• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 31/08/2016 in Bài viết

  1. Bạn nhầm ls rồi kìa Nghe bạn nói cũng nhiều sóng gió quá. Chắc nhờ các bác xem giúp và định hướng thì dễ vượt qua sóng gió hơn.
    1 like
  2. Gửi chị Bùi Hạnh, Đọc tâm sự của chị thấy buồn quá. Chị xem lại lá số chị gửi bác Haithienha, hình như chị lấy chưa chính xác. Chị sửa lại đi, để nếu bác vào diễn đàn thì có thể giúp chị được. Em chúc chị luôn vững tâm, giữ gìn sức khỏe!
    1 like
  3. "Cần dạy chữ Hán để giữ sự trong sáng của tiếng Việt" 29/08/2016 16:54 GMT+7 Vietnam netPGS. TS Đoàn Lê Giang (ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM) Cần thiết đưa Hán Nôm trở lại trường học Phát biểu tại Hội thảo Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại diễn ra hôm 27/8, ông Giang cho rằng, trong số các quốc gia thuộc khu vực đồng văn (các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc - PV) chỉ có Việt Nam là từ bỏ chữ Hán hoàn toàn nên thế hệ sau ít hiểu biết về quá khứ dân tộc. Từ bỏ chữ Hán cũng là lý do khiến thanh niên Việt Nam đơn giản nhất, học hành hời hợt nhất, các nhà khoa học xã hội của Việt Nam cũng kém nhất so với học giả các nước và nước ta nghèo nhất, lạc hậu nhất so với Nhật, Hàn hay Trung Quốc. Ông Giang dẫn ví dụ, ở Nhật, người tốt nghiệp phổ thông phải biết ít nhất 1.945 chữ Hán, đến hết ĐH thì phải biết khoảng 3.000 chữ. Trung Quốc cũng yêu cầu số lượng tương tự. Hàn Quốc thì hết phổ thông, học sinh phải biết khoảng 1.000 chữ. Chỉ có Việt Nam là không đặt ra yêu cầu này. Ông Giang cũng cho biết, nghiên cứu của một trung tâm nơi ông được mời dạy chữ Hán Nôm cho học sinh tiểu học cho thấy, những học sinh được học chữ Hán Nôm hình thành và phát triển nhân cách tốt hơn những học sinh khác không được học. "Trước đây chúng ta cứ nói rằng không dùng chữ Hán để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nhưng hiện nay phải nói ngược lại, phải học chữ Hán để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" - ông Giang nhấn mạnh. Đồng tình với quan điểm này, PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) khẳng định, việc dạy Hán Nôm trong nhà trường phổ thông dứt khoát là phải đặt ra. Theo ông Mạnh, việc không có tri thức về Hán Nôm khiến hiện nay nhiều từ ngữ tiếng Việt bị nói sai. Bên cạnh đó, hầu hết các môn học hiện nay đều có tính liên thông, kế thừa từ bậc phổ thông lên đại học, riêng môn Hán Nôm là không có. Việc dạy các văn học cổ hiện nay chỉ dạy thông qua phiên âm chứ không đưa nguyên văn Hán Nôm vào đã dẫn đến nhiều sai sót trong cách dạy cũng như cách hiểu văn học cổ. TS Nguyễn Tô Lan (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cũng khẳng định cần phải dạy chữ Hán Nôm sớm cho trẻ. "Kinh nghiệm cho thấy, ngay từ khi còn rất nhỏ, các các em đã đối mặt với việc phải nhận thức chữ nào là chữ Hán, chữ nào là âm Hán - Việt. Vì vậy, nếu đã không hiểu từ cái gốc rồi thì sau này lớn lên học rất là khó" - bà Lan nhận định. PGS. TS Hà Văn Minh (Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) cũng khẳng định, "cần đưa, nên đưa và thế tất sẽ đưa" Hán Nôm vào dạy trong trong trường phổ thông. Ông Minh cho hay, "kỳ thi quốc gia của Hàn Quốc từ 40 năm nay đều có môn Hán Văn Hàn Quốc, không có cớ gì chúng ta lại không. Hàn Quốc còn có một bộ giáo trình dạy Hán Nôm cực kỳ bài bản từ phổ thông". Bên cạnh đó, ông Minh cũng cho rằng, việc dạy Hán Nôm cũng sẽ tham gia vào việc hình thành ít nhất là 3 nhóm năng lực trên tổng số 8 nhóm năng lực theo định hướng giáo dục mới hiện nay - giáo dục hướng tới năng lực người học thay vì truyền tải tri thức. "Bảo quý thì quý mà bảo không quý thì cũng chả quý gì" Làm thế nào để đưa tri thức Hán Nôm vào trong nhà trường là vấn đề được nhiều chuyên gia quan tâm bàn thảo. PGS. TS Hà Minh cho rằng, sắp tới, ông sẽ có ý kiến trực tiếp với các trường sư phạm, với những người tham gia biên soạn SGK trong đợt biên soạn sách sắp tới về việc đưa tri thức Hán Nôm vào giảng dạy. "Nếu cần thiết thì tôi đề nghị liên hệ tất cả các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về Hán Nôm để có một bản kiến nghị với tư cách một hội nghề nghiệp để có tiếng nói chính thức với các cơ quan chức năng" - ông Minh đề xuất. Ông Minh cũng đưa ra 2 phương án mà ông cho là "thiết kế khả thi" để đưa Hán Nôm vào giảng dạy trong nhà trường: Đầu tiên là đưa môn dạy Hán Nôm vào chương trình như một môn tự chọn. Bên cạnh đó, cần phải tăng tỉ trọng bộ phận văn học cổ bằng chữ Hán và chữ Nôm trong SGK mới sắp tới. Ngoài ra, ông Minh cũng đề xuất biên soạn một một cuốn sách giáo khoa tham khảo sử dụng trong nhà trường về Hán Nôm được Bộ GD-ĐT giới thiệu sử dụng. "Chúng ta có thể có 2 cuốn một cuốn cho THCS và một cuốn cho THPT bám sát chương trình Tiếng Việt và Ngữ văn của 2 cấp học này". "Các nhà biên soạn có thể tham khảo những từ có tần số xuất hiện nhiều để làm sao sau khi học hết THCS thì học sinh biết được khoảng 1.500 từ. Hết THPT thì biết thêm khoảng 1.000 từ nữa" - ông Minh nói. Bên cạnh đó, ông Minh cũng cho rằng, SGK Ngữ văn nên có bảng tra cứu từ và yếu tố Hán Việt nhưng phải có nguyên văn chữ Hán Nôm và giải thích chữ Hán Nôm đó để học sinh hiểu nghĩa từ nguyên. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia chuyên gia cũng cho rằng, hiện tại, việc đưa Hán Nôm vào dạy trong trường phổ thông là rất khó. PGS. TS Đoàn Lê Giang cho rằng, hiện tại nếu nêu vấn đề đưa chữ Hán trở lại dạy trong trường phổ thông, chắc chắn nhiều người sẽ không đồng tình nhất là trong tâm lý xã hội hiện nay. Nhà nghiên cứu Nguyễn Sỹ Toản thì cho rằng bối cảnh hiện nay là rất khó khăn để đưa môn Hán Nôm quay trở lại trường phổ thông. Ông Toản dẫn ví dụ về môn Lịch sử trước đây đã suýt không có tên trong "bản đồ các môn học" chứ đừng nói tới môn Hán Nôm. "Ngay cả việc đưa môn Hán Nôm vào như một môn tự chọn cũng cần tính toán cách nào đó vì nếu học sinh không chọn học thì sẽ khó khăn trong việc giải quyết công việc cho các giáo viên đã được nhận vào biên chế" - ông Toản nói. Trong khi đó, PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh thì nói rằng, người ta nói Hán Nôm giống như chiếc bình hoa trong nhà, bảo nó quý thì nó quý còn cho nó không quý thì nó cũng chả quý gì. "Chúng ta là những người trong cuộc, chúng ta thấy quan trọng còn những người ở ngoài thì họ lại cho là không cần thiết" - ông Mạnh chua chát. Lê Văn. Hết trích Hai lúa hổng dám bình loạn vzô ba cái vzụ hội thảo. Chỉ biết rằng từ xưa người Việt cho con trước khi vô tiểu học là đi “học chữ Nam”, như các ông thầy chùa nói, là cái tử ngữ, còn gọi là “học chữ Thánh Hiền”, miễn phí, do các sư dạy tại chùa, mục đích là “học để làm của” (biết thêm cái gì thì nó là cái của của mình). Còn học chính qui là “học để làm việc” nên đó là học chữ quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Anh. Những người học nghề Y hay nghề Nông lại còn phải học thêm cả cái tử ngữ là tiếng Latin thì mới biết được hàng vạn tên thuốc hay tên sinh vật mà quốc tế dùng. Ví dụ học hai chữ đơn giản nhất là Sĩ Tử 士 子 Bắt đầu đi học là đã được gọi là Kẻ Sĩ, nhưng Sĩ này mới chỉ là Sĩ Con. Con = Kan (tiếng Vân Kiều, chỉ con gái) = Kô (tiếng Nhật) = Cu (tiếng Vân Kiểu, chỉ con trai) = Tu (tiếng Tày) = Tử 子 (chữ Nho). Nên Sĩ Con gọi là Sĩ Tử 士子. Chữ Tử là Con, cũng đồng thời chuyển nghĩa thành từ chung chỉ bất cứ thực thể gì, Tử 子 nó là Một 一 cái Trọn 了 vẹn, lại là có “Nhất 一 Liễu 了” = Nhiều, có rất nhiều trong tự nhiện. (Từ “Con” trong <Thi Kinh 詩 京> còn được viết bằng chữ Quan, câu “Quan quan Thư Cưu” nghĩa là “Con con Cù Cu”) Sĩ = “Sáng Ý” thiết Sĩ. Cái chữ Nho đọc là Ý 意 là một chữ viết kiểu hội ý để tạo nên một cái nghĩa là câu: Một mình ta (chữ Lập 立) tự nói (chữ Viết 曰) trong lòng mình (chữ Tâm 心), cả câu ấy gọi là “Ý”, đó là chữ Ý 意. “Ta làm ra Ý 意” = “Ngã 我 làm ra Ý 意” = “Ngộ 吾 làm ra Ý 意” = “Người làm ra Ý 意” thiết (lướt thành) Nghĩ 擬, do vậy mà có từ đôi Ý Nghĩ 意 擬 để chỉ cái Ta Nghĩ = Tư Duy. Nôi khái niệm: Con = Cao = Tao = Tôi = Ta = Ngã 我 = Ngộ 吾 = Người, đều là đại từ nhân xưng ngôi một, sinh ra từ đôi Con Người, mà Nho viết bằng hai chữ Nhân Tử 人子 hay Nhân Loại 人 類, cho dù chữ nho Ngã 我 và Ngộ 吾 về sau được mặc nhiên gọi là “Hán tự” thì nguồn gốc của nó vẫn là do từ tự xưng ngôi một là từ Ta của tiếng Việt, nó lại là do hệ ngữ Nam Á là từ tự xưng là Cao của tiếng Vân Kiều hay của bộ tộc Cau cổ đại ở Philippin có từ tự xưng là “Cao”. Chính cái từ tự xưng là Cao ấy đẻ ra cái dân tộc Kinh 京 cổ đại. Mời đọc giải thích của <Thuyết Văn Giải Tự 說 文 解 字> cách nay 2000 năm: “Kinh 京 là cái Cao 高 của con người” (chữ Kinh 京chính