những ai quan tâm đến những gía trị văn hóa của nhân loại. Nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã xác định một nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" và phủ nhận nguyên lý "Hậu thiên Văn Vương phối Lạc thư", vốn được coi là thuộc nền văn hóa Hán. Nhưng, sự phức tạp của một hệ thống lý thuyết huyền vĩ - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - mà toàn thể nền văn minh nhân loại hiện nay, đang mới chỉ dừng lại ở sự mơ ước. Tất nhiên, tôi rất hiểu rằng: sự tiếp nhận một quan niệm mới - trong khi suốt lịch sử của văn minh nhân loại, con người đã chấp vào một định kiến: nền văn minh Đông phương có xuất xứ từ Hán tộc - là một việc cực kỳ khó khăn. Huống chi, đó lại là một hệ thống lý thuyết - sản phẩm của cả một nền văn minh - tức sản phẩm của một hệ thống tư duy phức hợp, lại càng khó khăn hơn. Khi chính khái niệm "tư duy phức hợp", cũng mới chỉ manh nha xuất hiện trong nền văn minh hiện đại. Cho nên, cá nhân tôi chia sẻ và thông cảm với sự chưa tiếp thu được của không ít những học giả, đã lên tiếng phản bác. Nhưng với những con người cầu tiến và thông minh - những người không bị tính cố chấp với một tâm hồn và tư duy khoáng đạt, đã tiếp thu được những giá trị của nền văn hiến Lạc Việt. Bài nghiên cứu về "Địa Lý phong thủy kinh thành Huế" dưới đây của Hoàng Triều Hải, một nhà nghiên cứu về Lý Học Việt xuất sắc của Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương, và là Giám đốc của Trung Tâm này. Qua công trình nghiên cứu của anh, chúng ta một lần nữa xác đinh chắc chắn bằng thực chứng, về sự hợp lý toàn diện của hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - nhân danh nền văn hiến Việt - với nguyên lý căn để "Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ", trong việc xây dựng Kinh Đô Huế. Đây là một dẫn chứng tuyệt vời và rất trực quan, rất dễ hiểu, cho những ai còn hoài nghi những gía trị văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nên văn minh Đông phương. Xin cảm ơn vì sự quan tâm và chia sẻ của các bạn. Ta về giữa cõi vô thường. Đào trong kỷ niệm, tìm hương cuối mùa. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
    1 like
  4. HỒ THỦY SINH TRONG PHONG THỦY NGÔI GIA DƯỚI GÓC NHÌN TỪ ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT PHẦN 2: BỐ CỤC HỒ THỦY SINH TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT Tác giả: Longphibaccai – Nguyễn Quốc Duy Thành viên nghiên cứu Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương Hướng dẫn: Thầy Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh Thay vì một ngôi gia khô khan với những đồ vật vô tri vô giác, sao ta không thiết kế hồ thủy sinh với khung cảnh thiên nhiên hài hòa trong ngôi gia của mình để ngôi gia trở nên sinh động? Hồ thủy sinh này nhỏ bé thôi Có cây có cỏ nắng chơi vơi Có đàn cá nhỏ tung tăng lội Có tâm hồn mình trong thú chơi. Thú chơi hồ thủy sinh ở Việt Nam chỉ mới phát triển hơn chục năm đổ lại đây, nhưng nó đã tạo nên một phong trào làm say đắm bao người với mong muốn đưa thiên nhiên vào ngôi nhà của mình, tăng sinh khí cho ngôi gia. Thú chơi nghệ thuật này được biết đến từ xứ sở hoa anh đào Nhật Bản với bậc thầy thủy sinh Takashi Amano(1), ông đã qua đời vào năm 2015 để lại bao tiếc nuối cho những người hâm mộ. Takashi Amano đã từng nói: “Rất khó giải thích, mô tả bằng lời về ảnh hưởng của Thiền trong nghệ thuật tạo thủy sinh cảnh. Khi sắp đặt bố cục thủy sinh cảnh, không chỉ đơn thuần là ta tái tạo - sao chép một sinh cảnh nào đó, mà là sáng tác, gợi được cảm xúc cho người xem. Nó là một môn nghệ thuật sinh động mà hồ kính được ví như khung lụa để vẽ tranh và người chơi đóng vai trò của một họa sĩ sáng tác. Hồ thủy sinh là tác phẩm mang phong cách tự nhiên hay phong cách ấn tượng như trong hội họa.” Ở Việt Nam, thú chơi này đã trở thành một thú vui tao nhã trong cuộc sống thị thành, từ một cậu bé, một cô bé cấp một được bố mẹ mua cho một bể cá với vài con cá và vài chậu cây thủy sinh nho nhỏ để giúp em biết yêu thiên nhiên, cây cỏ và động vật nhằm thỏa mãn niềm đam mê, đến những chú bác lớn tuổi với nhiều năm theo đuổi thú vui này. Dù họ có ít hay nhiều điều kiện thì đều có chung suy nghĩ là tìm thấy sự thư giãn, thoải mái tinh thần, thích thú khi nhìn vào hồ thủy sau một ngày học tập và làm việc căng thẳng. Đại thi hào Nguyễn Du có câu: "Nghề chơi cũng lắm công phu, Làng chơi ta phải biết cho đủ điều”. Dù bạn đam mê thú chơi gì: chơi chim, chơi hoa, chơi cây cảnh… hay chơi thủy sinh thì cũng đều cần có sự tỉ mẫn, kiên trì và óc sáng tạo. Đòi hỏi các Thủy Sinh Gia (Aquascaper) và người chơi luôn phải nghiên cứu, mày mò và tìm kiếm những loài động thực vật mới, họ có thể nhập khẩu từ nước ngoài về hoặc lặn lội từ ao, hồ lên đến rừng núi trong nước để thu thập bổ sung cho vốn kiến thức và thú chơi thủy sinh của mình, với mục đích cuối cùng là thiết kế cho mình một hồ thủy sinh ưng ý, với một bố cục đã lên kế hoạch từ trước đó. Trong phần một người viết đã trình bày “Sự tác động và vị trí đặt hồ thủy sinh” trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt. Trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt thì hồ thủy sinh là nơi tụ khí và truyền sinh khí trong ngôi gia, nên đặt hồ ở đâu cũng được. Nhưng ở những vị trí khác nhau, sẽ có những tương tác khác nhau. Đặt ở nơi mộ khí thì sẽ có tác dụng xua tan âm khí; đặt ở nơi sinh khí thì tốt cho sức khỏe; đặt ở nợi vượng khí thì tốt hơn nữa với điều kiện trong nhà phải thoát khí tốt. Còn ở phần này thì nói đến sự sắp xếp, xây dựng bố cục hồ thủy sinh theo Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt. Để có một bố cục đẹp tương đối khó khăn, vì động thực vật phục vụ cho thú chơi này khá đa dạng, mỗi loại có một đặc điểm riêng, quá trình sinh trưởng, phát triển và kết thúc chu kỳ sống cũng khác nhau theo quy luật vận hành của tự nhiên và vũ trụ. Trong Địa Lý Phong thủy Lạc Việt được phục hồi trên cơ sở tiêu chí khoa học đã xác định rằng: “Qui luật tương tác là yếu tố căn bản hình thành nên phương pháp ứng dụng của Phong thủy, và không có tính quy luật thì không có khả năng tiên tri”. Trên cơ sở nguyên lý “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, thầy Phong Thủy giỏi có thể dự báo phần nào tính cách, ảnh hưởng từ quá khứ, hiện tại và tương lai của gia chủ theo phong cách hồ thủy sinh mà gia chủ thiết kế cho ngôi nhà mình. Dù bạn là ai, dù bạn chơi thủy sinh theo trường phái hay phong cách nào: phong cách Iwagumi Nhật Bản (bố cục đá), phong cách Hà Lan, phong cách rừng rậm hay phong cách Biotope (2)…thì bạn vẫn không thoát được những quy luật vận động, tương tác của vũ trụ. Vậy bố cục hồ thủy sinh như thế nào là phù hợp theo Phong Thủy? Sau đây là một số tiêu chí cơ bản khi xây dựng bố cục hồ thủy sinh trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt: 1. Loại hồ và kích thước hồ: Để đảm bảo hồ thủy sinh cân đối với ngôi gia, nên lựa chọn kích thước hồ phù hợp, vừa phải và có tính thẩm mỹ. Hồ thủy sinh nên làm hồ kính không kiềng, mài vi tính, dán dấu keo trắng với hình dạng vuông, tròn hoặc hình chữ nhật. Dung tích càng lớn thì kính làm hồ sẽ càng dày để đảm bảo sức chứa một lượng nước phù hợp. Loại hồ này vừa đảm bảo an toàn, vừa đảm bảo về mặt thẩm mỹ. Không nên chọn những hồ có kiềng, phản chiếu như gương vì những loại hồ như vậy sẽ phản chiếu những bức xạ không tốt ảnh hưởng đến sức khỏe đối với những người sống trong ngôi gia đó. Một số kích thước tốt cơ bản của hồ thủy sinh trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt: 2. Ý nghĩa, chủ đề của bố cục: Trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt thì ý nghĩa, chủ đề của bố cục đối với hồ thủy sinh khá quan trọng, nó thể hiện nhân sinh quan trong cuộc sống của một gia chủ, của một vùng đất và rộng lớn hơn là có thể dự báo một phần tình hình kinh tế xã hội của thế giới. Thủy sinh gia hay người chơi có thể chọn cho mình một chủ đề hay một phong cách trang trí hồ thủy sinh mà mình thích để lên ý tưởng cho bố cục: phong cách Bonsai, phong cách hồ Hà Lan, phong cách cảnh thiên nhiên, phong cách ADA… nhưng dù chơi theo phong cách nào thì nên chọn chủ đề toát lên được những ý nghĩa hay, những hình ảnh tươi đẹp trong cuộc sống, tránh thiết kế những bố cục đá núi lưởm chởm và rừng rậm âm u sẽ nói trong phần dưới đây. 3. Tọa sơn hướng thủy, tả thanh long hữu bạch hổ: Trong bố cục hồ thủy sinh việc xắp xếp bố cục hài hòa, cân đối khá quan trọng, đôi khi có những nét phá cách nhưng phá cách không đúng có thể tạo nên những thế sát, thế xấu trong bố cục hồ. Vậy trước tiên xây dựng bố cục hồ như thế nào? Nên thiết kế bố cục phía trước thấp, phía sau cao dần lên theo thế “tọa sơn hướng thủy” hay “tiền cái hậu đê”. Phía trước thấp có thể ta thiết kế con đường, dòng suối, cây thủy sinh tầm thấp… ở phía sau thì nâng nền đất dần cao lên, sử dụng những cây thủy sinh thân dài, có dáng cao. Bên cạnh đó, đối với bố cục phía trước hồ thấp ta có thể tạo hình với thế đất bằng phẳng hoặc bên phải có thể thiết kế thấp hơn so với bên trái theo thế “tả thanh long hữu bạch hổ”, như: một bãi đất bằng phẳng, một sườn núi, một ngọn dốc đổ xuống thoai thoải từ trái qua phải, hoặc có thể đó là một bãi cỏ xanh tươi mơn mởn với cách bố trí cây cao dần về phía bên trái, và thấp dần về phía bên phải… Bố cục hồ phía sau có thể tạo thế như bao quanh và ôm vòng bố cục hồ phía trước, tạo thành thế bao bọc, chở che. 4. Bố cục hài hòa cân đối theo tỷ lệ vàng hoặc tỷ lệ một phần ba: Tỷ lệ vàng trong tự nhiên mang lại một nét đẹp hài hòa, cân đối. Con người đã đưa tỷ lệ thần thánh của tự nhiên này vào cuộc sống và được ứng dụng nhiều trong kiến trúc, mỹ thuật, trang trí, hội họa, nhiếp ảnh…Khi tính tỷ lệ vàng của hồ thủy sinh ta lấy kích thước hồ với chiều dài (“a”+”b”) chia cho 2,618 từ đó ta đo ngang từ cạnh bên vào được khoảng cách “b” như hình trên, thì khoảng cảnh còn lại là “a”, tương tự như vậy đối với các kích thước nhỏ hơn của bể. Tại những vị trí thích hợp (điểm nhấn) ta có thể bố trí một cây cổ thụ, một khúc lũa, hay một ngọn đồi đầy cỏ… Ngoài ra, cũng có thể sử dụng tỷ lệ 1/3 trong nhiếp ảnh để bố trí bố cục trong hồ thủy sinh nhằm tạo chiều sâu, tạo ấn tượng bằng cách tạo ra 2 đường chiều ngang và hai đường thẳng đứng đều nhau, chủ thể sẽ được đặt trên các đường lưới hoặc trên các điểm giao nhau này. Thiết kế bố cục hợp lý theo tỷ lệ vàng hoặc 1/3 sẽ tạo nên sự cuốn hút bố cục và có sức hấp dẫn đối với người xem. 5. Động thực vật, hình dạng đá, lũa sử dụng: Nhờ sự tiến bộ của khoa học hiện đại, những loài động thực vật trước đây gọi là quý hiếm thì hiện nay đã được nhân giống đại trà với sự đa dạng và phong phú. Điều này cũng khiến người chơi cân nhắc, đắn đo, suy nghĩ nhiều hơn, nên chọn loại nào là phù hợp mà không ảnh hưởng xấu đến động thực vật trong hồ. Trong Phong Thủy Lạc Việt mỗi loài động thực vật, đá, lũa đều có sự tương tác đến hồ thủy sinh và đến ngôi gia. Vậy lựa chọn như thế nào? a. Tùy kích thước hồ lớn hay nhỏ thì tính số lượng và chọn những loài động vật thủy sinh hiền lành không gây hại cho động thực vật và bố cục của hồ: - Trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt để tính số lượng cá/tôm/tép nuôi thì phối hợp với thuộc tính ngũ hành của Hà Đồ để biết tốt xấu: * Số 1 và 6: thuộc hành Thủy, tăng cường Thủy khí, vượng tài, tốt * Số 2 và 7: thuộc hành Hỏa, hao tổn Thủy khí, không tốt * Số 3 và 8: thuộc hành Mộc, làm giảm Thủy khí, bất lợi * Số 4 và 9: thuộc hành Kim, làm vượng Thủy khí, tốt tài lộc. * Số 5 và 10: thuộc hành Thổ, khắc chế Thủy khí, bất lợi. Vì thủy vi tài nên nuôi số lượng động vật nuôi như sau: 1/4/6/9/11/14/16/19/21/24/26/29… sẽ giúp tài vận tốt hơn. - Tùy vào vị trí đặt hồ thủy sinh thì ta chọn màu cá phù hợp: * Nếu hồ đặt ở phía Nam/Đông Nam thì nên chọn những loài động vật có màu đỏ/hồng/cam/vàng. * Nếu hồ đặt ở phía Bắc/Tây Bắc thì nên chọn những loài động vật có màu xanh nước biển/xanh da trời. * Nếu hồ đặt ở phía Tây/Tây Nam thì nên chọn những loài động vật có màu trắng/bạc. * Nếu hồ đặt ở phía Đông/Đông Bắc thì nên chọn những loài động vật có màu xanh lá cây/xanh da trời/hồng nhạt. - Các loại cá phù hợp cho bể thủy sinh: cá neon, cá trâm, cá galaxy, cá diếc anh đào, cá tỳ bà, cá bống panda… b. Nên chọn những loài thực vật tươi tắn, xinh xắn, màu xanh, đỏ, tím, trắng, hồng, cành lá xum xuê, vươn lên: trân châu ngọc trai, trân châu cuba, ráy nana petite, bupcep, tân đế tài hồng, liễu răng cưa, dương xỉ trident, dương xỉ lá kim, dương xỉ lá nho, diệp tài hồng, rong bảo tháp, rong la hán, vẩy ốc, muỗng xanh … c. Nếu có sử dụng đá trong hồ thủy sinh nên chọn loại đá có hình tròn màu nâu, vàng, trắng, hồng. Hạn chế sử dụng những loại đá màu đen, đỏ với số lượng nhiều và những loại đá có hình thù sắc nhọn. Không nên thiết kế bố cục hồ nhiều âm khí, sát khí, hình ảnh rùng rợn, bố cục với núi đá, đá nhọn lởm chởm và đặc biệt là các loại đá có màu