• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 07/06/2018 in Bài viết

  1. ĐI TÌM CỘI NGUỒN KINH DỊCH (bài tham luận hội thảo Tìm Về Cội Nguồn Kinh Dịch) tác giả: Mạnh Đại Quân (Hoàng Triệu Hải) Đã có rất nhiều Học giả, các nhà nghiên cứu, Giáo Sư, Tiến sỹ công bố những nghiên cứu rất bài bài và sâu sắc về nguồn gốc của Kinh Dịch cũng như sự liên quan chặt chẽ giữa Kinh Dịch và Lịch sử 5000 năm Văn Hiến của người Việt. Tuy nhiên, sự đóng góp đó dường như chưa đủ để minh chứng cho nguồn gốc của một trong những kì quan thuộc về nền Văn minh Phương Đông mà chủ nhân đích thực chính là nền Văn minh Lạc Việt 5000 năm lịch sử. Sự khó khăn lớn nhất chính là chúng ta không có bất kì một bằng chứng và tài liệu lịch sử nào liên quan tới Kinh Dịch của người Việt, ngoại trừ việc lưu truyền thông qua văn hóa truyền thống, văn hóa tín ngưỡng và huyền sử. Đại đa số những người học và nghiên cứu Kinh Dịch hiện nay đều cho rằng việc đi tìm cội nguồn của Kinh Dịch là việc làm không cần thiết bởi không quan trọng bằng việc hiểu và ứng dụng Dịch. Cho dù có tìm được hay không tìm được nguồn gốc của Kinh Dịch thì cũng chẳng thể đăng ký bản quyền hay thay đổi được tuyên bố nguồn gốc và sở hữu của người Trung Hoa, kể cả khi chính người Trung Hoa cũng không giải thích được nguồn gốc mơ hồ do chính họ tạo ra. Việc đi tìm nguồn gốc Kinh Dịch chính là để giải mã toàn bộ hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành – một lý thuyết khoc học cổ xưa nhất của nền văn minh loài người. Trên cơ sở đó sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn tổng thể về quá trình lịch sử của nền văn minh Lạc Việt huyền vỹ một thời bên bờ Nam sông Dương Tử. 1. Lịch sử hình thành. Trích dẫn từ nguồn Wikipedia: “Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy (伏羲 Fú Xī). Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852-2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra bát quái (八卦 bā gùa) là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ (禹 Yǔ) nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦 lìu shí­ sì gùa), được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn (連山 Lián Shān) còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là "các dãy núi liên tiếp" trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (艮 gèn) (núi), với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái. Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương thay thế, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy Tàng (歸藏 Gūi Cáng; còn gọi là Quy Tàng Dịch), và quẻ Thuần Khôn (坤 kūn) trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy Tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là thoán hay soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn (乾 qián) (trời) biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Thoán Từ (卦辭 guà cí) và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu Thiên Bát Quái ra đời. Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán tạo ra Hào Từ (爻辭 yáo cí), để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN). Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân Thu (khoảng 722-481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực (十翼 shí yì), để chú giải Kinh Dịch. Ông nói "Nếu trời để cho ta sống thêm mươi năm nữa thì ta sẽ đọc thông Kinh Dịch. Năm mươi tuổi mới học Kinh Dịch cũng có thể không mắc phải sai lầm lớn."[1]. Vào thời Hán Vũ Đế (漢武帝 Hàn Wǔ Dì) của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện (易傳 yì zhùan), và cùng với Kinh Dịch nó tạo thành Chu Dịch (周易 zhōu yì)” Hết trích dẫn Theo các nguồn thông tin khác thì Liên Sơn Dịch được cho là có từ thời Thần Nông (2737BC – Liên Sơn Thị hay còn gọi là Thần Nông thị) , Qui Tàng có từ thời Hoàng Đế (2699BC). Cuốn Liên Sơn Dịch được cho là có khoảng 10 tập- 80 ngàn chữ và được làm ra vào thời nhà Hạ dựa trên bát quái của Phục Hi. Trong ba bộ Kinh Dịch thì Liên Sơn Dịch và Qui Tàng Dịch được cho là thất lạc cho dù vẫn có sách về hai bộ Kinh này. Chỉ còn Chu Dịch được coi là đại diện cho dù về mặt lịch sử hình thành thì Chu Dịch được ra đời sau cùng, vào thời nhà Chu . Như vậy, Kinh Dịch hay 64 trùng quái phải có mặt ít nhất là từ thời Thần Nông tức Liên Sơn thị (2737-2699 BC). Kinh dịch bao gồm 64 quẻ được lập nên từ 8 Quái được cho là do Vua Phục Hy (2800-2737 BC) sáng tạo ra. Đây là một vị Vua không có thực và chỉ tồn tại trong truyền thuyết. Tới đây chúng ta bắt đầu thấy sự mơ hồ và mù mờ trong nguồn gốc của Bát quái. Tiếp tục đi ngược dòng lịch sử, phải có Tứ Tượng rồi mới có Bát Quái, nhưng trước khi có Tứ Tượng lại phải có Lưỡng Nghi và Thái Cực. Thái Cực sinh Lưỡng Nghi Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng Tứ Tượng biến hóa vô cùng. Như vậy, Bát quái là một sản phẩm được sinh ra từ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Bát quái thể hiện sự nhận thức của con người với sự vận động của vạn vật xung quanh mình. Bát quái là một siêu công thức được sinh ra từ học thuyết ADNH, và học thuyết ADNH mang tính bao trùm Vũ trụ. Triết lý về Âm Dương được cho là do Phục Hy sáng tạo ra, và cũng có nguồn ghi rằng do Đạo Giáo (400BCE) sáng tạo nên do được tiếp thu từ nhà Chu (1040 BCE). Phục Hy là nhân vật huyền thoại không có thực trong lịch sử và không thể nào một học thuyết lại được tạo ra từ một nhân vật không có thật. Còn nếu Đạo Giáo sáng tạo ra hoặc giả như được tiếp nhận được từ nhà Chu thì đúng là “Sinh Con rồi mới sinh Cha, sinh Cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông” bởi người ta không thể sáng tạo ra bát quái , Kinh Dịch rồi mới sáng tạo ra thuyết Âm Dương ngũ hành. Âm Dương trích từ nguồn wiki “Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, rất nhiều người theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm (nhà Hán) mà cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo và được ghi chép trong kinh dịch (2800 TCN). Một số người khác thì cho rằng đó là công lao của "âm dương gia", một giáo phái của Trung Quốc. Cả hai giả thuyết trên đều không có cơ sở khoa học vì Phục Hy là một nhân vật thần thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có công áp dụng âm dương để giải thích địa lý-lịch sử mà thôi. Phái này hình thành vào thế kỷ thứ 3 nên không thể sáng tạo âm dương được Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng "khái niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam". ("Phương Nam" ở đây bao gồm vùng nam Trung Hoa, từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam. Xem thêm dân tộc Việt Nam để biết thêm khu vực của người Cổ Mã Lai sinh sống.) Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa trải qua hai thời kỳ: 1. "Đông tiến" là thời kỳ Trung Hoa mở rộng từ thượng lưu (phía tây) xuống hạ lưu (phía đông) của sông Hoàng Hà; 2. "Nam tiến" là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía bắc) xuống phía nam sông Dương Tử. Trong quá trình nam tiến, người Hán đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam. Cư dân phương nam sinh sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời - "đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương. Về mặt ngôn ngữ học, "âm dương" là phát âm của yin yang trong tiếng Hán, nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ phương Nam trước đây. Ví dụ, so sánh yang với giàng (trong tiếng Mường), yang sri (thần lúa), yang Dak (thần nước), yang Lon (thần đất) (trong tiếng của nhiều dân tộc Tây Nguyên); so sánh yin với yana (tiếng Chàm cổ, ví dụ Thiên Yana = mẹ trời), ina (tiếng Chàm hiện đại), inang(tiếng Indonesia), nạ (tiếng Việt cổ, ví dụ: nạ ròng = người đàn bà có con, hay tục ngữ Việt Nam: "Con thì na, cá thì nước"),... thì thấy rõ điều đó. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp "mẹ-cha" và "đất-trời" này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, các cặp này lại là cơ sở để suy ra vô số các cặp mới. Nếu so sánh phương Đông với phương Tây thì phương Tây chú trọng đến tư duy phân tích, siêu hình còn phương Đông chú trọng đến tư duy tổng hợp, biện chứng. Nhưng nếu xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc Đông Nam Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau. Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính vì thế mà Lão Tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương Nam) lại cho rằng: "nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều. Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam sao, thất bản"... Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ như sau: "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng" (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ trụ",... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy, quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của người Hán có lẽ là một sai lầm, nhưng theo quan niệm trong phong thủy thì " lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ngũ hành, ngũ hành sinh vạn vật" ngũ hành lại được sinh từ bát quái ứng với Đoài-Càn (kim),Tốn-Chấn(mộc),Khảm(thủy),ly(hỏa),Cấn-Khôn(thổ) tạo thành vòng tuần hoàn luôn bổ trợ lẫn nhau nhưng vì một số bất cập nên không được nhiều người biết đến, vào thời nay phong thủy đa số đều dùng cách này để đọc phong thủy. Hết trích dẫn Tôi chưa thấy thuyết phục từ chứng cứ về cách lập luận số chẵn – lẻ của người viết trên thư viện mở WIKI nhưng đây là một bằng chứng cho thấy ngày càng nhiều người nhận ra rằng Âm Dương Ngũ Hành, Hà Đồ-Lạc Thư-Bát Quái-Kinh Dịch không thể được tạo ra bởi người Trung Hoa. Ngay từ những thời điểm mà người Trung Hoa cố gắng hợp thức hóa nguồn gốc và tác giả của học thuyết Âm Dương nhưng chúng ta vẫn có thể tìm thấy sự lộn xộn và mù mờ trong chính những gì họ công bố. THÁI CỰC ĐỒ (ÂM DƯƠNG ĐỒ HÌNH) 1. Dấu tích lịch sử: Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại thì Thái cực đồ hình (Taijitu 太極圖) được biết tới do Chu Đôn Di Zhou Dunyi (周敦頤 1017–1073) đời Tống (960-1279) sáng tạo ra cùng với cơ sở Học thuyết Thái cực . Đồ hình Thái Cực này được coi là đồ hình đầu tiên mô tả Thái Cực sinh Lưỡng Nghi do được ghi chép và lưu giữ nguồn gốc. Đồ hình H1 là đồ hình được Joseph Adler chụp từ nguyên gốc trong cuốn Thông Thư (通書) của Chu Đôn Di. Trong suốt thời kì nhà Minh (1368–1644), Đạo giáo lúc đó rất phát triển và dựa trên nền tảng Đạo giáo đã có rất nhiều sáng tạo Thái Cực đồ hình mô tả cơ sở học thuyết của họ lúc đó. Trong khi nguyên gốc đồ hình của Chu Đôn Di sử dụng các vòng tròn thì trong thời kì nhà Minh (1368-1644) bắt đầu xuất hiện các đồ hình vòng xoáy.Đồ hình có vòng xoáy sớm nhất được cho là của Triệu Huy Khiên - Zhao Huiqian (趙撝 , 1351–1395) trong cuốn Lục Thư Bản Nghĩa viết năm 1370s thuộc bộ Tứ Khố Toàn Thư. Đồ hình này được ghép thêm với bát quái và được được gọi là Thái Cực Hà Đồ . Tới cuối đời nhà Minh thì mới xuất hiện thêm hai chấm bên trong thay bởi hai hình giọt nước, và được sử dụng rộng rãi trở thành Vũ Trụ Quan của người Trung Hoa. H1: Chu Đôn Di đồ hình H2: Triệu Huy Khiêm Đồ hình LAI TRÍ ĐƯC (來瞿唐 / 来瞿唐, 1525–1604) sau đó lại thiết kế lại Thái Cực Hà Đồ dựa trên khuôn mẫu của biểu tượng Phật giáo Tây tạng Gankyil H4: Lai Zhide vs Gankyil Tiên thiên thái cực đồ và vô cực đồ được phát triển và sử dụng nhiều nhất vào thời kì nhà Thanh (1644–1912) THÁI CỰC ĐỒ HIỆN ĐẠI Vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20, người Trung Hoa công bố rộng rãi Thái Cực đồ hình với hai vòng xoáy của thời Minh và gọi đó là Đồ Hình Âm-Dương. Khoảng từ những năm 1960 thì Âm Dương Đồ Hình được thêm vào hai chấm ở mỗi xoáy cùng kết hợp với Hà Đồ được sử dụng rộng rãi. Đồ hình này được dùng trong thiết kế và nhận diện của môn Thái Cực Quyền từ những năm 1970 để thể hiện tinh thần của bộ môn này. 2. DẤU HIỆU TỪ ROMAN Tại Rome, người ta tìm thấy dấu tích của Âm Dương Đồ Hình trên khiên và phù hiệu của Kỵ Binh của đế chế La Mã (AD 430). Trong bài viết "The Ying-Yan Among The Insignia of The Roman Empire - Âm Dương Đồ Hình bên trong dấu hiệu của Đế Chế La Mã" của Giovanni Monastra, người đã phát hiện ra dấu hiệu của Đồ Hình này từ thư tịch cổ có tên là "Notitia Dignitatum Omnium tam Civilium quam Militarium " được viết từ cuối thế kỷ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 5. Trong cuốn thư tịch cổ này, ngoài việc viết về các đơn vị hành chính và quân sự của Đế chế La Mã người ta tìm thấy rất nhiều ký hiệu và đồ hình cùng 4 màu sắc Đỏ-Xanh-Vàng-Trắng thể hiện thế giới Siêu hình, Tôn giáo và Tri thức. Ở trang tiếp theo, người ta lại tìm thấy Thái Cực Đồ của Chu Đôn Di theo hình ảnh dưới đây (hình thứ ba hàng thứ ba từ dưới lên) Theo tác giả, không có một nhà nghiên cứu La Mã Cổ nào kể cả nhà nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa Á Đông Franz Cumont phát hiện và đặt ra câu hỏi nghi vấn này ? liệu có phải đây là Thái Cực Đồ hay Âm Dương Đồ Hình của Á Đông xuất hiện trong Đế chế La Mã. Ngay cả đối với giới khoa học và nghiên cứu khảo cổ tại Châu Âu, không một ai đề cập tới vấn đề này và chủ yếu họ tìm hiểu sự giao thoa giữa các nền văn hóa cổ đại và tác giả cho rằng đây là một sai lầm. 3. Quốc Kỳ Hàn Quốc Ra đời đầu tiên vào thời kì Joseon 1882, được nói rõ sử dụng "BAT QUAI DO" cho Hoàng Gia. Vậy từ thế kỉ 18, Thái Cực Đồ của người Việt đã được biết tới và sử dụng tại Hàn Quốc 4. Đặt lại vấn đề Trong cuốn " Reconstructing the confucian dao" của Adler Joseph tạm dịch là Tái Thiết Đạo Khổng, chương năm trang 153, tác giả viết :" Mặc dù cho tới nay, sự xuất hiện của học thuyết Âm Dương được coi là nguồn gốc của Thái Cực Đồ vào thời Chu Hi ( 朱熹, October 18, 1130 – April 23, 1200) và Chu Đôn Di (周敦頤; Zhou Dunhyi; 1017–1073) có được học thuyết này từ Đạo Giáo. Chu Đôn Di và những người theo ông ta luôn khẳng định Chu Đôn Di là người sáng tạo ra Thái Cực Đồ. Chu Hi thì không chấp nhận học thuyết của Chu Trấn -hay Chu Hoàng - Hậu Lương Mạt Đế (Zhu Zhen (朱瑱) (October 20, 888–November 18, 923) cũng như đồ hình từ Đạo Giáo bởi theo Chu Hy, nó phá hoại tính đặc thù của Khổng Giáo. Trang 154, tác giả lại viết " Câu hỏi đặt ra là Thái Cực Đồ Hình của Chu Đôn DI lại được đem ra tranh luận kịch liệt suốt từ thế kỷ thứ 12. Theo ghi chép thì học thuyết đáng lưu ý nhất là của Chu Hoàng, và truyền cho Đôn Di thông qua Mục Tu ( Mu Xiu 穆修, 979–1032). Mục Tu là quan Trung phẩm chết khi Chu Đôn Di mới 15 tuổi: Mục Tu nhận được từ Chủng Phóng ( Chong Fang 种放956-1015) là một quan lại triều đình từ quan ẩn dật. Chủng Phóng học được Trần Đoàn Lão Tổ. Trần Đoàn ghi lại rằng, ông thu nhận được rất nhiều đồ hình trong đó bao gồm Quẻ, Quái trong Kinh Dịch được truyền bá rộng rãi bởi Thiệu Ung ( 邵雍 Shao Yung; 1011–1077) và Chu Hy . Một điều khá quan trọng là Tiên Thiên Đồ của Phục Hy được cả Thiệu Ung và Chu Hi. Chu Trấn đã đưa các đồ hình vào lý thuyết này từ trước, tới năm 1134 tức là 61 năm sau khi Chu Đôn Di chết thì những nguồn gốc lý thuyết của ông ta đều không xác định và tính xác thực về những gì ông ta đưa ra đáng để tranh luận. Thêm một sự liên hệ rõ ràng tới Đạo giáo là một khả năng Thái Cực Đồ bị ảnh hưởng từ Phật giáo bởi Chu Đôn Di được biết là Thầy cũng như bạn của Ông ta đều theo đạo Phật. Người được nhắc tới nhiều nhất là Thọ Nhai (Shou Ya) chùa Helin tại Runzhou (tỉnh Jiangsu), nơi Chu Đôn Di sống một thời gian những năm 20 tuổi. Theo Triều Thuyết Chi (Chao Yuezhi 1059-1129), Thọ Nhai dạy Chu Đôn Di nhưng dạy