-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/12/2016 in all areas
-
16/15/2008 Kính thưa các anh chị em diễn đàn Lyhocdongphuong! Học thuyết Âm dương Ngũ hành là học thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân của nó chính là nền văn hoá huyền vĩ Văn Lang – cội nguồn của dân tộc Việt Nam ta - 5000 năm trước đã từng rực rỡ, huy hoàng phía nam sông Dương Tử. Đó là quan điểm nhất quán, sáng tạo, có tính đột phá của anh Thiên Sứ mà tôi rất hâm mộ. Lấy cảm hứng từ quan điểm đó mà tôi vốn trước kia không quan tâm lắm đến học thuyết này, “kính nhi viễn chi” thôi, chú tâm vào những bài nghiên cứu, tranh luận về học thuyết này trên các diễn đàn lịch sử, lý số. Tôi nhận thấy rằng, học thuyết huyền vĩ này của tổ tiên ta đã bị che lấp, thất truyền hành ngàn năm, chỉ còn sót lại một số ít ỏi những mảnh vỡ đã bị biến dạng dưới dạng những ứng dụng cụ thể, không hoàn chỉnh cả về thực hành cũng như lý thuyết bằng văn tự của chính nền văn hoá đã đập vỡ nó. Không nhận thức được điều đó thì thôi, nhưng đã biết được thì bổn phận của mỗi chúng ta trước tổ tiên là phải đóng góp một phần, dù là nhỏ bé của mình theo từng hoàn cảnh, phục hưng, tôn vinh văn hoá Việt. Một phần quan trọng trong những đóng góp đó là phục hồi lại học thuyết Âm dương Ngũ hành nguyên thuỷ. Đó là một công việc vô cùng khó khăn nhưng không phải không làm được nếu tất cả chúng ta cùng nhiệt tâm, kiên trì, sáng tạo, khoa học và đặc biệt phải có với tấm lòng trong sạch, không vụ lợi hướng tới tổ tiên. Theo dõi các bài nghiên cứu tranh luận trên các diễn đàn, tôi cho rằng chúng ta đang thiếu hẳn sự sáng tỏ bản chất hệ thống khái niệm căn bản của học thuyết Âm dương Ngũ hành, một phương pháp luận đúng đắn xuất phát từ bản chất của những đối tượng mà ta nghiên cứu. Chúng ta phải thiên về sự hợp lý hình thức, những “tượng”, “số” mang nặng suy diễn chủ quan của mỗi chúng ta, rất khó thống nhất ý kiến và phản ánh không đầy đủ, trọn vẹn đối tượng đó. Hơn nữa, chúng ta phải lệ thuộc vào những tài liệu chữ Hán còn sót lại, lưu truyền đã hàng ngàn năm, chắc chắn đã có rất nhiều sai lệch dễ làm chệch hướng tư duy đúng đắn. Ngoài ra, sự trì trệ tư duy, sự câu nệ bảo thủ, những toan tính, đố kỵ, tự ái, … cũng cản trở sự sáng tạo, đồng tâm hiệp lưc của chúnh ta. Xưa kia, các cụ của chúng ta chắc chắn cũng quan sát thực tại khách quan, chiêm nghiệm thực tế, dùng trí tuệ của mình phát minh ra học thuyết Âm dương Ngũ hành. Ngày nay, thực tại khách quan đó vẫn còn hiện hữu. Chúng ta – con cháu các cụ - đương nhiên phải được thừa hưởng trí thông minh đó. Chúng ta lại có bao nhiêu lợi thế so với các cụ do thời đại mình mang lại. Hơn nữa, lại được những gợi ý vẫn còn vô cùng giá trị từ những “mảnh vỡ văn minh” của các cụ còn sót lại... Chẳng có lý do gì chúng ta không thể nghĩ ra được cái mà các cụ đã nghĩ ra từ hàng mấy ngàn năm trước, và nhất định phải tốn ít thời gian hơn. Tâm niệm những điều đó, lại được anh Thiên Sứ gợi ý rằng, chúng ta chỉ có thể phục hồi lại được học thuyết Âm dương Ngũ hành từ những giá trị của nền văn minh sản sinh ra nó – nền văn minh tộc Việt, tôi chẳng tự lượng sức mình, cố gắng xây dựng “Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành” và trình ra đây để cùng anh chị em trong diễn đàn thảo luận, cũng là để tỏ một phần tấm lòng tôi với tổ tiên tộc Việt. Suy nghĩ còn nhiều chỗ chưa thấu đáo, diễn tả còn nhiều chỗ chưa hết ý, mong anh chị em lượng thứ. VÔ TRƯỚC1 like
-
Xin lỗi vì TL đưa nhầm lá số: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=B%C3%A9+Di%E1%BB%85m&ldate=3,11,10,21,1&year=0&gender=f&view=screen&size=2 Bạch hổ cung tật : máu trắng1 like
-
3. Vận hành của dòng Khí âm a. Vận động của dòng khí âm trong Tam tài: Vì dòng Khí âm là dòng các hiệu ứng của các tương tác biến đổi, phát triển sự vật, nên vận động của Khí âm trong Tam tài thể hiện qua chiều các quan hệ tương tác giữa các yếu tố của chúng. Quan hệ tương tác trong Tam tài (Dương khắc Âm , Âm sinh Chung, Chung khắc Dương) và bản chất của Âm qui định dòng Khí âm xuất phát từ Âm qua Chung rồi tới Dương. Những biến động trong Âm làm ảnh hưởng tới sự hình thành các giá trị mới trong tương tác âm dương theo quan hệ Âm sinh Chung tác động tới Chung. Hiệu ứng này theo quan hệ Chung khắc Dương làm cho Dương phải thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của Âm. Sự thay đổi đó lại theo quan hệ Dương khắc Âm mà tác động tới Âm có tác dụng hỗ trợ hay kìm hãm sự biến động vừa xuất hiện đó trong Âm. Như vậy, vận động của dòng Khí âm trong Tam tài như sau: Âm -> Chung -> Dương Trong thời kỳ Tiên thiên, các yếu tố chưa xung đột, mâu thuẫn, chúng đều vận động đúng theo bản chất của chúng. Dòng Khí âm vận hành qua hết các yếu tố âm, rồi qui tàng ở Thổ, tiếp đến qua hết các yếu tố dương. Tuy nhiên, khi tới thời kỳ Hậu thiên, trong quá trình tương tác âm dương, giữa những yếu tố nảy sinh xung đột dẫn đến sự phân bố lại vị trí các yếu tố theo nguyên lý trong Thái có Thiếu, trong Thiếu có Thái, làm cho quĩ đạo vận hành của Khí âm trong sự vật cũng thay đổi theo. b. Vận động của dòng khí âm trong Ngũ hành: Trong thời kỳ Tiên thiên: Nếu như dòng Khí dương vận động trong sự tương tác làm cho các yếu tố của sự vật có xu hướng quay về bản chất của nó, nên bản chất âm dương của các yếu tố quyết định sự vận hành của dòng Khí dương, thì dòng Khí âm có xu hướng làm cho sự vật biến đổi, sinh ra cái mới nên tính “Thái”, “Thiếu”(“cũ”, “mới”) của các yếu tố quyết định sự vận hành của Khí âm. Như đã thấy, trong thời kỳ Tiên thiên, theo bản chất âm dương, để phân tích sự vận hành của dòng Khí dương, Ngũ hành được mô tả trong đồ hình Tiên thiên Ngũ hành như sau: Ta cũng biết rằng, Thuỷ thuộc Thái dương, Hoả thuộc Thái âm, Kim thuộc Thiếu âm, Mộc thuộc Thiếu dương. Để tìm hiểu vận hành của Khí âm trong Ngũ hành, ta phải phân bố lại các hành theo bản chất “Thái” (tĩnh, cũ, có trước), “Thiếu” (động, mới, có sau) như sau: Ta biết rằng, Kim, Mộc là các hành có khả năng thay thế cho Thủy, Hỏa trong sự vật mới khi mâu thuẫn âm dương đủ gay gắt dẫn đến sự tiêu vong của sự vật cũ. Như vậy, về bản chất Kim thuộc Thái, Mộc thuộc Thiếu. Khí âm có bản chất vận hành từ Thiếu (mới) tới Thái (cũ). Mặt khác, Thái thuộc dương, Thiếu thuộc Âm nên trong Thiếu (do Thiếu thuộc âm đồng bản chất với Khí Âm), dòng khí âm vận hành theo đúng bản chất của nó từ Thiếu tới Thái. Ngược lại, trong Thái, do Thái (thuộc dương) nghịch bản chất với Khí âm, nên dòng Khí âm phải vận hành từ Thái tới Thiếu. Như vậy, từ vận hành của dòng Khí âm trong Tam tài ta suy ra vận hành của dòng Khí âm trong Ngũ hành như sau: Âm -> Chung -> Dương => Thiếu -> Chung -> Thái = > Mộc -> Kim -> Thổ -> Thuỷ -> Hoả Đó là đồ hình Tiên thiên Ngũ hành Phi tinh mô tả vận