• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/05/2018 in all areas

  1. CÁC BÀI THAM LUẬN TRONG TỌA ĐÀM KHOA HỌC NGƯỜI VIỆT VÀ KINH DỊCH Thưa quý vị và các bạn Vào nửa cuối thế kỷ trước, chính quyền nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, phối hợp với cơ quan văn hóa Liên hợp quốc Unesco, tổ chức 4 cuộc hội thảo tìm về bản chất và cội nguồn Kinh Dịch. Nhưng họ đã không thành công.Và Kinh Dịch vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của toàn bộ nền văn minh nhân loại cho đến ngày nay. Nay chúng tôi - Gồm những nhà nghiên cứu Việt Nam- quan tâm đến nội dung và cội nguồn Kinh Dịch.Vì những sự nhiệt tình đó mà chúng tôi không quản khó khăn về nhiều phương diện để trình bày những quan điểm riêng của mình trong buổi tọa đàm về Kinh Dịch này. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày lần lượt từng bài tham luận của những học giả tham gia tọa đàm để quý vị và các bạn quan tâm tham khảo. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý vị và các ban. Hà Nội ngày 22 tháng 5 năm 2018 THIÊN SỨ NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
    1 like
  2. MẤY VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN GỐC KINH DỊCH TS. Nguyễn Văn Vịnh Trong hệ thống tri thức dùng cho học tập và thi cử từ hơn 2000 năm trở lại đây đối với các nước thuộc phạm trù văn hóa khổng giáo, Kinh Dịch là bộ đứng đầu ngũ kinh(Thư kinh, Thi kinh,Lễ kinh, Xuân Thu kinh và Dịch Kinh), được gọi là “Quần thủ chi kinh”. Có thể nói, Kinh Dịch là bộ sách độc đáo có một không hai của nhân loại: Độc đáo vì Kinh chỉ dùng hai vạch liền và đứt: là ( - ) và ( -- ), như là hai ký hiệu ở dạng thống nhất nguyên sơ, còn gọi là hai hào Dương và Âm. xếp chồng lên nhau tạo thành các ký hiệu để mô tả các sự vật hiện thực khách quan, từ đó vươn tới lý giải mọi qui luật, mọi hiện tượng diễn ra trong vũ trụ, một cách thấu triệt từ triết, y, lý, số, quân sự, chính trị, văn hóa, bói toán, thiên văn, địa lý, âm nhạc .... Phạm vi của kinh Dịch bao trùm lên các qui luật của khoa học tự nhiên, xã hội và con người. Trong thiên nhiên gọi là “Thiên Đạo” và lãnh vực của khoa học nhân văn gọi là “Nhân Đạo”, ứng dụng cho kiến trúc gọi là thuật phong thuỷ. Phần Thoán Từ và Hào Từ bằng chữ Hán là phần được người đời sau thêm vào, sách vở chép lại cho là Văn Vương và Chu Công đã làm việc này, sau được Khổng Tử chú giải thêm phần Thập dực để giải thích thêm. Từ trước tới nay giới học thuật truyền thống đều cho rằng Kinh Dịch là sách bói toán có nguồn gốc từ Trung Hoa với lập luận đại khái qua những truyền thuyết như: 1.Thuyết thứ nhất:Phục Hy lập ra Bát Quái (tám quẻ đơn), rồi đem Bát Quái chồng lên nhau thành 64 quẻ kép của Kinh Dịch gọi là tượng. 2. Thuyết thứ hai:Kinh Dịch của nhà Chu Sang tới đầu nhà Chu, Chu Văn Vương mới đem những Quẻ của Phục Hy mà đặt từng tên và diễn thêm lời ở dưới mỗi quẻ để nói về sự lành dữ của cả quẻ, như chữ nguyên hanh lợi tẫn mã chi trinh ở quẻ Khôn v.v... Lời đó gọi là Lời Quẻ (quái từ), hay lời thoán (thoán từ). Sau đó Chu Công tức Cơ Đán (con trai thứ Văn Vương), lại theo số vạch của các quẻ mà chia mỗi quẻ ra làm sáu phần, mỗi phần gọi là một Hào, và dưới mỗi hào đều có thêm một hoặc vài câu, để nói về sự lành dữ của từng hào, như câu Sơ Cửu: tiềm long vật dụng hay câu Cửu Nhị: hiện long tại điền trong quẻ Kiền và câu Sơ Lục lý sương kiên băng chí hay câu Lục Tam: Hàm chương khả trinh trong quẻ Khôn... Lời đó gọi là lời hào (Hào từ) vì phần nhiều nó căn cứ vào hình tượng của các hào, cho nên nó còn gọi là (Lời tượng). Tiếp đến Khổng Tử lại soạn ra sáu thứ nữa, là Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái. Thoán truyện có hai thiên: Thượng Thoán và Hạ Thoán; Tượng truyện có hai thiên: Thượng và Hạ Tượng; Hệ từ cũng có hai thiên: Thượng Hệ và Hạ Hệ; tất cả mười thiên, thường gọi là Thập dực (mười cánh). Sáu thứ đó tuy đều tán cho ý nghĩa Kinh Dịch rộng thêm. 3. Thuyết thứ ba: Bát Quái Và Kinh Dịch Từ Hà Lạc Hà Lạc là Hà Đồ và Lạc Thư: Đây là hai hình đồ xuất hiện thời cổ xưa. Theo truyền thuyết này (được viết trong thiên Hệ Từ Thượng Truyện) cho rằng: “Xưa, ở nơi sông Hà hiện ra bức đồ, ở trên sông Lạc hiện ra trang chữ và Thánh Nhân phỏng theo mà sáng tác”. Theo chúng tôi đó chỉ là những giả thuyết thậm chí chỉ là những câu chuyện được sáng tác theo trí tưởng tượng kiểu Trung hoa, nhằm xác nhận chủ nhân Kinh Dịch là người Trung Hoa. Đây là vấn đề khá phức tạp , về nguồn gốc Kinh Dịch cho đến hiện nay tồn tại nhiều thuyết khác nhau, ngay bản thân các nhà nghiên cứu Trung Quốc nghiêm túc cũng không dám khẳng định Kinh Dịch có nguồn gốc từ văn hóa Hán. Vấn đề nguồn gốc Kinh Dịch cho tới nay vẫn là một thách thức cho các nhà nghiên cứu, nhưng nhất định không thể khẳng định