-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 30/07/2018 in all areas
-
LUẬN TUỔI LẠC VIỆT.
Aki Cho and one other liked a post in a topic by phamhung
LUẬN TUỔI LẠC VIỆT. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Nguyễn Vũ Diệu) NHẬP ĐỀ. Cho đến tận ngày hôm nay, khi tiếp các thân chủ đang trong tuổi yêu đương, dựng vợ gả chồng của các bạn trẻ. Tôi thấy những bậc phụ huynh vẫn cố chấp và đôi lứa trẻ vẫn đau lòng về việc bị cha mẹ cấm cản, vì một nguyên nhân lãng nhách, là nghe lời các thày bà nửa mùa, dốt nát. Họ căn cứ vào những kiến thức di sản đã thất truyền và sai lệch từ các bản văn cổ chữ Hán, để cho rằng có những đôi lừa không thể lấy nhau vì không hợp tuổi. Hậu quả của những sự thất truyền và sai lầm này, đã gây ra những kết cục bi thương cho họ. Thậm chí có những đôi lứa tự tử để quyết sống bên nhau, vì lời phán của các loại thày, bà dốt nát. Bởi vậy, hôm nay, tôi quyết định viết lại rõ ràng về phương pháp "LUẬN TUỔI LẠC VIỆT", mà tôi đã dày công nghiên cứu và đã công khai công bố trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn, từ hàng chục năm trước. Có thể nói: Công trình nghiên cứu này đã phổ biến trong tất cả các cao thủ Địa Lý Lạc Việt và các nhà Lý học thiện tâm ứng dụng. Nhưng nó chưa thật sự phổ biến rộng khắp, như một giáo trình Lý học ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành - với tư cách là một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VŨ TRỤ. Ngày nay, nhờ mạng xã hội và cảm ơn hệ thống Facebook, tôi - Lão Gàn Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh - viết và công bố lại ở đây công trình nghiên cứu về mối quan hệ gia đình trong luận tuổi Lạc Việt với sự bổ sung hoàn hảo nhất,về phương pháp này - nhân danh những gía trị đích thực của Lý Học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt. Tôi viết lại bài viết này với một hy vọng rằng: Sẽ giúp cho đôi lứa yêu nhau thực sự, đủ tự tin để đến với nhau và xây dựng hạnh phúc bên nhau trọn đời với "Luận tuổi Lạc Việt". Tôi cũng hy vọng rằng: "Luận tuổi Lạc Việt" sẽ giúp cho các bậc phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn bản chất đích thực của nền văn hiến Việt, thực sự nhân bản với tình yêu con người, hoàn toàn phù hợp với những quy luật tự nhiên trong vấn đề phát triển cuộc sống và xã hội. Từ đó họ sẽ ứng dụng hệ thống tri thức này, hướng dẫn con cái đi tìm hạnh phúc đích thực. Xin cảm ơn vì đã quan tâm, chia sẻ. Còn tiếp. Ngày Tam Nương sát 18. 6. Mậu Tuất Việt lịch. Nhằm ngày 30. 7. 2018. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. BẮT ĐẦU TỪ HÌNH TƯỢNG THẦN TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN TRONG NHỮNG NỀN VĂN MINH CỔ. Có lẽ tất cả mọi người trên thế giới này, đều biết đến một hình ảnh phổ biến của thần Tình Yêu, có xuất xứ từ nền văn minh Hy - La. Đó là một chú bé rất xinh xắn, trên lưng có đôi cánh và bộ cung tên bằng vàng. Chú bé cười như nắc nẻ, mỗi khi bắn một mũi tên xuống trần gian và bao giờ nó cũng xuyên qua hai trái tim, một nam, một nữ. Thế là họ phải lấy nhau, như một định mệnh đã an bài. Đó là thần Eros hay Cupid trong thần thoại Hi – La, là xuất xứ ban đầu của nền văn minh phương Tây. Thần Cupid có lúc hiện thân là một thanh niên thân hình tráng kiện với những đường nét chuẩn của tỷ lệ vàng, mà chúng ta thấy ở tượng David của Michelangelo. Vị thần này ngồi trên xe có đôi Thiên Nga trắng kéo. Còn Thần Eros hiện đại và văn minh hơn, lắp ngay đôi cánh Thiên Nga trên lưng mình và hỗ trợ sự di chuyển bằng bánh xe lửa có cánh. "Chúa không chơi trò xúc xắc". Đấy là câu nói nổi tiếng của Anbert Einstein. Nhưng vị thần Tình Yêu trong thần thoại Hy La này có vẻ như chơi trò xúc sắc, khi hứng thú bắn những mũi tên tình yêu của mình. Trong nền văn minh cổ đại của Ấn Độ, thì vị thần Tình Yêu có vẻ chững trạc hơn. Thần hiện thân là một chàng trai tuấn tú, thân hình chuẩn sáu múi do tập thể dục thể hình thường xuyên, chứ không phải là một đứa trẻ hồn nhiên, vô tư với tâm hồn trong trắng, thánh thiên. Ngài cũng có bộ cung tên như hai vị thần tình yêu của Hy La. Nhưng có điều ngài lại ngồi trên xe, do một chú vẹt lắm chuyện kéo xe. Một hiện tượng đáng chú ý là: Thần Tình yêu Ấn Độ, dám chống lại cả Brahma, Shiva, là những vị thần tối cao của Ấn Độ. Nhưng thần tình yêu của Hy La lại là kết quả của tình yêu giữa thần Jupiter lắm vợ với nữ thần Venus. Giống như thần thoại Hy Lạp, thần Tinh yêu Ấn Độ cũng dùng mũi tên của mình để kết