• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/06/2018 in all areas

  1. Thày Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết bài về Đặc khu Kinh tế dưới góc nhìn Lý học ------------------------------------------------------------------- ĐẶC KHU KINH TẾ NHÌN TỪ LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG. Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trước hết tôi xin cảm ơn các bạn đã quan tâm đến bài viết của tôi về chủ đề này với hơn 700 like chỉ trong không quá 12g. Thực hiện đúng lời hứa, tôi xin trình bày cái nhìn của cá nhân tôi về sự kiện này. Dưới đây là phần mở đầu tôi đã đưa vào bài viết để được sự quan tâm hay không của các bạn. Và bây giờ tôi đưa lại vào đây cho liền mạch một chủ đề. Một lần nữa cảm ơn sự quan tâm của các bạn. Thưa quý vị và các bạn. Sự kiện "Đặc Khu kinh tế" gây sốc trên dự luận xã hội. Không chỉ trên mạng xã hội, mà ngay ở cả quán trà đá vỉa hè, vốn được coi là một hình thức kinh doanh siêu lợi nhuận, chỉ có ở Việt Nam. Quan điểm cá nhân tôi, khi lao vào chứng minh cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử, chính là: "Không dây dưa đến chính trị và nhóm lợi ích". Cả một âm mưu chính trị quốc tế, nhằm xóa sổ cội nguồn văn hóa sử truyền thống Việt với đủ mọi thứ quyền lực và những chân rết của nó, cũng đủ để tôi mệt mỏi trong hơn hai mươi năm qua. Nhân danh khoa học và tính khách quan khoa học, nên ý tưởng nhất quán đó của tôi sẽ không bị chi phối bởi bất cứ nhóm lợi ích và các ý đồ chính trị nào. Và điều này sẽ xác định tính chính danh trong việc tìm về chân lý cội nguồn dân tộc Việt. Mọi bình luận chính trị của tôi đều chỉ liên quan đến ...nước ngoài. Ví dụ như bài viết về "Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề Biển Đông"; "Sự kiện và vấn đề Châu Á Thái Bình Dương", các vấn đề Triều Tiên và Đài Loan...vv... Tôi chẳng bao giờ đụng chạm đến các vấn đề tế nhị và nhậy cảm trong nước cả. Có một lần, bốcđồng, tôi viết về yếu tố cốt lõi của nguyên nhân vấn nạn tham nhũng trong lịch sử văn minh nhân loại nói chung và những cuộc cải cách thất bại trong Việt sử. Và cũng chỉ viết chung chung, theo kiểu: "Nói đúng nhưng không trúng ai". Nhưng chắc do tại số, nên tôi viết nửa chừng rồi bỏ dở trên dd Lý học Đông phương. Nhưng lần này, trước một sự kiện được dư luận rất quan tâm và đặt vấn đề cũng rất vĩ mô trên nhiều phương diện, nên tôi khó đừng ngoài cuộc. Dù chỉ với tư cách "Phó Thường Dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ" thì ít nhất tôi cũng phải có vài câu gọi là "chém gió" ở quán cháo hành làng Vũ Đại. Huống chi, tôi xác định một Lý thuyết thống nhất, nhân danh nền văn hiến Việt. Với Lý thuyết thống nhất thì Thượng Đế cũng nằm trong "phạm trù" của nó. Huống chi là "Đặc khu kinh tế". Đó là lý do tôi không thể phớt lờ. Tuy nhiên, nội dung bài viết chỉ giới hạn từ góc nhìn Lý học, cố gắng mô tả một cách khách quan theo sự hiểu biết của tôi và hoàn toàn tránh tối đa tính chủ quan cá nhân trong bài viết. Tất nhiên, khi đã xuất phát từ Lý học thì nó phải có khả năng tiên tri. Vấn đề đâu tiên tôi đặt ra để quán xét chính là: Nguyên nhân và mục đích của việc thánh lập các đặc khu kinh tế ở Việt Nam. NGUYÊN NHÂN VÀ MỤC ĐÍCH THÀNH LẬP ĐẶC KHU KINH TẾ Ở VIỆT NAM. I. Mối liên hệ giữa các mô hình kinh tế và thị trường. Hình thức đặc khu kinh tế đã xuất hiện cách đây 60 năm. Nó xuất phát từ một sáng kiến cứu vãn một sân bay trong thời suy thoái và đã thành công. Mô hình này được phát triển và xuất hiện ở những nước bắt đầu phát triển. Trung Quốc, sau đêm dài suy thoái, bắt đầu vươn lên với sự cái cách kinh tế của ngài Đặng Tiểu Bình. Và ông ta đã thành lập đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc - là Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến - vào năm 1979. Theo thống kê của những tư liệu trên mạng, , thì có hơn 30 đặc khu kinh tế trên thế giới, và không phải mô hình này bao giờ cũng thành công. Vấn đề tiếp tục đặt ra: Vì sao có thất bại và thành công ở những mô hình kinh tế này? Lý học Đông phương - được phục hồi nhân danh nến văn hiến Việt - xác định khi phân tích, tổng hợp dù chỉ một sự kiện rất nhỏ, cũng cần một cái nhìn tổng quát, bao trùm lên tất cả mọi yếu tố tương tác, nhỏ nhất có thể. Nếu không, ít nhất cũng phải tập hợp được những yếu tố tương tác chính yếu. Bây giờ chúng ta xét bối cảnh của Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến. Trước hết, về thời gian - ngài Đặng Tiểu Bình đã thành lập đặc khu này vào năm 1979. Đây chính là thời gian chiến tranh Lạnh đang tiếp tục phát triển và Trung Quốc đã liên minh với Hoa Kỳ và Đồng Minh. Cho nên, nó lập tức được các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ chi mạnh vào đặc khu này. Nó như một bàn đạp đầu tiên để đầu tư ồ ạt vào một mảnh đất mầu mỡ là thị trường Tàu, vốn khép kín và chưa có người khai phá. Bởi vậy, người ta có cảm tưởng về sự thành công của một mô hình kinh tế vượt trội, với thiên tài của ngài Đặng. Nhưng bản chất của vấn đề không phải ở mô hình Đặc Khu. Mà nó ở sự đầu tư có hiệu quả của các tư bản quốc tế do Hoa Kỳ đứng đầu. Hay nói cách khác: nó là kết quả của sự đầu tư từ bên ngoài vào nước Tàu, sau khi có sự liên kết chính trị của Tàu với Hoa Kỳ và Đồng Minh. Người Tàu không thể tự đầu tư và phát triển vào thời điểm 40 năm trước. Hơn thế nữa, hàng Tàu nhập khẩu ào ạt vào Hoa Kỳ với những ưu đãi - trong đó có cả hàng giả mà Thiên Sứ đang sở hữu là cái đồng hồ hàng hiệu nổi tiếng. Hi.. Khiến cho đến bây giờ, nước Mỹ phải la làng vì thâm hụt thương mại. Cho nên, chẳng phải ngẫu nhiên, ngài Obama phát biểu: "Bắc Kinh đã ngồi chung xe với chúng ta quá lâu rồi!". Tương tự như vậy, chúng ta xét đến các