-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/05/2017 in all areas
-
Về phần luận tổng quát cho lá số như sau. Sao thiên lương thủ mệnh là người tử tế và có chút bảo thủ . Các sao xương khúc cùng với hoá khoa thiên khôi chiếu về cho thấy là người có năng khiếu về nghệ thuật và văn học cũng như là học hành. Bạn là người khá vui vẻ vì có hỉ thần tại mệnh. Cung mệnh của bạn đóng ở thế điếu khách cho thấy trong cuộc sống gặp nhiều điều trái ý bất mãn nhưng cứ giãi bày với ai đó thì lại qua thôi. Cái nguy hiểm nhất ở cung mệnh của bạn là có sao quả tú cùng sao cô thần chiếu về cho thấy bạn là người cô đơn có yêu ai cũng chóng chán, tình yêu lận đận. Về mặt tâm linh chúng tôi gọi là có tiền duyên theo. Về quan lộc ( tức là việc làm đó) thì tiền trở hậu thành có nhiều chán nạn buổi đầu nhưng bạn yên tâm về sau sẽ tốt thôi vì thái dương hãm nhưng có tuần thì lại sáng trở lại thôi có 1 số sát tinh bại tinh nhưng có tuần rồi không lo. Về tài bạch thì thái âm hãm nhưng dù sao thái âm cũng chủ về tài sản mà cái đáng lo là có song hao đóng tại đó thì bạn là người tiêu tiền nhiều khi quá tay. Chúng tôi khuyên các đương số nên đeo cái nhẫn vào ngón thứ 3, với bạn nên chọn cho mình cái nhẫn màu vàng( vàng là thổ thổ sinh hành kim của bạn mệnh). Về gia đạo thì đừng trông chờ nhiều vì sẽ rất xấu thôi. Sấu vì mệnh có quả tú cô thần, thân thì triệt cung chồng thì cự môn hãm( tuy được hành bản mệnh sinh xuất). Sau này lấy được ông chồng khắc khẩu lại có tính gia trưởng ( nhiều khả năng còn là con trưởng trong nhà chồng nữa). Để cải mệnh gia đạo tôi khuyên bạn một số việc như sau khi lấy chồng nên lấy một anh nào đó làm nghề liên quan đến ăn nói như luật sư, thầy giáo , bán hàng . Và điều quan trọng nhất là phải giải tiền duyên đi1 like
-
Mời các bác tham khảo bài này Hòa thượng Thích Minh Châu, trong lời nói đầu tác phẩm “ Lịch sử Đức Phật Thích Ca là lịch sử một con người, do nhờ công phu tu tập bản thân đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc thánh giữa thế gian”. I- Đức Phật lịch sử 1. Sơ lược lịch sử Đức Phật Hòa thượng Thích Minh Châu, trong lời nói đầu tác phẩm “ Lịch sử Đức Phật Thích Ca là lịch sử một con người, do nhờ công phu tu tập bản thân đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc thánh giữa thế gian”. Đức Phật lịch sử là một con người như bao nhiêu con người, cũng sinh ra, lớn lên, lập gia đình nhưng nhờ ý thức được sanh, lão, bệnh, tử là khổ đau nên nhàm chán cuộc đời, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình và do nỗ lực cá nhân mà thành đạt quả vị giải thoát. Ngài sinh ra vào ngày 15 tháng Tư âm lịch, năm 623 trước Công Nguyên tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) gần thành phố Kapilavatthu, nơi ranh giới Ấn Độ thuộc xứ Nepal ngày nay. Ngài là con vua Suddhoddana va hoàng hậu Maha Māyā, tên Ngài là Siddhattha họ Ngài là Gotama (Cồ Đàm). Ngài thuộc bộ lạc Sakya (Thích Ca) nên sau này có danh hiệu Sakya Muni, Muni là bậc thánh. Sakya Muni là bậc thánh thuộc bộ lạc Thích Ca. Bảy ngày sau khi sinh thái tử Siddhattha, hoàng hậu Maha Māyā qua đời và sinh về cõi trời Đâu Suất, thái tử được bà dì mẫu Mahapajapati Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, dạy dỗ. Ngay sau ngày đản sanh vua Tịnh Phạn cho mời các Bà-la-môn đến để xem tướng Thái tử. Thái tử có 32 tướng tốt. Kinh Sutta Nipāta (Kinh tập) có viết đạo sĩ Asita xem tướng Thái tử: “Thấy Thái tử chói sáng Rực rỡ như vàng chói Trong lò đúc nấu vàng Được thợ khéo luyện thành Bừng sáng và rực rỡ Với dung sắc tuyệt mỹ Sau khi thấy Thái tử Chói sáng như lửa ngọn Thanh tịnh như sao Ngưu Vận hành giữa hư không Chói sáng như mặt trời Giữa trời thu mây tạnh Ẩn sĩ tâm hân hoan Được hỷ lạc rộng lớn” Và đạo sĩ Asita nói là Thái tử trong tương lai sẽ tu chứng Phật quả và truyền bá Giáo pháp: “Thái tử này sẽ chứng Tối thượng quả bồ đề Sẽ chuyển bánh xe Pháp Thấy thanh tịnh tối thắng Với lòng từ thương xót Vì hạnh phúc nhiều người Và đời sống phạm hạnh Được truyền bá rộng rãi”. Thái tủ được nuôi dưỡng, giáo dục một cách chu đáo cả hai phương diện