Kinh Dịch có nguồn gốc từ văn minh Hoa Hạ. Chúng tôi sẽ trình bày kỹ ở phần tiếp theo. Chúng tôi xin dẫn mấy quan điểm chứng minh Kinh Dịch được phát minh bởi cư dân Bách Việt ( Khái niệm Bách Việt ở đây được sử dụng theo nghĩa rất rộng gồm các tộc người cư trú từ phía Nam sông Hoàng Hà tới vùng Mã Lai đa đảo, vốn là các cư dân nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, trước khi có sự xâm nhập của Hán tộc vốn là cư dân du mục). Những ý kiến này là của các tác giả Việt Nam: 1. Kinh Diệc tức Kinh Dịch (chỉ phần kinh văn Dịch kinh, không bao gồm Dịch truyện), của Văn Lang truyền sang Trung Quốc, chữ Diệc đồng âm với Dịch nên người Trung Quốc chuyển sang gọi là Kinh Dịch. Diệc là một loại với Chu Dịch lại trùng tên với Tích dịch là con thằn lằn biến sắc nên Trung Hoa lấy hì́nh tượng con vật này để giảng chữ Dịch là biến dịch, bất dịch và giao dịch. Diệc là loài chim nên Diệc Thư còn gọi là Điểu Thư. Điểu Thư người Tráng (ở Vân Nam, Quảng Tây) đọc thành Lạc Thư. Theo lối tam sao thất bản Lạc Đồ (đi cặp với Hà Đồ) biến thành Lạc thư (mặc dầu chỉ là đồ chứ không có thư). Từ đó Hà Đồ và Lạc Thư được nâng lên thành khởi nguồn của Kinh Dịch. Văn Lang tam sao thất bản thành Văn Vương.Trước thời Tần không có sách nào nói chuyện Văn Vương làm Dịch, chỉ đến đời Hán lợi dụng việc Tần Thuỷ Hoàng đốt sách,Tư Mã Thiên, nhà Sử Học lừng danh của Trung Quốc bằng tài năng và uy tín của mình đă phù phép đưa Văn Vương vào thay Văn Lang. Tư Mã Thiên chỉ nói như vậy chứ không có dựa vào tài liệu nào cả, mọi việc ông biết về Dịch đều do cha ông là Tư Mã Đàm truyền lại, suy cho đến cùng thì Tư Mã Đàm là đồ đệ của đồ đệ Khổng Tử, mà Không Tử thì không nói gì về việc Văn Vương làm Dịch. Cơ cấu của Dịch là tượng, các nhà làm Dịch quan sát tượng của quẻ rồi từ quẻ mới đặt lời. 2. Hồ Thích trong "Lịch sử logic học thời tiên Tần" cũng nhận định như vậy: "Học thuyết logic quan trọng nhất trong Kinh Dịch là học thuyết về tượng. Chữ "tượng" này có một lai lịch rất thú vị. Nó vốn là chỉ một con voi. Hàn Phi (chết năm 233 trước công nguyên) từng thuyết minh về sự phát triển của nghĩa chữ này như sau "Người ta ít thấy con voi sống (vì nó chỉ sinh sản ở các nước "Nam Man"),nên theo hình vẽ mà nghĩ tới nó. Cho nên điều mà mọi người lấy ý để nghĩ tới, đều gọi là tượng"(Hàn Phi tử, Giãi Lão). Chữ Dịch gồm chữ nhật ở trên với chữ vật ở dưới, hai chữ này đi với nhau vô nghĩa nên người Trung Hoa giảng lệch đi cho chữ vật là chữ nguyệt để tạo thành cặp hội ý nhật nguyệt, ý nói mặt trời, mặt trăng thay nhau lặn mọc; ngày đêm thay nhau biến dịch.Cho nên trước hết Dịch có nghĩa là biến dịch. Chữ Dịch người Hoa còn đọc là Diệc(Từ điển Khang Hy,Người nước Lỗ thời Khổng Tử đọc Dịch là Diệc. Khi ta nói Kinh Diệc, nhiều người Việt chúng ta nghĩ là ta đọc chệch âm Dịch thành âm Diệc,thực ra âm Dịch là từ âm Diệc mà ra. 3. Học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam với luận cứ: - chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một ngàn năm trước khi có mặt tại Trung Hoa-Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hỗ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thủy Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Lôi Thủy Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hóa Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: “Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hóa Phùng Nguyên”. - Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Hoa: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Hoa muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được thể hiện rất rõ trên trống đồng Đông Sơn- một biểu tượng cho văn minh Việt Nam đã đươc Liên hợp quốc công nhận. 4. Ở bài viết này chúng tôi chia sẻ quan điểm Kinh Dịch là có nguồn gốc từ văn minh Bách Việt, còn cụ thể của tộc nào trong Bách Việt thì lại là chuyện khác, cần nhiều bằng chứng có thuyết phục về mặt khoa học, xin đưa những ý kiên sau để minh chứng cho luận điểm của mình: 4.1. Ngôn ngữ: Theo quan điểm cá nhân chúng tôi tên tám quẻ đơn: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài dứt khoát không phải là tiếng Hoa, nếu là tiếng Hoa được ký âm lại thì tại sao các các học giả thời Cổ đại ở Trung Hoa( từ Phục Hy, Chu Văn Vương tới Khổng Tử), phải chuyển ngữ sang tiếng của họ(?). Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được, vì vậy phải chuyển các khái niệm sang Hoa ngữ để người Hoa có thể hiểu được, sau đây là bảng so sánh để tiện theo dõi: Bát Quái(tám quẻ đơn) Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài Thiên Thủy Sơn Lôi Phong Hỏa Địa Trạch Tiān Shuǐ Shān Léi Fēng Huǒ Dì Zé Đây là bằng chứng “Sống”, mà ngay phần nhập môn người Hoa đã thể hiện họ không phải là tác giả của Dịch học. Có thể khẳng định tác phẩm Kinh dịch như hiện nay chúng ta thấy được hình thành qua nhiều giai đoạn khác nhau. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng, thực chất của 8 quẻ đơn nên được hiểu là các ký tự ( chữ viết) được dùng để chỉ các sự vật và hiện tượng tồn tại khách quan trong vũ trụ: Càn( là trời, không gian; Khảm là nước, sông hồ, biển; Cấn là núi non; Chấn là sấm, chớp; Tốn là gió bão; Ly là lửa, Khôn là đất đai đồng bằng; Đoài là ao hồđầm lầy. Mặt khác việc sử dụng hai ký hiệu là hai vạch (- -) (-) đây là dạng nguyên sơ và tối giản nhất khi con người sơ khai có thể dùng để diễn đạt điều gì đó, còn việc tại sao lại dùng cấu trúc 3 để hình thành một ký tự gọi là một khái niệm để chỉ các sự vật hiện tượng khách quan trong vũ trụ sẽ được trình bày ở phần sau. 4.2. Lý thuyết triết học về bản thể: Chúng tôi cho rằng: Kinh Dịch khởi đầu là học thuyết về quá trình hình thành của vũ trụ từ vô hình đến hữu hình, tức là lý thuyết về bản thể luận (ontology), đây là vấn đề có tính quyết định luận cho vũ trụ quan triết học. Như vậy việc coi bản thể vũ trụ khởi nguyên từ khílà lựa chọn rất khoa học và có thể nói phải có một trực giác hết sức cao siêu. điều này phải đến khoảng giữa thế kỷ XX mới được vật lý hiện đại xác nhận qua giả thuyết về Vụ nổ lớn (Big Bang), theo đó sự khởi nguyên của vũ trụ cũng bắt đầu từ dạng khí qua vận động của các cơn lốc vũ trụ, khi nhiệt độ hạ dần xuống, thể khí chuyển sang thể rắn các khối thể rắn này chính là các hành tinh chuyển động theo quỹ đạo khác nhau xung quanh mặt trời. Sau đó một hành tinh là trái đất của chúng ta xuất hiện khí quyển, rồi qua các vận động tạo ra núi, sông, biển, sấm chớp, gió, lửa, châu thổ, cuối cùng là các loài sinh vật xuất hiện. Như vậy Kinh Dịch là một lý thuyết khoa học về sự hình thành và vận động của vũ trụ. Điều quan trọng Kinh Dịch ngay từ đầu đã là một lý thuyết có tầm phổ quát, diễn đạt được qui luật vận động của vũ trụ theo một trình tự rất logic, vì vậy theo thời gian nó được các bộ óc mẫn tiệp triển khai theo hướng bổ xung và diễn dịch thêm cho dễ hiểu hơn mà thôi. Do tính phổ quát rộng lớn nên Kinh Dịch có tầm ứng dụng cho mọi lĩnh vực của tự nhiên và đời sống xã hội. Cho đến nay ai cũng biết rằng, bản thân vũ trụ cũng có thời điểm hình thành và phát triển theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp, cụ thể hơn các sinh giới cũng có sự phát triển từ vô cơ đến hữu cơ, từ thực vật đến động vật. từ sinh vật đơn bào đến sinh vật có cấu trúc phức tạp nhất là con người. Quá trình hình và vận động này được tính bằng nhiều triệu năm, bản thân khái niệm “Dịch” cũng là khái niệm dùng để chỉ sự vận động và thay đổi. 4.3. Nguyên lý phát triển nhị phân: Lý thuyết phát triển của Kinh Dịch cho rằng: từ thái cực vận động sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái… điều này được Toán học diễn đạt như sau: 20®21®22®23…chúng tôi khẳng định đây chính là nguyên lý gốc của sự vận động và sinh thành của sinh giới, bằng chứng là: Phương pháp sinh sản của tất cả mọi loại tế bào, là cấu trúc nhỏ nhất, cấu thành các cơ thể sinh học của sinh vật(kể cả tề bào của con người là sinh vật cao cấp nhất) cũng theo nguyên lý nhị phân. như vậy có thể nói một cách khái quát Kinh Dịch đã diễn giải được tất cả các hiện tượng vận động và phát triển của tự nhiên, từ đó suy rộng ra cho những tiến triển xã hội trong quá trình vận động và thay đổi. 4.4. Vấn đề quẻ đơn và quẻ kép của Kinh Dịch Theo chúng tôi thấy nguồn gốc tám quẻ đơn nền tảng tạo ra Kinh Dịch đương nhiên là của nhóm cư dân Bách Việt, việc tổ hợp thành 64 quẻ kép là sản phẩm thời Chu, sau này đến thời nhà Hán nhà Dịch học Tiêu Diên Thị cùng môn đệ là Kinh Phòng, làm ra tác phẩm Dịch Lâm, bằng cách tổ hợp mỗi quẻ kép thành 64 quẻ, mỗi quẻ gồm 12 hào , đưa tổng số quẻ lên 4096 quẻ, mỗi quẻ được giải thích bằng 1 bài thơ bốn câu gồm 16 chữ dùng cho bói toán. Tuy nhiên thuật này ít được phổ biến do quá phức tạp. Trong một thời gian rất dài đa số các nhà nghiên cứu về Kinh Dịch đều thuần túy chỉ coi đây là cuốn sách về bói toán, “ Dịch chủ bốc phệ”. Đặc biệt khi học thuyết Ngũ Hành ra đời- Đây là học thuyết về phương thức vận động của các sự vật hiện tượng theo hai chiều sinh và khắc- các quẻ đơn của Kinh Dịch cũng được sắp xếp theo ngũ hành thì khả năng ứng dụng của Kinh Dịch được mở rộng rất nhiều. Từ Kinh Dịch, người ta đưa ra nhiều cách bói toán khác nhau cho nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, cũng như cho số phận của từng cá nhân, chi tiết hơn là đến các hành vi xã hội cũng được sử dụng Kinh Dịch để dự báo một cách chi tiết. Nói tóm lại nguồn gốc Kinh Dịch là của cư dân Bách Việt, Sau này với sự xâm thực của Hoa tộc Kinh Dịch được phát triển thêm qua nhiều giai đoạn như đã trình bày ở trên./.