tập đoàn kinh tế đã làm nên sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản và Hàn Quốc, cái mà họ gọi là Chaebols. Người ta ca ngợi thiên tài của những nhà lãnh đạo các tập đoàn kinh tế và sự sáng suốt của ngài Pac Chung Hy. Nhưng bản chất của sự thành công này là gì? Trước hết, bối cảnh thế giới cách đây 60 năm và trở về trước, là sự hội nhập toàn cầu, có thể nói gần như mới bắt đầu. Ngay cả những tư duy bá chủ thế giới cũng chưa xuất hiện sau Thế Chiến thứ II và còn ảnh hưởng đến bây giờ với khái niệm "Thế giới đa cực". Bởi vậy, việc tập trung nguồn vốn tạo một sức mạnh kinh tế để phát triển là hoàn toàn phù hợp - nói chung. Và điều này cũng xảy ra ở các nước Xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế tập trung. Cũng chính vì tính tập trung kinh tế này - dù ở những chế độ xã hội khác nhau - thích ứng với giai đoạn phát triển tiền hội nhập - đã tạo ra những sức mạnh đầu tư để phát triển và điều đó cũng làm ra sự hùng mạnh của các nước Xã hội chủ nghĩa vào thời bấy giờ, cho dù cấu trúc quản lý và tổ chức xã hội khác nhau. Nhưng sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân - ở các nước phi XHCN, hoặc nhà nước - ở các nước XHCN, vẫn phải cần đến một sự giao lưu trong các mối quan hệ kinh tế với các nước liên quan. Nếu không có sự giao lưu kinh tế này, thì các tập đoán kinh tế sẽ chỉ là một mô hình kinh tế được giới thiệu để trưng bày ý tưởng và không có tác dụng thực tế. Không có đầu tư và giao lưu phát triển thị trường thì sẽ thất bại. Do đó, khi thế giới ngày càng hội nhập sâu hơn, cấu trúc của các tập đoàn kinh tế - kể cả cấu trúc tập trung kinh tế của các nước XHCN, không còn phù hợp. Vì lúc này, nỏ trở nên quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của thế giới. Và nó đã sụp đổ tan rã hàng loạt, ngay tại các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Ngay trên nước Mỹ, cũng chứng kiến nhiều tập đoàn kinh tế hùng mạnh ra đi, trong cuộc khủng khoảng toàn cầu, bắt đầu từ 2008. Và điều này đã được Thiên Sứ tôi tiên tri trước đó. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu để các tập đoàn kinh tế Việt Nam không thể phát triển được và thất bại, như các loại Vina...Tất nhiên - nói thêm cho nó đủ ý - ngoài vấn đề cốt lõi là không có sự giao lưu kinh tế phát triển thị trường, thì sự thất bại của các tập đoàn kinh tế VN trong thời gian qua, còn có nhiều yếu tố bổ sung khác, như: Tham nhũng, quản lý yếu kém, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng...vv.... Trong nền tảng tri thức kinh tế của nền văn minh hiện nay, có một khái niệm rất chuẩn. Đó là khai niệm "Chính trị - kinh tế học". Nhưng Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - mô tả phạm trù này ngắn gọn và súc tích hơn nhiều. Đó là "Kinh bang tế thế", gọi tắt chính là "Kinh tế". Do đó, tôi cấn xác định một cái nhìn, cho rằng: Tất cả các mô hình kinh tế, chỉ có thể phát triển, nếu nó có được sự liên kết kinh tế thị trường gắn liền với các liên kết chính trị với các nước đồng minh và khu vực. Sự thành công của nước Tàu, Nhật Bản và Hàn Quốc...chính vì họ có được mối liên kết chính trị với các nước có thị trường và đầu tư rộng lớn. Chẳng phải ngẫu nhiên, các nước rất buồn khi Hoa Kỳ - một thị trường béo bở nhất thế giới - rút khỏi TTP. Còn với tôi thì Việt Nam chưa cần TTP ngay bây giờ. Và tôi đã phát biểu điều này trện dd lyhocdongphuong. Con thuyền của chúng ta quá bé, chưa thể cùng các tàu vượt biển của các siêu cường cùng ra khơi được. Do đó, trên cơ sở những phân tích này, khi đặt vấn đề về Đặc khu kinh tế - thì yếu tố tiếp theo phải là: Ai sẽ đầu tư để phát triển và đầu tư cái gì? II. Ai sẽ đầu tư để phát triển và đầu tư cái gì? Hiệu quả đầu tư?! Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Trong bài trước, tôi đã trình bày yếu tố: Nếu không có thị trường liên kết và phát triển gắn liền với liên kết chính trị thì tất cả các mô hình kinh tế sẽ thất bại. Một thí dụ điển hình nữa, như Venezuela. Những nhà lãnh đạo nước này có lòng tốt, đem chia lợi nhuận khổng lồ của dầu mỏ cho toàn dân tiêu sài. Nhưng vấn đề là lợi nhuận dầu lửa đó lại chính từ sự liên kết thị trường - trực tiếp, hoặc gián tiếp - với các siêu cường tiêu thụ dầu mỏ như quỷ hút dầu. Thị trường bão hòa - về nhận thức trực quan nó như vậy. Tôi không phải là tín đồ của thuyết Âm mưu - giá dầu xuống y như có "ma". Đất nước Venezuela loạn cào cào vì suy thoái kinh tế. Cả nước Nga hùng mạnh cũng phải chật vật để cân bằng và ổn định cuộc sống. Một đất nước giàu có tài nguyên như Venezuela, khi thiếu một thị trường ổn định về chính trị, còn như vậy. Đất nước của chúng ta, chưa có một nguồn tài nguyên phong phú như họ. Nên về kinh tế sẽ nhậy cảm hơn nhiều, nếu bị rơi vào khủng khoảng. Bởi thiếu một thị trường ổn định và phát triển với những liên kết chính trị đáng tin cậy. Giả thiết chúng ta giải quyết được vốn đầu tư như bài báo nêu, bằng cách cho thuê đất, Và lấy "mỡ nó rán nó" thì vấn đề là: Đầu tư cái gì và ai đầu tư với hiệu quả đầu tư - Sẽ phải đặt ra. Xem xét tất cả những siêu cường tiềm năng thì ngoài nước Tàu, sẵn sàng chi tiền thuê đất, còn các siêu cương khác chưa thấy dấu hiệu chuẩn bị sẵn sàng cho việc đầu tư vào "Đặc khu kinh tế". Nhưng vấn đề còn là họ sẽ đầu tư cái gì? Một thung lũng Silicon? Nhà máy sản xuất xe hơi? Hay những viện nghiên cứu?..vv ..Và cho dù đó là một khu sòng bạc kiểu Ma Cao...thì với chính sách ưu đãi thuế, nới rộng cơ chế quản lý về cả luật pháp...vv... thì Việt Nam có lợi gì khi lập đặc khu này? Chẳng có lợi gì cả, ngoài việc cho thuê đất. Còn tất cả những khả năng đầu tư giả định ở trên thì không cần đến mô hình đặc khu. Ở đây tôi chưa bàn đến các bất lợi khác, mà dân mạng