đen: Đá tiger, đá da voi, đá tai mèo, đá Phan Thiết… d. Tùy theo bố cục mà thủy sinh gia, người chơi muốn thực hiện thì chọn những loại lũa phù hợp: lũa linh sam, lũa đỗ quyên, lũa xương chùm... nhưng tốt hơn thì tạo thành các cây thế truyền thống của Việt Nam(3) (khác với bon-sai): thế phụ tử, thế mẫu tử, thế bạt phong hồi đầu, thế huyền chi lạc địa, thế tiều phu quải tử, hay thế phụ tử giao chi… là những thế cây chuyển tải những chuẩn mực đạo lý làm người của dân tộc đã được gìn giữ và vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử. Dù cây thế như thế nào thì gốc, tán cây phía dưới to hơn cành và tán cây phía trên, càng lên cao càng nhỏ gọn lại theo quy luật của tự nhiên như câu ca dao sau: “Cây có gốc mới trổ nhành xanh ngọn, Nước có nguồn mới biển rộng, sông sâu. Người ta nguồn gốc từ đâu ? Tổ tiên có trước, rồi sau có mình.” 6. Chính thần hạ thủy và những vật có hình thù không tốt: Không nên thiết kế bố cục hồ thủy sinh có những tượng thần, phật, xương người, đầu lâu, những hình thù quái dị, ghê rợn…vì sẽ ảnh hưởng xấu đến tình cảm, sự nghiệp và gia đạo của những người sống trong ngôi gia có hồ thủy sinh đó. 7. Nguồn nước: Đối với một hồ thủy sinh, nguồn nước khá quan trọng vì nó quyết định động thực vật trong hồ sẽ tốt tươi hay phát triển kém, bị rêu hại. Trong các loại hồ thủy sinh thì hồ theo phong cách Biotop(2) cổ điển không tốt theo Phong Thủy, nếu chơi theo phong cách Biotop thì đáy hồ thường sẽ có những lá cây mục nát, không có hoặc ít có cây thủy sinh, nguồn nước có màu vàng, và đôi khi có nhiều rêu hại. Hồ thủy sinh theo phong cách này thể hiện sự khô khan, ảm đảm và thiếu sức sống. Nói về nguồn nước thì trong sách “Vân đoài loại ngữ”, nhà bác học Lê Quý Đôn có viết: “Người ở chỗ nuớc trong thì tiếng nói nhỏ nhẹ, người ở chỗ nuớc đục thì có tiếng nói to. Người ở chỗ nuớc chảy xiết thì nhẹ nhàng, người ở chỗ nuớc chảy chậm thì nặng nề”. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng nguồn nước rất quan trọng. Trong một nghiên cứu của Tiến sĩ Masaru Emoto, giám đốc Viện Hado (tổ chức IHM) ở Tokyo, Nhật Bản, và nhóm nghiên cứu của ông đã phát hiện ra những tinh thể hình thành từ nước đóng băng có khả năng thay đổi để biểu lộ những suy nghĩ đặc biệt và tập trung hướng về chúng. Ông phát hiện ra rằng nước từ những dòng suối trong sạch và nước được tiếp xúc với những ngôn từ đáng yêu hiển thị những hình mẫu rực rỡ, phức tạp và dạng bông tuyết đầy sắc màu. Ngược lại, nước ô nhiễm, hay nước tiếp xúc với những suy nghĩ tiêu cực, hình thành những hình mẫu thiếu hoàn chỉnh, bất đối xứng có màu sắc mờ tối. Vì vậy, nước trong hồ thủy sinh phải trong, sạch, có thể thay nước định kỳ ít nhất 1 tháng/lần. Nguồn nước chảy vừa phải, nhẹ nhàng, êm dịu, không mạnh, cũng không yếu và phù hợp với thể tích của hồ là tốt nhất. Để tạo nên một bố cục hồ thủy sinh vừa phù hợp theo tiêu chí trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt vừa mang tính thẩm mỹ đòi hỏi người chơi, thủy sinh gia phải thường xuyên trau dồi kiến thức và tăng cường khả năng sáng tạo. Dù bạn thiết kế hồ thủy sinh như thế nào thì mục đích cuối cùng khi hoàn thành bố cục của một hồ thủy sinh đều thể hiện những ý nghĩa và vẻ đẹp trong trong cuộc sống, có như vậy sẽ giúp Phong Thủy trong ngôi gia của bạn trở nên tốt đẹp hơn. Dù bạn là ai, dù bạn chơi thủy sinh theo trường phái, phong cách nào thì bạn vẫn không thoát khỏi những quy luật vận động, tương tác của vũ trụ. Tp.HCM, ngày 09 tháng 01 năm Mậu Tuất. Ghi chú: (1): Takashi Amano đã viết rất nhiều cuốn sách về Thủy sinh, ông đã tạo ra một trường phái thủy sinh đặc trưng mà khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ và học theo. Phong cách của ông sử dụng các kinh nghiệm làm vườn và bố cục sếp đá Zen của Nhật Bản. Mỗi tác phẩm của ông như tái hiện lại một không gian thật trong tự nhiên mà ông khám phá ra. Ông ghi lại những hình ảnh thực ngoài tự nhiên, nghiên cứu kỹ địa hình, thực vật rồi sau đó đưa tất cả vào một không gian thu gọn trong bể kính. Ông sử dụng các cây thủy sinh, rêu, ráy để tạo ra môi trường thực vật và cá thủy sinh, tép (tôm) để kiểm soát tảo và tạo ra hệ động vật tự nhiên. Còn gọi là phong cách và ý tưởng của hồ thuỷ sinh theo trường phái thiên nhiên (Nature Aquarium) (2): Biotope là phong cách hồ thủy sinh/cá cảnh mà sắp xếp đá lũa theo hình thức mô phỏng khung cảnh dưới nước (thường là dưới một đoạn suối, một dòng sông, một phần hồ tự nhiên) mà gần như không có sự hiện diện của cây thủy sinh. (3): Cây Thế Việt Nam: Nghệ thuật – kỹ thuật và đạo chơi. XNB Văn Hóa Dân Tộc Hình ảnh: Nguồn internet Tư liệu tham khảo: Minh Triết Việt Trong Văn Minh Đông Phương – Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Xuất bản: 2014 http://lyhocdongphuong.org.vn http://thuysinh.nghiahoang.com/tinh-than-sir-takashi-amano-se-con-song-mai/ http://cacanh.vn/s11-thuy-sinh/be-thuy-sinh/90-cach-bo-cuc-ho-ca-thuy-sinh.html http://dkn.tv/khoa-hoc-cong-nghe/bi-an-ti-le-vang-%D1%84-mat-ma-cua-vu-tru-p2.html http://forum.caycanhvietnam.com/diendan/showthread.php?t=32921 http://saigonaqua.com http://phukienthuysinh.com http://vinhaqua.com http://ssjjtt.com http://gizmodo.com.au http://sciencedaily.com
    1 like
  5. HỒ THỦY SINH TRONG PHONG THỦY NGÔI GIA DƯỚI GÓC NHÌN TỪ ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT PHẦN 1: SỰ TÁC ĐỘNG VÀ VỊ TRÍ ĐẶT HỒ THỦY SINH Tác giả: Longphibaccai – Nguyễn Quốc Duy Thành viên nghiên cứu Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương Hướng dẫn: Thầy Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh Ngày nay, phong trào chơi hồ thủy sinh trở nên khá phổ biến và trở thành niềm đam mê của nhiều người, từ một anh doanh nhân giàu có cho đến một cô bé học sinh trung học cơ sở… Thú chơi hồ thủy sinh còn đòi hỏi người chơi thể hiện sự sáng tạo và chinh phục những đỉnh cao mới. Từ việc đưa khung cảnh thiên nhiên, những nét đẹp bình dị của làng quê, sông núi, rừng già, đáy biển vào hồ cho đến việc nuôi những động vật thủy sinh khó nuôi, đòi hỏi cao về chất lượng môi trường nước và nhiệt độ. Thú chơi hồ thủy sinh là vậy, nhưng nhiều người vẫn có thắc mắc hồ thủy sinh có ảnh hưởng hay tác động như thế nào đến ngôi nhà của mình, tốt xấu ra sao, hay người mệnh Hỏa có chơi hồ thủy sinh được không và đặt tại vị trí nào là tốt? 1. Hồ thủy sinh tác động như thế nào đến ngôi gia? Hồ thủy sinh ngoài việc giúp cho những người trong nhà có cảm giác thư giãn, giảm