là cái hình con người gồm Đầu 亠, Mình 口, Chân Tay 小, cân bằng hai nửa theo trục giữa thẳng đứng, cổ đại những từ Dịch Kinh 易 京 - thuyết biến đổi của con người -, Thi Kinh 詩 京 – thơ của con người, hay là thơ của dân tộc Kinh cũng vậy - đều viết bằng chữ Kinh 京 này, đến thời Tần Hán mới viết là Dịch Kinh 易 經, Thi Kinh 詩 經 bằng chữ Kinh 經 này nghĩa là cuốn sách, là từ chuyển nghĩa do sách xưa viết chữ theo hàng dọc, nghĩa gốc của chữ Kinh 經 là “sợi dệt căng dọc” như những dòng chảy gọi là dòng Kinh (Kinh 泾 = Kang 江 = Giang 江 = Dòng = Dõng 涌 = Kông = =Krông, Kang là tiếng Triều Châu), cứ xem người Tây Nguyên, người Vân Kiều ngồi dệt thổ cẩm thì thấy rõ từng sợi dệt căng dọc ấy, về sau bản đồ mượn từ Kinh 泾, 經 này để gọi là Kinh Tuyến 頸 線 nghĩa là đường dọc (Lộ 路 = Lối = Xoi = Xuyên 川= Tuyền 泉 = Tuyến 線 = Tương 湘 = Đường; tiếng Thái Lan “Xoi” nghĩa là con hẻm; từ đôi Đường Lối viết bằng hai chữ Lộ Tuyến 路 線 dùng chuyển nghĩa chỉ phương châm) . Xưng là “Cao” thì mới có cái dân tộc Kinh cổ đại để mà có Kinh Dương Vương 京 揚 王 (nghĩa là Người Làm Vua), Kinh 京 là người, Vương 王là vua, Dương 揚 là giương cao ngọn cờ tức là làm đầu sỏ, vì con người là cao nhất (thượng đẳng) trong muôn loài, từ Cao tự xưng đã chuyển nghĩa thành Cao chỉ cái hơn thấp, rồi có nôi khái niệm: Cao = Sào (cây sào là cao) = Sao (ngôi sao là ở cao) = Sùng 崇 = Hùng 雄 = High (tiếng Anh chỉ độ cao), và có từ đôi Sùng Cao 崇 高 chỉ cái rất cao (đền Sòng ở Thanh Hóa, chùa Sùng Nghiêm ở Thăng Long), hay Tôn Sùng chỉ sự tôn lên cao. Vua Hùng là Vua Cao, Vua Cao là Vua Kinh, Vua Kinh là Vua Con Người, tức thủy tổ của nhân loại. (Vua Con Người tiếng Anh gọi là “King”). Vua Con Người phải là vị “Cao 高 Minh 明” = Kinh 京. Cây Sào là dụng cụ cao để chọc hái trái cây, Sào 篙 = Cao 高 = Côn 棍, là cây gậy. Cao thì phải so với Trời, đó là chữ Bì 比 Nhật 日đọc là chữ Côn 昆. Theo các nhà sử học Trung Quốc giải thích địa danh Côn Minh: “Côn Minh 昆 明 là tên gọi một dân tộc thiểu số thời cổ đại ở vùng Tây Nam nước ta”. Vậy mà “Côn 昆 Minh 明” = =“Cao 高 Minh 明” = Kinh 京. Kinh 京 nghĩa là Con Người. Minh 明 cũng nghĩa là Con Người, nên chi Kinh mới tự xưng bằng từ đôi là “Minh Người” = Mình; và từ đôi “Người Minh” = Nghinh, nghĩa là được đón tiếp. Minh 明 là do “Mắt Tinh” = Minh (chữ viết biểu ý là hai cái Mặt sáng là mặt trời và mặt trăng, mà lướt từ lặp thì “Mặt Mặt” = =Mắt, 0+0=1, nên chữ ấy đọc là “minh” vì nó là “Mắt Tính” = Minh 明, mà Tinh có gốc là từ Tỏ, “Tỏ Tính”, “Tỏ Tình”, “Tỏ Hình”, “Tỏ tình Hình” đều thiết là Tinh (con mắt mà “nhìn nước biết tính cá, nhìn rừng biết giọng chim” thì con mắt ấy quả là “Mắt Tinh” = Minh 明); do vậy Minh 明 nó hàm ý Sáng ( như người là vua của muôn loài), nó có cấu tạo gồm Minh dương (biểu ý bằng chữ Nhật 日, tượng trưng cơ thể sống ) và Minh âm (biểu ý bằng chữ Nguyệt 月, tượng trưng tinh thần). Xưng là Con khác gì