động của dòng Khí âm qua Ngũ hành trong thời kỳ Tiên thiên. Trong thời kỳ Hậu thiên: Do mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tương tác “Thái”, “Thiếu” giữa những yếu tố của sự vật, các hành được phân bố lại theo nguyên lý trong “Thái”, có “Thiếu” , trong “Thiếu” có “Thái”. Như đã phân tích ở trên, Thủy, Kim thuộc Thái. Hỏa, Mộc thuộc Thiếu nên khi phân bố lại các hành thì Hỏa, Mộc đổi chỗ cho nhau. Kết quả, phân bố Ngũ hành trở thành: Nhận xét rằng, sự khác biệt của sự phân bố Ngũ hành trong thời kỳ Tiên thiên và Hậu thiên trong tương tác “Thái”, “Thiếu” chỉ khác nhau ở chỗ có sự hoán vị của hai hành Hỏa và Mộc. Do đó, vận động của Khí dương trong Ngũ hành ở thời kỳ Hậu thiên là: Hỏa -> Kim -> Thổ -> Thuỷ -> Mộc Đó là đồ hình Hậu thiên Ngũ hành Phi tinh mô tả vận động của dòng Khí âm qua Ngũ hành trong thời kỳ Hậu thiên. c. Vận động của Khí âm trong Bát quái: Tiên thiên Bát quái Phi tinh: Như ta đã biết, phân bố các quái trong Ngũ hành ở thời kỳ Tiên thiên, khi mâu thuẫn “Thái”, “Thiếu” trong sự vật chưa bộc lộ rõ , như sau Trong thời kỳ Hậu thiên, do mâu thuẫn âm dương, Ngũ hành đưộc phân bố lại theo nguyên lý: trong “Thái” có “Thiếu”, trong Thiếu” có “Thái” như sau : Lúc ban đầu của thời kỳ Hậu thiên, mâu thuẫn các quái chưa bộc lộ, chúng vẫn được phân bố theo bản chất ban đầu của chúng trong Ngũ hành Hậu thiên : Đó là phân bố Tiên thiên Bát quái Phi tinh. Nhận xét rằng, Thái thuộc dương, tịnh, nghịch bản chất với Khí âm; Thiếu thuộc âm, động, đồng bản chất với Khí âm. Nên, trong Thiếu, dòng Khí âm vận hành theo bản chất của nó từ yếu tố mới (Thiếu) tới yếu tố cũ (Thái). Trong Thái, ngược lại, dòng Khí âm vận hành có chiều từ Thái tới Thiếu. Do đó, vận động của dòng Khí âm trong thời kỳ này như sau: - Trong “Thiếu”: Khí âm có thể vận hành Thiếu tới Thái . + Trong Hoả: CẤN -> KHÔN. (Các quái âm) + Trong Kim: KHÃM-> TỐN. (Các quái âm) - Trong “Thái”: Khí âm phải vận hành từ Thái tới Thiếu. + Trong Thuỷ: CÀN -> ĐOÀI. (Các quái dương) + Trong Mộc: CHẤN -> LY. (Các quái dương) Từ đồ hình Hậu thiên Ngũ hành Phi tinh: Hỏa -> Kim -> Thổ -> Thuỷ-> Mộc ta suy ra thứ tự vận hành của dòng khí âm trong bát quái sẽ là: CẤN -> KHÔN -> KHẢM -> TỐN -> THỔ -> CÀN -> ĐOÀI -> CHẤN ->LY Đó là đồ hình Tiên thiên Bát quái Phi tinh, mô tả vận động của dòng Khí âm trong bát quái thời kỳ Tiên thiên. (Còn nữa)1 like
-
Hậu thiên Bát quái: Trong thời hỳ Hậu thiên, do mâu thuẫn nảy sinh trong tương tác âm dương, các quái cũng được phân bố lại theo nguyên lý trong Âm có Dương, trong dương có âm. Do bản chất các hành nằm trong các quái “Thái” nên sự phân bố lại chỉ phải đổi chỗ các quái “Thiếu” ĐOÀI với KHẢM, CẤN với LY ta được đồ hình phân bố Hậu thiên bát quái như sau: Và tương ứng với nó, đồ hình Tiên thiên bát quái sau khi đổi chỗ ĐOÀI với KHẢM, CẤN với LY theo đúng phân tích trên, biến thành đồ hình : CÀN -> KHẢM -> CẤN -> CHẤN -> TỐN -> ĐOÀI -> LY -> KHÔN Đó là đồ hình Hậu thiên Bát quái mô tả vận động của dòng Khí dương qua Bát quái trong thời lỳ Hậu thiên. (Còn nữa)1 like
-
V./ KHÍ VÀ VẬN ĐỘNG CỦA KHÍ 1. Khái niệm Khí Trong tương tác âm dương, các lực lượng tương tác với nhau tạo ra các hiệu ứng. Những hiệu ứng này không đồng thời tác động tới tất cả các yếu tố của sự vật một cách như nhau mà tác động theo một trật tự nhất định do bản chất của các yếu tố khác nhau tạo nên. Sự lưu chuyển có thứ tự này của các hiệu ứng làm ta hình dung như có một dòng khí vô hình chảy qua các yếu tố làm cho các yếu tố đó hoạt động, tương tác lẫn nhau. Ta gọi đó là các dòng khí. Các dòng khí do các yếu tố có tính dương, âm gây ra nên cũng có hai loại dòng khí tương ứng: dòng Khí âm và dòng Khí dương. Dòng Khí dương là dòng thứ tự các hiệu ứng do các yếu tố dương sinh ra có tác dụng làm cho các yếu tố của sự vật giữ nguyên hay trở về bản chất ban đầu, làm cho sự vật vận hành như chính bản chất vốn có của nó. Dòng Khí âm là dòng thứ tự các hiệu ứng do các yếu tố âm sinh ra có tác dụng làm cho các yếu tố của sự vật biến đổi, sinh ra cái mới, vận động tiến hoá không ngừng. 2. Vận hành của Khí dương Trong thời kỳ Tiên thiên, các yếu tố chưa xung đột, mâu thuẫn, chúng đều vận động đúng theo bản chất của chúng. Dòng Khí dương bắt đầu từ yếu tố dương nhất (hành Thuỷ), vận hành qua hết các yếu tố dương đến qua hết các yếu tố âm rồi qui tàng ở Thổ. Chiều thuận của dòng Khí dương là từ Thái tới Thiếu. Tuy nhiên, khi tới thời kỳ Hậu thiên, trong quá trình tương tác âm dương, giữa những yếu tố nảy sinh xung đột dẫn đến sự phân bố lại vị trí các yếu tố theo nguyên lý trong âm có dương, trong dương có âm, làm cho quĩ đạo vận hành của dòng Khí dương trong sự vật cũng thay đổi theo. a. Vận động của Khí dương trong Tam tài: Vì dòng Khí dương là dòng các hiệu ứng của các tương tác âm dương, nên vận động của dòng Khí trong Tam tài thể hiện qua chiều các quan hệ tương tác giữa chúng. Quan hệ Tam tài Dương khắc Âm, Âm sinh Chung qui định dòng Khí dương xuất phát từ Dương qua Âm rồi tới Chung. Những hiệu ứng dương nảy sinh trong Dương tác động tới Âm thông qua tương tác Dương khắc Âm có tác dụng kìm hãm động tính của Âm, ảnh hưởng tới quá trình hình thành các giá trị mới. Do Âm sinh Chung, Chung thụ hưởng những giá trị mới đó, nên sự ảnh hưởng này gây ra biến động trong Chung và tiếp theo, xuất hiện những hiệu ứng tác động tới Dương thông qua quan hệ Chung khắc Dương. Như vậy, vận động của dòng Khí dương trong Tam tài như sau: Dương -> Âm -> Chung b. Vận động của dòng Khí dương trong Ngũ hành: Trong thời kỳ Tiên thiên: Như trên đã thấy, trong sự vật, các hành được phân bố như sau trong thời kỳ Tiên thiên theo bản chất âm dương của chúng như sau: Ở đây, các hành Thủy (Thái dương), Mộc (Thiếu dương) thuộc là các hành dương tạo nên Dương trong Tam tài. Kim (Thiếu âm), Hỏa (Thái âm) là các hành âm tạo nên Âm trong Tam tài. Trong Dương, dòng Khí dương có thể vận hành theo đúng với bản chất của nó từ những yếu tố Thái tới Thiếu. Do đó, trong Dương, dòng Khí dương có chiều là: Thủy -> Mộc. Trong Âm, dòng Khí dương không thể vận hành theo đúng với bản chất của nó là từ Thái tới Thiếu mà vận động ngược lại (nguyên lý vận hành âm dương nghịch nhau). Do đó trong Âm, dòng Khí âm có chiều là: Kim -> Hỏa. Do đó, vận động của dòng Khí dương trong Ngũ hành là: Dương -> Âm -> Chung Thủy -> Mộc -> Kim -> Hỏa -> Thổ Đó là đồ hình Tiên thiên Ngũ hành mô tả vận động của khí dương qua Ngũ hành trong thời kỳ Tiên thiên. Trong thời kỳ Hậu thiên: Do mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tương tác âm dương giữa những yếu tố của sự vật, các hành được phân bố lại theo nguyên lý trong Âm có dương, trong Dương có âm như sau: (Đồ hình phân bố Ngũ hành trong thời kỳ Tiên thiên, trong Dương chi có hành dương là Thuỷ và Mộc, trong Âm chỉ có hành Âm là Hoả và Kim) Nhận xét rằng, sự khác biệt của sự phân bố Ngũ hành trong thời kỳ Tiên thiên và Hậu thiên chỉ khác nhau ở chỗ có sự hoán vị của hai hành Kim và Mộc. Do đó, vận động của dòng Khí dương trong Ngũ hành ở thời kỳ Hậu thiên chính là vận động của dòng Khí dương trong thời kỳ Tiên thiên khi ta hoán vị hai hành Kim và Mộc. Vì vậy, vận động của dòng Khí dương trong Ngũ hành thời kỳ Hậu thiên là: Thủy -> Kim -> Mộc -> Hỏa -> Thổ Đó là đồ hình Hậu thiên Ngũ hành mô tả vận động của dòng khí dương qua Ngũ hành trong thời kỳ Hậu thiên. c. Vận động của dòng khí dương trong Bát quái: Tiên thiên Bát quái: Như ta đã biết, phân bố các quái trong Ngũ hành ở thời kỳ Tiên thiên, khi mâu thuẫn âm dương trong sự vật chưa bộc lộ rõ , như sau Ở thời kỳ Hậu Thiên, do mâu thuẫn âm dương, các hành phân bố lại theo nguyên lý trong âm có dương, trong dương có âm như sau: Lúc ban đầu của thời kỳ Hậu thiên, mâu thuẫn các quái chưa bộc lộ, chúng vẫn được phân bố theo bản chất ban đầu của chúng trong Ngũ hành Hậu thiên như sau: Đó là phân bố Tiên thiên Bát quái trong thời kỳ Hậu thiên. Vận động của dòng Khí dương trong thời kỳ này vẫn tuân theo qui tắc xuất phát từ yều tố dương nhất là CÀN, theo Hậu thiên Ngũ hành, qua hết các quái dương tới các quái âm: - Trong Dương: dòng Khí dương vận hành theo đúng bản chất của nó từ Thái tới Thiếu + Trong Thuỷ: CÀN -> ĐOÀI. (Các quái dương) + Trong Kim: TỐN -> KHÃM. (Các quái âm) - Trong Âm, dòng Khí dương vận hành không thể theo bản chất của nó là từ Thái tới Thiếu mà phải từ Thiếu tới Thái + Trong Mộc: LY -> CHẤN. (Các quái dương) + Trong Hoả: CẤN -> KHÔN. (Các quái âm) Suy từ vận hành của dòng Khí dương trong Ngũ hành Hậu thiên: Thuỷ > Kim >Mộc > Hoả > Thổ , hết các quái dương tới các quái âm ta thu được sự vận hành của dòng khí dương trong bát quái sẽ là: CÀN -> ĐOÀI -> LY -> CHẤN -> TỐN -> KHÃM -> CẤN -> KHÔN ->THỔ Đó là đồ hình Tiên thiên Bát quái mô tả vận động của dòng khí dương qua Bát quái trong thời lỳ Tiên thiên. (Còn nữa)1 like
-
5. Quan hệ bát quái Như trên đã phân tích, hành Thổ xuất phát từ Chung trong Tam tài, nó bao gồm những lực lượng có tính âm và những lực lượng có tính dương, tuy khác nhau về “tính” nhưng lại thống nhất, tương tác với nhau không mâu thuẫn lẫn nhau. Do đó, trong hành Thổ cũng chia thành 2 lực lượng có tính âm dương khác nhau là âm Thổ và dương Thổ. Căn cứ vào quan hệ Ngũ hành ta nhận thấy: - Cặp Kim, Mộc sinh cặp Thuỷ, Hoả thì Kim khắc Mộc, Thuỷ khắc Hoả,Thuỷ sinh Mộc và Hoả khắc Kim. Khái quát lên, ta thu được sơ đồ quan hệ giữa các yếu tố trong quan hệ tương sinh như sau: (Đồ hình tương sinh) - Cặp Thuỷ, Kim khắc cặp Hoả, Mộc thì Kim sinh Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả,Thuỷ sinh Mộc và Hoả khắc Kim. Khái quát lên, ta thu được sơ đồ quan hệ giữa các yếu tố trong quan hệ tương sinh như sau: (Đồ hình tương khắc) Biểu diễn những yếu tố Ngũ hành trên sơ đồ vòng tròn theo chiều tương sinh như sau: Áp dụng đồ hình tương sinh ở trên cho các quan hệ tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim ta được quan hệ của bát quái là hệ quả của quá trình tương sinh như sau: Áp dụng đồ hình tương khắc ở trên cho các quan hệ tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ ta được quan hệ của bát quái là hệ quả của quá trình tương khắc như sau: Kết hợp cả hai quá trình tương sinh và tương khắc ta thu được đồ hình mô tả quan hệ bát quái như sau: Theo đồ hình ta thấy quan hệ CÀN với KHẢM, CẤN với CHẤN, KHÔN với LY, ĐOÀI với TỐN, DƯƠNG THỔ với ÂM THỔ có khi là tương sinh, có khi là tương khắc tuỳ thuộc chúng tham gia vào quan hệ nào. Các quan hệ đó là tương sinh khi hành chứa chúng tham gia vào quan hệ tương khắc và ngược lại, các quan hệ đó là tương khắc nếu các hành chứa chúng tham gia vào các quan hệ tương sinh.6. Cấu trúc âm dương ngũ hành của một sự vật Một sự vật đầy đủ hay một tiểu vũ trụ là tất cả các yếu tố cấu thành nên sự vật ấy, tồn tại và biến đổi cùng sự vật cùng các quan hệ tương hỗ giữa chúng, quyết định sự vận động, phát triển của nó trong sự tương tác với những yếu tố bên ngoài sự vật. Một sự vật bất kỳ cũng chỉ là một thành phần của vạn tượng, vận động và phát triển không ngừng do tương tác âm dương trong bản thân chúng và toàn vũ trụ. Do tương tác âm dương, trong sự vật cũng hình thành những lực lượng có xu hướng phát triển, biến đổi, phá vỡ trạnh thái ổn định, cân bằng hiện tại, gọi là Âm. Đồng thời tồn tại những lực lượng có xu hướng bảo tồn trạng thái hiện có, gọi là Dương. Sự tương tác giữa Âm, Dương sinh ra các giá trị mới để sự vật phát triển. Cả Âm lẫn Dương đều có xu hướng chiếm đoạt cho mình giá trị mới đó. Do cùng chung sáng tạo ra giá trị mới, Âm, Dương thống nhất với nhau. Do trang giành chiếm đoạt giá trị mới, Âm, Dương mâu thuẫn nhau. Dù mâu thuẫn với nhau nhưng chúng đều có mục tiêu tạo ra nhiều giá trị mới hơn, do đó qui luật chung của sự vật là phát triển, biến đổi không ngừng. Âm, Dương thống nhất với nhau tạo nên một lực lượng thứ ba là Chung, bao gồm nhũng lực lương đại diện cho sự thống nhất đó mà cả Âm lẫn Dương đều tôn trọng. Âm, Dương, Chung được gọi là Tam tài trong sự vật. Trong tương tác Âm, Dương, các yếu tố thứ cấp tiếp theo như Ngũ hành, Bát quái,… cũng lần lượt hình thành tương tự như trong Vạn tượng mà ta đã nghiên cứu ở các phần trên. Những lý luận trên và tiếp theo có thể dùng chung cho Vạn tượng hoặc sự vật riêng mà không gây ra sự mâu thuẫn nào. 7. Ý nghĩa của các Quái và các quẻ Dịch Theo các phân tích trên, ta có thể xác định ý nghĩa cùa các quái như sau: * Thủy (Thái dương) Dương ban đầu của sự vật. Lực lượng đang lãnh đạo xã hội, giới chủ, nhà nước, giới quyền thế, chính quyền, có thế lực… Đặc tính: Bảo thủ, lạc hậu, thiếu năng động, muốn bảo tồn cái cũ, bảo tồn hiện trạng, cương mạnh, không uyển chuyển, chủ động, cầm quyền… 1. CÀN: Thái Thủy, là bản chất ban đầu của Thủy. 2. KHẢM: Thiếu Kim, là lực lượng mới, đúng đắn, tiến bộ sinh ra từ thành phần ưu tú nhất của Kim, nằm trong Thủy do sự tương tác Kim <-> Thủy. Khi chuyển sang Thủy, nó trở nên hơi thái quá về đặc tính của mình. Thế lực ban đầu còn hạn chế, nhưng do tiến bộ nên có xu thế tăng dần lên, tuy nhiên, do thái quá nên không thể trở thành Thủy tương lai… * Hỏa (Thái âm) Là âm ban đầu của sự vật. Là lực lượng chính, rất lớn trong xã hội, bị lãnh đạo, giới làm công, người lao động, không có quyền thế, không có thế lực, bị trị. Là lực lượng trực tiếp lao động sáng tạo ra giá trị vật chất mới cho xã hội, có sức mạnh tập thể, là dân, quần chúng… Đặc tính: Luôn vận đông vươn lên. Uyển chuyển, mềm dẻo, năng động, dễ hỗn loạn, vô chính phủ, dễ cảm thông nhau, có sức mạnh vật chất, khả năng thực tế cao, cần có lực lượng cầm đầu… 