• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 30/12/2016 in all areas

  1. Giải Nobel Vật Lý 2012 và phép biện chứng duy vật khoahoc.com.vn Giải thưởng Nobel Vật lý 2012 được công bố trao cho hai nhà khoa học: Ha-rốt-chơ (Haroche, Pháp) và Uai-len-đơ (Wineland, Mỹ) vì công trình nghiên cứu của họ được cho rằng “có bước đột phá về vật lý lượng tử”, “có tính khả thi cao trong việc đo lường và kiểm soát riêng rẽ từng hệ thống lượng tử. Đây là một kết quả nghiên cứu mà giới vật lý thế giới đã mong đợi từ lâu và hôm nay, nghiên cứu này đã trở thành hiện thực”. Thậm chí theo Ủy ban Nobel, “Ha-rốt-chơ và Uai-len-đơ đã mở ra cánh cửa cho một kỷ nguyên thực nghiệm mới với vật lý lượng tử khi chứng minh: có thể quan sát trực tiếp các hệ lượng tử riêng rẽ mà không phá hủy chúng”. Trong đoạn mở đầu ở trên, tác giả đã cố ý đánh dấu chữ “lượng tử” bằng chữ nghiêng. Vậy, “lượng tử” là gì? “Vật lý lượng tử” là cái gì? Và “bản chất của công trình được giải thưởng Nobel vật lý 2012” là gì? Nói ra thì dài nhưng tác giả sẽ cố gắng tóm lược tới mức ngắn gọn nhất có thể dành cho những người không chuyên, theo quan điểm của phép biện chứng duy vật. Thế giới vật chất trong đó chúng ta đang sống được các nhà vật lý chia ra thành hai “mảng”: “thế giới vĩ mô” bao gồm các vật thể có kích thước lớn hơn nguyên tử, phân tử (có thể nhìn thấy được bằng mắt thường, kính hiển vi hay kính viễn vọng), còn “thế giới vi mô” – bao gồm các vật thể nhỏ dưới kích thước đó (không thể nhìn thấy được). Bằng các thí nghiệm ở nửa đầu thế kỷ trước, người ta cho rằng giữa “vĩ mô” và “vi mô” có một sự đột biến về chất mà không thể nào dung hoà được: Thế giới “vĩ mô” tuân theo cơ học cổ điển của Newton và thuyết tương đối của Einstein (còn gọi là thế giới “tất định”), còn thế giới “vi mô” lại tuân theo “Cơ học lượng tử” (còn gọi là thế giới “bất định”). Nguyên do là vì dường như ở thế giới vi mô, sự trao đổi năng lượng không xảy ra liên tục mà chỉ theo từng “khẩu phần nhỏ” gọi là “lượng tử”. Tính “lượng tử” này còn được thể hiện ở mô men động lượng quỹ đạo của điện tử trong nguyên tử. Và hơn thế nữa, để dung hoà với việc không thể giải thích được các vân sáng tối xen kẽ, được tạo bởi ánh sáng khi đi qua hai khe hẹp (có vẻ như ánh sáng là “sóng”?) với kết quả thí nghiệm quang điện theo đó ánh sáng chắc chắn phải là hạt, người ta buộc phải chấp nhận một khái niệm hết sức phi lý: “lưỡng tính sóng-hạt”. Và kết quả là dẫn đến việc thừa nhận tính bất định của thế giới hạ nguyên tử: lúc là hạt, lúc lại là sóng. Từ đó, người ta xây dựng nên một “lý thuyết” nhằm lý giải hành xử của thế giới vi mô, nhưng vẫn chấp nhận sự “phi lý” đó gọi là “cơ học lượng tử”, hay như trong bài báo đã nêu là “vật lý lượng tử”. Tuy nhiên, khi đó lại phải chấp nhận những phi lý mới: tính bất định về vị trí trong không gian – người ta không thể biết chắc một hạt ở vị trí nào mà chỉ là xác suất xuất hiện của nó, và tính bất định về thời gian, không tuân theo nguyên lý nhân quả. Chính vì thế, khái niệm “lượng tử” bây giờ còn được hiểu đồng nghĩa với “sự bất định về không gian-thời gian” – đây là tính chất không bao giờ quan sát thấy ở các vật thể vĩ mô. Nhà khoa học Serge Haroche (Pháp) và nhà khoa học David J.Wineland (Mỹ) đạt giải Nobel Vật Lý 2012 Mặc dù vậy, khái niệm “lượng tử” được sử dụng trong các thông báo về giải Nobel vật lý 2012 lại không liên quan gì tới các tính chất bất định vừa nói tới ở trên; nó chỉ có một nghĩa duy nhất đó là “vi mô”: hạt “lượng tử”, hệ “lượng tử”... đồng nghĩa với hạt “vi mô”, hệ “vi mô”... – nhưng tất cả chúng vẫn tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển là “tính tất định”: có vị trí xác định trong không gian, bởi vậy mới có thể đo lường được chúng, và có quỹ đạo xác định theo thời gian, bởi vậy mới có thể điều khiển được chúng. Thật vậy, theo như bản “Mô tả khoa học của giải Nobel vật lý 2012”, trong thí nghiệm của Uai-len-đơ, i-ôn được giữ bên trong một ống nghiệm bao quanh bởi điện trường tĩnh và điện trường dao động điều hoà. Ông sử dụng chùm xung la-de (laser) tử ngoại để triệt bỏ chuyển động nhiệt của i-on và nhờ điện trường kể trên để điều khiển trạng thái năng lượng của i-ôn: đưa điện tử ngoài cùng của nó lên các quỹ đạo tương ứng với hai tần số có giá trị kề cận sai khác nhau một “lượng tử”. Ha-rốt-chơ lại có hướng tiếp cận trái ngược: ông kiểm soát và đo các hạt phô-tôn cô lập bằng các nguyên tử Rít-bớc (Rydberg) đã được biết – nó lớn hơn hàng nghìn lần nguyên tử bình thường do điện tử ngoài cùng bị kích thích lên quỹ đạo rất xa hạt nhân và có thể hành xử giống như một hệ hành tinh kiểu như Mặt trời và Trái đất (tức là không có tính “lượng tử” nữa). Bên cạnh đó, ông còn tạo ra hạt phô-tôn vi sóng bật tới và nảy trở lại giữa hai gương cầu “siêu sáng” đặt đối diện nhau trong khoảng thời gian “khá dài”: gần 1/10 giây. Khi thả lần lượt các nguyên tử Rít-bớc bay ngang qua khe giữa hai gương, chúng sẽ lần lượt tương tác