• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 04/09/2018 in all areas

  1. Tìm hiểu phong tục, văn hoá của tộc người Việt cổ ở Indonesia 31/08/2018 07:21 TĐO-Truyền thông quốc tế tán thành giả thuyết bộ tộc người Minangkabau sinh sống phía tây đảo Sumatra (Indonesia) có nguồn gốc từ Việt Nam. Giả thuyết lịch sử cho rằng sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, một bộ phận người Việt đã lên thuyền ra khơi đến eo biển Malacca, sau đó định cư tại phía tây đảo Sumatra, Indonesia. Cũng từ đó, dân tộc người Minangkabau sống tại quốc đảo này cho đến ngày nay. Theo The Daily Beast, từ lâu đời, tộc người Minangkabau theo chế độ thị tộc mẫu hệ như người Việt cổ. Người Minangkabau phần lớn theo đạo Hồi nhưng tín ngưỡng của họ là thuyết vật linh. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn. Thuyết này cũng là tín ngưỡng đầu tiên của người Việt cổ trước khi các đạo khác du nhập vào đất nước. Tộc Minangkabau có những điệu nhảy và bản nhạc truyền thống mà họ luôn tự hào như điệu múa nến kinh điển. Nhắc đến đạo Hồi, nhiều người thường nghĩ đến các chế độ hà khắc và số phận nhỏ bé của người phụ nữ. Nhưng với tộc người Minangkabau, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và xã hội đặc biệt hơn cả. Đến đảo Sumatra, nếu hỏi người dân chắc chắn du khách sẽ nhận được câu trả lời: “Phụ nữ là chủ gia đình”. Theo đó, phụ nữ và nam giới trong gia đình chia sẻ quyền lực và tuân thủ nguyên tắc giữ trọn vẹn trách nhiệm, bảo vệ lẫn nhau trong xã hội. Người dân Minangkabau sinh sống bằng nghề trồng lúa nước với tục ăn trầu, nhuộm răng từ lâu đời. Họ còn có những nét văn hoá khác gần gũi với người Việt. Ảnh tư liệu về phụ nữ tộc Minangkabau thời xa xưa tại Indonesia. Phụ nữ cũng giữ trách nhiệm sở hữu mọi tài sản trong gia đình tộc Minangkabau. Cụ thể, đất đai, nhà ở, trại chăn nuôi… đều phải truyền từ mẹ sang con gái. Người cha trong gia đình có thể chuyển tài sản thừa kế cho con trai bằng thu nhập từ công việc kinh doanh của họ. Lễ cưới truyền thống của các cặp đôi Minangkabau. Mọi nghi thức, lễ hội quan trọng đều do phụ nữ chủ trì như lễ nhậm chức lãnh đạo trong gia tộc, đám cưới, thu hoạch mùa màng… Đám cưới của các cặp đôi Minangkabau được tổ chức, trang hoàng lộng lẫy với lễ phục truyền thống. Người Minangkabau trong trang phục truyền thống cổ đã sinh sống tại Indonesia từ lâu đời. Đàn ông và phụ nữ tộc người Minangkabau có những khái niệm bình đẳng như các xã hội khác. Dù căng thẳng có thể xảy ra đôi lúc, vị trí người phụ nữ vẫn được tôn trọng bởi toàn thể cộng đồng. Phụ nữ có thể tự do báo cáo, lên án mọi hành động bạo lực về tinh thần hay thể xác trong gia đình mình. Phụ nữ tộc Minangkabau được tôn vinh và giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Khi một cặp vợ chồng kết hôn, chú rể sẽ chuyển đến sinh sống tại nhà cô dâu. Mọi quyết định trong gia đình đều được cân nhắc giữa ý kiến của cả vợ và chồng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, phụ nữ nắm quyền quyết định chính trong các vấn đề liên quan đến hoạt động gia đình, thu chi, mua sắm và giáo dục trẻ em… “Phụ nữ là mối liên hệ quan trọng của hiện tại và quá khứ. Nếu gặp một phụ nữ người Minangkabau đang mang thai, mọi người đều thực sự hy vọng cô ấy sẽ cho ra đời một bé gái đầu lòng”, cựu giáo sư Taufil Abdullah, chủ tịch Uỷ ban Khoa học Xã hội tại Học viện Khoa học Indonesia chia sẻ. Phụ nữ có vị trí quan trọng với tộc người Minangkabau. Ngôi nhà truyền thống của người Minangkabau với tên gọi Rumah Gadang sở hữu kết cấu đặc biệt, có mái cong vút như mái chùa cổ Việt Nam. Mái nhà được làm từ gỗ surian địa phương với cấu trúc hình vòm, cong vút như chiếc sừng trâu. Những bức tường dệt bằng tre là biểu tượng phong cách xây dựng nhà truyền thống của người Minangkabau. Kiến trúc bề thế đặc biệt của ngôi nhà này không chỉ giúp tộc người Minangkabau có nơi cư trú mà còn là không gian phục vụ các cuộc họp, nghi lễ trang trọng. Ngôi nhà truyền thống Rumah Gadang. N.H Tổng hợp từ báo chí nước ngoài Nguồn: Báo Thời Đại
    2 likes
