-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/01/2018 in all areas
-
BÁT SÁT TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN Thưa quý vị và anh chị em Địa Lý Lạc Việt thân mến. Đáng nhẽ bài này tôi giảng riêng cho anh chị em DLLV. Nhưng xét thấy một lần nữa, nó chứng minh cho luận điểm của tôi xác định rằng: 1/ Địa Lý Phong thủy là một ngành khoa học ứng dụng trong kiến trúc xây dựng, thuộc về nền văn minh Lạc Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử. Những di sản của Lý học Đông phương ghi nhận trong cổ thư chữ Hán, chỉ là những mảnh vụn còn sót lại của nền văn minh Việt, bị Hán hóa một cách rời rạc, đầy mâu thuẫn, sai lạc và không hoàn chỉnh. 2/ Tính khoa học hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành với nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" nhân danh nền văn hiến Việt, thể hiện tính hợp lý hoàn chỉnh và phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Bài viết về Hoàng Tuyền Bát Sát, mà chúng tôi trình bày trên với quý vị và anh chị em - có xuất xứ từ cổ thư chữ Hán - là một ví dụ. Nội dung của nó mà quý vị và anh chị em đã đọc, hoàn toàn mang tính mặc định và không hề có - ít nhất là một cơ sở lý thuyết nào liên hệ với nó. Để chứng minh điều này, tôi mô tả lại qua mô hình được trình bày dưới đây: Để tiện theo dõi, tôi trích lại toàn văn như sau: Trên cơ sở này, chúng tôi sắp xếp theo 4 quái Tứ chính là:Khảm, Chấn, Ly, Đoài và 4 quái Tứ duy là Càn, Khôn, Cấn, Tốn - theo mô hình của "Hậu Thiên Văn Vương" từ cổ thư chữ Hán - như sau: A/ Bốn hướng Tứ chính, là: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Thìn (Khảm Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư)......................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Tỵ (Đoài Xà đẩu) B/ Bốn hướng Tứ duy, là: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..........................................................56/ Hướng Khôn Bát sát ở Mão (Khôn Thỏ 'mão') 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dần (Cấn Hổ)...........................................................57/ Hướng Tốn Bát sát ở Dậu (Tốn Kê). Như vậy, qua các mô hình mô tả cụ thể ở trên, quý vị và anh chị em cũng nhận thấy rất rõ các vấn đề sau đây: 1/ Tính phi quy luật trong bản văn chữ Hán về vị trí Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. 2/ Tính mặc định áp đặt của các phương pháp ứng dụng trong cổ thư chữ Hán về vị trí Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. Chúng không hề có một mối liên hệ nào, có tính hệ thống với các hệ luận liên quan trong hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhân danh nền văn hiến Việt và những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến Lý học Đông phương, trong đó có ngành Địa Lý phong thủy và cụ thể là nguyên lý ứng dụng về Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. Riêng về hiện tượng Bát sát, tôi trân trọng giới thiệu với quý vị và ACE công lao đầu tiên thuộc về Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - là một trong những học trò theo tôi đã lâu. Trong thời gian phụ việc và theo học Địa Lý phong thủy Lạc Việt, chính Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn đã đặt giả thuyết ban đầu một cách xuất sắc, về: "Hướng "sát" của Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy liên quan đến vòng Trường sinh". Nhưng do phương pháp diễn đạt ban đầu của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn chưa rõ ràng, nên tôi đã yêu cầu mô tả lại. Sự việc xảy ra