stress sau một ngày làm việc căng thẳng, còn có tác dụng tốt trong Phong Thủy ngôi gia. Cổ nhân có câu: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc” - Núi thì quản người, nước thì quản tài lộc và tạo sinh khí. Đối với không gian lớn như quán café, quán ăn, nhà hàng, khách sạn lớn … Nhiều Phong Thủy Gia đã dụng Thủy Pháp là các thác nước, các hồ nước, hồ nuôi cá cảnh lớn ngoài trời, và đối với không gian nhỏ hơn là trong gia đình, quán café, các quán ăn nhỏ là các hồ cá, hồ thủy sinh trong nhà … Ngoài việc làm đẹp cảnh quan, hồ thủy sinh còn có mục đích là chiêu tài tụ khí giúp cơ sở kinh doanh phát triển, tăng sự thịnh vượng của ngôi gia. 2. Người mạng Hỏa có nên chơi hồ thủy sinh? . Nên đối với những người mệnh Hỏa hay bất cứ mệnh gì trong ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Thổ) đều có thể chơi hồ thủy sinh trong ngôi gia của mình, vì mạng chỉ là sự phân loại trong Ngũ hành.có khả năng giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó, có tính hệ thống, nhất quán, hoàn chỉnh, tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri (1) Thuyết Âm Dương Ngũ Hành là một học thuyếtTheo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5.000 năm, đã xác định rằng: 3. Hồ thủy sinh đặt tại vị trí nào là tốt? … Về nguyên tắc thì đặt hồ ở đâu trong nhà cũng được với điều kiện là ngôi gia phải tụ khí thì hồ thủy sinh mới phát huy hiệu quả của nó. Nhưng ở những vị trí khác nhau, sẽ có những tác động tốt xấu khác nhau. Đặt ở nơi mộ khí thì sẽ có tác dụng xua tan Âm khí. Ở nơi sinh khí và vượng khí có tác dụng kích hoạt sinh khí tốt, có lợi cho sức khỏe, nhưng trong nhà phải thoát khí tốt và hồ thủy sinh đặt trong nhà phải hài hòa, cân đối.(2)Trong Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt thì hồ thủy sinh là nơi tụ khí và luân chuyển sinh khí trong nhà, khí do hồ thủy sinh sinh ra là Âm khí, hồ thủy sinh có tác dụng kích hoạt sinh khí có lợi cho sức khỏe, kích hoạt tài lộc a. Các vị trí tốt đặt hồ thủy sinh: - Có thể đặt hồ thủy sinh tại vị trí hướng Bắc (cung Khảm), hướng Đông (cung Chấn) hoặc hướng Đông Nam (cung Khôn (3)) của ngôi gia sao cho phù hợp. Hướng Bắc thuộc cung Sự Nghiệp, tượng trưng cho sự vững bền, thuận lợi và thăng tiến trong công việc. Hướng Đông thuộc cung Sức Khỏe, Gia Đình, tượng trưng cho sinh lực, sự tươi trẻ, tình cảm và hạnh phúc gia đình. Hướng Đông Nam thuộc cung Phú Quý, tượng trưng cho tài lộc, sự sung túc, của ăn của để trong nhà… Đồ hình "Bát cung hóa khí" theo Địa Lý Phong Thủy Lạc Việt. - Đối với các căn hộ chung cư có cửa ra vào đối xung với nhau, cửa chính đối xung với cửa thang máy, cầu thang chung cư đâm vào nhà thì ta có thể đặt một hồ thủy sinh để tránh xung sát khí. - Đối với nhà có các cửa thẳng hàng (cửa trước thẳng hàng với các cửa sau) thì ta đặt hồ thủy sinh để hóa giải xuyên tâm sát tác động xấu đến ngôi gia. - Đối với nhà nằm ngay ngã ba có con đường phía trước đâm thẳng vào nhà, tùy vị trí thích hợp có thể đặt một hồ thủy sinh ở phòng khách để hạn chế xung sát khí đâm vào nhà. - Hồ thủy sinh có thể đặt ở phòng bếp nhưng không được đối xung với bếp vì Thủy Hỏa tương khắc. - Hồ thủy sinh có thể đặt ở phòng làm việc, phía trước mặt người ngồi để giúp người làm việc giảm stress và tạo sinh khí cho căn phòng. b. Các vị trí không tốt đặt hồ thủy sinh: - Không nên đặt ở phòng ngủ vì không gian ngủ nghỉ cần sự yên tĩnh, tránh sự tác động của âm thanh do bộ lọc, máy sủi oxy, quạt trong hồ thủy sinh tạo nên. - Không nên đặt hồ thủy sinh ở phòng thờ tự ông bà, tổ tiên đối với nhà có phòng thờ riêng biệt. - Không nên đặt hồ thủy sinh gần nhà vệ sinh vì hồ thủy sinh để lâu ngày sẽ tích tụ xú khí, gây ảnh hưởng đến sức khỏe những người trong nhà. Tóm lại, tùy vào mục đích muốn hướng đến của gia chủ và hóa giải những yếu tố xấu tác động đến ngôi gia thì ta đặt hồ thủy sinh tại những vị trí thích hợp nêu trên, để nó có thể phát huy hiệu quả nhằm hạn chế những tác động xấu và tăng sự thịnh vượng của ngôi gia. Tp.HCM, ngày 9 tháng 9 năm Bính Thân. PHẦN 2: BỐ CỤC HỒ THỦY SINH TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT Tài liệu tham khảo: (1),(3): Sách Minh Triết Việt Trong Văn Minh Đông Phương – Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Xuất bản: 2014 (2): Tài liệu Phong Thủy Lạc Việt – Lưu hành nội bộ
    1 like
  6. BÁT SÁT TRONG ĐỊA LÝ LẠC VIỆT. Trên cơ sở giả thuyết ban đầu xuất sắc của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn. Chúng tôi đã thực hiện lại mối liên hệ giữa hướng và phương sát trong Bát sát với vòng Tràng sinh. Nhưng để quý vị và ACE thấy rõ được tính nhất quán và tính hệ thống của một lý thuyết nhân danh khoa học, chúng tôi cần nói rõ hơn về vấn đề Vòng Tràng sinh. I. VÒNG TRÀNG SINH TRONG LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG. Khái niệm "Vòng Tràng Sinh" trong ứng dụng của Lý học Đông phương, mô tả một chu kỳ gồm 12 thành tố. Các thành tố này lần lượt theo quy luật là: 1/Trường sinh. 2/ Mộc Dục. 3/ Quan đới, 4/ Lâm Quan, 5/ Đế Vượng, 6/ Suy. 7/ Bệnh. 8/ Tử. 9/ Mộ. 10/ Tuyệt. 11/ Thai. 12/ Dưỡng.... Vòng Trường sinh mô tả chu kỳ sinh trưởng và suy bại của mọi sự vật, sự việc trong cuộc sống, thiên nhiên, vũ trụ và con người. Cho nên, vòng Trường sinh ở trong nhiều hệ thống của các ngành ứng dụng thuộc Lý học Đông phương. Vòng Trường sinh trong ngành dự báo số phận con người là Tử Vi có chu kỳ trong 12 cung và là thành tố dự đoán của chu kỳ Đại Hạn 10 năm trong Tử Vi - Tức là vòng Tràng sinh chi phối 120 năm (Một trăm hai mươi năm) trong chu kỳ vận hạn của một đời người trong lá số Tử Vi. Trong ứng dụng của khoa Tử Vi, vòng Tràng Sinh Dương tính theo chiều thuận. Vòng Tràng sinh Âm tính theo chiều nghịch. Chu kỳ Âm Dương của vòng Trường Sinh là 24 năm. Đây chính nguyên lý chu kỳ 24 năm Sinh - Vượng - Mộ của một hành trong LẠC THƯ HOA GIÁP được thực hiện trên Hà Đồ - đã được Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh chứng minh nguyên lý lập thành bảng này trên Hà Đồ - với sự thay đổi vị trí hai hành Thủy Hỏa. Vòng Tràng sinh thể hiện sự tiêu trưởng của ngũ hành. Ngũ hành phân Âm Dương cho nên vòng Tràng sinh cũng theo Âm Dương và ứng dụng theo tam hợp cục của Địa chi. Vì Địa chi phân Âm Dương nên sự ứng dụng của Trường sinh cũng theo quy luật Dương thuận, Âm nghịch. Thí dụ: Tam hợp cục Hỏa là Dần - Ngọ - Tuất; Tam hợp cục Mộc là Hợi - Mão - Mùi.... ACE và quý vị lưu ý nguyên lý tam hợp cục của