văn chương và võ nghệ. Trong Tăng Bộ Chi Kinh I, trang 161-162, Đức Phật đã thuật lại cho các Tỷ kheo về quãng đời của Ngài như sau: “ Này các Tỷ kheo, ta được nuôi dưỡng tế nhị. Trong cung của Phụ vương ta, các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa Sen xanh, trong một hồ có hoa Sen đỏ, trong một hồ có hoa Sen trắng, tất cả đều phục vụ cho ta. Không một hương Chiên Đàn nào ta dùng, này các Tỷ kheo, là không từ Kāsi đến. Y phục ta dùng, không y phục nào là không từ Kāsi đến, bằng vải Kāsi là khăn của ta, này các Tỷ kheo, bằng vải Kāsi là áo cánh, bằng vải Kāsi là áo lót, bằng vải Kāsi là áo khoác ngoài. Đêm và ngày một chiếc lọng trắng che trên đầu ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỷ kheo, ba lâu đài được xây dựng cho ta, một cái mùa Đông, một cái mùa Hạ, một cái mùa mưa. Và này các Tỷ kheo, tại lâu đài mùa mưa, ta được các vũ công đờn múa hát xung quanh ta.” Thế nhưng Thái tử càng trưởng thành Ngài càng biết thế gian là đau khổ triền miên, dầu sống trong nhung lụa nhưng Ngài lại ý thức được rằng mỗi thời lặn mọc của mặt trời, mỗi thời vận hành của vũ trụ, tất cả đều vô thường biến đổi, thời gian vô thường, không gian vô thường, vũ trụ vạn hữu vô thường, tâm ý vô thường. Sự biến dịch và vận hành của thời gian và không gian đều liên quan đến sự vận hành và tiêu tán của kiếp người mà sự sống chỉ là bóng sương mờ giữa bình minh rực rỡ. Có ai kéo được mùa xuân khi thu về lá rụng, mỗi tích tắc, mỗi nhịp tim đều báo hiệu một biến dịch của thời gian. Nó không phải trôi qua vô tình như dòng nước bạc mà nó mang theo cả cuộc đời hoa mộng, những nét kiều diễm, những ân tình chưa thỏa, những mộng đời chưa tan. Trong cái xoay vần của nhân duyên sanh diệt, cái hạnh phúc của trần gian này không vĩnh viễn rồi một ngày kia chúng sẽ già yếu rồi xấu đi, thời gian sẽ phủ lên đầu lớp tro bạc. Ôi! Mắt rồi sẽ mờ đục, môi đỏ sẽ úa màu và hai bàn tay đẹp đẽ sẽ co quắp lại như những que củi khô mà thôi. Ngài đã nghe hơi thở của trần gian đang hấp hối, nhận rõ bóng huyễn hoặc của lạc thú, sự mãi mai của hạnh phúc, cái ảo não của những lao khổ nhọc nhằn. Thú vui mở đường cho đau khổ, trong hội ngộ đã nẩy mầm chia ly, trẻ trung đưa đến già yếu, sống đưa đến chết và chế đưa đến những cuộc sống vô định khác. Ngài đã hiểu rằng đời không phải là một dòng nước trong xanh chảy mãi giữa hai hàng hoa thắm, nước chỉ trong xanh trong chốc lát , bòe hoa hiện nhanh như làn chớp và đây dòng sông đang uốn mình quanh những đoạn bùn lấy để lăn nhào vào trong biển nhớp, một kiếp người qua như một hơi gió thoảng. Trong Kinh Thánh Cầu (Atiyapariyesanasuttaṃ) trang 161-163 Trung Bộ Kinh – HT Thích Minh Châu dịch, Đức Phật đã nói như sau: “ Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. “1 like
-
Chúng ta chú ý về thiên văn cổ trong câu thơ: Thanh tịnh như sao Ngưu vận hành giữa hư không1 like
-
nội dung bài viết ko phạm nội quy thì không có vấn đề gì.1 like
-
Chào các bô lão, bô lớn, bô bé ... trong diễn đàn :D . Tôi vừa đọc trang web: Một góc nhìn về phật giáo Đại thừa. http://mot-goc-nhin-ve-phat-giao-dai-thua.blogspot.com/ Trong trang đó có bài viết về kinh thật kinh giả, đặc biệt là các kinh điển xuất phát từ Trung Quốc là rất đáng ngờ, chúng ta có thể đang dùng kinh ngụy tạo mà không biết. Kinh ngụy tạo - Phần 1 (Gs Kyoko Tokuno, Đại học Washington) , nếu đúng như bài viết thì vấn đề quả thật là nghiêm trọng. Có vị bô nào biết thêm thông tin về vấn đề kinh thật giả xuất phát từ Trung Quốc không? xin hãy lên tiếng.1 like
-