    1 like
  3. VIẾT LẠI LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KINH DỊCH Hà Văn Thùy Kinh Dịch là thành tựu văn hoá kiệt xuất của phương Đông. Từ hơn 2000 năm nay, thế giới cho rằng đó là sản phẩm của người Trung Hoa. Khoảng 30 năm lại đây, một số tác giả lên tiếng đòi bản quyền sáng tạo Kinh Dịch cho người Việt. Ngày nay, nhờ những phát kiến quan trọng về khảo cổ và nhân chủng học, đã tới lúc phải bàn lại về vấn đề vô cùng quan thiết này. I. Nguồn gốc Kinh Dịch theo quan niệm truyền thống 1. Tóm lược Ngày nay, tất cả các cuốn Kinh Dịch viết bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới đều ghi: “Hà xuất Đồ, Lạc xất Thư, thánh nhân tắc chi.” Câu này có nghĩa là: “bức Đồ hiện lên ở sông Hoàng Hà, bức Thư hiện lên ở sông Lạc Hà, đấng thánh nhân bắt chước mà làm Dịch.” Đó là nguyên văn lời Khổng Tử ghi trong Hệ từ truyện. Nhưng không chỉ có vậy, hầu hết các sách cũng chép theo Khổng An Quốc rằng: “Phục Hy được bức Đồ trên con long mã ở sông Hoàng Hà, Đại Vũ được bức Thư trên con thần qui xuất hiện ở sông Lạc mà làm nên Dịch.” Phục Hy là ông vua thứ hai trong huyền thoại của người Trung Hoa, sau Toại Hoàng, sống vào khoảng năm 4480 TCN, đã căn cứ vào bức Đồ xuất hiện từ sông Hà rồi làm ra Bát quái, trùng quái. Dịch bắt đầu từ Phục Hy, trải qua đời Hạ, đời Thương đến Văn Vương thì được nâng lên một bước. Dịch của Văn Vương tuy đầy đủ nhưng cái lý vẫn còn bí ẩn. Năm trăm năm sau, Khổng Tử làm Thoán Tượng, buộc thêm lời vào ý của Văn Vương, mục đích làm sáng tỏ Dịch của Văn Vương. Từ cuốn sách bói toán, Văn Vương, Khổng Tử đã chuyển thành cuốn sách có ý nghĩa giáo hoá lớn nên được xếp vào Lục kinh. Phùng Ỷ viết: “Văn vương tán quẻ của Bao Hy, diễn số của cỏ thi, suy việc biến dịch của 9, 6 để sinh ra Hào, cho nên Quái, Hào đều liên hệ với nhau bằng lời, và định tên là Dịch. Từ khi Khổng Tử tán Dịch của Văn Vương thì các Dịch của Hạ, Thương đều bỏ. Bởi thế, từ Văn Vương, các sách Dịch mới bắt đầu gọi Dịch, còn trước Văn Vương, chỉ gọi là Quái mà thôi. Cho nên Khổng Tử nói Bào Hy vạch Bát quái chứ không nói làm Dịch.” [1] , đều là những quyển sách bói. Khi san định Kinh Dịch, chính Khổng Tử cùng với việc đưa nội dung triết lý, đạo đức vào Dịch, cũng dành ba chương IX, X, XI cho việc bói toán. Sau Khổng Tử, Dịch càng nghiêng hơn vào việc bói toán. Hán nho luận Dịch phần nhiều chủ về tai dị và thuật số. Đến đời Nguỵ, Vương Bật chú Dịch mới truất bỏ những lời bàn về toán số mà phát huy phần triết lý trong kinh Dịch. Do đó Dịch học chia làm hai phái: một phái chủ trương Dịch học là sách dùng để bói toán, người cầm đầu là Mạnh Hỷ đời Tây Hán, nổi danh nhất là Trần Đoàn và Thiệu Ung ở đời Tống. Cũng vào thời gian này, do nhiều trường phái Dịch ra đời khiến cho loạn thuyết, Dịch chính truyền bịChu Dịch, đời nhà Chu có Quy Tàng, đời Hoàng Đế có Liên SơnDịch vốn là công cụ bói toán. Đời Thần Nông có mai một nên Chu Hy đúc kết Dịch còn sót của dòng chính, sáng tác sách Châu Dịch bản nghĩa truyền tới ngày nay. Về công dụng của Dịch, Châu Dịch bản nghĩa của Chu Hy viết: Phục Hy đã “thắt dây lại mà làm ra cái vó, cái lưới để đi săn, đánh cá, đó là ngài đã lấy tượng của quẻ Ly.” Rồi “Họ Bào Hy mất. Họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi cày, uốn gỗ làm cán cày, đem cái lợi về sự cày bừa dạy cho thiên hạ; đó là ngài lấy tượng của quẻ Ích.” Họ Thần Nông lại còn dạy dân họp chợ, giao thương: “Mặt trời đứng bóng thì họp chợ, đưa dân trong thiên hạ đến, tụ góp hàng hoá của thiên hạ lại, giao dịch xong rồi trở về, ai cũng được như ý; đó là Ngài lấy tượng ở quẻ Phệ hạp.” Rồi “Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn lấy tượng ở quẻ Kiền, quẻ Khôn, khoét cây làm thuyền, chuốt gỗ làm chèo, dùng thuyền dùng chèo để qua sông, qua ngòi, đi xa làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Hoán. Dùng trâu ngựa để chở nặng, đi xa, làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Tuỳ…” [3] 2. Nhận định Trên đây là quan niệm mang tính chính thống về nguồn gốc của kinh Dịch. Tuy nhiên, trong giới Dịch học, từ ngót hai nghìn năm nay luôn xuất hiện những ý kiến dị biệt: a. Có người cho rằng, không phải Phục Hy làm ra Dịch. Hà đồ, Lạc thư với long mã, thần quy chỉ là sự thêm thắt của Khổng An Quốc, không thể tin là xác thực vì Khổng Tử không hề nói vậy. “Đồ xuất hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, đấng thánh nhân đặt ra phép tắc.” Hai chữ thánh nhân đâu đã đủ để minh chứng Phục Hy? Khổng An Quốc đời Tây Hán có nói: “Hà đồ là tấm đồ biểu do con long mã mang ra khỏi sông Hoàng Hà thời vua Phục Hy ngự trị thiên hạ. Ngài bèn đem những chấm, những nét của tấm đồ biểu để vạch ra Bát quái.” Thuyết này thực cũng chỉ là do óc tưởng tượng của Khổng An Quốc đó thôi! b. Có người cho rằng: Không phải Phục Hy từ Đồ, Thư mà làm ra Dịch: Nếu đem Bát quái phối trí với Hà đồ thì 1 với 6 là Thuỷ, đóng tại phương Bắc thuộc ngôi vị của Khảm; 2 và 7 là Hoả, đóng tại phương Nam thuộc ngôi vị của Ly; 3 và 8 là Mộc, đóng tại phương Đông, thuộc ngôi vị của Chấn và Tốn; 4 và 5 là Kim, đóng ở phương Tây, thuộc ngôi vị của Đoài và Kiền; 5 và 10 là Thổ, giữ trung ương, ngôi vị của Thái cực. Sự phối trì này tượng trưng cho cuộc thuận bố của Ngũ hành. Tuy nhiên, còn có Khôn - Cấn, hai ngôi không thể phối hợp vào đâu được; điều đó chứng tỏ Bát quái không phải xuất xứ từ Hà đồ. [4], phản đối Hà đồ và Lạc thư có liên