những gì thì không biết và Chu có phải là người KHÔNG theo Đạo Phật cũng đầy hoài nghi . Có một yếu tố đặc trưng của Phật giáo ảnh hưởng tới Thái Cực Đồ, là Guifeng Zongmi (圭峰 宗密 780-841) là nhà người Nhật dạy Phật giáo thời nhà Đường, là ông Tổ của Thiền Tông và Hoa Nghiêm Tông. Một trong những tựa hay sử dụng trong tác phẩm về Thiền Tông chính là Đồ hìnhcủa sự Khai Sáng, yếu tố Siêu Hình đại diện cho tàng Vô Thức. Nó chính là sự nhận diện cho Thái Cực Đồ. Tuy nhiên, Chu Hi bỏ hình tròn nhỏ vào giữa Đồ hình này và nói rằng nó đại diện cho Thái Cực. (Đồ hình của Tsungmi ) Đồ hình này được tìm thấy từ tàng thư tại hang Mogao, Dunhuang xác định là năm 952. Như vậy, đây là bằng chứng cho thấy Đồ hình Chu Đôn Di có nguồn gốc từ Phật giáo. Như vậy, chúng ta có thể thấy đồ hình ÂM DƯƠNG ngày nay chỉ mới xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu TK 20. Nó không thể hiện được tính minh triết của lý thuyết Âm Dương mà là thể hiện qua tư duy và lý thuyết của Đạo giáo. Thế nhưng rất nhiều tác giả vẫn khăng khăng cho là, hai chấm đen trong lưỡng nghi thể hiện Thiếu Âm và Thiếu Dương là từ thời Chu Đôn Di, khi mà ngay cả Chu Đôn Di cũng không được coi là người tạo ra Thái Cực Đồ. Thái Cực Đồ hay ĐỒ HÌNH ÂM DƯƠNG được lưu giữ từ nền văn hóa Việt trải gần 5000 năm Lịch sử , mô tả đầy đủ triết lý của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã cho ta thấy, người Việt mới là người nắm giữ đầy đủ học thuyết này. Những vòng xoáy âm dương được tìm thấy ở rất nhiều các công trình cổ đại, các di vật khảo cổ trên khắp thế giới. Niên đại lâu nhất của cổ vật được tìm thấy tới 12000 năm BCE (trước CN). · Phế tích tại Chichen izta từ nền văn minh Aztecs. Dấu hiệu âm dương Việt lại tiếp tục xuất hiện trên các cong trình kiến trúc tại thánh địa của người Maya ! Cổ vật từ nền văn minh maya cổ đại tìm thấy tại Ecuador Con Cá Vettersfelde hay là witaszkowo ( một thành phố tại Ba lan) nơi con cá được tìm thấy. Đây là con cá được làm khoảng 500 năm trước công nguyên do người Scythians (gốc iran) chế tạo từ vàng nguyen chất. Một loại vũ khí của người Maori , thổ dân new Zealand Đây là viên đá cổ thuộc kỳ đồ đá mới Neolithic 10200 năm Bc và kết thúc khoảng 4500Bc được tìm thấy ở Knowth- Ireland, được gọi là viên đá mặt trăng Dấu tích đồ hình âm dương Việt trên họa tiết trang phục trong nền văn minh Trylolye 5400-2750 TCN. (nay thuộc nước cộng hòa Moldova, Romania và Ukraina) ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG ĐẠO HINDU “Thái cực sinh lưỡng nghi Lưỡng nghi sinh tứ tượng Tứ tượng biến hoá vô cùng” Âm Dương Ngũ Hành vỗn vẫn được biết tới là một nền tảng lý thuyết của nền văn minh Đông phương. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của tôi thì ADNH là một lý thuyết thuộc về một nền văn minh cổ của nhân loại đã bị huỷ diệt, và mỗi một nền văn minh sau này nắm giữ một mảnh của lý thuyết vĩ đại đó. Qua các nghiên cứu cá nhân, tôi vô tình phát hiện ra sự mô tả lý thuyết ADNH trong đạo HINDU, một trong những Đạo lâu đời nhất và cũng là Đạo có nhiều CHÚA Trời nhất (khoảng 330 triệu vị Thần). Một trong những biểu tượng có trong các ngôi Đền Hindu, đó là biểu tượng LINGA SHIVA, biểu tượng của sự Huỷ Diệt và Tái Sinh. Có rất nhiều sự sai lầm về hình tượng này. Một số thì cho rằng đây là Biểu tượng tôn thờ tín ngưỡng phồn thực, rằng đây chỉ là mô tả bộ phận sinh dục của người đàn ông, và ở dưới là hình tượng mô tả bộ phận sinh dục của đàn bà. Trong Hindu giáo, biểu tượng này được gọi là Linga Shiva và cũng có sự hiểu sai lệch rằng đây là hình tượng Dương vật của thần Shiva(một trong những vị Thần vĩ đại nhất trong Hindu giáo), và phía dưới là biểu tượng Âm vật của thần Shakti. Từ Shiva có nghĩa là Tốt Lành, Linga (hay Lingam) có nghĩa là hình tượng, là dấu hiệu. Và Linga Shiva tức là hình tượng của sự bất tử của Thần Shiva. Đó là biểu tượng của Đấng sáng tạo, là sự tự nhận thức vượt qua sự sinh sôi, sự huỷ diệt, sự tốt-xấu, Thần Linh và Ma Quỉ, thời gian và Vũ trụ. Là điểm khởi nguồn của vạn vật. Nếu dịch nghĩa từ Dương Vật trong ngôn ngữ Hindi (Sanskrit), thì sẽ là từ SHISHNAM, không phải là từ Linga. Sự hiểu sai ngay từ chính người theo Đạo Hindu cũng do bởi sự cố tình làm sai lệch ý nghĩa, xuất phát từ những kẻ xâm lược và muốn huỷ diệt Hindu giáo. Biểu tương này là thể hiện sự bất tử của Thần Shiva nhưng từ sự sai lệch dẫn tới từ này mang ý nghĩa khác, Từ Yoni cũng vậy, có nghĩa là Mẹ Thiên Nhiên, là biểu tượng của sự sinh sôi nhưng lại được hiểu sai thành bộ phận sinh dục phụ nữ. Đây là hình tượng của Thần Parvati, vợ của Thần Shiva. Biểu tượng Linga có hai dạng chính: 1. Tại Ấn độ, Nepal: Linga hình tròn và Yoni cũng hình tròn. Trên Linga có biểu tượng ba gạch liền và hình tượng Con Mắt thứ Ba ở giữa. Con mắt này đều xuất hiện trên Trán của Thần Shiva thể hiện sự thông hiểu, là ý thức, nhận thức, là sự xuyên suốt. Đây cũng chính là mô tả hình thái của Vũ Trụ 2. Tại Đông Nam Á: Biểu tượng Linga phức tạp hơn, thể hiện hình tượng của ba vị Thần tối cao trong Hindu giáo. 3 vị thần thể hiện vòng tròn cuộc sống (Samsara) : SINH-VƯỢNG-MỘ a. Thần Shiva-hình Tròn và chạm khắc mặt của vị Thần này- Là vị thần của sự huỷ diệt,sự tái sinh, là công lý, phán xét. b. Thần Visnu-Bát giác, là vị thần của sự che trở, bao bọc, bảo vệ c. Brahma-hình Vuông. là đấng sang tạo.Là vị thần tạo ra nguồn gốc của con người. d. Yuni: địa cầu, đất Mẹ Nhìn vào Biểu tượng Linga , điều nhận thấy đầu tiên đó là hình tượng Quẻ CÀN trong Bát Quái của Lý Học Đông Phương. Đây là tượng của Thần Shiva là Đấng sáng tạo nhưng cũng là vị Thần của sự Huỷ Diệt, và đó cũng chính là ý nghĩa của quẻ CÀN :Hình Trụ/Tròn Là Trời, là Cha, thuộc Dương. Biểu tượng Yoni: Là tượng của Trái Đất, là Mẹ,thuộc ÂM. Tuy nhiên Yoni ở vùng ĐNA như Campuchia, Vietnam thì lại là hình Vuông – Là quẻ Khôn,. Vẫn là hình Tròn và Vuông trong Lý Học Đông Phương thể hiện sự Sinh Sôi, Sáng Tạo, là hình tượng của Cha –Mẹ. Tuy thể hiện qua nhiều hình thể khác nhau do ảnh hưởng của tôn giáo nhưng về bản chất vẫn là sự mô tả nhận thức của con Người với Vũ Trụ quan. Chúng ta cũng có thể nhận thấy đâu đó có sự xuất hiện của Tứ Tượng và Bát quái trên Linga. Ví dụ Linga tại Nepal, tượng bát quái mô phỏng bằng bông hoa Sen Theo các tài liệu nghiên cứu thì các vị Thần Hindu giáo được đặt tên cho các Chòm Sao Hoàng Đạo của chiêm tinh học Vệ Đà vào khoảng 5000 năm trước công nguyên. Do đó, Thiên Chúa giáo cũng nhận được ảnh hưởng của biểu tượng Linga (Âm Dương) và hình dưới chính là quảng trường Thánh Peter tại Vatican. Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là lý thuyết gốc để rồi từ đó chúng ta mới có các bộ môn ứng dụng như lịch Can Chi, Kinh Dịch, Địa Lý, Tử Vi, vv..Người Trung Quốc tin rằng học thuyết ADNH cùng những bộ môn ứng dụng đó là do tổ tiên họ sáng tạo ra, từ những nhân vật thần thoại như vua Phục Hy nửa người nửa rắn hay linh vật như Long Mã , Rùa thần. Người Trung Hoa kể rằng vua Phục Hy - thời tam Hoàng ngũ Đế , là thủy tổ của loài người (nhưng không xác định được là thần hay là người) niên đại khoảng năm 2852–2737 TCN (nguồn Wiki) . Phục Hy là người tạo ra Bát Quái, Hà Đồ , Kinh Dịch và Tiên Thiên bát quái đồ. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng vào thời kì niên đại khoảng 3000 năm TCN thì đã tồn tại các nền văn minh khác, và cùng thời với nền Văn Minh Lạc Việt của Vua Hùng (2879 TCN) 1. Bát quái , Hà Đồ và Kinh Dịch được vua Phục Hy tạo ra, Lạc Thư do vua Đại Vũ tạo ra nhưng mãi sau gần 2000 năm sau thì người Trung Quốc mới có học thuyết Âm Dương ngũ hành ? Phải có Thái Cực và ÂM DƯƠNG thì mới sinh ra Bát Quái nhưng thật tài tình là người Trung Quốc sáng tạo ra Bát Quái rồi mới tạo ra lý thuyết Thái Cực sinh Lưỡng Nghi !