Link: http://chanhtuduy.com/kinh-vu-lan-bon-thuc-hay-gia/ http://chanhtuduy.com/ngo-nhan-ve-kinh-vu-lan-bon/ Kinh Vu Lan Bồn thực hay giả? Vào mùa tháng Bảy (âm lịch) ở chùa nào cũng khai hội Vu Lan báo hiếu. Nhưng tại sao chỉ nhắc đến Mẹ mà không báo hiếu Cha? Mà thôi, ai cũng được vì ai cũng là đấng sinh thành như người ta thường nói vậy! Mà tại sao chỉ có báo hiếu vào mùa này nhỉ? Còn mùa khác thì không báo hiếu sao? Mà tại sao lại phải vào tháng Bảy âm lịch mới có Vu lan thắng hội? Thực sự ra ngày 14 tháng Bảy âm lịch hằng năm là ngày cúng giỗ tổ tiên người Tàu. Tại sao có sự trùng hợp với lễ Vu lan bồn một cách kỳ lạ như thế? Có ai suy nghĩ về điều này không? Tôi cũng như quý vị chưa từng nghĩ như vậy cho đến khi đọc được khai thị của hoà thượng Tuyên Hoá, vị thánh tăng người Trung Quốc, người sáng lập Vạn Phật Thánh Thành tại nước Mỹ vào thập niên 80 của thế kỷ 20. Theo pháp ngữ của Ngài thì người Tàu ngụy tạo ra kinh “Vu lan bồn” nhằm củng cố sự chuyên chế của rường cột phong kiến, vốn lấy Trung Hiếu làm đầu, dầu là ngu trung và ngu hiếu! Ngoài ra còn nhằm vào những mục đích khác nữa! Thật choáng váng cho tôi lúc đọc đến chỗ này, nhưng niềm sùng kính của tôi đối với Ngài là tuyệt đối vào thời điểm đó, nên tôi hoàn toàn tin tưởng đây là sự thật. Giờ đây bình tâm mà xét lại quả nhiên kinh Vu lan bồn lộ ra nhiều sơ hở, trái với chánh tư duy của nhà Phật. Theo kinh điển đạo Phật, một người đắc thánh quả thì 9 đời tổ tiên dòng họ được siêu thăng. Tôn giả Mục Kiền Liên sau khi quy y đầu Phật, chỉ 18 ngày sau là đắc A la hán, thì tại sao mẹ Ngài vẫn còn ở địa ngục? Trong kinh Vu lan bồn, sau khi trở về từ địa ngục thăm mẹ, tôn giả Mục Kiền Liên được Đức Phật chỉ dẫn cách lập Vu lan bồn. Trong kinh này có ghi là đàn tràng này được thiết lập với sự cúng dường phẩm vật (còn gọi là cúng trai tăng), và nhờ đến 500 vị thánh tăng A la hán cùng chú nguyện vào, thì mẹ Ngài mới siêu thăng. Vậy thì tôn giả chúng ta bấy giờ lấy đâu ra nhiều phẩm vật cúng dường và mời đâu ra dễ dàng 500 vị A la hán cùng một lúc nhỉ? Được biết, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất chỉ có 499 vị, về sau có ngài A nan bổ sung mới đủ 500 vị. Như thế, thời điểm tôn giả Mục Kiền Liên “cứu mẹ” làm sao có được nhiều thánh tăng A la hán vậy? Nếu tôn giả Mục Kiền Liên làm như vậy, thì các tôn giả khác cũng có mẹ hoặc cha hoặc tứ thân phụ mẫu bị đoạ địa ngục. Vậy thì tính sao đây? Lẽ nào làm được cho tôn giả Mục Kiền Liên mà vị khác lại không? Đây là sự thiếu công minh, chắc chắn không phải là chỉ dụ của Phật! Trong kinh “Địa tạng bổn nguyện” một người nữ Bà la môn, vì thương mẹ mình bị mất mà không biết thác sanh vào chốn nào, niệm tôn hiệu của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ một ngày một đêm thì người mẹ ấy từ địa ngục thác sanh vào cõi trời. Suy ra, 500 vị thánh tăng A la hán cùng chú nguyện chỉ bằng một người nữ Bà la môn? Phải chăng chỗ này lộ ra sự vô lý về đối tượng “cầu siêu” và “đạo lực” giữa một người phụ nữ với hàng trăm vị thánh tăng? Do những sơ hở này, chúng ta hiểu thêm về xác quyết của hoà thượng Tuyên Hoá. Đây không phải lần đầu người Tàu nguỵ tạo kinh điển. Hoà thượng Hư Vân cho biết, thời Võ Tắc Thiên, kinh “Đại Vân” được “sáng tác” nhằm phục vụ cho việc soán ngôi vua của bà ấy! Đối với người Tàu, cái gì cũng có thể nguỵ tạo, bịa đặt, vẽ rắn thêm chân. Các vị xem “Tây du ký” là truyện chương hồi của Ngô Thừa Ân, khác xa với chính sử về hình ảnh của Pháp sư Trần Huyền Trang còn gọi là Đường Tam Tạng. Xem truyện “Thuỷ Hử”, lại càng thấy tài hư cấu bịa đặt của người Tàu đối với chính sử mà Thi Nại Am đã phóng tác. Mới đây nhất, trong một bài viết đăng trên báo “Hôn nhân và Pháp luật”, tác giả Phong Nguyệt cho biết, hậu bối của dòng họ Võ, đòi kiện con cháu nhà văn Thi Nại Am vì đã bôi xấu tên tuổi của Võ Đại Lang, vốn thời đó là một vị quan thanh liêm, chứ không phải là chàng gù bán bánh tiêu trong truyện “Thuỷ Hử”. Dẫn chứng nóng hổi nhất, thời sự nhất là người Tàu cho rằng đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc, trong khi những tài liệu lịch sử đều không có. Còn đường “lưỡi bò” mà Trung Quốc tự vẽ ra, chỉ mới đây thôi, khẳng định vùng biển Đông là của Trung Quốc. Cả thế giới lên án, Việt Nam đã bác bỏ luận điểm trên bằng những chứng cứ lịch sử đầy thuyết phục. Trung Quốc không dám đưa vấn đề này ra Toà án Quốc tế. Trở lại kinh “Vu lan bồn”, chúng ta nên xét lại để mà minh bạch với đồ chúng, để nguỵ-chân, thực giả đưa ra ánh sáng Phật pháp chiếu soi. Đừng vì những gì gọi là truyền thống hay là những lợi ích gì đó mà không dám lên tiếng!1 like
-