đồn thổi, chưa có "cơ sở khoa học" và chưa được "khoa học công nhận". Đó là: công dân nước ngoài có vốn đầu tư sẽ được xét xử theo luật pháp của nước đầu tư. Nếu đúng như vậy thì những hệ lụy tiếp theo là: có hay không sự có mặt của các cơ quan hành pháp nước ngoài trên đặc khu? Với sự phân tích này thì việc thành lập đặc khu kinh tế ở Việt Nam hoàn toàn không có hiệu quả, nếu như không có những nhà đầu tư đáng tin cậy với những liên kết chính trị ổn định. Không thể coi Trung Quốc một liên kết chính trị ổn định trong việc đầu tư vào Đặc khu kinh tế, khi sức ép liên tục về biển đảo của nước này gây căng thẳng không chỉ với Việt Nam, mà còn cả phần còn lại của thế giới. Điều này thì không cần phải có tư duy chính trị cao cấp cũng nhận thấy. Và ngay cả khi chúng ta được các nhà đầu tư hùng mạnh với những liên kết chính trị ổn định thì những hạng mục đầu tư đó lại không cần đến mô hình đặc khu. Nói tóm lại, tôi có thể kết luận cho riêng bài viết này, như sau: 1/ Không có một môi trường đầu tư đáng tin cậy với những liên kết chính trị ổn định. Nước Tàu không phải là một liên kết chính trị ổn định trong quan hệ với Việt Nam và cả thế giới hiện nay. 2/ Mô hình đặc khu, thực chất là một cầu nối kinh tế với thế giới bên ngoài. Nó chỉ thích hợp với một đất nước khép kín và chưa có sự chuẩn bị hội nhâp và chỉ thích hợp với giai đoạn tiền hội nhập của thế giới. Nó rất lãng nhách trong giai đoạn mà chính nước ta đang muốn có một nền kinh tế thị trường - tức là đang mở và tự hội nhập với thế giới, không cần cầu nối. Nó hoàn toàn không cần thiết và đã lỗi thời. 3/ Tất cả những hạng mục đầu tư không cần thiết phải có một đặc khu ưu đãi toàn diện như vậy. Vậy thì hoàn toàn không cần thiết phải có mô hình "Đặc khu kinh tế" để phát triển. Vậy vấn đề được đặt ra và cũng là nội dung của loạt bài viết này: III/ "Nguyên nhân và mục đích thành lập đặc khu kinh tế ở Việt Nam" Thưa quý vị và các bạn quan tâm. Tất nhiên về mặt chính danh thì đây là một chính sách để phát triển kinh tế. Nhưng tính cấp bách của việc phải thành lập ngay "Đặc khu kinh tế" khiến cho vấn đề được đặt ra cho nguyên nhân và mục đích của nó. Và như tôi đã phân tích ở các bài trước: Chẳng có "cơ sở khoa học" nào để bảo đảm rằng tương lai các đặc khu sẽ mở đầu cho một nền kinh tế phát triển cả. Thực tế đã cho thấy các tập đoàn kinh thế hùng mạnh của Việt Nam đã viên tịch: Vinashine, VinaLine, rồi cả tập đoàn dầu khí ...cũng đang là những thực thể tồn tại trên hồ sơ. Mặc dù trước đó, Việt Nam rất kỳ vọng vào những sự phát triển lớn lao của những tập đoàn này. Do đó, chưa thể có một kết luận chắc chắn cho việc thành lập Đặc khu kinh tế sẽ là động lực duy nhất đúng để phát triển cả. Vậy tại sao phải lập những "Đặc khu kinh tế" một cách cấp bách như vậy? Phải chăng có một sự tương tác đủ lớn để đòi hỏi sự cấp bách phải thành lập đặc khu kinh tế? Giả thiết rằng: Có một sự tương tác đủ lớn để phải cấp bách thành lập "Đặc khu kinh tế" - thí dụ như sức ép phải trả nợ chẳng hạn. Nhưng ngay cả khi có một sự tương tác đủ lớn thì tôi tin chắc rằng: Nó mang tính giải pháp từ sự tương tác đó, chứ không mang tính bắt buộc. Việt Nam có thể trì hoãn và đi tìm một giải pháp khác. Trên thế gian này có thể có một mục đích duy nhất cho con người, hoặc cả một dân tộc, hay toàn thể loài người. Nhưng không bao giờ chỉ có một giải pháp duy nhất để đạt mục đích. Ở đây, tôi không bàn đến tâm lý chính trị xã hội bức xúc và không đồng tình với giải pháp thành lập đặc khu, đang lan rộng. Nếu giả thuyết về một tương tác đủ lớn để phải thành lập Đặc khu của tôi là đúng. Thì Việt Nam có thể đi tìm một giải pháp khác và cần có biện pháp ứng sử thích hợp trong lúc này để cân bằng mọi trạng thái trong xã hội. IV/ "Giải pháp cho nền kinh tế Việt không có đặc khu kinh tế". Còn tiếp.
    1 like
  2. ĐI TÌM CỘI NGUỒN KINH DỊCH (bài tham luận hội thảo Tìm Về Cội Nguồn Kinh Dịch) tác giả: Mạnh Đại Quân (Hoàng Triệu Hải) Đã có rất nhiều Học giả, các nhà nghiên cứu, Giáo Sư, Tiến sỹ công bố những nghiên cứu rất bài bài và sâu sắc về nguồn gốc của Kinh Dịch cũng như sự liên quan chặt chẽ giữa Kinh Dịch và Lịch sử 5000 năm Văn Hiến của người Việt. Tuy nhiên, sự đóng góp đó dường như chưa đủ để minh chứng cho nguồn gốc của một trong những kì quan thuộc về nền Văn minh Phương Đông mà chủ nhân đích thực chính là nền Văn minh Lạc Việt 5000 năm lịch sử. Sự khó khăn lớn nhất chính là chúng ta không có bất kì một bằng chứng và tài liệu lịch sử nào liên quan tới Kinh Dịch của người Việt, ngoại trừ việc lưu truyền thông qua văn hóa truyền thống, văn hóa tín ngưỡng và huyền sử. Đại đa số những người học và nghiên cứu Kinh Dịch hiện nay đều cho rằng việc đi tìm cội nguồn của Kinh Dịch là việc làm không cần thiết bởi không quan trọng bằng việc hiểu và ứng dụng Dịch. Cho dù có tìm được hay không tìm được nguồn gốc của Kinh Dịch thì cũng chẳng thể đăng ký bản quyền hay thay đổi được tuyên bố nguồn gốc và sở hữu của người Trung Hoa, kể cả khi chính người Trung Hoa cũng không giải thích được nguồn gốc mơ hồ do chính họ tạo ra. Việc đi tìm nguồn gốc Kinh Dịch chính là để giải mã toàn bộ hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành – một lý thuyết khoc học cổ xưa nhất của nền văn minh loài người. Trên cơ sở đó sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn tổng thể về quá trình lịch sử của nền văn minh Lạc Việt huyền vỹ một thời bên bờ Nam sông Dương Tử. 1. Lịch sử hình thành. Trích dẫn từ nguồn Wikipedia: “Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy (伏羲 Fú Xī). Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852-2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra bát quái (八卦 bā gùa) là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ (禹 Yǔ) nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦 lìu shí­ sì gùa), được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn (連山 Lián Shān) còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là "các dãy núi liên tiếp" trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (艮 gèn) (núi), với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái. Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương thay thế, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy Tàng (歸藏 Gūi Cáng; còn gọi là Quy Tàng Dịch), và quẻ Thuần Khôn (坤 kūn) trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy Tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là thoán hay soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn (乾 qián) (trời) biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Thoán Từ (卦辭 guà cí) và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu Thiên Bát Quái ra đời. Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán tạo ra Hào Từ (爻辭 yáo cí), để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN). Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân Thu (khoảng 722-481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực (十翼 shí yì), để chú giải Kinh Dịch. Ông nói "Nếu trời để cho ta sống thêm mươi năm nữa thì ta sẽ đọc thông Kinh Dịch. Năm mươi tuổi mới học Kinh Dịch cũng có thể không mắc phải sai lầm lớn."[1]. Vào thời Hán Vũ Đế (漢武帝 Hàn Wǔ Dì) của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện (易傳 yì zhùan), và cùng với Kinh Dịch nó tạo thành Chu Dịch (周易 zhōu yì)” Hết trích dẫn Theo các nguồn thông tin khác thì Liên Sơn Dịch được cho là có từ thời Thần Nông (2737BC – Liên Sơn Thị hay còn gọi là Thần Nông thị) , Qui Tàng có từ thời Hoàng Đế (2699BC). Cuốn Liên Sơn Dịch được cho là có khoảng 10 tập- 80 ngàn chữ và được làm ra vào thời nhà Hạ dựa trên bát quái của Phục Hi. Trong ba bộ Kinh Dịch thì Liên Sơn Dịch và Qui Tàng Dịch được cho là thất lạc cho dù vẫn có sách về hai bộ Kinh này. Chỉ còn Chu Dịch được coi là đại diện cho dù về mặt lịch sử hình thành thì Chu Dịch được ra đời sau cùng, vào thời nhà Chu . Như vậy, Kinh Dịch hay 64 trùng quái phải có mặt ít nhất là từ thời Thần Nông tức Liên Sơn thị (2737-2699 BC). Kinh dịch bao gồm 64 quẻ được lập nên từ 8 Quái được cho là do Vua Phục Hy (2800-2737 BC) sáng tạo ra. Đây là một vị Vua không có thực và chỉ tồn tại trong truyền thuyết. Tới đây chúng ta bắt đầu thấy sự mơ hồ và mù mờ trong nguồn gốc của Bát quái. Tiếp tục đi ngược dòng lịch sử, phải có Tứ Tượng rồi mới có Bát Quái, nhưng trước khi có Tứ Tượng lại phải có Lưỡng Nghi và Thái Cực. Thái Cực sinh Lưỡng Nghi Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng Tứ Tượng biến hóa vô cùng. Như vậy, Bát quái là một sản phẩm được sinh ra từ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Bát quái thể hiện sự nhận thức của con người với sự vận động của vạn vật xung quanh mình. Bát quái là một siêu công thức được sinh ra từ học thuyết ADNH, và học thuyết ADNH mang tính bao trùm Vũ trụ. Triết lý về Âm Dương được cho là do Phục Hy sáng tạo ra, và cũng có nguồn ghi rằng do Đạo Giáo (400BCE) sáng tạo nên do được tiếp thu từ nhà Chu (1040 BCE). Phục Hy là nhân vật huyền thoại không có thực trong lịch sử và không thể nào một học thuyết lại được tạo ra từ một nhân vật không có thật. Còn nếu Đạo Giáo sáng tạo ra hoặc giả như được tiếp nhận được từ nhà Chu thì đúng là “Sinh Con rồi mới sinh Cha, sinh Cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông” bởi người ta không thể sáng tạo ra bát quái , Kinh Dịch rồi mới sáng tạo ra thuyết Âm Dương ngũ hành. Âm Dương trích từ nguồn wiki “Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, rất nhiều người theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm (nhà Hán) mà cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo và được ghi chép trong kinh dịch (2800 TCN). Một số người khác thì cho rằng đó là công lao của "âm dương gia", một giáo phái của Trung Quốc. Cả hai giả thuyết trên đều không có cơ sở khoa học vì Phục Hy là một nhân vật thần thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có công áp dụng âm dương để giải thích địa lý-lịch sử mà thôi. Phái này hình thành vào thế kỷ thứ 3 nên không thể sáng tạo âm dương được Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng "khái niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam". ("Phương Nam" ở đây bao gồm vùng nam Trung Hoa, từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam. Xem thêm dân tộc Việt Nam để biết thêm khu vực của người Cổ Mã Lai sinh sống.) Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa trải qua hai thời kỳ: 1. "Đông tiến" là thời kỳ Trung Hoa mở rộng từ thượng lưu (phía tây) xuống hạ lưu (phía đông) của sông Hoàng Hà; 2. "Nam tiến" là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía bắc) xuống phía nam sông Dương Tử. Trong quá trình nam tiến, người Hán đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam. Cư dân phương nam sinh sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời - "đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương. Về mặt ngôn ngữ học, "âm dương" là phát âm của yin yang trong tiếng Hán, nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ phương Nam trước đây. Ví dụ, so sánh yang với giàng (trong tiếng Mường), yang sri (thần lúa), yang Dak (thần nước), yang Lon (thần đất) (trong tiếng của nhiều dân tộc Tây Nguyên); so sánh yin với yana (tiếng Chàm cổ, ví dụ Thiên Yana = mẹ trời), ina (tiếng Chàm hiện đại), inang(tiếng Indonesia), nạ (tiếng Việt cổ, ví dụ: nạ ròng = người đàn bà có con, hay tục ngữ Việt Nam: "Con thì na, cá thì nước"),... thì thấy rõ điều đó. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp "mẹ-cha" và "đất-trời" này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, các cặp này lại là cơ sở để suy ra vô số các cặp mới. Nếu so sánh phương Đông với phương Tây thì phương Tây chú trọng đến tư duy phân tích, siêu hình còn phương Đông chú trọng đến tư duy tổng hợp, biện chứng. Nhưng nếu xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc Đông Nam Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau. Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính vì thế mà Lão Tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương Nam) lại cho rằng: "nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều. Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam sao, thất bản"... Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ như sau: "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng" (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ trụ",... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy, quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của người Hán có lẽ là một sai lầm, nhưng theo quan niệm trong phong thủy thì " lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ngũ hành, ngũ hành sinh vạn vật" ngũ hành lại được sinh từ bát quái ứng với Đoài-Càn (kim),Tốn-Chấn(mộc),Khảm(thủy),ly(hỏa),Cấn-Khôn(thổ) tạo thành vòng tuần hoàn luôn bổ trợ lẫn nhau nhưng vì một số bất cập nên không được nhiều người biết đến, vào thời nay phong thủy đa số đều dùng cách này để đọc phong thủy. Hết trích dẫn Tôi chưa thấy thuyết phục từ chứng cứ về cách lập luận số chẵn – lẻ của người viết trên thư viện mở WIKI nhưng đây là một bằng chứng cho thấy ngày càng nhiều người nhận ra rằng Âm Dương Ngũ Hành, Hà Đồ-Lạc Thư-Bát Quái-Kinh Dịch không thể được tạo ra bởi người Trung Hoa. Ngay từ những thời điểm mà người Trung Hoa cố gắng hợp thức hóa nguồn gốc và tác giả của học thuyết Âm Dương nhưng chúng ta vẫn có thể tìm thấy sự lộn xộn và mù mờ trong chính những gì họ công bố. THÁI CỰC ĐỒ (ÂM DƯƠNG ĐỒ HÌNH) 1. Dấu tích lịch sử: Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại thì Thái cực đồ hình (Taijitu 太極圖) được biết tới do Chu Đôn Di Zhou Dunyi (周敦頤 1017–1073) đời Tống (960-1279) sáng tạo ra cùng với cơ sở Học thuyết Thái cực . Đồ hình Thái Cực này được coi là đồ hình đầu tiên mô tả Thái Cực sinh Lưỡng Nghi do được ghi chép và lưu giữ nguồn gốc. Đồ hình H1 là đồ hình được Joseph Adler chụp từ nguyên gốc trong cuốn Thông Thư (通書) của Chu Đôn Di. Trong suốt thời kì nhà Minh (1368–1644), Đạo giáo lúc đó rất phát triển và dựa trên nền tảng Đạo giáo đã có rất nhiều sáng tạo Thái Cực đồ hình mô tả cơ sở học thuyết của họ lúc đó. Trong khi nguyên gốc đồ hình của Chu Đôn Di sử dụng các vòng tròn thì trong thời kì nhà Minh (1368-1644) bắt đầu xuất hiện các đồ hình vòng xoáy.Đồ hình có vòng xoáy sớm nhất được cho là của Triệu Huy Khiên - Zhao Huiqian (趙撝 , 1351–1395) trong cuốn Lục Thư Bản Nghĩa viết năm 1370s thuộc bộ Tứ Khố Toàn Thư. Đồ hình này được ghép thêm với bát quái và được được gọi là Thái Cực Hà Đồ . Tới cuối đời nhà Minh thì mới xuất hiện thêm hai chấm bên trong thay bởi hai hình giọt nước, và được sử dụng rộng rãi trở thành Vũ Trụ Quan của người Trung Hoa. H1: Chu Đôn Di đồ hình H2: Triệu Huy Khiêm Đồ hình LAI TRÍ ĐƯC (來瞿唐 / 来瞿唐, 1525–1604) sau đó lại thiết kế lại Thái Cực Hà Đồ dựa trên khuôn mẫu của biểu tượng Phật giáo Tây tạng Gankyil H4: Lai Zhide vs Gankyil Tiên thiên thái cực đồ và vô cực đồ được phát triển và sử dụng nhiều nhất vào thời kì nhà Thanh (1644–1912) THÁI CỰC ĐỒ HIỆN ĐẠI Vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20, người Trung Hoa công bố rộng rãi Thái Cực đồ hình với hai vòng xoáy của thời Minh và gọi đó là Đồ Hình Âm-Dương. Khoảng từ những năm 1960 thì Âm Dương Đồ Hình được thêm vào hai chấm ở mỗi xoáy cùng kết hợp với Hà Đồ được sử dụng rộng rãi. Đồ hình này được dùng trong thiết kế và nhận diện của môn Thái Cực Quyền từ những năm 1970 để thể hiện tinh thần của bộ môn này. 2. DẤU HIỆU TỪ ROMAN Tại Rome, người ta tìm thấy dấu tích của Âm Dương Đồ Hình trên khiên và phù hiệu của Kỵ Binh của đế chế La Mã (AD 430). Trong bài viết "The Ying-Yan Among The Insignia of The Roman Empire - Âm Dương Đồ Hình bên trong dấu hiệu của Đế Chế La Mã" của Giovanni Monastra, người đã phát hiện ra dấu hiệu của Đồ Hình này từ thư tịch cổ có tên là "Notitia Dignitatum Omnium tam Civilium quam Militarium " được viết từ cuối thế kỷ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 5. Trong cuốn thư tịch cổ này, ngoài việc viết về các đơn vị hành chính và quân sự của Đế chế La Mã người ta tìm thấy rất nhiều ký hiệu và đồ hình cùng 4 màu sắc Đỏ-Xanh-Vàng-Trắng thể hiện thế giới Siêu hình, Tôn giáo và Tri thức. Ở trang tiếp theo, người ta lại tìm thấy Thái Cực Đồ của Chu Đôn Di theo hình ảnh dưới đây (hình thứ ba hàng thứ ba từ dưới lên) Theo tác giả, không có một nhà nghiên cứu La Mã Cổ nào kể cả nhà nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa Á Đông Franz Cumont phát hiện và đặt ra câu hỏi nghi vấn này ? liệu có phải đây là Thái Cực Đồ hay Âm Dương Đồ Hình của Á Đông xuất hiện trong Đế chế La Mã. Ngay cả đối với giới khoa học và nghiên cứu khảo cổ tại Châu Âu, không một ai đề cập tới vấn đề này và chủ yếu họ tìm hiểu sự giao thoa giữa các nền văn hóa cổ đại và tác giả cho rằng đây là một sai lầm. 3. Quốc Kỳ Hàn Quốc Ra đời đầu tiên vào thời kì Joseon 1882, được nói rõ sử dụng "BAT QUAI DO" cho Hoàng Gia. Vậy từ thế kỉ 18, Thái Cực Đồ của người Việt đã được biết tới và sử dụng tại Hàn Quốc 4. Đặt lại vấn đề Trong cuốn " Reconstructing the confucian dao" của