  2. NGÔN NGỮ VIỆT Tôi xin được mở đầu bài viết thể hiện cái nhìn của tôi về ngôn ngữ Việt, qua sự trích dẫn quan điểm của ông Phạm Công Thiện trên thư viện mở Wikipedia: Cái nhìn của ông Phạm Công Thiên đúng hay sai, được "khoa học công nhận" chưa thì chưa bàn vội. Tôi giới thiệu đoạn trích dẫn này chỉ như là một hiện tượng xác định sự minh triết của ngôn ngữ Việt từ ông Phạm Công Thiện - một nhân vật được giới thiệu trên thư viện mở - chắc hẳn phải thông minh hơn nhiều so với Thiên Sứ tôi. Một hiện tượng thứ hai tôi dẫn ra đây là cái tên cổ của đường Thanh Niên bên Hồ Tây và hồ Trúc Bạch ở Hanoi. Cái tên ấy bây giờ người ta gọi là "Cố (cố gắng) - Ngự (phòng ngự)". Nhưng trước đây từ đời cụ kỵ của tất cả những người dân Hanoi sinh ra ở cõi Tràng An, đều gọi là "Cổ (Cổ xưa) Ngư (Cá)". Vậy tại sao nó là thành "cố ngự"? Cái sự tích nó là thế này: Vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, có một vị sĩ phu Bắc Hà nào đó (lâu quá tôi quên mất tên vị này) phán rằng: Cổ Ngư thực ra là hiểu nhầm từ văn bản tiếng Pháp vốn ghi âm tiếng Việt không có dấu nên ghi là "Co ngu" và các cụ Nho nhà ta đã phiên âm là "Cổ Ngư". Chứ thật ra nó là "Cố Ngự" . Căn cứ vào một số nhà ngâm cứu thì cái đường gọi là "Cổ Ngư" đó, thực chất ngày xa xưa là một quãng đê. Vậy chắc chắn nó là "Cố ngự" rồi. Tức là quãng đê này cố gắng chống lại Hà Bá sông Hồng , mỗi khi ngài dâng nước nổi cơn thịnh nộ. Chà! Có lý! Thế là từ đó người ta cứ thế mà phang khi nói đến tên cổ của đường Thanh Niên là "cố ngự" như là một sản phẩm của kiến thức hàn lâm, đã được "khoa học công nhận". Ngày ấy, tôi chỉ là một gã thanh niên mới lớn, đọc báo thì biết vậy, chứ cũng chẳng đủ hiểu biết để ý kiến , ý cò gì. "Cổ Ngư" hay "cố ngự" thì cũng chẳng làm phai mờ mối tình đầu dang dở của tôi. Lúc ấy, như nhiều gã thanh niên mới lớn, tôi quan tâm đến mối tình của tôi hơn nhiều thứ trên đời. Nhưng bây giờ, tình đã nhạt phai, ngồi ngẫm lại về ngôn ngữ Việt, tôi mới thấy tính hệ thống và nhất quán của ngôn ngữ cao cấp nhất trong văn minh nhân loại, chính là ngôn ngữ Việt. Và phải bắt đầu từ một địa danh này. Tôi xin bắt đầu từ "Co Ngu". "Co ngu" là phiên âm tiếng Tây từ tiếng Việt thì đúng quá rồi. Nhưng nếu thêm dấu để nó thành "Cố Ngự" thì có thế thêm dấu thành rất nhiều chữ khác. Thí dụ: "Cò (Con cò) ngủ"; "Cỗ Ngự"; "Có Ngu" và tất nhiên là có cả "Cổ Ngư" nữa. Bây giờ, theo cái nhìn của tôi thì cần đặt lại vấn đề đường Thanh Niên bây giờ có phải ngày xửa, ngày xưa là con đê chắn nước không? Theo tôi hoàn toàn không! Bởi vì đê chắn sóng sông Hồng thì phải chạy dọc theo sông Hồng. Cho dù ngày xưa, rất xưa Hồ Tây được coi là một nhánh của sông Hồng thì cũng chằng ai mần một con đê chắn ngang Hồ Tây và chia đôi nó thánh Hồ Trúc Bạch cả. Khi mà con đê sông Hồng chạy sờ sờ bên kia Hồ Tây. Hơn nữa, tôi nhận thấy rằng: Chùa Trấn Quốc có từ trước cả thế kỷ XV. Trước đây nó vốn là hành cung của vua Lê. Sau này, dùng làm nơi để đưa những cung nữ có lỗi ra đấy. Cuối cùng nó mới thành chùa (Theo Doãn Kế Thiện - "Cổ tích và thắng cảnh Hanoi" Nxb Văn Hóa 1959). Vậy thì cái đê "cố ngự" ấy lập nên để làm gì khi con đường vào chùa Trấn Quốc phải có từ rất lâu, ít nhất từ hàng trăm năm trước vào thời Lê Trịnh. Chứ không lẽ bơi thuyền vào cung? Giả sử nó thật sự là con đê gì đó thì nó cũng chỉ là đê phụ sau đê sông Hồng, Nhưng đê phụ thì phải trước mặt đê chính chứ không thể sau đê chính để "cố ngự" cả. Hơn nữa, cái vô lý nó ở chỗ này: chẳng bao giờ cùng một danh từ mô tả một địa điểm, lại nửa nôm, nửa Nho như cái tên "Cố Ngự" cả. Vấn đề này tôi xin liên hệ với một hiện tượng là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi lập am ở Hồ Tây thì bà lấy tên là "Cổ Nguyệt" - Trăng xưa. Những địa danh ở quanh vùng đất Thăng Long xưa, có rất nhiều địa danh mang chữ đầu là "Cổ", như: Cổ Bi, Cổ Lễ, Cổ Nhuế, Cổ Mễ.... Vậy vùng đất Thăng Long xưa có dịa danh "Cổ Ngư" hoàn toàn hợp lý trong sự nhất quán và tính hệ thống với các địa danh gần gũi liên quan. Và quan trọng hơn cả, khi cụ Doãn Kế Thiện - người sống qua hai thế kỷ XIX và XX - trong tác phẩm của mình vẫn gọi là "Cổ Ngư". Vậy Tây nó phiên âm tiếng Việt từ chữ "Cổ Ngư" hay "cố ngự"? Khi chính cụ - một học giả cổ xưa vẫn gọi là "Cổ Ngư". Tức là địa danh Cổ Ngư đã có từ trước cả thời Tây xâm lược nước ta và "co ngu" không thể là "Cò ngủ", "có ngu", hoặc "Cố ngự", mà chính là "Cổ Ngư" Với địa danh "Cổ Ngư" vừa mang tính nhất quán về tính hệ thống của chữ Nho trong địa danh "Cổ" - xưa cũ, "Ngư" - cá. Chứ không như cái địa danh suy luận không có "cơ sở khoa học" là "cố ngự", nửa nôm, nửa Việt Nho - Thói quen gọi là từ Hán Việt - này. Vấn đề được đặt ra mà tôi muốn trình bày với bạn đọc là: tính nhất quán và tính hệ thống của tiếng Việt - ngôn ngữ cao cấp nhất trong lịch sử nhận thức được của văn minh nhân loại mà tôi xin tiếp tục trình bày dưới đây, để chứng tỏ rằng: Ngôn ngữ Việt trong đó bao hàm chữ Việt, không phải thích thì đổi loạn cào cào. Còn tiếp