nối lứa đôi như thần Tình yêu Hy La. Nhưng có lẽ vị thần Tình yêu của xứ sở cary này, khác hẳn hai vị thần Hy La nói trên, bởi chính danh xưng của vị thần này. Ngài có tên là Kama. Tên của vị thần có từ thời rất cổ xưa này, phát âm gần giống với từ "karma", tức là "Nghiệp chướng" trong triết học Ấn Độ cổ và trong Phật giáo. Đây là một điểm khác biệt hẳn, so với sự vô tư và hồn nhiên, khi kết hợp hôn nhân đôi lứa qua hình tượng đứa trẻ trong thần thoại Hy La với thần thoại Ân Độ. Tên thần Tình Yêu Ấn Độ, đã mang bóng dánh của một định mệnh được an bài. Mà trong đó, tình yêu và hôn nhân thực sự là hậu quả của "nghiệp chướng" karma, ẩn chứa đằng sau sự vô tư khi ban phát tình yêu của thần Kama. "Duyên tình hay nghiệp oan khiên? Mà sao mãi mãi trăng đêm nhắc sầu?! Trăng non bến giang đầu vừa hé. Nghe gió than khe khẽ bên bờ..." Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh phải thốt lên như vậy! Thưa quý vị và các bạn! Trải dài từ nền văn minh cổ Hy La, cho đến Ấn Độ, chúng ta thấy có sự chuyển biến từ một tình yêu hồn nhiên, vô tư và mang tính nguyên sơ của thần thoại Hy Lạp, La Mã, đến dấu ấn của một kết quả có tính nhân quả - nghiệp chướng - trong thần thoại Ấn Độ. Có vẻ như điều này đã dần sáng tỏ danh ngôn của ngài Albert Einstein: "Chúa không chơi trò xúc sắc". Và điều này được khẳng định trong văn minh Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt. THẦN HÔN NHÂN TRONG NỀN VĂN HIẾN VIỆT. Mạch hôn nhân của Hy La vượt qua Ấn Độ, khi đến phương Đông với nền văn minh thứ V cổ xưa ở miền Nam sông Dương Tử - thì tính chất đã khác hẳn. Ở nền văn minh Đông phương, không có thần Tình Yêu. Mà chỉ có vị thần hôn nhân là Nguyệt Lão. Sự tích về Nguyệt Lão được cho rằng có xuất xứ từ thời nhà Đường. Truyện này được mô tả hay nhất trong cuốn "Điển Cố" của Phan Thế Roanh. Sự tích này có nhiều dị bản. Nhưng có thể tóm tắt về hình tượng Nguyệt Lão như sau: Đó là một ông già thường ngồi dưới bóng trăng. Bên canh có chiếc túi chứa đầy những sợi "chỉ hồng" ("Xích thằng"), trên tay ông luôn cầm cuốn sách, trong đó ghi danh tất cả những đôi lứa nam, nữ ở trần gian sẽ phải lấy nhau. Sau khi cân nhắc cẩn thân, Nguyệt Lão lấy sợi chỉ hồng buộc hai người lại với nhau. Và thế là định mệnh đã an bài. Dù cuộc thế bãi bể nương dâu, họ cũng phải đến với nhau và thành vợ, thành chồng. "Dù khi lá thắm, chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. Kiều - Nguyễn Du. Như vậy, trong tiềm thức của nền văn minh cổ Đông phương, không có thần Tình Yêu, không có tỉnh yêu cảm tính, hồn nhiên, như nhiên, vô tư như trẻ nhỏ. Mà đó là sự cân nhắc chín chắn của bậc trưởng thượng, tính toán chi ly mọi yếu tố với sự ghi chép có tư liệu cẩn thận, rồi mới quyết định sự ràng buộc của Định mệnh, bằng sợi chỉ hồng. Theo những truyền thuyết về vị thần Hôn nhân trong văn minh cổ Đông phương, xác định một định mệnh đã an bài và không thể cưỡng lại. Cho dù, nó nằm ngoài ý muốn của con người và cố tình chống lại nó. Rõ ràng ở nền văn minh Đông phương "Chúa không chơi trò xúc sắc". Về nguồn gốc của thần Hôn nhân - Nguyệt Lão - Có vẻ như nó thuộc về văn minh Hán với sự tích phổ biến rộng rãi với nhân vật Vi Cố đời nhà Đường (618-907). Những loại Nho sĩ thuộc hạng "Tầm chương, trích cú"; "Soi từng câu, dò từng chữ", ra rả như ve rằng: Nó có nguồn gốc văn hóa Hớn. Và rằng nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng văn hóa Hớn. Thực ra đó chỉ là loại tầm nhìn xa dưới 10km. Dấu ấn của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử, từ hàng nghìn năm trước - nền văn minh cổ đại thứ V trong lịch sử văn minh nhân loại - chính là sợi chỉ đỏ huyền vĩ buộc định mệnh của những cặp vợ chồng trên thế gian. "Xích thằng" - chỉ Hồng - đó là phát âm nguồn gốc từ LẠC HỒNG mà ra. Từ LẠC trong ngôn ngữ Việt, tiếng Nam Bộ, còn có thể viết và đọc là "LẠT" - sơi dây ràng buộc mọi sự việc, sự vật của thế nhân. Và đấy không phải là bằng chứng duy nhất. Tôi đã chứng minh trên dd lyhocdongphuong và trong các sách đã xuất bản. Đặc biệt tronng cuốn sách: "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" (Nxb TH T/p HCM 2006), và "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" (Nxb Tri thức 2014), về ý nghĩa của cặp "Bánh chưng, bánh dầy". Trong đó, bên ngoài chiếc bánh chưng chuẩn Lạc Việt, mà tổ tiên để lại, phải buộc theo hình "Cửu Cưng Hà Đồ" với bốn sợi "LẠT HỒNG", Tức "LẠC HỒNG" và chính là "Xích thằng" - sợi chỉ đỏ huyền vĩ biểu tượng của