1. KHÔN: Thái Hỏa, là bản chất ban đầu của Hỏa. 2. LY: Thiếu Mộc, là lực lượng tiến bộ sinh ra từ thành phần ưu tú nhất của Mộc, nằm trong Hỏa do tương tác Hỏa <-> Mộc. Có đặc tính rất năng động, đúng đắn, tiến bộ. Khi chuyển sang hành Hỏa, đặc tính của nó trở nên hơi thái quá. Thế lực ban đầu còn nhỏ, yếu nhưng tăng dần vì đúng đắn, tiến bộ. Tuy nhiên, do hơi thái quá nên không thể trở thành Hỏa tương lai… * Kim (Thiếu âm) Là lực lượng mới hình thành trong Dương, tiến bộ, có khả năng thay thế cho lực lượng thống trị cũ (Dương). Có chân lý. Ban đầu còn nhỏ, yếu nhưng tất yếu phát triển làm chủ xã hội. Đại diện cho sự tiến bộ, đổi mới trong tầng lớp trên và sẽ trở thành lãnh đạo trong tương lai… 1. TỐN: Thái Kim, là bản chất ban đầu của Kim 2. ĐOÀI: Thiếu Thủy, là lực lượng năng động, tiến bộ nằm trong Kim, sinh ra từ lực lượng tiến bộ của Thủy trong tương tác Kim <-> Thủy. Khi chuyển sang Kim, sự tiến bộ được hoàn thiện do tiếp thu mặt tích cực của Mộc. Ban đầu, thế lực còn nhỏ, yếu nhưng sau tăng lên mạnh mẽ, trở thành Thủy tương lai… * Mộc (Thiếu dương) Là lực lượng mới hình thành trong âm, tiến bộ theo sự phát triển đi lên của sự vật. Rất năng động, uyển chuyển mà đứng đắn. Nhậy cảm và hỗ trợ cái mới, tiến bộ. Là đại diện cho lực lượng âm tương lai… a. CHẤN: Thái Mộc, là bản chất ban đầu của Mộc b. CẤN: Thiếu Hỏa, là lực lượng tiến bộ nhất trong Mộc, sinh ra từ lực lượng tiến bộ nhất trong Hỏa, do tương tác Mộc <-> Hỏa. Khi chuyển sang Mộc, những đặc tính tiến bộ được hoàn thiện do ảnh hưởng từ tính tích cực của Mộc. Thế lực ban đầu nhỏ nhưng phát triển mau chóng, trở thành Hỏa tương lai… * Thổ (Chung) Là phần Chung của toàn sự vật, cả Âm lẫn Dương đều tôn trọng, thống nhất. Là những giá trị đại diện cho toàn Xã hội, là ý dân, văn hóa, Quốc hội, báo chí,… 1. Thổ dương: Bản chất của Thổ. 2. Thổ âm: Các giá trị chung mới đang phát sinh, phát triển. Ban đầu còn ít, nhưng sẽ tăng nhanh và thắng thế… Quẻ Dịch gồm các quái chồng lên nhau: Thượng quái và hạ quái, thể hiện quan hệ tương tác giữa các lực lượng trong sự vật mà các quái trong quẻ làm đại diện. Thượng quái: Khách thể, bị trị, bị động, đóng vai trò âm, … Hạ quái: Chủ thể, cai trị, chủ động, đóng vai trò dương, … Trên cơ sở ý nghĩa của các quái ta có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của các quẻ Dịch một cách logíc, khoa học và không còn huyền bí, khó hiểu.1 like
-
3. Quan hệ của Ngũ hành Những lực lượng trong sự vật quan hệ với nhau trong sự tương tác thống nhất và mâu thuẫn. Các quan hệ được tổng hợp thành 2 quan hệ cơ bản là tương sinh và tương khắc. uan hệ tương sinh: A sinh B, ký hiệu A -> B. Trong quan hệ này, các yếu tố của lực lượng A hỗ trợ cho lực lượng B phát triển hoặc chuyển từ A sang B. Bản chất của quan hệ này là ở chỗ, tác động của A trong tương tác với các lực lượng khác làm cho B thu được nhiều giá trị mới, kết quả của tương tác âm dương, hơn. Quan hệ tương khắc: A khắc B, ký hiệu A --- > B. Trong quan hệ này, những yếu tố của lực lượng A trong quá trình tương tác với các yếu tố khác trong Vạn tượng gây nên những hiệu ứng làm cho B không thu được nhiều giá trị mới, được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương, làm cản trở sự phát triển của B. Người ta quan sát và phát hiện ra rằng, trong quan hệ tương sinh A sinh B, nếu A quá vượng (mạnh), thì B không những không phát triển tốt hơn lên, không thu thêm được nhiều giá trị mới hơn mà còn bị suy giảm đi, thu được ít giá trị mới hơn. Lúc này, quan hệ tương sinh chuyển thành quan hệ được gọi là tương thừa, một thái quá của tương sinh: A tương thừa B. Trong quan hệ tương khắc, nếu A khắc B, nếu A quá yếu, B quá vượng thì A không những không thể khắc B mà còn bị B triệt. Quan hệ tương khắc chuyển thành quan hệ tương vũ, một trường hợp bất cập của tương khắc: A tương vũ B. Tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ là những quan hệ cơ bản của các yếu tố trong sự vật. Quan hệ tương sinh, tương khắc phổ biến trong sự phát triển ổn định của sự vật, thời kỳ Hậu thiên. Quan hệ tương thừa, tương vũ sảy ra khi sự vật trở nên thái quá hay bất cập, có những yếu tố quá vượng hay quá yếu. Dưới đây ta xét quan hệ 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong trạng thái phát triển ổn định của Vạn tượng, tức là chỉ bao gồm các quan hệ tương sinh và tương khắc. Như trên đã chứng minh, quan hệ Tam tài như sau: Dương khắc Âm: Dương --- > Âm m sinh Chung: Âm ->Chung Chung khắc Dương: Chung --- > Dương Mặt khác, như đã thấy, Hoả là bản chất ban đầu của Âm , Thuỷ là bản chất của Dương và Thổ chính là Chung trong Tam tài khi mô tả sự vật bằng cấu trúc ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Do đó: Thuỷ khắc Hoả: Thuỷ --- > Hoả oả sinh Thổ: Hoả -> Thổ Thổ khắc Thuỷ: Thổ --- > Thuỷ Ở đây ta thấy một cấu trúc quan hệ cơ bản sau: Nếu : A sinh B. C khắc A. Thì B khắc C. Điều này được lý giải như sau: Mọi sự vật phát triển, tương tác với các sự vật khác luôn có xu hướng giành lấy nhiều nhất có thể được lợi ích cao nhất hay giá trị mới nhiều nhất. Khi A sinh B mà C khắc A thì, để bảo vệ lợi ích của mình, B phải khắc C. Quan hệ này có thể coi như một quan hệ cơ bản, dùng để xác định các quan hệ của các đối tượng trong sự vật, gọi là quan hệ cơ bản 1. Như ở trên ta đã xác định được quan hệ của Kim – Thuỷ và Mộc – Hoả như sau: im sinh Thuỷ: Kim -> Thuỷ ộc sinh Hoả: Mộc -> Hoả Mặt khác, ta cũng đã xác định rằng, Kim và Mộc đóng vai trỏ Dương, Âm trong sự vật mới được sinh ra khi sự vật cũ mất đi. Do Dương khắc Âm nên quan hệ Kim – Mộc là: Kim khắc Mộc: Kim --- > Mộc. Do Kim sinh Thuỷ mà Thuỷ khắc Hoả nên, theo cấu trúc quan hệ cơ bản 1 đã xem xét ở trên ta được: Hoả khắc Kim: Hoả --- > Kim. Như trên ta cũng thấy, do Thuỷ khắc Hoả làm cho Hoả không thể quá động nên mới nảy sinh Mộc để kìm bớt tính động của Hoả. Có nghĩa là, sự tác động của Thuỷ tới Hoả là nguyên nhân sinh ra của Mộc, Do đó quan hệ của Thuỷ và Mộc phải là: huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc Áp dụng quan hệ cơ bản 1 cho Thổ, Thuỷ, Mộc ta thấy: Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc nên: Mộc khắc Thổ: Mộc --- > Thổ. Lại Áp dụng quan hệ cơ bản 1 cho Thổ, Mộc, Kim ta thấy: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ nên: hổ sinh Kim: Thổ -> Kim Như vậy, 10 quan hệ tương tác lẫn nhau giữa 5 hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ đã được xác định như sau: Thuỷ khắc Hoả: Thuỷ --- > Hoả. Hoả sinh Thổ: Hoả Thổ. Thổ khắc Thuỷ: Thổ --- > Thuỷ. im sinh Thuỷ: Kim -> Thuỷ. ộc sinh Hoả: Mộc -> Hoả. Kim khắc Mộc: Kim --- > Mộc. Hoả khắc Kim: Hoả --- > Kim. huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc. huỷ sinh Mộc: Thuỷ -> Mộc. hổ sinh Kim: Thổ -> Kim. Sơ đồ ký hiệu quan hệ ngũ hành như sau: Qua sơ đồ ta thấy có 2 vòng quan hệ tương sinh và tương khắc như sau: Quan hệ tương sinh: Kim -> Thuỷ -> Mộc -> Hoả -> Thổ -> Kim Quan hệ tương khắc: Thuỷ --- > Hoả --- > Kim --- > Mộc --- > Thổ --- > Thuỷ. Nhận xét trên sơ đồ ta thấy quan hệ cơ bản thứ 2 như sau: Nếu : A sinh B. B sinh C. Thì A khắc C. Quan hệ này cũng có thể coi như một quan hệ cơ bản, dùng để xác định các quan hệ của các đối tượng trong sự vật, gọi là quan hệ cơ bản 2. 