    1 like
  3. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI Trong buổi giới thiệu Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài tại hội trường Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam, tôi đã phát biểu: "Công trình nghiên cứu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền, là nét vẽ cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh mô tả Việt sử 5000 năm văn hiến". Bởi vì một nền văn minh được thừa nhận thì phải có chữ Viết để duy trì và phát triển nên văn minh đó. Đây là một điều kiện hiển nhiên để minh chứng rõ hơn khi xác định một nền văn minh đã tồn tại. Nhưng điều kiện này không phải là một tiêu chí bắt buộc. Bởi vì khi một nền văn minh được xác định thì tất yếu nó phải có chữ viết. Vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào mà thôi. Đó là nội dung của lời phát biểu của tôi trong hội thảo. Bởi vậy, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn của nền văn minh Đông phương, khi đã hoàn chỉnh về mọi phương diện thì tất yếu nền văn minh này phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Tất nhiên, nó không phải là hệ thống 30. 000 từ gọi là Hán Việt - thực chất là Việt Nho - đó. Quí vị lớn tuổi chắc cũng biết là trước đây, người ta đã cố gắng chuẩn hỏa một dạng ngôn ngữ gọi là "quốc tế ngữ". Tất nhiên nếu thành công thì những ngôn ngữ phổ biến hiện nay là Anh , Pháp, hoặc Hin đu, Trung Hoa..., đều không cần dùng đến trong giao dịch quốc tế. Ở Việt Nam, lúc tôi còn là một gã thanh niên mới lớn, đã gặp không ít kẻ mặt vênh lên khi khoe khoang là đi học cái gọi là "quốc tế ngữ", khiến tôi phải ngậm ngùi vì sự dốt nát của mình. Nhưng đến nay, cái gọi là "quốc tế ngữ" đó, không phổ biến bằng tiếng Ai Cập cổ đại. Chưa hết, chính người Trung Hoa, bằng mọi cố gắng vẫn không thể nào chuẩn hóa được ký tự chữ Hán ra chữ Latin. Qua đó, với hệ thống 30. 000 từ tiếng Việt Nho ấy, không thể từ trên trời rơi xuống, ưu ái cho những học giả "mũ cao áo dài", học vị lủng xủng, lẻng xẻng căn cứ vào đấy để rung đùi phát biểu rằng: Ngôn ngữ Việt - là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Ngay cả Hoa Kỳ siêu cường số một thế giới, qua hơn 200 năm lập quốc, cũng chưa có ngôn ngữ và tiếng nói riêng của mình. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng: Trừ những kẻ cố tình phủ nhận những gía trị văn hóa truyền thống Việt sử vì một mục đích nào đó - Còn nhưng ai có chút tỉnh táo của tư duy khoa học, cần suy ngẫm cho kỹ khi cho rằng: ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và lệ thuộc văn hóa Hán với những từ gọi là Hán Việt trong ngôn ngữ Việt. Với hệ thống 30. 000 từ Việt Nho, quen gọi là Hán Việt ấy, phải là sản phẩm của văn minh Việt tộc từ trước thời Bắc thuộc. Chỉ có quốc gia Văn Lang - một thể chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại (2622 năm) và những bậc trí giả thực sự của nền văn hiến Việt mới có thể hệ thống hóa và Việt hóa, từ một ngôn ngữ cao cấp vượt trội, mới hệ thống hóa được 30. 000 từ và ký tự Hán ra tiếng Việt. Tất nhiên, một nền văn minh sở hữu một ngôn ngữ cao cấp thì phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Đó là điều hiển nhiên và không cấn phải chứng minh. Nhưng nếu xác định được một hệ thống chữ viết của nền văn minh đó thì sẽ làm sinh đông thêm những chứng lý cho sự tồn tại hoàn hảo trực quan cho nền văn minh đó. Do đó, vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào? Chữ Khoa đẩu trên trống đồng Lũng Cú - đặt tại bảo tàng Pháp tại Paris. Có thể nói rằng: nếu xét về mặt tổng quát thì có thể xác định rằng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ Việt cổ là chữ Khoa đẩu. Điều này rõ ràng. Dấu ấn của chữ Khoa Đẩu rải rác khắp nơi từ Đài Loan (Có vĩ tuyến ngang với sông Dương Tử, ngay cả chữ Nhật Bản vẫn còn lưu lại dấu ấn của chữ Khoa Đẩu, Đồng bào Tày Thái cũng sử dụng chữ Khoa Đẩu (có một bức ảnh dạy học Bình dân học vụ vào năm 1945, 46 mô tả một giáo viện dạy học đồng bào Tày Thái bằng chữ khoa đẩu. Đã đưa lên diễn đàn). Quí vị quan tâm chỉ cần lên Goolge gõ chữ "Khoa đẩu " là có hàng tá tư liệu về vấn đề này. Dạy chữ Việt cổ trên vùng cao Cho đến thế kỷ XVII, Nguyễn Hữu Chỉnh trong cuộc họp nội các, cũng đã bàn đến việc sử dụng chữ Khoa Đẩu cho dân tộc Việt để chứng tỏ tính độc lập với văn hóa Hán. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh đã bác bỏ đề xuất này (Tư liệu của tôi đã đưa lên diễn đàn, khi tìm được tôi sẽ bổ sung sau). Di sản hệ thống chữ Khoa đẩu tìm thấy ở Lào Cai. Tôi nghĩ rằng chỉ cần như vậy cũng quá đủ để xác định nền văn minh Việt đã có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh. Vấn đề cụ thế hệ thống chữ viết đó như thế nào . Cụ Khánh Hoài đã trình bày một cách rất cụ thể và chi tiết hệ thống ngôn ngữ Việt, trên cơ sở sưu tầm và tổng hợp những di sản còn lại của hệ thống chữ Khoa đẩu của Việt tộc. Cụ Khánh Hoài đã căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc để chứng minh cho hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình bày. Cụ đã chứng minh rằng: Toàn bộ hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ trình bày, hoàn toàn phủ hợp với những tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc. Phương pháp chứng minh của cụ hoàn toàn tương tự như phương pháp chứng minh của tôi, khi tôi phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Sự trùng hợp giữa hai phương pháp chứng minh này, bởi vì cả hai đều chứng minh cho những hệ thống thuộc di sản văn hóa phi vật thể. Đó là một hệ thống lý thuyết cổ xưa và một hệ thống chữ viết đã thất truyền. Như phần trên tôi đã trình bày: Tôi đã theo cụ Khánh Hoài nhiều năm và tìm hiểu, so sánh đối chiếu rất kỹ những chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc với hệ thống chữ Viết mà cụ Khánh Hoài công bố, tôi mới nhiệt tình ủng hộ cụ với tư cách ủng hộ một chân lý đã được làm sáng tỏ. Tôi cần phải xác định lại một lần nữa rằng: Không phải dễ dàng tạo dựng cả một hệ thống chữ viết hoàn toàn phù hợp với ngôn ngữ của cả một dân tộc và những tiêu chí là chuẩn mực cho hệ thống chữ viết của dân tộc đó. Đây là điều mà tôi đã chứng minh ở trên. Sự thất bại của hệ thống Quốc tế ngữ, của những cố gắng Latin hóa ngôn ngữ Hán....ở cấp quốc gia và quốc tế, đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, cụ Khánh Hoài với tư cách là một cá nhân không thể tự mình tạo ra một hệ thống chữ viết cho cả một dân tộc - nếu như nó không phải là một thực tế đã tồn tại một cách khách quan trong quá khứ và chỉ để lại những di sản mờ nhạt. Cụ Khánh Hoài đã chứng minh: 1/ Hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình hoàn toàn phủ hợp với những ký tự cổ được xác định là của Việt tộc tồn tại rải rác trong những bản văn còn sót lại, như: Thanh Hóa Quan phong, Tự điển Việt Bồ La... Đây là những di sản tồn tại khách quan. Do đó, sự phù hợp của hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dung chứa những ký tự trong những di sản còn lại, tồn tại một cách hợp lý trong hệ thống đó, hoàn toàn không thể là sự áp đặt chủ quan. 2/ Những tiêu chí cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc hoàn toàn phủ hợp với hệ thống chữ Việt cổ mà cụ đã trình bày. Như vậy, những chứng lý khách quan và khoa học đã được thực hiện đầy đủ và là một công trình nghiên cứu thực sự của một trí tuệ thông minh. Bởi vậy, những ý kiến phản biện - nếu có - phải chỉ ra: 1/ Mâu thuẫn giữa hệ thống chữ Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày với chính những tiêu chí khoa học mà cụ đã nêu. 2/ Phải chỉ ra và những ký tự trong các bản văn cổ - là những di sản tồn tại khách quan - mà cụ trình bày trong hệ thống chữ Việt cổ của cụ là ...không có thật. Chẳng một nhà gọi là "khoa học" mũ cáo áo rộng, bằng cấp lùng bùng nào ở Việt Nam thực hiện được điều này. Nhưng họ vẫn nhao nhao phản đối, mà đáng nhẽ ra họ là người có trách nhiệm phục hồi và chứng minh điều đó, chứ không phải cụ Khánh Hoài với động cơ mà họ gán cho là "Tinh thần yêu nước" trong công trình nghiên cứu của cụ. Duy nhất có giáo sư Lê Trọng Khánh đặt vấn đề hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Thái. Thực chất đây không phải yếu tố phản biện, mà chỉ là đặt vấn đề đối chiếu. Tôi vốn không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng tôi có thể xác định ngay rằng: Giả thiết hệ thống ký tự của đồng bào Tày Thái trùng khớp gần như hoàn toàn với những ký tự trong hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày - tức là giả thuyết thuận lợi tối ưu cho cách đặt vấn đề này - thì điều đó không có