xưng là Cao, xưng là Cao khác gì xưng là Kinh, xưng là Kinh khác gì xưng là Mình, xưng là Mình nên mới có chữ Nho là chữ Mịnh (tự trọng Mình là coi “Mình Nặng” = Mịnh 命; Mịnh 命 = Mệnh 命, dùng chỉ cuộc đời của một con người, tức của môt Kinh 京). Kinh là Người. Nơi mà Người sống tập trung “Đông Hộ” = Đô 都 thì gọi là Kinh Đô (chữ Đô 都 gồm biểu ý là: Ta = Giả 者 sống tâp trung thành Gò阝, tức là "Đông Hộ" = Đô; "Đông Lắm" = Đống, đống tức là cái gò, người ddoonng như trẩy hội: "ngổn ngang gò đống kéo lên"). Kinh Đô 京 都, tức hiểu theo cú pháp Việt đề (Kinh 京) trước thuyết (Đô 都) sau, gọi là Kinh Đô 京 都. Súc vật thì không có từ Vật Đô, dù cò có sống quần cư hàng nghìn tổ trong một vườn cò cũng không có từ Cò Đô. Hán ngữ lại hiểu hai chữ Kinh Đô theo cú pháp thuyết trước đề sau của nó là “Đô của con Người (Kinh) thì gọi là Kinh Đô”. Như vậy dù theo cú pháp Việt hay theo cú pháp Hán thì cái “đề” vẫn là đề, ở đây là chữ Kinh = Người, do vậy khi nói tắt thì Việt hay Hán đều phải tóm cái đề, Kinh Đô gọi tắt là Kinh, “đi lên Kinh Đô” thì nói tắt là “đi lên Kinh”, như Hải Thượng Lãn Ông viết cuốn <Thượng Kinh ký sự> , câu này là viết theo Hán văn, đề là cái Sự, nghĩa là “những Sự việc được Ký lại trong thời gian lên Kinh Đô”. Kinh Đô là cụm từ đã trở thành một từ kép trong đó người là chính (Kinh là đề), cái xây dựng tổ chức là phụ (Đô là thuyết), Đô đã chuyển nghĩa chỉ cái tổ chức, nên có từ Đóng Đô, Dựng Đô, Xây Đô, Kiến Đô, chứ không ai nói Dựng Kinh vì Kinh nghĩa là Người. Kinh Đô xưa gồm Thành (các cơ quan công quyền, đến trước xây trước) và Thị hay Phố (kéo theo các chợ hay các phố là những tổ chức ăn theo) nên gọi là Thành Thị hay Thành Phố (Thành là đề - chính, Thị là thuyết – phụ, nói tắt thì Thành Thị gọi là Thành. Hán ngữ dùng từ Thành Thị, nhưng lại quen cái đứng sau là đề, nên nói tắt thì Thành Thị gọi là Thị. Ví dụ Thành Thị Hồ Chí Minh thì tiếng Việt gọi tắt là Thành Hồ, nhưng tiếng Hán nó lại gọi tắt là Hồ Thị. Hoặc Thành Thị Hà Nội thì gọi tắt kiểu Việt là Thành Hà, gọi tắt kiểu Hán là Hà Thị; nhưng truyền thông VN hiện nay lại gọi tắt là Hà Thành thì không biết là kiểu gì). Kinh là người, Minh cũng là người, nhưng Minh 明 nó còn hàm ý Sáng (vua của muôn loài), nó có cấu tạo gồm Minh dương (biểu ý bằng chữ Nhật 日, tượng trưng cơ thể sống ) và Minh âm (biểu ý bằng chữ Nguyệt 月, tượng trưng tinh thần). Xưng là Con khác gì xưng là Cao, xưng là Cao khác gì xưng là Kinh, xưng là Kinh khác gì xưng là Mình, xưng là Mình nên mới có chữ Nho là chữ Mịnh (tự trọng Mình là coi “Mình Nặng” = Mịnh 命; Mịnh 命 = Mệnh 命, dùng chỉ cuộc đời của một con người, tức của môt Kinh 京. “Người làm ra Ý” thiết (lướt thành) Nghĩ 擬, do vậy mà có từ đôi Ý Nghĩ 意 擬 để chỉ cái Ta Nghĩ = Tư Duy. Lướt lủn “Nghĩ mà không Tin” = Nghi 疑. Lướt lủn “Nghĩ để tranh Luận” = Nghị 議. Hội Nghị 會 議 là người ta Họp nhau lại để Nghĩ và tranh Luận với nhau như cái hội thảo nói trên. Những người dự hội thảo đó đều là kẻ Sĩ. Bị những người đó là những người biết sáng tạo ra ý nọ ý kia, nên được gọi là “Sáng Ý” thiết Sĩ. (Từ Bị trong câu này là từ lướt “Bởi Vì” = = Bị trong tiếng Nam Bộ, nó đồng âm dị nghĩa với từ Bị 被 trong “bị động”, do từ Bị 被 này có xuất xứ khác, là do nhấn “Bắt buộc Chi之!”