Adler Joseph tạm dịch là Tái Thiết Đạo Khổng, chương năm trang 153, tác giả viết :" Mặc dù cho tới nay, sự xuất hiện của học thuyết Âm Dương được coi là nguồn gốc của Thái Cực Đồ vào thời Chu Hi ( 朱熹, October 18, 1130 – April 23, 1200) và Chu Đôn Di (周敦頤; Zhou Dunhyi; 1017–1073) có được học thuyết này từ Đạo Giáo. Chu Đôn Di và những người theo ông ta luôn khẳng định Chu Đôn Di là người sáng tạo ra Thái Cực Đồ. Chu Hi thì không chấp nhận học thuyết của Chu Trấn -hay Chu Hoàng - Hậu Lương Mạt Đế (Zhu Zhen (朱瑱) (October 20, 888–November 18, 923) cũng như đồ hình từ Đạo Giáo bởi theo Chu Hy, nó phá hoại tính đặc thù của Khổng Giáo. Trang 154, tác giả lại viết " Câu hỏi đặt ra là Thái Cực Đồ Hình của Chu Đôn DI lại được đem ra tranh luận kịch liệt suốt từ thế kỷ thứ 12. Theo ghi chép thì học thuyết đáng lưu ý nhất là của Chu Hoàng, và truyền cho Đôn Di thông qua Mục Tu ( Mu Xiu 穆修, 979–1032). Mục Tu là quan Trung phẩm chết khi Chu Đôn Di mới 15 tuổi: Mục Tu nhận được từ Chủng Phóng ( Chong Fang 种放956-1015) là một quan lại triều đình từ quan ẩn dật. Chủng Phóng học được Trần Đoàn Lão Tổ. Trần Đoàn ghi lại rằng, ông thu nhận được rất nhiều đồ hình trong đó bao gồm Quẻ, Quái trong Kinh Dịch được truyền bá rộng rãi bởi Thiệu Ung ( 邵雍 Shao Yung; 1011–1077) và Chu Hy . Một điều khá quan trọng là Tiên Thiên Đồ của Phục Hy được cả Thiệu Ung và Chu Hi. Chu Trấn đã đưa các đồ hình vào lý thuyết này từ trước, tới năm 1134 tức là 61 năm sau khi Chu Đôn Di chết thì những nguồn gốc lý thuyết của ông ta đều không xác định và tính xác thực về những gì ông ta đưa ra đáng để tranh luận. Thêm một sự liên hệ rõ ràng tới Đạo giáo là một khả năng Thái Cực Đồ bị ảnh hưởng từ Phật giáo bởi Chu Đôn Di được biết là Thầy cũng như bạn của Ông ta đều theo đạo Phật. Người được nhắc tới nhiều nhất là Thọ Nhai (Shou Ya) chùa Helin tại Runzhou (tỉnh Jiangsu), nơi Chu Đôn Di sống một thời gian những năm 20 tuổi. Theo Triều Thuyết Chi (Chao Yuezhi 1059-1129), Thọ Nhai dạy Chu Đôn Di nhưng dạy những gì thì không biết và Chu có phải là người KHÔNG theo Đạo Phật cũng đầy hoài nghi . Có một yếu tố đặc trưng của Phật giáo ảnh hưởng tới Thái Cực Đồ, là Guifeng Zongmi (圭峰 宗密 780-841) là nhà người Nhật dạy Phật giáo thời nhà Đường, là ông Tổ của Thiền Tông và Hoa Nghiêm Tông. Một trong những tựa hay sử dụng trong tác phẩm về Thiền Tông chính là Đồ hìnhcủa sự Khai Sáng, yếu tố Siêu Hình đại diện cho tàng Vô Thức. Nó chính là sự nhận diện cho Thái Cực Đồ. Tuy nhiên, Chu Hi bỏ hình tròn nhỏ vào giữa Đồ hình này và nói rằng nó đại diện cho Thái Cực. (Đồ hình của Tsungmi ) Đồ hình này được tìm thấy từ tàng thư tại hang Mogao, Dunhuang xác định là năm 952. Như vậy, đây là bằng chứng cho thấy Đồ hình Chu Đôn Di có nguồn gốc từ Phật giáo. Như vậy, chúng ta có thể thấy đồ hình ÂM DƯƠNG ngày nay chỉ mới xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu TK 20. Nó không thể hiện được tính minh triết của lý thuyết Âm Dương mà là thể hiện qua tư duy và lý thuyết của Đạo giáo. Thế nhưng rất nhiều tác giả vẫn khăng khăng cho là, hai chấm đen trong lưỡng nghi thể hiện Thiếu Âm và Thiếu Dương là từ thời Chu Đôn Di, khi mà ngay cả Chu Đôn Di cũng không được coi là người tạo ra Thái Cực Đồ. Thái Cực Đồ hay ĐỒ HÌNH ÂM DƯƠNG được lưu giữ từ nền văn hóa Việt trải gần 5000 năm Lịch sử , mô tả đầy đủ triết lý của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã cho ta thấy, người Việt mới là người nắm giữ đầy đủ học thuyết này. Những vòng xoáy âm dương được tìm thấy ở rất nhiều các công trình cổ đại, các di vật khảo cổ trên khắp thế giới. Niên đại lâu nhất của cổ vật được tìm thấy tới 12000 năm BCE (trước CN). · Phế tích tại Chichen izta từ nền văn minh Aztecs. Dấu hiệu âm dương Việt lại tiếp tục xuất hiện trên các cong trình kiến trúc tại thánh địa của người Maya ! Cổ vật từ nền văn minh maya cổ đại tìm thấy tại Ecuador Con Cá Vettersfelde hay là witaszkowo ( một thành phố tại Ba lan) nơi con cá được tìm thấy. Đây là con cá được làm khoảng 500 năm trước công nguyên do người Scythians (gốc iran) chế tạo từ vàng nguyen chất. Một loại vũ khí của người Maori , thổ dân new Zealand Đây là viên đá cổ thuộc kỳ đồ đá mới Neolithic 10200 năm Bc và kết thúc khoảng 4500Bc được tìm thấy ở Knowth- Ireland, được gọi là viên đá mặt trăng Dấu tích đồ hình âm dương Việt trên họa tiết trang phục trong nền văn minh Trylolye 5400-2750 TCN. (nay thuộc nước cộng hòa Moldova, Romania và Ukraina) ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG ĐẠO HINDU “Thái cực sinh lưỡng nghi Lưỡng nghi sinh tứ tượng Tứ tượng biến hoá vô cùng” Âm Dương Ngũ Hành vỗn vẫn được biết tới là một nền tảng lý thuyết của nền văn minh Đông phương. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của tôi thì ADNH là một lý thuyết thuộc về một nền văn minh cổ của nhân loại đã bị huỷ diệt, và mỗi một nền văn minh sau này nắm giữ một mảnh của lý thuyết vĩ đại đó. Qua các nghiên cứu cá nhân, tôi vô tình phát hiện ra sự mô tả lý thuyết ADNH trong đạo HINDU, một trong những Đạo lâu đời nhất và cũng là Đạo có nhiều CHÚA Trời nhất (khoảng 330 triệu vị Thần). Một trong những biểu tượng có trong các ngôi Đền Hindu, đó là biểu tượng LINGA SHIVA, biểu tượng của sự Huỷ Diệt và Tái Sinh. Có rất nhiều sự sai lầm về hình tượng này. Một số thì cho rằng đây là Biểu tượng tôn thờ tín ngưỡng phồn thực, rằng đây chỉ là mô tả bộ phận sinh dục của người đàn ông, và ở dưới là hình tượng mô tả bộ phận sinh dục của đàn bà. Trong Hindu giáo, biểu tượng này được gọi là Linga Shiva và cũng có sự hiểu sai lệch rằng đây là hình tượng Dương vật của thần Shiva(một trong những vị Thần vĩ đại nhất trong Hindu giáo), và phía dưới là biểu tượng Âm vật