cách đây cũng đã nhiều năm. Rồi Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn xuống núi hành nghề và những việc mưu sinh với những lo toan của cuộc sống, khiến công việc nghiên cứu về Bát Sát Hoàng Tuyền dừng lại ở đấy. Tuy nhiên, do hiện nay tôi tiếp tục giảng dạy trong lớp Địa Lý Lạc Việt ứng dụng. Nên một trong những yếu tố tương tác quan trọng, sắp sửa được giảng dạy liên quan đến yếu tố Loan Đầu (Sách Hán gọi là "trường phái"), nên tôi phải phục hồi lại các mô hình liên quan để mô tả yếu tố sát (yếu tố xấu) trong nguyên lý tính Bát sát trong phong thủy. Trước khi bắt đầu vào các bài viết tiếp theo, liên quan đến Bát sát, tôi trân trọng ghi nhận giả thuyết ban đầu xuất sắc của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn, trong việc phục hồi lại bản chất của yếu tố Bát sát trong Địa Lý Lạc Việt. Còn tiếp. Chú thích: 1/ Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn hiện là thành viên nghiên cứu trong Hội Đồng khoa học của Trung Tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương.1 like
-
Thưa quý vị và anh chị em thân mến. Phần dưới đây là nguyên văn tư liệu có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán và phương pháp hóa giải, để quý vị và anh chị em tham khảo. III. HOÀNG TUYỀN Lập hướng, kỵ thủy lộ, phạm Hoàng Tuyền THƠ CỔ: 1/ Canh Đinh Khôn, thường thị Hoàng Tuyền 2/ Ất Bính tu phòng, Tốn thủy tiêu 3/ Giáp, Quý hướng trung ưu kiến Cấn 4/ Tân Nhâm thủy lộ phụ dương Kiền Theo nghĩa đen của mỗi chữ trong mỗi câu: 1/ Phương Nam là Đinh, thì trên phương Khôn là Hoàng Tuyền. 2/ Phương Ất là Bính, thì nên phòng nước phương Tốn trước hết. 3/ Trong hướng Giáp và hướng Quý thì lo thấp ở phương Cấn 4/ Phương Tân và Nhâm , thì sợ đường nước ở ngay phương Càn 1. NGHĨA LÀ: Giáp, Canh, Nhâm, Bính là tứ Dương can (4 thiên can thuộc Dương), Ất, Tân, Đinh, Quý là tứ can Âm (4 thiên can thuộc Âm), ở về 4 phương chính, mỗi phương có 2 can: một âm, một dương. Càn, Khôn, Cấn, Tốn gọi là tứ Duy, cũng là hàng thiên can ở bốn phương ngung (bốn hướng góc), cộng là tám phương (bát quái) + Giáp, Canh, Nhâm, Bính là 4 dương can hợp với 4 địa chi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, 4 phương chính, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Vượng, vừa là bốn phương Tử của 4 đại cục. + Ất, Tân, Đinh, Quý là 4 âm can hợp với 4 địa chi: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, 4 phương bàng, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Dưỡng, vừa là bốn phương Mộ của 4 đại cục. + Càn, Khôn, Cấn, Tốn là 4 Thiên can hợp với 4 địa chi: Dần, Thân, Tị, Hợi ở 4 phương ngung (tứ duy), theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Sinh, vừa là bốn phương Tuyệt của 4 đại cục khác nhau. Ví dụ: Câu: Canh, Đinh, Khôn, thường thị Hoàng Tuyền Như là lập hướng Canh, là hướng Vượng của Kim cục thì Khôn là Lâm Quan, thì thủy ở Khôn phải chảy lại trước huyệt. Nếu chảy đi là thủy phá Lâm Quan, thì bị Hoàng Tuyền. Như lập hướng Đinh, là Dưỡng hướng thủy cục, thì Khôn là Trường sinh, Thủy ở phương Khôn cũng phải chảy lại trước huyệt, nếu chảy đi là thủy phá Trường sinh phương, thì bị Hoàng Tuyền. Nhưng trái lại cũng lập hướng Đinh, nhưng ở Mộc cục, thì Đinh lại đổi là Mộ, Khôn đổi lại Tuyệt, thủy lưu nhập thì bị Hoàng Tuyền. Nếu không biết phép tiêu nạp thủy ở trong 4 phương: Càn, Khôn, Cấn, Tốn này thì phạm Hoàng Tuyền. Vì vậy bảo là Tứ lộ Hoàng Tuyền, Hoàng Tuyền là suối vàng, là nơi vô khí ( tử khí): Nói một cách khác: Dương thế có đường đi của người dương