Đấy chẳng phải là câu chuyện “ Sinh Con rồi mới Sinh Cha”? ! 2. Lục Thập hoa Giáp và lịch Can Chi thì người Trung Quốc nói rằng họ có từ năm 1250 TCN vào thời nhà Thương. Nhưng hệ thống Ngũ Hành thì lại được tuyên bố được sáng tạo vào khoảng 168 TCN thời nhà Hán (206-220 BCE) ? chưa có ngũ hành mà lại có lịch Can Chi và Lục Thập Hoa Giáp ? 3. Hà Đồ - Lạc Thư mô tả chiều Ngũ Hành Tương Sinh và Tương Khắc thế nhưng Ngũ Hành lại sinh ra sau Hà Đồ - Lạc Thư tới hơn 2700 năm ? 4. Hà Đồ -Lạc Thư được người Trung Hoa khẳng định là ma trận toán học đầu tiên và cổ xưa nhất trên thế giới. Thế nhưng họ lại cũng khẳng định hệ thống toán học cổ xưa nhất của Trung Quốc có trên mai rùa và thư tịch cổ lại có từ thời nhà Thương (1600-1046 TCN), tức là ma trận toán học lại có trước cả khi có hệ thống toán học ? vậy làm sao lại có được ma trận 3x3 mà tổng các hàng, cột đều bằng 15 và có hệ thống số đếm trên Lạc Thư- Hà Đồ do vua Phục Hy và Đại Vũ làm ra từ trước cả hơn 1000 năm ? 5. Tử Vi đẩu số, một bộ môn ứng dụng từ thuyết Âm Dương Ngũ Hành được coi là sự sáng tạo của một Đạo sỹ thời nhà Đường (681-907) tên là Lã Thuần Dương(Lu Chun Yang - 呂純陽), sau đó được Ông Hy Di Trần Đoàn đời nhà Tống phát triển bổ xung, rồi tới cuối cùng hoàn thiện như ngày hôm nay bởi La Hồng Tiên ( Luo Hong Xian -羅洪先) đời nhà Thanh . Thời điểm mà người Trung Hoa nói rằng tạo ra thái cực đồ với hệ lý thuyết Âm Dương ( Thái cực sinh lưỡng nghi) là vào thời nhà Tống, do Chu Đôn Di sáng tạo ra. Người ta nói rằng đây là bộ môn thiên văn cổ dùng để tiên tri, bói toán nhưng nó hoàn toàn dựa vào học thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà ra. Nếu bạn đã một lần xem tử vi đẩu số, chắc hẳn ngoài chữ "SAO" thì bạn sẽ không tìm được dấu vết nào liên quan tới Thiên văn học cả. Câu hỏi là : - Nếu chưa có lý thuyết về Âm-Dương thì làm sao sinh ra Ngũ Hành để rồi có được lá số tử vi với hệ thống phức tạp liên quan tới Âm Dương ? Như vậy chẳng phải là Sinh Cháu giữ nhà rồi mới Sinh Ông ? Chỉ duy nhất có Thái Ất thần số là bộ môn thiên văn học cổ của người Việt không bị gắn vào thời kỳ nào hay tác giả nào, chỉ nói chung chung là của người Trung Hoa. Chúng ta cũng nên biết rằng Thái Ất là bộ môn tính toán Lịch cao cấp nhất cho tới ngày nay, từ năm GIÁP TÝ thời thượng cổ cách nay(2017) là 10,141,313 năm. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người nắm giữ đầy đủ nhất về bộ môn này. Trong lịch sử Trung Quốc đã ghi lại lịch Can Chi của người Việt đã được Vua Hùng tặng cho vua Nghiêu (Yao Emperor 2356-2255 TCN) viết dưới dạng chữ Khoa Đẩu. Hệ Can Chi cũng là hệ duy nhất sử dụng trong các ĐỜI trị vị của HỒNG BÀNG THỊ. 18 Thời Vua Hùng bao gồm (trích dẫn từ WIkipedia tiếng Anh, tiếng Việt không đề cập tới chi tiết này): I. Kỷ thứ nhất (2879–2000 BC) • Càn hệ (Hùng Dynasty I, c. 2879 – 2794 BC) • Khảm hệ (Dynasty II, c. 2793 – 2525 BC) • Cấn hệ (Dynasty III, c. 2524 – 2253 BC) • Chấn hệ (Dynasty IV, c. 2254 – 1913 BC) II. Kỷ Phùng Nguyên (2000–1500 BC) • Tốn hệ (Dynasty V, c. 1912 – 1713 BC) • Ly hệ (Dynasty VI, c. 1712 – 1632 BC) • Khôn hệ (Dynasty VII, c. 1631 – 1432 BC) III. Kỷ Đồng Đậu (1500–1100 BC) • Đoài hệ (Dynasty VIII, c. 1431 – 1332 BC) • Giáp hệ (Dynasty IX, c. 1331 – 1252 BC) • Ất hệ (Dynasty X, c. 1251 – 1162 BC) • Bính hệ (Dynasty XI, c. 1161 – 1055 BC) IV. Kỷ Gò Mun (1100–800 BC) • Đinh hệ (Dynasty XII, c. 1054 – 969 BC) • Mậu hệ (Dynasty XIII, c. 968 – 854 BC) • Kỷ hệ (Dynasty XIV, c. 853 – 755 BC) V Kỷ Đông Sơn (800–258 BC) • Canh hệ (Dynasty XV, c. 754 – 661 BC) • Tân hệ (Dynasty XVI, c. 660 – 569 BC) • Nhâm hệ (Dynasty XVII, c. 568 – 409 BC) • Qúy hệ (Dynasty XVIII, c. 408 – 258 BC) Không có Âm Dương Ngũ Hành, Bát Quái, Can Chi thì làm sao Tổ Tiên của Việt tộc lại sử dụng tri thức đó cho chính các thời kỳ trị vị, Hiến pháp (Hồng Phạm Cửu trù), lịch Can Chi, Lạc thư Hoa Giáp (nạp âm 60 năm khởi từ Giáp Tý) ? Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của nền Văn Minh Lạc Việt đã phải có từ trước khi Thủy Tổ của Việt tộc -Vua Kinh Dương Vương lâp quốc tới nay là 4896 năm. Người Trung Quốc sau khi Tần Thủy Hoàng xâm chiếm và hủy hoại toàn bộ nước Văn Lang để thống nhất Trung Quốc, đốt sách và hủy hoại nền văn minh Lạc Việt nhằm viết lại lịch sử. Ông ta đã không lấy được đầy đủ học thuyết ADNH từ nền văn minh Lạc Việt nên sau đó hễ cứ lấy được mẩu nào thì gắn truyền thuyết vào mẩu đó mà không có tính hệ thống nên đã trở thành sự chắp vá, thậm trí gán cả vào các truyền thuyết mơ hồ. Cái nào tìm được trên khảo cổ hay văn bản cổ thì họ công bố luôn mà không cần tìm hiểu nguồn gốc trước đó, ví dụ như hệ thống toán học cổ và Lạc Thư-Hà Đồ. Cho nên Ông Cha ta mới tạo ra chuyện Sinh con rồi mới sinh cha,Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông để nhắn nhủ cho thế hệ con cháu đi tìm sự mâu thuẫn trong nguồn gốc của học thuyết ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH của người Trung Hoa cũng như tìm lại Cội nguồn đích thực của học thuyết này.
    1 like
  2. Bài viết sau tôi tình cờ đọc trên diễn đàn http://lichsuvn.info và được gởi lên bởi yevon. Tác giả bài viết này có yêu cầu: "BẤT CỨ AI ĐỌC TOPIC NÀY PHẢI YÊN LẶNG NGẪM KỸ NHỮNG GÌ TÔI VIẾT TRƯỚC KHI CÓ Ý KIẾN. NẾU AI CHƯA ĐỌC MÀ LẠI POST BÀI LẢM NHẢM NHỮNG GÌ TÔI ĐÃ VIẾT, TÔI MONG TÊN ĐÓ BỊ XEM LÀ SPAM". Dù đúng dù sai, dù lý luận theo cơ sở khoa học nào đi chăng nữa. Thì đây cũng là một bài viết thú vị và bổ ích dành cho những ai yêu thích văn học dân gian nước Việt ta. Truyện Tấm Cám là 1 câu chuyện gây tranh cãi dữ dội bởi những con dân đất Việt từ hàng chục năm nay ( vì sao chỉ là hàng chục thì lát nữa sẽ biết), chung quy cũng chỉ vì xoay quanh cái ending “ấy” mà ra cả. Phe thì cho là nhân vật chính độc ác đạo đức giả blap blap gì đó ( trong The Gioi Ngoi But mới hôm qua có 1 troll như thế), Phe thì ra sức bảo vệ “ con người đáng thương bị áp bức hiện đang bước vào giai đoạn con giun xéo lắm cũng quằn.”. Nói một cách khách quan thì tôi cũng từng thuộc 1 trong 2 loại troll ấy, và mất ít nhất 3 năm cho đến khi sáng ra tất cả với những tài liệu tìm thấy được. Trong 3 năm đó, thậm chí ngay cả tôi vẫn còn lầm lẫn chẳng ít và tuyên truyền sai cũng chẳng ít. Tôi không nghĩ bài viết này có thể dập tắt được phong trào troll, nhất là phong trào đến từ phái troll “ độc ác dã man” bởi lẽ đơn giản tôi ko nghĩ mình hơn troll ( ngó đoạn văn vừa trên), chẳng qua là may mắn biết nhiều hơn 1 chút. Demou, sự thực vẫn luôn là sự thật, như cụ luật sư wiwi của lichsuvn đã nói “ ngu ngốc là 1 vấn đề khách quan, nó ko cần biết anh biết nhiều hay biết ít.”, vì thế tôi mạn phép bỏ sức ra trình bày tất cả những tư liệu của các nhà nghiên cứu về câu chuyện cổ nổ tiếng xếp hàng kinh điển của nhân loại này. SỰ THẬT ĐẰNG SAU TRUYỆN TẤM CÁM I. Xuất xứ:1.1. Gốc tích, quê quán: Tấm không phải là tên thật của nhân vật nữ chính trong truyện. Kỳ thực, tên phổ thông nhất của cô ta là “ Tro Bếp” ( Cinderella theo tiếng Anh) , dịch sang tiếng Việt là “Lọ Lem”. Cái tên này được dùng chung tất cả các nước châu Âu. Tùy nước mà tên gọi có khác nhau đôi chút: Pháp: Cendrillon Ý: Cenerentola Rumani: Cenusotca Nga: Cernuska hay Doluska … Tất cả cái tên đều có nghĩa chung là “ Tro Bếp”. Còn ở các nước ngoài phạm vi châu Âu, cái tên này thay đổi nhiều hơn, không còn phụ thuộc vào ý nghĩa từ “Tro Bếp” nữa : VN: Tấm- Cám TQ: Diệp Hạn Choang: Ta Gia - Ta Luân Tày: Tua Gia - Tua Nhi Chăm: Neang Cantoc - Neang SongAngcat/ Mu Gajaung - Mu Haloek Campuchia: Neang Kantoc - Neang Chong Angkaat Myanma: Bé Xre: Gơ Liu Hre: Ú Thái: Ý Ưởi Hmong: Gàu Nà Các