Hòa Thượng Tuyên Hóa có xá lợi hay không mình chưa kiểm chứng được và cũng chưa nhìn thấy tận mắt thì cũng nên biết vậy thôi, đừng khẳng định. Nghe nói có trường hợp người chết khi thiêu còn lại vài mẩu xương chưa cháy hết nhưng người ta vẫn bảo là xá lợi. Cụ Rubi cũng dễ tin đó há :lol:. Nhân cụ Rubi nói về Hòa Thượng Tuyên Hóa, tôi đọc được bài sau Hòa Thượng Tuyên Hóa nói kinh Vu Lan là kinh giả. Tôi trích ra đây để các cụ trong diễn đàn tham khảo (xem thêm trong đường link tôi đưa có các đối thoại đa chiều về vấn đề này). Như bác Rubi nói Hòa Thượng Tuyên Hóa có xá lợi, chắc bác cũng nghe người khác nói lại, tôi đây cũng thế chỉ tìm hiểu thông tin trên mạng nên không dám kết luận thế nào chỉ biết đọc vậy thôi chứ không có ý kiến gì (về tính Ngụy tạo của kinh Vu Lan). Nói thêm rằng kinh Vu Lan có nhiều điểm tốt, dạy con người hiếu thuận với cha mẹ theo quan niệm đạo Khổng (theo ý hiểu của tôi), nhưng Phật Giáo có lẽ có cái nhìn siêu vượt quá quan niệm đó, cái nhìn giải thoát. Tốt nhưng có đúng là Đức Phật đã thuyết không hay người Trung Quốc đưa vào rồi tự cho là Phật thuyết và nó có hàm chứa tinh thần giải thoát trong đó không vẫn là một nghi vấn.1 like
-
Tình phàm khó dò thánh trí, nhưng chúng ta là phàm hết thì đành nhắm mắt tin tưởng mọi thứ kinh điển hay sao cụ Rubi :P. Ở đây tôi nghĩ vấn đề kinh thật kinh giả không đến như vậy đâu. Vấn đề kinh ngụy tạo hoàn toàn có thể được soi sáng, phơi bày sự thật qua sự nghiên cứu khoa học hiện đại (khảo cổ, lịch sử Phật Giáo, vv...), qua sự so sánh hay đối chứng cụ. Hãy để thời gian trả lời. Hòa thượng Thích Minh Châu là người dịnh các kinh Trung Bộ Kinh... đã viết: Thì vấn đề kinh ngụy tạo là có thể lắm lắm. Hãy để thời gian kiểm chứng vấn đề này, sự thật bị che dấu thì cuối cùng cũng được phơi bày, lâu hay là mau thôi :rolleyes: .1 like
-
Kinh Pháp Cú - Lời Giới Thiệu Tôi dịch tập Dhammapada ra tiếng Việt để cúng dường Phật đản 2513 (1969). Quyển kinh Dhammapada thuộc tập Khud daka Nikaya (Tiểu bộ kinh) được xem như quyển Thánh kinh trong Phật giáo và trở thành một trong những tập sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trong kinh sách Phật giáo. Không những 423 bài kệ trong kinh này tóm thâu tinh hoa giáo lý đức Phật, nhưng nhiều bài kệ đã trở thành những lời dạy chính đức Phật thân thuyết. Và đọc những bài kệ này, chúng ta cảm thấy như thân nghe chính lời Phật dạy từ hơn 2000 năm vang lại. Giá trị bất hủ của tập Dhammapada là ở chỗ này, và ta cảm thấy không còn sợ trung gian của các vị Tổ sư kết tập kinh điển. Chúng tôi cho dịch theo thể kệ năm chữ một, để thật trung thành với nguyên văn, và quí vị sẽ thấy rõ sự cố gắng của chúng tôi, đã dịch hết sức sát với nguyên văn, và nhiều bài kệ có thể xem không thêm, không bớt, một chữ Pali chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng đến mức tối đa. Vì đây là thể kệ chứ không phải là thể thơ nên không có thi hóa trong bản dịch của tôi. Dịch tập Dhammapada này ra thể kệ, chúng tôi chỉ có một tâm nguyện mong sao những lời dạy này của đức Phật sẽ soi sáng dẫn đường cho mọi hành động, tâm tư, ngôn ngữ của chúng ta. Và ở trong một thời đại đầy máu lửa đau thương nước mắt, đầy những phân hóa, hỗn tạp, hận thù này, những lời dạy này của đức Phật xoa dịu một phần nào cho tâm tư đã quá căng thẳng hay buồn nản của con người Việt Nam, làm con người Phật tử trở lại con người Phật tử. Vạn Hạnh ngày Phật Đản 2513(1969) Tỳ Kheo Thích Minh Châu Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. (http://linhsonphatgiao.com/21/4/2014/kinh-phap-cu.html)1 like
-