ngũ hành để đối chiếu với tính hợp lý trong việc ứng dụng vòng Tràng sinh trong Địa lý Phong thủy Lạc Việt. Quý vị và ACE xem hình minh họa dưới đây cho hai vòng Tràng sinh Âm Dương thuận nghịch. Vòng Tràng sinh Duong thuận Vòng Tràng sinh Âm nghịch Như vậy tôi đã trình bầy khái quát về những nguyên lý ứng dụng của vòng Tràng sinh trong mọi ngành ứng dụng của Lý học Đông Phương nói chung. Trên cơ sở những tri thức căn bản về vòng Tràng sinh này chúng ta ứng dụng tiêu chi khoa học cho một lý thuyết khoa học phát biểu như sau: Trên cơ sở tiêu chí khoa học này, chúng tôi ứng dụng giả thuyết hướng sát của Bát sát lệ thuộc vào vòng Tràng sinh xem có phù hợp với tiêu chí khoa học trên hay không. Vì vòng Tràng sinh có thể phân loại Âm Dương, cho nên chúng tôi cũng phân loại tám phương Bát quái theo Âm Dương, như sau: A/ Bốn quái tứ chính thuộc Dương, gồm: Khảm / - Chấn / - Ly / - Đoài / B/ Bốn quái tứ di thuộc Âm, gồm: Càn / - Khôn / - Cấn / - Tốn / Trên cơ sở này chúng ta một lần nữa áp dụng vòng Tràng sinh theo đúng như cổ thư chứ Hán mô tả về hướng sát của Bát sát để đối chiếu, so sánh. A/ Bốn quái tứ chính: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Thìn (Khảm Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư).....................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Tỵ (Đoài Xà đẩu) B/ Bốn quái tứ di: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..............................6/ Hướng Khôn ( Tốn theo sách Việt), Bát sát ở Mão (Khôn Thỏ 'mão') 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dần (Cấn Hổ)................................8/ Hướng Tốn (Khôn theo sách Việt). Bát sát ở Dậu (Tốn Kê). Thưa quý vị và ACE thân mến Như vậy qua hình mô tả ở trên, khi chúng ta áp vòng Tràng sinh theo giải thiết ban đầu để quán xét thì chúng ta nhận thấy rằng, ở bốn quái tứ chính (vòng Tràng sinh thuận), chỉ có hai quái Ly và Chấn có phương Bát sát nằm ở Tuyệt. Và ở bốn quái tứ Di (vòng Tràng sinh nghịch) thì chỉ có hai quái Càn và Khôn (Tốn theo sách Việt) có phương Bát sát nằm ở Tuyệt. Như vậy nếu theo giải thuyết ban đầu là đúng thì thể hiện phương sát theo cổ thư chữ Hán chỉ đúng được một nửa?! Chúng tôi cho rằng: Vì mối liên hệ chính xác "một nửa" đó - phương sát phải nằm ở vị trí Tuyệt của vòng Tràng sinh - thì tính hợp lý lý thuyết cho toàn bộ vấn đề, tất cả các phương sát đều phải nằm phương Tuyệt của vòng Tràng sinh - Tùy theo tứ chính hay tứ di mà ứng dụng vòng Tràng sinh thuận nghịch. trên cơ sở này chúng ta áp vòng tràng sinh trên cơ sở "Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn - Khôn) phối Hà Đồ" . Chúng ta sẽ được một sự hoàn hảo phù hợp với tiêu chí khoa học của phương sát trong Bát sát, như mô hình dưới đây: A/ Bốn quái tứ chính: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Tị (Khảm Xà/ Sách Hán: Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư).....................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Dần (Đoài Hổ đẩu. Sách Hán: Xà) B/ Bốn quái tứ di: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..............................6/ Hướng Khôn Bát sát ở Tý (Khôn 'Tý'. Sách Hán: Tốn Kê) 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dậu (Cấn Kê. Sách Hán: Dần)..........8/ Hướng Tốn Bát sát ở Mão (Tốn Mẹo. Sách Hán: Khôn tuyệt ở Mão). Thưa quý vị và ACE, trên cơ sở giả thuyết ban đầu chúng tôi xác định rằng: Tất cả các phương sát trong Bát sát đều phải nằm ở vị trí Tuyệt của vòng Tràng sinh. Trong đó, tứ chính là Dương, thuộc vòng Tràng sinh thuận; tứ Di là Âm thuộc vòng Tràng sinh nghịch. Và chúng tôi đã minh họa ở hình trên. Trên cơ sở này chúng ta thấy rằng: Hai quái tứ chính là Ly - Chấn hoàn toàn trùng khớp phương sát với Lạc Việt, tức giả thuyết của chúng tôi và hai quái tứ Di là Càn - Khôn (Tốn theo Lạc Việt) là hoàn toàn trùng khớp, còn lại như phần trên đã trình bầy thì phương pháp đặt phương sát của chúng tôi nhân danh nền Văn hiến Việt một thời huy hoàng ở bờ Nam sông Dương tử, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học về tính quy luật, tính khách quan, tính hệ thống, tính nhất quán và tính hoàn chỉnh. Bây giờ chúng ta đối chiếu tiêu chi khoa học mà chúng tôi đã trình bầy ở trên về tính hợp lý lý thuyết toàn diện nhân danh nền Văn hiến Việt: Tất cả những ai nghiên cứu về Lý học thì đều biết rất rõ thì trong 12 Địa chi thì Tý tuyệt Tị, Mão tuyệt Thân, Ngọ tuyệt Hợi, Dậu tuyệt Dần và ngược lại: Hợi tuyệt Ngọ, Tị tuyệt Tý, Dần tuyệt Hợi, Thân tuyệt Mão. Trên cơ sở này chúng ta quán xét lại toàn bộ những hướng và phương sát - nhân danh nền Văn hiến Việt - hoàn toàn phù hợp với cách Tứ Tuyệt trong Địa chi được mô tả trong Lý học Đông Phương, đồng thời phù hợp với phương Tuyệt của vòng Tràng sinh. Đây chính là tính hợp lý lý thuyết của mọi vấn đề liên quan đến nó phù hợp với tiêu chí khoa học. Đó là phù hợp với phương Tuyệt của vòng Tràng sinh; phù hợp với nguyên lý Tứ tuyệt của địa chi. Đó chính là một phương pháp nghiên cứu của chúng tôi căn cứ theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Đây là điều mà trong các cổ thư chữ Hán không mô tả được. Vấn đề không phải chỉ riêng một vấn đề phương sát trong Bát sát trong Địa lý Phong thủy. Mà là tất cả hầu hết các di sản từ cổ thư chữ Hán liên quan đến Thuyết Âm Dương ngũ Hành, thì chúng đều rất mơ hồ, mâu thuẫn và bất hợp lý ngay trong nội hàm cấu trúc của hệ thống này. Tính hợp lý lý thuyết phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng, chỉ thể hiện nhân danh nền Văn Hiến Việt một thời Huyền Vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử, với nguyên lý căn để Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt. Mới đủ tư cách để xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Bát Quái chính là "Lý thuyết thống nhất vũ trụ" mà nền khoa học hiện đại đang mơ ước! Trên cơ sở này. Rất hy vọng bài viết mà tôi trình bầy trên đây sẽ được quý vị quan tâm. Riêng đối với ACE Địa lý Lạc Việt thì nhân danh một người thầy đang truyền đạt kiến thức và nhân danh nền Văn Hiến Việt, với tinh thần khoa học thực sự, ACE hãy áp dụng phương sát trong Bát sát đã được phục hồi từ nền Văn hiến Việt. Phương pháp ứng dụng nhân danh nền Văn hiến Việt, không chỉ ứng dụng trong Dương trạch để trổ cửa tùy theo hướng nhà, mà còn là ứng dụng trong Loan Đầu để chọn hướng nhà và vấn đề Âm trạch mà ACE sẽ tiếp tục được học tới đây. Xin cảm ơn quý vị và ACE đã đọc và quan tâm đến bài viết này.