dòng dõi Lạc Hồng một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương Tử (Xin xem hình minh họa kèm theo). Một trời huyền thoại Việt, cũng đã làm rung động con tim của một thiên tài kiệt xuất trong thi ca còn ghi dấu ấn đến đời sau, chính là Lý Bạch - một danh nhân thi sĩ đời Đường với bài thơ nổi tiếng: "Mộng Du Thiên Mụ ngâm lưu biệt". Trong đó ông đã mô tả một nền văn hiến giàu chất thần thoại của Việt tộc. Thiên Sứ đã dịch thơ như sau: MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Cảm tác thơ Lý Bạch Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh Khách hải hồ kể mãi xứ Doanh Châu. Cõi huyền thoại nơi chân trời giáp biển. Chuyện thần tiên văn hiến Việt ngàn xưa. Nơi ấy. Lồng lộng trên cao Thiên Mụ chắn ngang trời. Giữa huyền không bời bời. Ngũ nhạc còn bé, Xích thành nhỏ nhoi. Núi Thiên Thai hùng vĩ xuyên mây. Trước Thiên Mụ cũng ngả nghiêng chao đảo. Ta ôm mộng sống trong huyền thoại Việt. Mơ vượt sóng trào hồ Động Đình đất Kính. Xuyên Ngô Việt trong trăng thanh lung linh. Về Diễm Khê thanh bình. Theo bóng trăng đến lều tranh Tạ Linh Vân. Nơi nước biếc soi áng mây thơ thẩn. Hạc kêu, vượn hót Gió giục mây vần. Mượn hài thần Tạ công, ta nhẹ bước thanh vân. Lưng chừng núi chợt thấy mặt trời lồng lộng. Mão Nhật kê tinh gáy gọi hừng Đông Đường đi mênh mông. Mây buông ráng hồng. Chợt trời sập tối. Sầm sập mây trôi. Nghe Kỳ lân gào thét. Tiếng Rồng gầm vang khe. Gió giật chớp loè. Núi tan, non lở. Chợt vỡ toang cửa trời rộng mở. Thăm thẳm huyền vi. Chói loà trời trăng soi lầu vàng, gác bạc. Thiên thần lừng lững bay. Giáp trụ hiên ngang, lấp lánh bẩy sắc cầu vồng. Cưỡi thần mã phi nhanh như gió. Cõi trời huyền thoại Việt. Toàn người đẹp nghiêng thành. Ảo huyền như trăng thanh. Dáng tiên thanh tú . Đông như cỏ manh. Nghe hổ chơi đàn. Hồn Bá Nha chứa chan. Chợt nhìn phượng múa. Vũ khúc Nghê Thường mê man… Giật mình tỉnh giấc mơ vàng. Mang mang như khói hương tàn trôi đi. Ngàn thu qua có nhắc gì? Mơ xưa xứ Việt ngang mi dâng sầu. Đất trời nhắc cuộc bể dâu. Nào mơ danh tướng công hầu mà chi. Thiên Sứ MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Thơ Lý Bạch Bản dịch âm của Khương Hữu Dụng. Hải khách đàm Doanh Châu, Yên đào vi mang tín nan cầu Việt nhân ngữ Thiên Mụ, Vân hà minh diệt hoặc khả đổ. Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành, Thế bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành. Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng, Đối thử dục đảo đông nam khuynh. Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt, Nhất dạ phi đô kính hồ nguyệt. Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh, Tống ngã chí Diễm Khê. Tạ công túc xứ kim thượng tại, Lục thuỷ đãng dạng thanh viên đề. Cước trước Tạ công lý Thân đăng thanh vân thê. Bán bích kiến hải nhật Không trung văn thiên kê Thiên nham vạn hác lộ bất định, Mê hoa ỷ thạch hốt dĩ mính, Hùng bào long ngâm âm nham tuyền. Lật thâm lâm hề kinh tằng điên. Vân thanh thanh hề dục vũ, Thuỷ đạm đạm hề sinh yên. Liệt khuyết tích lịch, Khâu loan băng tồi. Động thiên thạch phi, Hoanh nhiên trung khai. Thanh minh hạo đãng bất kiến để, Nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài. Nghê vi y hề phong vi mã, Vân chi quân hề, phân phân nhi lai hạ. Hổ cổ sắt hề loan hồi xa, Tiên chi nhân hề liệt như ma. Hốt hồn quý dĩ phách động, Hoảng kinh khởi nhi trường ta. Duy giác thì chi chẩm tịch, Thất hướng lai chi yên hà. Thế gian hành lạc diệc như thử. Cổ lai vạn sự đông lưu thuỷ, Biệt quân khứ hề hà thì hoàn ? Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian. Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn. An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý, Sử ngã bất đắc khai tâm nhan! Thưa quý vị và các bạn. Trong nền văn hóa truyền thống Việt còn ghi dấu ấn của "Ông Tơ, bà Nguyệt". Quý vị và các bạn có thể thấy ngay trong hai bức tranh dân gian làng Đông Hồ minh họa dưới đây, một bức miêu tả "Ông Tơ" và một bức miêu tả "Bà Nguyệt". Vậy bà Nguyệt ở đâu ra, khi nếu được coi là "gốc Hớn" với Nguyệt Lão? Nếu thật sự có "nguồn gốc Hớn" thì người Việt "phịa" thêm hình tượng "Bà Nguyệt" vào làm gì? Nhưng nếu xét theo Lý Âm Dương thì hình tượng Bà Nguyệt hoàn toàn hợp lý và mới chính là gốc của mọi vấn đề. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự ứng dụng trong tất cả mọi lĩnh vực, thì luôn tôn trọng quy luật "Cân bằng Âm Dương". "Cô Âm", hoặc "cô Dương" đều coi như sai cách cục. Nhưng trong truyền thuyết về Nguyệt Lão của văn hóa Hớn, thì chỉ có minh "Nguyệt lão" cô Dương trong hình tượng. Đây không phải là cách thiết kế một nội dung câu chuyện huyền thoại có tính minnh triết của nền văn minh Đông phương - nếu là chủ nhân thực sự của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chẳng bao giờ có hạnh phúc lứa đôi, nếu chỉ có một đàn ông, hoặc một đàn bà trong gia đỉnh cả. Nhưng nền văn hiến Việt với thần thoại về "Ông Tơ, bà Nguyệt" lại đủ Âm Dương. Ánh trăng soi sáng cho ông lão ngồi dưới trăng, được tách hẳn thành một nữ thần phụ trách hôn nhân trong văn hóa Việt và thành "Bà Nguyệt". Bà Nguyệt - Âm - mới thật sự chủ đạo trong quyết định hôn nhân và hạnh phúc lừa đôi nam, nữ - vốn thuộc sinh hoạt bản năng - Âm tính của con người. Ông Tơ - Dương - chỉ là người thực hiện cụ thể với sợi "lạt hồng" - "Xích thằng" - để ràng buộc lứa đôi. Đấy chính là nguyên lý "Trong Âm, có Dương" và ngược lại. Trong tổng thể Âm của sinh hoạt bản năng nam nữ thì Bà Nguyệt là Âm, nhưng mang tính chủ đạo và trở thành Dương trước (Trong Âm có Dương); Ông Tơ là tuy hình tượng là Dương, nhưng lại có sau nên là Âm sau (Trong Dương có Âm) và là người thực hiện buộc sơi tơ hồng, nên gọi là "Ông Tơ". Bởi vậy, với những phân tích trện, thì chính nền văn hiến Việt là nguồn gốc đích thực của những giá trị văn minh phương Đông. Hình ảnh "Ông Tơ, Bà Nguyệt", mô tả một định mệnh đã an bài trong hôn nhân. "Thượng Đế không chơi trò xúc sắc". Albert Einstein. Còn tiếp.2 likes -
Cách một người suy nghĩ, hành động và cả hành vi cũng thể hiện qua chữ ký của họ. Chữ ký hình thành nên tính cách của một người và khiến họ trở nên khác biệt bởi những điểm mạnh, điểm yếu của họ. Hãy khám phá những bí mật ẩn chứa trong chữ ký. Cách viết của một người là sự phản ánh những gì họ đang nghĩ và cách họ cư xử với những người xung quanh. Hầu hết mọi người thể hiện bản thân thật của họ khi họ viết. Nhưng liệu có phải nó chỉ xác định tính cách của một cá nhân? Thực ra, còn rất nhiều thứ nữa. Cách một người suy nghĩ, hành động và cả hành vi cũng có thể được đánh giá thông qua chữ ký của họ. Chữ ký là cái gì đó góp phần hình thành nên tính cách của một người và khiến họ trở nên khác biêt hơn. Đó là sự miêu tả của tên, họ hoặc biệt danh của một người. Bên cạnh đó, có rất nhiều khía cạnh của chữ ký giữ chìa khóa cho điểm mạnh và điểm yếu của một cá nhân. Bạn đã bao giờ nghe nói về một thuật ngữ gọi là "bút tướng họa" chưa? Đó là việc nghiên cứu về chữ ký của một người. Và nếu chúng ta muốn bắt đầu giải mã như những gì chữ ký của bạn có thể tiết lộ về tâm lý của bạn, thì chúng ta phải tìm hiểu những điều cơ bản dưới đây. Vậy, Bút tướng họa có ý nghĩa gì? Bút tướng họa là nghiên cứu về chữ viết tay của một người. Đó là nghiên cứu về đặc điểm của một người và hành vi của họ. Bút tướng họa được sử dụng để xác định danh tính của một người và trạng thái của họ trong khi viết một điều cụ thể đang được nghiên cứu. Xem tính cách qua chữ ký như thế nào? Chữ ký không chỉ là sự kết hợp của bảng chữ cái. Có nhiều khía cạnh cần được xem xét khi nghiên cứu chữ ký của một người, như nét ký, góc độ, độ dài, kích cỡ chữ cái, điểm nhấn, nội dung chữ ký, hình dạng và nhiều thứ khác. Tính dễ đọc của chữ ký Trong hầu hết các trường hợp, chữ ký là sự kết hợp giữa tên và họ của một người. Tuy nhiên, nó không phải luôn luôn như vậy. Người ta nói rằng một người có chữ ký bao gồm tên đầy đủ của họ được viết rõ ràng cho thấy họ khá tự tin trong bất cứ điều gì họ làm. Ngược lại, một người có chữ ký chỉ bao gồm chữ viết tắt của họ có thể đó là một người có sự tự tin thấp. Góc chữ ký tạo nên sự khác biệt Cách một người ký - góc của chữ ký của họ có thể tiết lộ rất nhiều về tính cách của họ. Ví dụ, nếu một chữ ký có hướng đi lên, nó có thể có nghĩa là người đó khá tham vọng trong cuộc sống và ngược lại với trường hợp chữ ký hướng xuống dưới. Đặc biệt, một chữ ký cũng có thể tiết lộ rằng một người có đang bị trầm cảm hay không. Kích thước chữ ký Kích thước chữ ký của một người, đặc biệt là các chữ cái có thể tiết lộ đó là một người hướng ngoại hay một người hướng nội. Người ta nói rằng nếu các chữ cái của chữ ký càng lớn thì càng chứng tỏ đó là một người hướng ngoại. Tương tự như vậy, kích thước của các chữ cái càng nhỏ, thì đó là người nhút nhát và hướng nội. Cấu tạo của chữ ký rất quan trọng Nội dung của chữ ký chính xác có thể cho chúng ta biết cách thức mà một người nghĩ. Nếu chữ ký của một người chỉ bao gồm tên của họ, điều đó có thể có nghĩa là họ của họ bị lu mờ bởi họ trước, cho biết rằng họ là người độc lập và tự tin. Nó cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy anh ta muốn được công nhận vì giá trị của riêng họ. Đường cong và đường góc cạnh trong chữ ký Những chữ ký có chứa đường cong đẹp phản ánh rằng người đó thân thiện, dễ chịu và tràn đầy sức sống. Tương tự, những chữ ký mà có góc cạnh và gọn gàng có thể có nghĩa là người đó rất cứng rắn và kỷ luật. Lực nhấn bút khi viết Trong khi hiểu chữ ký, điều quan trọng cần phải biết đó là lực nhấn bút trong trường hợp ký một tài liệu hoặc một bài báo có thể xác định tính chất có thẩm quyền của một người. Lực nhấn càng mạnh khi ký kết, người đó càng có thẩm quyền hơn. Tương tự như vậy, một người có lực nhấn bút nhẹ hơn, người đó vô cùng bình tĩnh và sáng tạo. Mặc dù, nó không phải luôn luôn chính xác, tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, chúng hoàn toàn chính xác. Chi tiết chữ ký Các chi tiết của chữ ký có thể tiết lộ cách một người muốn thể hiện bản thân ra thế giới. Nếu chữ ký bao gồm nhiều họa tiết trang trí và các chi tiết không cần thiết, điều đó có nghĩa là người đó giả mạo và đang cố gắng thể hiện một điều khác. Trong khi nếu chữ ký tập trung thành một điểm, điều đó có nghĩa là người đó tự tin và minh bạch. Hơn nữa, một số họa tiết trang trí khác như nét xoáy, gạch chân, dấu chấm cũng có thể xác định người đó đang có suy nghĩ gì. Nếu một chữ ký có nét xoáy vào trong, nó có thể hàm ý là người đó rất chu đáo về những điều nhỏ nhặt. Tương tự như vậy, nếu một người có thói quen nhấn mạnh chữ ký của họ, nó có thể có nghĩa là anh ta thích chịu trách nhiệm về mọi thứ và là một nhà lãnh đạo tài năng. Điều đó cũng có nghĩa là người đó không lo lắng về những thách thức và là người ra quyết định. Những chữ ký có dấu chấm ở cuối có nghĩa là người đó bị xử lý kỷ luật rất nhiều. Chữ ký thực sự xác định tính cách thật của một người. Chúng là biểu tượng của tính cá nhân của mỗi người. Sưu tầm1 like
-
Mình cũng đang nghiên cứu về lĩnh vực này, cũng có tìm hiểu qua về việc xem tính cách qua chữ ký. Mình nghĩ nó cũng tương tự như xem nét chữ, nhưng chữ ký nó có phần đặc trưng hơn là chữ viết, và cũng có những yếu tố phong thủy trong đó nữa, còn chữ viết sẽ là bản năng, và ít khi bị điều chỉnh, trong khi chữ ký ta hoàn toàn có thể điều chỉnh cho phù hợp hơn. Cảm ơn bài chia sẻ của bạn.1 like
-
Không biết chữ ký có thực sự biểu lộ tính cách của một người hay không, mình tìm được bài viết này, các bạn tham khảo và cho xin ý kiến quan điểm cá nhân nhé.1 like
-
GIẢI MÃ NGÀY TAM NƯƠNG VÀ NGUYỆT KỴ 1. Mở đầu Mặt Trăng và chu kì của nó ảnh hưởng rất lớn và rất quan trọng đối với cuộc sống trên Trái đất và đặc biệt đối với người Việt, chủ nhân của nền Văn minh Lúa nước. Chu kì con nước cho hoạt động sản xuất gắn liền với chu kì của Mặt Trăng gắn liền với người Việt từ thủa sơ khai, và do đó lịch Âm hay Âm Dương phối lịch, được người Việt sử dụng chính thức cho tới tận ngày hôm nay. Tất cả những việc liên quan tới cuộc sống từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hay văn hoá, tâm linh chúng ta đều dùng tới Âm Dương lịch. Ông cha ta theo dõi chu kì Trăng đưa cả vào các câu thơ đồng dao, đủ thấy rằng từ xa xưa Người Việt đã làm chủ được chu kì và thời gian của Trăng, vừa dễ nhớ và lại vừa phổ cập, lưu truyền từ đời này qua đời khác: Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mồng năm liềm giật Mồng sáu thật trăng Mồng bảy thượng huyền Mười rằm trăng náu Mười sáu trăng treo Mười bảy sảy giường chiếu Mười tám rám trấu Mười chín đụn dịn Hăm mươi giấc tốt Hăm mốt nửa đêm Hăm hai hạ huyền Hăm ba gà gáy Hăm bốn ở đâu Hăm nhăm ở đấy Hăm sáu đã vậy Hăm bảy làm sao Hăm tám thế nào Hăm chín thế ấy Ba mươi chẳng thấy Mặt mày trăng đâu ? Từ việc gắn liền mọi hoạt động của cuộc sống tới lịch Âm lịch, việc chọn ngày tốt xấu để sản xuất nông nghiệp cho tới các hoạt động khác đã có từ xa xưa. Rõ ràng việc chọn ngày tốt xấu mang yếu tố khoa học, nhưng một thời bị xem là mê tín, bởi việc chọn ngày được thực hiện bởi những người làm những công việc tâm linh. Người ta không giải thích được sự việc hiện tượng vì sao lại có ngày tốt, ngày xấu liên quan tới công việc và cuộc sống hàng ngày. Một nguyên nhân nữa là vì những ngày xấu đó lại liên quan tới những truyền thuyết hay những câu chuyện huyền bí. Chúng ta coi đó là việc liên quan