Một nhận định về vấn đề thật kinh giả và các đề liên quan (tiếp). Tại sao lại có hiện tượng này? Muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta phải lướt qua những giai đọan lịch sử quan trọng nhất của trường phái Phật giáo. Em xin tóm tắt sơ lược một số vấn đề cơ bản nhất, rất có thể quí độc giả đã biết rất rõ, nhưng vì bận rộn với cuộc sống có thể đã quên đi. Kiến trúc sư trưởng của trường phái Phật giáo là ngài Sakya Muni, người ta gọi ngài là Phật, thời gian tìm hiểu, thực hành chỉ có một mình, không hề có một cộng sự, một người nào chia sẻ cùng Ngài. Chúng ta không thể tìm thấy trong bất cứ tài liệu nào, là Sakya Muni có cộng tác viên! Cho đến khi Ngài công bố những hiểu biết của mình về vấn đề này, thì vẫn chỉ có một mình mình. Có một câu nói nổi tiếng mà nhiều người biết, mà mong cả quí độc giả cũng không nên quên: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”. Hiểu theo nghĩa tích cực, Sakya Muni chỉ có một mình! Vậy mà sau này, chúng ta cũng lấy làm ngạc nhiên, không biết ở đâu xuất hiện ra đến “vạn Phật”, vậy mà được rất nhiều người chấp nhận một cách khá vô tư không thắc mắc gì cả, thật là một thái độ từ bi đáng kinh ngạc! Theo lịch sử thì dường như có khoảng 4 lần người ta sắp xếp, hệ thống hóa lại những gì được ghi lại từ lời nói của Sakya Muni. Qua những đợt đúc kết này, thì người ta cho là có khoảng 5 bộ kinh chánh, tài liệu quen gọi là Vi Diệu Pháp và các tài liệu gọi là giới luật. Chỉ cần nhìn vào những lần đúc kết kinh tạng nói trên, một người ngây thơ cho lắm cũng thấy chẳng có tài liệu nào là Tiểu Thừa, hay Đại Thừa cả, mà chỉ có kinh sách của Phật giáo. Theo em nghĩ, đây là một bằng cớ lịch sử về tư liệu kinh tạng cụ thể nhất, không cẩn gì phải tranh luận. Vậy thì những kinh sách Đại Thừa ở đâu mà ra? Số tài liệu kinh sách Đại Thừa nhiều vô số kể đã thực sự khống chế trường phái Phật giáo trên khắp thế giới. Em có thể đan cử một thí dụ, ai cũng biết đến tên các loại kinh: Pháp Hoa, Thủ Lăng Nghiêm, Vu Lan, Bát Nhã…. Vậy mà, có cả những người tự cho mình là tu sĩ Phật giáo, dường như không đọc thì chẳng nói làm gì, mà chưa nghe thấy tài liệu Vi Diệu Pháp bao giờ! Thực tế, ai cũng đọc “ nam mô a di đà Phật”. Một người Việt Nam chẳng cần phải là một tín đồ Phật giáo, họ cũng biết chân ngôn này. Thật vậy những từ ngữ phiên âm từ chân ngôn “ Na mô Amitaba Hari Soaha”…. Người ta không thể ngờ được rằng, vị Phật gọi là Amitaba, nếu gọi là một người, một vị Phật… thì hoàn toàn là một khách lạ đối với ngài Sakya Muni. Em xin đoan chắc một điều, nếu Sakya Muni tái sinh ở thế kỷ 21 này, thì chắc chắn ngài sẽ vô cùng kinh ngạc! Những nơi mà được gọi là cơ sở tôn giáo Phật giáo, tất nhiên là của chính bản thân mình (Sakya Muni), nay lại có những vị tên tuổi vô cùng xa lạ như: Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Quán Âm Tự Tại, Địa Tạng Vương Bồ Tát….Ngài Sakya Muni tái sinh, chỉ còn một cách duy nhất là hỏi thăm các tu sĩ trong một cơ sở Phật giáo nào đó là các vị Phật, các vị Bồ Tát nói trên… là ai! Quí độc giả có thể tham khảo những tài liệu về kinh ngụy tạo Phật giáo và tất nhiên là các hệ phái ngụy tạo Phật giáo trong tài liệu “ Kinh ngụy tạo” ( Apocrypha). Tác giả: Kyoto Tokuno.Ph.D. Dịch sang tiếng Việt : Phạm Doãn. Kính thưa quí độc giả Minh Khánh! Em cho là cái đáng quan tâm nhất đó là hệ quả của việc tu tập theo những giáo trình “ Háng nhái”. Quí độc giả cũng như em, nếu chúng ta bỏ cả một cuộc đời học tập theo một giáo trình “dỏm” thì hệ quả sẽ ra sao? Nếu chúng ta hiểu được rằng giáo trình Phật giáo chính gốc có thể giúp con người thoát qua bể khổ bến mê, thì việc này chúng ta hoàn toàn có thể tự làm được một mình, “ Tự thắp đuốc mà đi” … Nay Tịnh Độ của trường phái Đại Sư Tuệ Viễn Trung Quốc, thì cách tu tập lại hoàn toàn khác hẳn, ông giới thiệu cho nhân loại một vị Phật mới tên là A Di Đà. Vị Phật này đưa ra tới mấy chục câu mà nội dung nói chung là có thể giúp đỡ cho bất cứ ai. Điều đáng sợ nhất là giúp đỡ vô điều kiện; nói một cách khác là bất chấp nhân - quả, cứ đọc tên vị Phật này liên tục ở những giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, thì có thể đến vương quốc do ngài quản lý. Em cho là cách nhập cảnh bất chấp quá trình dân sự và hình sự, thì có lẽ ngược lại với quan điểm nhân quả của Phật giáo. Thật vậy, một xã hội mà có quá nhiều thành phần phức tạp thì liệu có thể là một xã hội an ninh, thịnh vượng hay không? Cuối cùng em xin cám ơn quí độc giả Minh Khánh! Em xin trân trọng kính chào và hy vọng sẽ được gặp lại quý vị trong những dịp khác.1 like
-