rất yếu (nếu có thể) với photon vi sóng “độc nhất” trong đó. Kết quả là sau khi ra khỏi hai gương, nếu nguyên tử nào tương tác được với photon, sẽ thay đổi trạng thái năng lượng và sau khi đi qua gương sẽ được phát hiện nhờ một bộ cảm biến (detector). Nói cách khác, thí nghiệm của Uai-len-đơ và Ha-rốt-chơ đã thành công trong việc chứng minh tính đúng đắn của các quy luật cơ học cổ điển ngay cả đối với những hạt vi mô như nguyên tử, điện tử, phô-tôn, tức là khẳng định tính “tất định” của thế giới vật chất mà trước đó người ta cho rằng không thể. Cái được gọi là “sự chồng chập” (superpositions) được sử dụng trong bản “Mô tả” chỉ ứng với tác động của các hạt tham gia tương tác, hoặc trạng thái năng lượng của chúng, chứ tuyệt nhiên không phải là chính bản thân các hạt đơn lẻ đó như ở trường hợp “Con mèo Srô-đing-gơ (Schrödinger)” vừa sống, vừa chết(?) – là nghịch lý của cơ học lượng tử khi phải chấp nhận tính bất định về không gian-thời gian. “Sự chồng chập” tác động và trạng thái này vốn là bản chất của thế giới vật chất mà chúng ta đang sống, chứ không chỉ là “đặc quyền” của thế giới vi mô: mỗi chúng ta đồng thời chịu tác động “chồng chập” của Trái đất, Mặt trăng, Mặt trời v.v.. cũng như đang phải tồn tại trong trạng thái năng lượng “chồng chập” với tất cả thế giới đó, nhưng sống là sống, chết là chết chứ không thể vừa sống lại vừa chết được. Có một điều không thể không nói thẳng ra rằng: giữa vật lý hiện đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác hoàn toàn không có một tiếng nói chung nào. Bắt đầu từ những phạm trù cơ bản nhất như vật chất, không gian, thời gian, cho tới các quy luật cơ bản như “đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập”, “lượng đổi chất đổi”, cũng như các nguyên lý cơ bản như “nguyên lý thống nhất tính vật chất của thế giới”, “nguyên lý nhân quả”… Sự vi phạm thô bạo những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa vật lý của thế kỷ XX đến bờ vực của sự khủng hoảng không lối thoát: không thể giải thích được một cách nhất quán hành xử của các thực thể vĩ mô và vi mô, thậm chí ngay cả ở lĩnh vực vĩ mô cũng chứa đựng đầy rẫy những nghịch lý và bất cập, chấp nhận vô điều kiện những giả thiết phi lý, trái với tự nhiên, bất chấp lô-gíc, bất chấp tính nhân quả… Kết quả là phải thừa nhận chỉ mới hiểu biết được có 4% những gì cấu thành nên vũ trụ mà họ gọi là “vật chất”, còn lại 26% là “vật chất tối” và 70% cái gọi là “năng lượng tối”(?). Ngay trong sơ đồ phân loại “cấu trúc” của vũ trụ này đã cho thấy việc đánh đồng “vật chất” với “năng lượng” (vốn chỉ là một đặc tính của vật chất) đã cho thấy sự lộn xộn trong tư duy của các nhà vật lý theo chủ nghĩa duy tâm siêu hình là như thế nào rồi. Và lẽ đương nhiên nó cũng chỉ là hệ quả của lý thuyết “Vụ nổ lớn” (Big Bang) mà từ “không có gì” đã sinh ra vật chất (bao gồm cả không gian, thời gian) và cả vũ trụ như chúng ta đang quan sát thấy – như thế có khác gì thừa nhận: “Chúa đã sáng thế” đâu? Vậy là từ những thiếu hiểu biết thế giới vật chất hữu hình và về phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nhà toán học núp dưới danh “vật lý học” đã vô tình xoá sổ một bộ môn khoa học về thế giới tự nhiên là vật lý để thay thế bởi một thứ “giả vật lý” duy tâm siêu hình: cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Giải thưởng Nobel vật lý năm nay rất may là được trao cho các công trình thực nghiệm chứ không phải lý thuyết, nên mặc dù cách hành văn và diễn giải các thí nghiệm trong “Mô tả khoa học của giải Nobel vật lý 2012” vẫn vay mượn những thuật ngữ của vật lý lượng tử, nhưng không vì thế mà làm thay đổi được bản chất vật chất của thế giới tự nhiên hữu hình: chúng vẫn tuân theo các quy luật của vật lý cổ điển, chỉ có điều ở mức tinh tế hơn theo quy luật lượng đổi chất đổi của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thôi. Chính vì thế, có thể nói các công trình thực nghiệm được trao giải lần này về thực chất là bằng chứng hùng hồn về sự cáo chung của cái gọi là “vật lý lượng tử”, mở đầu cho sự cáo chung của “vật lý hiện đại” trong thời gian không xa nữa Vũ Huy Toàn =============== Cá nhân tôi không ý kiến gì về kết luận của tác giả ở đoạn cuối bài. Nhưng rất quan tâm đến phần đầu giới thiệu về vật lý lượng tử và kết luận cuối cùng của giải vật lý Nobel, là: Bởi vì, toàn bộ đoạn giới thiệu nội dung về sự quan hệ giữa thế giới vi mô và vĩ mô, quan hệ tương tác lượng tử qua thí nghiệm trực quan với kết luận: Điều này cho thấy một phát minh mới nhất của khoa học hiện đại đã xác định tính hợp lý thể hiện trong những quy luật của sự tiến hóa, của mọi mối quan hệ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Chính vì tính hợp lý đó mới dẫn đến tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, trong tiêu chí khoa học mà tôi thường nói đến. Và điều này Lý học Đông phương đã thể hiện từ lâu , qua nền tảng tri thức của là thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt. Học thuyết