= Bị 被, nó chỉ dùng cho thể bị động, ngược lại từ Được thì dùng cho thể chủ động. Hán ngữ dùng chữ Bị 被 như nhau cho cả chủ động và bị động, “bị đuổi việc” cũng như “bị thăng chức”) “Sáng Ý 意” = “Sáng Nghĩ 擬” = Sĩ 士, để chỉ con người biết tư duy. Do Sáng = Quang 光 = Lãng 朗 = Lượng 亮, nên “Sáng Ý” = Sĩ (là do có tư duy mà thành) cùng logic với “Quang Ý” = Kì 棋 (chơi Cờ 棋 là do có tư duy mà thành) và “Lượng Ý” = Lý 理 (cái lý luận cũng do có tư duy mà thành). Nghĩa của chữ Sĩ 士 là kiểu hội ý là “Thập 十 Nhất 一” = Thật 昰,是, để nói đó là con người “mười phân vẹn mười”, “mười cái như một” đều là đồ thật cả, không có ti gì là hàng gian ở trong nó. Nhưng từ Thật 昰 (hội ý gồm Viết 曰 Chính 正 nghĩa là Nói Đúng) lại còn nhấn “Thật Chi 之!” thiết Thị 是. Và có Nôi khái niệm chỉ sự “đúng” hay khẳng định (từ nhấn cái đúng đứng sau) : Đúng! = =Đẳng 等! = Đặng! = Đối 對! = Đẹp! = Đi! = Ý 懿! = Thị 是 = Hĩ 兮! = Hề 兮! = Hảo 好! = Hầy! (tiếng Nghệ An và tiếng Việt Đông) = Hay! (tiếng Nhật) = Này! = Nè! = Nê! (tiếng Nhật) = Nư! (tiếng Thái) = Chứ! = Chớ! = Chi 之! (Ví dụ câu nhấn cái “không” là: “Không Hề! 空 兮” = “Không Chi! 空 之” = “Không Hề! Chi! 空 兮 之”) = Chi 之! = Nhỉ! = Nhi 而 != Nhé! = Nhá! = Ạ! = Ừ!. Trong Nôi khái niệm này chữ Ý 懿! nghĩa là Đẹp ! = Được! = Đúng! Nó đồng âm dị nghĩa với từ Ý Nghĩ. Ý 懿 này nghĩa là Đẹp (“hết Ý luôn!” = “Đẹp hết xảy!”), nên người Nhật gọi đẹp là “Ki-rê-Y” và khen “Y-i Đếx Nê!” nghĩa là “Đẹp Đấy Nhé!”. Nôi khái niệm chỉ sự đúng: Thị 是 = Thì 是= Thật 昰 = Thực 實= (nhấn) “Thật Ạ” = Thà = (từ đôi) Thật Thà = Ạ = Dạ = Là = Mà 而 = (từ đôi) Thì Là = (từ đôi) Mà Là = “Đa” (tiếng Nga) = Dã 也 = Giả 者 = “Ya” (tiếng Nhật) = “Ye” (tiếng Hàn Quốc) = “Yẻ” (tiếng Hán cổ) = “Yes”(tiếng Anh). Hán ngữ hiện đại ngày nay dùng những chữ đứng sau để nhấn khẳng định cái đúng là:Đối 對 (“對Dùi!”), Hảo 好(“好Hảo!”), Thị (“是Shì!”), là những cái Thật. Do không phân biệt rõ sự khác nhau trong ngữ pháp: Cú pháp Việt là đề trước thuyết sau; cú pháp Hán là đề sau thuyết trước. Và không phân biệt được nghĩa của các từ đồng âm vì không hiểu xuất xứ hình thành của chúng. Nên dẫn đến “sai lầm chết người” trong dùng từ như hội thảo trên nêu: dùng Yếu Điểm 要點(theo Hán văn nghĩa là “điểm trọng yếu”) thay thế cho Nhược Điểm 弱點 (theo Hán văn nghĩa là “điểm yếu”); hoặc Cứu Cánh 究竟 (theo Hán văn nghĩa là “cuối cùng”) lại đem dùng thay cho từ Cứu Mệnh 救命. Để kết liễu hội thảo trên, theo LM, bạn đọc chỉ cần hiểu rõ tiếng Việt là cái Nôi khái niệm mẹ (tức là