nghĩa phủ nhận hệ thống của cụ Khánh Hoài không phải của người Việt cổ. Bởi những yếu tố sau đây: 1/ Dân tộc Tày Thái đã có chữ viết thì tất yếu dân tộc Kinh phải có chữ viết. 2/ Dân tộc Tày Thái là một bộ phận của nhà nước Văn Lang xưa ở Nam Dương tử, cho nên phải có mối liên hệ văn hóa và khả năng họ dùng chung một hệ thống ký tự với Việt tộc hoàn toàn không có gì là lạ. Nhưng chắc chắn với những ngôn ngữ khác nhau giữa Việt tộc và dân tộc Tày Thái thì cấu trúc mô tả ngôn ngữ của những ký tự chữ viết thể hiện ngôn ngữ khác nhau, không thể giống nhau. Một minh chứng cho vấn đề này chính là rất nhiều quốc gia sử dụng hệ thống chữ Latin. Nhưng rõ ràng chữ Quốc Ngữ của người Việt hiện nay thì không phải cấu trúc mô tả tiếng Anh của hệ thống chữ Latin này. Tất nhiên, chẳng ai bảo hệ thống chữ Quốc Ngữ hiện nay không phải hệ thống chữ Việt vì nó giống chữ Latin của các dân tộc khác trên thế giới. Bởi vậy, cá nhân tôi - nhân danh cá nhân - tôi xác định rằng: Hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dày công tìm tòi, hoàn toàn đầy đủ yếu tố khách quan của một công trình nghiên cứu khoa học đúng nghĩa. Còn số đông không thừa nhận, đấy là chuyện của họ. Số đông không quyết định tính chân lý. Mà nó chỉ quyết định sự phố biến của một trí thức nền tảng trong xã hội. Có một nhà khoa học đã hỏi tôi: "Ý kiến của anh về hệ thống chữ Việt cổ của ông Khánh Hoài như thế nào?". Tôi trả lời: "Hoàn toàn là một công trình khoa học thực sự!". Hôm nay tôi trình bày sự biện minh của cá nhân tôi ở đây về tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền. Tôi có niềm tin chắc chắn rằng: Không ai có thể phản biện được những luận cứ của cụ Khánh Hoài. Điều này cũng giống như tôi thách tất cả "cộng đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" có quan điểm phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống Việt, chứng minh được rằng: "Thành Cổ Loa chính là Loa thành của An Dương Vương Thục Phán". Còn tiếp ====================== VÀI TƯ LIỆU LIÊN QUAN NHỮNG DẤU ẤN CỦA CHỮ KHOA ĐẨU. Trong một lần đi mua xôi sáng từ "thời xa vắng", Thiên Sứ tôi thấy bà bán xôi có một xấp giấy in roneo dùng để gói xôi. Thoáng nhìn thấy mấy chữ "Thời Hồng Bàng" và chữ "Khoa Đẩu", tôi vội đề nghị đổi ngay một tập vở giấy trắng mới tinh, vừa mới mua dùng để viết giải Tử Vi cho khách hàng kiếm tiền lay lứt qua ngày. Và quả là những tư liệu quý với tôi liên quan đến chữ Khoa Đẩu. Tất nhiên, thứ "tư liêu tham khảo" nhặt được từ con mẹ bán xôi dạo, chẳng bao giờ là "cơ sở khoa học" để được "khoa học công nhận" cả. Nhưng cái vấn đề chính là ở chỗ nó cho tôi và chúng ta biết người ta đã nói gì về thời Hùng Vương và chữ Khoa Đẩu. Tôi cứ tưởng đã mất tư liệu này sau ngót cả chục lần dọn nhà. Nhưng may quá, nhân một yêu cầu của nhóm cải cách tôi đi tìm lại một bộ hồ sơ thì thấy được tài liệu này. Tôi xin chụp ảnh vài đoạn và đưa lên để anh chị em và quí vị quan tâm tham khảo. Phần này của tài liệu xác định sách Kim Cổ kỳ quan đã nói đến "chữ khoa đẩu" của man sứ khiến vua Đường Minh Hoàng không đọc được. Sự tích Lý Bạch không đọc được quốc thứ từ man sứ là một sự tích nổi tiếng. Trong đó quan Trung Thư phải cởi giầy, quan Thái Úy phải mài mực. Sự tưởng thưởng của vị vua đào hoa nhất đời Đường này với Lý Bạch là cho phép ông được uống rượu thả giàn trên khắp đế chế nhà Đường và ngân khố của huyện phải trả cho ông ta. Tài năng của Lý Bạch đã giúp cho đế chế đời Đường giữ thể diện của nhà cầm quyền trước sứ giả lân bang, chỉ vì ông đọc được loại chữ này. Phần này của tài liệu cũng xác định các dòng chúa Trịng đã dùng chữ Khoa Đẩu làm chữ riêng- lúc ấy không còn phổ biến như một loại chữ chính thống - nhưng vẫn có người dùng và đọc được, để ghi gia phả cho dòng dõi nhà Trịnh. Đây là tư liệu đáng chú ý. Nó xác thực cho việc chữ khoa đẩu vẫn còn có người dùng đến thế kỷ XVIII và là cơ sở để các giáo sĩ Tây phương vốn thâm nhập để giảng đạo cho tầng lớp bình dân và đã thu lượm được loại chữ này làm tiền đề cho loại chữ Latin dùng cho người Việt sau này. Đây chính là một trong những luận cứ quan trọng của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền. Tôi sẽ giới thiệu với quý vị quan tâm và anh chị em toàn bộ tư liệu này vào buổi sáng. =========================== Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. Mục Đồng THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.