này và những ứng dụng của nó mô tả toàn bộ sự phát triển của ý thức trong lịch sử phát triển của vũ trụ: Đó là ý niệm về tính cảm ứng, tính phân loại (Ngũ hành), tính hợp lý , tư duy trừu tượng, tư duy biện chứng (Mô tả sự vận động và tương tác có tính quy luật của các phạm trù Âm Dương, Ngũ hành), đều được tổng hợp trong học thuyết này. Nó cũng mô tả mọi sự vận động trong lịch sử vũ trụ. Từ trạng thái khởi nguyên (Thái cực) cho đến mọi quy luật vận động của các thiên hà, các hạt vật chất nhỏ nhất và đặc biệt cả những trạng thái vật chất mà nền văn minh hiện đại chưa biết đến....cho đến mọi quy luật vận động của xã hội, cuộc sống , đến từng hành vi của con người với khả năng tiên tri. Những mô hình biểu kiến của học thuyết này - nhân danh nền văn hiến Việt - hoàn toàn thỏa mãn những tiêu chí khoa học khó tính nhất. cho một lý thuyết. Giải Nobel vật lý 2012 là một phát minh khoa học mới nhất xác định tính hợp lý trong sự vận động của toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô (Tính tất định). Điều này đã xác định tính hợp lý trong tiêu chí khoa học mà tôi đã trình bày và đó cũng là chuẩn mực để xác định tính khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất - nhân danh nền văn hiến Việt. ===================== PS: Khái niệm về "tính tất định" trong vật lý lý thuyết thực chất là sự mô tả mối liên hệ có tính hợp lý trong tự nhiên, nó là tiền đề của tư duy biện chứng là một trong giai đoạn phát triển của ý thức. Trước đây, giới vật lý lý thuyết cho rằng trong cấu trúc trạng thái vật chất vi mô không có tính tất định (Hợp lý), mà họ gọi là "bất định". Đấy có thể là nguyên do giáo sư Trọng cho rằng: Chỉ có toán học mới có tính hợp lý. Sau đó, trước sự biện minh của tôi, giáo sư Trọng thừa nhận tính hợp lý có trong vật lý cổ điển Newton (Lý thuyết vật lý cho những vật thể vĩ mô - đã mô tả trong bài báo). Tuy nhiên giải Nobel vật lý 2012 đã xác định tính Tất định ở cả trong thế giới vi mô và đã mô tả trong bài báo. Hay nó một cách khác: Tri thức khoa học hiện đại cập nhật mới nhất đã xác định mối liên hệ tương tác có tính quy luật tất định ở mọi trạng thái vật chất mà nền khoa học hiện đại nhận thức được chính là tính hợp lý - yếu tố căn bản trong tiêu chí khoa học, mà tôi đã trình bày từ lâu trên diễn đàn. Đến đây, anh chị em đã nhận thấy rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là lý thuyết thống nhất , và là một hệ thống tri thức vượt trội khi nó mô tả toàn bộ lịch sử vũ trụ có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Tất nhiên nó xác định tính tất định - hợp lý - về các mối liên hệ tương tác trong sự vận động của cả vũ trụ này.
    1 like
  2. Bí mật về bức họa cổ trong huyệt động châu Úc Cập nhật lúc 06h20' ngày 24/01/2006 Ngoài châu Âu, châu Phi và châu Mỹ, những năm gần đây các nhà khảo cổ học phát hiện ra những mẫu hóa thạch, tranh vẽ trên tường thời tiền sử ở Australia. Các nhân vật trên những bức bích họa này có hình thù đặc biệt kỳ quái, nó khác biệt rất lớn so với các bức họa viễn cổ xưa ở các vùng khác và mang đầy sắc thái thần bí. Trong một huyệt động ở Kimberleys nước Australia, các nhà khảo cổ phát hiện ra một bức bích họa thời cổ đại trông rất kỳ quái. Người đàn ông trên bức họa là một ông già mặc áo bào dài, đầu đội mũ sắt tròn, trên mũ sắt chỉ lộ ra hai con mắt trông giống như mũ của các nhà du hành vũ trụ làm cho người ta không nhìn thấy diện mạo của ông. Trên bức họa viết những văn tự mà chưa có ai nhận biết được. Phía trên của nhân vật này vẽ 62 vòng tròn nhỏ chia làm 3 hàng không theo quy tắc nào cả, hàng gần bên trái nhất có 21 vòng tròn nhỏ, hàng giữa có 24 vòng tròn nhỏ, hàng gần nhân vật nhất chỉ có 17 vòng tròn nhỏ. Hình vẽ màu người thổ dân trong động Kimberleys (Ảnh: australianbedandbreakfast) Vậy nhân vật trên bức bích họa là ai? Có người nói, đó là một thiên thần nhưng phục sức của ông ta lại không giống thiên thần mà giống như một phi công vũ trụ trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Trong động nham thạch ở trên núi Ailen, các nhà khảo cổ cũng phát hiện ra một số bức họa trên vách đá vô cùng kỳ quái. Diện tích của những bức họa này rất lớn, màu sắc sặc sỡ, trên đó vẽ rất nhiều người và động vật có hình thù kỳ quái, thân cao khoảng 6m, không có miệng nhưng trên đầu có những sợi râu quay về 4 hướng. Điều này có lẽ biểu thị ánh sáng phát ra từ đầu họ. Ở những nơi khác nhau của Australia, người ta cũng phát hiện ra những bức bích họa xưa tương tự, được điêu khắc bằng những đường nét rất tinh tế mà bí ẩn khiến cho các nhà khảo cổ phải mất nhiều trí lực nghiên cứu. Có người cho rằng, những hiện tượng này là kiệt tác của người ngoài hành tinh. Cũng có bộ phận khác lại không đồng ý với cách nói này. Nhưng đáp án sát thực nhát là gì? thì chưa có ai trả lời được. ==================== Nếu cứ tiếp tục với nếp nghĩ: Thời cổ đại là thời đồ đá với những bầy người nguyên thủy thì sẽ chẳng bao giờ giải thích được những hiện tượng này.