4. Sự phân bố các yếu tố - nguyên lý trong Âm có dương, trong Dương có âm Trong thời kỳ Tiên thiên, sự phân hoá cùa sự vật thành các yếu tố của Tam tài Ngũ hành có thể biểu diễn như sau: Sự vật tiếp tục bị phân hoá thành các yếu tố thứ cấp bậc 3 như sau: Như vậy, trong thời kỳ Tiên thiên: Trong hành Thuỷ có 2 quái CÀN vả ĐOÀI. Trong hành Mộc có 2 quái CHẤN và LY Tronh hành Kim có 2 quái TỐN và KHẢM Trong hành Hoả có 2 quái KHÔN CẤNTrong thời kỳ Hậu thiên, do mâu thuẫn âm dương, các yếu tố bị phân bố lại theo nguyên lý trong âm có dương, trong dương có âm, trong Thái có Thiếu như sau: Đối với các Hành: Đối với các Quái: Như vậy, trong thời kỳ Hậu thiên: Trong hành Thuỷ có 2 quái CÀN vả KHẢM. Trong hành Mộc có 2 quái CHẤN và CẤN Tronh hành Kim có 2 quái TỐN và ĐOÀI Trong hành Hoả có 2 quái KHÔN và LY1 like
-
2. Sự xuất hiện của Ngũ hành Trong sự vật, các lực lượng tương tác với nhau tạo ra và cùng chia sẻ, thụ hưởng những giá trị mới M để phát triển. Trong quá trình đó, mỗi lực lượng đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới đó càng nhiều càng tốt, bảo toàn bản chất ban đầu của chúng. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn, đấu tranh lẫn nhau giữa chúng, cản trở sự hình thành những giá trị mới. Mặt khác, sự xuất hiện âm dương sinh ra giá trị mới và sự chiếm đoạt những giá trị mới này cũng nhằm phát triển các lực lượng Âm, Dương, Chung để sinh ra ngày càng nhiều giá trị mới hơn. Do đó, qui luật chung của sự vật là phát triển không ngừng, hay giá trị mới M có xu thế càng ngày càng tăng. Mâu thuẫn giữa các lực lượng trong sự vật đi ngược lại qui luật đó, hỗ trợ cho những mầm mống giải pháp giải quyết mâu thuẫn, vốn tiềm ẩn trong sự vật, có điều kiện phát triển, trở thành những lực lượng mới tham gia tương tác với các lực lượng khác trong sự vật. Sự tham gia tương tác của những lực lượng mới này có xu hướng hỗ trợ hoặc hạn chế hoạt động của các lực lượng khác theo hướng giảm, hóa giả mâu thuẫn đang gay gắt để sự vật phát triển ổn định, thuận lợi hoặc trở thành những yếu tố chính trong sự vật mới tiếp theo, khi mâu thuẫn phát triển gay gắt, làm tiêu vong sự vật cũ và các yếu tố cũ bị suy vong đi. Theo nguyên lý đó, trong tương tác giữa hai lực lượng Âm, Dương trong Tam tài, Dương có xu hướng trở nên ngày càng “tĩnh” hơn theo bản chất ban đầu dương của nó, làm cho mâu thuẫn âm dương càng gay gắt, giá trị mới M được tạo ra có xu hướng giảm. Trong Chung, là nơi tồn tại và thống nhất các thành phần Âm, Dương, những mầm mống tăng thêm động tính xâm nhập sang Dương, có điều kiện thuận lợi phát triển thành những lực lượng mới làm cho Dương trở nên “động” hơn. Lực lượng mới đó phát triển sau, lại mang động tính nên thuộc Thiếu âm, gọi là hành Kim. Nhưng không phải mọi yếu tố Thiếu âm đều thuộc hành Kim. Trong Thiếu âm có rất nhiều yếu tố có thể tác động cho Dương trở nên “động” hơn, nhưng trong số đó,chỉ có những yếu tố có khả năng hỗ trợ, giải quyết mâu thuẫn âm dương, làm cho giá trị mới được sinh ra nhiều hơn, mới có điều kiện thuận lợi để phát triển và trở thành Dương trong sự vật mới, khi sự vật cũ bị mâu thuẫn âm dương trong nó tiêu diệt, mới thuộc hành Kim. Khi Kim xuất hiện trong Dương, những yếu tố khác thuộc dương gọi là hành Thủy để phân biệt với Kim. Thủy phát triển trước, có tính “tĩnh” dương nên Thủy thuộc Thái dương. Sự xuất hiện của Kim trong xu thế làm giảm bớt mâu thuẫn âm dương, làm cho dương tính trong Dương động hơn, có khả năng sinh ra và chiếm đoạt giá trị mới M nhiều hơn, lực lương Dương phát triển tốt hơn nên quan hệ Thủy , Kim là: Kim sinh Thủy. Như vậy, những yếu tố “Thiếu” khi xuất hiện có nguồn gốc xuất phát từ Chung. Tương tự như thế, Âm bị phân hóa thành hai hành Mộc và Hỏa với quan hệ Mộc sinh Hỏa, Mộc thuộc Thiếu dương, Hỏa thuộc Thái âm. Sự xuất hiện Kim, Mộc nằm trong xu hướng giải quyết mâu thuẫn âm dương đang ngày càng gay gắt, làm mâu thuẫn này giảm đi để sự vật phát triển thuận lợi. Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết, và ngày càng gay gắt, các hành Thủy, Hỏa ngày càng suy yếu, Kim, Mộc ngày càng thịnh dẫn đến quan hệ tương sinh Mộc sinh Hỏa, Kim sinh Thủy sẽ chuyển thành tương thừa làm cho Thủy và Hỏa bị suy vong, sự vật cũ bị tiêu biến đi và sinh ra sự vật mới với quan hệ âm dương mới do Mộc, Kim của sự vật cũ đóng vai trò Dương, Âm. Với sự xuất hiện của 4 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, phần Chung trong Tam tài được gọi là hành Thổ. Hành Thổ còn tiếp nhận những yếu tố thuộc Thiếu ân nhưng không thuộc Kim, Thiếu dương nhưng không thuộc Mộc (những yếu tố này sẽ bị suy yếu, biến mất khi Mộc khắc Thổ) Như vậy, cấu trúc của của sự vật gồm 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được xây dựng như trên là sự chi tiết hóa hơn, phát triển hơn cấu trúc Tam tài. Qua phân tích về sự xuất hiện của Kim thuộc Thiếu âm trong Dương, Mộc thuộc Thiếu dương trong Âm ta thấy một qui luật hình thành và phát triển của các yếu tố thứ cấp là: Trong âm có yếu tố thứ cấp dương, trong dương có yếu tố thứ cấp âm, trong Thái có yếu tố Thiếu. Sự phân hoá này do tương tác, mâu thuẫn âm dương mà ra nên nó hình thành trong thời kỳ Hậu thiên. Còn trong thời kỳ Tiên thiên, do mâu thuẫn chưa gay gắt, các yếu tố đó quan hệ tương sinh nên không có sự phân hoá trong âm có dương, trong dương có âm này.1 like
-
