• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 30/10/2016 in all areas

  1. Hiểu nghĩa ba chữ nho: Hồ Chí Minh 胡 志 明 Ba chữ Hồ Chí Minh 胡 志 明 phồn thể hay giản thể đều viết như nhau, không đổi. Chữ Minh 明: Có hai chữ Minh là Minh 明 dương và Minh 冥 âm, đều có nghĩa là Sáng. Nhưng Minh 明 dương là cái sáng ở thế giới dương, gọi là “Sáng 燦 Dương 陽” = Sướng 暢, Sướng 暢 có nghĩa là hanh thông, thường gắn với chữ Thuận Sướng 順 暢 nghĩa là Suôn Sẻ (do nhấn “Sướng Luôn” = Suôn, “Sướng Hè!” = Sẻ). Sướng chuyển nghĩa gắn với Sướng Vui 暢 愉 hay Vui Sướng 愉 暢 chỉ trạng thái con người khi không bức xúc lo lắng gì cả, tức “Thông Hanh” = Thanh, gọi là Thanh Thản (do lướt “Thanh Mãn” = Thản). Minh 冥 âm là cái sáng ở thế giới âm, gọi là “Sáng Âm” = Sấm 讖, chỉ sự tiên đoán của tư duy, mà khoa học gọi là “tiềm thức”. Do Âm và Dương là hai thể đối lập tạo nên vũ trụ (Hán ngữ phiên âm chữ nho tên thuyết Âm Dương 陰 陽 là “Yin Yáng 陰 陽”), tương ứng màu Trắng/Đen, nên chữ Minh 明 dương chuyển nghĩa chỉ màu trắng, thường gắn với từ Minh Bạch 明 白, nghĩa là “nói trắng ra” (diễn biến âm theo QT Tơi-Rỡi: Trắng = Tráng 壯 = Choang = Sáng 燦 = Láng = Lạn 爛 = Lãng 朗 = Lượng 亮 = Liệu 瞭 = Chiếu 照 = Diệu 耀; Sáng = Quang 光 = Hoàng 煌 = Huy 輝, chữ đều có bộ Lửa 火 hay bộ Quang 光, v.v. ). Chữ Minh 明 dương nho viết hoàn toàn biểu ý, trong nó không tá một âm “inh” nào cả, mà lại đọc là Minh, chữ ghép bằng hai cái sáng là ánh sáng mặt trời là chữ Nhật 日 và ánh sáng mặt trăng là chữ Nguyệt 月, hai cái Mặt sáng này biểu nhấn ý càng sáng, và tạo nên “Mặt Mặt” = Mắt (thanh điệu 0 + 0 =1), đã là Mắt ắt phải sáng, nhìn thấy, nếu không thì đã gọi là “Mắt U” = Mù, không nhìn thấy, bởi vậy chữ Minh 明 cũng được dùng đại diện cho từ Mắt Sáng, hợp với logic là “Mục 目 Tinh 精” = Minh 明 (nếu viết theo ngữ pháp Hán thì là Tinh Mục, sẽ không thành được từ Minh). Theo biểu ý của chữ thì Minh dương 明 nghĩa là “Nguyệt 月 Nhật 日” = Ngất 屹 (nghĩa là cao) và “Nhật 日 Nguyệt 月” = Nhiệt 热 (nghĩa là ánh sáng , tiếng Đài Loan đọc chữ Nhiệt 热 là “lửa”), tức là “Cao + Ánh” = Canh 京 = Kinh 京. Kinh = Canh = Cao Ánh = Ngất 屹 Nhiệt 热. Ngất Nhiệt thiết Nghiệt. Nghiệt phiên thiết Người Việt. Do vậy Kinh chính là Người Việt. Người Việt có thủy tổ là Đế Minh. Từ Đế Minh mang nghĩa là Cha Mẹ: Đế Minh thiết Đinh 丁(nghĩa là con người, cùng hợp logic “Đẻ Kinh” = Đinh丁, nên từ Đinh丁 và họ Đinh 丁 hiểu là của người Kinh, dân tộc Kinh.( Chữ Đế có gốc là do cái từ Rễ cây, vật cụ thể thì cái Rế hay cái Đế đỡ Nồi cơm, đã chuyển trừu tượng hóa thành Đế đỡ NÔI, Nôi là Nòi giống Việt). Minh Đế thiết Mế nghĩa là Mẹ, cụ thể về sau Mế Mèn là thân mẫu của Hai Bà Trưng (Mẹ Âu Cơ tức “Mẹ Âu” = Mẫu, có tượng trên điện thờ Mẫu Thượng Ngàn ở đỉnh núi Tản Viên, Ba Vì, Hà Nội, là tượng người đàn bà vấn khăn hình củ ấu). Chữ Kinh 京 gồm Đầu 亠 + Mình 口 + Chân Tay小, chính là Con Người tức “Con Minh” = Kinh = “Cao Ánh” = Canh (có tư duy – cao, và biết dùng lửa – ánh). Chữ Minh 冥 âm ứng với thế giới âm nên đối với thế giới dương thì nó là trong bóng tối. Minh 冥 âm đại diện cho từ đôi “ Mun Tối” = Môi 煤 (Hán ngữ dùng chữ Môi 煤 để chỉ Than, vì than có màu đen ( Đen = Mèn = Mun = Man = Than = Thâm = Lầm = Lầm Than). Tên rừng U烏 Minh 冥 hay cây Ô 烏 Môi 煤 có nhiều ở rừng đó (thịt quả có màu đen) đều là tên