    1 like
  3. Đây là một tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất. Chí có thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt mới thỏa mãn tất cả những tiêu chí mà các nhà khoa học hàng đầu nghĩ ra, bây giờ và trong cả tương lai. * Đức Giesu nói: Cha ta sinh ra ta, ta ở trong cha ta. Cựu Ước viết: Chúa đã lấy cái xương sườn của Adam (Dương trước) làm ra người nữ là Eva (Âm sau). Tương ứng với Thái cực là cái có trước trở thành Dương khi sinh ra cái không phải nó và đối đãi với nó (Âm sau), trong Lý học Việt. Lý học Việt nói: Thái cực sinh lưỡng nghi. Thái cực sinh ra cái không phải nó và từ nó, bởi nó. Ngay khái niệm "Tự Do" của nền văn minh nhân loại, chính là xuất phát từ nguyên nghĩa này của vũ trụ: Tự là từ; do là bởi. Từ nó và bởi nó, chính là Tự do. Một dân tộc Tự Do là dân tộc tự quyết định tương lai của mình. Cho nên, ngay từ buổi bình minh của nhân loại, nền văn minh Hy La đã có nữ thần Tự Do. * Kinh thánh viết: Đức chúa Cha sinh Đức Chúa con và các thánh thần. Lý học Việt nói: Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng.... Đạo Đức Kinh (Hàm chứa trong Lý học Việt) viết: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. * Chúa Giesu nói: Ta là khởi đầu và cũng là sự kết thúc. Việt Dịch trên bãi đá cổ Sapa cũng đã nói đến điều này.... * Lời nguyện viết: Chúa ở cùng Cha và ở cùng anh chị em. Lý học Việt xác định: Thái cực - tính thấy từ nguyên thủy vô thủy vô chung, hiện hữu trong tất cả vạn vật trong vũ trụ. .......
    1 like
  4. Giới thiệu: MINH TRIẾT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG Trích =============== CHƯƠNG IV. THAY LỜI KẾT PHẦN III. Sự phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - một lý thuyết bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực, từ lịch sử vũ trụ ngay từ giai đoạn khởi nguyên, đến tất cả mọi lĩnh vực của thiên nhiên, cuộc sống và con người - chính là một món quà của nền văn hiến Việt chia sẻ với những giá trị tri thức của nền văn minh hiện đại. Đây cũng chính là sự xác định việc phục hồi nền văn hiến Việt, không phải chỉ là việc phục dựng một tượng đài lịch sử nhằm tôn vinh một quá khứ. Mà đó chính là sự xác định và minh chứng cho một nền văn minh với danh xưng văn hiến, trải gần 5000 năm lịch sử , một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử. Nó có một tác dụng rất lớn trong việc hội nhập giữa các nền văn minh và sự phát triển trong tương lai của con người. Nhưng sự phục hồi học thuyết này hoàn toàn không đơn giản. Người viết lặp lại nhận xét của Giáo sư Lê Văn Sửu - một học giả có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương - đã nhận xét trong tác phẩm "Nguyên lý thời sinh học cổ Đông phương" của ông, như sau: Nhưng những "phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác" lại không phải là phương pháp đúng để phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vì, mặc dù những phương tiện đó hoàn toàn có đầy đủ khả năng tìm hiểu bản chất của những dạng tồn tại của vật chất. Nó cũng có thể là công cụ để thẩm định một lý thuyết mô tả một thực tại có thể kiểm chứng một hiện tượng được mô tả trong lý thuyết đó. Như trường hợp về sự tương tác của khối lượng với ánh sáng trong thuyết Tương đối của Einstein, khi những phương tiện kỹ thuật hiện đại xác định: ánh sáng bị biến dạng cong khi vượt qua một tinh cầu. Nhưng những phương tiện kỹ thuật hiện đại - mà thực chất là một phương pháp hỗ trợ nhận thức trực quan đó - lại không phải công cụ để thẩm định cả một hệ thống lý thuyết mô tả bản chất của những quy luật tương tác trong vũ trụ. Để thẩm định một hệ thống lý thuyết cần một sự đặc thù trong phương pháp. Vì chính sự phục hồi một lý thuyết đã có sẵn, tự nó đã là một trường hợp đặc thù trong lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - trong giới hạn thời gian lịch sử hạn chế từ 10. 000 năm trở lại đây. Chính tính đặc thù đó của sự phục hồi một hệ thống lý thuyết. Cho nên một yếu tố cần, là phải lấy chuẩn mực thẩm định là tiêu chí khoa học cho một hệ thống lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Người viết với sự cố gắng trong một khả năng hạn chế, đã chứng tỏ với bạn đọc sự hoàn chỉnh, tính hệ thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành, như là một sự khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý, chủ nhân đích thực của những tri thức thuộc văn minh Đông phương, trong cuộc hội nhập toàn cầu. Sự phát triển của nền văn minh hiện đại mà nền tảng chính là những tri thức khoa học hiện đại đã bế tắc. Những nhà khoa học hàng đầu như SW Hawking đã phải thốt lên: "Hai trăm năm nữa, con người phải đi tìm hành tinh khác để ở". =============== Chưa nói đến thiên tai, chiến tranh tranh giành ngôi vị bá chủ thế giới trong việc hội nhập toàn cầu. Chỉ cần sự phá hủy môi trường thiên nhiên, cũng đủ là một tai họa cho sự sống trên trái Đất này.