ngôn ngữ mẹ sinh ra các ngôn ngữ Bách Việt hệ Nam Á). Ví dụ, Nôi khái niệm “chết” của tiếng Việt là: Chết = Giết = (lướt lủn) “Giết Sạch” = Diệt 滅 = Triệt 撤 = Kiệt 竭 = Kết 結 = Hết = = Hoàn 完 = Hoại 壞 = Hỏng = Hư 虛 = Trừ 除 = Tử 死 = Tạ 逝 = Tan 散 = Tàn 殘 = =Tận 儘 = Tiệt 截 = Toi = Tiêu 消 = Điêu 掉 = Liễu了= Lột 削 = Tốt 卒 = Tịch 闢 = Tất 畢 = Thất 失 = Mất = Mô 無 = Vô 無 = Nhổ = Bố 不 = Bộ 不 = Bỏ = Bất 不 = Bật 殺 = =Bóc 剝 = Bạt 拔 = Sát 殺 = Sọc = Chóc = Chết. (còn nữa chưa nêu ra hết). Do Nôi khái niệm này mà có các từ đôi thường dùng: Giết Hết = Diệt Trừ 滅除 = Lột Bỏ = =Nhổ Bỏ = Bạt Hoàn 拔 完 = Bỏ Bố = (“Bố 不” tiếng Tày nghĩa là không) = Hư Vô 虛無 = Kết Liễu 結了 = Triệt Tiêu 撤銷 = Tiêu Trừ 消除 = Hoàn Tất 完畢 = Tiêu Tan 消散 = Tàn Tạ 殘逝, đều từ Nôi khái niệm “chết” của tiếng Việt mà ra cả.
    1 like
  4. Để kiềm chế TQ, Australia cần cho quân đội Ấn Độ mượn cảng Hải Võ | 29/08/2016 13:34 Tờ Sydney Morning Herad (Australia) dẫn báo cáo của Trung tâm nghiên cứu nước Mỹ thuộc Đại học Sydney (Australia) đánh giá, Canberra nên chấp thuận Ấn Độ sử dụng sân bay quân dụng tại quần đảo Cocos, phục vụ hoạt động giám sát và trinh sát trên đại dương. (Ảnh minh họa: AP) Theo giới nghiên cứu Australia, nước này cần cho phép quân đội Ấn Độ sử dụng cảng Darwin ở miền Bắc để làm khu vực huấn luyện, nhằm gia tăng nỗ lực "chống Trung Quốc". Điều này sẽ góp phần thắt chặt quan hệ quốc phòng hai nước và kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Báo cáo nhận xét: "Quan hệ chiến lược Mỹ-Ấn Độ được một số nhân tố tất yếu thúc đẩy, trong đó yếu tố trực tiếp nhất là cả hai nước cùng cho rằng Trung Quốc là mối đe dọa đối với trật tự khu vực." Chuyên gia về an ninh Nam Á tại Đại học quốc gia Australia (ANU), Tiến sĩ David Brewster nhận định, quan hệ quốc phòng giữa Mỹ và Ấn Độ đang "phát triển thần tốc" và ngày càng sâu sắc hơn, khiến trở thành một phần trong đó là mục tiêu hết sức quan trọng với Australia. Trong ít ngày tới, Washington và New Delhi sẽ ký kết thỏa thuận mang tính biểu trưng, cho phép quân đội hai nước sử dụng cơ sở hạ tầng quân sự của nhau, ví dụ như các căn cứ không quân và cảng hải quân. Brewster nói với hãng tin Fairfax (Australia): "[Thỏa thuận Mỹ-Ấn] sẽ mở đường cho Australia và Ấn Độ ký kết các thỏa thuận tương tự." Ấn Độ có 1.3 tỉ dân và được xem là một nước lớn then chốt trong thế kỷ 21. Nhà lãnh đạo hiện tại của Ấn Độ, Thủ tướng Narendra Modi, được đánh giá là nhân vật có tầm nhìn quốc tế đưa New Delhi thoát khỏi vị thế chiến lược trung lập truyền thống. Brewster cho rằng, Canberra cần tích cực, chủ động tiếp cận Ấn Độ hơn, bao gồm tổ chức đối thoại chiến lược cấp cao ba bên Mỹ-Ấn-Australia. Từ góc nhìn của Bắc Kinh, cơ chế đối thoại 4 bên tương tự, tính cả Nhật Bản, là động thái rõ rệt nhằm chống lại Trung Quốc. Các cuộc đối thoại chiến lược giữa Mỹ và đồng minh đã "gửi tín hiệu tượng trưng