dùng từ đôi chỉ màu đen tối. Nhấn “Minh 冥 Ạ!” = =“Minh 冥 Dã 也!” = Mã 冥, dùng chỉ hàng mã là đồ âm phủ (tiền giấy, vàng giấy, hình nộm bằng giấy, bán ở phố Hàng Mã, khu phố cổ Thăng Long). Biếu ý của Minh âm 冥 là Mịch 冖 + Và 曰 + Lâu 六, là thế giới âm, ảnh ảo, nên phải phản thiết là “Mầu + Và + Linh” = =Minh 冥. Đại từ nhân xưng ngôi một của tiếng Kinh là Ta (“Đất Trời” = “Tất Càn” = “Tất Cả” = Ta = Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Ngô 吾 = Ngộ 吾= =Người; xưng ngôi một là Người thì ngôi hai phải là lướt lủn “Người Hai” = Ngươi, còn gọi là Nhà Ngươi. Nhân xưng ngôi một của tiếng Nhật là “wa-Ta-xi” để lộ cái Giữa của tiếng Giao chỉ là “Ta”). Nhân xưng ngôi một tiếng Kinh còn là Mình (Mình = Mệnh 命 = Mạng 命) thì đương nhiên nhân xưng ngôi hai phải là “Mình Hai” = Mày. Nhấn “Mày Chứ!” = Mừ, là nhân xưng ngôi hai của tiếng Tày, Thái. Nhân xưng ngôi một tiếng Kinh còn là Con (Con = Can 干 = Cán 干 = Quan 官= Quân 君 = Quân 軍, Hán ngữ dùng chữ Quân 君 chỉ vua gắn với từ Quân Vương 君 王; tiếng Việt dùng từ Quân 君 để chỉ Mình, trong hoành phi treo ở mỗi gia đình Việt là “ Thiên 天 Địa 地 Quân 君 Thân 親 Sư 師”, là nhắc nhở của Việt nho tôn trọng năm vị là Trời Đất Mình Dân và Thầy; trong khi Hán nho hủ bại chỉ tôn trọng ba vị là Quân 君 – vua, Thần 臣– quan, Sư 師 – Thầy. Bởi tiếng Kinh xưng là Mình, nên gọi “Mình Ơi” = Mời, động từ Mời trong tiếng Thái là “Mơi”. Nơi nào có người Kinh nơi đó gọi là đất của đế Minh, Minh phiên thiết thành hai chữ Mê Linh, tiếng nói dân Mê Linh có nhạc điệu như chim hót, nên “Miệng dân Mê Linh” = Minh 鳴, chữ Minh 鳴 này biểu ý là Miệng 口 Chim 鳥, mang nghĩa là Hót = Hát = Hò = Hô 呼 = =Hỏi = Nói = Na = Ca 歌 = Và 話 = Van = Vân 云 = Viết 曰 = (lướt lủn) “Việt Nói” = Viết 曰; “Nói Ra” = Na = Năng = Rằng = Xẵng = Xưng 稱 = Xướng 唱 = Xướng Ca = Hát Hò, đều là biểu thị trạng thái Minh 鳴 = “Minh 鳴 Xưng 稱” = Mừng 鳴 = Hót Mừng (của chim) = Hát Mừng = Ca Mừng (của người), gọi là trạng thái Vui Mừng như chim khi Chóc Mừng = Chúc Minh 祝 鳴. Chữ Chí 志 : Chữ Chí 志 biểu ý là người trí thức (chữ Sĩ 士) có tâm (chữ Tâm 心), tức là kiên trì theo đuổi sự nghiệp. Nghĩa cụ thể là “Thập 十 Nhất 一” = Thật 昰 + Tâm心, tức là Thật Tâm. (Chữ Thật 昰 là Viết 曰 Chính 正, nghĩa là nói ngay thẳng, không nói gian dối). Chữ Hồ 胡: Chữ Hồ 胡 biểu ý là “Nguyệt 月Cổ 古” = Ngộ (nghĩa trọn gói là: Tôi sáng như Trăng Xưa), cùng biểu ý là “Cổ 古 Nguyệt 月” = Quyết (Trăng xưa khi khuyết khi tròn. Vẫn nguyên một tấm lòng son muôn đời). Nghĩa nôm na của ba chữ Hồ Chí Minh 胡 志 明 là: Tôi quyết Thật tâm Minh bạch. Diễn Châu thái thú Đọc sách <Bước ra từ huyền thoại – Lịch sử nước Nam qua truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian> của tác giả Nguyễn Đức Tố Lưu. Đọan Diễn Châu thái thú (Hồ Hưng Dật), trang 488 có câu đối tại đền thờ nguyên tổ Hồ Hưng Dật ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu Nghệ An) do Hồ Hán Thương vâng lệnh Thái thượng hoàng Hồ Qúy Ly xây cất. Câu đối như sau: Trần ngu kinh kỷ thiên thu tích 陳 虞 經 幾 千 秋 跡 Bào sảo giang sơn vạn đại từ 泡 稍 江 山 萬 代 祠 Trong câu đối , vế trên nói về vùng đất cổ này vẫn còn dấu vết đã úa vàng (thu tích 秋 跡) của thời gian trải qua mưa gió (trần 陳) hàng mấy nghìn năm về trước (kinh kỷ thiên thu 經 幾 千 秋) từ thời đế Nghi (Ngu 虞) - Ngu Thuấn; hai chữ Trần Ngu