    1 like
  5. Hôm nay 29. 4, ngồi xem kỹ lại bài viết trên báo Tuổi Trẻ, thì ra Hội nghị này đã kết thúc từ 26. 4. Như vậy, không có thông tin về luận cứ chứng minh khả năng tồn tại sự sống ngoài Thái Dương hệ từ Hội nghị này. Bởi vậy, tôi không thể chỉ ra cái sai cụ thể về mặt lý thuyết của những luận cứ cho rằng "Có sự sống ngoài Thái Dương hệ". Tuy nhiên, luận điểm của tôi luôn xác định rằng: "Không có sự sống ngoài Địa cầu". Hay nói rõ hơn: Với luận điểm của tôi, khả năng tồn tại sự sống trong vũ trụ thu hẹp đến mức chỉ có sự sống duy nhất trên Địa cầu. Ngay trong Thái Dương hệ cũng không thể duy trì sự sống. Căn cứ vào những hiểu biết của cá nhân tôi trong quá trình nghiên cứu Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử với lịch sử trải gần 5000 năm - tôi xác định rằng: "Không thể có sự sống trên sao Hỏa". Đó chính là hệ luận của sự xác định "Không có sự sống ngoài Địa cầu". Nhận định của tôi có trước khi con tàu Tò Mò của Nasa đổ bộ lên đây và tìm kiếm sự sống trên hành tinh này. Chân lý hiển nhiên đã được xác định: Nasa thừa nhận :"Không có sự sống trên sao Hỏa". Một trong những tiêu chí để thẩm định một lý thuyết khoa học là nó phải có khả năng tiên tri. Sự xác định không có sự sống trên sao Hỏa đã chứng tỏ khả năng tiên tri của hệ thống lý thuyết thuộc Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Như tôi đã trình bày: Nếu như từ hai hệ quy chiếu thuộc về hai hệ thống lý thuyết khác nhau - hai phương pháp tiếp cận vấn đề - cùng đi đến một kết luận thì khả năng chúng là chứng nhân của nhau về tính khoa học của cả hai phương pháp. Nhưng nếu chúng có kết luận trái chiều thì chỉ có một phương pháp đúng , hoặc cả hai đều sai. Trong trường hợp cụ thể này - có hay không sự sống ngoài Thái Dương hệ" - thì chỉ có một phương pháp đúng. Phương pháp của các nhà khoa học hiện đại là tổng hợp nhận thức những thực tế tồn tại và những lý thuyết riêng phần được hình thành trong lịch sử của nền văn minh hiện đại, để truy tìm về quá khứ lịch sử vũ trụ và họ xác định có sự sống ngoài Thái Dương hệ. Một trong những sự thể hiện của phương pháp này, chứng tỏ qua một đoạn trích dẫn sau đây, trên báo điện tử Tuổi trẻ: Còn phương pháp của tôi, trên cơ sở sự nhận thức cá nhân về Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt thì quán xét từ quá khứ xa xôi nhất của lịch sử vũ trụ - Giây "0" - cho đến mọi hiện tượng trong lịch sử phát triển của nó. Đây là điều được xác định ngay trong chính văn của kinh Dịch - nhân danh nền văn hiến Việt. Trên cơ sở này tôi đã xác định: "Không có Hạt của Chúa"; "Không có nước trên mặt trăng" (và tất cả các hành tinh trong Thái Dương hệ) và "Không có sự sống ngoài Địa cầu"..... Và ngay cả những vấn đề được đặt ra để tìm kiếm của cả nền văn minh hiện đại: "Hạt của Chúa"; "Sự sống ngoài Thái Dương hệ".....cũng chỉ là những hiện tượng cục bộ trong hàng muôn vàn hiện tượng trong lịch sử tiến hóa của vũ trụ. Không thể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết muôn vàn những hiện tượng cục bộ bằng những trải nghiệm trực quan thông qua phương tiện kỹ thuật. Bởi vậy, từ lâu, trên diễn đàn này tôi đã xác định: "Nền khoa học kỹ thuật - tri thức nền tảng của nền văn minh hiện đại - hiện nay đang bế tắc trong sự phát triển của nó". Do đó, nó cần một lý thuyết khoa học tổng hợp tất cả mọi quy luật vận động và tương tác trong lịch sử hình thành vũ trụ, có khả năng giải thích tât cả các vấn đề được đặt ra. Đó chính là Lý thuyết thống nhất. Thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm, Đó cũng là "một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại", như nhà tiên tri Vanga đã nói tới. Lý thuyết này với sự hiểu biết của cá nhân tôi cũng chính là nguyên nhân dẫn đến phương pháp tiếp cận vấn đề, mà từ đó tôi xác định rằng: "Không có sự sống ngoài trái Đất". Rất tiếc! Giới tinh hoa học thuật quốc tế đã đến ngay Việt Nam và tôi không có dịp trao đổi, mặc dù đã đặt câu hỏi với họ. Có người giải thích rằng: Tôi là kẻ vô danh tiểu tốt, nên câu hỏi không được giới học thuật đẳng cấp quốc tế quan tâm. Đây là câu giải thích không hợp lý và thiếu tính chính danh khi nhân danh khoa học. Bởi vì, khi đặt vấn đề câu hỏi trực tuyến, báo điện tử Tuổi Trẻ không có tiêu chí chỉ có những người có tên tuổi mới được phép đặt câu hỏi. Ngoài cách giải thích mang tính quan hệ đẳng cấp xã hội nói trên thì còn cách giải thích của tôi qua câu hỏi tôi đã công khai như sau: Thực tế đây là một câu hỏi không thể trả lời được trong điều kiện nền tảng tri thức khoa học hiện nay. Bởi vì, để xác định được xác xuất hình thành sự sống trong lịch sử hình thành vũ trụ - tức phương pháp của tôi trong việc tiếp cận các sự kiện - thì phải tổng hợp được tất cả mọi trạng thái tương tác và mô hình hóa toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ. Đây chưa phải là tri thức nền tảng của nền văn minh hiện đại. Sự im lặng của những nhà khoa học tham gia Hội nghị, chứng tỏ họ là những nhà khoa học nghiêm túc và có trách nhiệm với những phát biểu của mình, nếu như họ nhận được câu hỏi của tôi. Trở lại với vấn đề "Có hay không sự sống ngoài Trái Đất?" và hai luận điểm trái chiều. Bây giờ tôi đặt một giả thiết thuận lợi nhất cho luận điểm của các nhà khoa học hiện nay, rằng: Họ hoàn toàn đúng trong việc giả thuyết có sự sống ngoài Thái Dương hệ. Với giả thuyết này thì vấn đề chỉ còn là "Sự sống ngoài Thái Dương hệ ở đâu trong vũ trụ bao là này?!". Đến đây, với một giả thuyết hết sức thuận lợi, cũng đủ để thực hiện một chương trình vô cùng tốn kém, mà tôi tin rằng "Tất cả của cải và năng lượng của nền kinh tế toàn cầu chưa hẳn đã đủ để thỏa mãn chương trình này". Nếu như chương trình đi tìm Hạt của Chúa theo lý thuyết Higg đã ngốn đến ngót 100 tỷ Dollar, mà kết quả cũng không khác sự xác định với thời gian tư duy của cá nhân tôi, trên cơ sở của một hệ thống lý thuyết của Lý học Đông phương với năng lượng của một tô phở - thì chương trình đi tìm kiếm sự sống ngoài trái Đất sẽ tốn kém hơn gấp cả 1000 lần. Một giả thuyết hệ quả tiếp theo cũng hết sức thuận lợi là các nhà khoa học xác định được một hành tinh có những điều kiện tương tự trái Đất và họ tập trung vào xác định sự sống có hay không ở hành tinh này. Kết quả là sự tốn kém giảm được một nửa và thời gian để xác minh giả thuyết của họ. Một giả thuyết hệ quả của hệ quả cũng hết sức thuận lợi là cuối cùng họ xác định được hành tinh mà họ nhắm tới có sự sống. Đến đây, có hai khả năng xảy ra: 1/ Sự sống đang ở giai đoạn sơ khai. 2/ Có một nền văn minh cao cấp mà nền văn minh nhân loại có thể hội nhập để phát triển nền văn minh trên trái Đất này. Khả năng thứ nhất chỉ đơn giản là có sự sống tồn tại ngoài Thái Dương hệ và con người có một hy vọng sẽ có một sự hội nhập toàn vũ trụ trong tương lai tính bằng ....Thiên niên kỷ. Khả năng thứ hai là sự trao đổi và giao lưu giữa hai nền văn minh và những tri thức nền tảng của nền văn minh nhân loại tiếp tục phát triển sang một giai đoạn mới. Cuối cùng vẫn cứ là một cuộc hội nhập toàn vũ trụ. Vấn đề tiếp tục được đặt ra: Nền văn minh toàn vũ trụ ấy sẽ hướng tới mục đích cuối cùng như thế nào? Một giả thuyết qúa xa vời cho một kiếp người. Nhưng về lý thuyết nó sẽ phải xảy ra nếu tất cả mọi chuyện đều thuận lợi. Vì ngay cả khi tìm thấy sự sống ngoài Thái Dương hệ thì tự nó đã không thể là chuyện của một kiếp nhân sinh. Bởi vậy nếu quả thật có một sự hội nhập giữa các nền văn minh trong vũ trụ thì cuối cùng nó vẫn kết thúc bằng một lý thuyết thống nhất. Không thể có hai lý thuyết thống nhất. Không có không gian quy ước trên 4 chiều cho cái vũ trụ này, mặc dù một phần tử có thể bay n chiều trong không gian tính từ điểm xuất phát quy ước. Như vậy, với giả thuyết thuận lợi nhất cho luận điểm của các nhà khoa học hiện đại và xác định được các nền văn minh trong vũ trụ thì cuối cùng tất cả sự phát triển của nền văn minh vẫn là một lý thuyết thống nhất. Lý thuyết ấy phải giải thích từ giây "O" cho đến lịch sử hình thành vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên, xã hội, cuộc sống cho đến từng hành vi của con người với khả năng tiên tri. Xét tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất khoa học thì đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành , nhân danh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Không thế có hai lý thuyết thống nhất. Và tiếc thay! Chính thuyết Âm Dương ngũ hành lại xác định rằng: "Không thể có sự sống ngoài Địa cầu". tức là ngay trong Thái Dương hệ với những điều kiện gần gũi trái Đất hơn cả, cũng không thể có sự sống, chưa nói đến ngoài Thái dương hệ. Đức Phật có nói đến sự hình thành nên sự sống với một xác xuất cực nhỏ như sau: Nếu ở biển Đông có một con rùa thần, cứ 4000 năm nó lại nổi lên mặt biển một lần. Trên mặt biển có một miếng ván lênh đênh. Ở giữa miếng ván ấy có một cái lỗ đủ cho đầu con rùa chui lọt. Chừng nào con rùa chui đầu đúng vào cái lỗ đó lúc ấy sự sống mới ra đời. Giáo sư Trịnh Xuân Thuân, trong một cuốn sách của ông có nói. Đại ý: Nếu có một xạ thủ bắn tên và đích ngắm có khoảng cách là hàng triệu năm ánh sáng. Khi mũi tên bắn trúng đích thì lúc đó sự sống xuất hiện. Giáo sự Trịnh Xuân Thuận cũng xác định: Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ. Hoàn toàn chính xác. Lý học Đông phương cũng có luận điểm tương tự (Tất nhiên là nhân danh nền văn hiến Việt). Xác xuât cực nhỏ, nhỏ đến mức gần bằng 0, nhưng vẫn có khả năng xảy ra. Nhưng với sự tương tác phức tạp của toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ thì sự sống vào thời điểm nó xuất hiện trong lịch sử hình thành vũ trụ, thì chỉ duy nhất xuất hiện ở trái Đất này. Đây chính là bí ẩn: "Vì sao chỉ có một con tinh trùng của giống đực được thụ tinh bởi một cái trứng của giống cái". Nếu như tôi được thuyết trình về vấn đề này thì tôi sẽ sử dụng chính nghịch lý Cantor và mô hình Vonfram với thuyết Âm Dương Ngũ hành để lập một mô hinh kết hợp chứng minh luận điểm của tôi: Không thể có sự sống ngoài trái Đất và con người hãy yêu lấy sự sống trên hành tinh này và chính cuộc sống của mình.
    1 like
  6. Có lần Đức Phật hỏi một tu sĩ theo Ngài - Đại ý: - Cho người vào một căn phòng tối, ngươi thấy gì không? - Dạ không thấy gì? Chỉ thấy tối. - Như vậy tính thấy của người vẫn thấy. Đó chính là thấy "tối". "Vật chất tối", nhưng không có nghĩa là nó không tồn tại. Tại "thấy tối" mà thôi.
    1 like
  7. Trước những nhà khoa học hàng đầu, thuôc giới tinh hoa, phát biểu rất tự tin của tôi có thể khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng tôi kiêu ngạo, hoặc gây chú ý của dư luận.....Nhưng hoàn toàn không phải như vậy, tôi rất khách quan và có cơ sở lý luận để chứng tỏ việc này. Và ít nhất tôi đã đúng một lần trước sự khám phá của Nasa trong việc tìm kiếm sự sống trên sao Hỏa. Tôi không xem "bói" cho Nasa. Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - không phải chỉ để xem "bói". Phương pháp xem bói của Lý học Đông phương chỉ là hệ quả của cả một hệ thống lý thuyết cổ xưa. Khả năng tiên tri của các phương pháp tiên tri thuộc Lý học Đông phương, chính là mô hình biểu kiến cho những quy luật vũ trụ ảnh hưởng đến từng hành vi của con người có thể tiên tri (xem bói). Điều này chứng tỏ hệ thống lý thuyết của Lý học Đông phương phải tổng hợp được tất cả các dạng vật chất tồn tại và tương tác có tính quy luật trong vũ trụ. Chỉ một vế của vấn đề là "tất cả các trạng thái tồn tại của vật chất trong vũ trụ", cũng là điều mà khoa học hiện đại đang tìm kiếm với vật chất tối. Vế còn lại là "tương tác có tính quy luật trong vũ trụ" là hệ quả tiếp theo sau khí khám phá được "tất cả các trạng thái tồn tại của vật chất" - mà trí thức khoa học hiện đại chưa khám phá ra. Nhưng Lý học Đông phương đã ứng dụng bằng những ký hiệu (Bát quái) và các mô hình biểu kiến có thể tiên tri. Điều này cho thấy một tri thức vượt trội của nền văn minh Đông phương. Chính hệ thống lý thuyết đó xác định rằng : "Không thể có sự sống ngoài trái Đất". Tất nhiên với một hệ thống lý thuyết cao cấp, nó sẽ có khả năng thẩm định những giả thuyết chưa hoàn chỉnh. Ít nhất về mặt lý thuyết nói chung là như vậy. Giả thuyết về sự sống ngoài Địa cầu của tri thức khoa học hiện đại là một giả thuyết chưa hoàn chỉnh, bởi chính nền tảng trí thức hiện đại chưa khám phá được tất cả những bí ẩn của vật chất, chưa nói đến những mối liên hệ tương tác của nó. Cuộc hội thảo này chắc cũng không thể quá hai tuần. Tôi sẽ chở đợi để chứng minh điều này. Tôi sẽ không dùng những thuật ngữ chuyên môn của Lý học để gây khó hiểu cho những ai quan tâm. Chân lý là hiển nhiên. Tôi chỉ được coi là đúng, nếu tôi chứng minh được những gì tôi phát biểu công khai ở đây.