    1 like
  4. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI Việc công bố hệ thống chữ Việt cổ của nhà văn Khánh Hoài đã gây sự chú ý đặc biệt của dư luận. Hầu hết các nhà nghiên cứu có tên tuổi đều tỏ ý phản bác và không công nhận, khiến đến nay nó bị "chìm xuồng". Trong các ý kiến phản bác thì đáng chú ý nhất là lập luận của Giáo sư Lê Trọng Khánh. Còn các nhà khoa học khác chỉ là phản bác chung chung, theo kiểu "chưa có cơ sở khoa học", hoặc là "ghi nhận tinh thần yêu nước"....Đối với các nhà khoa học khác, lập luận của họ không có gì để phải tranh luận. Vì họ không hề có luận điểm phản biện rõ ràng. Trên thực tế - thể hiện qua thông tin báo chí, họ chỉ lấy cái danh vị học thuật để phủ nhận chung chung. Những luận điểm phản bác loại này, tôi đã biện minh và phản biện trong một chủ đề riêng trên diễn đàn này, quí vị quan tâm có thể tham khảo theo đường link dưới đây: http://diendan.lyhoc...va-chu-viet-co/ Nhưng với giáo sư Lê Trọng Khánh, ông đưa ra luận điểm học thuật là: Hệ thống chữ Khoa đẩu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài có nguồn gốc từ hệ thống chữ Tày - Thái. Đây là vị học giả duy nhất đưa ra luận điểm học thuật dể phản biện nhà nghiên cứu Khánh Hoài. Thực ra, trong bài viết của mình, tôi đã biện minh cho nhà nghiên cứu Khánh Hoài trước luận điểm của giáo sư Lê Trọng Khánh. Nhưng nó chưa mang tính hệ thống và tập trung. Nên tôi giành riêng bài này để thể hiện tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Khoa đẩu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài và chứng minh luận điểm của giáo sư Lê Trong Khánh chỉ xuất phát từ cái nhìn cục bộ. Giáo sư Lê Trọng Khánh là người có nhiều năm nghiên cứu về chữ Khoa Đẩu và ông có nhiều công trình nghiên cứu về loại chữ này. Ông là người tôi rất kính trọng, vì chính ông đã giới thiệu tôi với cơ quan văn hóa Lào Cai, để tạo điều kiện thuận lợi trong dịp khảo sát bãi đá cổ Sapa từ 15 năm trước. Ông cũng tặng tôi nhiều sách của ông nghiên cứu về chữ Việt cổ. Trong sự tranh biện học thuật này, tôi vẫn giữ sự kính trọng với ông, khi làm sáng tỏ chân lý của vấn đề. Trong phản biện học thuật, nhất là đối với một công trình có tính chất phục hồi những giá trị tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với một tính thần được gọi là "yêu nước" thì tôi nghĩ nó phải là một sự phản biện nghiêm túc của những người có bằng cấp và được gọi là học giả. Một sự phản biện nghiêm túc trong học thuật là: Người phản biện phải chỉ ra cái sai trong hệ thống luận cứ của công trình học thuật bị phản biện. Ở đây, qua đường link thể hiện những ý kiến của những học giả tên tuổi trên phương tiện truyền thông chính thống thì chỉ là sự phủ nhận trắng trợn với thái độ vô trách nhiệm, qua sự thể hiện không quan tâm đến văn hóa cội nguồn dân tộc, mà chí ít là chính họ cho rằng: "Thể hiện lòng yêu nước" của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Chẳng phải ngẫu nhiên, cá nhân tôi sử dụng chuẩn mực Việt sử 5000 năm văn hiến để đo tất cả mọi sự kiện, hiện tượng cho đến từng hành vi của con người trên thế gian. Cá nhân tôi, không phải dễ dàng chấp nhận ngay cả những công trình nghiên cứu có xu hướng chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến - Nếu như những công trình đó có những lập luận không chặt chẽ. Rất nhiều người công bố các công trình nghiên cứu của họ, chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, liên quan đến Lý học Đông phương. Nhưng từ nhiều năm nay, tôi vẫn chỉ trung thành với những phương pháp và luận điểm của mình. Ủng hộ một luận điểm sai về mặt học thuật, dù cùng có một mục đích, sẽ gây ảnh hướng rất lớn đến hệ thống luận điểm của tôi. Chưa nói đến việc nó thể hiện sự hồ đồ, dốt nát khi ủng hộ một luận điểm sai. Nhưng với vấn đề chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, tôi chiệm nghiệm rất kỹ. Tôi theo cụ Xuyền nhiều năm, từ 2007, qua những buổi trình bày của cụ, tìm hiểu và so sánh đối chiếu từ phương pháp nghiên cứu, tư liệu, những bằng chứng cụ dẫn và những luận cứ của cụ. Tôi được cụ tặng rất nhiều sách của cụ và những tư liệu liên quan, kể cả cuốn Tự điển Việt Bồ La. Khi tôi nhận thấy hệ thống luận cứ của cụ thật sự phù hợp với tính khách quan khoa học, tôi mới tích cực ủng hộ. Tôi bỏ sang một bên tất cả sự phản đối chung chung của những học giả vô trách nhiệm, quay lưng lại với cội nguồn văn hóa dân tộc. Ở đây, tôi chỉ trình bày sự biện minh của tôi với hệ thống chữ Việt cổ của ông Đỗ Văn Xuyền trước vấn đề được đặt ra của giáo sư Lê Trọng Khánh. Còn tiếp