thiết Tru nhắc nhớ về quê hương cổ đại của bộ tộc có totem là con Tru. Vế dưới nói về lịch sử giai đoạn sau, từ khi Hồ Hưng Dật lui quan về dựng hương Bào Đột (Bào 泡) đến khi xây đền thờ này (là thời gian từ thời nhà Đinh đến thời nhà Hồ) chỉ là một khúc ngắn ngủi sơ sài (sảo 稍) so với lịch sử nước Nam (giang sơn 江 山) xưa, ngụ ý là: cụ Hồ Hưng Dật là nguyên tổ của họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi chứ chưa phải là thủy tổ của toàn thể họ Hồ ở Việt Nam, nhưng con cháu về sau mãi mãi (vạn đại 萬 代) quyết giữ vững lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt (từ 祠 đường – đền thờ). Nhưng sự chọn dùng các con chữ trong câu đối này còn cho thấy nhiều hơn về lịch sử dựng nước 5000 năm của dân tộc Việt: Viễn tổ họ Hồ là họ Ngu, là ông Ngu Vĩ Mãn (dòng dõi Ngu Thuấn – đế Thuấn). Chữ Vĩ Mãn nghĩa là cái đuôi đến đó là đầy rồi, cho thấy đến ông Ngu Vĩ Mãn là thế hệ cuối cùng của họ Ngu, vì sau đó các thế hệ tiếp sau đã đổi thành họ Hồ , rồi sau nữa tiếp tục đổi thành họ Ngô khi (“Người họ Hồ” thiết Ngô) dong thuyền ra phía Bắc dựng nghiệp, lập nên nước Ngô ở vùng đất Mân (Phúc Kiến). Ngu -> Hồ -> Ngô (Ngu Hồ thiết Ngô, chữ Ngô 吴 lại nằm trong lòng chữ Ngu 虞 – cháu chắt trong lòng cố; chữ Ngu 虞 lại thể hiện rõ là chỉ dân Lửa phương quẻ Ly của Dịch học biểu trưng bằng con Hổ 虎 Đông Dương lông vàng đậm như rực lửa trong tranh dân gian “ngũ hổ”. Các từ biểu trưng xứ nóng là: Lửa = Lả = Hỏa = Hạ = Hổ . Các họ của Bách Việt là: Lê = La = Lý = Lỗ = Hồ = Ngô = Ngu). Sách < Bách gia tính> viết: Họ Ngô có xuất xứ từ tộc người cổ đại có vật tổ (totem) là con trâu (cổ xưa gọi là con Tru). Sách <Thuyết văn giải tự> của Hứa Thận cách nay hơn 2000 năm lại giải thích cách đọc chữ Ngô là: Trâu Ngu thiết 鄒 虞 切 tức là Trâu Ngu thiết Tru. Như vậy rõ ràng là hơn 2000 năm trước , khi Hứa Thận soạn ra từ điển đầu tiên của Trung Hoa thì trên đất Trung Hoa dân vẫn gọi con “Tru” chứ chưa gọi như Hán ngữ mượn chữ nho để dịch gọi con trâu là con Thủy Ngưu (“Shủi Níu 水 牛”) . Con “Tru” vẫn là của tiếng Việt vùng Nghệ An ngày nay, tức thời Hứa Thận làm tự điển thì vẫn là “từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám nghìn dặm (tức đến vùng nam Trường Giang) toàn là dân Bách Việt ở” (Khổng Tử viết 孔 子 曰), tộc Hán chưa xuống đến Lĩnh Nam. Tlu (tiếng Mường ) = Tru (tiếng Nghệ) = Trâu (tiếng Việt Nam) = Ngầu (tiếng Việt Đông) = Ngưu 牛 (chữ nho) = Sửu 丑 (chữ nho). Tiếng để kêu cho con trâu nó biết là “Nghé ọ!” (Nghé Ọ thiết Ngô). Cho nên có thế suy luận là tộc người cổ đại có totem là con trâu là tộc Cửu Lê ở vùng trung bán đảo Đông Dương, tức dân quẻ ly, dân Lửa. Lửa = Lả = La = Ly = Lê = Nghệ = Nghé, là dân có totem là con trâu. Lửa = Lả = Hạ (mùa Hè) = Hỏa =Hoa. Dân “Hạ thờ Trâu” = Hậu, nên có truyền thuyết “Hậu Nghệ bắn mặt trời” là truyền thuyết của dân quẻ Ly ở đất Nghệ (Nghé). Ca dao về đám cưới: “Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau. Tỉnh Nghệ thì phải giết trâu mổ bò”. Totem là Trâu (Nghé) đã biến hình thành con vật thờ là con Nghê. Vì nó đại diện cho văn minh lúa nước xứ ấm của hướng quẻ Ly nên cũng gọi nó là con Ly (tứ vật: Long, Ly, Qui, Phụng). Tiến sĩ là bậc cao trọng được gọi là ông Nghè. Con Ly phiên thiết thành hai chữ Lân Kỳ. Người Hán gọi nó là con Kỳ Lân.
    3 likes
  2. Hoangnt viết: Chúng ta chẳng biết được thế nào là tích tụ khí (Âm) đến cực đại thì không thể tích tụ được nữa mà chỉ biết rằng, mỗi biến động của tương quan âm dương đều ảnh hưởng tới tốc độ giá trị mới được sinh ra và tốc độ giá trị cũ bị mất đi. Khi tương quan âm dương lớn tới mức nào đó thì giá trị mới được sinh ra không bù được giá trị cũ mất đi, sự vật sẽ suy giảm. Khi đó sẽ xuất hiện hiệu ứng làm suy giảm tương quan âm dương để giá trị mới sinh ra nhiều hơn, giá trị cũ mất đi ít hơn làm sự vật tăng trưởng lại. Nếu vì lý do nào đó hay do tương quan âm/dương quá lớn, hiệu ứng trên không thể sảy ra thì sự vật sẽ tiếp tục suy giảm và dần biến mất. Quá trình đó diễn ra ở mọi cấp độ, kể cả ở qui mô toàn Vũ trụ. Vấn đề này được trình bày kỹ hơn ở phần Tam tài. Chú ý rằng ở đây tôi dùng khái niệm tương quan âm/dương chứ không đơn thuần âm hay dương. Nếu âm quá nhiều (hay ít) nhưng dương cũng thế (quá nhiều hay quá ít) tương quan âm/dương có thể vẫn quân bình. Hoangnt viết: Về vấn đề này, tôi đã viết: Như vậy, toàn Vũ trụ là sự vật lớn nhất, đối tượng vĩ mô lớn nhất nên tỷ trọng những yếu tố mới, ngẫu nhiên, do thăng giáng lượng tử tạo ra, quyết định tương lai, của nó nhỏ hơn nhiều so với tổng các yếu tố quyết định tương lai vủa nó, dẫn đến tính xác xuất thấp nhất hay tính tất định lớn nhất, có thể coi gần đúng như Hoangnt viết: Nhưng dù sao cũng vẫn có tính bất định (dù là rất nhỏ). Nếu xét Vũ trụ ở những thời điểm đầu, khi nó còn không lớn như ngày nay, tính bất định có thể tăng đáng kể. Hoangnt viết: Cái này cũng không có gì khó hiểu. Tôi lấy ví dụ trực quan như sau: Xét chuyển động của các phân tử không khí trong một cơn gió mùa đông bắc thường thấy ở miền Bắc nước ta. Rõ ràng Hoangnt không thể biết, tại một thời điểm, chuyển động của một phân tử không khí trong cơn gió như thế nào, nó hoàn toàn ngẫu nhiên. Nhưng cơn gió này mang tính qui luật là chuyền động từ tây bắc xuống đông nam. Như vậy, tính qui luật trong chuyền động của cơn gió từ tây bắc xuống đông nam được thể hiện qua các ngẫu nhiên của chuyển động các phân tử không khí. Tính ngẫu nhiên của chuyển động các phân tử không khí thể hiện trong qui luật chuyển động của cơn gió từ tây bắc xuống đông nam. Thân ái! Vo Trước.
    1 like
  3. BẢN ĐỀ DẪN TRONG TỌA ĐÀM Cho đến nay, lịch sử phương Đông được xây dựng từ hai nguồn tư liệu chính là cổ thư Trung Hoa và những nghiên cứu của Viễn Đông Bác Cổ. Học giả thế giới cho rằng: người Hoa Hạ từ phía Tây Bắc vào Nam Hoàng Hà dựng nhà nước Hoàng Đế và nền văn minh Hoa Hạ. Trong quá trình Nam tiến, người Hoa Hạ lai giống với các dân tộc bản địa phương Nam và mang văn hóa Hoa Hạ khai hóa vùng đất này. Từ đó dẫn tới quan niệm phổ cập hiện nay là: người Việt Nam bị Hán đồng hóa về máu huyết và văn hóa. Văn hóa Việt Nam là sự bắt chước văn hóa Hán chưa thành thục. Tiếng Việt muợn tới 70 % từ ngôn ngữ Hán. Tuy nhiên, từ năm 1998, đề tài nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc do chính phủ TQ tài trợ, các trường DH Hoa Kỳ thực hiện, phát hiện sự thật trái ngược: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại VN, các chủng người gặp gỡ hòa huyết sinh ra người Việt cổ (Lạc Việt). Sau đó, người từ Việt Nam đi ra các đảo Đông Nam Á, chiếm lĩnh Ấn Độ, lên khai phá Hoa lục. Từ phát hiện này cùng với nhiều nguồn tư liệu khảo cổ, văn hóa, sự thực lịch sử phương Đông được khám phá như sau: I. Những thành tựu của người Việt trên đất Trung Hoa. 1. Về con người: 93% người Trung Quốc hiện nay là người Hán. Đó chính là hậu duệ người người Lạc Việt từng đi lên khai phá Trung Hoa, bắt đầu từ 40.000 năm trước. 2. Tiếng Lạc Việt của vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh đưa lên Quảng Đông, Phúc Kiến thành ngôn ngữ gốc, sinh ra 8 phương ngữ Trung Hoa hiện nay, 3. 20.000 năm trước, người Lạc Việt đưa công cụ đá mới Hòa Bình lên Nam Dương Tử. Cũng thời gian này, người Lạc Việt ở Tiên nhân động tỉnh Giang Tây làm ra đồ gốm đầu tiên. Khoảng 12.400 năm trước, cũng tại đây người Lạc Việt thuần hóa thành công cây lúa nước. 4. Người Việt sáng tạo Âm Dương, Ngũ hành, Thiên can, Địa chi, lịch pháp, bát quái, dịch lý, thiên văn và phong thủy, phổ biến khắp Đông Á. 5. Sáng tạo chữ tượng hình sớm nhất ở Giả Hồ, Hà Nam 9000 năm trước, 6000 năm trước ở Bán Pha Sơn Tây, ở Cảm Tang, Quảng Tây, Lương Chử Chiết Giang. II. Về nhà nước Hoàng Đế và người Hoa Hạ. Cho dến 4000 năm TCN, người Lạc Việt đã đông đúc, làm chủ Hoa lục với hai trung tâm kinh tế văn hóa lớn là lưu vực Dương Tử và lưu vực Hoàng Hà. Nhà nước sớm nhất ở phương Đông được xây dựng năm 3300 TCN mà kinh đô ở Lương Chử Chiết Giang. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ vượt Hoàng Hà vào chiếm đất của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Thắng trận nhưng do nhân số ít và văn hóa chưa phát triển, người Mông Cổ bị người Việt đồng hóa, sinh ra người Hoa Hạ. Học văn hóa từ ông cha Việt, người Hoa Hạ xây dựng các vương triều Nghiêu, Thuấn, Vũ dựa trên đức trị nhưng cũng chưa có thành tựu văn hóa nổi bật. Chỉ khi Bàn Canh chiếm đất Ân của người Dương Việt, bắt gặp chữ khắc trên giáp cốt mới phát triển loại chữ này, dẫn tới sự nhảy vọt của văn hóa thời Chu. Thực chất văn hóa vương triều Hoàng Đế là khai thác văn hóa của người Lạc Việt trong vùng bị chiếm. Nhưng văn hóa Việt ở lưu vực Hoàng Hà là ngọn, phát triển sau lưu vực Dương Tử. Thêm nữa, suốt trong thời kỳ dài, nhà nước Hoàng Đế bị cô lập với người Việt đông đúc phương Nam nên không có tiếp thu từ văn hóa Việt. Khi nhà Tần là một bộ tộc người Việt diệt lục quốc rồi Lưu Bang người Việt nước Sở diệt nhà Tần lập nhà Hán thì quyền lãnh đạo Trung Quốc thuộc về người Việt. Nhưng do uy danh của Hoa Hạ trong quá khứ nên các triều đình người Việt sau này đều nhận là Hoa Hạ Tuy tiếp thu tài liệu trước đó để san định kinh, thư nhưng do nguồn gốc như vậy, văn hóa Hoa Hạ rơi vào tình trạng tiên thiên bất túc: kinh Nhạc bị mất, kinh Thi thiếu sót, Kinh Dịch bị sai nhiều nên người Trung Hoa không hiểu đúng về Ngũ hành, Lục thập hoa giáp… Đặc biệt, chữ vuông là của người Việt chế ra để ký âm tiếng Việt. Nhưng sau này, người Trung Hoa đánh mất cách phát âm và cả nghĩa Việt cổ nên hiểu không đúng chữ vuông. III.Nhà nước Xích Quỷ và lịch sử phương Đông. Năm 1936 khảo cổ học phát hiện văn hóa Lương Chử ở Thái Hồ, Chiết Giang. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu, năm 2016 các học giả Trung Quốc công bố: - Nhà nước Lương Chử xuất hiện khoảng 3300 năm TCN, là nhà nước sớm nhất trên đất Trung Hoa và phương Đông, có nền văn hóa nông nghiệp, đá mới, ngọc rất phát triển. Chủ nhân Lương Chử là người Lạc Việt, được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân. - Do phát hiện văn hóa Lương Chử, lịch sử Trung Quốc phải thay đổi. Từ chỗ cho rằng đồng bằng miền trung Hòang Hà là cội nguồn của dân tộc và văn hóa Trung Hoa, nay thừa nhận: Văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Hoa. Điều này dẫn tới mâu thuẫn khó giải quyết: Vì sao một dân tộc phát tích ở Nam Hoàng Hà, suốt 2500 không bước chân qua Dương Tử mà cội nguồn văn hóa lại ở Nam Dương Tử? - Những mâu thuẫn như vậy chỉ có thể giải thích: Nhà nước Lương Chử chính là Xích Quỷ của người Việt. Người Việt từ nam Dương Tử đi lên khai phá lưu vực Hoàng Hà, mang theo văn hóa của mình. Dân cư lưu vực Hoàng Hà là hậu duệ của người Lạc Việt. Người của Hoàng Đế hòa huyết với người Lạc Việt sinh ra con cháu là Hoa Hạ. Người Hoa Hạ cùng với người Việt trong lãnh thổ vương quốc xây dựng văn minh Trung Hoa. Do vậy, văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Hoa. IV. Kết luận Là nơi phát tích của dân cư châu Á, Việt Nam cũng là cội nguồn của văn hóa châu Á. Do biến diễn của thời cuộc, người Việt bị mất đất, mất chữ viết nên mất luôn lịch sử, hàng nghìn năm phải sống trong cảnh vong quốc, bị coi như đám trôi sông lạc chợ, học nhờ đọc mướn sách vở ngoại bang. Nay nhờ khoa học nhân loại, sư thật lịch sử phương Đông được phát hiện. Người Việt Nam phải nhanh chóng nắm bắt sự thật này, không chỉ để tự hào về tổ tiên nòi giống mà còn có sứ mệnh lớn lao chấn hưng văn hóa dân tộc và dẫn dắt nhân loại trong kỷ nguyên mới, trong đó có những công việc sau: 1. Tập trung trí lực viết lại cuốn sử chân thực của tộc Việt, nhanh chóng dạy sử mới cho lớp trẻ. 2. Phục hồi kho tàng văn hóa của tổ tiên, lập nên tập đại thành của văn hóa dân tộc Việt. 3. Tập trung trí lực soạn thảo cuốn Đại từ điển Lạc Việt để nắm vững và sử dụng chính xác ngôn ngữ dân tộc, đồng thời hiệu đính những sai lầm trong chữ Hán nhằm hiểu đúng thông điệp của tổ tiên truyền lại bằng chữ vuông. 4. Tập trung trí lực hoàn chỉnh cuốn DỊCH LẠC VIỆT làm công cụ giải mã những bí mật của tự nhiên và đưa khoa học dự đoán phương Đông trở thành khoa học ứng dụng thực sự có hiệu quả. 5. Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc. Do vậy, cần tìm hiểu minh triết Việt để tìm con đường thích hợp dẫn dắt đất nước và nhân loại đi lên, vượt qua giai đoạn khủng hoảng hiện nay Hà văn Thùy Sàigon17.9. 2016 CHƯƠNG TRÌNH LÀM VIỆC. Khai mạc 8 giờ 30 ngày 26-11-2016. -Tại phòng họp lớn Viện NC SENA 35 Điện Biên Phủ Hà Nội. -Lời mở đầu và giới thiệu đại biểu: Nguyễn khắc Mai. -Báo cáo của tác giả Hà văn Thùy. -Báo cáo của phản biện I: PGSTS Trương Sĩ Hùng.Nhà nghiên cứu sử học,Viện Hàn lâm KHXHVN. -Báo cáo của Phản biện II:NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh.TT Lý Học Phương Đông. -Báo cáo của phản biện III : -Giải lao 15 phút (dùng trà-tea time) -Các đại biểu phát biểu ý kiến, thảo luận. -Nghỉ trưa lúc 11 giờ 45.Các đại biểu dùng cơm cùng BTC. Chương trình buổi chiều. -1gio 45 :Tiếp tục Tọa đàm. -Tóm tắt một số vấn đề đã đặt ra cần thảo luận. -Các đại biểu phát biểu. -3gio 30 :Tác giả trả lời những câu hỏi. -4gio,00 :Lời sơ kết và bế mạc:Nguyễn Khắc Mai. Ban Tổ chức.