    1 like
  8. Đã thấy bí mật sâu kín thời khởi thủy của tạo hóa 30/03/2014 08:00 (GMT + 7) TTCT - Chúng ta đang sống trong thời của những ngọn gió vũ trụ thổi dồn dập vào hồn. Bản giao hưởng vũ trụ do con người viết có thêm những giai điệu mới. TS Nguyễn Trọng Hiền và Jamie Bock (Caltech/JPL) trò chuyện với Robert Wilson (phải) tại cuộc họp báo ở Harvard. Wilson là một trong hai người phát hiện ra bức xạ nền 50 năm trước - Ảnh: Ảnh: TS Nguyễn Trọng Hiền cung cấp Hai năm trước, lần đầu tiên boson Higgs đã được con người nhìn thấy. Thế giới ăn mừng. Đó là hạt cơ bản cực kỳ nhỏ bé nhưng lại có nhiệm vụ “gia trì” cho mọi thứ vật chất thấy được trong vũ trụ để tồn tại, trong đó có bản thân chúng ta. Giai điệu đó chưa dứt thì ngày 17-3-2014, nhóm nghiên cứu BICEP2 dưới sự lãnh đạo của giáo sư John Kovac tuyên bố rằng sóng hấp dẫn từ buổi ban sơ của lịch sử vũ trụ (chính xác: từ thời điểm 10-34 giây sau Big Bang (Vụ Nổ Lớn) - hãy tưởng tượng giây phút vi phân này!) đã được con người nhìn thấy! Kinh ngạc và kỳ diệu thay! Đó là giai đoạn mà, theo thuyết Big Bang, vũ trụ từ một bào thai vô cùng nhỏ nhưng với một năng lượng cực lớn trong khoảnh khắc đã phát triển đột biến thành “lạm phát” và chuyển động với tốc độ hơn ánh sáng theo đủ mọi hướng. ● Làm sao con người có thể đứng trên quả đất bằng hạt bụi này giữa biển thiên hà trùng trùng điệp điệp lại có thể “nhìn thấy” những gì xảy ra ở lúc Big Bang cách đây 13,7 tỉ năm ánh sáng? Bức xạ của vũ trụ ban đầu, sau ngần ấy thời gian và khoảng đường, đã nhạt yếu đi nhiều và xoắn lại, nằm trong những mẫu vân bị phân cực của sóng viba vũ trụ, được biết dưới tên B-Mode. Vậy mà con người vẫn còn nhận ra được, giống như tìm được kim dưới đáy biển! Cho đến nay, các nhà vật lý chỉ quan sát được bức xạ viba nền ở dạng sóng điện từ của vũ trụ từ thời điểm năm thứ 380.000, một trạng thái thật ra vẫn còn là “sơ sinh” của vũ trụ. Đó là giai đoạn vũ trụ tiếp tục giãn nở nhưng nguội dần để cho các nguyên tử hydro và helium hình thành và vật chất kết tinh lại thành sao, thiên hà. Do sự kết tinh đó, các đám mây bức xạ trở thành “quang đãng” hơn trong vũ trụ, và người ta có thể quan sát dễ dàng hơn. Bức xạ nền này được quan sát - hết sức tình cờ - bởi hai nhà vật lý Mỹ Arno Penzias và Robert Wilson của phòng thí nghiệm Bell (Mỹ) 50 năm trước. Hai ông được tưởng thưởng giải Nobel sau đó. Tại cuộc họp báo ở Harvard, các nhà khoa học hàng đầu nói lên sự đồng tình của mình: khám phá sóng hấp dẫn ban sơ của nhóm nghiên cứu BICEP2 rất xứng đáng với giải Nobel. Ai phát hiện ra sóng hấp dẫn đầu tiên? Đó là Albert Einstein, dựa trên các phương trình trường của thuyết tương đối rộng của ông. Theo ông, vật chất ở dạng khối lượng hay năng lượng gây ra độ cong của không - thời gian bốn chiều, làm cho nó không còn là hình học phẳng Euclid nữa, mà là phi-Euclid cong. Nếu khối vật chất đó biến động, nó sẽ gây ra sóng của các độ cong và sóng đó truyền đi trong không - thời gian, giống một cô gái ngồi trên cầu đung đưa hai chân trên mặt nước gây ra các đợt sóng. Các biến động của lạm phát đã gây ra những sóng hấp dẫn được truyền đi trong không - thời gian. Các sóng này sẽ tạo nên sự phân cực trong bức xạ nền, và nhóm BICEP2 đã tìm thấy dấu ấn của chúng trong đó. Lịch sử vũ trụ học có ba thuyết khác nhau. Thuyết đầu tiên là thuyết Big Bang của Georges Lemaître và George Gamov những năm 1920 dựa trên thuyết tương đối rộng Einstein. Thuyết thứ hai của Fred Hoyle về một thế giới “tĩnh” mà TS Nguyễn Trọng Hiền gọi là “trạng thái vĩnh hằng”, không tiến hóa. Hoyle từ chối thuyết của Lemaître và Gamov mà ông gọi nó bằng cái tên “Big Bang”. Thuyết này chiếm được cảm tình của nhà thờ. Thuyết thứ ba của nhà vũ trụ học Cambridge Neil Turok là vũ trụ trải qua một chuỗi Big Bang không có khởi đầu và kết thúc, do đó không có sóng ban sơ. Cho nên khám phá sóng hấp dẫn ban sơ là một chứng cứ mạnh mẽ nhất cho thuyết Big Bang. Với khám phá sóng hấp dẫn, Stephen Hawking cho rằng mình đã “thắng cược” trước Turok. Mới năm rồi ông thua cược 100 USD vì ông cá rằng không thể nào có cái gọi là hạt Higgs. ● Vật lý từ thế kỷ 20 đầy những điều kỳ diệu, và còn tiếp tục. Khoảng một thế kỷ trước (1919), thế giới kinh ngạc khi các đoàn thám hiểm Anh công bố ánh sáng trên trời bị lệch