quan trọng đến Trung Quốc, thể hiện các bên tham gia có chung mối lo ngại". Theo ông Brewster, Ấn Độ lo lắng về khả năng Mỹ rút bớt lực lượng khỏi châu Á và để lộ khoảng trống cho Trung Quốc "thừa cơ xâm nhập". New Delhi cho rằng việc thắt chặt quan hệ hợp tác với Washington là biện pháp hiệu quả để duy trì mức độ tham dự của Mỹ trong các sự vụ châu Á. Học giả người Australia bình luận, quân đội Ấn Độ hiện diện tại Australia để tập trận trong tương lai "sẽ mang ý nghĩa tượng trưng rất quan trọng", giúp cải thiện đáng kể hoạt động hợp tác về quân sự của song phương. "Dù quan hệ song phương Australia-Ấn Độ đã có nhiều tiến triển nhưng vẫn chưa đạt mức độ như Mỹ-Ấn. Ngoài ra, các hoạt động chung về quân sự giữa hai nước vẫn còn rất ít," David Brewster cho hay. Cuộc chiến "đếm xác" ở Philippines: Tổng thống Duterte đang gặp đối thủ quá mạnh theo Trí Thức Trẻ ==================== Cô gái Ấn Độ sẽ phải tham gia "Canh bạc cuối cùng". Đó là lẽ tất yếu trong diễn biến tiến tới hội nhập toàn cầu, cho dù nó được kết thúc dưới bất cứ hình thức nào: "Chiến tranh hay hòa bình", giữa hai thế lực chính là Trung Quốc với Hoa Kỳ. Việc tham gia của cô gái Ấn Độ đã được lão Gàn tiên tri từ ngót 10 năm trước. Khi mà chính Hoa kỳ - một thế lực quyết định kết quả "Canh bạc cuối cùng", chưa có khái niệm tham gia vào các vụ việc ở biển Đông. Đến nay, sự kiện đã và đang xảy ra, không nằm ngoài dự đoán của lão Gàn. Lão đã hết sức cố gắng vì mục tiêu chứng minh cho chân lý: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. Đồng thời cũng xác định rằng: Sự sáng tỏ của chân lý cuối cùng - lý thuyết thống nhất - sẽ là cứu cánh để tránh xu hướng chiến tranh kết thúc giai đoạn phát triển, dẫn đến hội nhập toàn cầu. Rất tiếc! Lão Gàn đã không thành công, vì những sự tác động thiếu hiểu biết. Bởi vậy, xu hướng kết thúc "Canh bạc cuối cùng" bằng chiến tranh đã xảy ra ngày càng rõ ràng. Mọi chuyện sẽ rất rõ nét sau nửa đầu tháng 9 Bính Thân Việt lịch. Trong tháng 8 Bính Thân Việt lịch, có một cơ hội rất mỏng manh với tỷ lệ 1/ hàng trăm triệu giành cho xu hướng hòa bình. Nhưng tiếc thay! Với xác xuất đó thì chỉ còn cách cầu nguyện. Híc. Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thì đừng trách lẫn trời gần, đất xa.
    1 like
  5. Chào chú Thiên Sứ và Ban quản trị, Con đọc thông tin trên diễn đàn nhiều năm nay. Gần đây con mới đăng ký làm thành viên được, con muốn đóng góp ủng hộ diễn đàn. Mong chú Thiên Sứ và Ban quản trị cho con thông tin tài khoản để con có thể ck. Con không biết viết gì trên diễn đàn, con chỉ muốn đăng ký là thành viên để con có thể hỏi thăm thông tin đóng góp cho diễn đàn mà con thích, đồng thời có thể cám ơn bài viết. Không biết việc làm vậy có vi phạm qui định của diễn đàn không? Nếu có mong chú Thiên Sứ và Ban quản trị thông cảm vì sự không biết của con Trân trọng. Thanh
    1 like