IV./ CÁC YẾU TỐ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA MỘT SỰ VẬT … 1. Sự xuất hiện Tứ tượng, Bát quái, … Vạn tượng không ngừng phát triển do tương tác âm dương tạo ra ngững giá trị mới. Sự phát triển đó của Vạn tượng phải được thể hiện bằng những lực lương của nó là Âm Dương và Chung. Nói cách khác, Âm, Dương cũng phát triển không ngừng. Dưới tác động của tương tác âm dương, chúng liên tiếp bị phân hoá thành những yếu tố khác nhau giống như Đạo bị phân hoá thành âm, dương vậy. Mầm mống của những yếu tố đó vốn có sẵn trong vạn tượng, tức là trong bản thân chúng do Vũ trụ bao trùm và bao hàm tất cả. Khi có điều kiện thuận lợi do quá trình tương tác âm dương mang lại, những mầm mống ấy phát triển, trở thành những lực lượng tương ứng trong Vạn tượng. Dương phân hoá thành Thái Dương và Thiếu Dương. Âm phân hoá thành Thái Âm và Thiếu Âm. Sau đó: Thái Dương phân hoá thành Thái Thái Dương và Thiếu Thái Dương. Thiếu Dương phân hoá thành Thái Thiếu Dương và Thiếu Thiếu Dương. Thái Âm phân hoá thành Thái Thái Âm và Thiếu Thái Âm. Thiếu Âm phân hoá thành Thái Thiếu Âm và Thiếu Thiếu Âm. Tiếp theo: Thái Thái Dương phân hoá thành Thái Thái Thái Dương và Thiếu TháiThái Dương. Thiếu Thái Dương phân hoá thành Thái Thiếu Thái Dương và Thiếu TháiThiếu Dương. Thái Thiếu Dương phân hoá thành Thái Thái Thiếu Dương và Thiếu Thái Thiếu Dương … Ở đây: - “ Thái” chỉ yếu tố ban đầu trở thành sau khi phân hoá. - “Thiếu” chỉ yếu tố mới sinh ra trong quá trình phân hoá. - Dương, Âm chỉ bản chất ban đầu của yếu tố. Dương có tính “tịnh”, ám chỉ xu thế bảo toàn bản chất ban đầu, chống lại sự thay đổi. Âm có tính “động”, ám chỉ xu thế làm biến đổi bản chất ban đầu. Để thuận tiện, người ta dùng những ký hiệu để biểu diễn những yếu tố đó như sau: Qui tắc ký hiệu như sau: +Yếu tố thứ cấp bậc n dùng n hào chồng nhau để ký hiệu. + Haò dưới cùng chỉ bản chất âm dương của yếu tố được ký hiệu. + (n – 1) hào dưới cùng chỉ nguồn gốc xuất phát của yếu tố được ký hiệu từ các yếu tố thứ cấp bậc (n – 1). + Hai hào trên cùng xác định tính “Thái”, “Thiếu” của yếu tố được ký hiệu. Nếu chúng giống nhau thì yếu tố là “Thái”. Nếu chúng khác nhau thì yếu tố là “Thiếu”. Tức là những cặp hào trên cùng xác định “Thái”, “Thiếu”, hào cuối cùng xác định bản chất âm dương của yếu tố. Vạn tượng sinh hoá liên miên trong quá trình tương tác âm dương bằng cách phân hoá thành các yếu tố “thái”, “thiếu” của các thứ cấp có bậc khác nhau. Mỗi một yếu tố đó cũng lại phân hoá tương tự như đối với Vạn tượng, hay mỗi yếu tố đó gọi là một “tượng”, một “tiểu vũ trụ” và được phân tích tương tự như trên, có tính đến ảnh hưởng của “đại vũ trụ”. Mỗi một “tiểu vũ trụ” phát triển đều do sự tương tác âm dương của “đại vũ trụ”, nên ngoài những qui luật đặc thù, vốn cũng có bản chất âm dương như những qui luật chung, còn chịu ảnh hưởng của toàn vũ trụ và nằm trong sự tiến hoá của “đại vũ trụ”. Vật chất mà chúng ta thường quan niệm cũng chỉ là một “tượng” trong đại vũ trụ mà thôi. Cái “tượng” ấy chúng ta tạm gọi là “sự vật” trong các nghiên cứu sau đây. Ngoài vật chất ra còn rất nhiều những “tượng” khác trong Vạn tương mà chúng ta chưa rõ hoặc chưa biết, thậm chí hoàn toàn chẳng có một khái niệm nào về chúng. Nhưng dù chúng có phong phú đến đâu đi chăng nữa, chúng vẫn nằm trong các qui luật của tương tác âm dương. Người xưa đặt tên cho các yếu tố thứ cấp Bát quái như sau: Thái thái dương: CÀN Thiếu thái dương : ĐOÀI Thái thái âm: KHÔN Thiếu thái âm: CẤN Thái thiếu dương: CHẤN Thiếu thiếu dương: LY Thái thiếu âm: TỐN Thiếu thiếu âm: KHẢM1 like
-
III./ THỜI KỲ TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN Như trên đã thấy, sự tương tác của Âm và Dương sinh ra giá trị mới là nguồn gốc phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng được mô hình hoá bằng Tam tài, bao gồm ba thành phần là Âm, Dương và Chung. Thực ra những đại lượng này đều là những khái niệm hết sức định tính, xác định chính xác là điều không thể, nhưng để dễ hình dung ta cứ thử mô hình hoá nó bằng những số liệu như phần trình bày dưới đây nhằm tìm ra những quan hệ cơ bản nhất của chúng. Giả sử rằng, trong Vạn tượng, lực lượng âm tương tác với lực lượng dương tạo ra giá trị mới là M. Giá trị mới M này bị các lực lượng Tam tài chiếm đoạt để phát triển. Giả sử Chung chiếm M.c, khi ấy Âm và Dương chiếm M.(1- c), trong đó Âm chiếm M.a.(1- c), còn Dương chiếm M.(1- a)(1- c). Ở đó: a, c là những hệ số dương ≤ 1. + Nếu a = 0, tức là Âm không thụ hưởng một chút nào giá trị mới M. Như vậy, hoặc là không có Âm, lúc đó giá trị mới không thể được tạo ra do không có tương tác âm dương, M = 0, hoặc là có Âm nhưng Âm không được thụ hưởng sẽ suy yếu còn Dương thụ hưởng hết giá trị mới sẽ quá thịnh. Sự mất quân bình, thái quá sẽ sảy ra, kết quả Vạn tượng bị phá huỷ và cũng không có giá trị mới nào được tạo ra: M = 0. + Nếu a = 1, lý luận tương tự như trên đối với Dương ta cũng thu được kết quả tương tự là M = 0. + Nếu 0 < a < 1, một giá trị mới M > 0 sẽ được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương. Biểu diễn giá trị mà các yếu tố của Tam tài chiếm đoạt trong giá trị mới M được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương trên đồ thị ta thu được kết quả sau: Trên đồ thị: Đường qua V chỉ những giá trị mới được sinh ra do tương tác âm dương của các lực lượng trong Vạn tượng. Nó cực đại ở điểm V khi a = a* Đường qua A biểu diễn những giá trị mới mà Âm chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm A2 khi a = a2. Đường qua D biểu diễn nhựng giá trị mới mà Dương chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm A1 khi a = a1. Đường qua C biểu diễn nhựng giá trị mới mà Chung chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm C khi a = a*. Qua đồ thị, ta nhận thấy: - Trong giai đoạn a = 0 --- > a1: Khi âm mới sinh và phát triển (a nhỏ) giá trị mới mà các lực lượng Chung, Âm, Dương chiếm đoạt được và cả trong Vạn tượng đều đồng biến theo a, hay lợi ích của mọi lực lượng trong Vạn tượng là thống nhất, không mâu thuẫn với nhau. Mọi lực lượng trong Vạn tượng đều hỗ trợ thuận lợi cho Âm tăng trưởng và chúng cũng nhanh chóng phát triển theo do được thụ hưởng những giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác âm dương. Tương tác âm dương thuận lợi, giá trị mới được tạo ra với tốc độ cao thể hiện qua độ nghiêng đi lên lớn của đoạn 0V1. Âm mới sinh ra có tốc độ phát triển còn chậm nhưng tăng lên rất nhanh thể hiện qua độ lõm của đồ thị a ở giai đoạn này. Vai trò của các lực lượng Dương trong Vạn tượng lớn hơn so với các lực lượng Chung và Âm, thể hiện ở độ cao đồ thị 0D1 so với 0A1, 0C1. Quan hệ của các lực lượng trong vạn tượng là tương sinh. Giai đoạn này gọi là TIÊN THIÊN. - Trong giai đoạn a = a1 --- > a*: ta nhận thấy, đồ thị A, C và V còn đồng biến, trong khi đồ thị C nghịch biến theo a. Các lực lượng trong Vạn tượng không còn thống nhất nhau như giai đoạn Tiên thiên nữa, mâu thuẫn đã bắt đầu xuất hiện và phát triển. Mâu thuẫn ở đây trước hết là nâu thuẫn giữa Âm và Dương là hai lực lượng chính, cơ bản nhất của Vạn tượng thể hiên ở hai chiều đồng biến của A và nghịch biến của D, đó là mâu thuẫn trong lợi ích, hay sự chiếm đoạt giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác giữa chúng. Do đó, trong giai đạn này quan hệ Âm Dương là tương khắc. Bản chất của mâu thuẫn chính là ở chỗ: khi Âm tăng quá mạnh làm tăng nhanh giá trị mới M đồng thời khả năng chiếm đoạt M cũng tăng lên nhanh hơn dẫn đến phương hại đến sự thụ hưởng giá trị mới của Dương (đồ thị D nghịch biền). Điều này làm xuất hiện hiệu ứng kìm hãm sự tăng lên của Âm từ D. Nói cách khác là Dương khắc Âm. Quan hệ giữa Âm và Chung vẫn là tương sinh thể