đi trong vùng mặt trời bằng đúng góc lệch mà Einstein tiên đoán theo thuyết tương đối rộng! Tòa nhà vật lý Newton lung lay, và Einstein qua đêm đã trở thành người “anh hùng toàn cầu”. Khoa học đã lần lượt vén những bức màn huyền bí che mắt, từng lớp, lớp thô trước, lớp tinh sau, tạo ra những “cảm xúc vũ trụ” thi vị. “Chúng ta không là gì cả” - như nhà thơ Đức F. Hölderlin nói - nhưng những gì chúng ta đi tìm là tất cả”. Khám phá sóng hấp dẫn diễn ra trước thềm kỷ niệm 100 năm thuyết tương đối rộng vào năm 2015 tới. Đối với cộng đồng vật lý Việt Nam, khám phá này càng làm tăng thêm cung bậc cảm hứng khi một thành viên của nhóm BICEP2 là người Việt Nam - TS Nguyễn Trọng Hiền của Đại học Caltech. Xin chúc mừng anh. NGUYỄN XUÂN XANH ======================= Lý học giải thích sự khởi nguyên vũ trụ khác Big Bang , nhưng đoạn sau rất tương đồng. Con người còn tiếp tục thay đổi về vũ trụ quan căn bản của căn bản. Lý học được xác định trên thực tế là một học thuyết đã mô hình hóa toàn thể mọi quy luật tương tác căn bản có thể tiên tri. Khả năng tiên tri đến từng hành vi con người thể hiện trải hàng thiên niên kỷ trong nền văn minh Đông phương. Còn khoa học hiện đại đang chập chững tiến tới giây "O".
    1 like
  9. Tìm thấy hồ nước cực lớn trên mặt trăng của sao Thổ Thứ Sáu, 04/04/2014 11:30 (NLĐO)- Phi thuyền thăm dò Cassini của Cơ quan Hàng không và Không gian Mỹ (NASA) bay qua mặt trăng Enceladus của sao Thổ, giúp các nhà khoa học phát hiện tín hiệu trọng trường của một hồ nước rất lớn ở nơi này. Túi nước có độ sâu lên tới từ 8 km đến 10 km ở vĩ độ 50 và trải dài quanh cực Nam của Enceladus. Dữ liệu được Cassini cung cấp cho thấy một hồ nước lớn nằm ở độ sâu 40 km dưới bề mặt đóng băng của Enceladus có dung tích nước tương đương với hồ Superior ở Bắc Mỹ. Hồ Superior có dung tích khoảng 12.000 km cube (1 km cube = 1 tỉ mét khối). Từ dữ liệu này, nhóm nghiên cứu của GS Luciano Iess và cộng sự tại ĐH Sapienza ở Rome (Ý) thông báo phát hiện túi nước có độ sâu lên tới từ 8 km đến 10 km ở vĩ độ 50 và trải dài quanh cực Nam của Enceladus. Cassini cũng bay qua những tảng đá lớn, trong đó có vị mặn của muối và chất hữu cơ. Họ đang tiếp tục căn cứ vào hoạt động của Cassini và hành trình của Enceladus quanh sao Thổ để có thể lập bản đồ về sự phân bố vật chất ở nơi này. GS Iess cho biết Enceladus có chiều rộng khoảng 500 km là một những nơi tốt nhất để giới khoa học tìm kiếm đời sống của vi khuẩn bên ngoài trái đất. GS Andrew Coates thuộc ĐH London của Anh nhận định: “Tôi nghĩ Enceladus nên được xếp đầu bảng trong nghiên cứu về khả năng tồn tại sự sống. Có một số điều cần thiết cho sự sống như nhiệt độ ấm, có nước ở thể lỏng trong đại dương, chất hữu cơ. Vấn đề là có đủ thời gian để sự sống phát triển hay không?” Tr. Lâm (Theo BBC) ========================= Về lý thuyết theo Lý học:"Không thể có nước trên sao Thổ" - theo dạng tồn tại như nước trên trái Đất. Xác xuất để có nước ngoài trái Đất chỉ là 1/ 10 lũy thừa n x n x n.....với "n" là 1 và 1000 con số không đằng sau. Những nhà khoa học có thể nhầm lẫn về hiện tượng bên ngoài thể hiện gần giống và - với nhận thức trực quan - nên họ cho rằng đó là "nước" và đặt vấn đề sự sống ở đây. Tôi xác định một cách công khai rằng: nền văn minh hiện đại, chưa hề có một hệ thống lý thuyết để có thể xác định có tính tiên tri về các hiện tượng trong bước phát triển tiếp theo của nền văn minh này. Nó vẫn đang dò dẫm một cách chậm chạp và có phần ngây thơ để tiếp tục sự phát triển. Tôi đã xác định rằng: "Không có sự sống trên sao Hỏa". Sự việc đã nghiệm đúng! Đám giẻ rách cho rằng tôi gặp may. Nhưng người ta chỉ có thể gặp may trước những dự báo "chẳng may" đúng. Không thể gặp may từ một hệ thống lý thuyết xác định trước điều đó. Nếu chỉ vì mục đích đi tìm sự sống trong vũ trụ thì Hoa Kỳ đang làm một việc tốn kém và vô bổ. Không tin quý vị cứ bỏ ra vài chục tỷ Dollar lên thám hiểm vệ tinh sao Thổ xong là biết liền và được "khoa học công nhận", bởi tính trực quan của vấn đề: "Không hề có nước ở đây". Cũng như chẳng bao giờ có "nước " trên mặt trăng cả. Vậy mà một thời cũng rùm beng lên, nhân danh cái khoa học. Chỉ có Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - xác định trước điều này: "Không có nước trên mặt Trăng".
    1 like