thế. Dưới âm cũng có đường đi của người âm: (Hoàng là Vang, Tuyền là suối) Hoàng Tuyền xuất hiện ở Thiên Can và tứ Duy, không xuất hiện ở Địa chi. Nói tóm lại: - Mặt tiền nhà là Cấn thì Giáp, Quý là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Giáp, Quý thì Cấn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Tốn thì Ất, Bính là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Ất, Bính thì Tốn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Khôn thì Đinh, Canh là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Càn thì Tân, Nhâm là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Tân, Nhâm thì Càn là Hoàng Tuyền 2. TÁC HẠI CỦA HOÀNG TUYỀN - Nhà phạm Hoàng Tuyền gây cho người mắc các bệnh ác tính như: ung thư, u cục ác tính, rối loại các tuyến nội tiết, rối loạn chức năng các tạng phủ, gây cho người có bệnh cảm giác như giả vờ, lúc có thuốc bệnh cũng không đỡ, không có thuốc bệnh lại khỏi. - Gây cho người thích kiện tụng, thích đấu đá, tù đầy, chết chóc, nóng nảy, điên rồ, hoặc bị những họa không tự mình gây ra (họa vô đơn chí, không biết nguyên nhân) Hoặc mắc bệnh, Đông Tây y không phát hiện ra. 3. NGUYÊN LÝ LẬP BÁT QUÁI TRẤN HOÀNG TUYỀN. HOÀNG TUYỀN LÀ ĐƯỜNG ĐI CỦA NGƯỜI ÂM: Là điểm giữa mặt tiền nha, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ và cổng đối diện phải, là đường đi của ma quỷ, Phong thủy dùng bát quái SINH KHÍ TRẤN. - Nếu điểm giữa mặt tiền nhà là Càn: thì Tân, Nhâm rơi vào cổng, cửa chính, phụ, cửa sổ là Hoàng Tuyền thì: 1/ Với Tân: Lấy mã số địa của Đoài đặt trung cung Lạc Thư, phi theo hệ Đoài làm ruột ma phương. 2/ Các sao của 8 cung hệ Đoài phi ra kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành sinh khí ra tổng ma phương sinh khí là ma phương phát sinh khí trấn Hoàng tuyền Ngũ quỷ 3/ Ma phương làm xong nạp thần (thông tin) và treo ma phương có số thay số 5 vào trung cung lên trên. Ma phương treo tại vị trí phạm Hoàng Tuyền, đầu ma phương phải có dịch tự quẻ để tăng sức mạnh trấn. Ta lần lượt đi hết 12 vị trí có thể xảy ra Hoàng Tuyền: CUNG CÀN : Mặt tiền nhà là Càn: 1/ Vị trí Tân là Hoàng Tuyền, Tân thuộc Đoài, lấy mã số địa của Đoài là 7 đặt và trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đạo của Đoài: Vị trí Tân bị Ngũ Quỷ, ma phương này treo ở vị trí bị Ngũ Quỷ - Hoàng Tuyền Ma phương phát sinh khí trấn Ngũ Quỷ. 2/ Vị trí Nhâm là Hoàng Tuyền, Nhâm thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt trung cung Lạc Thư phi theo quỹ đạo của Khảm làm ruột ma phương phát Sinh Khí Ma phương treo tại Nhâm. Ma phương phát sinh khí trấn Hoàng Tuyền. 3/ Nếu Tân – Nhâm là mặt tiền, vị trí Càn là Hoàng Tuyền, mã số địa của Càn là (6) Đặt 6 vào trung cung phi theo quỹ đạo Càn Ma phương này treo ở Càn Ma phương phát Sinh Khí CUNG CẤN: Mặt tiền nhà là cấn 1/ Vị trí Quý là Hoàng Tuyền. Quý thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Khảm (1) Ma phương treo ở Quý Ma phương phát Sinh Khí 2/ Mặt tiền nhà là Cấn: Vị trí Giáp là Hoàng Tuyền. Giáp thuộc Chấn, lấy mã số Địa của Chấn là 3, đặt vào trung cung Lạc Thư, phi theo quỹ đạo Chấn: Ma phương này treo ở Giáp 3/ Quí – Giáp là mặt tiền nhà thì Cấn là Hoàng Tuyền. Mã số địa của Cấn là 8, đặt 8 vào trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đọa của Cấn, các số của 8 cung phi ra làm ruột ma phương Sinh Khí, kết hợp với cá số vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành ma phương Sinh Khí. Ma phương phát Sinh Khí này treo ở Cấn CUNG TỐN: Mặt tiền nhà là Tốn: Vị trí Ất – Bính là Hoàng Tuyền. 