Một nhận định về vấn đề thật kinh giả. Trích dẫn từ trang: http://thiendinh-hhn.blogspot.com/2014/01/truong-phai-phat-giao-thien-uong-ich.html Minh Khánh says: Câu chuyện trong cuộc đàm thoại giữa Sao Mai và HHN làm cho tôi thật sự thấy lúng túng. Như vậy có rất nhiều loại kinh không phải là kinh sách của Đức Phật Thích Ca truyền lại hay sao? Vậy xin chị HHN và Sao Mai cho biết, những kinh nào mới là kinh chính gốc của Phật giáo Ấn Độ? Tôi có thể tìm đọc những cuốn sách nào? Sao Mai says: ... Kính thưa quí độc giả Minh Khánh! Điều quí độc giả đưa ra, mới thoáng nhìn có vẻ đơn giản, thực sự đây là bài toán đau đầu cho chính bản thân trường phái Phật giáo. Thật vậy, nếu khảo cứu các tài liệu mà một số vị có chức sắc, ít nhiều có thẩm quyền trong trường phái Phật giáo viết ra, thì em thấy dường như họ có chung một thái độ, có lẽ để chứng minh là bản thân Phật giáo là một chủ nghĩa từ bi. Cho nên một số quí vị nói trên thường tìm cách dung hòa Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo Trung Quốc. Chúng ta có thể nhận biết tư tưởng này trong rất nhiều tài liệu của rất nhiều tác giả nổi tiếng. Phần đầu của tài liệu thì được trình bày mang màu sắc Phật giáo nguyên thủy, đến phần cuối lại thấy sự xuất hiện của Phật giáo thuần túy Trung Quốc như: Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, chức vụ Bồ Tát thay thế cho A La Hán của hệ phái Tiểu Thừa. Việc này làm cho độc giả vô cùng phân vân và bối rối. Vì tất nhiên ai cũng biết, không phải độc giả nào cũng là chuyên viên, chuyên gia cả. Ngày hôm nay, việc này có vẻ lại càng trầm trọng hơn nếu lấy học thuyết Phật giáo nguyên thủy làm thước đo. Chúng ta chỉ cần vô một chỗ bán kinh sách của một nhà sách lớn nào ở tại Sài Gòn, hay nơi bán sách của những Chùa lớn tại Sài Gòn, thì phải bảo “thiên kinh vạn quyển” quả là không ngoa. Vấn đề đặt ra là hệ quả của hiện tượng này như thế nào? Thật vậy, nếu cứ căn cứ theo huyền sử cho rằng ngài Sakya Muni là người duy nhất đã sử dụng kỹ thuật thiền định một cách xuất sắc, và sau đó bỏ lại thân xác vật lý ra đi. Vậy chính tác giả của những tác phẩm này và người đọc những tác phẩm hiện tại đang được bày bán này có thực hiện được những thao tác mà họ nói trong những tác phẩm đó hay không? Mặt khác, nếu chúng ta công nhận Sakya Muni là kiến trúc sư duy nhất của trường phái Phật giáo, vậy thì tác giả của những tài liệu nói trên nếu không thực hiện được những thao tác như Sakya Muni đã từng làm, thì có thể khẳng định rằng những tài liệu được viết ra bởi các vị nói trên là “ hàng nhái”. Đây là một từ ngữ rất phổ thông trong xã hội ngày hôm nay. Có lẽ chẳng ai lại muốn mình mua phải hàng giả, kinh giả…. vì có thể nói một cách nôm na là “tiền đã mất, tật còn mang”. Ai đó thực sự muốn tu - nói theo tinh thần Phật giáo là thoát khỏi bể khổ, bến mê; đoạn hết vô minh, khô cạn phiền não, đến bờ giải thoát… như Sakya Muni đã từng làm. Nhưng nay lại gặp phải “ thầy nhái”, “ kinh nhái” nói tóm lại là “hàng dỏm”, tai hại không biết thế nào mà lường!1 like
-
Độc đáo nghệ thuật và trò chơi dân gian thời Trần Thiên Trường xưa - nay là Nam Định, vùng đất quê hương của các đời vua nhà Trần, là nơi “khai sinh” của nhiều loại hình dân ca, dân vũ độc đáo, đồng thời cũng là mảnh đất có nhiều cuộc thi thể hiện trí thông minh, lòng quả cảm, sức mạnh của con người chiến thắng thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Những loại hình nghệ thuật, trò chơi dân gian đó đều gắn với lịch sử vùng miền, phản ánh quá trình lao động khai phá đất đai của con người, trong đó độc đáo nhất phải kể đến múa bài bông, thi bơi chải và thi đánh cờ người. Múa bài bông Hàng năm cứ vào dịp từ tháng Giêng đến tháng Ba và tháng Tám âm lịch, nhân dân các nơi lại nô nức kéo về làng Phương Bông dự hội múa bông, đông nhất là vào dịp mồng 10 tháng 3 âm lịch. Hội múa bông thực chất là một phần của lễ tưởng niệm Trần Quang Khải, một danh tướng dòng dõi quý tộc thời Trần. Tương truyền, ông cũng chính là người dạy dân làng cách trồng bông, dệt vải và là tác giả của điệu múa bài bông nổi tiếng. Sau chiến thắng quân Nguyên-Mông, Trần Quang Khải trở về quê cũ Tức