tới Tâm linh, mê tín và những câu chuyện xảy ra đều sẽ gắn liền với mê tín và Tâm linh. Chúng ta cũng mặc nhiên nghĩ rằng đang sử dụng Âm lịch của người Trung hoa. Nhưng lịch sử xa xưa cho thấy nông nghiệp của họ từ xưa là trồng Kê chứ không phải lúa nước. Cũng giống như nền nông nghiệp lúa mì hay ngô, chuyện con nước lên xuống không phải là điều quan trọng so với trồng lúa. Vậy thì vì sao người Hoa Hạ lại nghĩ ra được lịch Mặt Trăng và việc chọn ngày tốt xấu cũng thuộc “bản quyền” của họ? Người ta đã căn cứ vào truyền thuyết, những câu chuyện thần bí và những nhân vật lịch sử Trung Quốc được gán ghép với nguồn gốc và tên gọi, từ ngày tốt xấu tới kinh Dịch, phong thuỷ. Vậy là người ta dễ dàng tin ngày Tam Nương thuộc về văn hóa Hoa Hạ do nó liên quan đến truyền thuyết ba người đàn bà (Tam nương) nổi tiếng của Trung Quốc liên quan tới sự lụn bại của cả một triều đại; rồi vua Phục Hy tìm được rùa thần trên sông Hoàng Hà, để rồi sáng chế ra Hà đồ. Chúng ta dễ dàng tin vào điều hoang đường đó. Nhưng điều đơn giản tổ tiên người Việt là chủ nhân của nền Văn minh lúa nước, là cội nguồn của nền Văn minh Đông phương trực tiếp sử dụng và lưu truyền tới ngày nay thì chúng ta lại phủ nhận. Việc chọn ngày tốt, xấu để thực hiện công việc vốn có nguồn gốc từ việc Tổ tiên chúng ta chọn ngày gieo trồng lúa và các nghi thức tôn giáo, tâm linh. Việc chọn ngày tốt xấu bởi ảnh hưởng lớn của Mặt Trăng lên Trái đất và con người, đặc biệt đối với người Việt thì sản xuất nông nghiệp là chủ đạo. Trong một chu kì Trăng, tức là một tháng Âm lịch thì có tới ít nhất 1/3 số ngày là ngày xấu. Trong những ngày xấu đó, ngày Nguyệt kị được viết thành thơ “ Mùng 5-14-23, đi chơi còn lỡ nữa là đi buôn” để ai cũng nhớ mà tránh. Việc chọn ngày tốt để làm việc hay ngày xấu để tránh đi, đối với công việc và cuộc sống hiện đại lại bị coi là mê tín, bởi nhiều người cho rằng chỉ liên quan tới các công việc thuộc về tâm linh, chẳng liên quan tới trồng trọt hay con nước lên xuống. Trong các ngày xấu trong tháng, có các ngày cố định là 6 ngày Tam nương (3-7-13-18-22-27) và 3 ngày Nguyệt kị (5-14-23). Với Trung tâm lý học đông phương thì chúng tôi tránh tuyệt đối những ngày này cho các việc khởi sự hay kết thúc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh , Giám đốc trung tâm đã nhiều lần giải thích về ngày Tam nương và tôi đã đề nghị Ông giao cho tôi nghiên cứu và viết về chủ đề này từ vài năm trước. Để làm rõ vì sao ngày Tam nương lại mang tới những chuyện không hay, tôi xin viết những gì mình tìm hiểu về ngày đặc biệt này và nó chẳng liên quan tới việc xui xẻo của người Hoa Hạ gán với ba đại Mỹ nhân làm mất nước trong lịch sử của họ. 2. Ngày Tam nương và sự mơ hồ theo truyền thuyết. Ngày tam nương theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc là những ngày rất xấu. Do đó, mỗi khi khởi sự làm một việc quan trọng (như khai trương, xuất hành, cưới hỏi, sửa chữa hay cất nhà, v.v...) để khỏi chuốc lấy thất bại, phải tránh khởi sự vào các ngày tam nương, gồm ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22, và 27 trong mỗi tháng Âm lịch. Tam nương hiểu đơn giản là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng Muội Hỉ, Đát Kỷ và Bao Tự. Hầu hết sách sử Trung Quốc đều kết tội ba giai nhân tuyệt sắc này là nguyên nhân làm sụp đổ ba triều đại Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên (TCN). Các sử gia đều phỏng chừng ba sự kiện “tan nhà đổ nước” này lần lượt xảy ra trong các năm như sau: 1. Muội Hỉ (sinh ngày mồng 3 tử ngày mồng 7 ( ngày Mão )mê hoặc vua Kiệt (tức Lý Quý , cai trị? - 1600 TCN), làm sụp đổ nhà Hạ (khoảng 2100 TCN - 1600 TCN). 2. Đát Kỷ (người Việt quen gọi Đắc Kỷ)(sinh ngày 13 tử ngày 18 ( ngày Thìn ) (mê hoặc vua Trụ (tức Đế Tân, cai trị khoảng 1154 TCN - 1066 TCN), làm sụp đổ nhà Thương (khoảng 1600 TCN - 1066 TCN). Huyền thoại đề quyết nàng Đát Kỷ là con cáo cái thành tinh (hồ ly tinh), có phép hoá ra mỹ nhân. 3. Bao Tự (sinh ngày 22, tử ngày 27 ( ngày Mùi ) (?-771 TCN) mê hoặc vua U (tức Cơ Cung Niết , cai trị 781 TCN – 771 TCN), làm sụp đổ nhà Tây Chu (khoảng 1066 TCN - 771 TCN). Tuy nhiên thì không có truyền thuyết nào gắn với ngày nguyệt kỵ ngoài câu thơ lưu truyền trong dân gian: “Mùng 5, 14, 23, đi chơi còn lỡ nữa là đi buôn” Vậy 6 ngày tam nương có liên quan gì tới ba giai nhân này? Có người giải thích rằng là ngày sinh và ngày mất của ba giai nhân này - như chúng tôi đã trình bày ở trên - và điều này thật sự là cưỡng ép để giải thích nguồn gốc của ngày tam nương cũng như để hơp thức hoá chủ nhân của “ngày tốt xấu” trong tháng âm lịch. Đối với những ai là fan của www.lyhocdongphuong.com.vn đều biết ngày tam nương là ngày kiêng kị tuyệt đối để khởi hành hay bắt đầu hoặc kết thúc một công việc nào. Bây giờ chúng ta xem xét cơ sở thực tế của ngày Tam nương từ những tương tác của chu kỳ mặt Trăng. 