    1 like
  4. PHONG THỦY LẠC VIỆT ỨNG DỤNG. Trong kiến trúc nhà riêng của Nguyễn Vũ Tuấn Anh ĐỊNH MỆNH VÀ PHONG THỦY Tiếp theo. Tử Vi Lạc Việt - sự xác định một định mệnh? Bộ môn Tử Vi - theo cổ thư chữ Hán - được coi là xuất hiện vào đầu thời Tống bên Tàu. Người ta cứ ra rả như ve sầu vào những cái đầu ít chịu tư duy rằng: Do Trần Đoàn lão tổ phát minh ra tặng cho Tống Thái tổ Triệu Khuông Dận - và tất nhiên nó thuộc về nền văn minh Tàu vĩ đại. Nhưng căn cứ vào bản chất của bô môn dự đoán này - mô tả hiệu ứng tương tác có tính quy luật của những hành tinh và những ngôi sao chung quanh Địa Cầu (Đã chứng minh trong các sách và bài viết trên diễn đàn) - thì - căn cứ theo tiêu chí khoa học cho việc xác định một hệ thống lý thuyết thuộc về một nền văn minh (Đã trình bày ở bài trên), rằng: Nền văn minh Tàu cách đây 1000 năm không thể là nền tảng tri thức để xuất hiện bộ môn Tử Vi. Và có thể nói rằng: Ngay cả tri thức của nền văn minh hiện đại công với tất cả những di sản tri thức vốn được coi ra rả như ve rằng: nền văn minh Tàu là cơ sở của văn minh Đông phương, vẫn chưa đủ điều kiện để hình thành nên bộ môn dự đoán này. Bằng chứng: Khi hai nền văn minh hội nhập: Nền văn minh Đông phương vốn được coi là của Tàu vẫn hoàn toàn bí ẩn. Ngoại trừ nó nhân danh nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến. Bởi vì, chỉ có chủ nhân đích thức của hệ thống lý thuyết đó thì những di sản văn hóa còn lại - phản ánh nền tảng tri thức một thời của nền văn minh đó, mới đủ khả năng phục hồi lại có tính hệ thống cho học thuyết đó. Do đó chẳng phải ngẫu nhiên khi con người muốn khám phá những bí ẩn huyền vĩ của nền văn minh Đông phương thì phải thừa nhận lịch sử chính thống của nó . Đó chính là Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Đó cũng chính là lý do để bộ môn dự báo đến từng hành vi con người nổi tiếng trong Lý học Đông phương được phục hồi với danh xưng "Tử Vi Lạc Việt". Cũng như tất cả các ngành ưng dụng liên quan đến thuyết ADNH, danh xưng này chỉ nhằm xác định cội nguồn và là sự hiệu chỉnh những sai lệch và là sự thẩm định lại những di sản của nền văn minh này dưới hình thức văn tự khác - sau khí bị Hán hóa trải hàng ngàn năm. Như vậy, về lý thuyết môn Tử Vi xác định khả năng dự báo đến từng hành vi của con người trong từng thời điểm nhỏ nhất của lý học Đông phương là một canh giờ, phải chăng nó mâu thuẫn với ngành Phong thủy Lạc Việt với khả năng hiệu chỉnh và có thể làm thay đổi số phận? Tương tự như vậy với ngành Đông Y - cũng là hệ quả về mặt lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành - trong việc ứng dụng lý thuyết này để trị bệnh cứu người. Vậy phải chăng giữa định mệnh được an bài qua lá số Tử Vi Lạc Việt, mâu thuẫn với ngành Đông Y và Phong thủy Lạc Việt? Thực tế tồn tại của tất cả những ngành học này trong xã hội đông phương trải hàng thiên niên kỷ đã cho thấy chúng không hề mâu thuẫn. Nhưng vấn đề là giải quyết về mặt lý thuyết phải chứng tỏ tính hợp lý cùa các vấn đề liên quan. Đây cũng là một yếu tố cần theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học. Sau đây là những luận điểm của tôi về vấn đề này: Lá Tử Vi có chu kỳ lớn nhất là 60 năm theo Lạc thư hoa giáp. Sau 60 năm thì tất cả các lá số Tử Vi lặp lại theo chu kỳ này. Như vậy ta có thể suy luận ra rằng: cách 60 x N năm về trước chúng ta cũng có những người có lá số trùng nhau với thời đại hiện nay. Về lý thuyết thì các lá số trùng nhau cách nhau 60 x N năm phải giống nhau hoàn toàn. Nhưng rõ ràng định lượng cuộc sống cách đây 60 x N năm hoàn toàn khác với 60 x N năm sau đó. Cụ thể hơn và chi tiết ngay bản thân tôi là: Ngày còn trẻ, có thầy Tử Vi xem lá số tôi và cho biết năm 50 và 52 tuổi, hai mắt tôi sẽ bị mù. Đến đúng thời gian đó, tôi bị cườm nước lần lượt cả hai mắt. Nhưng thật may mắn! Đúng vào lúc đó, nền y học Việt Nam lần đầu tiên du nhập phương pháp mổ Phaco. Mắt tôi được thay thủy tinh thể nhân tạo và chỉ bị mổ. Như vậy, về định tính thì lá Tử Vi không sai. Nhưng về định lượng số phận đã khác hẳn. Hoặc ví