tên khác: Kajong - Halek Ko Giong – Hu Lếch. Lưu ý 1 điều: Bạch Tuyết thuộc 1 motip truyện gần giống chứ không phải là Tro Bếp, đừng hiểu lầm. 1.2. Các phiên bản: Thật sự là khó có thể thống kê hết đã từng có bao nhiêu phiên bản Tro Bếp trên toàn thế giới, ta chỉ có thể biết rằng mức độ phổ biến của câu chuyện này cực kỳ rộng lớn, từ đất Nga xa xôi đến VN mưa rào, xuyên qua Trung Đông sa mạc, tràn xuống cả Châu Phi nóng nực. Không đâu là không có “Tro Bếp”, hầu như không dân tộc nào là không có ít nhất một phiên bản như thế cho mình. Chỉ riêng Việt Nam thôi người ta đã tìm ra ít nhất 35 phiên bản. Theo một cuốn sách cũ mà tôi quên mất tựa đề, truyện “Tro Bếp” có tổng cộng ít nhất 200 phiên bản trên toàn thế giới ( 200 hay 2000 tui ko còn nhớ rõ, phải chi tôi tìm lại được cuốn ấy, chỉ còn nhớ tác giả hình như là Đinh Gia Khánh.). Đó là chưa tính đến những truyện được phóng tác từ motip này, ví dụ như bộ phim Lọ Lem lừng danh của Want Disney hay câu chuyện Tro Bếp của Andescen viết lại. 1.3. Tro Bếp tồn tại từ bao giờ: Không bao giờ có thể biết. Nhưng nếu xét trên bình diện chung của truyện cổ, vốn là những truyện xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 sau công nguyên, khi những thể loại như sử thi, thần thoại, anh hùng ca đã chìm vào dĩ vãng thì ta tạm chấp nhận Tro Bếp là một idol xuất hiện vào thế kỷ thứ 10. Bản Diệp Hạn của Trung Quốc cũng ghi nhận sự xuất hiện sớm nhất của nó là thế kỷ thứ 9, vậy là suy luận của chúng ta tạm xem là trùng khớp. II. Những chi tiết chung trong motip truyện: 2.1. Con cá hay người mẹ? Quý vị chắc chẳng quên được chi tiết con cá bị mần thịt nhỉ? Phiên bản Tro Bếp của ta xem con cá là hình ảnh người mẹ của Tấm. Kỳ thực, hầu hết những phiên bản motip ở riêng khu vực Đông Á mà theo hướng “ Tấm – Cám không phải là chị em ruột” thì hầu như đều viết 1 chi tiết rất quan trọng rằng: “ cái con/ thứ đó là mẹ Tro Bếp đầu thai.”. Hãy điểm sơ sơ lại list truyện Tro Bếp: TQ: Diệp Hạn ( mẹ Diệp Hạn hóa thành cá vân mắt đỏ, bị ăn…) Choang: Ta Gia - Ta Luân ( mẹ Ta Gia thành chim khách/ chim quạ, bị ăn thịt…) Tày: Tua Gia - Tua Nhi ( Mẹ Tua Gia thành bò, bị ăn thịt) Myanma: Bé ( mẹ Bé thành rùa, bị ăn thịt) Hre: Ú ( Mẹ được vua Thủy Tề cứu hóa thành người cá) Hmong: Gàu Nà ( mẹ Gàu Nà thành bò/ chim, bị ăn thịt.) Thái: Ý Ưởi ( mẹ chết biến thành con cá vàng nhỏ.) Như vậy, ta thấy rằng rất nhiều phiên bản Tấm Cám đã mô tả việc mẹ con Cám ăn thịt mẹ Tấm dưới 1 hình thức ước lệ ( mẹ Tấm đang trong lốt cái gì đó). Cái “con cá” ấy, hầu như luôn thể hiện ám chỉ “ là 1 hóa thân của 1 người thân Tấm.” chứ không đơn thuần là con vật dùng để luyện lấy Ultima weapon ( ý tôi nói là vụ chôn xương để lấy áo quần đẹp á.). Thậm chí 1 vài dị bản, Mẹ Tấm đóng thay luôn cả vai trò của ông tiên giúp Tấm cưới vua ( cái này khá ít, chỉ có thể xem là trường hợp cá biệt). Cái ý nghĩa này thường xuất hiện khi “ Tấm – Cám không phải là chị em ruột” ( bởi nếu là chị em ruột, tức mẹ Tấm còn sống, thì con cá ấy là hiện thân của kí rì đây?) Ý nghĩa “ cái con bị ăn thịt ấy là mẹ/ cha của tôi đầu thai” theo khảo sát cho đến thời điểm hiện tại, chỉ thấy xuất hiện ở khu vực Đông Á mà thôi. Những nơi khác nó đơn giản chỉ là vật dùng để chôn xương lấy áo, với xuất xứ có khi chỉ là rất bá vơ như “ Tro Bếp đang ngồi khóc thì con cá ở đâu bơi lại”, hoặc trọng đại hơn 1 chút là “ thần hiện ra tặng cho con cá.” 2.2. Sự giúp đỡ từ thế lực siêu nhiên: Cái này chắc tôi ko phải nói nhiều. Đơn giản là trừ vài cá biệt, mẹ/cha đã chết của Tấm ở các bản Đông Á sẽ vừa đóng vai trò “ cái con bị ăn thịt” vừa đóng luôn vai trò ông tiên, thì hầu hết các phiên bản đều giao nhiệm vụ giúp đỡ này cho 1 thế lực bất bình thường VD như Bụt ( Việt Nam), hay đạo sĩ, thần thánh, bà tiên,… 2.3. Chiếc giày hay bàn chân? Tấm ở VN được hoàng tử/vua phát hiện qua chiếc hài thêu. Tro Bếp ở châu Âu được phát hiện qua chiếc giày pha lê/ thủy tinh. 1 số nước khác, Tro Bếp được phát hiện qua những món còn … trần tục hơn VD như …guốc gỗ. Sự phổ biến của phiên bản “ nhận biết qua thứ người ta mang dưới chân” khiến không ít người nhầm lẫn đôi giày làm thứ giúp nhà vua phát hiện ra và công nhận Tro Bếp. Kỳ thực, nếu ta để ý, nguyên nhân Tro Bếp được phát hiện là do “ chiếc giày quá nhỏ, nhỏ đến nỗi những cô gái có đôi chân nhỏ nhất cũng vẫn còn lớn hơn đôi giày kỳ lạ đến hai lần.”. Sau này, người ta phát hiện ra một số phiên bản khẳng định điều này. VD như bản Campuchia hay một số bản khác tại những xứ không quen đi giày dép, Neang Cantoc ( Tro Bếp) được nhận ra nhờ vua trông thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn chẳng lầm vào đâu được. Như vậy, thứ giúp Tro Bếp được nhận ra và trở thành hoàng hậu là … đôi bàn chân nhỏ chứ không phải chiếc giày nhỏ. Sự ngộ nhận này đã tồn tại trong rất nhiều thế hệ. 2.4. Tái sinh liên tục: Đặc điểm riêng của các bản Tro Bếp vùng Đông Á là câu chuyện chưa kết thúc sau khi Tấm thử giày mà sẽ kéo dài quan 1 lần hoạn nạn nữa với sự kiện tái sinh liên tục. Tấm sau khi chết sẽ liên tục biến thành đủ thứ cây cỏ , con vật cho đến khi nhà vua nhận ra. Lần này dĩ nhiên là dông dài và phức tạp hơn vụ thử giày hồ nửa đầu truyện. Thống kê 1 số quá trình biến hóa của vài phiên bản tiêu biểu: Bản Chăm của Landes: rùa – măng – chim – cây thị Bản Chăm của Leclere: rùa – chim – măng – cây pen Bản Việt của Vũ Ngọc Phan: chim – cây xoan – khung cửi – cây thị Bản Việt của Landes: Chim – măng – cây thị Bản Tày: Chim – tre – 2 quả trứng Bản Xơ Rê: trúc – chim – cây thị Bản Hơ Rê: chim – cà – cam Bản Khmer: chuối – tre Bản Myanma: Bồ câu – đu đủ Bản Lào: quả tum Bản Thái Lan: chim Ta lưu ý 1 điều: hầu hết các phiên bản thì Tro Bếp có sự trùng hợp là bị biến thành chim và bị ăn thịt. 2.5. Ending của Cám: Trừ vài bản phóng tác của Andescen hay người khác, hầu hết đều ghi nhận kết cục ko tốt đẹp gì cho Cám ( 100% là bị giết theo nhiều cách khác nhau.). cái này sẽ được đề cập ở mục III. III. Sự Thật? 3.1. Dì ghẻ con chồng hay chị em sinh đôi? Có lẽ ít người phát hiện ra điều này. Nhưng có ít nhất 2 kiểu OP cơ bản khác nhau, dẫn tới 2 cái ending cơ bản cũng khác nhau tương ứng. Thường nhắc đến Tấm Cám hay Tro Bếp, ta thường nghĩ đến 1 câu chuyện về xung độ “ dì ghẻ - con chồng”, nhưng thực tế không phải như vậy. Tấm Cám có đến 2 motip cơ bản là motip “ Tấm – Cám là chị em cùng cha khác mẹ” và “ Tấm – Cám là chị em ruột sinh đôi.”, một motip khá thịnh hành ở Đông Nam Á. Điều này nghe tưởng như đùa nhưng thực sự số bản theo motip “ chị em sinh đôi” là rất lớn. Theo thống kê, ít nhất nó bao gồm: chiếm tới 2 trong tổng số 3 bản Chăm thu thập được. các bản Campuchia Bản Tấm Cám VN ( bản của Landes và bản của Jeanneau) Các bản của dân tộc ít người trong phạm vi VN. … *. Nếu theo motip “ dì ghẻ con chồng” thì diễn biến câu chuyện thường là: - 1 thế lực siêu nhiên bảo Tro Bếp nuôi cái gì đó ( ăn được), 90% “cái gì đó” là người thân cô ta đầu thai. - “cái gì đó” ấy sẽ bị ăn, Tro Bếp sẽ sử dụng những phần còn lại để có đồ đi dự hội và gặp gỡ “người ấy”. - “Người ấy” đi tìm Tro Bếp, nhận ra cô nhờ chiếc giày chỉ vừa với đôi chân nhỏ. - Tro Bếp sau khi làm vợ 1 thời gian, trở về nhà, bị mẹ con dì ghẻ giết và đánh tráo. - Tro Bếp tái sinh liên tục. - Tro Bếp và người ấy gặp lại nhau. Ending: - Mẹ con dì ghẻ bị tiêu tùng, bởi những thế lực khác nhau tùy theo phiên bản mỗi nước. *. Nếu theo motip “ chị em sinh đôi” thì câu chuyện sẽ thu hẹp về phạm vi gia đình và mâu thuẫn 2 chị em hơn, cụ thể: - Tấm – Cám được mẹ/cha dặn đi bắt cá, người bắt nhiều sẽ được xem là chị ( và Tấm bị Cám tráo giỏ.). - 1 thế lực siêu nhiên bảo Tro Bếp nuôi cái gì đó ( ăn được), 90% “cái gì đó” không có can hệ máu mủ gì với người thân đã chết cả ( vì bà mẹ vẫn còn sống sờ sờ kia). “ Cái gì đó” đơn giản chỉ dùng để làm bạn và để lấy áo quần dạ hội. - “cái gì đó” ấy sẽ bị ăn, Tro Bếp sẽ sử dụng những phần còn lại để có đồ đi dự hội và gặp gỡ “người ấy”. - “Người ấy” đi tìm Tro Bếp, nhận ra cô nhờ chiếc giày chỉ vừa với đôi chân nhỏ. - Tro Bếp sau khi làm vợ 1 thời gian, trở về nhà, bị mẹ và em ruột giết chết và đánh tráo, thường là theo lối giội nước sôi rồi băm xác đem giấu. Do là chị em sinh đôi nên người em giả dạng rất dễ dàng. - Tro Bếp tái sinh liên tục. - Tro Bếp và người ấy gặp lại nhau. Ending: - Cám bị ưu tiên chết, cái chết nhấn mạnh vào vấn đề “ Cám cố gắng giống chị để tiếp tục đánh tráo”. Bà mẹ ruột thì tùy, thường là chẳng nghe đá động gì cả. Lý do đơn giản vì motip này đã hoàn toàn thiên về xung đột chị em. Như ta thấy, 2 chuỗi motip này dẫn tới 2 cái ending thuộc loại “ liếc thì có vẻ giống nhưng xem kỹ mới thấy khác.”