    1 like
  7. Bài viết được soạn thảo bởi Thầy Quảng Đức ÂM DƯƠNG TRONG PHONG THỦY Trong địa lý, muốn biết Âm hay Dương thì hãy nhìn về hướng con nước chảy. Người nào học Phong Thủy cũng đều phải học qua bài Thủy pháp căn bản : - Thấy nước chảy từ phải sang trái là nước chảy ngược chiều kim đồng hô, thì biết là nơi đây nhiều Âm khí. - Thấy nước chảy từ trái sang phải, là nước chảy cùng chiều kim đồng hồ, thì biết nơi đây đầy khí Dương. Dương tính nhu nhuyễn, Âm tính cường kình. Không thấy những cơn bão lóc xoáy ngược chiều kim đồng hồ, cường kình mãnh liệt, gây ra không biết bao là tai họa là vì khí Âm rất lớn hay sao? Các vòng đua xe, đua ngựa, đua chó và ngay như các vòng đua của người cũng đều được quy định phải chạy từ phải sang trái, ngược chiều với kim đồng hồ, nghĩa là phải chạy theo chiều Âm. Là vì, Âm khí càng nhiều, thì cuộc đua mới càng quyết liệt. Càng quyết liệt thì cuộc đua mới càng hào hứng. Đã có bao giờ thấy vòng đua nào mà chạy thuận chiều kim đồng hồ, nghĩa là chạy theo chiều Dương chưa? Vậy thì khoa PhongThủy cho rằng Âm là Cao, là Cường, chủ sát phạt. Dương là Thấp là Nhược, chủ phát sinh, thì sao cứ một chiều cho là mê tín ? Các tổ sư Phong Thủy lại còn dạy cho biết là Âm Dương quý ở sự hài hòa. Hễ thấy chỗ nào Dương khí lớn , muốn hài hòa thì tìm nơi Âm mà ở. Chỗ nào Âm khí nhiều mà muốn hài hòa, thì tìm nơi Dương mà trú. Vậy chỗ nào bằng phẳng, lõm thấp là chỗ Dương khí nhiều thì cứ tìm ở trên nơi cao. Chỗ nào đồi cao, núi lớn là chỗ nhiều khí Âm thì cứ tìm nơi thấp mà trú. Thấp Dương là nhược. Cao Âm là Cường. Cường kình mà gặp tế nhược mới hóa thành sinh khí. Không lẽ giữa nắng trưa, muốn dưỡng lại sức, lại không biết tìm nơi có bóng mát mà nghỉ? Nắng trưa là Dương, bóng mát là Âm. Gặp nơi Dương khí lớn khôngphải tìm nơi Âm mà trú là gì ? Các nơi thấp lõm, sình lầy, ẩm ướt, thiên hạ không lẽ không biết tìm đến ở nơi cao? Trên núi cao, dóc đứng, thì dại chi mà không tìm nơi bằng phẳng mà ngụ. Thì thuật Phong Thủy dạy người hễ trên vùng cao, hãy tìm nơi thấp mà ở. Nơi vùng thấp hãy tìm nơi cao mà trú thì có gì là dị đoan? Chỉ vì người đời xưa nay chỉ biết cái lý của trời mà không hiểu được cái Khí của đất, lại tự cho mình là trí, không chịu tìm biết để phân biệt chỗ nào là Âm và chỗ nào là Dương, cho nên, hễ động đến Âm Dương, Phong Thủy là dẫy nẫy, cứ một chiều cho rằng mê tín. Trên trời thì Dương động mà Âm thì Tĩnh. Dưới Đất thì Dương Tĩnh mà Âm thì lại Động. Động thì cường mà Tĩnh thì nhược. Một bên là Khí, một bên là Hình; một bên là Tĩnh và một bên là Động thì hai chữ Âm Dương đâu phải ai cũng có thể phân biệt được rõ, để biết được cái tinh của tạo hóa? Thoạt nghe Âm thì cường, Dương thì nhược mà thấy như có vẽ ngược ngạo, thì hãy nhìn vào dạng Nước thì biết. Nước lạnh dưới Âm độ là nước Âm khí nhiều thì sẽ đóng thành băng, vón cứng thành cục , hình sẽ lồi nhô lên như Âm Nhũ - thì gọi là cường. Nước nóng ấm, Dương khí nhiều, lỏng chảy, uyễn nhuyễn , hình sẽ lõm xuống như Dương oa- thì gọi là nhu. Nếu vẫn chưa rõ thì cũng nên thử quan sát thực tế đất đai: Phương bắc, khí Âm thường nhiều và rét lạnh - Âm thì tính cường kình - cho nên phương bắc chỉ thấy toàn là đồi cao núi lớn. Ở phương nam, khí Dương thường nhiều và nóng ấm– Dương thì tính nhu nhuyễn - cho nên phương nam đất đai bằng phẳng, nhu mì. Âm lạnh thì đất đai hình co rút, sinh ra núi đồi, Dương nóng thì hình trải dài, đất đai bằng phẳng . Vậy thì thực tế và đia lý Phong thủy đâu có chi là khác biệt ? Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi dạy thêm rằng: Âm nhũ thì giống như dương vật của người Nam. Dương oa thì giống như sản môn của người Nữ . Lê Quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ lại nói cho rõ thêm: Đất lấy cát làm thịt, lấy đá làm xuơng, lấy cỏ cây làm lông, lấy sông nguồn làm mạch máu. Rõ ràng địa lý, đất đai, đồi núi cũng y chang như con người. Nghĩa là cũng phải có đủ Âm Dương mới có mặn nồng, hòa hợp, ái ân, thì công danh, tài lộc mới sinh sôi nẫy nỡ, sinh con đẻ cháu, nối dõi tông đường. Như vậy, điều trước tiên là phải nhận biết cho rõ Âm Dương rồi mới tìm đến huyệt kết, nôm na là tìm chỗ nào sinh khí nhạy cảm nhất. Đã nói đất đai cũng như con người thì chỗ nhạy cảm sinh khí nhất rõ ràng không chỗ nào hơn được chỗ Âm Nhũ của đàn ông và Dương oa của người Nữ . Xưa nay người ta vẫn thường cho rằng những kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác, tác động sâu vào tâm lý và hành động của con người mới chính thực là căn bản của thuật Phong Thủy. Không lẽ không thấy tại những vùng đất thấp, thì đại đa số nhà cửa ở trên các đồi núi cao đều nguy nga đồ sộ, đắt tiền, của những tay giàu có? Thì cũng biết đâu họ giàu là nhờ họ đã biết vùng thấp cho nên họ đã chọn ở trên cao? Các vùng trên cao, toàn đồi cao và núi lớn, nhiều Âm khí, thì thiên hạ lại ùn ùn chạy tìm xuống đồng bằng mà xây nhà dựng cửa là vậy. Các vùng đất nào thấp, thì nên tìm nhà trên lưng chừng đồi cao mà ở. Đó cũng là nơi Âm Dương giao hội. Sớm muộn rồi cũng sẽ trở nên khá giả, giàu sang. Con cái, cháu chắt đều có nhiều cơ hội để trở thành ông này bà nọ, nôm na như là kỷ sư, bác sĩ trong tay........ Nhưng, hãy nhớ cho thật kỷ và phải thuộc nằm lòng là nhà cửa mà xây dựng ở trên cao là đang tại trên Âm Nhũ. Cũng y như đang quanh quảnh đâu đó trên vùng kích dục nhất của Duơng vật, thì phải tìm biết chỗ nào là chỗ thoát tinh . Thường chỗ thoát tinh là chỗ cao nhất. Chỗ này phải để y nguyên trạng, khôngđược khai phá, xây dựng, đào phá, động đậy là vì chỗ thoát tinh mà bị bít kín thì khí sẽ không thông . Khí mà không thông lâu ngày, khí sẽ bị dồn ứ lên tận não, trước sau gì cũng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhà cửa xây dựng trên một thế đất “ tẩu hỏa nhập ma “ thì khó mà giàu sang phú quý và con cháu mai hậu không tưng tửng thì cũng điên điên. Cách đơn giản, lại dễ hiểu là hễ thấy khu vực nào mà đỉnh núi hay đỉnh đồi cao nhất đã bị thiên hạ chiếm cứ xây dựng nhà ở lên rồi, nghĩa là cái đầu thoát tinh chỗ này đã bị bít kín, thì ba chân bốn cẳng, lẹ lẹ dọn nhà đi tìm nơi khác mà ở là vừa. Ngược lại, các vùng đất ở trên cao nhiều đồi nhiều núi thì nên tìm nhà trên dãi đất thấp, bằng phẳng hay bình nguyên mà ở. Bằng phẳng và thấp lõm thì chính là Dương Oa. Dương oa y chang như là sản môn của người Nữ thì coi chừng đừng có động đậy xây nhà dựng cửa hai bên mép. Hai mép của Dương oa mà bị triệt phá thì cả vùng sẽ bị lạnh cãm, hết còn kích được Dục thì đừng mong mà còn khả năng sinh tài sinh lộc, sinh quan sinh quyền. HÌNH và KHÍ Khí thì dựa vào tượng để thành hình và Hình thì để thể hiện Khí. Hình và Khí hoàn toàn khác biệt nhưng lại không thể tách rời được nhau. Muốn biết