của thần Shakti. Từ Shiva có nghĩa là Tốt Lành, Linga (hay Lingam) có nghĩa là hình tượng, là dấu hiệu. Và Linga Shiva tức là hình tượng của sự bất tử của Thần Shiva. Đó là biểu tượng của Đấng sáng tạo, là sự tự nhận thức vượt qua sự sinh sôi, sự huỷ diệt, sự tốt-xấu, Thần Linh và Ma Quỉ, thời gian và Vũ trụ. Là điểm khởi nguồn của vạn vật. Nếu dịch nghĩa từ Dương Vật trong ngôn ngữ Hindi (Sanskrit), thì sẽ là từ SHISHNAM, không phải là từ Linga. Sự hiểu sai ngay từ chính người theo Đạo Hindu cũng do bởi sự cố tình làm sai lệch ý nghĩa, xuất phát từ những kẻ xâm lược và muốn huỷ diệt Hindu giáo. Biểu tương này là thể hiện sự bất tử của Thần Shiva nhưng từ sự sai lệch dẫn tới từ này mang ý nghĩa khác, Từ Yoni cũng vậy, có nghĩa là Mẹ Thiên Nhiên, là biểu tượng của sự sinh sôi nhưng lại được hiểu sai thành bộ phận sinh dục phụ nữ. Đây là hình tượng của Thần Parvati, vợ của Thần Shiva. Biểu tượng Linga có hai dạng chính: 1. Tại Ấn độ, Nepal: Linga hình tròn và Yoni cũng hình tròn. Trên Linga có biểu tượng ba gạch liền và hình tượng Con Mắt thứ Ba ở giữa. Con mắt này đều xuất hiện trên Trán của Thần Shiva thể hiện sự thông hiểu, là ý thức, nhận thức, là sự xuyên suốt. Đây cũng chính là mô tả hình thái của Vũ Trụ 2. Tại Đông Nam Á: Biểu tượng Linga phức tạp hơn, thể hiện hình tượng của ba vị Thần tối cao trong Hindu giáo. 3 vị thần thể hiện vòng tròn cuộc sống (Samsara) : SINH-VƯỢNG-MỘ a. Thần Shiva-hình Tròn và chạm khắc mặt của vị Thần này- Là vị thần của sự huỷ diệt,sự tái sinh, là công lý, phán xét. b. Thần Visnu-Bát giác, là vị thần của sự che trở, bao bọc, bảo vệ c. Brahma-hình Vuông. là đấng sang tạo.Là vị thần tạo ra nguồn gốc của con người. d. Yuni: địa cầu, đất Mẹ Nhìn vào Biểu tượng Linga , điều nhận thấy đầu tiên đó là hình tượng Quẻ CÀN trong Bát Quái của Lý Học Đông Phương. Đây là tượng của Thần Shiva là Đấng sáng tạo nhưng cũng là vị Thần của sự Huỷ Diệt, và đó cũng chính là ý nghĩa của quẻ CÀN :Hình Trụ/Tròn Là Trời, là Cha, thuộc Dương. Biểu tượng Yoni: Là tượng của Trái Đất, là Mẹ,thuộc ÂM. Tuy nhiên Yoni ở vùng ĐNA như Campuchia, Vietnam thì lại là hình Vuông – Là quẻ Khôn,. Vẫn là hình Tròn và Vuông trong Lý Học Đông Phương thể hiện sự Sinh Sôi, Sáng Tạo, là hình tượng của Cha –Mẹ. Tuy thể hiện qua nhiều hình thể khác nhau do ảnh hưởng của tôn giáo nhưng về bản chất vẫn là sự mô tả nhận thức của con Người với Vũ Trụ quan. Chúng ta cũng có thể nhận thấy đâu đó có sự xuất hiện của Tứ Tượng và Bát quái trên Linga. Ví dụ Linga tại Nepal, tượng bát quái mô phỏng bằng bông hoa Sen Theo các tài liệu nghiên cứu thì các vị Thần Hindu giáo được đặt tên cho các Chòm Sao Hoàng Đạo của chiêm tinh học Vệ Đà vào khoảng 5000 năm trước công nguyên. Do đó, Thiên Chúa giáo cũng nhận được ảnh hưởng của biểu tượng Linga (Âm Dương) và hình dưới chính là quảng trường Thánh Peter tại Vatican. Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là lý thuyết gốc để rồi từ đó chúng ta mới có các bộ môn ứng dụng như lịch Can Chi, Kinh Dịch, Địa Lý, Tử Vi, vv..Người Trung Quốc tin rằng học thuyết ADNH cùng những bộ môn ứng dụng đó là do tổ tiên họ sáng tạo ra, từ những nhân vật thần thoại như vua Phục Hy nửa người nửa rắn hay linh vật như Long Mã , Rùa thần. Người Trung Hoa kể rằng vua Phục Hy - thời tam Hoàng ngũ Đế , là thủy tổ của loài người (nhưng không xác định được là thần hay là người) niên đại khoảng năm 2852–2737 TCN (nguồn Wiki) . Phục Hy là người tạo ra Bát Quái, Hà Đồ , Kinh Dịch và Tiên Thiên bát quái đồ. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng vào thời kì niên đại khoảng 3000 năm TCN thì đã tồn tại các nền văn minh khác, và cùng thời với nền Văn Minh Lạc Việt của Vua Hùng (2879 TCN) 1. Bát quái , Hà Đồ và Kinh Dịch được vua Phục Hy tạo ra, Lạc Thư do vua Đại Vũ tạo ra nhưng mãi sau gần 2000 năm sau thì người Trung Quốc mới có học thuyết Âm Dương ngũ hành ? Phải có Thái Cực và ÂM DƯƠNG thì mới sinh ra Bát Quái nhưng thật tài tình là người Trung Quốc sáng tạo ra Bát Quái rồi mới tạo ra lý thuyết Thái Cực sinh Lưỡng Nghi !Đấy chẳng phải là câu chuyện “ Sinh Con rồi mới Sinh Cha”? ! 2. Lục Thập hoa Giáp và lịch Can Chi thì người Trung Quốc nói rằng họ có từ năm 1250 TCN vào thời nhà Thương. Nhưng hệ thống Ngũ Hành thì lại được tuyên bố được sáng tạo vào khoảng 168 TCN thời nhà Hán (206-220 BCE) ? chưa có ngũ hành mà lại có lịch Can Chi và Lục Thập Hoa Giáp ? 3. Hà Đồ - Lạc Thư mô tả chiều Ngũ Hành Tương Sinh và Tương Khắc thế nhưng Ngũ Hành lại sinh ra sau Hà Đồ - Lạc Thư tới hơn 2700 năm ? 4. Hà Đồ -Lạc Thư được người Trung Hoa khẳng định là ma trận toán học đầu tiên và cổ xưa nhất trên thế giới. Thế nhưng họ lại cũng khẳng định hệ thống toán học cổ xưa nhất của Trung Quốc có trên mai rùa và thư tịch cổ lại có từ thời nhà Thương (1600-1046 TCN), tức là ma trận toán học lại có trước cả khi có hệ thống toán học ? vậy làm sao lại có được ma trận 3x3 mà tổng các hàng, cột đều bằng 15 và có hệ thống số đếm trên Lạc Thư- Hà Đồ do vua Phục Hy và Đại Vũ làm ra từ trước cả hơn 1000 năm ? 