1/ Ất thuộc Chấn; Chấn gồm Giáp - Ất, ma phương hoàn toàn giống ở Giáp, nhưng mặt tiền nhà Tốn thì treo ma phương ở Ất. 2/ Vị trí Bính thuộc Ly, mã số địa của Ly là (9), đặt vào trung cung phi theo quỹ đạo hệ Ly: Ma phương Sinh Khí này treo ở Bính 3/ Ất – Bính là mặt tiền nhà thì Tốn là Hoàng Tuyền Mã số địa của Tốn là 4, đặt 4 vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Tốn Ma phương này treo ở Tốn Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Tốn CUNG KHÔN: Mặt tiền nhà là Khôn: Vị trí Đinh – Canh là Hoàng Tuyền. 1/ Đinh thuộc Ly, Bính thuộc Ly. Ma phương của Đinh giống hoàn toàn như ma phương của Bính. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn, thì ma phương này phải treo ở Đinh nơi bị Hoàng Tuyền 2/ Canh thuộc Đoài, Tân cũng thuộc Đoài. Ma phương của Canh giống hoàn toàn ma phương của Tân. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn , thì ma phương này phải treo ở Canh nơi bị Hoàng Tuyền. 3/ Đinh – Canh là mặt tiền thì Khôn là Hoàng Tuyền. Mã số địa của Khôn là 2, đặt 2 vào trung cung phi theo quỹ đạo của Khôn Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Khôn (HẾT)1 like
-
THANH LONG – BẠCH HỔ TỨ TƯỢNG (Tứ THÚ) HUYỀN VŨ-CHU TƯỚC ; TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY Bộ môn Địa Lý Phong Thủy có gốc rễ từ học thuyết ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH, và tất nhiên mọi yếu tố trong Địa lý đều tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc của học thuyết này. Tứ Tượng hay tứ thánh thú là một khái niệm hình tượng trong Lý học Đông Phương. Huyền Vũ của phương Bắc, Thanh Long của phương Đông, Bạch Hổ của phương Tây và Chu Tước của phương Nam. Tuy nhiên, cách định nghĩa về tứ tượng hiện nay đều không mang tính hệ thống và từ đó chúng ta không thể có được một sự thống nhất trong ứng dụng của các yếu tố cơ bản này. Nhân sự việc tôi có xem một video trên youtube của một vị chuyên gia phong thủy bên Mỹ, ông ta cho rằng yếu tố Thanh Long – Bạch Hổ trong Âm trạch (mồ mả) khác với Dương Trạch (nhà ở) tức là Âm trạch thì Tả Thanh Long tức bên trái quan tài xác định theo đầu người đã khuất, Nhưng dương trạch là nhà ở thì phải đứng từ ngoài nhìn vào nhà, thì bên tay trái là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ. Từ đây cho chúng ta thấy một điều, các lập luận kiểu như thế này thể hiện một sự sai lầm khi không hiểu bản chất cốt lõi trong mô hình biểu kiến này. 1. Định nghĩa và cách hiểu hiện nay Định nghĩa hiện nay đa phần được hiểu các yếu tố này như sau: “Hình thế núi cao ba bề gợi cho ta nhớ tới một chiếc “ghế bành”, biểu tượng của cuộc sống tiện nghi. Thế đất Tứ Tượng bao gồm: - Huyền Vũ (rùa đen) là trái núi phía sau ngôi nhà, lý tưởng nhất là nằm ở phương Bắc. - Thanh Long (rồng xanh) là ngọn đồi phía tay trái ngôi nhà, tốt nhất là nằm ở phương Đông. - Bạch Hổ (hổ trắng) là ngọn đồi phía tay phải ngôi nhà, nó phải thấp hơn đồi Thanh Long bên trái và núi Huyền Vũ sau nhà. - Chu Tước (chim sẻ đỏ) là gò đồi nhỏ trước mặt nhà, lý tưởng nhất là ở phương Nam.” Việc qui định các yếu tố tứ tượng hay tứ thú này trong Địa Lý Phong Thủy theo định nghĩa như trên là sự áp đặt dẫn tới việc thiếu tính chặt chẽ và hiểu sai lệch. Ví dụ như nếu nhà hướng Tây thì tức là không xác định được các yếu tố còn lại bởi định danh hướng - Chu tước do Chu tước định danh là hướng Nam và tọa sơn là Huyền Vũ. Với cách hiểu thế này thì chỉ có ngôi nhà có hướng Nam thì mới hợp các yếu tố Địa Lý ? điều này hoàn toàn vô lý. 2.