Khí thì phải dựa vào Hình. Thế nhưng mấy ai rõ biết? Hãy quan sát núi non trùng trùng, điệp điệp ở phương Bắc và bình nguyên rộng lớn trải dài ở phương Nam. Phương Bắc lạnh lẽo, Âm khí thì nhiều. Phương Nam nắng ấm Dương khí cùng khắp. Âm thì Lạnh, tỉnh. Dương thì Nóng, động. Khí Âm thì Trầm, Khí Dương thì Phù. Càng về Phương Bắc Âm khí càng lớn thì núi non càng hùng vĩ, càng về Phương Nam, Dương khí càng nhiều thì núi non càng hiếm, đất đai bằng phẳng. Khí âm thì nhu, trầm nhưng Hình thì cương cường bạo liệt. Khí Dương thì cương, phù, nhưng Hình thì nhu mì bằng phẳng. Phong là Gió, là nộ khí của trời đất. Gió càng lớn thí Âm khí càng nhiều. Sấm thuộc Dương khí cho nên mổi khi thấy Sấm động thì Bão sắp dứt. Có phải là Âm khí của Bão bị Dương đánh tan hay không? Bởi thế, càng ở chổ cao, thì gió càng lớn. Ở Phương Bắc, Âm khí thì nhiều mà khí Dương thì thường yếu kém không đủ, cho nên hình thể là núi non trùng điệp, cương cường. Ở phương Nam khí Dương thì nhiều, khí Âm thì yếu kém không đủ, cho nên hình thể bằng phẳng nhu mì. Lê quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ thêm: Ở Phương Bắc, trời tiết chưa rét lắm mà Nước đã đông đặc thành băng, bởi lẽ khí Dương quá yếu kém không đủ để lấn át khí Âm. Ở phương Nam, Dương khí thì nhiều lấn át khí Âm, khí âm thường tan biến phía dưới, cho nên nước không thể đông đặc đóng thành băng được. Hình và Khí như vậy là đã rõ Những nơi Âm khí nhiều thì Hình cương cường bạo liệt. Những nơi Dương khí nhiều thì Hình nhu mì bằng phẳng. Hình I: Nơi nhiều Khí Âm: HÌNH VẼ Hình 2: Nơi nhiều khí Dương: HÌNH VẼ Trời thuộc Dương cho nên Hình thì động mà Khí thì tỉnh. Đất thuộc Âm cho nên Hình thì tĩnh mà Khí thì động. Dịch lấy Âm Dương hai khí làm trọng. Trong Âm phải có Dương, trong Dương phải có Âm. Cô Âm hay cô Dương thì không thể tồn tại. Phong Thủy thì coi trọng Hình thể. Núi non cương mãnh thì Dụng là Dương nhưng cái Thể là Âm. Bình nguyên rộng khắp, nhu mì thì Dụng là Âm nhưng cái Thể là Dương. Rỏ ràng Âm Dương, Hình và Khí hoàn toàn vẫn không thể tách rời được nhau. Hãy nhìn kỷ bàn tay sấp ngữa để hình dung. Bàn tay sấp thuộc Âm nhưng Hình thì gồ ghề, dáng cương mãnh hiễn lộ, rõ ràng không chút ẩn giấu. Bàn tay ngữa thuộc Dương nhưng Hình thì bằng phẵng nhu mì, mềm mại. . . . . . Hoặc cũng có thể hình dung trạng thái của Nước. Âm khí nhiều thì nước vờn cục thành đá cứng nhắc, Dương khí nhiều thì nước nhu mì, uyển động. Địa Lý Toàn Thư của Lê Bá Ôn có ghi lại phần giải đáp giữa Dương Quân Tùng và Sư Nhất Hạnh. Tăng hỏi: Âm là gì? Dương là gì? Dương công đáp: Hai chữ Âm Dương là cốt lõi của phong thủy, là Hình và Khí được tạo rồi hóa mà thành. Dương khí có hình dạng lõm (OA ), Âm Khí cò hình dạng lồi (ĐỘT). Âm biến thì hóa thành Dương, Dương biến thì hóa thành Âm. Nếu Dương long đến thì Âm thụ huyệt. Nếu Âm long đến thì Dương thụ huyệt hay Âm lai thì Dương thụ, Dương lai thì Âm thụ. Âm Dương, Hình, Khí, đạo lý của tạo hóa là như vậy. Lại hỏi: Âm lai Dương thụ là gì? Dương công đáp: Mạch có sóng lưng, khi tiến nhập vào chổ huyệt có chổ lõm thì gọi là Âm lai Dương thụ. Lại hỏi: Dương lai Âm thụ là gì? Dương công đáp: Thế đến của Mạch tương đối bình hòa, chổ lồi chính là chổ nhập huyệt. Thì gọi là Dương lai Âm thụ. Họ Trúc giải thích thêm: Phàm là địa hình có thể thụ huyệt, nếu giống OA (lõm), KIỀM (kẹp), PHỆ (mỡ ra) tinh khí xuất ra bên ngoài ắt thành Dương. Nếu giống NHŨ (lồi), PHỦ (vòng lên), ĐỘT (nhô lên), tinh khí đọng lại bên trong ắt thành ÂM. Trong OA (lõm) có chổ ĐỘT (nhô lên) như vậy gọi là Dương lai Âm thụ. Phần đầu của NHỦ (chổ lồi) có OA (chổ lõm) như vậy gọi là Âm lai Dương thụ. Dương Mậu Thúc trong Thai Phục Luận viết: Thai Phục là thư, hùng song long. Thai sinh trước hòa hợp với Dương mà sinh Thư. Tinh thần của nó chiếu lên trên. Phục sinh sau, hòa hợp với ÂM mà thành Hùng. Tinh thần của nó chiếu xuống. Nghênh lên cao thì thành Dương. Phủ xuống dưới thấp thì thành Âm. Lưu Đôn Tố viết: Âm là cường, Dương là nhược. Nhược gần Cường mà sinh thành vạn vật. Âm tính thì cương kình, Dương tính thì nhu hòa. Lại viết: Dương lấy Âm làm bản tính. Âm lấy Dương làm hình thể. Chủ của Động là Tĩnh, chủ của Tĩnh là Thể. Ở trên trời thì Dương động mà Âm thì tĩnh. Ở dưới đất thì Dương tĩnh mà Âm thì động. Bản tính vì có hình thể mới Tĩnh. Hình thể vì có bản tính mới động. Núi non hùng vĩ cương cường tính Âm thì lấy chổ Dương làm trọng. Đồng bằng nhu mì bằng phẳng tính Dương thì lấy Âm làm trọng. Chổ nhỏ thì làm nơi mộ táng, lớn hơn thì làm nhà ở, lớn hơn nửa thì làm châu quận, tỉnh thành....Biết như thế để có thể giải thích tại sao người xưa ví Núi như Long là con Rồng trong thần thoại. Núi bản chất yên tĩnh thì trọng ở chổ Động. Ví Núi như Long là nhìn núi như con Rồng đang sống, nghĩa là đang có sinh lực dồi dào. Cũng từ quan niệm đó mà các nhà Phong Thủy phân biệt đâu là Sinh Long, đâu là Tử Long. Tử Long là dãy núi thẳng đơ, cứng nhắc như chết. Sinh Long là dãy núi uốn khúc nhấp nhô, lên xuống, sống động....... Nước thì bắt nguồn từ trên Núi cao cho nên nói Núi là mẹ của Nước hay nói ở đâu có Nước, ở đó có Khí là vì muốn đề cập đến Sinh Long là vậy. (Một số nhà Phong Thủy cho rằng những nơi ruộng lúa bao la, xanh ngát, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng có thể thấy rõ những làn sóng nhấp nhô sống động tạo thành lườn y như những vẫy Rồng sinh động.) Khí cũng chính là Nước, vì Nước là Mạch máu của Long. Nhưng để có thể phân biệt rõ thì Khí là sinh lực của Địa thế mà mắt thường không thấy được, ngược lại sinh lực của địa thế có thể thấy được thì đó chính là Nước vậy. Tạ Giác Trai trong Đảo Trượng Thi giải thích tiếp: Hai chữ Âm Dương rất khó làm rõ. Mấy ai hay biết cái tính của tạo hóa trong đó ! Âm nhũ giống như dương vật của người nam. Dương oa giống như sản môn của người nữ. Nếu giống như Âm nhũ của người nam thì không được làm tổn thương phần đầu. Nếu giống như Dương oa của người nữ thì không được làm hỏng hai môi....... Một không thể sinh ra sự vật mà cần phải có hai. Trường hợp hình thể và khí thế của Long Mạch chạy đến giống như sóng kiếm, như lưng bàn tay úp thì gọi là cô Âm, nếu như bàn tay ngữa thì gọi là độc Dương. Âm Dương cần tương giao với nhau (Giao hợp) nếu không thì y như người Nam không vợ, người Nữ không chồng thì làm sao sinh sôi nẩy nở? Trong Âm phải cầu Dương, trong Dương phải cầu Âm. Âm và Dương cầu giao với nhau mới không bị tuyệt diệt, đất lớn do đó mới được sản sinh. Cùng một cách nhìn khác của các nhà Phong Thủy thì cao là Âm, thấp là Dương. Địa thế cao vút là Âm. Bằng phẳng, tròn trịa là Dương. Phủ xuống là Âm, ngưỡng diện là Dương. Vật có Mũi Nhọn là Âm, vật có chổ Lõm xuống là Dương. Trường hợp địa