dụ mang tính tổng quát: Trong Tử Vi nếu có Mã khốc khách kèm một số sao thì tùy theo thời đại trong sự phát triển của nền văn minh, có thể đoán là người cưỡi ngựa, đi xe đạp, xe máy, hoặc xe hơi. Từ những thực tế ứng dụng này và cơ sở dữ liệu đầu vào của môn Tử Vi, tự nó đã xác định rằng: Mặc dù về lý thuyết khả năng dự báo của môn Tử Vi Lạc Việt có thể dự báo đến canh giờ cho từng hành vi của một con người. Nhưng về căn bản, nó chỉ thể hiện về mặt định tính của sự kiện. Còn định lượng của sự kiện hoàn toàn tùy thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài của lá số cụ thể tùy từng thời đại. Đó cũng là một trong những nguyên nhân để khoa Tử Vi Lạc Việt vượt thời gian , qua mọi thời đại - luôn luôn thể hiện khả năng chứng nghiệm của nó từ hàng ngàn năm trước cho đến thời gian hiện đại và cả tương lai, trong việc dự báo đến từng hành vi của con người - chính vì nó chỉ xác định định tính của hành vi và sự kiện liên quan đến số phận một con người. Đông Y & Phong thủy Lạc Việt - sự thay đổi định lượng của định mệnh. Có thể nói rằng: Chính sự phát triển và tiến hóa của nền văn minh đã cho thấy sự thay đổi về định lượng của một lá số Tử Vi khi so sánh nó với 60 năm x N so với quá khứ. Và sự chính xác trong luận đoán một lá số Tử Vi Lạc Việt vẫn luôn luôn đúng với tính vượt thời gian vì chất định tính của nó trong mọi thời đại. Vậy Phong Thủy và Đông Y chính là những hệ thống ứng dụng làm thay đổi định lượng của những diễn biến số phận được định tính trong một lá số Tử Vi Lạc Việt. Điều này được mô tả trong đồ hình dưới đây: Hình 1: Phong thủy Lạc Việt ứng dụng khi số phận đang phát triển. Giả thiết vào thời điểm 55 tuổi, một thân chủ bắt đầu thời kỳ phát triển, nhưng do ứng dụng phong thủy, định lượng của cuộc sống sẽ tăng lên. Mặc dù về định tính của số phận không thay đổi. Hình 2: Phong thủy Lạc Việt ứng dung khi số phận đang đi xuống. Giả thiết vào thời điểm 40 tuổi, một thân chủ đang có diễn biến suy thoái, nhưng do ứng dụng phong thủy, định lượng của cuộc sống sẽ tăng lên. Do đó, sự suy thoái đáng nhẽ rơi vào mức tận cùng, như: phá sản, ly tan....thì do thay đổi định lượng, sẽ không gặp nguy cơ như vậy. Vấn đề được đặt ra: Làm thế nào để biết được sự tác dụng của Phong thủy trong cả hai trường hợp trên so với định lượng của số phận sẽ xảy ra trong tương lai,mà tương lai thì lại không thể thẩm định về định lượng? Những biểu hiện sau đây để xác định một ứng dụng phong thủy có tác dụng: 1 . Cảnh quan ngôi gia sinh động và đẹp hơn trước. Gia chủ cảm thấy thích thú với căn nhà của của mình. 2 . Định lượng cuộc sống tăng lên rõ rệt, ngay sau khi thực hiện xong những hướng dẫn ứng dụng phong thủy. Sau đó khoảng từ 6 tháng đến một năm, mọi chuyện trở lại bình thường tùy theo định tính của số phận. 3. Sự dự báo trước những tình huống sẽ xảy ra, nếu thày Phong thủy có khả năng. 4. Trong những điều kiện ứng dụng phong thủy có mục đích, như: Để chữa bệnh cụ thể, để thuận lợi trong công việc đang khó khăn, mang lại hạnh phúc khi gia đình đang có nguy cơ lý tán....- thì - kết quả đạt được sau khi ứng dụng phong thủy Lạc Việt là tính thẩm định cho tác dụng của phong thủy Lạc Việt. Quí vị và anh chị em thân mến. Qua bài viết này, tôi đã chứng minh một cách rất cụ thể: Phong Thủy Lạc Việt - tức phong thủy theo quan niệm phổ biến - chính là một hệ thống phương pháp luận ứng dụng trong cuộc sống của con người, hệ quả của một hệ thống lý thuyết. Tất nhiên, tự thân những kiến thức mô tả trong ứng dụng của môn phong thủy là một hệ thống lý thuyết chuyên ngành. Những khái niêm, thuật ngữ và mô hình biểu kiến của nó, mô tả những quy luật tương tác của thiên nhiên, vũ trụ lên cuộc sống của con người thông qua ngôi gia. Phong Thủy Lạc Việt giải thích mọi hiện tượng và sự kiện liên quan đến con người bằng những khái niệm và thuật ngữ chuyên ngành của nó và có khả năng tiên tri. Đó là một cách giải thích từ một hệ thống lý thuyết - tất nhiên khác hẳn cách giải thích qua mô tả trực quan. Tất cả mọi người có quyền không tin môn phong