Mặc. Ông dạy dân Phương Bông (còn gọi là Hương Bông, thuộc hương Tức Mặc - hành cung Thiên Trường năm xưa, nay là xã Mỹ Trung, huyện Mỹ Lộc) biết cách trồng bông. Từ đó, Phương Bông trở thành vườn bông của triều đình. Bài hát, điệu múa bài bông cũng ra đời từ đó. Điệu hát múa này trước kia được biểu diễn trong các dịp khánh lễ ở sân rồng và đặc biệt không thể thiếu trong những ngày ăn mừng chiến thắng. Về sau, múa bài bông trở thành một phần quan trọng trong nghi lễ cúng tế Trần Quang Khải và chỉ có ở làng Phương Bông, do đó nó mang đậm sắc thái địa phương và mang tính dân tộc sâu sắc. Đình làng Phương Bông đã tôn Trần Quang Khải làm Thành hoàng, coi ông như vị tổ sư nghề ca kỹ. Để thực hiện múa bài bông, những người tham gia vào đội múa được dân làng tuyển chọn kỹ càng. Họ phải là những cô gái trẻ, đẹp và có giọng hát hay. Trang phục để múa bài bông hết sức rực rỡ, nhiều màu sắc, chủ yếu là áo màu đỏ thắm, thắt lưng bao xanh hoặc đỏ. Trên vai người múa là một cái cần, hai đầu cần là hai cái giỏ buộc dải lụa điều, đầu cần tròn có cuốn giấy màu xanh đỏ theo hình rắn lượn. Trong mỗi giỏ lại đựng đầy hoa tươi (chủ yếu là hoa huệ) được xếp tròn và cao tượng trưng cho bông hoa khi nở rộ, ở giữa mỗi giỏi hoa có một ngọn nến cháy sáng. Điểm đặc biệt của điệu múa này là số người tham gia múa bao giờ cũng là số chẵn, người múa đứng xếp thành hàng, tạo hình như các ô vuông tượng trưng cho thửa ruộng. Căn cứ vào số người tham gia điệu múa và địa điểm biểu diễn mà người ta chia múa bài bông ra làm ba hạng: Thiên tử, Chư hầu và Đại phu. Điệu múa, lời ca khúc hát bài bông được diễn diễn tấu trong sự hòa âm từ các nhạc cụ như đàn, sáo, nhị, hồ…; động tác múa mô phỏng theo các động tác lao động như trồng bông, hái bông, quay tơ, dệt vải… được nghệ thuật hóa cao độ. Do yêu cầu của nội dung bài múa phải sử dụng ánh sáng lung linh từ những ngọn nến như một yếu tố tạo nên vẻ huyền ảo nên người ta chỉ biểu diễn múa bài bông vào ban đêm. Dưới ánh sáng của những ngọn nến, tiếng đàn, tiếng hát cất lên, hòa quyện trong mùi hương hoa ngây ngất, người múa quần áo rực rỡ, phất phơ dải bao lưng xanh…, tất cả tạo nên một bầu không khí thiêng liêng mà thanh khiết. Những cô gái vừa hát, vừa múa uyển chuyển nhịp nhàng trong tiếng nhạc chừng hai mươi phút, sau đó từng người tiến lên phía trước, quỳ xuống và đặt hai giỏ hoa của mình lên ban thờ. Cứ thế cho tới người cuối cùng và họ kết thúc điệu múa bằng một bản hợp ca ca ngợi vị tướng đã có công giúp dân giúp nước. Thi bơi chải ở Đệ Nhị Một trong số các cuộc thi được nhân dân Thiên Trường xưa ưa thích là thi bơi chải trên sông Vĩnh Giang của thôn Đệ Nhị ( hay còn gọi là Đệ Nhì -thuộc hành cung Thiên Trường xưa, nay thuộc xã Mỹ Trung, huyện Mỹ Lộc). Sông Vĩnh Giang là con sông chảy quanh co uốn khúc, ôm lấy đồng ruộng, làng mạc, men theo làng Đệ Nhất rồi chảy xuôi xuống Đệ Nhị, nơi ngã ba sông có đền thờ Đệ Nhị hay còn gọi là đền thờ Thánh Bơi. Thuyền bơi (chải) được làm bằng gỗ, dài chừng 12m, để mộc không sơn; đầu chải hơi vót, chải có khoang và chia làm tám phách để 16 người ngồi bơi. Người gõ mõ đứng ở giữa chải, người cầm chải đứng cuối, người đứng ở đầu chải cầm sào để đẩy chải khác ra xa chải của mình trong khi bơi. Trong các cuộc thi bơi, thông thường Lý trưởng của làng đứng ra cầm chải. Nhân dân địa phương quan niệm rằng nếu ông Lý trưởng nào cầm chải thắng trong cuộc thi thì dân làng đó sẽ làm ăn phát đạt trong ba năm liền. Mỗi hiệp thi có hai chải cùng bơi, chải nào thắng thì được vào thi bơi tiếp với các chải còn lại. Khoảng cách giới hạn trong cuộc thi là từ khúc sông làng Thanh Khê ra đến chợ Viềng. Chải giành chiến thắng là chải bơi nhanh và đẹp nhất sẽ được nhà vua trao giải. Có một điểm đặc biệt, đó là trong lúc ngoài sông thi bơi thì trong đền cũng diễn ra nghi lễ cầu thánh và lễ tế. Cuộc thi bơi chải ở Đệ Nhị phục vụ hai mục đích, vừa là nghi lễ tế thánh, vừa là trò vui trong ngày hội. Thi đánh cờ người ở Đệ Tứ Cũng như múa bài bông, bơi chải, đánh cờ người là một hình thức giải trí, vui chơi được nhân dân Thiên Trường xưa hết