hiện qua sự cùng đồng biến của đồ thị A và C. Ở đây, giá trị mới được tạo ra do sự tương tác âm dương và Âm có tính động, có xu hướng biến đổi, sáng tạo ra những giá trị mới đó, còn C thì thụ hưởng. Do đó, quan hệ tương sinh giữa Chung và Âm là: Âm sinh Chung. Đồ thị C và D có chiều biến thiên ngược nhau nên quan hệ Chung, Dương phải là quan hệ tương khắc. Do quan hệ của Chung với Âm là tương sinh: Âm sinh Chung, mà quan hệ của Dương là khắc Âm nên để bảo vệ lợi ích của mình, đảm bảo sự cân bằng trong Vạn tượng mà quan hệ tương khắc giữa Chung và Dương phải là: Chung khắc Dương. Như vậy, quan hệ giữa các lực lượng trong Vạn tượng ở giai đoạn này là: Dương khắc Âm, Âm sinh Chung, Chung khắc Dương gọi là quan hệ Tam tài. Giai đoạn này gọi là giai đoạn HẬU THIÊN. Trong giai đoạn Hậu thiên, Vạn tượng vẫn phát triển tốt thể hiện ở chiều tăng của đồ thị V1V. - Trong giai đoạn a = a* --- > a2: Giai đoạn này đặc trưng bằng sự đi xuống cũa đồ thị VV2, thể hiện sự suy thoái của Vạn tượng, chỉ có Âm tăng còn Chung và Dương đều đi xuống hay Âm quá thịnh còn Dương quá suy. Mâu thuẫn giữa các lực lượng trong Vạn tượng ngày càng rất gay gắt, thể hiện ở sự hỗn loạn, thiếu kiểm soát. Cả Dương lẫn Chung đều tương khắc với Âm. - Trong giai đoạn a = a2 --- > 1: Đây là giai đoạn huỷ diệt của Vạn tượng. Tất cả các yếu tố Âm, Dương, Chung đều đi xuống. Như vậy, Tiên thiên và Hậu thiên là khái niệm chỉ những giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của Vạn tượng: Thời kỳ Tiên thiên là thời kỳ ban đầu, Vạn tượng mới hình thành và phát triển. Trong thời kỳ này, các lực lượng của Vạn tượng thống nhất với nhau, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, tương tác vời nhau tạo ra và thụ hưởng nhiều giá trị mới. Sự vật phát triển rất thuận lợi. Quan hệ các lực lượng trong vạn tượng là tương sinh. Tuy nhiên, sự khác nhau đó tiềm ẩn mầm mống của mâu thuẫn để có thể bộc lộ rõ trong thời kỳ sau. Thời kỳ Hậu thiên là thời kỳ mà Vạn tượng đã phát triển đến một mức độ cao hơn. Những mầm mống của mâu thuẫn Âm, Dương đã phát triển đến giai đoạn bộc lộ và ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn Âm, Dương trong tranh giành giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác giữa chúng. Quan hệ của các lực lượng trong Vạn tượng là quan hệ: Dương khắc Âm. Âm sinh Chung. Chung khắc Dương. Quan hệ này chi phối toàn bộ sự phát triển của Vạn tương. Trong cuộc đấu tranh giành giật về phần mình giá trị mới, do Dương là cái có trước, mang bản chất của cái ban đầu nên lực lượng của nó mạnh hơn Âm – là cái có sau, đang phát triển - chi phối Vạn tượng nhiều hơn nên Vạn tượng có xu hướng bị kéo về ổn định tại điểm a1 để lợi ích cho Dương là lớn nhất. Tuy nhiên, bản chất của Âm là vận động và phát và phát triển không ngừng có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a2. Lợi ích của Vạn tượng là tiến đến điểm V - điểm có tổng lợi ích là lớn nhất - do đó mâu thuẫn ngày càng gay gắt nhất là khi điểm a* ngày càng lớn hơn a1. Như vậy, quan hệ mâu thuẫn, đấu tranh giữa 3 lực lượng Dương, Âm, Chung trong sự vật là mâu thuẫn nảy sinh khi một bên (Dương) có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a1, một bên có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a2 (Âm), còn bên thứ ba (Chung) lại có xu hướng tới a*. Kết quả, sự vật sẽ tồn tại và vận động tại một giá trị a nào đó tùy thuộc vào tương quan Âm, Dương, Chung của sự vật. Trong 3 lực lượng của Tam tài, Âm luôn có xu hướng tăng a lên, Dương luôn có xu hướng cố định a lại. Kế quả, a ngày càng tăng là xu hướng tất yếu của sự vật. Mâu thuẫn giũa 2 xu hướng này của Âm, Dương chính là mâu thuẫn của sự vật. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết, đến một lúc nào đó khi qui mô đủ lớn, Vạn tượng sẽ tiến đến giai đoạn suy đồi và hủy diệt, một Vạn tượng khác sẽ được hình thành và tiếp tục như quá trình đó … Cơ chế của quá trình phát triển đó của sự vật như sau: Do Đạo hàm chứa và bao trùm tất cả nên trong sự vật luôn tồn tại sẵn tất cả những mầm mống cho mọi xu hướng phát triển của sự vật. Chỉ những mầm mống nào phù hợp với tương quan Âm, Dương của sự vật mới nhận được sự hỗ trợ tốt từ các thành phần tương ứng, tạo ra được nhiều hơn những giá trị mới cho sự vật. Những mầm mống phù hợp nhất thì có khả năng tạo ra nhiều giá trị mới nhất với sự hỗ trợ ít nhất. Chỉ những mầm mống đó mới có đủ khả năng, ưu thế để phát triển thành những lực lượng hiện thực của sự vật, còn những mầm mống khác sẽ không được “ nuôi dưỡng” tốt và bị thui chột đi. Như vậy, sự vật sẽ luôn được chọn lọc, bổ xung những lực lượng có khả năng tạo ra nhiều giá trị mới hơn nên nó luôn luôn phát triển. Vì vậy, qui luật phát triển không ngừng là qui luật phổ biến của mọi sự vật. Sự chọn lọc này sảy ra thường xuyên, khách quan ở mọi qui mô yếu tố, mọi phương án khả dĩ phát triển của sự vật nên nó rất kỹ lưỡng, chính xác và tối ưu. Đó chính là nguồn gốc của nguyên lý tối ưu hay “tiết kiệm” của vũ trụ. Nguyên lý này phát biểu rằng, mọi vận động của sự vật luôn tuân theo qui tắc tối ưu về năng lượng. Tự nhiên luôn hành động sao cho kết quả đạt được cao nhất với chi phí nhỏ nhất. Những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương, thực ra, cũng chỉ là những thành phần vốn có, hàm chứa trong Đạo vì như ta đã biết, Đạo hàm chứa và bao trùm tất cả. Những thành phần này vốn tiềm ẩn trong Đạo, khi có điều kiện thuận lợi của tương tác âm dương, chúng mới được bộc lộ ra và tham gia vào các lực lượng đã có của sự vật. Sự tạo ra và chiếm đoạt những giá trị mới của các yếu tố trong sự vật thực chất là sự kích thích những mầm mống chưa bộc lộ của Đạo được bộc lộ ra trong thành phần của yếu tố chiếm đoạt mà thôi. Do đó, có thể nói, ở đây hoàn toàn không có sự “sáng tạo” ra cái gì mới hết mà chỉ là làm bộc lộ những khả năng vốn có tiềm ẩn trong Đạo, được thể hiện ra ở những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, tham gia vào các lực lượng tương ứng, phù hợp của sự vật. Đó chính là nguồn gốc của nguyên lý “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” và định luật bảo toàn năng lượng của vật lý học. Ngược lại, có những yếu tố của Đạo đã được bộc lộ trong thành phần của sự vật, nếu không phù hợp với tương tác âm dương nên không bổ xung được cho mình những thành phần mới theo cơ chế trên, mà thậm chí còn bị mất đi những thành phần cũ thì dần dần sẽ bị suy yếu đi thậm chí biến mất, tức là lại trở về dạng tiềm năng chưa bộc lộ của Đạo. Quan hệ tương sinh, tương khắc là các quan hệ cơ bản của sự vật. Thực chất quan hệ A sinh B là: Trong quan hệ giữa A và B tạo tra các điều kiện thuận lợi cho những mầm mống thuộc B vốn tiềm ẩn trong Đạo có thể phát triển lên, bổ xung vào lực lượng của B, tạo ra nhiều giá trị mới cho B. Khi các thành phần của A tạo điều kiện cho các mầm mống đó phát triển, nó cũng bị tổn hại nhất định. Do đó, khi B quá vượng, A sẽ bị hao tổn nhiều, thậm chí bị thui chột. Lúc đó, người ta nói A tương thừa B. Như vậy, quan hệ tương thừa là quan hệ tương sinh khi yếu tố bị sinh quá vượng làm hao tổn nghiên trọng yếu tố sinh. Ngược lại, thực chất quan hệ A khắc B là: Trong quan hệ giữa A và B tạo tra các điều kiện không thuận lợi cho những mầm mống thuộc B vốn tiềm ẩn trong Đạo có thể phát triển lên bổ xung vào lực lượng của B, tạo ra nhiều giá trị mới cho B, làm cho các yếu tố thuộc B không được bổ xung những giá trị mới và dần dần bị thui chột đi. Khi khắc những thành phần của B, các thành phần tham gia vào quan hệ tương khắc của A cũng hao tổn. Vì vậy, khi B quá vượng, có thể làm cho A bị triệt. Lúc đó ta nói, A tương vũ B. Như vậy, quan hệ tương vũ là quan hệ trương khắc khi yếu tố bị khắc quá vượng làm triệt tiêu yếu tố khắc.1 like