quan tới Dịch. Đến khi Hồ Vị làm Dịch đồ minh biện, đem phân tích rõ ràng rành mạch lai lịch giữa Hà đồ với Dịch, thì lúc đó mọi người mới lại thấy Đồ là Đồ, Dịch là Dịch, cả hai không có gì liên can tới nhau cả. Hà đồ Lạc thư nguyên quai Mao Kỳ Linh đời Thanh sơ làm c. Chúng tôi cho rằng việc gán cho các thánh nhân nhìn tượng các quẻ rồi làm ra vật dụng là không có cơ sở. Đây là điều trái với quy luật tư duy: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Chỉ có thể từ hình thể hang đá nơi trú ngụ, rồi những tổ chim trụ được qua mưa gió, con người nghĩ ra cách làm nhà. Bắt gặp con chim con thú bị mắc lại giữa đám dây leo, con người nghĩ ra cách kết dây thành lưới bắt thú bắt cá. Từ cây gỗ trôi trên sông, người ta học cách kết bè rồi làm thuyền… Không thể có chuyện các thánh nhân ngồi nhìn ngắm các quẻ Dịch rồi làm ra vật này vật khác mà phải như Sử Thiếu Vi viết: “Thần Nông ăn lá cây, một ngày chết đi sống lại đến năm lần rồi tìm ra thuốc chữa bệnh bằng cây cỏ.” Hiên Viên do "Kiến chuyển bồng nhi chế thừa xa" có nghĩa là nhìn cỏ bồng xoay theo gió mà chế ra xe. Toại Nhân thì dùi cây tìm ra lửa. Ta biết, Phục Hy sống ở khoảng 4480-4369 năm TCN, trong khi người hiện đại Homo sapiens ra đời từ 195.000 năm trước và phải đánh cá kiếm sống từ rất lâu trước khi Phục Hy ra đời. Nếu ngồi chờ Phục Hy “ngâm cứu” các quẻ Dịch mới làm ra thuyền chắc dân châu Á chết đói từ lâu! Như vậy hợp lý hơn không phải là từ quẻ Dịch nghĩ ra thuyền, lưới mà chính từ có thuyền, lưới, nhà cửa, quần áo, cày bừa rồi nghĩ ra Âm Dương, làm ra Dịch? Vì vậy, cũng không phải Phục Hy làm ra Dịch mà Dịch ra đời từ trước đó nhiều. Cùng lắm thì Phục Hy là người có sáng kiến, trên cơ sở những quẻ bói của dân gian làm ra Bát quái rồi trùng quái. Từ đó dân gian quy công cho Phục Hy. II. Những quan niệm khác. 1. Tóm lược Khoảng ba mươi năm trước, một số học giả như giáo sư Kim Định trong Việt lý tố nguyên, giáo sư Lê Văn Sửu với Nguyên lý thời sinh học cổ Ðông phương và Học thuyết âm dương ngũ hành, giáo sư Bùi Văn Nguyên với Kinh Dịch Phục Hy rồi giáo sư Nguyễn Tiến Lãng Kinh Dịch-sản phẩm sáng tạo của người Việt... đề xuất ý kiến đòi bản quyền sáng tạo kinh Dịch cho người Việt. Những năm gần đây xu hướng này thu hút thêm nhiều nhà nghiên cứu: Nguyễn Vũ Tuấn Anh với Tìm về cội nguồn Kinh Dịch [5] , Nguyễn Thiếu Dũng với những bài báo “Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?” và “Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương”, [6] đặc biệt là Trần Quang Bình với cuốn sách dầy dặn Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc. [7] trên gốm 3500 năm tuổi nên người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch, còn người Trung Hoa, nhận được vật cống Hà Đồ của người Việt, nhưng chưa được người Việt dạy cho Bát quái chuẩn vì vậy đã dùng Bát quái sai lạc của Văn Vương. Lôi Thuỷ GiảiTrần Quang Bình dựa vào công cụ điện toán, phát hiện ra trong 40.320 đồ hình Bát quái lý thuyết, Bát quái Văn Vương chỉ là 1 trong 24 đồ hình đạt tới 6 chíều đối xứng. Chỉ duy nhất một đồ hình đáp ứng cả 8 chiều đối xứng, được gọi là Bát quái chuẩn. Ông cũng giải mã hoa văn khắc trên trống đồng và phát hiện Bát quái chuẩn trên trống Lạc Việt. Cũng nhờ giải mã hoa văn trống đồng, tác giả cho rằng Nòng và Nọc là hai ký hiệu nguyên thuỷ của hào Âm hào Dương của Dịch Lạc Việt. Ông cũng cho rằng mình tìm ra Bát quái Âu Lạc trong tranh Đàn Lợn của làng Đông Hồ. Từ đó ông kết luận, là người thủ giữ Bát quái chuẩn, lại có hiện vật là quẻ trên chiếc nồi đất thời Phùng Nguyên cách nay 3500 năm nên cho rằng Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam.Lôi Thuỷ GiảiNguyễn Thiếu Dũng phát hiện ra “Chiếc gậy thần – dạng nguyên thuỷ của hào âm hào dương” trên trống đồng Lạc Việt, quẻ Các nhà nghiên cứu lão thành đã bằng sự cảm nhận sâu sắc văn hoá phương Đông, thấy những chỗ bất cập của bản kinh Dịch truyền thống, nhận ra hồn vía văn hoá Việt trong tên gọi các quẻ, trong cách giải nghĩa Dịch mà cho rằng Dịch đã do tổ tiên người Việt sáng tạo. Giáo sư Kim Định nhờ phát hiện triết lý An vi trong Dịch, đồng thời căn cứ ở tư liệu lịch sử cho rằng trước khi người Hán vào Trung Nguyên thì người Việt đã tràn khắp 18 tỉnh của Trung Hoa; Phục Hy, Thần Nông là vị vua người Việt vì vậy, cố nhiên, Dịch phải là sản phẩm của người Việt. Nhìn chung, các vị đưa ra nhiều lý lẽ nghe có vẻ xuôi tai nhưng về chứng cứ chưa đủ mạnh nên chưa thuyết phục được ngay cả giới học giả trong nước. Những tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, mỗi người theo khả năng của mình đưa ra nhiều bằng chứng mới để chứng minh cho ý tưởng Kinh Dịch là của người Việt. Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhận ra sự không hoàn chỉnh của Hậu thiên Bát quái Văn Vương và phát hiện ra Bát quái Lạc Việt nên cho rằng người Lạc Việt đã sáng tạo ra Hậu thiên Bát quái chuẩn chính là người làm ra Kinh Dịch. Hậu thiên Bát quái Âu Lạc (theo Trần Quang Bình) Nhận định 2. Ý tưởng của các học giả lão thành dù còn mơ hồ nhưng cũng là những gợi ý quý báu để hậu thế đi sâu tìm về cội nguồn của Kinh Dịch. Chung tôi cho rằng đó là những gợi ý sáng suốt có tính mở đường nên cần được tiếp thu một cách trân trọng. Với những tác giả lớp sau, chúng tôi nhận thấy: a. Chỉ dựa trên sự phát hiện cái gọi là “Bát quái chuẩn” trên trống đồng, trên tranh dân gian mà cho rằng người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch là chưa đủ thuyết phục. Không thể loại trừ ít nhất khả năng, đó là sự sáng tạo độc lập của những nhóm người cư trú tại những lãnh thổ khác nhau, mà mức độ tinh xảo có khác nhau. Cho rằng người Trung Hoa ngẫu nhiên (bằng vật cống hay chiếm đoạt) có được Hà đồ rồi làm Dịch lại càng không có cơ sở, bởi lẽ nhiều tác giả chứng minh rằng không phải từ Hà đồ làm ra Dịch; mặt khác, nếu vậy, trên đất Trung Hoa không thể có một phong trào làm Dịch rộng lớn, bền bỉ trải dài nhiều thời kỳ, tạo nên di sản khổng lồ: tới đời Thanh, Tứ khố toàn thư tập hợp được 158 bộ gồm 1761 quyển, phụ lục 8 bộ, 12 quyển, b. Cho rằng, vào đời Hạ, đời Thương Trung Quốc chưa có Dịch là không đúng. Sách bói Liên Sơn, Quy Tàng đã truyền từ thời Phục Hy qua Thần Nông, Hoàng Đế. Di vật xóm Rền 3500 năm trước tương đương với đời Thương. Như vậy dấu tích cổ nhất về quẻ Dịch ở Việt Nam cũng muộn hơn những sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng thư bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam phần thư” mà Mao Tiệm phụng sứ đi kinh Tây, khi tới Đường Châu tìm được trong dân gian ba bộ sách gọi là Tam phần thư, gồm có Sơn phần, Khí phần, Hình phần. Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy; Khí phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông; Hình phần là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời Tam Hoàng. Chúng có những cái tên Liên Sơn, Qui Tàng, Kiền Khôn và có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng; Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. [8] Điều này càng minh chứng cho việc Dịch có mặt ở Trung Nguyên ít nhất từ 4480 năm TCN. III. Sự hình thành kinh Dịch theo cách nhìn mới Có thể công cụ bói toán mà sau này có tên là Dịch được ra đời như sau: 1. Dựa vào phát hiện những dấu vết Dịch trên gốm Phùng Nguyên, trên trống đồng Đông Sơn, việc tìm thấy bản Dịch tại Mã vương đôi miền Hồ Nam cùng những bản sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế bên sông Hoàng Hà, ta có thể nhận định rằng: Bát quái, trùng quái được người Lạc Việt sáng tạo trên địa bàn rộng lớn từ bên sông Hồng sông Mã, tới Dương Tử, Hoàng Hà. Không phải ngẫu nhiên mà trên quốc kỳ của Đại Hàn dân quốc có đồ hình Thái cực và Bát quái. Họ chính là hậu duệ của dòng U Việt mà tổ tiên từ 3-4 nghìn năm TCN đã góp phần sáng tạo ra Dịch. Khám phá thiên nhiên huyền bí là khát vọng lớn lao của con người. Khát vọng lớn lao không kém nữa là dự đoán những may rủi, hoạ phúc đến với cộng đồng cũng như tới số mệnh của từng con người. Một công cụ để bói toán là điều bức xúc. Do quan sát thiên nhiên, dần dà con người biết được sự vận hành của mặt trăng, mặt trời, các vì sao cùng mối liên quan của chúng với Trái đất. Người ta cũng phát hiện ra hai yếu tố Âm, Dương cùng với Ngũ hành sinh khắc chi phối toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ. Tới một lúc nào đó, những trí tuệ sáng láng nhất trong cộng đồng hình dung ra vũ trụ là Thái cực như một vòng tròn chứa nghi Âm và nghi Dương. Lưỡng nghi cọ xát thành Tứ tượng, Tứ tượng cọ xát thành Bát quái… Do quen với chữ Nòng Nọc nên lúc đầu người Việt dùng Nòng 0-0 để ký hiệu nghi Âm và Nọc 0 ký hiệu nghi Dương. Tới lúc nào đó, hai ký hiệu toán nhị phân trên được cải tiến thành vạch đứt - - tượng trưng cho Âm, vạch liền – tượng trưng cho Dương. Chồng những tượng Âm, Dương lên nhau thành Tứ tượng rồi Bát quái, trùng quái là việc không mấy khó. Cái khó hơn, khiến đau đầu người xưa là làm cách nào bố trí hợp lý 8 quái trên hoành đồ rồi viên đồ. Càng khó hơn khi bố trí một thứ tự thỏa đáng cho 64 quẻ trong mối tương quan đa chiều giữa quẻ này và quẻ khác trên phương đồ, viên đồ… Bằng sự kiên trì của loài kiến, dần dần người xưa cũng tìm ra Bát quái khả dĩ phục vụ cho mục đích của mình: Tiên thiên Bát quái. Có thể Phục Hy là người sáng chế ra Bát quái Tiên thiên này mà cũng có thể Ngài đã tổng kết hàng nghìn Bát quái trong dân gian để thành Tiên thiên Bát quái. Rồi dùng Tiên thiên Bát quái như một la bàn, Phục Hy đã sắp xếp vị trí 64 quẻ theo trật tự hợp lý nhất, đó là Trùng quái Phục Hy. Trùng quái Phục Hy trở thành cuốn sách bói truyền đến Thần Nông dưới tên Liên Sơn, tới Hoàng Đế có những bổ sung cải tiến và được gọi là Quy Tàng. Hai công cụ bói toán này truyền qua thời Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương… Trong dân gian người ta cũng dần dần phát hiện ra những bất cập, những sai lệch của Liên Sơn, Quy Tàng. Vì vậy tự nhiên, không ít đề nghị cải tiến sách bói được đưa ra. Theo truyền thuyết, Văn Vương là thánh nhân đáp ứng được việc này. Có thể do chính Ngài phát minh ra, cũng có thể Ngài tổng hợp những phương án xuất hiện trong dân gian, thành Bát quái mới mà sau này được gọi là Hậu thiên Bát quái hay Bát quái Văn Vương. So với Bát quái của Phục Hy, Bát quát Văn Vương là thành tựu nổi bật vì là 1 trong 24 đồ hình đạt được 6 đối xứng (theo Trần Quang Bình). Dựa vào Hậu thiên Bát quái, Văn Vương bố trí lại 64 quẻ rồi trước tác quái từ, hào từ, đưa sách bói thành công cụ bói ưu việt và Dịch ra đời. Năm trăm năm sau Văn Vương, Khổng Tử san định Dịch, viết Thập dực, làm cho Dịch có diện mạo như hiện nay và được xếp vào Ngũ kinh. Có thể có tình huống thế này: cũng như những chiếc búa đá mài được người Hoà Bình đưa lên Trung Nguyên, sau đó là giống lúa, giống gà, giống chó… Bát quái, rồi trùng quái cũng được người Lạc Việt sáng