    1 like
  5. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. Vì là người Việt, tiếp xúc với ngôn ngữ Việt, nên học bất cứ một ngoại ngữ nào thì cảm nhận đầu tiên là: các bài tập dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt đều rất dễ. Nhưng từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài rất khó. Nhưng vì đang học tiếng nước ngoài chưa thật thông thạo, nên cứ nghĩ là tại mình chưa hiểu hết, nên khó dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, tôi cần phải xác định với bạn đọc về một chân lý hiển nhiên là: một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác ra ngôn ngữ đó. Ngược lại, một ngôn ngữ kém phát triển hơn thì rất khó dịch từ ngôn ngữ đó ra ngôn ngữ cao cấp hơn. Đó là nguyên nhân chính để dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt rất dễ. Ngược lại thì rất khó là vậy. Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt có khả năng dịch tất cả các văn bản từ các ngôn ngữ trên thế giới ra ngôn ngữ Việt, ngược lại không phải các ngôn ngữ nào cũng có thể dịch một cách hoàn hảo các bản văn tiếng Việt ra ngôn ngữ đó. Thực tình lúc đầu khi tìm hiểu về cội nguồn Việt sử, tôi cũng chưa nghĩ đến điều này. Nhưng vào đầu năm 2000, hay 2001 gì đó, tôi làm một trang web để trình bày những luận điểm của tôi. Tôi đặt cái tựa là Việt sử 5000 năm văn hiến. và yêu cầu bên làm web có câu tiếng Anh kèm theo. Họ nói với tôi: Trong tiếng Anh không có từ văn hiến. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên. Bởi vì không lẽ một ngôn ngữ quốc tế bao trùm mọi lĩnh vực mà lại không có từ này? Nhưng cho đến tận ngày hôm nay, quả là tiếng Anh không có từ này thật. Cuối cùng, để dịch thoát ý từ "văn hiến", tôi đề nghi dùng thuật ngữ là "nền văn hóa hướng thượng". Ngay cả tiếng Hán, một nền văn hóa mà rất không ít người ra rả như ve sầu rằng: Nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng từ văn hóa Hán, Hay tệ hơn, họ coi là nền văn minh Hán là chủ thể của văn hóa Việt. Cả thế giới tin điều đó. Nhưng thực ra, vấn đề hoàn toàn ngược lại: Chính nền văn hóa Việt là chủ thể của nền văn hóa Hán, sau khi nền văn minh Văn Lạng sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử. Tất nhiên, nó thể hiện ngay trong ngôn ngữ Việt. Trước hết tôi xin nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Có thê nói cả thế giới tin rằng nó có cội nguồn từ văn minh Hán. Nhưng sự thực hiển nhiên và sờ sờ ra đấy , là các nhà nghiên cứu Hán hiện đại - tức là tri thức của họ tồng hợp cả một qúa trình lịch sử của một nền văn minh - lại không thể chứng minh được thuyết Âm Dương Ngũ hành ra đời vào lúc nào trong lịch sử văn minh Hán. Chưa hết, trong tất cả các bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - tính từ khi nền văn minh Việt sụp đổ ở Nam Dương Tử - chưa hề có một cuốn sách Hán ngữ nào mô tả - dù chỉ là tóm tắt sơ lược nội dung của học thuyết này?! Mặc dù hệ thống phương pháp luận của nó lại thể hiện rộng khắp trên tất cả các phương pháp ứng dụng: Dự báo, gồm Tử Vi, Bốc Dịch, Thái Ất, Độn giáp....vv...hoặc kiến trúc xây dựng (Phong thủy; Y học (Đông Y)....?! Tất cả đều rất mơ hồ và bí ẩn. Cho nên cả thế giới hiện đại đã coi nền văn minh Đông phương vốn mặc định từ văn minh Hán, hoàn toàn là huyền bí! Ngay cả khi hai nền văn minh Tây phương và Đông phương giao tiếp thì trí thức của cả hai nền văn minh này - gồm có nền văn minh Đông phương được mặc định từ văn minh Hán với những bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - cũng không thể phục hồi được của cái mà chính nền văn minh Hán tự nhận là của mình. Về vấn đề này, đã nhiều năm tôi đã chứng minh rằng: Cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. Bởi vì, chỉ có nền văn hiến Việt với những di sản văn hoa truyền thống của người Việt - dù đã tan nát qua hơn 2000 năm lịch sử hiện đại - mới có khả năng phục hồi và làm sáng tỏ được học thuyết này. Chỉ có chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương, mới có thể làm sáng tỏ được sự bí ẩn huyền vĩ của nó. Đương nhiên, khi Việt tộc là chủ nhân đích thực của văn minh Đông phương thì có thể xác định rằng: ngôn ngữ Việt không thể là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Đây là điều hiển nhiên. Bởi vì ngôn ngữ Việt khác hẳn ngôn ngữ Hán, ít nhất là cách phát âm hoàn toàn khác nhau, như tiếng Tây với tiếng Tàu vậy. Một ngôn ngữ cao cấp trong tất cả các ngôn ngữ hiện đại, nếu nó không phải là nguồn gốc của tất cả những ngôn ngữ liên quan đến nó thì nó cũng