5. Tử Vi đẩu số, một bộ môn ứng dụng từ thuyết Âm Dương Ngũ Hành được coi là sự sáng tạo của một Đạo sỹ thời nhà Đường (681-907) tên là Lã Thuần Dương(Lu Chun Yang - 呂純陽), sau đó được Ông Hy Di Trần Đoàn đời nhà Tống phát triển bổ xung, rồi tới cuối cùng hoàn thiện như ngày hôm nay bởi La Hồng Tiên ( Luo Hong Xian -羅洪先) đời nhà Thanh . Thời điểm mà người Trung Hoa nói rằng tạo ra thái cực đồ với hệ lý thuyết Âm Dương ( Thái cực sinh lưỡng nghi) là vào thời nhà Tống, do Chu Đôn Di sáng tạo ra. Người ta nói rằng đây là bộ môn thiên văn cổ dùng để tiên tri, bói toán nhưng nó hoàn toàn dựa vào học thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà ra. Nếu bạn đã một lần xem tử vi đẩu số, chắc hẳn ngoài chữ "SAO" thì bạn sẽ không tìm được dấu vết nào liên quan tới Thiên văn học cả. Câu hỏi là : - Nếu chưa có lý thuyết về Âm-Dương thì làm sao sinh ra Ngũ Hành để rồi có được lá số tử vi với hệ thống phức tạp liên quan tới Âm Dương ? Như vậy chẳng phải là Sinh Cháu giữ nhà rồi mới Sinh Ông ? Chỉ duy nhất có Thái Ất thần số là bộ môn thiên văn học cổ của người Việt không bị gắn vào thời kỳ nào hay tác giả nào, chỉ nói chung chung là của người Trung Hoa. Chúng ta cũng nên biết rằng Thái Ất là bộ môn tính toán Lịch cao cấp nhất cho tới ngày nay, từ năm GIÁP TÝ thời thượng cổ cách nay(2017) là 10,141,313 năm. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người nắm giữ đầy đủ nhất về bộ môn này. Trong lịch sử Trung Quốc đã ghi lại lịch Can Chi của người Việt đã được Vua Hùng tặng cho vua Nghiêu (Yao Emperor 2356-2255 TCN) viết dưới dạng chữ Khoa Đẩu. Hệ Can Chi cũng là hệ duy nhất sử dụng trong các ĐỜI trị vị của HỒNG BÀNG THỊ. 18 Thời Vua Hùng bao gồm (trích dẫn từ WIkipedia tiếng Anh, tiếng Việt không đề cập tới chi tiết này): I. Kỷ thứ nhất (2879–2000 BC) • Càn hệ (Hùng Dynasty I, c. 2879 – 2794 BC) • Khảm hệ (Dynasty II, c. 2793 – 2525 BC) • Cấn hệ (Dynasty III, c. 2524 – 2253 BC) • Chấn hệ (Dynasty IV, c. 2254 – 1913 BC) II. Kỷ Phùng Nguyên (2000–1500 BC) • Tốn hệ (Dynasty V, c. 1912 – 1713 BC) • Ly hệ (Dynasty VI, c. 1712 – 1632 BC) • Khôn hệ (Dynasty VII, c. 1631 – 1432 BC) III. Kỷ Đồng Đậu (1500–1100 BC) • Đoài hệ (Dynasty VIII, c. 1431 – 1332 BC) • Giáp hệ (Dynasty IX, c. 1331 – 1252 BC) • Ất hệ (Dynasty X, c. 1251 – 1162 BC) • Bính hệ (Dynasty XI, c. 1161 – 1055 BC) IV. Kỷ Gò Mun (1100–800 BC) • Đinh hệ (Dynasty XII, c. 1054 – 969 BC) • Mậu hệ (Dynasty XIII, c. 968 – 854 BC) • Kỷ hệ (Dynasty XIV, c. 853 – 755 BC) V Kỷ Đông Sơn (800–258 BC) • Canh hệ (Dynasty XV, c. 754 – 661 BC) • Tân hệ (Dynasty XVI, c. 660 – 569 BC) • Nhâm hệ (Dynasty XVII, c. 568 – 409 BC) • Qúy hệ (Dynasty XVIII, c. 408 – 258 BC) Không có Âm Dương Ngũ Hành, Bát Quái, Can Chi thì làm sao Tổ Tiên của Việt tộc lại sử dụng tri thức đó cho chính các thời kỳ trị vị, Hiến pháp (Hồng Phạm Cửu trù), lịch Can Chi, Lạc thư Hoa Giáp (nạp âm 60 năm khởi từ Giáp Tý) ? Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của nền Văn Minh Lạc Việt đã phải có từ trước khi Thủy Tổ của Việt tộc -Vua Kinh Dương Vương lâp quốc tới nay là 4896 năm. Người Trung Quốc sau khi Tần Thủy Hoàng xâm chiếm và hủy hoại toàn bộ nước Văn Lang để thống nhất Trung Quốc, đốt sách và hủy hoại nền văn minh Lạc Việt nhằm viết lại lịch sử. Ông ta đã không lấy được đầy đủ học thuyết ADNH từ nền văn minh Lạc Việt nên sau đó hễ cứ lấy được mẩu nào thì gắn truyền thuyết vào mẩu đó mà không có tính hệ thống nên đã trở thành sự chắp vá, thậm trí gán cả vào các truyền thuyết mơ hồ. Cái nào tìm được trên khảo cổ hay văn bản cổ thì họ công bố luôn mà không cần tìm hiểu nguồn gốc trước đó, ví dụ như hệ thống toán học cổ và Lạc Thư-Hà Đồ. Cho nên Ông Cha ta mới tạo ra chuyện Sinh con rồi mới sinh cha,Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông để nhắn nhủ cho thế hệ con cháu đi tìm sự mâu thuẫn trong nguồn gốc của học thuyết ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH của người Trung Hoa cũng như tìm lại Cội nguồn đích thực của học thuyết này.
    1 like
  3. Thày Thiên sứ dự đoán tình hình Biển đông và khu vực QUẺ KINH LƯU NIÊN. Giờ Dần ngày 23. 4. Mậu Tuất Việt lịch. Được quẻ Kinh Lưu Niên cho vấn đề biển Đông liên quan đến Thượng Đỉnh Mỹ Triều. Buồn quá! Ngủ không được, nửa đêm tỉnh dậy lang thang trên mạng, thấy hình người đứng đầu Bắc Cao Ly với Tổng Thống Hoa Kỳ. Click chuột thế nào nó lại ra một bài liên quan đến Biển Đông. Nên ứng quẻ và viết bài này. Từ 2003, trên dd tuvilyso. com, tôi luôn xác định rằng: Sẽ không có chiến tranh Cao Ly lần II. Nhưng khi khả năng hòa giải xuất hiện ở Cao Ly, cá nhân tôi lại rất lo lắng, vì những âm mưu thọc gậy bánh xe từ Bắc Kinh. Và nó đã xảy ra những trục trặc, khiên cuộc họp Thượng Đỉnh Mỹ Triều chút xíu nữa thì...giải tán, cùng với một tương lai khó đoán định cho kết quả Hội Nghị. Một trong những sự kiện đáng chú ý, là: để tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Nghị Thương Đỉnh Mỹ Triều, quân lực Hoa Kỳ rút khỏi vùng biển phía Đông của Tàu. Lợi dụng sự kiện này, Bắc Kinh đã tranh thủ sức ép quân sự Hoa Kỳ giảm ở Hoa Đông và ồ ạt quân sự hóa biển Đông, trước mũi Hoa Kỳ. Có vẻ Bắc Kinh muốn biển Đông là một chiến trường chính, nếu chiến tranh xảy ra. Quên đi nhé! Đã từ lâu, trên diễn đàn này, lão đã khẳng định: Cùng lắm biển Đông là dây dẫn nổ, nhưng thùng thuốc nổ phải ở chính ngay trên đất của Tàu lục địa. Biển Đông không phải là chiến trường của một cuộc chiến tranh ủy nhiệm kết thúc chiến tranh Lạnh. Đây là "Canh bạc cuối cùng" xác định ngôi vị bá chủ thế giới. Hoa Kỳ có thể chấp nhận thua cuộc, sau khi sử dụng hết số đầu đạn hạt nhân có thê tính theo đầu người cho cả thế giới này. Khái niệm quốc gia, hoặc vùng lãnh thổ Địa chính trị, làm khu đệm an toàn cho chính quốc, đã lỗi thời với những thứ vũ khí có thể bay qua đầu một nửa quả Địa cầu. Bắc Kinh dù có căn cứ phòng thủ ngay tại Phi Luật Tân, hoặc vài quốc gia liên quan, cũng không thể cản trở các loại vũ khí xuyên lục địa này. Lão gàn Thiên Sứ nhắc lại tính tiên tri của lão rằng: Hai Miền Cao Ly sẽ thống nhất. Nhưng bất cứ một âm mưu nào lợi dụng điều này để làm tổn hại tới Việt Nam, thì chiến tranh sẽ xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Với quẻ Kinh Lưu Niên, đã xác định rằng: Mọi việc đã an bài. Và lão Gàn Thiên Sứ khoanh tay đứng nhìn.
    1 like