3. Pha và chu kì của Mặt Trăng: Khoa học đã chứng minh ảnh hưởng của chu kì Mặt Trăng lên Trái Đất và cuộc sống của con người. 1-Trăng mới (Sóc) 2-Trăng lưỡi liềm đầu tháng (Trăng non) 3-Bán nguyệt đầu tháng (Trăng thượng huyền) 4-Trăng khuyết đầu tháng (Trăng trương huyền tròn dần) 5-Trăng tròn (Vọng, hay Trăng rằm) 6-Trăng khuyết cuối tháng (Trăng trương huyền khuyết dần) 7-Bán nguyệt cuối tháng (Trăng hạ huyền) 8-Trăng lưỡi liềm cuối tháng (Trăng tàn, trăng xế) 9-Trăng tối(Không trăng) Mặt Trăng cần 28 ngày (27,3 ngày làm tròn) đi hết quĩ đạo quanh Trái Đất và 30 ngày để đi hết một vòng 12 cung Hoàng đạo tức là trung bình 2,5 ngày đi qua một cung Hoàng đạo. Chúng ta nhận thấy rằng sẽ phải quán xét tới vị trí của Mặt trăng với các cung Hoàng đạo và vị trí đó ảnh hưởng tới Trái đất . Vấn đề ở đây chúng ta sẽ dùng 30 ngày -chu kì trăng hay 28 ngày-thời gian Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để xem xét ảnh hưởng tốt xấu của Mặt Trăng tới Trái Đất ? Theo Âm Dương phối lịch từ truyền thống, chúng ta thường dùng lịch Âm (lịch Mặt Trăng) với 30 ngày theo chu kì từ ngày Rằm tháng này tới Rằm tháng sau. Ngày Rằm là 15 và kết thúc vào ngày 30 hàng tháng và với tục đi lễ ngày Rằm và Đầu tháng Âm thì chúng ta nhằm ngày 15 và mùng 1 của tháng 30 ngày. Cách tính ngày tốt-xấu cũng tính theo lịch 30 ngày và nếu là tháng Nhuận thì vẫn tính theo tháng nhuận 30 ngày chẵn. Sau rất nhiều năm tìm hiểu nghiên cứu để giải thích về ngày xấu mà đặc biệt là ngày Tam nương-Nguyệt Kị, cùng với thống kê các sự việc xấu xảy ra vào ngày Tam nương, tôi nhận thấy rằng một số sự kiện xấu lại xảy ra trước ngày Tam nương, tức là nhiều khi không chính xác vào các ngày tam nương: 3-7-13-18-22-27. Trên thực tế, trái đất chịu ảnh hưởng từ lực hấp dẫn của Mặt Trăng khi di chuyển quanh trái đất, do vậy đối với lĩnh vực Tâm Linh tây phương hay Ả rập họ vẫn dùng lịch mặt Trăng với ngày Trăng tròn là ngày thứ 14 và kết thúc vào ngày thứ 29(làm chẵn). Hình ảnh dưới đây mô tả chu kì và vị trí của Mặt Trăng với 12 cung Hoàng Đạo. Người Ả Rập sử dụng 28 ngày và gọi mỗi ngày của Mặt Trăng trên mặt phẳng Hoàng Đạo là một “Nhà”. Điều đặc biệt là khi sử dụng biểu đồ mô tả vị trí tương đối của Mặt Trăng với cung Hoàng Đạo, các nhà Chiêm tinh hay Tâm linh đều tránh các ngày Mặt Trăng nằm ở vị trí giao nhau giữa các cung Hoàng Đạo ! Khi nhìn vào Hình 2, chúng ta dễ dàng nhận thấy các ngày Tam nương và Nguyệt kị đều vào vị trí giao nhau giữa các cung Hoàng đạo. Tất nhiên là vị tri không chính xác theo biểu đồ bởi số ngày là lẻ (27,3 ngày) chia đều cho 12 cung, và chúng ta lại quán xét ngày xấu trên cơ sở lịch âm 30 ngày. Đây cũng là lý do vì sao có một số ngày Tam nương tới “sớm” hay “muộn” hơn một ngày. H1: 30 ngày Trăng với 12 cung Hoàng đạo H2: 28 ngày Trăng Tiếp theo, chúng ta lại xét tiếp tới Pha của măt Trăng. Tổng số là 29,5 ngày và theo Chiêm tinh, họ dùng ngày thứ 29 làm ngày kết thúc một chu kì Trăng thay bởi làm tròn thành 30 ngày như lịch Trăng của Đông Phương. Từ hình vẽ mô tả này, chúng ta cũng có thể nhận thấy ngày Tam nương cũng trùng với ngày kết thúc của một Pha mặt Trăng. Điều thú vị là có 8 Pha nhưng có hai Pha tương tự, do vậy có 2 ngày kết thúc của Pha có đặc tính giống nhau, thu gọn lại ta có 6 ngày kết thúc một Pha, trùng lặp với ngày Tam nương. H3: Pha của Mặt Trăng H4.(thuỷ triều với chu kì Trăng) Ngày Nguyệt Kị, tôi cho rằng đây chính là ngày đỉnh điểm của lực hấp dẫn của Mặt Trăng lên Trái Đất, gây ra hiện tượng thuỷ Triều mạnh nhất. Việc này cũng sẽ ảnh hưởng tới con Người bởi cơ thể chúng ta nước chiếm 78%. Hiện tượng này tạo cho chúng ta dễ mất kiểm soát cho nên công việc sẽ không thuận lợi nếu chúng ta đưa ra quyết định vào ngày này. Ngày Tam nương, là điểm chết vị trí của Mặt Trăng trên cung Hoàng Đạo và cũng là vị trí kết thúc Pha của Mặt Trăng, là vị trí của Mặt Trăng với Trái Đất. Do vậy, mọi sự bắt đầu và kết thúc đều ở điểm “chết” và khó để phát triển. Do vậy, theo Lý Học Đông Phương thì chúng ta không nên bắt đầu hay