NỘI HÀM KHÁI NIỆM "VĂN HÓA".
1/ Ngữ nghĩa của "Văn" và "Hóa"
Trong tiếng Việt, "Văn hóa" là một từ ghép, "Văn" và "Hóa". Bây giờ chúng ta phân tích nguyên nghĩa từng từ và xác định nội hàm khái niệm của cụm từ "văn hóa" được mô tả trong tiếng Việt.
Như tôi đã trình bày: Tiếng Việt là ngôn ngữ cao cấp nhất trong các hệ thống ngôn ngữ đã từng tồn tại trong lịch sử văn minh nhân loại. Bởi vậy, tính phân loại và đồng tính chất trong một tập hợp để mô tả sự vật, sự việc...rất cao cấp. Thí dụ: Trong tập hợp từ mô tả khuôn mặt, gồm các từ bắt đầu từ vần "M": Mặt, Mắt, Mũi, Miệng, Mi, Mày, Môi, Mép. Má. Trong ngôn ngữ Việt, còn tuân thủ các nguyên lý của Âm Dương rất triệt để, khi có dịp tôi sẽ trình bày về vấn đề này.
a/ Từ "Văn" trong tiếng Việt.
Tương tự như vậy, từ "Văn" trong tiếng Việt là tập hợp của các từ mô tả: Văn, vằn, vết, vệt, vẽ, viết...Ứng dụng trong từ "Thiên Văn" có nghĩa là dấu vết trên trời, "Văn học" có nghĩa là môn học về phương pháp mô tả về những hoạt động của cuộc sống và con người....Tóm lại từ "Văn" có nội hàm khái niệm mô tả tập hợp những ký tự (Chữ viết), chỉ dấu (Ký hiệu) thuộc sản phẩm của con người - tư duy trừu tượng - về các vấn đề liên quan đến Vũ trụ, thiên nhiên, xã hội, cuộc sống và con người.
b/ Từ "Hóa" trong tiếng Việt.
Đây là một tứ rất cổ và thuần Việt. Nội hàm khái niệm của nó là chuyển đối từ trạng thái này sang trạng thái khác. Thí dụ: "Hóa học", là môn học về sự chuyển đối của các dạng tồn tại của các cấu trúc vật chất; "Hóa phép" là phương pháp ("Phép") chuyển đổi các dạng tồn tại và tính năng của vật chất. Thí dụ: "Chỉ đá hóa vàng"; "Hóa vàng" là chuyển đổi vàng, tiền giấy thành tiền thật dưới ...Âm phủ (Nhưng mà này, đốt vàng xong phải tưới rượu lên tro nha. Nếu ko nó không "hóa vàng" đâu đấy! Hi)...vv....
2/ Nội hàm khái niệm "Văn Hóa" trong ngôn ngữ Việt.
Đã có nhiều học giả Việt có tên tuổi, như Đào Duy Anh cũng đưa ra định nghĩa về "Văn hóa". Trong Đại cương văn hóa Việt Nam, ông Đào Duy Anh xác định khái niệm văn hóa, là; "Văn hóa là sinh hoạt". Tất nhiên đây là một định nghĩa sai, nếu đối chiếu với chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một khái niệm ứng dụng. Thí dụ: Sinh hoạt bản năng tình dục của sinh vật nói chung thì không thể gọi là "văn hóa" được.
Nhưng, với những phân tích đã trình bày, thì nội hàm khái niệm "văn hóa" được định nghĩa theo Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, như sau:
"Những giá trị tính túy là sản phẩm của tư duy con người được diễn đạt (Văn), mang tính phổ biến và trở thành nếp sống (Hóa), được lưu truyền theo thới gian trong cuộc sống, xã hội của một cộng đồng con người - thì gọi là "Văn hóa".
Tôi đã phân tích, mô tả khái niệm văn hóa trên dd lyhocdongphuong.org.vn . Nhưng bài viết quá lâu, ko tìm thấy. Đây là bài viết lại và định nghĩa cuối cùng của tôi như trên
3/ Thẩm định định nghĩa "Văn hóa" theo Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trên cơ sở tiêu chí đã nêu, thì một định nghĩa khái niệm chỉ được coi là đúng, nếu nó thỏa mãn những tiêu chí để thẩm định. Chúng được so sánh đối chiếu để thẩm định, như sau:
a/ Từ thời cổ sử Việt, những ý tưởng của Thượng tầng của Triều đình Hùng Vương về: Trầu cau, Xâm người, nhuộm răng đen. phong tục lễ Tết..trở thành văn hóa truyền thống; Tục cưới hỏi, nghi lễ trong quan hệ xã hội...trở thành văn hóa truyền thống.
b/ Một hình tượng đep trong quan hệ gia đình, về - thí dụ - một người vợ thủy chung, người con hiếu thảo, người bạn trung thành..là "văn". Nhưng nếu nó trở thành biểu tượng được tôn trong và là hành xử phố biến trong xã hội thì nó trở thành "văn hóa".