sức ưa thích, đặc biệt là trong các dịp lễ hội. Thi đánh cờ người ở Đệ Tứ có những nét rất riêng, từ cách bày quân đến cách đánh đều mang sắc thái, phong tục tập quán của người dân Thiên Trường. Để chuẩn bị cho cuộc thi, người ta bày quân chia thành hai bên nam và nữ. Tướng cờ bên nam là một cụ ông, tướng cờ bên nữ là một cụ bà, chỗ ngồi của tướng cờ đều được trang trí hết sức lộng lẫy, tướng cờ hai bên đều mặc áo thêu kim tuyến vàng óng ánh. Phục sức của mỗi quân cờ cũng rất trang trọng, các quân sỹ, tượng, xe, pháo… đều mặc áo màu sặc sỡ không giống nhau để phân biệt quân của hai bên. Trước mặt mỗi quân cờ đều cắm tấm biển có tua rua bay phấp phới, mang tên chính quân cờ đó. Khi đánh, các quân cờ vẫn ngồi im, người đánh chỉ di chuyển tấm biển trước mặt các quân cờ người. Chính vì thế trông bàn cờ vẫn rất đẹp dù nhìn ở mọi góc độ, hàng ngũ ngay ngắn từ khi bắt đầu tới khi kết thúc mà không hề bị lộn xộn. Do khoảng đất làm bàn cờ rất rộng nên đòi hỏi người chơi phải có hình dung tốt, quan sát thật nhanh và nắm chắc luật chơi. Ngoài các trò chơi đã đi vào các câu ca dân gian, ở Nam Định còn vô số những trò chơi khác vẫn còn được lưu lại đến nay trong các dịp lễ hội của nhân dân các vùng như: thi bắt vịt, dệt vải, đấu vật, thổi cơm niêu, bắt trạch trong chum… Những lễ hội và trò chơi dân gian đã tồn tại, lưu truyền trên mảnh đất Thiên Trường-Vị Hoàng qua nhiều thế hệ, tiềm ẩn bên trong những sinh hoạt dân gian ấy là nội dung lịch sử sống động và sâu sắc, phản ánh đời sống của người dân qua lao động, sản xuất với nhiều sắc thái tinh thần phong phú./. http://www.tinmoi.vn1 like
-
Các anh chị em trẹn dễn đàn thân mến! Một quẻ Dịch gồm 2 quái thượng và hạ. Có 64 quẻ chia làm 8 nhóm tượng Càn Kim, Khảm Thủy, Chấn Mộc, Cấn Thổ, Khôn Thổ, Ly Hỏa, Tốn Mộc, Đoài Kim với các quái tượng lần lượt tương ứng là Càn, Khảm, Chấn, Cấn, Khôn, Ly, Tốn. Đoài. Trong mỗi nhóm có 8 quái được đánh số theo thứ tự là 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Hào tương ứng của các nội và ngoại quái trong quẻ nghịch nhau gọi là hào động của quái. Một quái có 3 hào đánh số từ dưới lên là 1,2,3. Như vậy, có 8 trường hợp hào động của quái là: 1;2;3; 1,2; 1,3; 2,3; 1,2,3; và không có hào nào của quái động. Khi gieo được một quẻ Dịch, ta có thể xác nhanh định được một số thông số của quẻ (Quái tượng, Số thứ tự của quẻ trong quái tượng, hào Thế, hào Ứng) bằng cách xét các hào động mà không phải tra bảng bằng phương pháp sau: Qui tắc trên đồ hình: - 3 đỉnh tam giác thể hiện 3 hào động của nội quái và ngoại quái là hào 1 hay 2 hay 3 - 3 cạnh tam giác thể hiện 2 hào động tương ứng từ các hào 1,2, 3 ở đỉnh tam giác. - Các số trong tam giác (không có dấu “*”)chỉ vị trí của hào Thế và số thứ tự của quẻ trong nhóm quẻ tượng. Hào Ứng cách hào Thế 3 hào. - Khi hào Thế rơi vào vị trí có dấu”*” thì số thứ tự của quẻ trong nhóm tượng là số bù 10 của số đó (ví dụ: Thào Thế ở vị trí 3* hay 4* thì quẻ có số thứ tự là 7 hay 6 trong nhóm tương). - Các trường hợp tương ứng chữ “ngoại”, “nội” hay “ nghịch nội” chỉ quái tượng của quẻ là ngoại quái, nội quái hay lấy nghịch đảo âm dương tất cả các hào của nội quái. Khi quẻ không có quái hào nào động ==> quẻ thuần, là quẻ đầu của tượng quẻ, quẻ số 0, hào thế là 6 Khi cả 3 hào đều động ==> Ngoại quái là tượng của quẻ, què số 3, hào Thế là 3 (Biểu tượng số 3 ở giữa tam giác). Ví dụ1: Quẻ thuần Chấn: - Không có hào nào động, là quẻ số 0 nhóm quái tượng Chấn Mộc. Thế 6, Ứng 3. Ví dụ 2: Quẻ Thiên Địa Bĩ: - Hào động của quái: 1, 2, 3, là quẻ số 3, nhóm quái tượng Càn Kim (ngoại quái). Thế 3, Ứng 6. Ví dụ 3: Quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân: - Hào động của quái: 2, là quẻ số 7 (bù 10 của 3*), nhóm quái tượng Ly Hỏa (nội quái), Thế 3 (3*), ứng 6. Ví dụ 4: Quẻ Thiên Lôi Vô vọng: - Hào động 2,3, là quẻ số 4 , nhóm tượng Tốn Mộc (nghịch nội quái Chấn-Lôi thành Tốn), Thế 4, Ứng 1. Ví dụ 5: Thủy Thiên Nhu: - Hào động: 1,3, là quẽ số 6 (bù 10 của 4*), nhóm tượng Khôn Thổ (nghịch nội quái Càn-Thiên thành Khôn), Thế 4 (4*), Ứng 1. Thân mến!1 like