. Thường ở motip “ dì ghẻ con chồng”, nó mang ý nghĩa “ tòa án, trừng trị” nơi 1 ai đó ( tuyệt đối không phải Tấm) sẽ đứng ra phân xử Cám và làm mắm cô ta gửi mẹ sau khi sự thật phơi bày. Còn nếu theo motip “chị em sinh đôi” thì ending theo hướng nhấn mạnh vào vấn đề “ Cám cố đánh tráo lần thứ 3” vốn đã xảy ra suốt mạch truyện. Để hiểu rõ hơn, tôi nêu ra list các ending: - Tày: Tua Gia Tua Nhi ( Mẹ vua sai Tua Gia khoan về nhà mà giả làm người bán bánh. Hoàng Hậu Tua Nhi ko nhận ra, hỏi cô bán bánh làm sao mà trắng đẹp thế, cô trả lời nhờ tắm nước sôi. Hoàng hậu hí hửng làm ngay, chết.) - Ý( đảo Sicile): Cenerentola ( vua giết và làm mắm cô con gái, gửi mụ dì ghẻ. Khi mụ ăn, con mèo nói: “ cho tôi chút gì tôi khóc giúp cho”. Mụ đuổi mèo đi. Sau mụ phát hiện ra sự thật, chết. Mèo lại kêu “ mụ không cho tôi gì cả, tôi chẳng khóc giúp đâu.”) - Campuchia: Neang Kantoc ( Hoàng hậu giả Neang Chong Angkaat chạy vào rừng, mất hút vĩnh viễn ko ai còn nhìn thấy. ---- > làm điểm tâm cho cọp beo. Cha thì bị cá sấu lôi đi) - Myanma: Bé (Hoàng hậu giả đòi đem gươm thần phân xử. Gươm thần giết người, vua làm mắm biếu dì ghẻ) - Xre: Gơ Liu ( Gơ Lat bị hoàng tử lệnh làm mắm) - Hre: Ú (. Cao bị chồng Ú giết làm đồ ăn, cha mẹ bị ong đốt chết) - Thái: Ý Ưởi ( Nghe Ý Ưởi nói trắng nhờ tắm nước sôi, Ý Nọong nấu nước sôi, nằm vào máng bảo Ý Ưởi giội hộ.) Còn nhiều, nhiều, nhiều nữa. Nhưng tôi đá ra chỉ nhiêu đây thôi. Tóm lại là như thế này: - Theo phiên bản “ dì ghẻ” thì không thể có đoạn bắt tép nhưng thường lại thêm vào chi tiết con vật nuôi của Tấm là cha/mẹ hóa thân. Còn đoạn kết luôn là Hoàng hậu giả bị vạch mặt và bị chủ yếu là chồng của Tro Bếp biến thành mắm cá ( quái quỷ gì mà dân xưa ghiền mắm cá thế ko biết, tận đến cả Châu Âu như Ý cũng mắm cá) hoặc “nhẹ nhàng” hơn là bị thần thánh ( thánh kiếm, thần linh) hay động vật ăn thịt “thưởng thức” ( như bản Campuchia một người chạy vào rừng chơi với beo, 1 người chơi với cá sấu). - Theo phiên bản “ sinh đôi” thì câu chuyện nghiêng về xung đột chị em và nhấn mạnh sự giống nhau của 2 người. Bắt buộc phải có vụ bắt tép để phân xử ai chị ai em. Chi tiết “con cá là cha mẹ” bị loại bỏ. Tấm phải chết vì nước sôi. Cái chết của Cám liên quan đến chủ đề “ sự đánh tráo” nhiều hơn. Do Tấm sau khi trở về đã trắng hơn trước, Cám cấp tốc tìm cách trắng như Tấm để nhanh chóng giết người và tráo đổi lần nữa. Tấm thật thà giải thích nguyên nhân mình trắng ( Bởi thế nên đoạn giữa của motip “sinh đôi”, Tấm bị giết hầu như phải vì bị giội nước sôi hoặc là bị chặt cau rồi rớt vào hố nước sôi,… bắt buộc phải có nước sôi). Cám hý hửng làm theo ( hài hước hơn là Cám rủ Tấm cùng đi … tắm trắng, nấu nước, rồi bảo Tấm giội phụ, Tấm thật thà giội giúp, ai ngờ… như bản của Thái.) Nhưng vấn đề ở đây là ending theo phương pháp “trừng phạt” cho cả mẹ con Cám lại có thể áp dụng luôn cho cả motip “ chị em sinh đôi” miễn là cho Tấm đứng ngoài. Sự lộn xộn đến từ chỗ này. 3.2. Lịch sử bản Tấm Cám mà ta biết. Thực tế cái gọi là “ truyện cổ tích Tấm Cám” mà ta vẫn thường nghe hiện nay không phải là bản Tấm Cám gốc mà là bản … viết của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan. Ông đã dựa vào các mẫu truyện Tấm Cám mà Landes, Leclere, … đã thu thập hồi cuối thế kỷ 19. Mà bản có nội dung gần với bản Tấm cám ta biết nhất là bản tìm thấy năm 1886 của G.Jeanneau. Cụ Vũ đã dựa vào những bản tìm thấy năm 1886 này, thêm mắm bỏ muối 1 ít, thế là viết ra câu chuyện “Tấm Cám revenge độc nhất vô nhị trong lịch sử Tro Bếp, phiên bản cổ tích duy nhất có sự phát triển tích cách nhân vật” ( tự hào đi). Cụ thể bản Tấm Cám 1886 chung quy là thế này: - Tấm – Cám là chị em sinh đôi - 2 người đi bắt tép để được xét ai là chị, ai là em - Tấm bị giội nước sôi hoặc bị chặt cau rơi vào hố nước sôi - Tấm tái sinh nhiều lần rồi gặp được vua. - Tấm trở về, trắng đẹp hơn xưa. Cám muốn đánh tráo tiếp bèn hỏi “ Chị ơi, sao chị trắng thế?”. Tấm trả lời “ ngày xưa chị bị em giội nước sôi nên trắng”. Cám nghe theo đi làm ngay. Tiêu Tùng. - Tấm làm mắm Cám gửi dì ghẻ. Còn bản của Vũ Ngọc Phan là thế này: - Tấm – Cám là chị em cùng cha khác mẹ - 2 người đi bắt tép để … giành yếm - Tấm bị chặt cau chết, chẳng có nước sôi nước lạnh gì cả, chỉ có ao hay giếng mà thôi. - Tấm tái sinh nhiều lần, gặp lại vua. - Tấm trở về, trắng đẹp hơn xưa. Cám thấy Tấm trắng đẹp quá nên ghen ghét, bèn hỏi “ Chị ơi, sao chị trắng thế?”. Tấm trả lời “ muốn trắng thì để chị giúp cho”. Cám nghe theo đi làm ngay. Tấm bảo Cám đào cái hố rồi chui xuống, Tấm kêu quân đổ nước sôi xuống. Cám tiêu tùng. - Tấm làm mắm Cám gửi dì ghẻ. Như ta thấy, bản tìm được năm 1886 đã có dấu hiệu chắp ghép và phi lý ở đoạn ending. Cụ thể là lẽ ra chỉ dừng ở đoạn Cám làm theo, chết, thì nó lại phang tiếp thêm đoạn Tấm làm mắm Cám. Từ cái ending “ bắt chước thất bại” phổ thông của motip “ chị em sinh đôi”, Ko biết vô tình hay cố ý, G. Jeanneau đã thêm vào đoạn “ Tấm mắm cám gửi dì ghẻ”, trong khi đáng ra có chi tiết này thì ko thể có chi tiết kia và ngược lại ( và người làm mắm cám theo đúng logic phải là 1 ai đó ngoài Tấm). Đó là theo tư duy logic cổ truyền cổ motip Tấm Cám. Cụ Vũ Ngọc Phan có lẽ cũng đã nhìn thấy điều kỳ cục này nên đã cố sức sửa, mà càng sửa càng… bậy. Cụ thể cụ đổi Tấm Cám từ chị em sinh đôi sang dì ghẻ con chồng. Đã thế, cụ sửa luộn vụi bắt cá phân định chị em thành “giành yếm”, biến chi tiết đó thành thừa thãi. Vụ chặt cau thì cụ bỏ luôn nước sôi. Dẫn đến hệ quả tất yếu là khi Cám hỏi “ sao giờ chị trắng” thì Tấm làm sao nói “ tại hồi đó em giội nước sôi chị” cho được ( vì có bị giội đâu mà nói)? Thế là cụ “ đâm lao thì phóng theo lao”, sửa luôn lời nói của Tấm thành 1 câu lừa gạt “ muốn trắng thì để chị giúp cho” và thế là cụ đã đạt tới mục đích hàn gắn những chi tiết có vấn đề ở ending thành ending trả thù độc nhất vô nhị ( chưa tính ba cái câu mắm muối của cụ: “ lấy tranh chồng chị”, “ lấy chồng tao “ … gì gì ấy nhé). Và con cháu cụ cho nến nay được thỏa thuê mà bình luận cái sự ác độc của Tấm 1 cách phí thời gian mà chẳng hiểu gì. 3.3. Những trục trặc của bản Tấm Cám hiện đại của Vũ Ngọc Phan: Chúng ta lưu ý 1 điều thuộc về căn bản của truyện cổ tích: đó là nhân vật không bao giờ có sự phát triển tính cách. Như Thạch Sanh, dù bị đúng 1 kẻ lừa nhiều lần vẫn tin sái cổ kẻ đó. Những truyện “ Ăn Khế trả vàng” cũng thể hiện người em như 1 kẻ ngốc, thật thà kể cho anh chuyện con quạ, thật thà đổi nhà, trong khi tên baka nhất cũng sẽ tự hiểu tên anh tự dưng ôm cả nhà cửa ra đổi là vì lý do gì. Đây là cái đặc trưng cơ bản trong tính cách nhân vật, mà nhiều người thời nay đọc thường gọi là “nhân vật hiền lành, thụ động, thật thà,…ngu ngu.”