c/ Chính vì - theo định nghĩa "văn hóa" của Thiên Sứ - nên văn hóa là giá trị tinh túy của tư duy được lưu truyền trong xã hội. Bởi vậy, nó mới cần được bảo tồn, chính vì những gia trị tinh túy ấy. Cho nên cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO mới xuất hiện và phải có trách nhiệm gìn, giữ và bảo vệ những giá trị tính túy còn lại của nhân loại. Từ những Kim tự Tháp - giá trị tinh túy của một hệ thống tri thức tư duy vượt trội, cho đến những ngôi đền cổ với những đường nét và lối kiến trúc đặc trưng của những tinh hoa cổ đại....là những gía trị cần được bảo tồn. Mỗi dân tộc, có một nét văn hóa đặc trưng riêng và thể hiện tinh túy của tư duy thuộc về dân tộc đó. Một dân tộc sẽ không tồn tại, nếu ko giữ được bản sắc văn hóa của mình.
Truyên Kiều còn, Tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn dân Việt còn. Dân Việt còn, nước Việt còn" Ngài Thượng Thư Phạm Quỳnh đã phát biểu như vậy. Chính vì truyện Kiều là tinh túy của tư duy Việt và đã phổ biến trong cuộc sống Việt.
d/....
Tóm lại, nếu đem đối chiếu định nghĩa về khái niệm văn hóa theo Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, nó sẽ giải thích được hầu hết mọi vấn đề liên quan đến nó, một cách hệ thống, nhất quán, hoàn chình,,,và hoàn toàn thỏa mãn tiêu chí để thâm định nó.
Cũng trên những vấn đề được đặt ra, tôi xin tiếp tục chia sẻ với quý vị và các bạn nội hàm khái niệm tiếp theo đó là từ "Khoa học".
Cảm ơn sự quan tâm của các bạn và quý vị.
NỘI HÀM KHÁI NIỆM "KHOA HỌC"....
Nhà khoa học Việt kiều Úc nổi tiếng Nguyễn Văn Tuấn, phàn nàn rằng: Ở Việt Nam, họ nhắc đến từ "khoa học" rất nhiều. Cái gì cũng cứ phải viện dẫn "khoa học"...Đại ý thế. Còn tôi diễn giải thế này: Đúng là ở Việt Nam người ta hay nhắc đến từ "khoa hoc" thật. Hơi một tý thì: "Đã được khoa học công nhận"; hay "Chưa được khoa học công nhận"...Hoặc, hẳn như Giáo sư Tiến sĩ, lại còn Viện sĩ hẳn Viện Hàn Lâm khoa học Pháp - Phan Huy Lê nói về "Cơ sở khoa học". Nhưng bản thân nội hàm khái niệm "Khoa học" là gì thì ngay cả cụ Gù Gồ cũng....chưa biết mặt mũi nó ra làm sao. Và chính ông Phan Huy Lê cũng chẳng biết thế nào là "cơ sở khoa học".
Khái niệm "văn hóa", còn được những nhà văn hóa wan tâm tới, nên nó có đến xấp xỉ 400 khái niệm về văn hóa, chẳng cái náo giống cái nào. Thôi gọi chẵn là 400 đi. Còn định nghĩa về "văn hóa" của lão Gàn là cái thứ 401. Gọi là "góp phần nhỏ bé" vào cả đống định nghĩa văn hóa to đùng đến 400 cái. Tức 1/ 400. Hic.. Còn khái niệm "khoa học" thì thật là ..cô đơn trong cõi Ta bà. Chẳng ai nói về nội hàm của nó mặt mũi ra làm siu. Chán wé thật!
Số phận của khái niệm khoa học, cũng như "văn hóa", người ta chỉ cảm nhận một khái niệm mơ hồ.
Một thí dụ khi tôi đi tìm trên cụ Gù Gồ thì nó như thía này:
Trích:
Đây không phải là một cuốn tự điển chuyên ngành vì như tác giả đã nói trong lời nói đầu của lần tái bản thứ 2 (1948): "Quyển sách này không phải là Tự điển vì không có định nghĩa. Quyển sách này cũng không phải là sách dịch tiếng Pháp vì muốn dịch, trước hết phải có tiếng tương đương ở Pháp ngữ và Việt ngữ. Quyển sách này chỉ là một tập Danh từ của những ý Khoa học. Những ý ấy lấy Pháp ngữ làm gốc..."
Trong sách, ngoài gần 6000 danh từ khoa học, tác giả dành hẳn một phần "Lời dẫn" để bàn về đặc điểm của danh từ khoa học và nêu lên 8 yêu cầu khi đặt một danh từ khoa học mới, chưa có trong tiếng Việt. Đồng thời, tác giả còn nêu lên các phương pháp để đặt danh từ khoa học, có tham khảo đến cách làm của các nước lân cận như Trung Quốc, Nhật... và cách mà tác giả đã sử dụng để tạo ra các danh từ khoa học trong chính cuốn sách này"].
Bởi vậy, khi nói tới khái niệm "khoa học" thì ngay cả cụ Hoàng Xuân Hãn cũng đành dẫn tiếng Tây. Hơ!