tạo rồi theo chân người Việt di cư mang tới bên sông Dương Tử, Hoàng Hà. Việc sáng chế là một quá trình hàng ngàn năm, bắt đầu là Bát quái Tiên thiên rồi Bát quái Hậu thiên. Đến khi người Phùng Nguyên khám phá ra Bát quái chuẩn, là Bát quái Lạc Việt thì xảy ra sự cố người Mông Cổ xâm chiếm đất đai Việt. Cuộc di cư lên phía bắc từ hàng vạn năm bị chặn đứng. Do không có người đi lên mà chỉ có người chạy loạn trở về nên nhiều yếu tố mới của văn hoá phương Nam, trong đó có Bát quái Lạc Việt không được đưa lên phương Bắc. Tíếp đó là những tao loạn thời Chiến Quốc càng làm khó con đường đi lên của người Việt. Tiếp theo là Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Vương rồi nhà Tần xâm lăng. Không còn cách nào khác, người Âu Lạc đành khắc Bát quái Lạc Việt lên trống đồng để cất giữ. Do người xưa ký thác một cách quá bí hiểm nên kẻ xâm lăng phương Bắc thủ đắc trống hơn 1000 năm cũng như con cháu sau này tuy có tìm thấy trống cũng không thể giải mã nổi. Đến ngày nay, nhờ cố công của nhiều thế hệ người Việt và nhờ vào phương tiện khoa học hiện đại, những tác giả như Đoàn Nam Sinh, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình tìm lại được đồ hình Bát quái chuẩn trên trống đồng, tranh Đàn Lợn của Làng Hồ, tranh Ngũ Hổ đình Hàng Trống… Cố nhiên những khám phá này cần được kiểm chứng công nhận sự chính xác. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng vô cùng biết ơn người Trung Hoa anh em có công cực kỳ lớn lao trong việc tiếp thu sách bói Liên Sơn, Quy Tàng từ tổ tiên Lạc Việt rồi bỏ công sức, trí tuệ xây dựng nên Kinh Dịch với diện mạo hiện nay, một đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. 2. Khi đi tìm công cụ bói toán, người xưa buộc phải khám phá bản chất cùng sự vận hành của Vũ trụ. Không phải duy nhất một con đường đến La Mã thì cũng không phải chỉ một con đường duy nhất phát hiện bản chất vũ trụ là việc bói cỏ thi. Có thế là cùng với những quẻ Dịch, đã phát hiện ra hai công cụ bói toán khác là Hà đồ và Lạc thư dùng để bói rùa. Dựa vào việc bố trí những chấm Âm, Dương trên Đồ, Thư được vẽ trên mai rùa, khi nướng vỏ rùa, người ta căn cứ trên những vết nứt để định quẻ rồi giải đoán bằng Dịch. Như vậy là, dù được sáng tạo ra một cách độc lập nhưng Hà đồ, Lạc thư cùng phục vụ cho việc bói toán. Cùng là những công cụ mã hoá bản chất và sự vận hành của Vũ trụ nên Đồ, Thư và Bát quái có những tương đồng do quy chiếu vào bản chất vũ trũ. Tới thời gian nào đó, Đồ và Thư được gộp chung vào Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch. Khi san định Chu Dịch, Khổng Tử thấy trước mắt mình tất cả Quái, Đồ, Thư nên Ngài mặc nhiên tin rằng cả ba là thành phần bất khả phân ly của sách Dịch. Vì vậy Ngài cho rằng, thánh nhân (những vị tài giỏi sống rất lâu trước mình) nhận được Đồ, Thư từ sông Hà sông Lạc rồi theo đó vạch quẻ: “Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tắc chi.” Chính lời nói này khiến cho hậu thế nhầm theo là từ Hà đồ, Lạc thư mà làm ra Bát quái. Điều này không đúng với logic của tư duy: Quái đơn giản hơn Đồ, Thư nhiều nên theo tư duy logic thông thường, quái phải được làm ra trước Đồ, Thư. Hoặc giả cả ba cùng được tìm ra một cách riêng rẽ. Dầu sao thì cũng không thể từ Đồ, Thư mà làm ra Bát quái. Và quả như những chứng minh ở trên cho thấy, Đồ, Thư không liên quan tới Bát quái. Khổng Tử đã lầm nhưng cháu ông là Khổng An Quốc lại lầm hơn khi đưa ra những yếu tố dị đoan là con Long mã trên sông Hà, con Thần quy trên sông Lạc. Sự thêm thắt vô sở cứ này dẫn hậu nhân đến hoang đường lầm lạc và gọi ông là tội đồ của Dịch. IV. Kết luận 1.Từ chứng minh ở trên, ta có thể tin được rằng, kinh Dịch nguyên là công cụ bói toán do người Lạc Việt sống từ sông Hồng, sông Mã tới Dương Tử, Hoàng Hà sáng tạo. Khoảng năm 4480 TCN, Phục Hy đã từ những đồ hình Bát quái lưu hành trong dân gian, sáng tạo ra Tiên thiên Bát quái. Dựa vào cái la bàn này, Ngài đã sắp xếp một cách tương đối thoả đáng các quẻ trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, trở thành sách bói toán hữu dụng. Văn Vương dựa vào những bát quái do dân gian phát hiện, đã sáng tạo nên Hậu thiên Bát quái rồi từ đây điều chỉnh vị trí các quẻ và sáng tác Quái từ Hào từ, đưa cuốn sách bói toán trở thành Chu Dịch. Bằng công trình san định của mình, Khổng Tử đã đưa Chu Dịch trở thành bộ kinh điển đứng hàng đầu trong kho tàng tri thức nhân loại. Vì vậy nên chăng, người Việt Nam nên dựa vào Bát quái Lạc Việt làm ra cuốn Dịch Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho nhân dân, đất nước mình. “Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiễn Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển: Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.” Dịch là cuốn sách triết lý về vũ trụ và nhân sinh nên sự chính xác của những luận đoán của nó phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí, tức tọa độ của người dùng Dịch, do sự chi phối của lực hút Trái đất cùng tác động của các thiên thể. Giữa Việt Nam và Trung Quốc có khoảng cách về địa lý, múi giờ khác nhau. Dịch do người Trung Hoa làm ra như hiện nay chưa thật chính xác đối với người Trung Hoa thì độ chính xác sẽ kém đi đối với người ở vĩ độ khác. Xin dẫn ra đây một thí dụ từ bài viết của Nguyễn Thiếu Dũng: xếp lại đồ hình của 64 quẻ cho thật chính xác, từ đó chỉnh lại những chỗ chưa phù hợp của Quái từ, Hào từ, Hệ từ… 2.Tuy nhiên tới nay cũng