. Kỳ thực, nói các nhân vật “ngu ngu” thôi thì chưa đúng, ta phải bảo rằng họ chỉ là cái máy không hề có suy nghĩ thì đúng hơn. Cũng bởi chỉ là cái máy phát thanh gượng ép của tác giả dân gian cách đây 1000 năm nên mỗi nhân vật chỉ luôn đóng chết 1 nhân cách. Thạch Sanh thật thà, nghe lời thì sẽ luôn nghe lời, dù là 2 lần bị dụ đi gặp chằn và đại bàng. Cũng tương tự, Tấm dẫu bị bạc đãi thế nào thì vẫn tin sái cổ khi nghe em/ mẹ chặt cây câu mà lại nói mình đuổi …kiến. Nếu kể ra thì ko biết bao giờ mới xong. Một điều nữa là tính cách nhân vật luôn được trình bày ngay ở đầu câu chuyện. VD như trong “ ăn khế trả vàng” nói thẳng ngay: Người anh tham lam, người em thật thà. Và tính cách nhân vật cứ đóng chết như thế cho đến khi kết thúc. --- > vậy, nếu nhân vật cổ tích mang cái đặc trưng cơ bản là “ tính cách mỗi người đóng chết theo lời giới thiệu ban đầu” thì sao cái gọi là “ Truyện cổ tích Tấm Cám” ( thực tế là truyện … hiện đại Tấm Cám. Tác giả: Vũ Ngọc Phan.) mà ta biết lại xuất hiện chi tiết mô tả Tấm gian hùng, Tào Tháo ở đoạn cuối, khi mà ngay từ đầu truyện đã quy ước đóng chết rằng “ Cám lười biếng, tham lam, độc ác, Tấm hiền hậu, thật thà, đảm đang.”??? 1 nhân vật bị đóng chết nhân cách là “hiền” thì tuyệt đối chỉ có thể cam chịu, cố sống rồi chờ ai đó giúp đỡ, hơi hơi chủ động hơn là mong đối thủ chết 1 cách vô tình. Chúng ta ngày nay đọc vào có thể bảo Tấm – Cám của Thái ( 2 người rủ nhau đi tắm trắng, Tấm thật lòng kể nguyên nhân mình trắng, thực lòng giúp Cám trắng đẹp, ai ngờ Cám chết ấy.) hay Thạch sanh của ta là đạo đức giả lộ liễu. Ờ, há 1 người bị người kia giết nhiều lần vậy mà có thể thật thà giúp đỡ người đó? Ờ, há Thạch Sanh ko cách gì mà ko biết Lý Thông là kẻ hại mình? Há ảnh ko hề biết chuyện ông trời – cha ảnh, sẽ sét đánh mẹ con anh Lý khi họ về? … Nếu xét theo 1 tác phẩm hiện đại, cái điều nghi vấn đó là chính xác. Nhưng xét theo tư duy logic của truyện cổ 1000 năm trước, điều các vị đang suy nghĩ đây mới là … phi logic. Thạch Sanh hiền, người em hiền, Tấm hiền, … thì cứ đóng chết như thế, sao sao thây kệ, có hợp logic thực tế không cũng mặc. Đơn giản đến cực kỳ. Nhưng đáng tiếc, khi chế biến Tấm Cám, cụ Vũ Ngọc Phan ko hề để ý chi tiết “luật tâm lý” tối quan trọng này của cổ tích. Thế nên cụ đã nhìn cái bản bị chắp ghép ending 1 cách vô tình hay cố ý của G.Jeanneau thành 1 bản bị lỗi, nhưng là bị lỗi do “ chưa thể hiện rõ cái kết trả thù” chứ ko phải là cái mâu thuẫn tâm lý ko thể xảy ra của Tấm trong đoạn kết, TỨC LÀ NHÌN THEO CÁI NHÌN HIỆN ĐẠI, CHO RẰNG TRUYỆN MIÊU TẢ CHƯA SÁT SỰ TRẢ THÙ. Thế nên cụ mới thêm mắm bớt muối, biến cả chị em sinh đôi thành cùng mẹ khác cha, tạo ra cái bản mà ta biết. Và chỉ ở 1 bản Tấm Cám duy nhất của Vũ Ngọc Phan này, người ta mới có thể phăng ra cái gọi là “ logic phát triển tính cách nhân vật Tấm” ( Hoàng Tiến Tựu), thậm chí… thơ văn hơn là “ từ 1 cô gái hiền lành nhân hậu trở thành 1 cô gái có tinh thần…đấu tranh” ( Phạm Xuân Nguyên”, hoặc là giàu tính triết học như trong bài viết “ Bàn về cách ứng xử của truyện cổ tích Tấm Cám “ đăng trên tạp chí văn hóa dân gian số 4 năm 1996, tác giả Bùi Văn Tiếng dựa vào: “ tôi cứ bị ám ảnh bởi ý kiến của L.Tonstoi: 1 trong những lầm lẫn vĩ đại nhất khi xét đoán con người là chúng ta hay gọi và xác định… người này tốt, người kia ác,… trong khi con người là tất cả…” rồi cứ thế phăng tá lả thành: “ đây là chỗ thiếu nhân văn nhất nhưng lại là chỗ nhân văn hơn cả trong cách ứng xử nghệ thuật của tác giả Tấm Cám. Thì ra 1 người dịu dàng như Tấm cũng có thể trở thành độc ác, vì thế, muốn tự hoàn thiện mình, con người phải hết sức cảnh giác trước nguy cơ tha hóa…. Phải chăng đó là bức thông điệp mà người nghệ sĩ dân gian xưa, thông qua cách ứng xử nghệ thuật độc đáo của Tấm Cám, muốn gửi đến thế hệ mai sau?” ( ặc, trí tưởng tượng bay xa ko cần cả sữa Fristi) 3.4. Trục trặc trong bản Tấm Cám 1886 của G.Jeanneau: Như trên vừa trình bày, Tấm cám mà ta biết thực ra là bản viết của tác giả “độc đáo, nhân văn hơn cả” Vũ Ngọc Phan đã chỉnh sửa ( và vô tình làm nó tệ thêm) dựa trên phiên bản Tấm Cám cuối thế kỷ 19 do G.Jeanneau thu thập. Tất cả căn nguyên đến chỉ từ cái đoạn “ Tấm thật thà hướng dẫn, Cám tự làm” rồi bị thêm vào khúc sau “ Tấm làm mắm Cám” với 2 tính cách Tấm trái ngược hoàn toàn mà chỉ cách nhau có vài câu. Vì sao bản 1886 lại có sự chắp ghép 2 ending thế này? - trong quá trình nghiên cứu, đối chiếu 2 bản của người Choang ở Quảng Tây và bản người Tày ở VN, người ta xác định rằng:“ 2 bản này vốn cùng 1 gốc.”. Lam Hồng Ân nhận xét: “ Bản Ta Gia – Ta Luân của người Choang rất có thể là bản biến dị của truyện nàng Diệp Hạn của TQ.”. Qua sự công bố này, ta có thể khẳng định 1 sự giao thoa tình tiết truyện lẫn nhau 1 cách vô tình trong các dân tộc sống gần nhau. Bản 1886 tìm thấy ở Mỹ Tho, 1 vùng đất Nam Bộ với đầy dân di cư từ các tộc khác nhau như Chăm, Việt, Cam,… mà mỗi dân tộc lại mang theo mình dăm bảy truyện Tấm Cám. Đặt những thứ na ná ấy ở gần nhau thì thế tất yếu là rồi những chi tiết của chúng sẽ bị trộn lẫn vào nhau lúc nào ko biết, tạo ra hiện tượng 1 câu chuyện với “ râu ông nọ cắm cằm bà kia” mà ta thấy. Xét ra, Tấm cám của Cam – Việt – Chăm giống nhau 1 cách kỳ lạ chi tiết “ chị em sinh đôi”, “ Tấm bị giội nước”,… điều này càng củng cố suy luận trên, chỉ khác Ending 1 chút là bị 1 thế lực ko phải Tấm giết hại, hay là đi tắm trắng với nhau vô tình chết mà thôi . Và ta nên nhớ, cho đến bản 1886, sự “ trộn lẫn” này ở bản VN chỉ mới là thêm cái câu “ Tấm lấy xác cám làm mắm gửi dì ghẻ” ráp thêm vào đoạn trước “ Tấm và Cám cùng nhau đi tắm trắng, Cám nhờ Tấm giội hộ, Tấm thật thà giúp,…”, chứ chưa bị trộn lẫn lộn xộn đến mức ráp cả 2 motip “ dì ghẻ” và “ chị em sinh đôi” vào 1 như Vũ Ngọc Phan đã làm. - Tại sao lại là nước sôi? Kha khá số bản Tấm Cám đi theo hướng Cám bắt chước giội nước sôi rồi chết này, thậm chí có bản như Myanma, Cám chẳng hề nghe Tấm nói mà chỉ là nghe theo 1 bà hàng nước bá vơ nào đó rồi làm theo và chết. Những bản khác thì Cám và Tấm rủ nhau đi tắm trắng, hoặc Cám nghe Tấm kể rồi tự tắm 1 mình. Câu hỏi đặt ra là “ ai lại có thể nghĩ ra chuyện 1 người hý hửng tin vào chiêu tắm trắng bằng nước sôi?”. Câu hỏi này tưởng khó trả lời, ai ngờ thật dễ: Đơn giản vì đã có 1 thời nhân loại chứ chẳng chỉ Đông Nam Á có 1 niềm tin thần bí vào chiêu hồi sinh nhờ than và nước nóng. Ở New Ghine, Victoria, Melanedi,… vẫn còn lưu lại tàn tích niềm tin “ chết vì nước sôi rồi tái sinh” này. Ở 1 số vùng, người tham dự lễ phải nằm xuống để người ta rắc than hồng nóng lên, hoặc bò qua 1 ngôi nhà dài hẹp đang có người tưới nước sôi từ trên xuống. Medea lừng danh Fate/Stay night, trong truyền thuyết cũng từng hồi sinh 1 con dê bằng cách băm vằm nó rồi ném vào nồi nước sôi. Như vậy, chi tiết Cám tin tưởng rồi bắt chước đi tắm trắng bằng nước sôi, hay chuyện Tấm may mắn ngã vào hố nước sôi hay bị giết bằng nước sôi mà hồi sinh là 1 niềm tin cổ đại, vô cùng logic đối với người xưa. ( Còn ai ngày nay muốn thử xem có hồi sinh thật không thì… mời.) - Tại sao lại là làm mắm và mẹ ăn con? Nếu vừa trên tôi đã giải thích nền tảng cảm hứng của cái ending “ chị em sinh đôi, Cám bắt chước tắm nước sôi và chết” thì chi tiết “ Cám bị vua/thần/ kiếm làm mắm và mẹ Cám ăn nhầm” bên mô tip dì ghẻ con chồng lại chịu ảnh hưởng từ 1 motip truyện cổ tích khác cực kỳ na ná. Đó là motip phù thủy ăn nhầm thịt con cũng nổi tiếng ko kém mà ta hay nghe nhất là “ Căn nhà bánh ngọt”, “ Chú Bé Tí Hon”. Hãy để ý kỹ, trong những truyện kiểu “ nhà bánh ngọt” cũng có đề cập tới vấn đề cha mẹ trong gia đình. “ Dù ghẻ ôm đứa con riêng của chồng vào bỏ trong rừng.”, đó là cái mở