không thể có cái gọi là "nguồn gốc" từ bất cứ ngôn ngữ nào. Cho dù người ta có thể tìm thấy mối liên hệ gần giống giữa vài cách phát âm. Cũng không ít các học giả, nhà nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ Việt có nguồn gốc từ Mã Lai, Nam đảo gì đó, vì so sánh một vài hiện tượng cục bộ. Nếu giả thuyết về nguồn gốc Mã Lai, Nam Đảo là đúng, vậy thì cái ngôn ngữ Hán đóng vai trò gì trong việc ảnh hưởng đến ngôn ngữ Việt trong ngôn từ? Chẳng một học giả nào tìm thấy mối liên hệ giữa ngôn ngữ Việt từ ngôn ngữ Hán. Nhưng họ lại cho rằng 70% tiếng Việt có gốc là từ Hán Việt, như là một bằng chứng cho văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán. Thật là một sự mâu thuẫn đến ngược đời khi đem đặt lập luận của họ cạnh nhau. Cụ Lê Gia thống kê có 30. 000 từ tiếng Việt có gốc Hán Việt. Cụ Lê Gia rất giỏi chữ Nho, tôi rất quý và kính trọng cụ, nhưng tôi tin cụ không giỏi tiếng Tàu. Các nhà nghiên cứu cứ bám vào số lượng từ Hán Việt từ chữ Nho để xác định văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán tộc. Nhưng rất tiếc! Cách phát âm của hơn 30. 000 chữ Nho trong ngôn ngữ Việt khác hoàn toàn ngôn ngữ Hán khi cùng đọc một ký tự, mặc dù có một số những từ gần giống. Ấy là khi dịch ra tiếng Việt thì phát âm lại càng khác hẳn. Tôi thí dụ như câu sau đây trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đọc theo Việt Nho là: Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán * 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Tiếng Việt khi đọc từ Việt Nho như tôi đã trình bày. Nhưng tiếng Hán lại phát âm khi đọc các từ trên như sau: Lia lia sing khí xi xu giai shấu. 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Zdén zdén xeo kủ xi shứ chha ooan. 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Rõ ràng cách phát âm khác hẳn nhau giữa từ Việt Nho và tiếng Hán cho cùng một ký tự. Còn dịch ra tiếng Việt lại càng khác xa về phát âm: Lớp lớp sông cờ hề sầu ra ải Inh ỏi tiêu trống hề oán ly gia * Vậy với 30. 000 từ chiếm 70 % ngôn ngữ Việt thì người Việt sao không nói luôn tiếng Hán trong suốt 1000 năm đô hộ đó, mà phải mất công Việt hóa trên 30. 000 từ để phổ biến trong tiếng Việt làm gì?! Từ đây vấn đề được đặt ra: 1/ Ngay bản thân người Hán vào đầu thế kỷ XX - tức là một xã hội rất phát triển với mọi quan hệ xã hội phức tạp, bao gồm cả đời sống sinh hoạt xã hội và quan hệ xã hội - so với hàng ngàn năm trước đó; nhưng họ chỉ cần 1000 chữ phổ thông để xóa nạn mù chữ. Vậy xuất phát từ nhu cầu gì của người Việt để cần phải có cả một hệ thống hơn 30. 000 từ tiếng Việt Nho trong việc mô tả từ Hán? 2/ Chủ thể xuất xứ để tạo ra cả một hệ thống tiếng Việt Nho - quen gọi là từ Hán Việt ấy - là tổ chức nào trong lịch sử? Bởi vì, để tạo ra cả một hệ thống gần 30. 000 từ đó, cần phải có một tập hợp những tri thức cao cấp, chuyên ngành làm việc một cách qui mô và có tính hệ thống trong một cơ chế tổ chức chặt chẽ. Chưa hết, hệ thống gồm 30. 000 từ Việt Nho này còn cần những quyết định cấp quốc gia để phổ biến và lưu truyền đến ngày nay. Nó không phải chỉ vài chữ như "bánh dầy" hay "bánh giày", "Thúy" hay "Thúi" , "Cố Ngự" hay "Cổ Ngư" do vài nhà ngâm cứu đề xuất, mà còn rất chật vật. Đây là cả một hệ thống ngôn ngữ Việt Nho với cái mà chính những người phủ nhận truyền thống văn hiến Việt cho là : 70% tiếng Việt liên quan đến ngôn ngữ Hán. Híc! Trong lịch sử hơn 2000 năm nay của cả Trung Quốc và Việt Nam - tức sau khi nhà nước Văn Lang của Việt tộc sụp đổ ở bờ Nam Dương Tử - không hể nói tới một tổ chức quốc gia và một tập hợp qui mô của những nhà tri thức để có hệ thống 30. 000 từ Việt Nho này. Tất nhiên, vì nó không hề xảy ra vào thời Hán tộc xâm lược và cai trị Việt tộc ở Nam Dương tử. Chính tính qui mô của hệ thống Việt Nho và - xin lỗi - ngay thời hiện đại với tập hợp những nhà tri thức chuyên ngành với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng không thể thực hiện được một cách dễ dàng. Chưa nói đến từ hàng ngàn năm trước. Điều hiển nhiên này đã bác bỏ xuất xứ Hán của hệ thống Việt Nho, không thể do người Hán tạo nên trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt. mặc dù ngay từ đầu có thể không phải có ngay 30. 000 từ như vậy. Thưa quí vị. Nếu thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" và "địa bản sinh hoạt chỉ vỏn vẹn ở đồng bắng sông Hồng" thì không cần thiết phải Hán hóa ký tự Hán ra ngôn ngữ Việt. Còn tiếp ============================ * Theo wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm
    1 like