thế trãi dài bằng phẳng, không thấy xuất hiện chổ nhô lên nghĩa là không thấy có Âm, nhưng lại thấy xuất hiện các dòng nước hội hợp, tức là đã có Âm tồn tại. Trường hợp này được gọi là trường hợp xão diệu, địa thế quý vô cùng. Quan sát thực tế ánh sáng, bóng tối hay ngày và đêm. Chính giữa đêm giờ Tý, Âm hoàn toàn làm chủ thì Dương bắt đầu xuất hiện. Giữa trưa đứng bóng giờ Ngọ, Dương hoàn toàn làm chủ thì Âm bắt đầu xuất hiện. Vì lẽ thế Dịch cho rằng Dương xuất từ Tý, Âm xuất từ Ngọ. Hoặc nói: Gốc của Âm ở trong Dương, gốc của Dương ở trong Âm là vậy. Âm Mạch thì phải trên nhỏ mà dưới lớn. Dương Mạch thì phải trên lớn dưới nhỏ. Do vậy mỗi khi Dương thở ra khí, vạn vật sinh ra. Một khi Âm hít khí vào thì vạn vật sinh thành. Đọc lại Địa Lý Bí Truyền của Tả Ao: . . . . . . . . . . Mạch có Mạch Âm Mạch Dương, Mạch nhược, Mạch cường, Mạch tử, Mạch sinh, Sơn cước Mạch đi rành rành, Bình dương Mạch lẩn, nhân tình không thông Có Mạch qua ao, qua sông Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non. . . . . . . Đồng bằng Mạch đị thấp nên gọi là Mạch Dương. Sơn cước Mạch đi theo đồi núi cao lớn nên gọi là Mạch Âm. Lại thêm 4 yếu tố để phân định: -Mạch Cường: Là thế mạch hùng vĩ, cương cường. -Mạch Nhược: Là thế Mạch thanh nhã, dịu dàng. -Mạch Sinh: Thế Mạch đi rất sống động như con thú đang quay đầu, vẫy đuôi. -Mạch Tử: Thế Mạch đi ngay đơ như cán cuốc. Về Cao Thấp thì trên sơn cước thấp một thước cũng gọi là thấp. Ở bình dương cao một tấc cũng gọi là cao. Âm Dương Hình Khí, Cụ Tả Ao tóm gọn trong hai câu dễ nhớ: Âm là gò đóng, đất ghềnh. Dương là ruộng phẳng, đất bằng như lai. NGŨ HÀNH cũng phân biện Âm Dương, Hình và Thể. Ngoài hành Thổ trung ương, 4 hành khác là Kim, Mộc, Thủy và Hỏa. Mỗi vị trí gọi là mỗi Cuộc Long. Đứng trên vị trí xây dựng, nhà ở hoặc mộ táng, nhìn thẳng góc với dòng nước chảy gần nhất, quan sát thấy dòng chảy của Nước từ TRÁI sang PHẢI, thuận theo kim đồng hồ thì KHÍ ở đó là KHÍ DƯƠNG. Ngược lại nếu dòng chảy của Nước từ PHẢI sang TRÁI thì Khí ở đó là KHÍ ÂM. (Cũng cần nhắc lại Âm Khí thì tìm Dương. Dương khí thì tìm Âm. Bình nguyên thấp một tấc cũng có thể là Dương, cao một tấc cũng có thể là Âm) 1: KIM cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng ĐÔNG. Nghĩa là giòng chảy từ hướng TÂY đến. Hướng TÂY hành KIM nên gọi là: TÂY LONG hay KIM CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương KIM trường sinh tại TỴ (Đông Nam). Vượng tại Dậu (Tây) và Mộ tại SỬU ( Đông Bắc). Tràng Sinh,Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí TAM HỢP Tỵ Dậu Sửu tao thành Kim cuộc. Âm Kim trường sinh tại DẬU (Tây), Vượng tại TỴ (Đông Nam) và Mộ tại SỬU (Đông Bắc). Nước chảy về Phương nào thì phương đó là phương Mộ khố. Hình KIM thì TRÒN. Âm Kim phải có dạng TRÒN, đứng, cao hoặc LỒI. Dương Kim phải có dạng TRÒN nằm, phẳng hoặc LÕM. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì KIM vượng có thể Sinh THỦY. Thủy thì có Hình nhấp nhô sóng nước. Nhớ lại là Nơi Âm thì đi tìm Dương. Nơi Dương thì đi tìm Âm. Hình của Âm thì Lồi, Hình của Dương thì Lõm. Vị trí Tốt thường được chọn để xây nhà cửa là Vị trí Trường Sinh hoặc Đế Vượng. Trường Sinh như cây mới nụ, cần thời gian mới trổ trái ra hoa. Đế Vượng thì như Hoa nỡ rộ, sau đế vượng thì SUY, BỆNH, TỬ. . . . . Vì thế về lâu dài thì trọng Trường Sinh. Mau chóng thì chọn Đế vượng. 2: MỘC cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng TÂY. Nghĩa là giòng chảy từ hướng ĐÔNG đến. Hướng ĐÔNG hành MỘC nên gọi là: ĐÔNG LONG hay MỘC CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ vòng Tràng Sinh, Dương Mộc tràng sinh tại HỢI ( Tây Bắc). Vượng tai MÃO ( Đông) và Mộ tại MÙI ( Tây Nam ). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi tạo thành Mộc cuộc. Âm Mộc tràng sinh tại Mão. Vượng tại Hợi và Mộ tại Mùi. Hình Mộc thì DÀI. Âm Mộc phải có dạng Dài, Đứng, Cao. Dương Mộc phải có dạng Nằm, Dài và thẳng. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Mộc vượng có thể đi sinh Hỏa. Hỏa thì có hình Nhọn nhấp nhô. 3: THỦY cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng NAM. Nghĩa là giòng chảy từ hướng BẮC đến. Hướng BẮC hành THỦY nên gọi là: BẮC LONG hay THỦY CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ Vòng Tràng Sinh, Dương THỦY trường sinh tại THÂN (Tây Nam),Vượng tại TÝ ( Bắc) và Mộ tại THÌN ( Đông Nam). Tràng Sinh, Vượng và Mộ luôn luôn ở vị trí TAM HỢP Thân Tý Thìn tạo thành Thủy cuộc. Âm thủy tràng sinh tại Tý ( Bắc). Vượng tại Thân ( Tây Nam ) và Mộ tại Thìn ( Đông Nam). Hình THỦY thì nhấp nhô sóng nước. Âm Thủy phải có dạng Đứng, cao. Dương Thủy phải có dạng Nằm hoặc Lõm. Nếu thấy hình và khí không được chính, thì phải quan sát thêm là vì Thủy Vượng có thể đi sinh Mộc. Mộc thì có Hình thẳng và dài. 4: HỎA cuộc: Nhìn thấy giòng nước chảy về hướng BẮC. Nghĩa là giòng chảy từ hướng NAM đến. Hướng Nam hành HỎA nên gọi là: NAM LONG hay HỎA CUỘC LONG. Nếu thấy giòng nước chảy từ TRÁI sang PHẢI thì Khí thuộc DƯƠNG. Ngược lại thì Khí thuộc ÂM. Nếu tính từ vòng Tràng sinh, Dương HỎA tràng sinh tại Dần ( Đông Bắc). Vượng tại Ngọ ( Nam ) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Tràng sinh, Vượng và Mộ luôn luôn tại 3 vị trí tam hợp Dần Ngọ Tuất tạo thành Hỏa cuộc. Âm Hỏa tràng sinh tại Ngọ ( Nam ), vượng tại Dần ( Đông Bắc) và Mộ tại Tuất ( Tây Bắc). Nước chảy về phương nào thì phương đó là Mộ khố. Hình Hỏa thì Nhọn, nhấp nhô. Âm hỏa phải Cao, nhọn. Dương Hỏa nằm phẳng và góc cạnh. Nếu thấy Hình và Khí không được chính, thì phải quan sát thêm vì Hỏa vượng có thể đi sinh Thổ. Thổ thì có hình Vuông vức. Các nhóm thảo luận : 1/ Câu chuyện HUYỀN THOẠI Cao Biền đời nhà Đường sang làm Tiết độ Sứ, đã phá hết Long Mạch nước ta bằng cách trấn yếm tất cả các Huyệt Đạo , lâu ngày trở thành chuyện THẦN THOAI . a/ Thần Thoại cho rằng Cao Biền biết cởi Hạc Diều giấy chu du khắp mọi miền đất nước để tìm ra Long Mạch nước ViệtNam hầu trấn yếm không cho nước ta ngóc đầu lên nỗi ? Bạn có thể tin không vậy ? b/ Xưa nay khoa Phong Thủy cho rằng KHÍ tích tụ lại thành NÚI – Tan ra thành NƯỚC cho nên có người lại cho rằng Khí chính là Nước và vì thế: những gì có thể thấy được thì gọi là Nước , không thể thấy được thì gọi là Khí . Bạn có thể cho biết có mối tương quan hai chiều nào với câu của người xưa thường Dạy : Thủy lấy Suy làm Vượng và lấy Vượng làm Suy ? 2/ Người ta chia Kinh tuyến và Vĩ tuyến để định vị trí từng nơi . Việt Nam đi trước nước Mỹ khoảng đâu 1/2 ngày . Tối bên này thì bên kia trời đang sáng . Cho nên Lịch Việt nam lại đi trước Mỹ 1 ngày . Bạn biết có phải vì thế cho nên người xưa cho rằng Nam Tả Nữ Hữu hay Sáng là Dương Tối là Âm không vậy ? Nguồn: sưu tầm.
    1 like