đầu của những truyện kiểu này. Vô tình, nó hao hao cái OP “dì ghẻ” của motip Tro Bếp. Như trên đã nói, trong thế giới cổ tích, những thứ hao hao nhau thì rất dễ bị trộn vào nhau. Còn ở đây, loại motip câu chuyện “ mụ phù thủy ăn nhầm thịt con” và motip Tấm Cám “ dì ghẻ con chồng với cái ending mẹ ăn nhầm con” lại giống nhau đến kỳ lạ. Ta điểm sơ: Tấm Cám “ dì ghẻ”: - Ý( đảo Sicile): Cenerentola ( vua giết và làm mắm cô con gái, gửi mụ dì ghẻ. Khi mụ ăn, con mèo nói: “ cho tôi chút gì tôi khóc giúp cho”. Mụ đuổi mèo đi. Sau khi ăn gần hết mắm, mụ phát hiện ra sự thật, chết. Mèo lại kêu “ mụ không cho tôi gì cả, tôi chẳng khóc giúp đâu.”) - VN ( Vũ Ngọc Phan): “ Tấm ( đáng lẽ là ai đó ngoài Tấm) làm mắm gửi mụ dì ghẻ. Khi mụ ăn, con quạ đậu gần đó kêu “ ngon ngỏn ngòn ngon, mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng”. Mụ nổi giận đuổi quạ đi. Sau khi ăn gần hết mắm, mụ phát hiện sự thật, chết. Mụ phù thủy ăn thịt nhầm con: - Chú bé tí hon ( Pháp): vợ chồng nghèo bỏ rơi 7 đứa con trong rừng. Chúng lạc vào nhà mụ yêu tinh có 7 đứa con gái đều ăn thịt người. Tí hon là em út trong 7 đứa con bị bỏ rơi, thông minh nhất, đã lừa tráo 7 cái mũ của 7 anh em lên đầu 7 đứa con gái đang ngủ rồi cùng nhau bỏ trốn. Trong đêm tối, mụ dì ghẻ giết nhầm những đứa con mình mà không biết. - truyện của người Berberes ( Châu Phi): 1 đứa trẻ bị mụ chằn bắt ăn thịt, bị đứa trẻ lừa giết con gái mụ thay thế. Mụ ăn thịt con mà ko biết. Khi ăn, một con mèo bảo “ Thịt ấy có mùi sữa bà đấy!”. Mụ nổi giận đánh đuổi con mèo. -truyện cổ Bắc Âu ghi 1 câu chuyện tương tự: 1 đứa trẻ bị mụ phù thủy bắt được, đã giết tráo đứa con gái mụ để thay thế. Mụ phù thủy không biết, cứ đinh ninh múc súp bày cho cả nhà ăn, cho con mèo một phần. Mèo nói: “ Nhổ đị, mẹ chồng ăn thịt nàng dâu.” …. Như trên, ta đã thấy sự tương đồng giữa motip truyện “ mụ phù thủy ăn nhầm con” và những bản Tấm Cám thuộc motip “ dì ghẻ con chồng”. Sự khác nhau giữa cái OP và Ending hầu như ko lớn. Chỉ là ở Tấm Cám “ dì ghẻ con chồng”, thường là 1 ai đó trừ nhân vật chính đứng ra làm việc đó, trong khi trong “ mụ phù thủy ăn nhầm con” thường đó là chính nhân vật chính. Sự khác biệt ko lớn này đã bắt đầu gây ra hệ quả hòa trộn vào nhau. Bằng chứng qua không ít phiên bản đã thể hiện sự giao thoa vô tình giữa 2 motip vốn dễ bị xem là na ná nhau này khi mẹ con Cám được mô tả là “ mụ yêu tinh mê hoặc cha Tấm, chuyên ăn thịt người”/ “mụ vợ kế là phù thủy ăn thịt người” ( VD như truyện Ú Thêm của Thái) hay tương tự với truyện của người Iceland. Rõ ràng nhất của chi tiết giao thoa này là câu chuyện nổi tiếng Bạch Tuyết với motip giống như nằm giữa “ Tấm Cám: dì ghẻ con chồng” và “ mụ phù thủy ăn nhầm con”. Chính sự na ná này cuối cùng đã khiến Vũ Ngọc Phan vô tình mắm muối thêm cho bản Tấm Cám 1886 của G.Jeanneau theo hướng motip truyện “ mụ phù thủy ăn nhầm con”, khi ông chuyển luôn nhiệm vụ làm mắm biếu dì ghẻ thẳng cho nhân vật chính. Thậm chí vụ con quạ kêu rồi bị đuổi đánh cũng na ná đến trùng khớp những cái ending “ phù thủy ăn con”. - Mâu thuẫn chủ đạo của Tấm Cám, chị em hay dì ghẻ con chồng ? Thật thảm hại là 90% người được hỏi sẽ trả lời là “dì ghẻ” nhưng thực tế là ko phải vậy. Trừ đi số lượng những bản khá lớn theo motip “ chị em sinh đôi” thì những bản theo motip “dì ghẻ” cũng đều nên lên sự chủ động rất nhiều của Cám. Cám bảo mẹ ngăn Tấm đi hội, Cám bảo mẹ cấm Tấm thử giày, Cám bảo mẹ chặt cau giết Tấm, Cám làm thịt chim, chặt xoan, đốt khung cửi. Thậm chí nhiều ending theo motip dì ghẻ ghi sự ngoan cố đến mức liều chết của Cám lên đến cực điểm. VD bản của Myanma, Hoàng hậu giả vẫn ngoan cố phủ nhận tội ác, đòi mang cả kiếm thần ra xử và chỉ bị giết khi kiếm thần tự phóng tới băm Cám ra như bùn. Như vậy, Đặc điểm cơ bản của Tấm Cám là mâu thuẫn chị em, trong khi đặc điểm của “ Mụ phù thủy ăn nhầm con” thường mâu thuẫn phải là “ mụ dì ghẻ/ phù thủy – đứa con sắp bị ăn thịt.”. Những sự na ná quá nhiều thế này đã tạo ra thảm cảnh truyện Tấm Cám với cái ending bị ghép ( chỉ 1 cái ending thôi) năm 1886, qua tay các nhà phục chế như Vũ Ngọc Phan, nó được thêm đủ thứ mắm tôm từ bao nhiêu motip na ná Tấm Cám, tạo ra cái phiên bản Tấm Cám bị error độc nhất vô nhị, nơi nhân vật chính có hành động giống như đang phát triển tính cách. Và đó là tất cả căn nguyên của bao nhiêu buổi hội thảo chửi nhau um sùm từ gần 50 năm nay. Có một số người như Phan Hải Triều đã nêu luận cứ nghi vấn “ có 1 sự chắp nối khiên cưỡng, pha trộn yếu tố ngoại lai” trong truyện Tấm Cám mà ta biết hiện nay ( bản Vũ Ngọc Phan). Ông ta đã nói đúng 1 phần dù thực tế không có bằng chứng gì, chỉ thuần đổ cho nước ngoài trong khi khẳng định “ người VN hiền thế sao mà thế được”. Sự thật, truyện Tấm Cám của Vũ Ngọc Phan trở thành như thế là kế quả do pha trộn nhiều chi tiết từ các motip không phải Tấm Cám, lại thêm sự cắt bỏ những chi tiết quan trọng trong bản 1886 mà người thu thập cứ tưởng là motip thừa ( VD như chẳng hiểu gì về tín ngưỡng hồi sinh nhờ nước nóng hay sự nhấn mạnh mâu thuẫn chị em ruột, cứ sợ “ bạo lực”, “ đoạn này 2 đứa rủ nhau đi tắm sao mà giả giả quá” rồi thêm mắm bỏ muối khiến cho nó vốn chẳng bạo mấy, giờ chính thức trở thành “horror”.). Đó là lỗi của người thu thập và biên tập vậy. Tổng hợp từ: - bài viết của nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh. - Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám ( Phó giáo sư Chu Xuân Diên. Tạp chi Văn Hóa Dân Gian số 2/ 1999) -Truyện Tấm Cám và sự đánh tráo số phận con người ( Nguyễn Tấn Đắc). ------- Sau khi trình bày xong toàn bộ origin và nguyên nhân xuất hiện từng chi tiết từ nước sôi đến mắm cá lóc và “dì ghẻ” hay “chị em ruột”. Có lẽ nhiều người đọc vẫn thấy rối. Vấn đề thực ra rất dễ hiểu nhưng giải thích thì nó rất lòng vòng. Điều đó là đương nhiên, bởi Tấm Cám của Vũ Ngọc Phan ra như thế vì ông đã vô tình trộn nó vào 1 đống rối bùi nhùi. Ngay cả khi tôi cố tổng hợp phân tích ra nguyên nhân vì sao chỉ có 1 bản của Vũ Ngọc Phan có chi tiết trả thù bởi nhân vật chính vốn ko thể nào xuất hiện trong truyện cổ, hay vì sao cái end lại dần dần bị biến tấu, lai ghép như thế, chắc chắn có nhiều người vẫn còn ráng lý sự. “ Biết đâu truyện Tấm Cám của VN là cá biệt nằm ngoài những suy luận đó?”. Ờ, vậy giải thích thế nào về những bản gốc 1886 mang toàn mấy nét nằm trong vòng suy luận ấy? “ Đó là ý của cậu, còn độc giả có quyền cảm nghĩ theo những cách riêng.”. Ờ, đó là quyền tự do thôi. Nhưng cảm nghĩ luôn phải dựa trên 1 cái nền gì đó có ý nghĩa nhất định. Tôi vừa chứng minh cái truyện Tấm Cám này là 1 bản bị “trộn” error hoàn toàn chỉ do vô tình bị ảnh hưởng từ các motip khác và ko hiểu ý nghĩa motip truyện Tấm Cám căn bản. Nếu có ai vẫn cố dựa trên cái ko ý nghĩa để suy ra “ ý truyện TC nói rằng con người ai cũng có 2 mặt” thì tôi cũng chẳng biết nói gì. Như Picasso đã nói cái đó là đồ tô màu nhưng những người ko biết mà ko cần biết vẫn tuyên bố đó là 1 “bức tranh tuyệt tác giàu ý nghĩa” thì đó là quyền của họ. Nói cho cùng, suy diễn lung tung là quyền của thiên hạ mà. Ko có nó mấy cái Topic " Tấm Cám" biết lấy gì mà nói ngoại trừ " I am the Troll."? Nếu ai bảo tôi giờ phải làm sao với cái bản error, tôi nghĩ chỉ có 1 phương pháp là viết lại nó theo đúng motip cơ bản: - Nếu theo motip "dì ghẻ con chồng" thì ending là Cám bị cái gì đó ngoài Tấm giết, làm mắm gửi mẹ. Đơn giản hơn thì cứ " 2 mẹ con sợ bị trách tội, bỏ chạy vào rừng" làm tráng miệng cho cọp beo như bản Campuchia. - Nếu theo motip "chị em sinh đôi" thì cứ như bản của người Thái. Cám hỏi, Tấm thật thà trả lời, 2 người rủ nhau đi tắm trắng, Cám chết. Không đá động gì bà mẹ. Hết.
    1 like