thủy. Chính vì họ có thể giải thích một cách trực quan mọi hiện tượng và con người cũng có thể không cần đến một lý thuyết giải thích nó. Và - cũng chính vì cách giải thích trực quan này - mà con người cũng có thể không tin vào bất cứ một lý thuyết nào. Điều mà tôi đã trình bày ở trên. Nhưng, nếu như với một tư duy khoa học thật sự thì người viết bài này đã chứng minh với bạn đọc rằng: Chỉ có thể dùng tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học để thẩm định tính khoa học thật sự cho một lý thuyết nhân danh khoa học, từ một nền văn minh cổ xưa. Và chỉ có Phong Thủy Lạc Việt - được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt - mới đầy đủ các yếu tố thỏa mãn cho các tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Cho dù tất cả thế giới này không tin phong thủy và những gía trị của nền văn minh Đông phương cổ xưa - nhân danh nền văn hiến Việt - Nhưng thực tế những quy luật của tự nhiên, vũ trụ vẫn đang hàng ngày chi phối các bạn. Những quy luật đó không chỉ chi phối từng cá nhân cho đến từng hành vi có thể tiên tri, mà còn chi phối cả một cộng đồng và cả thế giới trên trái Đất này. Những phương pháp tiên tri của nền văn minh Đông phương - trong đó có phong thủy Lạc Việt - tồn tại vượt thời gian, tính bằng thiên niên kỷ với hiệu quả của nó - đã chứng tỏ điều này. Thuyết Âm Dương Ngũ hành - nền tảng căn bản của Phong Thủy Lạc Việt và của tất cả các môn ứng dụng trong Lý học Đông phương - chính là "một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" trong lời tiên tri của bà Vanga. Đấy chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà tất cả tri thức tiên tiến nhất của nhân loại đang mơ ước và hình như họ đã thất vọng trong việc xác định sự tồn tại nó. Nhưng nó là một thực tế đang tồn tại nhân danh nền văn hiến Việt. Các bạn có quyền không tin và phản bác. Cá nhân tôi cũng không cố gắng thuyết phục các bạn. Nhưng tôi sẽ giành thời gian cho những ai quan tâm thật sự. Xin cảm ơn sự quan tâm của các bạn.
    1 like
  5. Ngôi chùa nhỏ và những đứa trẻ.... Hôm nay ACE chúng tôi đã tổ chức chuyến thăm ngôi chùa nhỏ đã cưu mang những đứa trẻ tội nghiệp. Ngôi chùa nhỏ như một căn hộ bình thường lọt thỏm giữa con hẻm hẹp gần chợ Trần hữu Trang Quận Phú nhuận, Tp HCM. Mang tên BẢO AN NI TỰ ở số 74/3 do ni sư Như Hải trụ trì gọi là Sư Bà đúng hơn vì năm nay Bà đã 78t. Thật bất ngờ khi biết Sư Bà đã nuôi tám trẻ mồ côi ở các độ tuổi từ 7 đến 15 tuổi từ lúc các cháu bị bỏ rơi qua nhiều hoàn cảnh khác nhau. Càng bất ngờ hơn khi biết trên căn gác ở lầu 1 Bà còn có trách nhiệm cưu mang một vị Sư sống đời thực vật với một căn phòng hoàn toàn bế khí. Một sự sống như cây cỏ... Tính nhân ái cao của trung tâm chúng ta ngoài việc ủng hộ tiền bạc từ các ACE thành viên hảo tâm còn có trách nhiệm can thiệp cải tạo Phong Thủy cho những mãnh đời mà cơ duyên đã đưa chúng tôi đến với họ. Để họ có một cuộc sống sinh khí với đầy đủ sức khỏe vốn có. Tôi đã trao tặng Sư bà một ít thuốc cảm Efferalgan. Tôi có kinh nghiệm nhận thức được một yếu tố quan trọng cho tất cả chúng ta qua những lần đi từ thiện, hầu hết những số phận nghiệt ngã hay sự bệnh tật đầy bế tắc đều là những con người những mãnh đời đều vô tư sống trong một điều kiện hoàn toàn bế khí hay hội tụ quá nhiều âm khí . Vẫn có một chánh điện với tât cả ban bệ thờ dù chật hẹp, khó khăn lắm chúng tôi mới có thể ghi nhận một số hình ảnh để chuyển tải sinh hoạt nơi đây đến với các bạn. căn phòng khoảng 10m2 dành cho tám trẻ. Thì đây với thực tế của căn chùa này(xin phép gọi thế cho đúng với chức năng của nó) người bệnh, trẻ mồ côi tù túng với căn gác đó làm sao họ có đời sống tốt hơn? Tất cả sẽ cam phận lắng đọng chống chỏi với những khó khăn ngày nối tiếp ngày... Tôi thay mặt ACE trung tâm trao tặng địa chỉ này 6,000,000 đ (sáu triệu đồng) Một trong các cháu đã viết lời cám ơn. Sư Bà cũng đã gởi chúng tôi 1 thư ghi nhận công đức, Công đức này có được cũng từ đóng góp của ACE. ACE chúng tôi đang triễn khai các hạng mục có thể thay đổi vận khí của căn chùa.
    1 like