kết thúc một việc gì đó do tạm thời “mất” đi tương tác của Mặt Trăng lên Trái Đất và “mất” ý nghĩa của Mặt Trăng trong mặt phẳng Hoàng Đạo. Nền Lý Học của người Việt không gán ghép các nhân vật Lịch sử hay huyền sử vào nguồn gốc hay giải thích sự việc tốt xấu nhằm mục đích mê hoặc và đặc biệt để tạo nguồn gốc và sở hữu. Tổ tiên chúng ta truyền lại cho thế hệ sau qua ca dao, qua phong tục tập quán chứ không mê hoặc hay gán ghép vào chuyện thần tiên để mô tả nguồn gốc của lý thuyết thuộc về Lý học. 3. Ngôn ngữ.: Sẽ có người đặt câu hỏi vì sao có 6 ngày mà lại gọi là Tam nương. Theo lý học đông phương thì có 3 ngày cực Âm và cặp với nó là 3 ngày dương. Theo đồ hình chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Cũng là một cách đạt vấn đề về ngôn ngữ, cách gọi và đặt tên ngày Tam nương. Tam Nương theo cách nói và nghe được ghi lại và người Hoa hạ gán ghép với chuyện của ba đại Mỹ nhân trong lịch sử là nguyên nhân mất nước. Đối với người Việt thì từ Nương và Lương khi phát âm thì nhiều người Việt phát âm ý nghĩa của từ này là như nhau. Ví dụ: Nương rẫy Lương thực thì nhiều người phát âm thành “Lương rẫy, Nương thực” hoặc Lương rẫy, Lương thực hoặc Nương rẫy , Nương thực. Xa xưa, có lẽ ngôn ngữ có khác biệt khi sử dụng chữ tượng hình như chữ Nôm. Do đó ta sẽ xem xét ý nghĩa của từ Nương và Lương. 1. Nương: 娘 :Là cô, thiếu nữ, chị, mẹ, bà, vợ, bà chủ.. chỉ chung cho Nữ giới. 碭: Mang ý nghĩa nếu muốn qua thì phải vượt lên, như vượt qua cầu. 2. LƯƠNG:量 : Cân nhắc, coi xem nặng nhẹ Với người Việt, khi cân nhắc điều gì thường nói tới con số 3, ví dụ khuyên răn: Uốn lưỡi ba lần trước khi nói, hay tốt xấu: quá Tam ba bận Tam Lương: Hãy cân nhắc ba lần trước khi làm Phải chăng Tam Lương là cách tổ tiên chúng ra khuyên hãy cân nhắc trước khi làm việc gì vào những ngày này ? * đây chỉ là cách đặt nghi vấn của cá nhân tôi trong cách gọi tên ngày Tam nương Mạnh Đại Quân, 14-12-20151 like
-
Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Mạnh Đại Quân là ký danh (Nickname) của Hoàng Triệu Hải, là Phó giám đốc thường trực của TTNC LHDP, đồng thời là trưởng đại diện của Trung tâm chúng tôi ngoài Hanoi. Anh cũng là một trong những phong thủy gia tên tuổi cùng với các phong thủy gia khác của Địa Lý (Phong thủy) Lạc Việt. Quan điểm nhất quán của Trung Tâm chúng tôi là tất cả những tri thức nền tảng của Lý học Đông phương, đều có nguyên nhân tương tác của những quy luật vũ trụ, ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống, xã hội và con người có thể tiên tri vì tính quy luật của nó. Hay nói một cách khác: Khả năng tiên tri của các phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt, thực chất là sự phản ánh tương tác có tính quy luật của mọi sự vận động trong bầu trời vũ trụ ngoài Địa Cầu. Chính tính quy luật này làm nên khả năng tiên tri của Lý học Đông phương. Chúng hoàn toàn phản ánh một chân lý và không hề "mê tín dị đoan". Bài viết của tác giả Manh Đại Quân về bản chất của ngày Tam nương liên quan đến chu kỳ Mặt trăng ảnh hưởng đến sinh hoạt trên Địa Cầu đã chứng tỏ điều này. Vấn đề là bản chất vận động và tương tác của những sự vận đông có quy luật của vũ trụ lại vượt xa kiến thức của nền văn minh hiện đại, cho nên một thời nó đã bị gán ghép là "mê tín dị đoan". Bài viết của tác giả Mạnh Đại Quân đã chỉ ra bản chất thật của ngày Tam Nương và Nguyệt Kỵ, chỉ là phần mở đầu cho mọi sự nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi liên quan đến vấn đề này. Cho nên nó chưa phải là kết luận cuối cùng. Trong bài viết, tác giả Mạnh Đại quân đã cho thấy sự sớm muộn về thời gian ảnh hưởng của ngày Tam Nương. Đây chính là sự chênh lệch giữa sự vận động thực tế của vũ trụ - cụ thể trong bài viết này là mặt Trăng và tính quy ước về thời gian của con người. Công lao của tác giả đã mô tả được một thực tại liên quan đến một quy ước vốn bị coi là huyền bí trong Lý học Đông phương và góp phần làm sáng tỏ bản chất khoa học của Lý học. Điều này hoàn toàn phủ hợp với một tiêu chí khoa học đã xác định: "Một giả thuyết hay một lý thuyết nhân danh khoa học thì nó phải phản ánh một thực tại có thể quan sát được". Chu kỳ Mặt trăng liên quan đến ngày Tam Nương - qua bài viết của tác giả Mạnh Đại Quân - chính là một thực tại có thể quan sát được. Trân trọng cảm ơn tác giả. Chúc tác giả ngày một thành công trong việc nghiên cứu sâu về bản chất của những vấn đề khác trong Lý học Đông phương , nhân danh nền văn hiến Việt.1 like