Đi tìm định danh Tứ Thú hay Tứ Tượng - Biểu tượng tứ thú trong Địa Lý dùng để mô tả tính âm dương : Trước-Sau, Phải-Trái , xuất phát từ mô hình chuẩn được nền văn minh Cổ Xưa xây dựng nên. Trong Địa Lý Lạc Việt, nguyên tắc Âm Dương là : Dương trước – Âm Sau, Dương thấp- Âm Cao, Dương tả-Âm hữu, Nam tả-Nữ hữu, Nam nghịch-Nữ Thuận. a. Huyền Vũ bản chất không liên quan tới tên của loài Rùa nhưng vì sao lại lấy hình tượng loài Rùa cho yếu tố Huyền Vũ ? và trong ĐLPT thì Huyền Vũ lại được coi là Sơn ? “Con rùa chính là biểu tượng của nền văn hiến Việt ở thời sơ khai: "Vào thời vua Nghiêu, có sứ giả Việt Thường dâng con rùa lớn. Trên lưng có khắc văn Khoa Đầu, ghi việc trời đất mở mang". Hình tượng chim Hạc (Lạc) đứng trên lưng rùa chầu tiên thánh, cũng là một biểu tượng khác xác định giá trị của nền văn minh Lạc Việt. Sự xác định Huyền Vũ chính là thực tại vũ trụ thì đối xứng với Huyền Vũ phương Bắc, chính là sự nhận thức của văn hóa, tri thức: Phượng hoàng lửa phương Nam. “ Trích dẫn: Thầy Thiên Sứ -Nguyễn Vũ Tuấn Anh Sơn hay điểm tựa vững chắc,, chính là sự nhận thức văn hóa và tri thức, và vì thế được coi là yếu tố phía sau- Thuộc ÂM. Lạnh và tối ở phương Bắc trái với nóng và Sáng ở phương Nam, Tri thức và văn hóa thuộc về phương Bắc , vậy nên mô hình biểu kiến Huyền Vũ thuộc phương Bắc và Trong đồ hình Tiên Thiên , quẻ khôn được xếp vào phương Bắc – Khôn-Lạnh thuộc Âm – phía Sau. Tất nhiên, mô hình biểu kiến Huyền Vũ ở phương Bắc nhưng không có nghĩa là Phương Bắc nhất định là yếu tố Huyền Vũ. Huyền Vũ thuộc Âm- Nhô cao - là Sơn . b. Chu tước: lấy tượng là chim Tước Đỏ. là Nóng – Sáng Đối với phương Bắc Lạnh- tối, đại diện là Phương Nam – thuộc Dương. Tiên thiên quái Càn- Dương được xếp ở phương Nam. Đây là yếu tố Hướng trong ĐLPT bởi Dương trước – thấp. Trong ĐLPT thì Thấp trũng là hình tượng của Thủy – tụ. Chính vì thế, yếu tố Thủy không phài là nước và Sơn không phải là núi. Hai yếu tố này là cùng cặp DƯƠNG -ÂM : TRƯỚC-SAU, THẤP-CAO. Vì vậy tính chất của cặp Âm Dương này là : phía trước thuộc DƯƠNG là Thấp hơn, là phía Trước, là Sáng sủa đối với nó là phía Sau, là Cao hơn, là tối. c. Thanh Long : lấy tượng là rồng Xanh và tất nhiên Rồng không có thật.Tuy nhiên, Rồng là biểu tượng sức mạnh, là Dương, là linh vật tạo ra mưa , nước. Trên mô hình biểu kiến nếu đứng tựa lưng vào phía Bắc, hướng về phương Nam thì bên Trái là Biển cả ,là nơi Rồng ẩn náu. Dương bên Trái, thấp hơn so với bên Phải, và đó chính là vì sao tiên thiên lại xếp quái Ly-Hỏa ở phương Đông. d. Bạch Hổ: lấy tượng là Hổ trắng, mà trong tự nhiên Hổ nương náu trên núi rừng. Trên mô hình biểu kiến nếu đứng tựa lưng vào phía Bắc hướng về phương Nam , bên Trái là Biển cả thì bên phải là núi rừng. Núi cao hơn –thuộc Âm- Bên Phải . Trong Tiên Thiên quái Khảm được xếp ở phương Tây. Cặp Dương – Âm : Trái – Phải, Thấp –Cao không có nghĩa theo mô hình biểu kiến là con Hổ, con Rồng, hướng Đông-Tây hay nước và núi mà tính chất của nó chính là: Bên Phải thuộc Âm cao hơn bên Trái thuộc Dương. Qui các yếu tố về các cặp Âm-Dương, chúng ta có thể áp dụng vào mọi trường hợp trong Địa Lý Phong Thủy mà không cần chấp vào biểu tượng hay mô hình biểu kiến. Đây là chính là lý thuyết nền tảng của Địa Lý Lạc Việt, một bộ môn ứng dụng từ học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành của nền Văn Vinh Lạc Việt 5000 năm một thời rực rỡ huy hoàng phía Nam sông Dương Tử. Hà nội Tháng một năm Mậu Tuất tức tháng 12 năm 2017 Mạnh Đại Quân (tức Hoàng Triệu Hải)1 like