chưa thể nói kinh Dịch là tác phẩm hoàn chỉnh, không còn điều gì để bàn bạc sửa chữa. Đọc bộ Dịch do Chu Hy truyền lại, không thiếu những chỗ người đọc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng là chỉ dấu cho thấy điều này. Dịch vốn là công cụ bói toán, vậy mà gần hai ngàn năm nay, những nhân tài xuất chúng về bói toán chỉ đếm không hết trên đầu ngón tay, cho thấy bản thân công cụ bói toán có vấn đề. Vấn đề ở đây là do người Trung Hoa chỉ có thể đạt tới Bát quái Văn Vương với 6 đối xứng. Từ Bát quái bất toàn này đã dẫn đến những thiếu sót nghiêng lệch trong viếc sắp xếp các quẻ, khiến việc viết Quái từ, Hào từ, Thập dực thiếu chính xác. Chúng tôi cho rằng, Tiên thiên, Hậu thiên đồ chỉ phản ánh từng bước con người khám phá sự vận hành của vũ trụ. Do nhận ra đồ hình Bát quái của Phục Hy còn thiếu sót bất cập, trước thời Văn Vương, người xưa đã tìm ra một đồ hình khác. Khi đặt tên cho đồ hình mới này là “Hậu thiên”, thì đồng thời gọi đồ hình của Phục Hy là “Tiên thiên” để phân biệt. Về nguyên tắc, Tiên thiên Bát quái là vô nghĩa, vì lúc đó Vũ trụ chưa sinh, thì làm gì đã có những Càn, Khôn cùng sự vận hành? Một vũ trụ chưa có (tiên thiên) làm sao có thể tác động tới con người ở thời Hậu thiên? Nhưng trên thực tế, Tiên thiên đồ đã là công cụ bói toán hữu hiệu. Điều này chứng tỏ cái tên “tiên thiên” đặt cho đồ hình Phục Hy là không chuẩn. Ngày nay, khi nhận ra sự thiếu sót bất cập của Bát quái Văn Vương, con người cần phải tìm ra bát quái tiến bộ hơn. Tác giả Trần Quang Bình đã tìm ra Bát quái chuẩn (Bát quái Âu Lạc). Từ đây, công việc phải làm là xây dựng bộ Dịch mới theo chỉ đạo của Bát quái chuẩn: 3.Thoạt kỳ thủy, Dịch là sách bói. Có thời kỳ việc bói toán bành trướng làm Dịch bị suy đồi. Nay ta đang ở thái cực khác, coi bói toán là mê tín dị đoan nên trên phương diện chính thống, bị bài bác vùi dập. Đấy lại là một cực đoan. Cực đoan là tiêu cực. Nên chăng chúng ta ủng hộ cả hai cánh của Dịch học - triết lý và dự báo - để Dịch vừa phục vụ con người triết lý vừa phục vụ con người tâm linh? Dự báo tương lai với những cát hung hoạ phúc là khát vọng lớn của con người từ tuổi ấu thơ. Khát vọng đó ngày nay và có lẽ mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì vậy việc cần làm là biến Dịch thành môn khoa học dự báo tương lai đạt tới độ tin cậy cao chứ không phải như lạc đà vùi đầu trong cát để phủ nhận bói toán. Cần đưa Dịch thành môn học trong trường phổ thông để công dân tương lai không bị mù dịch, ngu ngơ trước quy luật vận hành của vũ trụ, đứng ngoài thành tựu văn hoá của tổ tiên. Tài liệu tham khảo: [1]Phùng Ỷ. Hậu Trai Dịch học. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán Thương Hải. Dịch tập chú, Kinh thượng thiên, quyển 1, trang 1 (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang 109). [2]Nguyễn Hữu Lương. Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông; Nha tuyên uý Phật giáo. Sài Gòn 1971, trang 421 [3]Chu Hy, Châu Dịch bản nghĩa, Hệ từ Hạ, chương II [4]Nguyễn Hữu Lương, trang 536 [5]Nguyễn Vũ Tuấn Anh: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", www.tuvilyso.com [6]Nguyễn Thiếu Dũng: "Kinh Dịch-di sản sáng tạo của Việt Nam?" (http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/4/4/80330.tno) và "Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương (http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/10/26/126878.tno) [7]Trần Quang Bình: Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của văn hiến Âu Lạc (vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/1.htm) [8]Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang
    1 like
  4. Cầu thang cũ và các phòng theo thiết kế cũ bị thoát khí nặngtheo tiêu chí của PTLV và vì thế tất nhiên cần phải xử lý triệt để. Tôi đưa lên phân cung Bát trạch cho sơ đồ thiết kế cũ và mới để mọi người có thể so sánh; Thiết kế cũ: Thiết kế mới và sửa lại Cầu thang cũ Cầu thang mới: (còn tiếp)
    1 like
  5. Tôi phi cung Cấn, nên hướng Tây là hướng Phúc Đức. Tôi chọn thiết kế lại hình thể ngôi nhà là cụ Rùa (thiết kế cũ là cái Ấn), có đầu là sảnh đá màu trắng, bậc tam cấp cong đá trắng. Giữa sảnh và cũng là đầu Rùa, tôi đồ hình Âm Dương Việt và trên mái sảnh sẽ là Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt. Sảnh trước khi sửa Đuôi rùa là sảnh sân phía sau nhà, chân rùa thiết kế làm nơi trồng cây cảnh Tại cung Khôn – Đông Nam, tôi đặt bếp và lựa chọn các màu nóng kết hợp với màu trắng (cái màu Trắng này là do thiết kế mỹ thuật chứ màuTrắng ko có trong từ điển dùng màu của tôi) Tại cung này tôi dùng chiêu trấn yểm“Kim qui quá hải”. Phía góc nhà Đông Nam, tôi đặt bể hóa vàng hình tròn, màu vàng (Âm hỏa sinh Thổ). Trong thiết kế cũ, có cột to nằm giữa nhà. Tôi phá bỏ toàn bộ tầng 1 cũ, đưa nhà WC vào cung Ly, xây tường ngăn để hóa giải cây cột trụ này. Tại đây, tôi đặt chiêu “Thiên quang tỉnh”. Cung Khảm, tôi đặt tranh kính 3D có suối chảy thẳng lên cầu thang. Tôi đã từng mơ ước căn nhà mình có tranh kính này, bây giờ mới thoải lòng. (còn tiếp)
    1 like
  6. . Khi người ta không đủ khả năng thẩm định về mặt lý thuyết thì người ta sẽ xem kết quả thực tế ứng dụng. * Hải nên có tường xéo 45 độ sau bếp và chặn khí từ ngoài đường cho nó hướng vào cửa. * Nên làm cái nhà Thủy Tọa phía trước, dưới sông để có chỗ thày trò câu cá và ăn nhậu mỗi khi ra Hanoi(Nhà hình tròn). * Triền khai thành hình con rùa bò.
    1 like