-
ĐỀ CƯƠNG ĐẠI CƯƠNG CƠ SỞ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH *** I./ BẢN THỂ VŨ TRỤ Bản thể của vũ trụ là “Đạo” hay “Chân như” vốn vô thuỷ, vô chung, bất khả tư nghị, hàm chứa và bao trùm tất cả mà không phân biệt. Do hàm chứa và bao trùm tất cả nên Đạo tràn đầy, viên mãn. Do không phân biệt nên Đạo vô cùng thông biến. Do bất khả tư nghị nên không thể dùng lời mà có thể định nghĩa hay diễn tả chính xác, chỉ có thể cảm thấy, nhận thức được, mô tả một cách tương đối, người xưa “gượng” mà diễn đạt Đạo một cách hình tượng là hình tròn. Do Đạo không phân biệt nên nó chí tịnh, đồng thời, do hàm chứa tất cả nên nó hàm chứa tính động – âm. Khi tính âm thể hiện cái dụng của nó là động, dù còn vô cùng nhỏ, nhưng ở trong cái chí tịnh của Đạo, nên vẫn xuất hiện sự phân biệt của phần Đạo còn lại với nó được gọi là tính dương. Tính âm và tính dương chỉ là những thuộc tính nên chúng thể hiện mình ra thông qua những lực lượng tương ứng, xuất hiện cùng với chúng gọi là lực lượng âm, lực lượng dương. Do có sự phân biệt âm dương, nên lực lượng âm, lực lượng dương tương tác nhau hình thành Vạn tượng. Trong quá trình tương tác âm dương đó, Vạn tượng sinh sinh hoá hoá liên miên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp … tạo nên thế giới, vũ trụ ngày nay. Như vậy, bản thể của vũ trụ là Đạo hay Chân như vốn bất khả tư nghị. Cái Tướng của nó là Vạn tượng cùng cái Dụng của nó là cái lý tương tác âm dương. Quán về vũ trụ ta phải quán trên cái thế chân vạc Thể - Tướng – Dụng của nó như thế. Như vậy, Vạn tượng sinh ra từ Đạo, là kết quả của tương tác âm dương, người xưa diễn đạt nó một cách hình tượng là hình vuông, phân biệt với hình tròn là Đạo. Âm được ký hiệu là một nét đứt, còn dương – một nét liền. II./ TAM TÀI Vạn tượng là cái tướng của Vũ trụ, sinh sinh hoá hoá liên miên bất tận theo cái lý âm dương. Cái lý của âm là động, tức là luôn biến đổi, có xu hướng phá vỡ trạng thái ban đầu, đổi mới và uyển chuyển … Cái lý của dương là tịnh, tức là có xu hướng bảo tồn cái trạng thái ban đầu, bảo thủ, cứng mạnh … Sự tương tác của âm, dương là nguyên nhân, động lực phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng sinh hoá, phát triển, có nghĩa là nó biến đổi, hay có những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác của các lực lượng âm, dương làm tăng tính phức tạp, cũng như số lượng của Vạn tượng. Những giá trị mới đó chính là kết quả của sự tương tác âm dương, đồng thời cũng bổ xung cho lực lượng âm lực lượng dương, làm cho lực lượng âm, dương cũng không ngừng phát triển cùng vạn tượng. Hệ quả tiếp theo là tăng cường hơn nũa sự tương tác âm dương và những giá trị mới lại được tạo ra nhiều hơn nữa. Trong quá trình tương tác, tạo ra những giá trị mới làm cho Vạn tượng không ngừng biến đổi và phát triển, cả lực lượng âm lẫn lực lượng dương đều có xu hướng giành lấy cho mình giá trị mới đó càng nhiều càng tốt. Nhưng mức độ chiếm đoạt giá trị mới đó tuỳ thuộc vào tương quan giữa khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương trong Vạn tượng. Như vậy, trong quá trình phát triển của Vạn tượng, lực lượng âm, dương không ngừng tương tác làm nảy sinh những giá trị mới, đồng thời chúng cũng không ngừng tranh giành chiếm đoạt những giá trị mới đó. Đó chính là nội dung của sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập là các lực lượng âm, dương trong Vạn tượng. Để tạo ra những giá trị mới, các lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Nếu chỉ có một mình lực lượng âm hay một mình lực lượng dương, sẽ không có sự tương tác âm dương và giá trị mới không thể nảy sinh. Cả lực lượng âm và lực lượng dương đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới này. Để có thể chiếm đoạt, trước tiên giá trị mới phải được tạo ra. Để được tạo ra giá trị mới, lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Vì tranh giành những giá trị mới - sản phẩm của quá trình tương tác âm dương – các lực lượng âm, dương đấu tranh với nhau, và vì thế mâu thuẫn với nhau. Giá trị mới được tạo ra tuỳ thuộc vai trò và qui mô của các lực lượng âm, dương trong quá trình tương tác, còn mức độ chiếm đoạt giá trị mới tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương tương quan như thế nào. Khi có sự tương ứng giữa vai trò tương tác và khả năng chiếm đoạt đó thì Vạn tượng phát triển tốt nhất. Lực lượng âm dương tuy mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tích cực, kích thích Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái âm dương hài hoà. Còn nếu sự tương ứng đó không thoả đáng, Vạn tượng phát triển khó khăn hơn, mâu thuẫn lực lượng âm, dương tăng lên, cản trở Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái mất quân bình âm dương. Đặc biệt, khi sự mất quân bình này thái quá, mâu thuẫn lực lượng âm dương quá gay gắt có thể dẫn đến phá huỷ thế quân bình âm dương, trạng thái đó bị tiêu huỷ, sinh ra một trạng thái mới có sự quân bình âm dương mới. Ta nói, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản. Do thống nhất với nhau trong tương tác, tạo ra những giá trị mới, mà trong các lực lượng âm, dương có hàm chứa những yếu tố, tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh với nhau (thống nhất với nhau). Và tương ứng với những yếu tố đó, trong Vạn tượng có những lực lượng đại diện cho chúng, gọi là Chung. Trong Chung có những thành phần mà cả hai lực lượng âm, dương cùng thống nhất và tôn trọng, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Phần còn lại của các lực lượng âm, dương thì mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và được gọi là Âm, Dương. Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương với bản chất được mô tả ở trên, được gọi là Tam tài. Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển.1 like