Vậy bản chất của nội hàm khái niệm "Khoa học" là gì? Chúng ta không thể tìm thấy nội hàm khái niệm này trong tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới. Vậy thì chỉ còn hy vọng sự giải thích nó ngay trong tiếng Việt - một ngôn ngữ cao cấp nhất trong tất cả các ngôn ngữ đã từng tồn tại trong lịch sử văn minh nhân loại.
Cũng như khái niệm "văn hóa". "Khoa học" trong tiếng Việt cũng là một từ kép, gồm "khoa" và "học". Và chúng ta bắt đầu từ nguyên nghĩa của hai từ này.
1/ Nguyên nghĩa từ "Học".
Đây là một từ tối cổ của ngôn ngữ Việt, nó có từ thời xa xưa:
Nhân bất "HỌC", bất tri lý.
Ngọc bất trác, bất thành khí.
"Học" trong tiếng Việt là một động từ định danh, mô tả hành vi trau dồi kiến thức và tìm hiểu chân lý, trong đó bao gồm cả "học" nghề....Khái niệm của từ "Học" trong tiếng Việt, ngoài nghĩa thu thập kiến thức, còn có nghĩa là tìm hiểu, khám phá, mở rộng kiến thức. "Học thày, không tày học bạn", cho thấy hàm nghĩa này.
Tôi nhắc lại là trong tôi không có từ Hán Việt. Mà chỉ có từ Việt Nho được mô tả tương đương bằng ngôn ngữ Hán. Bất cứ ai dẫn sách, mà bảo rằng câu trên trong sách Hán...bala bala, tôi xin phép delete mà không cần lý do.
2/ Nguyên nghĩa từ "Khoa".
Đây cũng là một từ cổ trong tiếng Việt. Khoa bảng, Khoa thi, Đại khoa (Trạng Nguyên).....Nguyên nghĩa của từ này mô tả một hệ thống tri thức hoàn hảo và tiếp tục lưu giữ phát triển gọi là "khoa". Thời cổ, hệ thống tri thức này là hệ thống Lý học. Nhưng ngày nay, từ "khoa" trong tiếng Việt dùng để chỉ những hệ thống tri thức khác ngoài Lý học Đông phương, Gồm: Y Khoa; Khoa Toán, Khoa Lý, Khoa Văn (Hoặc Văn Khoa)...vv....
Vậy nội hàm khái niệm "khoa học" là gì?
3/ Định nghĩa về nội hàm khái niệm "Khoa học".
"Khoa học" - trong ngôn ngữ của nền văn hiến Việt - là khái niệm mô tả việc học hỏi, khám phá, tìm hiểu để đạt đến một hệ thống tri thức, có tính tổng hợp về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, hoặc toàn thể vũ trụ".
Trên cơ sở định nghĩa này, và căn cứ vào tiêu chí để thẩm định,
4/ Thẩm định định nghĩa "Khoa học" theo Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trên cơ sở tiêu chí đã nêu, thì một định nghĩa khái niệm chỉ được coi là đúng, nếu nó thỏa mãn những tiêu chí để thẩm định. Chúng được so sánh đối chiếu để thẩm định, như sau:
a - "Phương tiện khoa học": Những công cụ vật chất, hoặc phương pháp tư duy dùng để tìm hiểu, khám phá và tổng hợp một hệ thống tri thức chuyên ngành, hoặc toàn thể vũ trụ, gọi là phương tiện khoa học.
b - "Nhà khoa học": là người có kiến thức nền tảng về một chuyên ngành nào đó, họ dùng kiến thức đó để học hỏi, tìm hiểu, khám phá để đạt đến một hệ thống tri thức, có tính tổng hợp về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, hoặc toàn thể vũ trụ thì gọi là nhà khoa học".
c - "Tư duy khoa học": là hệ thống phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh, đối chiếu...để tiếp cận, nhằm đạt đến một hệ thống tri thức, có tính tổng hợp về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, hoặc toàn thể vũ trụ thì gọi là "tư duy khoa học". Hệ thống phương pháp tư duy khoa học có thể thay đổi khi nhận thức thay đổi.
d - "Cơ sở khoa học": là hệ thống tri thức nền tảng ban đầu để để tiếp cận, nhằm đạt đến một hệ thống tri thức, có tính tổng hợp về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, hoặc toàn thể vũ trụ thì gọi là "cơ sở khoa học". Hệ thống tri thức nền tảng có thể thay đổi khi nhận thức thay đổi.
e -......
Tóm lại, nếu đem đối chiếu định nghĩa về khái niệm "Khoa học" theo Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh, nó sẽ giải thích được hầu hết mọi vấn đề liên quan đến nó, một cách hệ thống, nhất quán, hoàn chình,,,và hoàn toàn thỏa mãn tiêu chí để thẩm định nó.
Cũng trên những vấn đề được đặt ra, tôi xin tiếp tục chia sẻ với quý vị và các bạn nội hàm khái niệm tiếp theo đó là từ "Minh triết".
Cảm ơn sự quan tâm của các bạn và quý vị.